
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
----------***----------
Vũ Thị Hồng Vân
Quản lý và xử lý tài sản phá sản theo
quy định của pháp luật phá sản
Việt Nam
Chuyên ngành : Luật
Mã số : 62 38 50 01
LUẬN ÁN TIẾN SĨ
Người hướng dẫn: PGS.TS. Dương Đăng Huệ,
HÀ NỘI - 2008

1
LỜI NÓI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Kinh tế thị trƣờng là một trong những thành tựu vĩ đại nhất trong lịch sử
phát triển của văn minh nhân loại. Trong nền kinh tế thị trƣờng, sự hiện diện
của các quy luật cạnh tranh, quy luật cung cầu, quy luật lƣu thông tiền tệ là
một điều tất yếu. Có cạnh tranh đƣơng nhiên có đào thải và doanh nghiệp nào
không đáp ứng đƣợc những đòi hỏi nghiệt ngã của quy luật cạnh tranh trên
thƣơng trƣờng, doanh nghiệp đó sẽ bị đào thải. Cơ chế đào thải những doanh
nghiệp làm ăn thua lỗ kéo dài, mất khả năng thanh toán các khoản nợ đến hạn,
đồng thời phòng ngừa, khắc phục những hậu quả và rủi ro mà những doanh
nghiệp này gây ra là cơ chế phá sản. Cơ chế phá sản đòi hỏi sự can thiệp rất
mềm dẻo, linh hoạt của Nhà nƣớc phù hợp với những yêu cầu thực tiễn kinh
doanh đặt ra. Luật Phá sản đƣợc Quốc hội nƣớc Cộng hoà xã hội chủ nghĩa
Việt Nam khoá XI kỳ họp thứ 11 thông qua ngày 15/6/2004 và có hiệu lực thi
hành kể từ ngày 15/10/2004 thay thế cho Luật Phá sản doanh nghiệp năm
1993. Tiếp thu có chọn lọc pháp luật về phá sản của một số nƣớc trên thế giới,
LPS, trong đó có các quy định về quản lý và xử lý TSPS đã có những sửa đổi,
bổ sung cơ bản nhằm khắc phục những hạn chế của Luật Phá sản doanh nghiệp
năm 1993, có nhiều nội dung phù hợp với yêu cầu của thực tiễn, ghi nhận thêm
những cơ chế, chính sách mới nhằm tạo điều kiện cho việc giải quyết phá sản
đƣợc tiến hành nhanh chóng, thuận lợi, công bằng, đạt hiệu quả cao hơn. LPS
ra đời đã cơ bản giải quyết đƣợc những vấn đề đặt ra trong thực tế là tạo môi
trƣờng kinh doanh và động lực mới cho phát triển kinh tế.
Tuy nhiên, do LPS đƣợc ban hành trong điều kiện nƣớc ta đang trong
quá trình xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ
chế thị trƣờng có sự quản lý của nhà nƣớc và theo định hƣớng xã hội chủ
nghĩa, hệ thống pháp luật của nƣớc ta vẫn còn chƣa đồng bộ, mặt khác hiện

2
tƣợng phá sản còn khá mới mẻ, nên việc đƣa LPS đặc biệt là những quy định
về quản lý và xử lý tài sản của doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản vào
thực tiễn còn gặp nhiều khó khăn. Tình hình đó xuất phát từ nhiều nguyên
nhân, trong đó nguyên nhân quan trọng nhất là về mặt pháp lý. Mặc dù, LPS
có một bƣớc tiến đáng kể về mặt lập pháp, song hiện nay còn thiếu những văn
bản hƣớng dẫn thi hành, nhất là các quy định về quản lý và xử lý tài sản của
doanh nghiệp phá sản; mặt khác, vẫn còn một số quy định của các văn bản
pháp luật có liên quan chƣa đồng bộ, chƣa phù hợp.
Thực tiễn cho thấy, hiệu quả của LPS chƣa phát huy đƣợc bao nhiêu, số
việc đƣợc giải quyết không nhiều: Năm 2005 toàn ngành Toà án thụ lý 11 vụ,
năm 2004 chuyển qua 3 vụ, nhƣng chỉ giải quyết đƣợc 01 vụ, đạt 7,14%; năm
2006 thụ lý 40 vụ, 13 vụ chuyển từ năm 2005 sang và đã giải quyết đƣợc 16 vụ
đạt tỷ lệ 30,2%; năm 2007 thụ lý 175 vụ, trong đó: trả lại đơn 01 vụ, quyết
định không mở thủ tục phá sản 10 vụ và 164 vụ đã ra quyết định mở thủ tục
phá sản, trong đó: 28 vụ tuyên bố phá sản trong trƣờng hợp đặc biệt, 10 vụ ra
quyết định đình chỉ, 75 vụ ra quyết định thanh lý tài sản và còn 51 vụ chuyển
sang năm 2008. Thực trạng đó do việc ban hành các văn bản hƣớng dẫn thi
hành LPS còn chậm dẫn đến cản trở tiến độ giải quyết của Toà án các cấp. Đặc
biệt việc thực thi các quy định về quản lý và xử lý tài sản của doanh nghiệp
phá sản hiện nay ở nƣớc ta còn đang gặp rất nhiều khó khăn, vƣớng mắc, chƣa
tạo điều kiện thuận lợi cho việc rút lui “một cách có trật tự” của doanh nghiệp
ra khỏi thƣơng trƣờng.
Mặt khác, cũng nhƣ nhiều đạo luật khác ra đời cùng thời điểm, LPS là
luật phục vụ mục tiêu hội nhập và phát triển. Song, nhiều nội dung của luật,
đặc biệt là những quy định liên quan đến việc quản lý và xử lý tài sản của
doanh nghiệp phá sản chƣa thể hiện mạnh mẽ tinh thần hội nhập quốc tế và
nhu cầu phát triển nội tại của nền kinh tế Việt Nam.

3
Chính vì vậy, việc sớm sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện những quy định
của LPS và việc ban hành các văn bản hƣớng dẫn thi hành và đặc biệt là các
quy định về quản lý và xử lý tài sản của doanh nghiệp phá sản đã trở thành một
yêu cầu cấp thiết, có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn đối với nền kinh tế nƣớc
ta hiện nay. Để thực hiện đƣợc nhiệm vụ này, cần phải có những nghiên cứu
kỹ hơn về các vấn đề lý luận, pháp lý và thực tiễn của việc quản lý và xử lý tài
sản của doanh nghiệp phá sản, đặt chúng trong mối quan hệ với các quy định
khác của pháp luật phá sản, đồng thời đề ra các kiến giải cần thiết để LPS nói
chung và các quy định về quản lý và xử lý tài sản của doanh nghiệp phá sản
hoàn thiện hơn và sớm phát huy đƣợc hiệu lực trong thực tế. Đó cũng là lý do
tôi chọn vấn đề: “Quản lý và xử lý tài sản phá sản theo quy định của pháp luật
phá sản Việt Nam ” làm đề tài luận án tiến sĩ.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Hiện nay, đã có một số công trình khoa học nghiên cứu về phá sản và
pháp luật phá sản nói chung cũng nhƣ Luật Phá sản với tƣ cách là một đạo luật
nói riêng. Ví dụ: Đề tài khoa học cấp Bộ năm 2004 của Bộ Kế hoạch và Đầu
tƣ: “Thực trạng phá sản doanh nghiệp và giải pháp hoàn thiện pháp luật về
phá sản doanh nghiệp ở Việt Nam” do Thạc sĩ Nguyễn Kim Anh - chuyên viên
Viện Nghiên cứu Quản lý kinh tế Trung ƣơng thuộc Bộ Kế hoạch và Đầu tƣ
làm chủ nhiệm đề tài. Nội dung của đề tài này chủ yếu tập trung nghiên cứu và
đánh giá pháp luật về phá sản ở Việt Nam và ở một số nƣớc trên thế giới, tìm
hiểu thực trạng thi hành Luật Phá sản doanh nghiệp năm 1993 ở Việt Nam
(giới hạn trong thời gian từ khi ban hành Luật Phá sản doanh nghiệp từ năm
1993 đến tháng 9 năm 2004, bao gồm cả việc nghiên cứu một số quy định của
LPS) và chỉ ra những bất cập trong pháp luật phá sản cũng nhƣ trong việc thực
hiện Luật Phá sản doanh nghiệp năm 1993, trên cơ sở đó đƣa ra các kiến nghị
nhằm nâng cao hiệu lực của pháp luật phá sản. Đối tƣợng nghiên cứu của đề
tài này là các văn bản pháp luật có liên quan đến phá sản doanh nghiệp và tổ

4
chức, hoạt động của bộ máy thực thi Luật Phá sản doanh nghiệp năm 1993 nhƣ
Toà Kinh tế thuộc Toà án nhân dân và các cơ quan thi hành án. Đề tài chỉ nêu
một số nét cơ bản đã đƣợc sửa đổi, bổ sung mà chƣa đi sâu phân tích các quy
định của LPS, đặc biệt đề tài cấp bộ này đã không phân tích về những quy định
về quản lý và xử lý TSPS.
Bên cạnh đó là Luật án tiến sĩ luật học của tác giả Trƣơng Hồng Hải đã
bảo vệ năm 2004 tại Trƣờng Đại học Luật Hà Nội về nội dung:“Luật Phá sản
doanh nghiệp Việt Nam dưới góc độ luật so sánh và phương hướng hoàn
thiện”. Luận án này tập trung nghiên cứu so sánh Luật Phá sản doanh nghiệp
năm 1993 của Việt Nam với Luật Phá sản của một số nƣớc nhƣ Đức, Hoa Kỳ,
Nhật Bản, Cộng hoà Liên bang Nga, Trung Quốc... trên những vấn đề chủ yếu:
Xác định tình trạng phá sản; phạm vi đối tƣợng của luật phá sản; quản lý
TSPS; mô hình thủ tục tố tụng phá sản. Luận án nhằm phân tích một cách khái
quát những nguyên lý cơ bản của khoa học luật so sánh và sự vận dụng chúng
với ý nghĩa là một phƣơng pháp luận quan trọng trong hoạt động so sánh pháp
luật nói chung và pháp luật phá sản nói riêng; Nghiên cứu, đánh giá Luật Phá
sản doanh nghiệp Việt Nam trong mối quan hệ so sánh với luật phá sản của
một số nƣớc đồng thời rút ra kết luận về nghiên cứu sự tƣơng đồng hay khác
biệt giữa pháp luật phá sản của Việt Nam với luật phá sản của các nƣớc cũng
nhƣ những nguyên tắc, yếu tố chi phối các đặc điểm đó; thông qua việc phân
tích so sánh Luật Phá sản doanh nghiệp của Việt Nam với luật phá sản của các
nƣớc trên cơ sở vận dụng một cách có hệ thống các nguyên lý cơ bản của khoa
học luật so sánh. Luận án còn đề cập tới một số giải pháp nhằm góp phần hoàn
thiện pháp luật phá sản hiện hành. Luận án này cũng chƣa giải quyết sâu vấn
đề quản lý và xử lý TSPS theo LPS, mặc dù đã nêu và phân tích một vài nét về
quản lý TSPS trong luật phá sản của một số nƣớc trên thế giới và theo quy
định của Luật Phá sản doanh nghiệp năm 1993.
Ngoài ra, phải kể đến công trình nghiên cứu về LPS của Toà án nhân
dân tối cao đƣợc đăng trên đặc san chuyên đề của Toà án nhân dân năm 2005,

