HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
DƯƠNG NGÔ NINH
GIÁ TRỊ CỦA PHẬT GIÁO TRÚC LÂM
THỜI TRẦN Ở BẮC GIANG
LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYÊN NGÀNH: TÔN GIÁO HỌC
HÀ NỘI - 2020
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
DƯƠNG NGÔ NINH
GIÁ TRỊ CỦA PHẬT GIÁO TRÚC LÂM
THỜI TRẦN Ở BẮC GIANG
LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYÊN NGÀNH: TÔN GIÁO HỌC
Mã số: 9229009 (Cũ: 62220309)
2. PGS,TS HOÀNG THỊ LAN
Người hướng dẫn khoa học: 1. TS. NGUYỄN QUỐC TUẤN
HÀ NỘI - 2020
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu, kết quả nêu trong luận án là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng và được
trích dẫn đầy đủ theo quy định.
Tác giả
Dương Ngô Ninh
MỤC LỤC
Trang 1
MỞ ĐẦU
7
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
1.1. Những công trình nghiên cứu liên quan đến luận án
7
1.2. Khung lý thuyết nghiên cứu
24
1.3. Một số khái niệm sử dụng trong luận án
28
1.4. Khái quát địa bàn nghiên cứu
34
Chương 2: QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN VÀ DẤU ẤN
43
CỦA PHẬT GIÁO TRÚC LÂM THỜI TRẦN Ở BẮC GIANG
2.1. Quá trình hình thành và phát triển của Phật giáo Trúc Lâm thời Trần ở
Bắc Giang
43
2.2. Dấu ấn của Phật giáo Trúc Lâm thời Trần ở Bắc Giang
53
Chương 3: NHỮNG GIÁ TRỊ NỔI BẬT CỦA PHẬT GIÁO TRÚC
64
LÂM THỜI TRẦN Ở BẮC GIANG
3.1. Giá trị tôn giáo của Phật giáo Trúc Lâm thời Trần ở Bắc Giang
64
3.2. Giá trị văn hóa của Phật giáo Trúc Lâm thời Trần ở Bắc Giang
85
3.3. Giá trị lịch sử của Phật giáo Trúc Lâm thời Trần ở Bắc Giang
105
Chương 4: GIẢI PHÁP CƠ BẢN VÀ KHUYẾN NGHỊ NHẰM PHÁT
HUY GIÁ TRỊ CỦA PHẬT GIÁO TRÚC LÂM THỜI TRẦN Ở BẮC
123
GIANG HIỆN NAY
4.1. Giải pháp cơ bản và khuyến nghị nhằm phát huy giá trị của Phật giáo
Trúc Lâm thời Trần ở Bắc Giang hiện nay
123
4.2. Khuyến nghị nhằm phát huy giá trị của Phật giáo Trúc Lâm thời Trần
ở Bắc Giang hiện nay
136
140
KẾT LUẬN
DANH MỤC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ CÓ
143
LIÊN QUAN TỚI LUẬN ÁN
144
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
158
PHỤ LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Cb Chủ biên
DSVH Di sản văn hóa
DSVHPG Di sản văn hóa Phật giáo
GHPG Giáo hội Phật giáo
GHPGVN Giáo hội Phật giáo Việt Nam
HN Hà Nội
KHXH Khoa học xã hội
NCS Nghiên cứu sinh
NXB Nhà xuất bản
PGTLTT Phật giáo Trúc Lâm thời Trần
PL Phụ lục
STT Số thứ tự
TP Thành phố
TP.HCM Thành phố Hồ Chí Minh
TR Trang
UBND Ủy ban nhân dân
DANH MỤC BẢN ĐỒ, BIỂU ĐỒ, SƠ ĐỒ
Trang
Bản đồ 1.1: Bản đồ vị trí các điểm và di tích Tây Yên Tử 37
Bản đồ 2.1: Sự phân bố Phật giáo Trúc Lâm thời Trần trên địa
bàn tỉnh Bắc Giang 47
Biểu đồ 3.1: Thực hiện chủ trương Thiền - giáo song hành vừa
tu thiền, vừa học đạo tại các chùa, Thiền viện 67
Biểu đồ 3.2: Thực hành nghi lễ Phật giáo khi sinh hoạt tại chùa/
68 Thiền viện
Biểu đồ 3.3: Biểu hiện sự hỗn dung Phật giáo Trúc Lâm với tín
70 ngưỡng dân gian hiện nay
Biểu đồ 3.4: Tư tưởng “Phật tại tâm” góp phần tu dưỡng đạo
đức, giúp tâm trong sáng 76
Biểu đồ 3.5: Cách hiểu của người dân về tư tưởng “Phật tại tâm” 77
Biểu đồ 3.6: Thực hiện Thập thiện của tín đồ và người dân 82
Biểu đồ 3.7: Lợi ích khi tu tập theo Phật giáo Trúc Lâm 84
Biểu đồ 3.8: Mức độ tham gia lễ hội Phật giáo Trúc Lâm 101
Biểu đồ 3.9: Tín đồ và người dân có biết về lễ hội của Phật giáo
101 Trúc Lâm
Biểu đồ 3.10: Ảnh hưởng của lễ hội Phật giáo Trúc Lâm tới đạo
đức, lối sống tín đồ và người dân 102
Biểu đồ 3.11: Tần xuất làm từ thiện của tín đồ và người dân 120
Sơ đồ 1.1: Sơ đồ hóa lý thuyết nghiên cứu 25
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong lịch sử Phật giáo Việt Nam, Phật giáo thời Trần phát triển trên
nhiều phương diện, biểu hiện qua sự hình thành và phát triển của Phật giáo
Trúc Lâm. Phật giáo Trúc Lâm có nhiều đóng góp quan trọng trong đời
sống xã hội, là một trong những yếu tố quan trọng của xã hội Đại Việt,
đóng vai trò thiết yếu trong quá trình xây dựng và bảo vệ đất nước. Phật
giáo Trúc Lâm là sợi dây nối kết tình đoàn kết nhân dân với tầng lớp lãnh
đạo đất nước, với sức sống bền bỉ trong các tầng lớp nhân dân, tác động
mạnh mẽ đến xã hội bởi tính chất luân lý đạo đức, kêu gọi làm việc thiện,
thương yêu người khác, tôn trọng phép nước; trở thành uy lực thống nhất ý
thức hệ toàn dân, là nhân tố dệt nên hệ tư tưởng và tính chất xã hội độc
đáo, mang đậm tính dân tộc. Sự phát triển của Phật giáo Trúc Lâm thời Trần
đã để lại nhiều giá trị còn tồn tại đến ngay nay ở các dạng thức khác nhau.
Tỉnh Bắc Giang có vị trí địa - chính trị, địa - văn hóa, địa - tôn giáo rất
quan trọng đối với lịch sử đất nước ta từ thời dựng nước và càng nổi bật trong
thời kỳ giữ nước hàng nghìn năm lịch sử. Sự hình thành và phát triển Phật
giáo ở tỉnh Bắc Giang đã lưu dấu rất nhiều di sản có giá trị, nổi bật nhất là
chùa Vĩnh Nghiêm (xã Trí Yên, huyện Yên Dũng). Đây là trung tâm Phật
giáo lớn ở tỉnh Bắc Giang, mang đậm dấu ấn của Phật giáo Trúc Lâm tồn tại
cho đến ngày nay.
Bên cạnh đó, Bắc Giang còn là nơi đang lưu giữ dấu tích của các ngôi
chùa của Phật giáo Trúc Lâm thời Trần bên phía Tây Yên Tử, chứng tích cho
một thời kỳ Phật giáo phát triển hưng thịnh. Qua thời gian lịch sử, hệ thống di
tích Phật giáo Trúc Lâm và chùa Vĩnh Nghiêm trên địa bàn tỉnh Bắc Giang
đóng một vai trò quan trọng và là một phần không thể tách rời trong quần thể
di sản văn hóa và danh thắng Yên Tử gắn với Phật giáo Trúc Lâm mang đậm
bản sắc Việt.
2
Việc nghiên cứu một cách hệ thống Phật giáo Trúc Lâm thời Trần trên
địa bàn tỉnh Bắc Giang góp phần làm sâu sắc hơn các giá trị di sản Phật giáo,
lịch sử và văn hóa. Thông qua những giá trị đó góp phần làm rõ vị trí lịch sử,
giá trị văn hóa của những di tích này, cũng như truyền thống lịch sử, văn hóa
của tỉnh Bắc Giang với tư cách là một trung tâm Phật giáo Trúc Lâm trước
đây. Ngoài ra, việc nghiên cứu hệ thống về Phật giáo Trúc Lâm thời Trần còn
ở phương diện sinh hoạt Phật giáo, tư tưởng Phật giáo, giúp ban ngành chính
quyền các cấp đề ra được những giải pháp bảo tồn và phát huy những giá trị
di sản quý báu này trong giai đoạn hiện nay.
Nghiên cứu Phật giáo Trúc Lâm thời Trần trên địa bàn tỉnh Bắc Giang
góp phần làm rõ giá trị của Phật giáo Trúc Lâm thời Trần đối với lịch sử dân
tộc, với đời sống tinh thần người dân. Trên cơ sở những giá trị đó đóng góp
luận cứ khoa học cho ba tỉnh Bắc Giang, Quảng Ninh và Hải Dương hoàn
thiện hồ sơ trình UNESCO đề xuất công nhận Quần thể di tích - danh thắng
Yên Tử là di sản thế giới; với tỉnh Bắc Giang giúp hình thành và phát triển
con đường du lịch tâm linh Phật giáo Trúc Lâm Tây Yên Tử trên địa bàn tỉnh
Bắc Giang với việc kết nối các ngôi chùa Trúc Lâm thời Trần cùng cảnh quan
thiên nhiên hùng vĩ, chắc chắn góp phần phát triển kinh tế xã hội của địa phương
trong thời gian tới.
Vì vậy, việc lựa chọn đề tài: “Giá trị của Phật giáo Trúc Lâm thời Trần
ở Bắc Giang” làm đề tài luận án Tiến sĩ chuyên ngành Tôn giáo học, có tính cấp
thiết, có giá trị cả về phương diện khoa học lẫn phương diện thực tiễn.
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của Luận án
2.1. Mục đích nghiên cứu
Phân tích, đánh giá giá trị của Phật giáo Trúc Lâm thời Trần trên địa bàn
tỉnh Bắc Giang, từ đó đề xuất các giải pháp, khuyến nghị nhằm phát huy hiệu
quả các giá trị của Phật giáo Trúc Lâm trên địa bàn tỉnh Bắc Giang hiện nay,
góp phần phát triển kinh tế, xã hội của địa phương.
3
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Thứ nhất, khái quát quá trình hình thành và phát triển của Phật giáo Trúc
Lâm thời Trần ở Bắc Giang, làm rõ dấu ấn của Phật giáo Trúc Lâm thời Trần ở
Bắc Giang.
- Thứ hai, tập trung nghiên cứu, phân tích, đánh giá những giá trị nổi
bật của Phật giáo Trúc Lâm thời Trần ở Bắc Giang hiện nay (giá trị tôn giáo,
giá trị văn hóa, giá trị lịch sử).
- Thứ ba, đề xuất giải pháp nhằm phát huy hiệu quả các giá trị của Phật
giáo Trúc Lâm thời Trần ở Bắc Giang, góp phần phát triển kinh tế - xã hội của
địa phương.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của Luận án
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Giá trị của Phật giáo Trúc Lâm thời Trần ở Bắc Giang theo ba nhóm: giá
trị tôn giáo, giá trị văn hóa, giá trị lịch sử.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về không gian: Luận án giới hạn nghiên cứu những giá trị của Phật
giáo Trúc Lâm thời Trần ở Bắc Giang tập trung chủ yếu ở khu vực Tây Yên
Tử tỉnh Bắc Giang.
- Về thời gian: Luận án tập trung nghiên cứu các giá trị của Phật giáo
Trúc Lâm thời Trần từ khi hình thành và phát triển đến giai đoạn hiện nay
trên địa bàn tỉnh Bắc Giang.
4. Phương pháp nghiên cứu
Trong luận án này, NCS sử dụng các phương pháp tổng hợp, phân tích
tài liệu; phương pháp nghiên cứu điền dã, phương pháp quan sát, phương
pháp phỏng vấn sâu, phương pháp phỏng vấn bảng hỏi, phương pháp so sánh,
đối chiếu.
- Phương pháp tổng hợp, phân tích tài liệu: được tác giả sử dụng để thu
thập, xử lý, phân tích các tài liệu có liên quan đến Phật giáo Trúc Lâm nói
4
chung cũng như Phật giáo Trúc Lâm thời Trần ở tỉnh Bắc Giang nói riêng.
Qua đó, để thấy được Phật giáo Trúc Lâm ở tỉnh Bắc Giang đã được các
học giả đề cập đến ở những khía cạnh nào, cách tiếp cận và phương pháp
nghiên cứu của họ ra sao và những điểm cần bổ sung, phát triển trong
nghiên cứu này.
- Phương pháp nghiên cứu điền dã:
Phương pháp này dựa vào những chuyến đi thực tế tại các địa bàn để tiếp
cận đối tượng nghiên cứu nhằm thu thập thông tin cần khảo sát. Trong điều tra
điền dã lấy tư liệu cho luận án, phương pháp quan sát tham dự và phương pháp
phỏng vấn sâu được áp dụng mang lại hiệu quả cao.
Trong luận án này, nhằm làm rõ những thông tin vấn đề nghiên cứu,
NCS thường xuyên đi thực tế tới chùa Vĩnh Nghiêm, các chùa khu vực Tây
Yên Tử, cũng như các vùng phụ cận như Quảng Ninh, Hải Dương… vào dịp
ngày mồng một, ngày Rằm, ngày lễ, cũng như khi diễn ra các nghi lễ, lễ hội,
gặp trực tiếp những người thực hành nghi lễ để khảo khát thực tế, sưu tầm
hình ảnh, tư liệu; hoặc phỏng vấn sâu tín đồ.
- Phương pháp quan sát: Luận án sử dụng phương pháp này trong nghiên
cứu để thu thập thông tin thực nghiệm thông qua quá trình đi khảo sát thực tế
và ghi chép trung thực những nhân tố liên quan đến đối tượng nghiên cứu của
luận án. Với phương pháp này, NCS đến trực tiếp địa bàn nghiên cứu quan sát
các cơ sở thờ tự, dấu ấn, di vật... Vào các ngày lễ, lễ hội, NCS quan sát các
sinh hoạt Phật giáo của các tăng, ni trên các phương diện niềm tin, thực hành,
cộng đồng Phật giáo Trúc Lâm ở tỉnh Bắc Giang.
- Phương pháp phỏng vấn sâu: Trong quá trình thực hiện tại thực địa, có
những thông tin cần làm rõ chi tiết và đi sâu hơn vào các vấn đề nghiên cứu
mà phương pháp điều tra bằng bảng hỏi không thể thực hiện được. Luận án đã
sử dụng phương pháp phỏng vấn sâu thông qua đối thoại hỏi và đáp một cách
trực tiếp đối với các tín đồ, tăng, ni để có thể tìm hiểu những suy nghĩ, thái
5
độ, tình cảm, động cơ, niềm tin, quan điểm… từ đó thu được các thông tin
hữu ích, có giá trị cao hơn.
- Phương pháp So sánh đối chiếu:
Nghiên cứu sinh sử dụng phương pháp này để so sánh đối chiếu giữa
kết quả sử liệu với kết quả thu thập từ nghiên cứu điền dã, quan sát tham dự,
phỏng vấn sâu để phát hiện ra những điểm chung và những điểm khác nhau,
từ đó, có thể xác định mức độ tin cậy của thông tin để đánh giá sự vật hiện
tượng một cách toàn diện hơn. Trong quá trình nghiên cứu tác giả lồng ghép,
tổng hợp các phương pháp để hỗ trợ nhau trong quá trình thu thập và xử lý
thông tin. Trong luận án này, NCS so sánh đối chiếu Phật giáo Trúc Lâm thời
Trần ở tỉnh Bắc Giang trên các tài liệu mà NCS tổng hợp được, đối chiếu thực
tế với quá trình đi điền dã ở các cơ sở thờ tự bên sườn Tây Yên Tử từ đó xác
định được những thông tin chính xác.
- Phương pháp phỏng vấn bảng hỏi: NCS áp dụng phương pháp này
nhằm thu thập thông tin, dữ liệu sơ cấp, phục vụ cho mục đích nghiên cứu của
luận án. Hoạt động thu thập dữ liệu được NCS thực hiện cùng một lúc với tín
đồ và người dân theo một bảng câu hỏi khảo sát in sẵn, người được hỏi trả lời
ý kiến của mình bằng cách đánh dấu vào các ô tương ứng trong các câu hỏi.
Về địa điểm, trong luận án này, NCS chọn 4 địa điểm: tại Chùa Vĩnh
Nghiêm (huyện Yên Dũng), tại chùa Am Vãi (huyện Lục Ngạn), tại Thiền
viện Trúc Lâm Phượng Hoàng (huyện Yên Dũng), tại Khu du lịch Tâm linh -
Sinh thái Tây Yên Tử (huyện Sơn Động).
Về thời gian, tại lễ hội chùa Vĩnh Nghiêm ngày 17/03/2019 (tức ngày
12/02 Âm lịch); tại lễ hội chùa Am Vãi ngày 06/04/2019 (tức mồng 2/03 Âm
lịch); tại Thiền viện Trúc Lâm Phượng hoàng ngày 01/07/2019 (tức mồng 1/7
Âm lịch), tại lễ hội Tây Yên Tử (Khu du lịch Tâm linh - Sinh thái Tây Yên
Tử) ngày 16/02/2019 (tức ngày 12 tháng Giêng năm Kỷ Hợi).
6
Về số lượng phiếu, NCS phỏng vấn 400 người (Phật tử và người dân)
tại 4 địa điểm: lễ hội chùa Vĩnh Nghiêm (100 phiếu), lễ hội Tây Yên Tử (100
phiếu), tại Thiền viện Trúc Lâm Phượng Hoàng (100 phiếu), lễ hội chùa Am
Vãi (100 phiếu).
5. Đóng góp khoa học của luận án
- Luận án làm rõ quá tình hình thành và phát triển của Phật giáo Trúc
Lâm thời Trần trên địa bàn tỉnh Bắc Giang, đồng thời chỉ ra được dấu ấn của
Phật giáo Trúc Lâm thời Trần ở Bắc Giang.
- Luận án phân tích, làm rõ những giá trị nổi bật của Phật giáo Trúc
Lâm thời Trần ở tỉnh Bắc Giang như giá trị tôn giáo, giá trị văn hóa, giá trị
lịch sử.
- Bên cạnh đó, luận án đưa ra những giải pháp, khuyến nghị nhằm bảo
tồn và phát huy những giá trị của Phật giáo Trúc Lâm thời Trần trên địa bàn
tỉnh Bắc Giang hiện nay.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
- Về mặt lý luận: Luận án góp phần làm rõ những giá trị nổi bật của
Phật giáo Trúc Lâm thời Trần ở Bắc Giang hiện nay, đồng thời luận án đóng
góp vào tư liệu nghiên cứu tham khảo, giảng dạy.
- Về mặt thực tiễn: Luận án góp phần gìn giữ, bảo tồn và phát huy
những giá trị của Phật giáo Trúc Lâm thời Trần ở Bắc Giang phục vụ cho việc
phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội của địa phương.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
nội dung luận án gồm 4 chương, 12 tiết.
7
Chương 1
1.1. NHỮNG CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
1.1.1. Nhóm công trình nghiên cứu liên quan đến Phật giáo Trúc
Lâm và Phật giáo Trúc Lâm thời Trần trên địa bàn tỉnh Bắc Giang
Cuốn Chùa Việt Nam của Hà Văn Tấn, xuất bản 1993 tại Hà Nội [97]
dành một phần giới thiệu về Phật giáo thời Trần, trong đó có nhắc đến vai trò
to lớn của Pháp Loa đã biến ngôi chùa Vĩnh Nghiêm thành trụ sở Trung ương
của của giáo hội Trúc Lâm.
“Ở thế kỷ XIV với hoạt động của các vị tổ phái Trúc Lâm, Phật giáo
đã phát triển hết sức mạnh mẽ - Người có vai trò lớn trong việc xây
dựng chùa chiền bấy giờ là sư Pháp Loa, vị tổ thứ hai của phái Trúc
Lâm. Có thể nói ông đã huy động cả giới quý tộc Trần vào công việc
này. Mới 24 tuổi, ông đã trở thành người lãnh đạo giáo hội. Ông đã
biến ngôi chùa Vĩnh Nghiêm thành trụ sở trung ương của giáo hội
Trúc Lâm, chứa đủ hồ sơ tăng ni cả nước…” [97, tr.42].
Cuốn Tam tổ thực lục do Thích Phước Sơn dịch, Viện Nghiên cứu
Phật học ấn hành năm 1995 [94]. Phần thứ nhất viết về Trần Nhân Tông, phần
thứ hai viết về Pháp Loa, phần thứ ba viết về Huyền Quang. Tác giả ghi chép
về hành trạng và sự truyền thừa của ba vị Tam tổ Trúc Lâm. Qua đó cũng
thấy được giá trị tư tưởng, ý nghĩa và nội dung của Phật giáo Trúc Lâm. Tuy
nhiên, tác giả chưa đi sâu tìm hiểu trung tâm phát triển của Phật giáo Trúc
Lâm đó là chùa Vĩnh Nghiêm và các ngôi chùa bên sườn Tây Yên Tử.
Cuốn sách Trúc Lâm Tam tổ giảng giải, của HT Thích Thanh Từ, xuất
bản năm 1997, Nxb Tp HCM [144], gồm những bài thơ, bài văn của Tam tổ
Trúc Lâm. Tác giả đã dùng văn học để biểu đạt thân thế, sự nghiệp của ba vị
tổ Trúc Lâm. Trong đó có nhắc tới sự kiện Trần Nhân Tông tới chùa Vĩnh
8
Nghiêm kiết hạ, sự kiện Pháp Loa tới chùa Vĩnh Nghiêm định chức cho tăng
đồ, sự kiện Huyền Quang tới chùa Vĩnh Nghiêm nghe Pháp Loa giảng kinh.
Nguyễn Hùng Hậu (1997), Lược khảo tư tưởng Thiền Trúc Lâm Việt
Nam, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội [48]. Nội dung gồm 7 chương trình bày
về hoàn cảnh chính trị, kinh tế xã hội văn hóa để hình thành thiền Trúc Lâm
Yên Tử; Trần Thái Tông người đặt nền móng cho thiền Trúc Lâm Yên Tử;
Tuệ Trung thượng sĩ người thầy tư tưởng vĩ đại của thiền Trúc Lâm Yên Tử;
Trần Nhân Tông người sáng lập ra thiền Trúc Lâm Yên Tử; Tư tưởng triết học
Phật giáo của Nhị tổ Pháp Loa; Biện chứng giải thoát trong tư tưởng của Tam tổ
Huyền Quang; Một số tư tưởng triết học Phật giáo của Ngô Thì Nhậm.
Trương Văn Chung (1998), Tư tưởng triết học của Thiền Phái Trúc Lâm
đời Trần, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội [23]. Trình bày tiền đề hình thành,
phát triển và tư tưởng triết học của Phật giáo Trúc Lâm đời Trần.
Nguyễn Công Lý (2000), Văn học Phật giáo thời Lý - Trần: Diện mạo
và đặc điểm, Nxb Đại học Quốc gia, Tp.HCM [69]. Nội dung trình bày về
diện mạo và đặc điểm của văn học thời kỳ này, nêu lên 4 diện mạo cùng 6 đặc
điểm lớn của văn học Phật giáo Lý - Trần mà thành tựu nổi bật có đóng góp
lớn là của Phật giáo Trúc Lâm.
Cuốn Việt Nam Phật giáo sử luận, của Nguyễn Lang, xuất bản năm
2000, Nxb Văn học [66], đề cập đến các giai đoạn lịch sử của Phật giáo Việt
Nam, trong đó có bàn về nền tảng của Phật giáo đời Trần, Trần Nhân Tông và
Phật giáo Trúc Lâm, Thiền sư Pháp Loa, thiền sư Huyền Quang. Chương XV
Tổng luận về Phật giáo đời Trần bàn về: Chủ lực của văn hóa đời Trần, các
khuynh hướng tư tưởng trong Phật giáo đời Trần, vai trò của văn hóa và chính
trị của Phật giáo đời Trần.
Nguyễn Xuân Cần (2001), Giới thiệu các di tích lịch sử văn hoá, di tích
khảo cổ và các đền, nghè, đình chùa, lăng mộ, địa điểm di tích cách mạng
nằm tại các xã, huyện của tỉnh Bắc Giang, Bảo tàng Bắc Giang, Bắc Giang
9
[13]. Trong công trình nghiên cứu này, tác giả đã có những giới thiệu về các
di tích lịch sử văn hoá, di tích khảo cổ và các đền, nghè, đình chùa, lăng mộ,
địa điểm di tích cách mạng... nằm tại các xã, huyện của tỉnh Bắc Giang. Trong
đó, tác giả cũng đã khảo cứu những bước phát triển của Phật giáo Bắc Giang
nói chung và Phật giáo thời Trần trên địa bàn tỉnh Bắc Giang nói riêng.
Cuốn Đại cương triết học Phật giáo Việt Nam của Nguyễn Hùng Hậu
(Minh Không), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 2002 [49]. Đây là một công
trình khoa học trình bày một cách hệ thống, toàn diện về triết học Phật giáo
Việt Nam từ khởi nguyên đến thế kỷ XIV theo lát cắt thế giới quan Phật giáo,
nhân sinh quan Phật giáo dựa trên những vấn đề cơ bản của triết học, phù hợp
với lôgíc phát triển của lịch sử Phật giáo, cũng là để làm sáng tỏ hơn những tư
tưởng Phật giáo Việt Nam. Chương 1 tác giả đã lược sử Phật giáo Việt Nam
từ khởi nguyên đến XIV qua sự du nhập của Phật giáo vào Việt Nam cho đến
Phật giáo thời Trần với Phật giáo Trúc Lâm Yên Tử; chương 2 khảo cứu một
vài nét thế giới quan Phật giáo theo lịch sử phát triển, từ Phật giáo Nguyên
thủy đến Tiểu thừa và Đại thừa sau đó khảo sát thế giới quan Phật giáo Việt
Nam; chương 3 tìm hiểu nhân sinh quan Phật giáo trên các mặt về con người,
về cuộc đời con người. Tác giả khẳng định, tuy Phật giáo phát triển qua các
giai đoạn, thời kỳ, tông phái khác nhau nhưng nhân sinh quan Phật giáo ít có
thay đổi, về cơ bản nó vẫn đi theo cái trục của chính nó, đó là quan niệm của
Đức Phật đã chỉ ra. Trên cơ sở đó, tác giả khảo cứu nhân sinh quan Phật giáo
Việt Nam.
Trong bộ sách khá đồ sộ Địa chí Bắc Giang [2] do UBND tỉnh Bắc
Giang chỉ đạo biên soạn xuất bản năm 2002 và 2003 ở hai tập Từ điển và Di
sản Hán Nôm đã giới thiệu khái lược về chùa Vĩnh Nghiêm và Phật giáo Trúc
Lâm, cùng với các tư liệu Hán Nôm hiện còn lưu giữ tại chùa ngôi chùa này.
Nguyễn Xuân Cần chủ biên (2004), Chốn tổ Vĩnh Nghiêm, Bảo tàng Bắc
Giang [15]. Tác giả trình bày về lịch sử hình thành, phát triển chùa Vĩnh
10
Nghiêm bao gồm: kiến trúc, các di sản Hán Nôm có biên dịch, giới thiệu nội
dung 08 bài văn bia, 4 bia bài vị trên mộ tháp có trong di tích, lễ hội dân gian.
Cuốn Nguyễn Duy Hinh (2009), Lịch sử đạo Phật Việt Nam, Nxb Tôn
giáo & Nxb Từ điển Bách khoa, Hà Nội [55]. Cuốn sách trình bày về các giai
đoạn hình thành và phát triển của Phật giáo từ thời kỳ du nhập đến thế kỷ
XX. Đồng thời tác giả làm rõ những đóng góp của các thiền sư trong việc
phát triển tông phái Phật giáo và văn hóa - xã hội trong các giai đoạn phát
triển qua các thời kỳ của Phật giáo Việt Nam.
Kỷ yếu Hội thảo khoa học Chùa Vĩnh Nghiêm Bắc Giang và Thiền
phái Trúc Lâm trong quá trình phát triển của Phật giáo Việt Nam, Sở Văn
hóa Thể thao và Du lịch tỉnh Bắc Giang, Nxb Thông tấn, năm 2011 [92].
Trong công trình nghiên cứu này, các tác giả đã có những phân tích về quá
trình hình thành và phát triển của Phật giáo Bắc Giang nói chung và vai trò
của chùa Vĩnh Nghiêm, Phật giáo Trúc Lâm nói riêng trong quá trình phát
triển của Phật giáo Việt Nam. Các tác giả đều cho rằng, Bắc Giang nằm trên
vùng đất cổ, có lịch sử văn hóa lâu đời, đặc biệt là lịch sử văn hóa Phật giáo.
Cùng với sự ra đời của Phật giáo Việt Nam, Phật giáo ở Bắc Giang cũng có
mặt từ khá sớm. Thời điểm Phật giáo vào Bắc Giang khoảng trước thế kỷ X.
Các tác giả cũng khẳng định những giá trị lịch sử, văn hóa, đạo đức, tôn giáo
của Phật giáo Trúc Lâm trên địa bàn tỉnh Bắc Giang. Bên cạnh đó, các tác giả
cũng đã có những nghiên cứu, đánh giá về quá trình hình thành và phát triển
của Phật giáo Trúc Lâm trên địa bàn này. Trên cơ sở đó, các tác giả có những
gợi mở quan trọng về đường hướng, giải pháp cho sự phát triển của Phật giáo
Trúc Lâm thời Trần trên địa bàn tỉnh Bắc Giang gắn liền với văn hóa, du lịch
tâm linh, xứng tầm với vị thế sẵn có của tỉnh Bắc Giang.
Nguyễn Thế Chính, Nguyễn Sĩ Cầm, Ngô Văn Trụ (2015), Bắc Giang -
Miền di sản, Nhà xuất bản Văn hóa Dân tộc, Hà Nội [22]. Trong công trình
11
nghiên cứu này, các tác giả đã giới thiệu các di sản văn hoá của Bắc Giang: di
sản nghệ thuật trình diễn dân gian, di sản di tích và lễ hội, các di sản văn hoá -
lịch sử khác cùng vấn đề bảo tồn và phát huy di sản văn hoá ở Bắc Giang. Trong
đó, nghiên cứu về sự phát triển của Phật giáo Bắc Giang nói chung và dòng Phật
giáo Trúc Lâm nói riêng trên địa bàn tỉnh Bắc Giang, các tác giả đã đề cập đến
những di tích Phật giáo thời Trần như tổ đình chùa Vĩnh Nghiêm trong dòng
chảy của Phật giáo Tây Yên Tử, cũng như những ảnh hưởng của nó trong đời
sống của người dân Bắc Giang.
Thích Hạnh Tuệ (2018), Nghiên cứu về Trúc Lâm tông chỉ nguyên thanh,
Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội [135]. Nội dung tập hợp 14 bài viết trong nhiều
năm của tác giả Thích Hạnh Tuệ đã công bố trên các báo và tạp chí: Tuần báo
Giác ngộ, Nguyệt san Giác ngộ, Nghiên cứu Phật học, Văn hóa Phật giáo,
Nghiên cứu Tôn giáo, Đại học Sài Gòn... Tất cả các bài viết đều tập trung
nghiên cứu về tác phẩm Trúc Lâm tông chỉ nguyên thanh của Hải Lượng Ngô
Thì Nhậm.
Viện Trần Nhân Tông, Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam (2019),
Trần Nhân Tông và Phật giáo Trúc Lâm đặc sắc tư tưởng, văn hóa, Nxb Đại
học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội [169]. Cuốn sách gồm nhiều bài viết của các
học giả quốc tế và Việt Nam tập trung vào các chủ đề như: hành trạng, đặc
sắc tư tưởng, văn hóa của Trần Nhân Tông và Phật giáo Trúc Lâm; vai trò,
ảnh hưởng trong lịch sử, hiện tại và xu hướng tương lai. Tuy nhiên nội
dung viết về PGTLTT ở Bắc Giang rất ít, gồm 2 bài viết ngắn của tác giả
Trần Văn Lạng và Nguyễn Văn Phong như: Một số vấn đề Phật giáo thời
Trần liên quan tới thiền phái Trúc Lâm ở miền Tây Yên Tử của Trần Văn
Lạng và Văn bia về thiền phái Trúc Lâm ở miền Tây Yên Tử, Bắc Giang
của Nguyễn Văn Phong. Hai bài viết ngắn cho người đọc thấy được sơ lược
về những ngôi chùa thuộc PGTLTT ở Bắc Giang cùng với một số văn bia
được khắc tại chùa.
12
1.1.2. Nhóm công trình nghiên cứu liên quan đến những giá trị của
Phật giáo Trúc Lâm thời Trần trên địa bàn tỉnh Bắc Giang
Những nghiên cứu về quá trình hình thành và phát triển của Phật giáo
Trúc Lâm thời Trần trên địa bàn tỉnh Bắc Giang trong thời gian qua có nhiều
thành tựu đáng kể. Các công trình nghiên cứu đã thể hiện nhiều khía cạnh,
quan điểm và quá trình hình thành của Phật giáo Trúc Lâm thời Trần nói
chung. Đây là một trong những vấn đề quan trọng trong việc nhìn nhận những
giá trị đạo đức, văn hóa, lịch sử, kinh tế, giáo dục, định hướng giá trị cho
đông đảo tín đồ Phật giáo xứng tầm với quá trình công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước, là một trong những tiền đề quan trọng để Bắc Giang từng bước
khẳng định và hội nhập, giao lưu văn hóa, nền kinh tế thế giới.
Hà Thúc Minh (1986), “Lịch sử tư tưởng Việt Nam và vấn đề Phật
giáo”, [74] in trong Mấy vấn đề Phật giáo và Lịch sử tư tưởng Việt Nam, Ủy
ban Khoa học Xã hội Việt Nam - Viện Triết học ấn hành, Hà Nội, tr.43-51.
Nội dung khẳng định trong tiến trình lịch sử, Phật giáo Việt Nam đã gắn liền
với vận mệnh của dân tộc qua các thời kỳ lịch sử. Khi đất nước đối diện với
những thách thức ngoại xâm, trong những thời kỳ khó khăn nhất thì “nhiều
tăng ni, Phật tử sẵn sàng “cởi cà sa, khoác chiến bào” cùng toàn dân đánh tan
mọi âm mưu xâm lược của kẻ thù” [74, tr.47].
Cuốn Thiền uyển tập anh do Ngô Đức Thọ và Nguyễn Thuý Nga dịch
năm 1990, Phân viện Nghiên cứu Phật học và Nxb Văn học, Hà Nội [112].
Đây là cuốn sách có giá trị về lịch sử Phật giáo, nội dung ghi lại sự tích các vị
Thiền sư nổi tiếng vào cuối thời Bắc thuộc cho đến thời Đinh, Lê, Lý, một số
ít vị sau còn sống đến đầu thời Trần, bên cạnh đó là nội dung về các tông phái
thiền học.
Các công trình của Lê Mạnh Thát như Toàn tập Trần Nhân Tông, Nxb
Tp.HCM năm 2000 [103] và Lịch sử Phật giáo Việt Nam, tập 3, Nxb
Tp.HCM năm 2002 [107], tác giả đã phân tích về các hoạt động của Phật giáo
13
Trúc Lâm thời Trần, qua việc giới thiệu về các quan điểm chính trị, về thiền,
về nghi thức hành trì. Những đóng góp về văn học, văn hóa của Trần Thái
Tông, Tuệ Trung, Trần Nhân Tông, từ đó khẳng định Phật giáo Trúc Lâm có
tư tưởng và lịch sử truyền thừa liên tục từ thời Trần cho đến nay.
Trần Lý Trai (2008), Giá trị văn học trong tác phẩm của Thiền phái
Trúc Lâm, Luận án Tiến sĩ Ngữ văn, Trường Đại học khoa học xã hội và nhân
văn, Tp.HCM [126]. Luận án lược khảo một cách toàn diện có hệ thống từ tác
giả đến tác phẩm ở góc độ văn học. Khảo sát từng chủ đề, thành tố văn học
làm nên toàn bộ giá trị nội dung tư tưởng của văn học và nghệ thuật của Phật
giáo Trúc Lâm xuyên qua các tác phẩm của các tác giả.
Bảo tàng tỉnh Bắc Giang (2012), Những giá trị văn hóa cổ truyền tỉnh
Bắc Giang, Nhà xuất bản Thông tấn, Hà Nội [8]. Trong công trình nghiên cứu
này đáng chú ý là bài viết của tác giả Nguyễn Văn Phong (2005), Kho “mộc
thư” chốn tổ Vĩnh Nghiêm với giá trị văn hóa,trong bài viết này, tác giả đã chỉ
ra những giá trị văn hóa, lịch sử của kho mộc bản chùa Vĩnh Nghiêm, từ đó
kẳng định vai trò của Phật giáo Trúc Lâm trên địa bàn tỉnh Bắc Giang đối với
đời sống tinh thần của người dân.
Cuốn Phật giáo Việt Nam từ khởi nguyên đến 1981 của 2 tác giả Bồ Đề
Tân Thanh và Nguyễn Đại Đồng năm 2012, Nxb Văn học, Hà Nội [101] đã
trình bày một cách khái quát về lịch sử Phật giáo Việt Nam từ khởi nguyên
đến năm 1981 và các thiền sư, cư sĩ tiêu biểu. Tác giả cho rằng:
“Với tư tưởng “nhập thế”, “phật pháp bất ly thế gian giác” và “đại
hùng, đại lực, đại từ bi”, giáo lý đạo Phật đã hòa quyện với tín
ngưỡng văn hóa bản địa, là cơ sở, động lực để Phật giáo gắn bó,
đồng hành với dân tộc và có những đóng góp to lớn cho sự nghiệp
dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam”[101, tr.5].
Đỗ Ngây (2012), Triết lý nhập thế Phật giáo Việt Nam thời Lý - Trần,
Luận án Tiến sĩ Tôn giáo học, Học viện Khoa học Xã hội, Hà Nội [76] Luận
14
án đi sâu khai thác tính nhập thế của Phật giáo thời Lý - Trần trong đó bàn về
tính nhập thế của Phật giáo Trúc Lâm.
Thích Thanh Quyết, Nguyễn Quốc Tuấn đồng cb (2013), Phật hoàng
Trần Nhân Tông (1258 - 1308) con người và sự nghiệp, Nxb Khoa học Xã
hội, Hà Nội [89]. Cuốn sách gồm 3 phần: Thời đại nhà Trần và Vua Trần
Nhân Tông; Vua Trần Nhân Tông - Anh hùng dân tộc trong sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc; Di sản tư tưởng và văn hóa của thời đại nhà Trần
của Vua Trần Nhân Tông.
Tăng Xuân Dẫn (Thích Quảng Tiếp) (2015), Vai trò của các thiền sư
trong văn hóa Đại Việt thời Lý - Trần và ý nghĩa đối với Việt Nam hiện nay,
Luận án Tiến sĩ Triết học, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Hà
Nội, Hà Nội [26]. Nội dung phân tích vai trò của các thiền sư trong xây dựng
và phát triển văn hóa Đại Việt thời Lý - Trần trên một số lĩnh vực chính như:
chính trị - xã hội, tư tưởng tôn giáo, đạo đức, văn học, nghệ thuật, và rút ra ý
nghĩa đối với Việt Nam hiện nay. Tác giả cho rằng:
“Các thiền sư với vị thế là những nhà tu hành, chức sắc tôn giáo,
đã luôn là những người chăm lo cho nhân dân trong cả việc
“đạo” và việc “đời”. Vừa hướng đạo nhưng đồng thời cũng giáo
dục truyền thống yêu nước, truyền thống văn hóa và đạo đức, lối
sống cho quần chúng nhân dân”[26, tr.7].
Bùi Thị Kim Thuỷ chủ biên (2015), Danh thắng Yên Tử với những giá
trị lịch sử - văn hoá, Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội [121]. Trong cuốn sách
này, các tác giả đã giới thiệu về cuộc đời và sự nghiệp của Phật hoàng Trần
Nhân Tông. Bên cạnh đó, tác giả cũng phân tích quá trình, lịch sử hình thành,
phát triển và tư tưởng của Phật giáo Trúc Lâm cùng những giá trị văn hoá -
lịch sử của khu di tích danh thắng này. Gắn với khu vực Tây Yên Tử, các tác
giả cũng đã đề cập đến những di tích Phật giáo trên địa bàn tỉnh Bắc Giang, từ
đó chỉ ra dòng chảy xuyên suốt quá trình phát triển của Phật giáo Trúc Lâm,
15
gắn với đó là vấn đề bảo tồn, phát huy những giá trị văn hóa, lịch sử của các
khu di tích Phật giáo này.
Đinh Khắc Thuân (2015), Văn bia chùa thời Trần, Tạp chí Nghiên cứu
Tôn giáo, số 9 [119]. Tác giả trình bày những nét chung về văn bia, trên cơ sở
khảo cứu 54 văn bia thời Trần. Cụ thể, bài viết khái quát những nét chung về
niên đại, loại hình và phân bố của các văn bia thời Trần. Qua đó, bài viết trình
bày giá trị sử liệu của văn bia thời Trần, góp phần nghiên cứu ngôi chùa và
phật điện thời Trần, Phật giáo Trúc Lâm Yên Tử... Có thể nói, văn bia thời
Trần có giá trị nhiều mặt trong việc nghiên cứu Phật giáo cũng như lịch sử, xã
hội đương thời.
Sở Văn hóa Thể thao và Du lịch tỉnh Bắc Giang - Giáo hội Phật giáo
Việt Nam tỉnh Bắc Giang (2015), Mộc bản chùa Vĩnh Nghiêm Thái thượng
cảm ứng thiên và Viên liễu phàm tứ huấn, Nxb Hải Phòng, Hải Phòng [93]. Đây
là cuốn sách lần đầu tiên công bố bản gốc Mộc bản 2 tác phẩm “Thái Thượng
cảm ứng thiên” và “Viên Liễu Phàm Tứ Huấn” trong khối Mộc bản chùa Vĩnh
Nghiêm. Sách có tính giáo dục trong cộng đồng xã hội, đặc biệt là đối với giới
trẻ hiện nay. Đây cũng là cuốn sách đầu tiên thực hiện chủ trương xã hội hóa
công tác bảo quản và phát huy giá trị Tài liệu Mộc bản chùa Vĩnh Nghiêm.
Bộ Khoa học và Công nghệ (2016), “Giá trị mộc bản chùa Vĩnh
Nghiêm và chùa Bổ Đà gắn với phát triển bền vững”. Kỷ yếu Hội thảo Khoa
học, Bắc Giang [12]. Công trình nghiên cứu của tập thể các tác giả đã nhìn
nhận, nhận diện giá trị di sản văn hóa, lịch sử, ngôn ngữ của mộc bản chùa
Vĩnh Nghiêm. Các tác giả đều khẳng định đây là bộ mộc bản duy nhất của
Phật giáo Trúc Lâm hiện còn lưu giữ tại chùa Vĩnh Nghiêm để truyền bá tư
tưởng cốt lõi của đạo Phật cho hàng trăm ngôi chùa cùng tăng ni, Phật tử xưa
nay và có giá trị tôn giáo, văn hóa lớn. Các tác giả đều nhấn mạnh Bắc Giang
là một trong những điểm đến về du lịch văn hóa tâm linh trong tương lai, và
việc bảo tồn, phát huy giá trị kho mộc bản chùa Vĩnh Nghiêm nói riêng và
16
Phật giáo Trúc Lâm nói chung trên địa bàn tỉnh Bắc Giang là cần thiết, nhằm
giáo dục ý thức gìn giữ văn hóa truyền thống của dân tộc, giúp cho các cộng
đồng dân tộc ở khu vực Đông Nam Á, Châu Á bảo tồn nét văn hóa phương
Đông trong quá trình hội nhập quốc tế và phát triển.
Nguyễn Thế Chính (2016), “Giá trị lịch sử, Phật giáo và văn hóa của
mộc bản chùa Vĩnh Nghiêm và chùa Bổ Đà tỉnh Bắc Giang”, Kỷ yếu Hội thảo
Khoa học Giá trị các mặt của di sản mộc bản chùa Vĩnh Nghiêm và chùa Bổ
Đà tỉnh Bắc Giang, Bộ Khoa học và Công nghệ [12]. Trong bài viết này, tác giả
đã khái quát về Phật giáo Bắc Giang, và cho rằng, Bắc Giang là một trong những
trung tâm Phật giáo nổi tiếng thời kỳ Lý - Trần, là mảnh đất quan trọng trong
quá trình Phật giáo Đại Việt - từ kinh đô Thăng Long di chuyển và phát triển lên
phía Đông Bắc để từ đó sản sinh ra Phật giáo Trúc Lâm Yên Tử - một dòng thiền
nổi tiếng và mang nét đặc trưng Việt trong lịch sử văn hóa của dân tộc.
Đồng Ngọc Dưỡng (2016), “Vai trò của mộc bản chùa Vĩnh Nghiêm và
chùa Bổ Đà đối với việc hình thành hệ giá trị lịch sử, Phật giáo và văn hóa
Việt Nam”, Kỷ yếu Hội thảo Khoa học Giá trị các mặt của di sản mộc bản
chùa Vĩnh Nghiêm và chùa Bổ Đà tỉnh Bắc Giang, Bộ Khoa học và Công
nghệ [12]. Tác giả cũng khẳng định rằng, mộc bản chùa Vĩnh Nghiêm và chùa
Bổ Đà là những bản gỗ khắc chữ Hán, chữ Nôm và chữ Phạn. Bộ mộc bản
chùa Vĩnh Nghiêm chứa đựng giá trị về quá trình hình thành và phát triển của
Phật giáo Trúc Lâm Yên Tử và tư tưởng Phật giáo của thiền phái này thì bộ
kinh khắc ở chùa Bổ Đà chủ yếu nói về Quán Thế Âm Bồ Tát và các giới. Tác
giả cũng khẳng định vai trò của mộc bản chùa Vĩnh Nghiêm và chùa Bổ Đà
đối với việc hình thành hệ giá trị lịch sử Phật giáo Việt Nam.
Nguyễn Thị Quế Hương chủ nhiệm (2016), Giá trị mộc bản chùa Vĩnh
Nghiêm và chùa Bổ Đà, Đề tài cấp Nhà nước, Hà Nội [59]. Đây là đề tài cấp
Nhà nước do Viện Nghiên cứu tôn giáo chủ trì, công trình làm rõ hơn, sâu sắc
hơn các giá trị Phật giáo, lịch sử và văn hóa của kho mộc bản này, qua đó làm
17
rõ vị trí lịch sử, giá trị văn hóa của chùa Vĩnh Nghiêm và chùa Bổ Đà cũng
như làm rõ hơn truyền thống lịch sử, văn hóa của tỉnh Bắc Giang với tư cách
là một trung tâm Phật giáo trước đây. Đồng thời, thông qua việc nghiên cứu
một cách cơ bản và hệ thống đó, chúng ta có thể hiểu rõ hơn một số vấn đề về
sinh hoạt Phật giáo, tư tưởng triết học và đào tạo Tăng tài của Phật giáo Việt
Nam, nghề in truyền thống của người Việt, nghề chạm khắc truyền thống của
người Việt, nghề dược và y học... trong các giai đoạn trước đây nhằm đóng
góp những luận cứ khoa học xác đáng giúp cho các ban ngành chính quyền
các cấp đề ra được những giải pháp bảo tồn và phát huy những giá trị di sản
quý báu này trong giai đoạn hiện nay.
Nguyễn Văn Phong (2016), Nghiên cứu văn bia tỉnh Bắc Giang, Luận án
Tiến sĩ Ngữ văn, Học viện Khoa học xã hội, Hà Nội [80]. Qua các văn bia trên
thuộc các di tích bên sườn Tây Yên Tử tỉnh Bắc Giang, luận án đã đề cập và
cung cấp thêm tư liệu về lịch sử Phật giáo Trúc Lâm Yên Tử, đồng thời giúp cho
chúng ta có thêm cứ liệu để đánh giá các giá trị các văn bia thời Trần.
Mai Thị Thơm (2016), Văn hoá tư tưởng Phật giáo qua tư liệu văn bia
Lý - Trần, Luận án Tiến sĩ Hán Nôm, Trường Đại học Khoa học Xã hội và
Nhân văn, Hà Nội [116]. Trong luận án này, tác giả đã nghiên cứu các yếu tố
văn hoá tư tưởng Phật giáo Việt Nam thể hiện trong văn bia Lý - Trần tại các
chùa, tháp và một số văn bản kinh Pháp Nghiêm, kinh Hoa Nghiêm nhằm làm
rõ góc độ tôn giáo của Phật giáo. Phân tích yếu tố Nho - Phật - Đạo trong các
văn bia thời Lý - Trần nhằm ghi nhận thêm về hiện tượng tương quan Tam
giáo trong xã hội Việt Nam.
Nguyễn Quốc Tuấn (2016), “Giá trị lịch sử, văn hóa và tôn giáo của di
sản mộc bản chùa Vĩnh Nghiêm và chùa Bổ Đà tỉnh Bắc Giang”, Kỷ yếu Hội
thảo Khoa học: Giá trị di sản Mộc bản chùa Vĩnh Nghiêm và chùa Bổ Đà gắn
với phát triển bền vững, Bộ Khoa học và Công nghệ [12]. Trong bài viết này,
tác giả đã phác thảo những giá trị quan trọng của di sản Mộc bản chùa Vĩnh
18
Nghiêm và chùa Bổ Đà, trong đó tác giả nhấn mạnh đến giá trị lịch sử, văn
hóa và tôn giáo của kho Mộc bản hai ngôi chùa này. Bên cạnh đó, tác giả
cũng chỉ ra định hướng cho việc phát huy những giá trị đó trong đời sống xã
hội, tạo ra động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập quốc tế.
Đặng Ánh Tuyết (2016), Tư tưởng Thiền học đời Trần và giá trị của nó
đối với xã hội đương thời, Luận án Tiến sĩ Triết học, Học viện Khoa học xã
hội, Hà Nội [142]. Tác giả trình bày về tư tưởng thiền học đời Trần gồm:
phạm trù Tâm, tư tưởng giải thoát Tâm, tư tưởng về con đường giải thoát
Tâm. Giá trị của Thiền học đời Trần đối với xã hội đương thời gồm: giá trị tư
tưởng về Tâm trong quản lý xã hội, giá trị của tư tưởng giải thoát Tâm trong
xây dựng đạo đức xã hội, trong công cuộc chống giặc ngoại xâm.
Trung tâm Thông tin và Thống kê Khoa học và Công nghệ Bắc Giang
(2017), Bảo tồn, phát huy giá trị di sản mộc bản chùa Vĩnh Nghiêm, chùa Bổ
Đà, tỉnh Bắc Giang, Đề tài độc lập cấp Quốc gia, Bắc Giang [130]. Đề tài đã
cung cấp các luận cứ khoa học, cơ sở thực tiễn về việc bảo tồn phát huy giá trị
di sản mộc bản chùa Vĩnh Nghiêm gắn với sinh kế và phát triển du lịch bền
vững trên cơ sở đánh giá thực trạng và tiềm năng di sản, tiềm năng quản lý
của cộng đồng, khả năng tham dự của người dân và các bên liên quan trong
việc xây dựng, vận hành mô hình quản lý di sản tại cộng đồng, qua đó bảo tồn
di sản một cách hữu hiệu trong đời sống đương đại. Đề tài đã đánh giá được
hiện trạng di sản mộc bản chùa Vĩnh Nghiêm và chùa Bổ Đà từ góc độ quản
lý di sản và phát triển du lịch bền vững; đánh giá được tiềm năng phát triển
của di sản; đánh giá về mặt lý luận và thực tiễn quá trình phát triển du lịch
bền vững dựa trên tiềm năng di sản, đề xuất những nguyên tắc, cách tiếp cận
và phương pháp tiến hành.
Bảo tàng tỉnh Bắc Giang (2018), Di tích và danh thắng Tây Yên Tử,
Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội [9]. Cuốn sách đã lựa chọn 12 bài viết và những
hình ảnh đẹp giới thiệu về di tích, danh thắng tiêu biểu trong tổng số rất nhiều
19
di tích bên sườn Tây Yên Tử có tiềm năng khai thác phát triển du lịch trên địa
bàn tỉnh Bắc Giang.
Bên cạnh đó phải kể đến những bài tạp chí có nội dung liên quan đăng
trên các tạp chí chuyên ngành như: “Tinh thần nhập thế trong tư tưởng Phật
giáo của Trần Nhân Tông”, của Nguyễn Thị Toan, Tạp chí Khoa học xã hội
Việt Nam, số 9/2015 [123]; “Giá trị văn hóa của Phật giáo qua sáng tác văn
học của thiền sư thời Lý-Trần”, của Tăng Xuân Dẫn, Tạp chí Nghiên cứu Tôn
giáo, số 3/2015 [25]; “Về di sản mộc bản chùa Vĩnh Nghiêm”, của Trần
Trọng Dương, Tạp chí Di sản Văn hóa, số 4/2015 [33]; “Thực trạng mộc bản
chùa vĩnh nghiêm ở Bắc Giang và giá trị của nó”, của Nguyễn Văn Quý, Tạp
chí Nghiên cứu Tôn giáo, số 4/2016 [88].
1.1.3. Nhóm công trình nghiên cứu liên quan đến việc phát huy
những giá trị của Phật giáo thời Trần trên địa bàn tỉnh Bắc Giang
Bảo tàng tỉnh Bắc Giang (2011), “Bảo tồn và phát huy các giá trị di
sản văn hóa Lý - Trần tỉnh Bắc Giang”: Kỷ yếu Hội thảo Khoa học, Nhà xuất
bản Thông tấn, Hà Nội [7]. Các tác giả đã làm rõ các giá trị di sản văn hóa Lý
- Trần trên địa bàn Bắc Giang. Từ đó các tác giả cũng đưa ra những giải pháp
nhằm bảo tồn, khai thác và phát huy các giá trị văn hóa trong giai đoạn hiện
nay và các giai đoạn tiếp theo.
Ủy ban Nhân dân tỉnh Bắc Giang (2015), Xây dựng và phát triển sản
phẩm du lịch văn hóa, tâm linh - sinh thái vùng Yên Tử: Kỷ yếu Hội thảo
khoa học, Bắc Giang [161]. Trong các công trình nghiên cứu này, các tác giả
đều khẳng định vai trò và giá trị của các di tích Phật giáo thời Trần trên địa
bàn tỉnh Bắc Giang, mà gắn liền với đó là chùa Vĩnh Nghiêm, nơi lưu giữ
những giá trị văn hóa, lịch sử, mang đậm màu sắc Phật giáo thuộc Phật giáo
Trúc Lâm do vua Trần Nhân Tông sáng lập. Các tác giả trong công trình
nghiên cứu này đã đưa ra những giải pháp nhằm khai thác tiềm năng, thúc đẩy
phát triển du lịch, đưa du lịch trở thành nghành kinh tế quan trọng vào năm
20
2020. Bên cạnh đó, các tác giả cũng đã có những phân tích đến những khía
cạnh nhằm bảo tồn giá trị văn hóa, kiến trúc của các di tích Phật giáo thời
Trần trên địa bàn tỉnh Bắc Giang, gắn liền với việc quảng bá, phát triển du
lịch tâm linh Tây Yên Tử. Trong Hội thảo này, Vụ Lữ hành - Tổng cục Du
lịch đã đưa ra những định hướng, giải pháp nhằm phát triển du lịch, văn hóa
tâm linh của khu vực Tây Yên Tử. Các tác giả đều đồng tình khi đưa ra ý kiến
cho rằng cần có sự gắn kết, phục hồi Phật giáo Trúc Lâm Yên Tử, gắn liền
với các cụm di tích Trúc Lâm nằm trên địa bàn tỉnh Bắc Giang. Từ đó, việc
phát triển du lịch văn hóa tín ngưỡng Phật giáo Trúc Lâm cần gắn liền với
việc phát triển “ẩm thực Trúc Lâm”, đây được xem là nét đặc sắc nhằm làm
sống lại tinh thần văn hóa ẩm thực Trúc Lâm ở thế kỷ XIII, XIV.
Lê Quốc Lý, Nguyễn Thanh Tuấn, Dương Xuân Ngọc (2016), Khai
thác, phát huy mọi nguồn lực để phục vụ các chương trình phát triển kinh tế -
xã hội của tỉnh Bắc Giang giai đoạn 2016 - 2020, Kỷ yếu hội thảo khoa học,
Nhà xuất bản Lý luận Chính trị, Hà Nội [72]. Đây là công trình tập hợp bài
viết, bài tham luận có giá trị, góp phần giúp cho các cấp uỷ đảng, chính quyền
địa phương có cơ sở đề ra những chủ trương, chính sách phù hợp nhằm khai
thác và phát huy những tiềm năng, thế mạnh, cũng như những lợi thế so sánh
của tỉnh để thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội ở tỉnh Bắc Giang. Bên cạnh đó,
các tác giả cũng đặc biệt chú ý đến vấn đề phát triển du lịch tâm linh, vấn đề
bảo tồn và phát huy giá trị của các di sản Phật giáo trên địa bàn tỉnh Bắc
Giang, phải kể đến như chùa Vĩnh Nghiêm và Chùa Bổ Đà trong quá trình
phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Bắc Giang.
Nguyễn Văn Đáp (2016), “Giá trị văn hoá khảo cổ học tây Yên Tử và
một vài định hướng bảo tồn, tôn tạo, phát huy giá trị”, Tạp chí Khảo cổ học,
số 1 [39]. Trong công trình nghiên cứu này, tác giả đã đưa ra những phân tích
về những giá trị khảo cổ học nói chung và đã đề cập đến một số vấn đề của
Phật giáo Trúc Lâm trên địa bàn tỉnh Bắc Giang. Trên cơ sở đó, tác giả đã đưa
21
ra một số định hướng nhằm phát huy những giá trị và bảo tồn những giá trị đó
trong quá trình hội nhập và phát triển đất nước.
Hoàng Thị Hoa (2016), Bảo tồn di sản văn hoá khu vực Tây Yên Tử
gắn với phát triển du lịch, Luận án Tiến sĩ Văn hóa học, Hà Nội [56]. Trong
công trình nghiên cứu này, tác giả đã có những phân tích về thực trạng của
khu vực Tây Yên Tử, từ đó đưa ra những định hướng, giải pháp nhằm bảo tồn
di sản văn hóa khu vực Tây Yên Tử gắn với phát triển du lịch. Bên cạnh đó,
tác giả cũng có những phân tích, đề cập đến vấn đề bảo tồn, phát huy những
giá trị của di sản chùa Vĩnh Nghiêm trong dòng chảy của Phật giáo Trúc Lâm
gắn với khu vực Tây Yên Tử.
1.1.4. Các vấn đề đã được nghiên cứu và các vấn đề cần tiếp tục
nghiên cứu
Thứ nhất, các công trình nghiên cứu tập trung vào việc nghiên cứu quá
trình hình thành và phát triển của Phật giáo Trúc Lâm thời Trần nói chung
theo tiến trình lịch sử. Việc phân tích những bước phát triển, những thăng
trầm trong lịch sử Phật giáo Trúc Lâm thời Trần góp phần quan trọng trong
việc nhìn nhận vai trò của Phật giáo thời Trần trong đời sống xã hội lúc bấy
giờ. Một số công trình cũng đã đề cập Phật giáo Trúc Lâm thời Trần trên địa
bàn tỉnh Bắc Giang và những khía cạnh khác nhau của các giá trị của Phật
giáo Trúc Lâm thời Trần ở Bắc Giang như giá trị mộc bản, giá trị đạo đức,
nghệ thuật Phật giáo…
Hơn nữa, các công trình còn tập trung vào việc phân tích, làm rõ những
vấn đề trong quá trình hình thành và phát triển của Phật giáo Trúc Lâm nói
chung và Phật giáo Trúc Lâm trên địa bàn tỉnh Bắc Giang nói riêng. Những văn
hóa Phật giáo đan xen trong đời sống tinh thần của nhân dân, những giá trị đạo
đức truyền thống đan quyện với những giá trị Phật giáo đã làm thay đổi nhận
thức, suy nghĩ của nhân dân tỉnh Bắc Giang trong suốt tiến trình lịch sử và tạo
điều kiện để Phật giáo Trúc Lâm bám rễ trong đời sống tinh thần của nhân.
22
Thứ hai, giá trị của Phật giáo thời Trần nói chung và Phật giáo Trúc
Lâm thời Trần trên địa bàn tỉnh Bắc Giang nói riêng được tiếp cận trên nhiều
khía cạnh từ triết học, lịch sử, văn hóa học, tôn giáo học, chính trị học, kiến
trúc, hán nôm… Khi đánh giá về giá trị của Phật giáo Trúc Lâm thời Trần nói
chung và Phật giáo Trúc Lâm thời Trần trên địa bàn tỉnh Bắc Giang nói riêng,
đa phần các tác giả đã đồng tình với quan điểm cần nhìn nhận những giá trị
của Phật giáo trên các phương diện như: giá trị lịch sử, giá trị tư tưởng, giá trị
kiến trúc nghệ thuật, giá trị văn học, giá trị kinh tế, xã hội. Khi bàn về những
giá trị đạo đức của Phật giáo thời Trần và ảnh hưởng của nó tới lối sống của
người dân, các công trình đều nhấn mạnh đến những giá trị tích cực như từ bi,
hỷ xả, vô ngã, vị tha, hướng thiện, tránh ác, sống có hoài bão, có lý tưởng,
niềm tin vào tương lai tươi sáng của dân tộc, sống trong sạch, giản dị, lành
mạnh, biết vươn tới các giá trị chân, thiện, mỹ theo đúng giáo lý của nhà Phật.
Những vấn đề về thế giới quan, nhân sinh quan Phật giáo cũng như việc
truyền bá tư tưởng, nội dung tinh thần Phật giáo Trúc Lâm trên địa bàn tỉnh
Bắc Giang, hình thành những giá trị đạo đức, hành vi của đại bộ phận nhân
dân là biểu hiện rõ nét của quá trình giáo dục con người. Do đó, các tác giả
đều nhận thấy vai trò của Phật giáo Trúc Lâm trên địa bàn tỉnh Bắc Giang
trong quá trình hình thành nhân cách, tình cảm đạo đức cũng như lối sống của
nhân dân trong điều kiện cả nước đang trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Hơn thế nữa, việc phát huy những giá trị văn hóa, tiềm năng du lịch tâm linh trên
địa bàn tỉnh Bắc Giang gắn liền với Phật giáo Trúc Lâm thời Trần cũng là một
trong những điểm sáng được các nhà nghiên cứu, quản lý quan tâm.
Thứ ba, nhiều công trình đã đề cập đến chủ trương, chính sách của
Đảng và Nhà nước Việt Nam về việc phát huy những giá trị tích cực, hạn chế
mặt tiêu cực của tôn giáo nói chung, của Phật giáo nói riêng. Các tác giả đều
cho rằng, để phát huy những giá trị tích cực, hạn chế mặt tiêu cực của tôn giáo
cần đảm bảo phát triển đồng bộ giữa kinh tế và văn hóa, đạo đức; kết hợp
23
giữa giáo dục truyền thống và hiện đại trong xây dựng con người mới. Việc
phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực của tôn giáo nói chung, của Phật
giáo nói riêng chỉ thực sự có hiệu quả khi có sự sự chủ động, tích cực từ cả
hai phía: từ hệ thống chính trị và từ phía Giáo hội các tôn giáo nói chung,
Giáo hội Phật giáo nói triêng.
Thứ tư, đã có một số công trình đề cập đến Phật giáo thời Trần nói
chung và giá trị của Phật giáo Trúc Lâm thời Trần trên địa bàn tỉnh Bắc Giang
nói riêng, nhưng hầu hết các công trình này mới chỉ đề cập đến những khía
cạnh riêng lẻ của những giá trị của Phật giáo thời Trần mà chưa có cái nhìn
tổng thể và toàn diện về những giá trị đó, cũng như chưa có được những giải
pháp toàn diện để phát huy những giá trị Phật giáo thời Trần phục vụ cho quá
trình phát triển kinh tế - xã hội của địa phương.
Do đó, NCS đã chọn đề tài: “Giá trị của Phật giáo Trúc Lâm thời Trần
ở Bắc Giang” làm luận án Tiến sĩ Tôn giáo học. Trong luận án, nhằm góp
phần luận chứng về mặt lý luận về quá trình hình thành và phát triển cũng như
đánh giá những giá trị của Phật giáo Trúc Lâm thời Trần trên địa bàn tỉnh Bắc
Giang hiện nay, từ đó đưa ra những đề xuất những giải pháp phát huy những
giá trị của Phật giáo Trúc Lâm thời Trần trên địa bàn tỉnh Bắc Giang hiện nay.
Luận án tiếp tục triển khai theo hướng:
Thứ nhất, trên cơ sở những vấn đề lý luận cơ bản về quá trình hình
thành và phát triển của Phật giáo Trúc Lâm nói chung, NCS làm sáng tỏ quá
trình hình thành và phát triển của Phật giáo Trúc Lâm trên địa bàn tỉnh Bắc
Giang nói riêng. Từ đó, chỉ ra dấu ấn của Phật giáo Trúc Lâm thời Trần trên
địa bàn tỉnh Bắc Giang và các giá trị của Phật giáo Trúc Lâm thời Trần như: giá
trị tôn giáo, giá trị văn hóa, giá trị lịch sử. Bên cạnh đó, NCS khảo sát người
dân và tín đồ của Phật giáo Trúc Lâm ở Bắc Giang, để từ đó làm rõ những ảnh
hưởng của Phật giáo Trúc Lâm ở Bắc Giang.
24
Thứ hai, nhìn nhận tầm quan trọng của việc phát huy giá trị Phật giáo
trên địa bàn tỉnh Bắc Giang, trên cơ sở quá trình hình thành và phát triển của
Phật giáo Trúc Lâm và các giá trị của của Phật giáo Trúc Lâm thời Trần ở
Bắc Giang, với mong muốn tìm ra những giải pháp hiệu quả nhất nhằm phát
1.2. KHUNG LÝ THUYẾT NGHIÊN CỨU
huy những giá trị của Phật giáo Trúc Lâm ở Bắc Giang.
1.2.1. Câu hỏi nghiên cứu
Để giải quyết triệt để mục tiêu nghiên cứu, đó là nhìn nhận, đánh giá
các giá trị của Phật giáo Trúc Lâm thời Trần trên đia bàn tỉnh Bắc Giang, đề tài
cần trả lời được những nhóm câu hỏi có liên quan theo trình tự, logic như sau:
Thứ nhất, Phật giáo Trúc Lâm thời Trần được hình thành và phát triển
trên địa bàn tỉnh Bắc Giang đến hiện nay như thế nào? Dấu ấn của Phật giáo
Trúc Lâm thời Trần ở Bắc Giang có những gì nổi bật?
Thứ hai, Phật giáo Trúc Lâm thời Trần trên địa bàn tỉnh Bắc Giang có các
giá trị gì? Các giá trị đó có ảnh hưởng như thế nào đến người dân ở đây?
Thứ ba, chính quyền TW và tỉnh Bắc Giang đã làm gì để bảo tồn và
phát huy những giá trị của Phật giáo Trúc Lâm thời Trần? Những kết quả trong
việc phát huy, gìn giữ những giá trị đó? Cần có những giải pháp như thế nào
nhằm phát huy những thành tựu đã đạt được và khắc phục những hạn chế đó?
1.2.2. Lý thuyết nghiên cứu
Lý thuyết địa - tôn giáo: là sự kết hợp nghiên cứu vị trí địa lý với
nghiên cứu tôn giáo và mối quan hệ qua lại của các tôn giáo khu vực và
tôn giáo toàn cầu. Lý thuyết nghiên cứu sự phân bố và biến chuyển của tôn
giáo trong các thời kỳ lịch sử khác nhau trên các khu vực địa lý, sự phản ánh
và khúc xạ diện mạo tôn giáo ở những khu vực địa lý khác nhau, tình trạng di
chuyển của các quần thể tôn giáo,… Trong luận án, tác giả sử dụng lý thuyết
này để nghiên cứu sự phân bố của Phật giáo Trúc Lâm khu vực Tây Yên Tử
tỉnh Bắc Giang, mối quan hệ qua lại của Phật giáo Trúc Lâm Bắc Giang so
25
với khu vực Quảng Ninh, Hải Dương…, đồng thời làm rõ quá trình hình
thành và phát triển, xác định rõ vị trí của Phật giáo Trúc Lâm thời Trần trên
địa bàn tỉnh Bắc Giang.
Lý thuyết địa tôn giáo Quá trình hình thành và phát triển của Phật giáo Trúc lâm thời Trần ở Bắc Giang
Lý thuyết vùng văn hóa Dấu ấn của Phật giáo Trúc lâm thời Trần ở Bắc Giang
Lý thuyết giá trị
Giá trị của Phật giáo Trúc lâm thời Trần ở Bắc Giang
Lý thuyết chức năng
Giải pháp và Khuyến nghị phát huy các giá trị của Phật giáo Trúc lâm thời Trần ở Bắc Giang
Sơ đồ 1.1: Sơ đồ hóa lý thuyết nghiên cứu
Lý thuyết vùng văn hóa: Nhận thức về vùng văn hóa liên quan trực tiếp tới
việc chỉ ra những đặc trưng của vùng làm cơ sở định ra hệ tiêu chí phân vùng,
xác định các cấp bậc phân vùng và ranh giới của vùng. Đặc trưng văn hóa vùng
đồng thời là hệ tiêu chí quan trọng nhất để phân vùng văn hóa. Những biểu hiện
của vùng văn hóa mang tính đa vẻ, thể hiện trên toàn bộ các mặt của đời sống
văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần. Trong đó, đặc trưng hơn cả là lối sống,
nếp sống như: nếp làm, nếp ăn mặc, đi lại, giao tiếp, vui chơi, giải trí, phong tục,
lễ nghi, tín ngưỡng, lễ hội, qua các hoạt động văn hóa, nghệ thuật...
Có thể nhận thấy, để xác định một vùng văn hóa cần có một hệ tiêu chí,
cụ thể: Có vị trí địa lý liên tục, liền khoảnh, Có tính tương đồng về môi
26
trường, cảnh quan sinh thái, Cộng đồng dân cư có tính thống nhất cao, có quá
trình tụ cư sớm, phát triển liên tục trong lịch sử, Có sự tập hợp đầy đủ các yếu
tố về lịch sử - văn hóa và chúng có những giá trị đặc trưng, gắn bó hữu cơ với
nhau, thể hiện rõ hơn cả là trong văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần. Hệ
tiêu chí được xem là công cụ quan trọng trong xác định vùng văn hóa.
Luận án sử dụng lý thuyết vùng văn hóa làm rõ những dấu ấn của Phật
giáo Trúc Lâm ở Bắc Giang so với Quảng Ninh và Hải Dương, nhận diện
vùng văn hóa chính xác, góp phần chỉ ra các giá trị văn hóa của Phật giáo
Trúc Lâm thời Trần ở Bắc Giang.
Lý thuyết giá trị: Giá trị có nhiều loại: giá trị chung, giá trị riêng, giá trị
vật chất, giá trị tinh thần, giá trị thẩm mỹ, giá trị đạo đức, giá trị tôn giáo, giá
trị giáo dục, giá trị phổ quát, giá trị quốc gia, giá trị khu vực, v.v... Cho nên,
nhận diện giá trị là một vấn đề phức tạp, hiện vẫn còn nhiều quan điểm khác
nhau trong các nghiên cứu ở Việt Nam. Chẳng hạn, có quan điểm cho rằng,
giá trị vật lý thì hữu hạn, còn giá trị xã hội là vô hạn [68]. Trong khi đó, có
quan điểm lại cho rằng, mọi giá trị đều là giá trị xã hội, hay giá trị mang tính
xã hội [99, tr.62].
Đề cập đến giá trị tôn giáo hầu như chưa có công trình nào chỉ ra sự hình
thành giá trị tôn giáo; giá trị tôn giáo là những giá trị cụ thể hay là sự tổng hòa
của các giá trị cụ thể thành một giá trị chung. Trong Đề tài cấp Nhà nước
Phát huy giá trị đạo đức của tôn giáo nhằm xây dựng và nâng cao đạo đức,
lối sống con người Việt Nam hiện nay, TS. Nguyễn Quốc Tuấn cho rằng: “Giá
trị tôn giáo, với tư cách kép: vừa là giá trị tự thân, vừa là giá trị phổ quát, do
đó là một trong những nhân tố quan trọng vừa tạo ra, vừa hấp thụ và phát
triển hệ giá trị chung của xã hội, trong đó đặc biệt các (tiểu) hệ giá trị: chân
thực, luân lý và đạo đức, thẩm mỹ, tư tưởng, truyền thống” [140].
Nhìn một cách tổng quát thì giá trị tôn giáo là các nguyên lý, chuẩn mực
định hướng và cung cấp ý nghĩa cuối cùng nhằm giải đáp các nhu cầu và lợi
27
ích cơ bản của cuộc sống con người/ tín đồ xuất phát từ chân lý mà tôn giáo
tuyên bố sở hữu. Sự khái quát này dĩ nhiên không thể thay thế sự xem xét của
nhà nghiên cứu về nội dung giá trị tôn giáo, đặc trưng và điều kiện mà chúng
được áp dụng trong thực tế [140, tr.35-48].
Phật giáo Trúc Lâm thời Trần ở Bắc Giang để lại rất nhiều giá trị, nhưng
trong luận án tác giả khảo cứu trên 3 giá trị nổi bất đó là: giá trị tôn giáo, giá
trị lịch sử, giá trị văn hóa, trên trên cơ sở đó làm rõ được những ảnh hưởng
của các giá trị đó đối với đời sống kinh tế - xã hội ở tỉnh Bắc Giang, từ đó có
thể đưa ra được những khuyến nghị giải pháp với chính quyền để phát huy
những giá trị nổi bật đó.
Lý thuyết chức năng: Từ cuối thế kỷ XIX, lý thuyết chức năng ra đời gắn
liền với tên tuổi của nhà xã hội học danh tiếng người Pháp là E. Durkheim
(1858-1917). Durkheim đặc biệt nhấn mạnh đến yếu tố thiêng và thực hành
cái thiêng trong các tôn giáo. Ông cho rằng tôn giáo là một hình thức tổ chức
và thể chế hóa của cái thiêng. Theo ông, sự tồn tại của tôn giáo trong xã hội
chứng tỏ nó có chức năng xã hội và đưa ra những chức năng xã hội đặc thù
của tôn giáo. Durkheim đã đưa ra 4 chức năng xã hội đặc thù của tôn giáo: kỷ
luật, gắn kết, sinh lực và là nguồn lực tạo sự hưng phấn.
Thông qua việc thực hành nghi lễ tôn giáo con người tiếp nhận các
giá trị, chuẩn mực xã hội một cách từ giác từ những điều răn dạy, cấm
kị… và trở thành con người xã hội - tạo thành một xã hội có kỷ luật.
Tham gia vào những nghi lễ thờ cúng của tôn giáo, những người có cùng
niềm tin đã tạo dựng nên một cộng đồng đạo đức để củng cố mối gắn kết
xã hội. Chính điều này, tạo nên cảm giác các cùng thuộc về một nhóm của
những con người xa lạ bởi họ có chung niềm tin và ý niệm giống nhau về
thế giới thiêng. Tôn giáo còn có chức năng tạo nguồn sinh lực bằng duy
trì và khôi phục lại các di sản của xã hội và truyền tải lại cho các thế hệ
mai sau. Cuối cùng, chức năng nguồn lực tạo sự hưng phấn của tôn giáo
28
được thể hiện thông qua việc chống lại cảm giác thất vọng, mất niềm tin,
củng cố niềm tin vào đạo đức tôn giáo… của cá nhân.
Luận án vận dụng Lý thuyết chức năng vào nghiên cứu các giá trị của
Phật giáo Trúc Lâm thời Trần ở Bắc Giang, từ đó đưa ra các giải pháp để phát
huy các giá trị đó.
1.2.3. Giả thuyết nghiên cứu
- Phật giáo Trúc Lâm thời Trần là một trong những yếu tố quan trọng
của xã hội Đại Việt, phát triển hưng thịnh và có nhiều đóng góp cho quá trình
ổn định xã hội và phát triển đất nước. Phật giáo Trúc Lâm thời Trần là di sản
quý giá của dân tộc Việt Nam còn tồn tại cho đến ngày nay.
- Trên địa bàn tỉnh Bắc Giang, Phật giáo Trúc Lâm thời Trần có sức
sống bền bỉ, lâu dài và đã có những đóng góp quan trọng trong đời sống xã
hội trên nhiều phương diện.
- Hiện nay, Phật giáo Trúc Lâm thời Trần trên địa bàn tỉnh Bắc Giang
vẫn có những giá trị cơ bản như giá trị tôn giáo, giá trị văn hóa, giá trị lịch sử.
Những giá trị đó có thể góp phần vào việc phát triển văn hóa, kinh tế - xã hội
1.3. MỘT SỐ KHÁI NIỆM SỬ DỤNG TRONG LUẬN ÁN
của tỉnh Bắc Giang nói riêng và của cả nước nói chung.
1.3.1. Giá trị
Cho đến nay, có nhiều khái niệm khác nhau về giá trị.
Theo nhà nhân loại học văn hóa người Mỹ - Clyde Kluckhohn, giá trị là
“Một quan niệm đặc biệt, thầm kín hay bộc lộ về những điều ao ước riêng của
một cá nhân hay của nhóm. Những quan niệm ấy chi phối sự lựa chọn các
phương thức, phương tiện và mục tiêu của hành động”[44].
Còn theo Từ điển Triết học (Liên Xô), “Giá trị nói lên ý nghĩa về mặt xã
hội của các khách thể trong thế giới xung quanh, nhằm nêu bật tác dụng tích
cực hoặc tiêu cực của các khách thể ấy đối với con người và xã hội (lợi, thiện
29
và ác, cái đẹp và cái xấu nằm trong những hiện tượng của đời sống xã hội
hoặc của tự nhiên). Xét bề ngoài, các giá trị là các đặc tính của sự vật hoặc
hiện tượng.” [143, tr.206].
Quan niệm về giá trị của một số học giả Việt Nam: “Bất cứ sự vật nào
cũng có thể được xem là có giá trị, dù là vật thể hay tư tưởng, miễn là nó được
người ta thừa nhận, người ta cần đến nó như một nhu cầu, hoặc cấp cho nó
một vị trí quan trọng trong đời sống của họ. Trong mọi giá trị đều chứa đựng
yếu tố nhận thức, yếu tố tình cảm và yếu tố hành vi của chủ thể trong mối
quan hệ với sự vật, hiện tượng mang giá trị, thể hiện sự lựa chọn và đánh giá
của chủ thể” [156].
Theo GS. Trần Ngọc Thêm: “Giá trị là tính chất của khách thể, được
chủ thể đánh giá là tích cực xét trong so sánh với các khách thể khác cùng loại
trong một bối cảnh không gian - thời gian cụ thể”[108, tr.39].
Từ các định nghĩa của các tác giả nói trên, NCS đồng tình cao với quan
niệm cho rằng: Giá trị là những gì mang ý nghĩa tích cực, gắn với cái tốt, cái
đúng, cái đẹp và được con người thừa nhận và xem nó là nhu cầu hoặc có một
vị trí quan trọng trong đời sống của mình, góp phần vào sự phát triển xã hội.
Trong luận án này, NCS khảo cứu ba giá trị nổi bật của Phật giáo Trúc
Lâm thời Trần ở tỉnh Bắc Giang: giá trị tôn giáo, giá trị văn hóa, giá trị lịch
sử. Lý do NCS chọn ba giá trị này là vì đây là những giá trị cơ bản nổi bật của
Phật giáo Trúc Lâm thời Trần có thể nhận diện, nghiên cứu phù hợp với địa
bàn tỉnh Bắc Giang hiện nay. Những giá trị này có thể góp phần vào việc phát
triển đời sống văn hóa, kinh tế - xã hội của tỉnh Bắc Giang nói riêng và của cả
nước nói chung.
1.3.2. Giá trị tôn giáo
Xét một cách tổng quát, “Giá trị tôn giáo được cấu thành bởi các chuẩn
mực đạo đức, chuẩn mực thẩm mỹ, chuẩn mực tư duy (ý thức hệ), thể hiện
30
qua ba trục của thực thể tôn giáo: 1) niềm tin tôn giáo, 2) thực hành tôn giáo
và 3) sự thừa nhận chung của cộng đồng tín đồ” [140, tr.35-48].
Theo PGS. TS. Chu Văn Tuấn, trong bài Giá trị tôn giáo nhìn từ phương
diện triết học cho rằng: “Tôn giáo có những chức năng và thuộc tính gì, thì
những chức năng và thuộc tính đó là nền tảng hình thành giá trị tôn giáo.
Chẳng hạn, từ những chức năng và thuộc tính đã nêu, tôn giáo có giá trị nhận
thức, giá trị giáo dục, giá trị thế giới quan, giá trị liên kết xã hội, giá trị bù
đắp, giá trị đạo đức, giá trị văn hóa, v.v...” [138, tr.36-37]
Theo quan điểm của NCS, Phật giáo Trúc Lâm thời Trần phát triển rực rỡ
và mang giá trị tôn giáo. Giá trị tôn giáo của Phật giáo Trúc Lâm thời Trần
được thể hiện qua sự dung hợp giữa các thiền phái với pháp tu Phật giáo và
giữa Phật giáo với tín ngưỡng dân gian, khẳng định giá trị tông phái, hệ phái
của Phật giáo Việt Nam. Bằng những quy chuẩn đạo đức, tư tưởng, giáo lý,
cách thức tu hành gắn bó với đời sống an vui hạnh phúc của dân tộc, thỏa mãn
nhu cầu của người dân, tạo điều kiện cho Phật giáo Việt Nam phát triển rực rỡ
trên nhiều phương diện... Qua những đóng góp của Phật giáo Trúc Lâm cho Phật
giáo Việt Nam có thể nhận thấy Phật giáo Trúc Lâm mang giá trị tôn giáo.
Trong luận án NCS khảo cứu giá trị tôn giáo của Phật giáo Trúc Lâm
thời Trần ở Bắc Giang trên 3 nội dung sau: Giá trị tông phái, hệ phái; Giá trị
tư tưởng, đạo đức; Giá trị phương pháp tu tập.
1.3.3. Giá trị văn hóa
Giá trị văn hóa gồm tất cả các loại giá trị đạo đức, giá trị văn học, nghệ
thuật… Hai tác giả Mai Văn Hai và Mai Kiệm quan niệm: “Giá trị văn hóa là
toàn thể những thành tựu sáng tạo, trong đó bao gồm các phát minh khoa học,
các tác phẩm nghệ thuật, các công trình kiến trúc xuất sắc,… mà con người đã
sáng tạo được” [46].
GS. Ngô Đức Thịnh quan niệm: “Giá trị văn hóa (cultural value) là yếu
tố cốt lõi của văn hóa, nó được sáng tạo và kết tinh trong quá trình lịch sử của
mỗi cộng đồng, tương ứng với môi trường tự nhiên và xã hội nhất định” [46].
31
Theo NCS, giá trị văn hóa là những sáng tạo của con người trong tiến
trình lịch sử được cộng đồng xã hội đó chấp nhận và trở thành mục tiêu con
người trong xã hội hướng tới. Theo đó giá trị văn hóa bao gồm 2 loại:
- Giá trị văn hóa vật thể bao gồm di tích lịch sử văn hóa, danh lam
thắng cảnh, di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia…
- Giá trị văn hóa phi vật thể bao gồm tác phẩm văn học, nghệ thuật, lễ
hội, lối sống, nếp sống, đạo đức, nghề thủ công, trang phục truyền thống dân
tộc, diễn xướng dân gian và những tri thức dân gian khác…
Trong luận án, giá trị văn hóa của Phật giáo Trúc Lâm thời Trần ở Bắc
Giang được NCS khảo cứu trên 2 phương diện đó là: 1. Giá trị văn hóa vật thể
gồm: Hệ thống di tích, văn bia, văn tự. 2. Giá trị văn hóa phi vật thể gồm: Văn
học thiền, các lễ hội Phật giáo Trúc Lâm. Có thể thấy giá trị tư tưởng, đạo đức
là một trong những giá trị văn hóa phi vật thể mà Phật giáo Trúc Lâm đóng
góp lớn cho PGVN, văn hóa Việt Nam nhưng NCS đã đưa nội dung đó vào
giá trị tôn giáo nên ở phần giá trị văn hóa phi vật thể, luận án chỉ tập trung
vào một số nội dung như đề cập ở trên.
1.3.4. Giá trị lịch sử
Lịch sử là những sự kiện đã diễn ra trong quá khứ, bao gồm nhiều lĩnh
vực như lịch sử dân tộc và nhà nước, lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ
nước, lịch sử phát triển kinh tế, văn hóa, tín ngưỡng, tôn giáo, phong tục, tập
quán v.v… không thể thay đổi được, cố định trong không gian và thời gian,
mang tính chất tuyệt đối và khách quan.
Theo PGS. TS. Võ Quang Trọng: Giá trị lịch sử là chứng nhân của
những sáng tạo bản địa từ thời cổ xưa; chứng tích của những sự kiện, hiện
tượng lịch sử ở những thời đã qua; là kho sử liệu vô giá; những bài học quý
báu trong chính sách đối nội, đối ngoại, cũng như đường lối văn hóa… của
nước nhà [128].
32
Theo quan điểm của NCS, Phật giáo Trúc Lâm thời Trần mang giá trị
lịch sử, góp phần tạo ra những trang sử vẻ vang thời Trần. Giá trị lịch sử của
Phật giáo Trúc Lâm thời Trần là bài học quý góp phần xây dựng giáo hội Phật
giáo độc lập, thống nhất, mang tinh thần nhập thế trong các chính sách đối
nội, đối ngoại của đất nước từ thời Trần đến hiện nay, đồng thời là điểm tựa
tinh thần, góp phần đoàn kết cộng đồng, phát huy tinh thần yêu nước, truyền
thống văn hóa cách mạng, đẩy mạnh phát triển kinh tế xã hội.
Trong luận án, NCS trình bày giá trị lịch sử của Phật giáo Trúc Lâm thể
hiện như sau: Phật giáo Trúc Lâm thời Trần tại Bắc Giang là một bộ phận của
Phật giáo Trúc Lâm thời Trần duy trì chuyển tải tư tưởng của Phật giáo Trúc
Lâm, và là trụ sở trung ương giáo hội Trúc Lâm thời Trần, đồng thời góp
phần xây dựng giáo hội Phật giáo Việt Nam độc lập, thống nhất mang tinh
thần nhập thế qua những sự kiện, hiện tượng lịch sử chống giặc ngoại xâm,
việc vận dụng tinh thần nhập thế vào đời sống xã hội.
1.3.5. Phật giáo Trúc Lâm: do vua Trần Nhân Tông sáng lập trên cơ
sở tổng hợp ba thiền phái trước đó: Tì ni đa lưu chi, Vô Ngôn Thông, Thảo
Đường, cũng là sự tổng hợp của pháp tu Thiền, pháp tu Tịnh, pháp tu Mật.
Dưới góc nhìn của một tôn giáo: Phật giáo Trúc Lâm là sự tổng hợp của Phật
giáo, Nho giáo, Đạo giáo và tín ngưỡng dân gian.
Theo Nguyễn Lang, trong Việt Nam Phật giáo sử luận đã viết:
“Phật giáo Trúc Lâm là một nền Phật giáo độc lập, uy tín tinh thần
của nó là uy tín tinh thần quốc gia Đại Việt. Nó là xương sống của
một nền văn hóa Việt Nam độc lập. Nền Phật giáo này tuy có tiếp
nhận những ảnh hưởng của Phật giáo Trung Hoa, Ấn Độ và Tây
Tạng nhưng vẫn giữ cá tính đặc biệt của mình”[65, tr.482].
Trong luận án này NCS sử dụng cụm từ Phật giáo Trúc Lâm thay cho
cụm từ Thiền phái Trúc Lâm của nhiều tác tác giả đi trước thường chỉ một chi
phái Thiền. Những tác giả đi trước có sử dụng cụm từ “Thiền phái Trúc Lâm”
33
ở tiêu đề các công trình, NCS khi trích dẫn trong luận án vẫn phải giữ cách
gọi này theo nguyên văn của tác giả.
1.3.6. Phật giáo Trúc Lâm thời Trần: là Phật giáo Trúc Lâm do vua
Trần Nhân Tông sáng lập và được Nhị tổ Pháp Loa, Tam tổ Huyền Quang và
các thiền sư kế thừa và phát triển ở thời Trần tạo nên một tông phái mang bản
sắc riêng của dân tộc Việt Nam, với phương thức tu Thiền - giáo song hành,
tư tưởng “Phật tại tâm”, tinh thần nhập thế tích cực, gắn đạo với đời.
1.3.7. Tây Yên Tử: là địa phận nằm ở phía Tây dãy núi Yên Tử, trải dài
qua 4 huyện: Sơn Động, Lục Ngạn, Lục Nam và Yên Dũng của tỉnh Bắc Giang.
1.3.8. Cơ sở thờ tự của Phật giáo Trúc Lâm ở Bắc Giang: bao gồm
các ngôi chùa cổ có nguồn gốc từ thời Lý-Trần ở phía Tây Yên Tử tỉnh Bắc
Giang do các thiền sư của Phật giáo Trúc Lâm trùng tu, xây dựng, là nơi diễn
ra các hoạt động của Phật giáo Trúc Lâm và các ngôi chùa, thiền viện đã được
trùng tu, xây dựng mới ở các giai đoạn về sau tại Bắc Giang có các hoạt động
tu tập theo Phật giáo Trúc Lâm.
1.3.9. Tăng, ni và Phật tử Phật giáo Trúc Lâm ở Bắc Giang: bao
gồm những tu sĩ Phật giáo đã xuất gia và Phật tử tại gia đang tu tập tại các cơ
sở thờ tự của Phật giáo Trúc Lâm ở Bắc Giang.
Theo khảo sát của NCS tại các cơ sở thờ tự của Phật giáo Trúc Lâm ở
Bắc Giang, qua quá trình phỏng vấn thì những tăng, ni và Phật tử tu tập tại
các cơ cở này đều cho rằng chính bản thân họ theo Phật giáo Trúc Lâm. Vì
vậy nội hàm khái niệm “Tăng, ni và Phật tử Phật giáo Trúc Lâm ở Bắc
Giang” trong luận án có thể được hiểu là những đối tượng này, còn việc họ có
giữ được nét đặc trưng của Phật giáo Trúc Lâm hoặc có tu tập thường xuyên
theo Phật giáo Trúc Lâm nữa hay không, đây là vấn đề sẽ được khảo sát, đánh
giá trong luận án.
1.3.10. Lễ hội của Phật giáo Trúc Lâm ở Bắc Giang: là các lễ hội
được tổ chức tại các cơ sở thờ tự của Phật giáo Trúc Lâm ở Bắc Giang, có thể
34
do nhà chùa tự tổ chức hoặc phối hợp với chính quyền địa phương tổ chức
theo đúng ngày lễ truyền thống hằng năm.
Một số đặc trưng nổi bật của Lễ hội Phật giáo Trúc Lâm ở Bắc Giang:
- Thường được tổ chức tại các cơ sở thờ tự gắn liền với lịch sử hình
thành, phát triển của Phật giáo Trúc Lâm và ba vị Tam tổ Trúc Lâm.
- Có lễ rước tượng Tam tổ Trúc Lâm.
- Có lễ cầu quốc thái dân an.
- Có các hoạt động ôn lại lịch sử về con đường hoằng dương phật pháp
1.4. KHÁI QUÁT ĐỊA BÀN NGHIÊN CỨU
của vua Trần Nhân Tông.
Tỉnh Bắc Giang thời tiền sử, sơ sử là vùng đất cổ, nằm ở phía Đông
Bắc Việt Nam. Tuy chưa tìm được di cốt con người cổ đại ở đây, nhưng khá
nhiều công cụ đá do con người chế tác đã được tìm thấy ở tỉnh Bắc Giang.
Những công cụ này nằm rải rác ở nhiều nơi như Bo Non - Bố Hạ (Yên Thế),
Mai Sưu (Lục Nam), Chũ (Lục Ngạn), Khe Táu (Sơn Động). Qua các đợt
khảo cổ học tại khu vực Chũ huyện Lục Ngạn, phát hiện hơn 20 hòn đá cuội
có vết gia công, ghè đẽo của con người trên phía Đông của đồi Non Trúc.
Ngoài ra ở cầu Cát, Minh Khai, hàng chục công cụ đá có dấu vết chế tác cũng
được phát hiện. Tại huyện Sơn Động, đã phát hiện thêm hai địa điểm có chứa
công cụ đá đó là Khe Táu, xã Yên Định 12 hiện vật, thị trấn An Châu 4 hiện
vật. Đây là bộ sưu tập đá được coi là công cụ đá đầu tiên được tìm thấy và
phát hiện trên đất Bắc Giang. Tất cả các công cụ này đều được chế tác từ một
chất liệu đá cuội, có sẵn tại các triền sông thuộc lưu vực sông Thương và sông
Lục Nam. Tuy không tìm thấy tầng văn hóa, nhưng có thể khẳng định chắc
chắn rằng đây là những công cụ của con người thời cổ đại để lại, có loại hình
và kỹ thuật khá điển hình của công cụ thời kỳ đá cũ, tương đương và cùng
tính chất với văn hóa Sơn Vi.
Về quy hoạch kinh tế trước đây Bắc Giang nằm trong vùng trung du và
miền núi phía Bắc, từ năm 2012 là tỉnh nằm trong quy hoạch vùng Thủ đô Hà
35
Nội. Bắc Giang hiện có 09 huyện và 01 TP, trong đó có 06 huyện miền núi và
01 huyện vùng cao (Sơn Động); 230 xã, phường, thị trấn (204 xã, 10 phường
và 16 thị trấn).
Vị trí địa lý: Tỉnh Bắc Giang nằm ở tọa độ từ 21 độ 07 phút đến 21 độ 37
phút vĩ độ bắc; từ 105 độ 53 phút đến 107 độ 02 phút kinh độ Đông; Bắc
Giang là tỉnh miền núi. Phía Bắc và Đông Bắc giáp tỉnh Lạng Sơn, phía Tây
và Tây Bắc giáp thành phố Hà Nội, Thái Nguyên, phía Nam và Đông Nam
giáp tỉnh Bắc Ninh, Hải Dương và Quảng Ninh.
Đặc điểm địa hình: Địa hình Bắc Giang gồm 2 tiểu vùng: Miền núi
và trung du có đồng bằng xen kẽ. Vùng trung du bao gồm các huyện: TP
Bắc Giang, Hiệp Hòa, Việt Yên. Vùng miền núi bao gồm 7 huyện: Yên
Thế, Tân Yên, Lạng Giang, Yên Dũng, Lục Nam, Lục Ngạn, Sơn Động.
Trong đó một phần các huyện Lục Ngạn, Lục Nam, Yên Thế và Sơn
Động là vùng núi cao [163].
Lịch sử tỉnh Bắc Giang: Trong lịch sử, thời các Vua Hùng, tỉnh Bắc
Giang thuộc bộ Vũ Ninh của nước Văn Lang. Dưới triều Đinh (968-980),
Tiền Lê (980-1009) thuộc huyện Long Biên. Thời Lý - Trần thuộc lộ Bắc
Giang. Thời Hậu Lê thuộc thừa tuyên Kinh Bắc, sau đổi thành trấn Kinh Bắc,
trấn Bắc Ninh. Dưới đời vua Minh Mạng (năm thứ 2, 1821), Bắc Giang thuộc
phủ Thiên Phúc, năm 1831, đổi tên thành tỉnh Bắc Ninh.
Ngày 10/10/1895 Toàn quyền Đông Dương ký Nghị định thành lập tỉnh
Bắc Giang trên cơ sở hai phủ Đa Phúc, Lạng Giang tách ra từ tỉnh Bắc Ninh.
Ngày 27/10/1962, tỉnh Bắc Giang sáp nhập với tỉnh Bắc Ninh trở thành tỉnh
Hà Bắc. Ngày 06/11/1996, tại kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa IX đã phê chuẩn
chia tách tỉnh Hà Bắc, tái lập hai tỉnh Bắc Ninh và Bắc Giang. Bộ máy hành
chính tỉnh Bắc Giang chính thức đi vào hoạt động từ ngày 01/01/1997 đến
nay [197].
36
Núi Yên Tử là dãy núi lớn thuộc vòng cung Đông Triều, có chiều dài
dọc từ Hòn Gai tỉnh Quảng Ninh xuôi về vùng Đông Bắc Bắc Giang và dừng
ở vùng Lục Nam (tỉnh Bắc Giang) - Chí Linh (tỉnh Hải Dương). Trong sơn
phận của núi có phần các mạch, cách nhánh lan tỏa ra 03 tỉnh. Các mạch núi
đó tạo nên các thung lũng với các con sông: sông Lục Nam, sông Kinh Thầy và
sông Bạch Đằng. Mỗi mạch núi đều có những tên gọi khác nhau như: núi Yên
Tử (cao 1068m), núi Phật Sơn (cao 1000m), núi Huyền Đinh (cao 700m), núi
Quan Âm (cao 780m), núi Hình Nhân, núi Thanh Mai (cao 800m)… Mạch núi
Yên Tử có thế núi và độ cao lớn nhất so với các mạch núi khác.
Phật giáo Trúc Lâm trên địa bàn tỉnh Bắc Giang thời Trần do vua Trần
Nhân Tông sáng lập trên cơ sở tổng hợp ba thiền phái trước đó: Tì ni đa lưu
chi, Vô Ngôn Thông, Thảo Đường. Sự phân bố của Phật giáo Trúc Lâm thời
Trần trên địa bàn tỉnh Bắc Giang tập trung ở khu vực Tây Yên Tử gồm 4
huyện Sơn Động, Lục Ngạn, Lục Nam và Yên Dũng của tỉnh Bắc Giang.
37
Bản đồ 1.1: Bản đồ vị trí các điểm và di tích Tây Yên Tử (Nguồn: Khảo sát của NCS)
38
1.4.1. Huyện Yên Dũng Huyện Yên Dũng có diện tích tự nhiên là 19,042 km2 bao gồm 19 xã và
2 thị trấn. Đây là một huyện nằm ở tiểu vùng miền núi và trung du của tỉnh
Bắc Giang được bao bọc bởi 3 con sông là sông Cầu, sông Thương và sông
Lục Nam. Phía Bắc giáp TP Bắc Giang, huyện Lạng Giang; phía Nam giáp
với huyện Quế Võ (Bắc Ninh), phía Đông giáp huyện Lục Nam; huyện Chí
Linh (Hải Dương); phía Tây giáp với huyện Việt Yên. Dân số của huyện tính
đến tháng 9 năm 2012 là 136,337 người. Mật độ dân số là 713 người/km2.
Trung tâm huyện là thị trấn Neo.
Yên Dũng gắn với huyền thoại 99 con chim phượng hoàng cấu tạo nên
dãy Nham Biền kỳ vĩ; có chốn tổ Vĩnh Nghiêm (xã Trí Yên) của Phật giáo
Trúc Lâm do vua Trần Nhân Tông sáng lập từ thế kỷ XIII. Yên Dũng tự hào
là nơi sinh ra hai cha con tiến sĩ Đào Toàn Mân và Trạng nguyên Đào Sư Tích
(xã Song Khê), nơi phát tích tinh hoa của nhiều thế hệ. [160]
Trên địa bàn huyện Yên Dũng hiện có gần 300 di tích lịch sử - văn hóa,
trong đó có 2 di tích được xếp hạng cấp quốc gia đặc biệt, 2 di tích cấp quốc
gia và 76 di tích cấp tỉnh.
Một số cơ sở thờ tự của Phật giáo Trúc Lâm tại huyện Yên Dũng:
Chùa Vĩnh Nghiêm (xã Trí Yên); Chùa Hang Tràm (xã Tân Liễu); chùa
Kem (xã Nham Sơn); Thiền viện Trúc Lâm Phượng Hoàng (xã Nham Sơn).
1.4.2. Huyện Lục Nam
Phía Bắc giáp huyện Lục Ngạn, phía Tây giáp Lạng Sơn và huyện Lạng
Giang, huyện Yên Dũng, phía Nam giáp Hải Dương và Quảng Ninh. Có diện
tích gần 600km2 trong đó diện tích đất nông nghiệp khoảng 18.720 ha, đất
Lâm nghiệp 27 nghìn ha, còn lại là một số diện tích đất khác; dân số gần 21
vạn người, gồm 13 dân tộc anh em cùng sinh sống, trong đó người dân tộc
thiểu số chiếm gần 13%.
39
Toàn huyện có 25 xã và 2 thị trấn, với 334 thôn bản; hệ thống giao thông
khá thuận lợi có Quốc lộ 31, QL 37 và tỉnh lộ 293, tỉnh lộ 295 chạy qua, kết
hợp với tuyến đường sắt Hà Nội - Quảng Ninh và tuyến đường sông Lục
Nam, điều kiện thuận lợi cho việc giao lưu buôn bán. Lục Nam có vị trí
chiến lược trọng yếu, có đường giao thông lớn nối liền với các tỉnh trong
vùng, thuận lợi trong giao lưu văn hoá, kinh tế giữa các vùng miền núi và
đồng bằng.
Lục Nam là một vùng bán sơn địa với một địa hình phức tạp đan xen,
cánh cung Đông Triều phía Tây Yên Tử ôm ấp dải Huyền Đinh, dòng sông
Lục chảy qua những xóm thôn. Hình sông thế núi ấy đã mang lại cho Lục
Nam những thắng cảnh đẹp nguyên sơ cùng với nền văn hoá kết tinh qua
nhiều thời đại mà dấu tích còn lưu đã làm nên những giá trị to lớn về lịch
sử, văn hoá, trở thành tiềm năng cho phát triển du lịch.
Bắt nguồn từ một mạch nước trên dải Huyền Đinh, Suối Mỡ gắn truyền
thuyết về tục thờ Thánh Mẫu Thượng, thắng cảnh đã mở ra cho Lục Nam một
triển vọng to lớn về du lịch. Di tích đã được xếp hạng cấp Quốc gia, Suối Mỡ
đang phát triển mạnh mô hình du lịch tâm linh sinh thái [157].
Một số cơ sở thờ tự của Phật giáo Trúc Lâm tại huyện Lục Nam:
Chùa Sơn Tháp (xã Cẩm Lý); chùa Bát Nhã (xã Huyền Sơn); chùa Hồ
Bấc (xã Nghĩa Phương); Chùa Cao (xã Khám Lạng); Chùa Yên Mã (xã Bắc
Lũng); Chùa Nhạn Tháp (xã Tiên Nha); Chùa Tòng Lệnh (xã Trường Giang);
Chùa Nhạn Tháp (xã Tiên Nha), chùa Đám Trì (xã Lục Sơn), chùa Bảo An
(xã Cương Sơn).
1.4.3. Huyện Lục Ngạn
Lục Ngạn là huyện miền núi phía Đông Bắc tỉnh Bắc Giang, có diện tích
tự nhiên 101,728km2 với 30 xã, thị trấn, trong đó có 12 xã vùng cao, 18 xã, thị
trấn miền núi. Dân số toàn huyện năm 2012 là 215.000 người, trong đó đồng
40
bào dân tộc thiểu số chiếm hơn 49%, với 08 dân tộc (Kinh, Tày, Nùng, Sán
Chí, Sán Dìu, Hoa, Dao, Cao Lan) sinh sống đan xen ở 394 thôn bản, khu
phố, tạo nên sự giao thoa văn hoá đặc sắc.
Những giá trị văn hoá của các dân tộc vẫn được lưu giữ nguyên vẹn như:
trang phục, phong tục, các làn điệu dân ca, lượn, hát đối… Năm 1975, ngành
khảo cổ đã phát hiện được di chỉ đồ đá cũ phân bố trên gò Non Trúc, giáp
suối Nghè Mưa, đã tìm thấy 27 di vật bằng đá cuội… cùng một số mảnh tước,
thạch đá thuộc thời đại đồ đá cũ. Chứng tỏ con người đã đến sinh sống ở đây
từ rất sớm, hội tụ những giá trị lịch sử, văn hóa đa dạng.
Vùng Lục Ngạn xưa có con đường chiến lược từ Đệ tứ chiến khu chạy
qua xã Quý Sơn đến Đồng Giao, sang Mịn Con rồi sang Sậy To, Hồ Sen xã
Thanh Hải, đi qua xã Kiên Lao và đến Đông Triều- Quảng Ninh và dòng sông
Lục Nam lịch sử, tạo điều kiện thuận tiện cho việc phát triển kinh tế, văn hóa
của cả vùng.
Huyện Lục Ngạn là nơi có bề dày về truyền thống lịch sử- văn hóa với
01 di tích lịch sử cấp quốc gia Đền Hả; 40 di tích lịch sử cấp tỉnh. Đây cũng là
vùng đất có nhiều danh lam thắng cảnh có thể tạo nên những điểm tham quan
du lịch. Đó là ải Nội Bàng, ải Xa Lý, với các di tích và danh lam thắng cảnh
đẹp như đền Từ Hả (đền Hả), đền Quan Quận, hồ Cấm Sơn, hồ Khuôn Thần
và núi Am Vãi - nơi in dấu bàn chân Phật.
Các cụm di tích đền, chùa Hả Hộ xã Hồng Giang, đền Tam Giang xã Mỹ
An, đền Chể xã Phượng Sơn, đình Hạ Long xã Giáp Sơn, đình Trại Cống xã
Kiên Lao, đình Cống Luộc xã Đèo Gia, đền Khánh Vân thị trấn Chũ.... Đền
Từ Hả xã Hồng Giang được công nhận là di tích lịch sử cấp quốc gia, lễ hội
được tổ chức vào ngày mồng 6 đến 8 tháng giêng hàng năm, hội chùa Khánh
Vân từ 18 đến 20 tháng 2, hội đền Tam Giang, hội đền Chể.... [158].
Một số cơ sở thờ tự của Phật giáo Trúc Lâm tại huyện Lục Ngạn:
41
Chùa Am Vãi (xã Nam Dương); Chùa Bạch Liên (xã Phượng Sơn);
Chủa Hả (xã Hồng Giang).
1.4.4. Huyện Sơn Động
Sơn Động là huyện vùng cao của tỉnh Bắc Giang. Diện tích tự nhiên 844,32 km2 (chiếm 22% diện tích toàn tỉnh). Phía Bắc giáp 2 huyện Lộc Bình,
Đình Lập tỉnh Lạng Sơn; phía Đông và phía Nam giáp 2 huyện Ba Chẽ,
Hoành Bồ và thị xã Uông Bí tỉnh Quảng Ninh; phía Tây giáp 2 huyện Lục
Nam, Lục Ngạn tỉnh Bắc Giang. Toàn huyện có 21 xã và 2 thị trấn với 178
thôn, bản, khu phố, có 12 dân tộc cùng chung sống.
Từ xa xưa, người dân Sơn Động đã có truyền thống đoàn trong các cuộc
kháng chiến chống kẻ thù xâm lược. Trong cuộc kháng chiến chống quân
Nguyên - Mông thế kỷ XIII, nhân dân các dân tộc Sơn Động đã cùng nhân dân
lộ Bắc Giang tổ chức chặn đánh ở Xa Lý (Khả Lý), Nội Bàng, tiêu diệt một phần
sinh lực địch, góp phần vào thắng lợi chung của quân, dân triều Trần.
Kho tàng văn hoá, văn nghệ của các dân tộc Sơn Động mang đậm sắc
thái dân tộc như: đàn tính và hát then của dân tộc Tày ở các xã khu vực Vân
Sơn; hát, múa soong hao của dân tộc Nùng ở các xã khu vực Cẩm Đàn; kèn
gọi bạn của người Dao ở Hữu Sản... [159]
Các di tích và danh thắng huyện Sơn Động bao gồm:
Đình, Đền, Chùa (làng Chẽ - An Châu), miếu Đức Ông, đền Vua Bà,
Đình Đặng (Vĩnh Khương), Chùa Phúc Nguyên, chùa Trình; Chùa Cầu, Chùa
Kim Quy, chùa thượng, chùa Trung; Chùa Đồng; Đèo Bụt, núi Phật Sơn. Khu
Đồng Thông (xã Tuấn Mậu); Rừng Khe Rỗ (xã An Lạc).
Một số cơ sở thờ tự của Phật giáo Trúc Lâm tại huyện Sơn Động:
Chùa Cầu, Chùa Hạ, chùa Trung, Chùa Thượng (xã Tuấn Mậu).
Tiểu kết chương 1
Phật giáo Trúc Lâm thời Trần trên địa bàn tỉnh Bắc Giang tập trung ở
khu vực Tây Yên Tử trải dài qua 4 huyện Yên Dũng, Lục Nam, Lục Ngạn và
42
Sơn Động. Vấn đề nhìn nhận các giá trị của Phật giáo Trúc Lâm thời Trần nói
chung hiện nay được sự quan tâm, nghiên cứu của nhiều nhà khoa học. Tuy
nhiên, các công trình nghiên cứu về giá trị của Phật giáo Trúc Lâm Thời Trần
trên địa bàn tỉnh Bắc Giang hiện nay còn ít được quan tâm, đầu tư nghiên cứu,
chủ yếu tập trung vào một số đối tượng nhỏ chưa có cái nhìn đánh giá tổng
quát, toàn diện cũng như đưa ra được những thực trạng về vấn đề này. Vì vậy,
trên cơ sở kế thừa thành quả nghiên cứu của các nhà khoa học đi trước, luận
án tập trung vào việc làm rõ các giá trị của Phật giáo thời Trần trên địa bàn tỉnh
Bắc Giang và đề xuất một số giải pháp, kiến nghị nhằm phát huy các giá trị của
Phật giáo Trúc Lâm thời Trần trên địa bàn tỉnh Bắc Giang.
Luận án làm rõ các khái niệm về giá trị, giá trị tôn giáo, giá trị văn hóa,
giá trị lịch sử và một số khái niệm liên quan đến đề tài. Đồng thời, vận dụng các
lý thuyết như lý thuyết địa - tôn giáo, lý thuyết vùng văn hóa, lý thuyết về giá trị
tôn giáo, lý thuyết chức năng, kết hợp sử dụng với các phương pháp như phân
tích, tổng hợp tài liệu, nghiên cứu điền dã, quan sát tham dự, phỏng vấn sâu,
phỏng vấn bảng hỏi, so sánh đối chiếu, để làm rõ quá trình hình thành và phát
triển, dấu ấn, các giá trị của Phật giáo Trúc Lâm thời Trần trên địa bàn tỉnh Bắc
Giang, từ đó đưa ra một số giải pháp, khuyến nghị để phát huy các giá trị đó.
43
Chương 2
QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN VÀ DẤU ẤN
2.1. QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA PHẬT GIÁO
TRÚC LÂM THỜI TRẦN Ở BẮC GIANG
CỦA PHẬT GIÁO TRÚC LÂM THỜI TRẦN Ở BẮC GIANG
2.1.1. Quá trình hình thành của Phật giáo Trúc Lâm thời Trần ở
Bắc Giang
Từ thời Lý, vùng đất tỉnh Bắc Giang đã có sự ảnh hưởng của Phật giáo.
Trong các tài liệu, thư tịch hiện nay hầu như không có tài liệu nào phản ánh rõ
về nguồn gốc Phật giáo du nhập vào Bắc Giang từ bao giờ. Một số dấu tích
được phát hiện được cho là “dấu chân Phật” trên đá ở một số ngôi chùa ở thời
Lý - Trần như: ở chùa Am Vãi (xã Nam Dương, huyện Lục Ngạn), chùa Yên
Mã (xã Bắc Lũng, huyện Lục Nam), chùa Bạch Liên (xã Phượng Sơn, huyện
Lục Ngạn). Chùa Đám Trì (xã Lục Sơn, huyện Lục Nam) đã phát lộ được
những viên ngói hình lá đề có hình rồng thời Lý và một số hiện vật có dấu
tích thời Lý khác. Hai trung tâm Phật giáo lớn của tỉnh Bắc Giang là Chùa Bổ
Đà (huyện Việt Yên) và chùa Vĩnh Nghiêm (huyện Yên Dũng) đều tương
truyền được xây dựng từ thời Lý (thế kỷ XI) qua các thư tịch, văn bia. Chùa
Tòng Lệnh xã Trường Giang, huyện Lục Nam bị tàn phá từ lâu, chùa nằm
ngay sau khu đình làng, mới được dựng lại vào cuối thế kỷ XX, quy mô nhỏ
trên nền chùa cũ còn một tảng hoa sen thời Lý 24 cánh, đường kính chân tảng
là 70 cm.
Sách Thiền uyển tập anh cho biết có một bậc cao tăng được người đời
gọi là Na Ngạn Đại sư, đó là Ẩn Không ở huyện Na Ngạn (tức huyện Lục
Ngạn, Bắc Giang), Lạng Châu. Đại sư là đệ tử của Thiền sư Thần Nghi (?-
1216), được Thần Nghi trao truyền tập phả đồ (tức tập Nam tông tự pháp đồ
của Thiền sư Thường Chiếu) trước khi ngài viên tịch. Sách Thiền uyển tập
anh chép:
44
“Ngày 18 tháng 2 năm Bính Tý (1216), sư Thần Nghi đem tập phả
đồ của Thường Chiếu trao cho mình truyền lại cho đệ tử là Ẩn
Không, dặn rằng: Bây giờ đang loạn lạc, người hãy giữ sách này
cẩn thận, chớ để binh hỏa hủy hoại thì tổ phong ta mới không bị
mai một. Nói xong sư tự qua đời. Nguyên chú: Ẩn Không trước ở
huyện Na Ngạn, Châu Lạng, người đương thời gọi là Na Ngạn đại
sư”[112].
Qua những dấu tích, hiện vật, những truyền thuyết dân gian chứng tỏ
rằng từ thời Lý Phật giáo đã ảnh hưởng sâu rộng tới vùng đất Bắc Giang.
Sang thời Trần, Phật giáo Trúc Lâm ra đời và được phân bố trên một
địa bàn rộng lớn, nhưng tập trung nhất là ở 03 tỉnh: Quảng Ninh, Bắc Giang
và Hải Dương. Trên địa bàn Quảng Ninh, đó là hệ thống di tích thuộc khu vực
Yên Tử, với hàng chục điểm di tích lớn, nhỏ; các di tích ở khu vực Đông
Triều, trong đó có di tích chùa Quỳnh Lâm, Am Ngọa Vân. Ở Hải Dương, đó
là khu di tích chùa Thanh Mai, khu di tích Côn Sơn - Kiếp Bạc, cùng hơn 20
điểm di tích khác, có liên quan tới Phật giáo Trúc Lâm. Tuy chưa có thống kê
chính thức số lượng chùa, am, thiền viện của Phật giáo Trúc Lâm trước đây,
nhưng những ngôi chùa, am, thiền viện thuộc Phật giáo Trúc Lâm còn lại,
cùng với những dấu tích của nó ở núi Yên Tử và những khu vực phụ cận xung
quanh mà NCS khảo sát và thu nhập qua các nguồn tài liệu như sau:
Tỉnh Quảng Ninh: gồm Chùa Hoa Yên, chùa Bảo Sái, chùa Một Mái,
chùa Tiêu, chùa Đồng, Ngự Dược Am, Tử Tiêu Am, Thạch Thất Ngộ Ngữ
viện, chùa Long Động, chùa Giải Oan, chùa Lân, chùa Cầm Thực, chùa Tú
Lâm, chùa Hồ Thiên, am Ngọa Vân, Quan Âm, chùa Quỳnh Lâm, chùa Chân
Lạc, chùa Ngũ Đài Sơn, chùa Bắc Mã.
Tỉnh Hải Dương: chùa Côn Sơn, chùa Thanh Mai.
Ở tỉnh Bắc Giang, bên sườn Tây Yên Tử nằm trên địa phận huyện Sơn
Động, huyện Lục Ngạn, huyện Lục Nam, huyện Yên Dũng địa bàn gắn liền
45
với sự hình thành và phát triển của Phật giáo Trúc Lâm. Đó là chùa Vĩnh
Nghiêm - điểm nhấn đặc biệt quan trọng, một trung tâm Phật giáo nổi tiếng
dưới thời Trần, cùng hệ thống Phật giáo Trúc Lâm phân bố suốt dọc triền phía
Tây dãy núi Yên Tử. Tính từ Vĩnh Nghiêm ngược lên là: chùa Mã Yên, chùa
Hòn Tháp, chùa Cao, chùa Khám Lạng, chùa Bình Long, đền Suối Mỡ, đền
Trần, chùa Hòn Trứng, chùa Hồ Bấc (ở huyện Lục Nam), chùa Am Vãi, chùa
Đồng Vành, (ở huyện Lục Ngạn) và Khu bảo tồn Tây Yên Tử, với chùa Đèo
Bụt, chùa Cầu, chùa Kim Quy (ở huyện Sơn Động).
Chùa Am Vãi thuộc xã Nam Dương. Chùa nằm trên núi Am Ni. Sách
Đại Nam nhất thống chí có ghi:
“Núi Am Ni ở xã Nam Điện, phía Nam huyện Lục Ngạn. Mạch núi
từ Phật Sơn và Thù Sơn kéo đến, phía tả có giếng nước trong không
bao giờ cạn. Cạnh núi có hai cái bồn bằng đá, trên núi có nền chùa
cũ”[87, tr.77]
Truyền thuyết kể lại: “Chùa Am Vãi sơ khai chỉ là một am nhỏ, có một
vị sư trụ trì. Ở đây có một hang Tiền và một hang Gạo do mái đá núi tạo
thành. Mỗi ngày cả hai hang chỉ đủ cung cấp cho vị sư này đủ dùng trong một
ngày mà không bao giờ chảy hơn” [7, tr.112].
Và sau đó ngôi chùa trở thành hoang phế, truyền thuyết kể lại:
“Đến một ngày có một vị huynh đệ từ xa đến thăm quan cảnh chùa
và ở lại dùng bữa cùng. Trụ trì chùa Am Vãi phải ra khơi cho hang
tiền, gạo chảy ra đủ dùng cho hai người. Từ đó trở đi, hang tiền và
hang gạo không bao giờ chảy ra nữa. Nhà sư không có tiền gạo để
tu hành nên đã bỏ đi, từ đấy chùa trở nên vắng sư - thành hoang
phế”[7, tr.112].
Tiếp xuống Lục Nam có núi Phật Sơn, trên núi có chùa Ngọ (chùa Đồng
Vành). Chùa Ngọ nay thuộc xã Lục Sơn, huyện Lục Nam, tỉnh Bắc Giang.
“Núi Phật Sơn là dải núi có hình đức Phật ngọa thiền nhập niết bàn đầu quay
46
về phía Tây hướng về phía sông Lục Nam, chốn tổ Vĩnh Nghiêm” [15, tr.88].
Trên núi Phật Sơn có chùa Hồ Thiên, am Ngọa Vân, Chùa Ngọ (Đồng Vành)
và một số di tích khác do Pháp Loa xây dựng. Trong số các di tích đó thì chùa
Ngọ là ngôi chùa cổ nằm ở phía Tây Yên Tử thuộc Bắc Giang còn lại đều
nằm ở phía Đông thuộc tỉnh Quảng Ninh.
2.1.2. Quá trình phát triển của Phật giáo Trúc Lâm thời Trần ở
Bắc Giang
Từ trung tâm Phật giáo Vĩnh Nghiêm nhiều ngôi chùa bên sườn Tây Yên
Tử thuộc cánh cung Đông Triều cũng được trùng tu và xây dựng mới. Ngôi
chùa được xây mới là chùa Hồ Bấc, chùa Ngọ ở Lục Nam, Bắc Giang. Các
ngôi chùa khác: chùa Am Vãi, chùa Bình Long, chùa Cao, chùa Hòn Tháp, chùa
Mã Yên, Chùa Vĩnh Nghiêm được xây dựng từ thời nhà Lý, đến thời kỳ này đều
được trùng tu mở rộng, mang đậm dấu ấn của Phật giáo Trúc Lâm. Mỗi ngôi
chùa dù được xây mới hay trùng tu đều có một vị trí đặc biệt là được đặt trên
những ngọn núi nối tiếp nhau nằm dọc cánh cung Đông Triều. Cùng với dòng
sông Minh Đức, Lục Nam và dãy núi Yên Tử là con đường ngược đi lên phía
bắc qua các ải Nội Bàng, Bản Động, Xa Lý, lên Lạng Châu và Trung Quốc. Con
đường ấy là huyết mạch giao thông quan trọng của vương triều Lý - Trần, nó kết
nối biên ải với Lục Đầu Giang để về kinh thành Thăng Long cả bằng đường bộ
cùng đường thủy một cách nhanh chóng và thuận lợi.
Như vậy, hệ thống chùa, am ở khu vực Yên Tử được phát triển thuận lợi,
có ý nghĩa to lớn về vị trí chiến lược của vương triều Lý - Trần, cả về chính
trị, quân sự, kinh tế và văn hóa. Trên địa bàn tỉnh Bắc Giang, ta có thể thấy
các cụm di tích thuộc Phật giáo Trúc Lâm, mà từ trung tâm chùa Vĩnh
Nghiêm, có thể qua đó để đến với chùa Côn Sơn, chùa Thanh Mai ở Hải
Dương; chùa Quỳnh Lâm, Ngọa Vân, Hồ Thiên ở huyện Đông Triều và Hoa
Yên, chùa Đồng ở tỉnh Quảng Ninh. (Xem Bản đồ 2.1: Sự phân bố Phật giáo
Trúc Lâm thời Trần trên địa bàn tỉnh Bắc Giang)
47
DT 293
TT. Đồi Ngô
Chùa Am Vãi
Chùa Bát Nhã
Chùa Hồ Bấc Chùa Đám Trì
Chùa Mã Yên
Chùa
Chùa Vĩnh Nghiêm
Chùa Đồng (Quảng Ninh)
Chùa Thanh Mai (Hải Dương)
Hòn Tháp
Chùa Côn Sơn (Hải Dương)
Bản đồ 2.1: Sự phân bố Phật giáo Trúc Lâm thời Trần trên địa bàn tỉnh Bắc Giang (NCS tự phác họa)
48
Với tài năng của Pháp Loa, Ngài làm cho giáo hội Trúc Lâm càng rực rỡ.
Trong lịch sử Phật giáo Việt Nam, chưa bao giờ số tăng sĩ tham gia thực hành
đông đến thế. Vào thời điểm này, số lượng tăng ni quá đông, cứ mỗi năm tổ
chức thọ giới phải loại ra hàng nghìn người nhưng tính đến năm 1329, “số
tăng sĩ đã được xuất gia trong những giới đàn do Giáo hội Trúc Lâm tổ chức
dưới quyền lãnh đạo của Pháp Loa là trên 15.000 vị” [94, tr.27].
Tính đến khi viên tịch (năm 1330), “Sư đã… độ hơn 15.000 tăng ni, in một
bộ Đại tạng kinh. Những đệ tử đắc pháp hơn 3000 người đã liệt kê ở lược đồ.
Pháp sư có 6 người, như Tuệ Nhiên, Tuệ Chúc, Hải Ấn v.v… đều hành pháp đắc
lực. Còn Hoằng Tế và Huyền Giác hiện đang chăm sóc tháp của Sư” [94, tr.54].
Như vậy, đến giữa thế kỷ XIV thì mối quan hệ giữa Phật giáo Trúc Lâm
Yên Tử với cả nước phát triển tới đỉnh cao. Hệ thống Phật giáo Trúc Lâm với
bốn trung tâm là Vĩnh Nghiêm, Thanh Mai, Yên Tử và Quỳnh Lâm đã hoàn
thiện. Ở Bắc Giang trung tâm Phật giáo Vĩnh Nghiêm đã có mối liên hệ với
các chùa trực tiếp như: Chùa Am Vãi, Yên Mã, Bình Long, Hòn Tháp, Hồ
Bấc, Đồng Vành, chùa Cao, Khám Lạng, Hang Non và đã có vai trò tích cực
trong việc phát triển Phật giáo Trúc Lâm ở phía Tây Yên Tử. Phật giáo Trúc
Lâm có đặc trưng xã hội, liên kết cộng đồng. Phật giáo Trúc Lâm đã tạo ra
một nét mới riêng biệt cho Phật giáo Việt Nam, đáp ứng ngay niềm tin của đại
đa số quần chúng. Cho nên, được đông đảo tăng sĩ, quần chúng nhân dân ủng
hộ tham gia.
Phật giáo Trúc Lâm phát triển mạnh mẽ ở thời Trần với ba vị Tam Tổ
đầu tiên, sau đó do nhiều yếu tố trong đó có hoàn cảnh chính trị, xã hội khiến
những vị tu hành này phải ở ẩn, rút về núi rừng, tư liệu bị thất thoát, nên trong
lịch sử ít được nhắc tới. Đến thời Hậu Lê, Thiền sư Chân Nguyên (1647-
1726) xuất hiện chấn hưng Phật giáo Trúc Lâm. Ngài đã viết nhiều tác phẩm
về Phật giáo với nhận thức khá mới mẻ. Sau đó, một trong những người kế
thừa xuất sắc là Ngô Thì Nhậm (1746-1802), tức Hải Lượng Thiền sư, tự
49
xưng là Tổ thứ tư của dòng Phật giáo Trúc Lâm Yên Tử, người đã viết tác
phẩm nổi tiếng Trúc Lâm tông chỉ nguyên thanh. Đây là một tác phẩm về đề
tài Phật giáo hiếm hoi, nhưng quan trọng của Việt Nam, phản ánh tập trung
toàn bộ trào lưu tư tưởng của thời đại - tinh thần Tam giáo hợp nhất.
Cùng thời kỳ này, Chùa Vĩnh Nghiêm tiếp tục phát huy là trung tâm Phật
giáo Trúc Lâm, xiển dương Phật pháp, chấn hưng Phật giáo vào đầu thế kỷ XIX.
Hòa thượng Thích Thanh Hanh (1840 - 1936) trụ trì chùa, quan tâm đến việc
xiển dương Phật pháp, đào tạo tăng tài. Ngài quan tâm tìm tòi khai thác tam tạng
kinh điển Phật giáo bằng chữ Hán ở Viễn Đông Bác Cổ. Khi được phép khai
thác ngài sai các đệ tử sao chép và khắc ván ấn hành thành nhiều bản. Việc làm
này đã gây được phong trào các sơn môn lớn sao chép và phổ biến kinh sách,
giúp các tăng ni, cư sĩ tại gia có tài liệu tham cứu. Đầu những năm 1930, chùa
Vĩnh Nghiêm cụ thể là Hòa thượng Thích Thanh Hanh luôn quan tâm nhất là
việc chấn hưng Phật giáo quy tụ các sơn môn về một mối thống nhất.
Năm 1964, chùa Vĩnh Nghiêm Bắc Giang được xếp hạng là di sản văn
hóa cấp Quốc gia, đặt dưới sự bảo trợ của Nhà nước, luôn được ngành văn
hóa thông tin Hà Bắc nay là Bắc Giang liên tục trùng tu, sửa chữa. Những đề
án trùng tu di tích đã được phê duyệt và cấp kinh phí thực hiện.
Đến năm 2015, chùa Vĩnh Nghiêm được Nhà nước công nhận là Di tích
quốc gia đặc biệt. Hệ thống tượng Phật ở chùa là những tác phẩm nghệ thuật
điêu khắc gỗ tinh xảo của các nghệ nhân tạo ra từ thời Lê - Nguyễn. Các pho
tượng ở đây đều được sơn son thếp vàng rực rỡ và bài trí theo quy chuẩn.
Tính từ tòa Thượng điện trở ra tòa Tiền đường lần lượt có các bộ tượng sau:
1. Bộ tượng tam thế gồm 3 pho: Phật Quá khứ, Phật Hiện tại và Phật Vị lai
2. Bộ tượng A Di Đà (Tây Phương Tam Thánh) gồm 3 pho: Phật A Di
Đà, Bồ tát Quan Âm, Bồ tát Đại Thế Chí.
3. Bộ tượng Thích Ca thuyết pháp (Hoa Nghiêm Tam Thánh) gồm 3
pho: Phật Thích Ca, Bồ tát A Nan, Bồ tát Ca Diếp.
50
4. Bộ tượng Thích Ca kiết già gồm 3 pho: Phật Thích Ca, Bồ tát Văn
Thù, Bồ tát Phổ Hiền.
5. Bộ tượng Di Đà gồm 3 pho: Phật A Di Đà, Quan âm Chuẩn đề, Quan
âm Bồ tát.
6. Bộ tượng Cửu Long gồm 3 pho: Thích Ca Sơ sinh, Phạm Thiên, Đế Thích.
7. Bộ tượng Kim Cương 2 pho.
8. Bộ tượng Thập Bát La Hán: đặt ở 2 bên đầu tường hồi tòa Tam bảo,
mõi bên gồm 9 pho.
9. Bộ tượng Thập điện Diêm vương gòm 10 pho: đặt ở 2 bên tường hồi
tòa thiêu hương, mỗi bên 5 pho.
10. Bộ tượng Hộ pháp gồm 2 pho: Khuyến Thiện và Trừng Ác.
11. Bộ tượng Đức Ông - Thánh Tăng gồm 2 pho.
12. Bộ tượng Tứ trấn gồm 4 pho.
13. Hai động: Động Tiểu Kinh và Động Hương Tích.
Tòa nhà Tổ đệ nhất: Nơi đây thờ ba vị sư tổ của Phật giáo Trúc Lâm:
Trần Nhân Tông, Pháp Loa, Huyền Quang. Tượng Phật hoàng Trần Nhân
Tông được đặt ở trong khám, chính giữa. Tượng Pháp Loa có nét mặt đăm
chiêu nhân hậu, ngồi ở bên phải tượng Phật hoàng. Tượng Huyền Quang
mặc áo nâu, ngồi trên bục, bên trái Phật hoàng. Ba pho này làm thành bộ
tượng Trúc lâm Tam tổ, là một nét độc đáo riêng của chùa Vĩnh Nghiêm,
để khẳng định chùa Vĩnh Nghiêm thực chất là một Trung tâm Phật giáo
Trúc Lâm.
Tòa nhà Tổ đệ nhị: Nơi đây thời các vị tổ sư của chùa kế tiếp ba vị tổ sư
đầu tiên của Phật giáo Trúc Lâm. Trong đó có tượng, bài vị, ảnh thờ các vị
cao tăng kế thế như: Hòa thượng Trần Như, Thiền gia Pháp chủ Thích Thanh
Hanh, Hòa thượng Thích Tâm Duyệt, Hòa thượng Thích Thanh Kim.
Phía sau nhà Tổ đệ nhị là nơi thờ Mẫu: Liễu Hạnh, Mẫu Thoải, bà chúa
Thượng Ngàn và Tứ phủ chư vị: Thiên phủ, Địa phủ, Thủy phủ và Nhạc phủ.
51
Chùa Am Vãi (xã Nam Dương, huyện Lục Ngạn). Năm 2017, Nhà nước
đã công nhận chùa Am Vãi là di tích lịch sử quốc gia. Chùa tuy mới được tu
sửa, tôn tạo những năm gần đây, nhưng vẫn mang dáng dấp ngôi chùa cổ. Các
hiện vật còn lưu giữ lại với một số làm bằng chất liệu đá (tháp đá, chân tảng
bằng đá kê cột, tảng đá in dấu chân Phật). Trong lòng tháp có bài vị đá ghi
bằng chữ Hán (phiên âm): “Trúc lâm viên tịch Ma Ha Bất Thương Tỳ Khưu
Như Liên thiền sư hóa thân Bồ Tát cẩn vị”. Như vậy, có thể nhận biết được
chùa Am Vãi là một cơ sở thuộc Phật giáo Trúc Lâm. Cạnh chùa có Hang
Tiền, Hang Gạo để tín đồ, người dân đến cầu lộc cầu tài. Cách 2 hang 500m
là đến Đền Mẫu.
Thiền viện Trúc lâm Phượng hoàng (xã Nham Sơn, Yên Dũng), khởi
công từ năm 2011. Chính điện rộng đặt duy nhất một pho tượng Phật Thích
Ca. Nhà Tổ đặt tượng 3 vị sư tổ của Phật giáo Trúc Lâm và Bồ Đề Đạt Ma.
Chùa Khám Lạng (xã Khám Lạng, huyện Lục Nam). Năm 1999 chùa
được xếp hạng Di tích lịch sử văn hóa Quốc gia. Năm 2015, hương án đá
chùa Khám Lạng được công nhận là Bảo vật quốc gia. Chùa còn lưu giữ được
2 bệ tượng hình tòa sen bằng đá. Bệ đá của tượng đức Phổ Hiền, bệ đá của
tượng đức Văn Thù. Nhà tổ thờ Tam tổ Trúc lâm. Bên cạnh chùa Khám Lạng
là cụm di tích Hang Non, Đình Hạ, Đền Mẫu, Đền Trung, Đền Thượng.
Chùa Bảo An (xã Cương Sơn, huyện Lục Nam). Được xây dựng từ thời
Lê, một số pho tượng, đồ thờ mang phong cách thời Lê thế kỷ XVIII. Nhà tổ
phía sau tòa Tam bảo, nơi đây thờ Tam tổ Trúc lâm. Tượng Trần Nhân Tông
ngồi toạ thiền trên bệ gỗ ở giữa, tượng được sơn thếp phấn hồng. Tượng Pháp
Loa ngồi trợ thủ bên trái, tượng Huyền Quang ngồi bên phải. Bên cạnh nhà
Tổ là nhà thờ Mẫu.
Một số cơ sở thờ sự Phật giáo Trúc Lâm khác nằm ở khu vực Tây Yên
Tử hiện đang là phế tích, chỉ còn lại các dấu tích nền móng, chưa xác định
được cách bài trí tượng Phật tại các cơ sở thờ tự này.
52
Đến thời điểm hiện tại, chưa có một văn bản báo cáo thống kê chính thức
từ phía GHPGVN tỉnh Bắc Giang, hay Sở Nội vụ tỉnh Bắc Giang về số lượng
tăng, ni Phật giáo Trúc Lâm trên địa bàn tỉnh Bắc Giang hiện nay là bao
nhiêu. Số lượng tăng, ni Phật giáo Trúc Lâm đều được tính chung vào số
lượng tăng, ni của Phật giáo toàn tỉnh Bắc Giang. Theo Báo cáo Đại hội Đại
biểu Phật giáo tỉnh Bắc Giang lần thứ V, nhiệm kỳ 2017 - 2022 thì tính đến
thời điểm tổ chức Đại hội tháng 8/2017, toàn tỉnh Bắc Giang có 88 tăng, ni.
Số lượng tăng, ni tỉnh Bắc Giang còn khiêm tốn, trong khi đó số lượng các
ngôi chùa toàn tỉnh là rất nhiều, theo báo cáo là 885 ngôi chùa. Một vị tăng, ni
phải kiêm nhiệm trụ trì nhiều ngôi chùa. Theo bản Danh sách Tăng, ni trên
địa bản tỉnh Bắc Giang [PL 6] mà NCS sưu tầm được từ Ban Trị sự
GHPGVN tỉnh Bắc Giang thì số lượng tăng, ni trước thời điểm tổ chức đại
hội, thống kê vào tháng 5/2017 là 122 vị, trong đó bao gồm cả danh sách các
tăng, ni đang làm hồ sơ, không hợp lệ, không làm ở chùa, chuyển chùa hay đã
mất. Những tăng, ni phân bố ở khu vực Tây Yên Tử gồm 4 huyện như sau:
huyện Yên Dũng: 14 người; huyện Lục Nam: 7 người (3 người hồ sơ không
hợp lệ); 2 người (hồ sơ không hợp lệ); Sơn Động 0 người. Tại Thiền viện
Trúc lâm Phượng Hoàng 4 vị trong Ban hưng công Thiền viện đều đến từ
Thiền viện Trúc lâm Tây Thiên tỉnh Vĩnh Phúc. Ngoài khu vực Tây Yên tử,
chùa Ích Minh, xã Hương Mai, huyện Việt Yên (cơ sở của Phật giáo Trúc
Lâm) có 3 người.
Các tăng, ni phần nhiều đã được học qua Học viện Phật giáo, Cao đẳng
Phật học, Trung cấp Phật học, cho nên những tăng, ni có trình độ phải kiêm
nhiệm trụ trì thuyết giảng giáo lý, hướng dẫn thực hành, tu tập cho các Phật tử
trên địa bàn. Các chùa như: Chùa Vĩnh Nghiêm (Yên Dũng), chùa Ích Minh
(Việt Yên)… đã lên lịch giảng giáo lý cho các Phật tử theo từng tháng. Các
tăng, ni đã tổ chức thuyết giảng cho Phật tử học pháp 3 tháng trong mùa an cư
kiết hạ và trong những ngày lễ trọng. Các Phật tử sinh hoạt với nhau trong
53
tinh thần hòa hợp theo từng tổ nhóm và ngày sóc, vọng, ngày trai và các ngày
chủ nhật về chùa lễ Phật, thụ Bát quan trai giới.
Thiền viện Trúc Lâm Phượng Hoàng (xã Nham Sơn, huyện Yên Dũng)
nền nếp tu tập đã được duy trì từ những ngày đầu thành lập. Lễ khai pháp
được tổ chức mở đầu một năm tu học với gần 1.000 Phật tử tham dự. Hằng
ngày hàng trăm Phật tử ở mọi lứa tuổi tới tụng kinh, ngồi thiền, học đạo. Vào
các chủ nhật, thiền viện có khoảng 400 đến 500 Phật tử tới tu tập. Các bài
thiền được truyền dạy theo lối của Trúc Lâm chính pháp do Phật hoàng Trần
Nhân Tông sáng tạo.
Các Phật tử được hướng dẫn tỷ mỉ qua từng bước để hiểu rõ từng bài tập.
Thiền vào sáng sớm hoặc buổi tối ở những nơi yên tĩnh. Phải trải qua 3 bước:
Trụ - Tư thế ngồi; Nhập - Ứng dụng phương pháp tu và Xuất - Xả phương
pháp tu. Điều quan trọng nhất của tọa thiền là “Nhập” tức là định được tâm,
tự mình gạt bỏ mọi ý niệm thực tại để tạm thoát ra khỏi những vướng bận trần
tục. Khi đã biết phương pháp, mỗi người có thể thiền tại gia hay bất cứ thời
gian, địa điểm nào phù hợp.
Hiện nay, điều kiện giao thông thuận lợi, sự kết nối các hoạt động Phật
giáo giữa chùa Vĩnh Nghiêm và các chùa bên sườn Tây Yên Tử đã tạo nên sự
gắn kết có tổ chức trong hệ thống. Bên cạnh đó, Phật giáo Trúc Lâm tỉnh Bắc
Giang hiện nay đã có sự biến đổi so với Phật giáo Trúc Lâm thời Trần, đó là
có sự hỗn dung với tín ngưỡng dân gian nên các ngôi chùa không chỉ là nơi
tiến hành các nghi lễ của Phật giáo Trúc Lâm mà còn thờ Mẫu và tín người
dân gian khác. Các chùa thuộc Phật giáo Trúc Lâm tỉnh Bắc Giang ngày càng
có xu hướng mở rộng, để tổ chức được nhiều hoạt động, đáp ứng được nhu
2.2. DẤU ẤN CỦA PHẬT GIÁO TRÚC LÂM THỜI TRẦN Ở BẮC GIANG
cầu tâm linh, sinh hoạt Phật giáo của các tín đồ, tăng ni, Phật tử, người dân.
2.2.1. Về tông phái, tư tưởng, tu tập
Trong lịch sử Phật giáo Việt Nam, Phật giáo Trúc Lâm đã dung hợp ba
Thiền phái đã có ở nước ta trước đó là: Thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi (thế kỷ
54
VI), Thiền phái Vô Ngôn Thông (thế kỷ IX) và Thiền phái Thảo Đường (thế
kỷ XI). Phật giáo Trúc Lâm thời Trần chủ trương Thiền - giáo song hành, đặt nền
tảng trên kinh điển, Thiền và Giáo không tách rời nhau, tu học luôn đồng hành. Có
thể xem đây là một trong những đặc điểm cơ bản của Phật giáo Trúc Lâm thời
Trần nói chung của Phật giáo Trúc Lâm thời Trần ở Băc Giang nói riêng.
Vào thời gian an cư kiết hạ, Phật giáo Trúc Lâm thời Trần tại Bắc Giang
chủ trương Thiền - giáo song hành từ Rằm tháng Tư đến Rằm tháng Bảy, các
Phật tử vừa tu thiền vừa học đạo. Pháp Loa khi về Vĩnh Nghiêm trụ trì đã tổ
chức khóa học Luật Tứ Phần cho các tín đồ tu trì giới luật. Giáo hội chủ
trương giới định tuệ để thăng chứng giác ngộ. Tư tưởng nổi bật là “Phật tại
tâm”, bất cứ ai cũng có thể trở thành Phật. Các Phật tử cần hành trì giới, nhờ
giới thanh tịnh mà tâm không loạn.
Phật giáo Trúc Lâm thời Trần ở Bắc Giang thường áp dụng nghi thức
Lục thời sám hối khoa nghi của Trần Thái Tông vào ba tháng an cư kiết hạ.
Khi thực hiện nghi thức này sẽ đưa người tu tập trở về thân tâm thanh tịnh.
Bên cạnh đó Pháp Loa và Huyền Quang tại chùa Vĩnh Nghiêm vẫn chủ
trương cho các tín đồ trì tụng thần chú để gia trì định lực, niệm Phật để đi đến
nhất tâm bất loạn tức là tu tập Mật giáo và Tịnh độ theo phong thái Thiền. Có
thể thấy rằng phương thức tu tập đã thể hiện sự dung hợp Thiền - Tịnh - Mật.
Ở khu vực chùa Bình Long xã Huyền Sơn, huyện Lục Nam, bên vách đá
giếng nước có dấu ấn hai chữ “Thanh Thủy”, theo quan niệm tu hành xưa -
người tu hành rất lưu tâm tới sự thanh tịnh đó chính là lý tưởng phải đạt đến
của các thiền sư và môn đệ. Người tu hành trong núi tắm gội tâm mình trong
cảnh sắc sơn nguyên này cũng để đạt được chữ “Thanh Tịnh” giếng nước ở
nơi này một mặt là sơn nguyên thực tại, nhưng mặt khác lại là ý niệm phải
đạt đến của các sư. Trong cách tu ở núi, hành giả chú trọng về ý niệm mà
hạn chế ngôn từ. Vì thế có thể hiểu rằng đây là một yếu tố góp phần tìm
hiểu một trong ba yếu tố của Phật giáo Trúc Lâm là: Thiền - Tịnh - Mật.
55
Cho nên có thể nói rằng, tuy câu chữ ngắn mà ý niệm của nó rất rộng và
đậm chất Trúc Lâm.
2.2.2. Về hệ thống di tích, văn bia
Phật giáo Trúc Lâm thời Trần ở Bắc Giang để lại dấu ấn, dấu tích sâu
đậm ở các chùa thuộc dãy núi Yên Tử và phụ cận, mà cụ thể là các chùa thuộc
huyện Đông Triều (Quảng Ninh), một số chùa thuộc huyện Chí Linh (Hải
Dương) và các di tích thuộc khu vực Tây Yên Tử (Bắc Giang). Trên địa phận
Bắc Giang, có 3 cụm di tích thuộc Phật giáo Trúc Lâm, mà từ chùa Vĩnh
Nghiêm, có thể qua đó để đến với các di tích ở Côn Sơn, Thanh Mai ở Hải
Dương; Quỳnh Lâm, Ngọa Vân, Hồ Thiên, Hoa Yên, chùa Đồng ở Quảng Ninh.
Thứ nhất: gồm các di tích chùa Hòn Tháp, chùa Yên Mã, chùa Bình
Long, chùa Chỉ Tác, chùa Khám Lạng, chùa Cao, chùa Non. Đây là những di
tích có nguồn gốc từ thời Lý - Trần thuộc Phật giáo Trúc Lâm. Ngoài ra, tại
đây còn có đền, đình như: Đền Hố Dứa (xã Huyền Sơn), đền Hang Non (xã
Khám Lạng), đình Lịch Sơn (xã Cẩm Lý).
Thứ hai: chùa Hồ Bấc do Pháp Loa trùng tu và xây dựng từ năm 1308-
1318, nằm trên đỉnh núi Phật Sơn, không gian rộng lớn, chứng tỏ xưa kia là
nơi tu hành quy mô lớn của Phật giáo Trúc Lâm. Dưới chân núi là hàng loạt
các di tích tín ngưỡng khác xuất hiện thời Lê - Mạc như: đền Suối Mỡ, đền
Mẫu, đền Trần, đền Cô Bé, đền Quan, đình Dùm…
Thứ ba: gồm có chùa Đồng Vành, chùa Văn Non, chùa Chồi, thuộc Phật
giáo Trúc Lâm ở xã Lục Sơn, ngoài ra còn có các di tích tín ngưỡng khác như:
đình Mộc, đền Mẫu ở Đám Trì. Từ đây có thể đi tới chùa Am Vãi (Lục
Ngạn). Có thể nhận thấy ngoài Phật giáo Trúc Lâm, ở đây các di tích còn hội
nhập với các tín ngưỡng dân gian qua các thời gian khác nhau.
Các di tích và tư liệu văn bia ở đây là minh chứng văn bản có giá trị
trong việc xác định tính chân thực phản ánh đặc trưng của Phật giáo Trúc
Lâm dưới thời Trần.
56
Chùa Sơn Tháp (Hòn Tháp) là một cơ sở của Phật giáo Trúc Lâm. Văn
bia khắc trên Thiền vị của ngôi tháp đá cổ thuộc phế tích chùa Sơn Tháp
(thuộc xã Cẩm Lý, huyện Lục Nam) có nội dung như sau: “Huyền cơ thiện
cho pháp vân hòa thượng vị” có nghĩa: Bài vị vị hòa thượng có hiệu đạo là
huyền cơ thiện Thọ Pháp Vân. Để làm rõ hơn về thiền sư này, phần chép về
chùa Hòn Tháp trong “Đạo giáo Nguyên lưu” nói về quá trình vua Trần Nhân
Tông lên núi Yên Tử tu hành. Trên đường đi, vua đã ghé lại nghỉ chân ở chùa
Hòn Tháp (Sơn Tháp Tự). Tài liệu chép:
“Khi ngài vào núi Yên Tử, đi về phía Đông đến chùa Sơn Tháp,
nhà sư ở đó thấy diện mạo lạ thường lấy làm kính trọng lúc đó
cũng là ngày Thánh Tông sắc cho quần thần đi bốn phương tìm
ngài về. Ngài bất đắc dĩ phải quay về lên ngôi”[2].
Đoạn văn trên cho biết rằng khi Trần Nhân Tông lên Yên Tử vào chùa
Sơn Tháp vào khoảng năm 1274 - 1275, là lúc ngài chưa lên ngôi vua. Thông
tin về Hòa thượng Pháp Vân (chùa Sơn Tháp), sách Truyền kỳ mạn lục có
chuyện Nghiệp oan của Đào Thị cho biết có sư Pháp Vân tu hành ở núi Lệ Kỳ
vào năm 1349 đã già, vậy thì vào thế kỷ XIII, Pháp Vân còn nhỏ. Các tháp
khác của chùa này đã thành phế tích nên không rõ thêm thông tin. Tuy nhiên,
nội dung khắc trên bài vị ngôi tháp cho thấy chùa Sơn Tháp là một cơ sở của
Phật giáo Trúc Lâm.
Chùa Khám Lạng ở xã Khám Lạng, huyện Lục Nam có 2 bia. Một bia
khắc năm Thuận Thiên thứ 5 (1432) ghi việc tạo một bệ đá hoa sen; một bia
khắc năm Hồng Đức thứ 25 (1494) ghi việc tạo bệ tượng và ba pho tượng. Bệ
Phật được tạo dựng vào đầu thời Lê sơ, năm Thuận Thiên thứ 5 (1432) ở chùa
Khám Lạng có kiểu dáng như các bệ đá hoa sen thời Trần. Có thể thấy chùa là
cơ sở của Phật giáo Trúc Lâm thời Trần. Còn bệ tượng khắc năm Hồng Đức
thứ 25 (1494) là bệ Phật, gồm ba bệ. Nội dung văn bản ghi việc công đức tạo
tượng và công đức cúng áo Phật, cả thảy 4 chiếc. Một hương án đá có khắc
57
chữ Hán, có nội dung đã được dịch tại chùa: “Năm Nhâm Tí, niên hiệu Thuận
Thiên thứ 5 (1432), ông Lưu Câu, làm quan Hạ phẩm ở xã Khám Lạng cùng
vợ là Đỗ Xú công đức”. Nội dung văn bia cho thấy quan lại thời kỳ trên đã quan
tâm, tôn tạo cơ sở Phật giáo. Trên bệ tượng Tam thế Phật Di Đà có khắc nội
dung phản ánh sự đóng góp vào chùa của các Phật tử. Bản dịch tại chùa ghi:
“Ngày mồng 7, tháng Hai năm Hồng Đức thứ 25 (1494). Tín chủ
là Lưu Thị Luận đứng ra tạo tượng Phật Tam tôn. Bà có tên hiệu
là Thiện Duyên cúng 03 quan…; ông Thuận Tâm cúng 01 quan;
ông Chánh Niệm…; bà Từ Tín, ông Ngụ cùng bà Hữu Phúc cúng
01 quan; ông Nguyên Tâm cùng bà cúng 05 tiền; (ông) Trần
Xứng cúng 01 chiếc áo... Ông Phú Sơn ở xã Chỉ Tác, huyện Lục
Ngạn cùng bà cúng 01 chiếc áo; bà Nguyễn Thị Giám ở xã Đông
Lạc cúng tiền 05 mạch.”
Với việc các tín thí hưng công đóng góp tạo hương án và bộ chân tảng,
các bệ tượng đá uy nghi, đường nét chạm khắc cầu kỳ, tinh tế… cho thấy
chùa có quy mô rất lớn và nhận được rất nhiều sự đóng góp của quan lại, Phật
tử và người dân.
Một trong số văn bia có niên đại sớm nhất và quý giá thời Trần là văn
bia chùa Hang Tràm (Nham Nguyệt tự) ở xã Tân Liễu, huyện Yên Dũng. Văn
bia này được soạn khắc năm Xương Phù thứ 11 (1387). Bài văn bia khắc khi
nhiều sự kiện liên quan đến việc chấn hưng Phật giáo Trúc Lâm Yên Tử ở
một bảo sái thờ Phật thời kỳ giữa và cuối thế kỷ XIV. Văn bia được dịch tại
chùa có đoạn như sau:
“Miền đất này từ lâu đã có nơi thờ Phật. Sau có người được tôn
xưng là Hoàng Bà sống vào khoảng thời vua Trần Anh Tông
(1293- 1314) đã đến đây xây tháp, tạc tượng để thờ Phật trên nền
thảo am của nhà sư họ Đỗ… Đến năm Tân Dậu niên hiệu Đại
Khánh thứ 8 (1321) Hoàng Bà lại khởi công các công trình như:
58
Phật điện, gác chuông, tăng phòng và hành lang hai bên tả hữu.
Phía trước chùa nhìn ra sông Thương, có hàng tùng bách xum
xuê dẫn thẳng vào chùa.”
Tiếp theo văn bia cho biết thêm việc thỉnh mời các thiền sư về cư trụ và
giảng pháp:
“Chùa tọa trên thế núi cao, thật xứng là nơi non xanh nước biếc
gợi cảnh gợi tình. Việc tôn tạo hoàn tất thì Hoàng Bà cho người
thỉnh mời Hòa thượng Đại Không về cư trụ và giảng pháp. Hòa
thượng Đại Không lại thỉnh mời Thiện Nhãn thiền sư về cư trụ.
Thiền sư cho sửa sang tu chỉnh làm cho chốn thiền Lâm thêm
xán lạn, xứng với công lao người trước đã tạo dựng và không hề
thờ ơ, sao nhãng việc hương khói phụng Phật.”
Đoạn cuối văn bia cho biết do thiên tai nhiều năm chùa trở thành hoang
phế, nhà sư đã trùng tu lại:
“Nhưng rồi vật đổi sao rời, qua mấy chục năm thiên tai địch họa,
mưa gió phũ phàng hủy hoại làm cho cảnh chùa tan hoang mái
đổ tường xiêu. Nơi Tùng lâm ngày nào nay hoang phế trở thành
nơi nghỉ chân cho trẻ mục đồng cùng đám tiều phu… Đến tháng
3 mùa xuân năm Đinh Mão niên hiệu Xương Phù (1387) nhà sư
trụ trì không nỡ để cảnh chùa ngày thêm tiêu điều đã trùng tu tôn
tạo và nhờ người soạn văn bia ghi lại sự việc đã qua.”
Với những thông tin trên, văn bia cho biết nội dung đại lược về quá
trình khởi dựng, tôn tạo chùa Hang Tràm gắn các thiền sư của Phật giáo Trúc
Lâm nửa sau thế kỷ XIV.
Phật giáo Trúc Lâm còn phát triển nhánh lên vùng Lục Ngạn. Cho đến
nay, cơ sở xác định điều đó được tư liệu Hán-Nôm ở chùa Am Vãi ghi chép.
Trên vườn chùa còn ngôi tháp đá cổ thời Trần “Liên Hoa bảo tháp” (Tháp
báu Liên Hoa): “Trúc Lâm viên tịch ma ha bất thương Tỳ khưu như liên thiền
59
sư hóa thân bồ tát cẩn vị”. Nghĩa là “Vị thiền sư là ma ha bất thương tỳ khưu
như hóa thân làm Bồ Tát được viên tịch về chốn tổ Trúc Lâm”. Tìm hiểu
thêm về chùa Am Vãi thấy trong mục Sơn Xuyên sách Lục Nam địa chí (soạn
cuối thế kỷ XIX) viết:
“Núi Am Ni, ở phía đông bắc xã Nam Điện, cao hơn ngàn trượng,
lên núi có thể nhìn được các đường núi ở bốn xung quanh thuộc
Đông Triều và Lạng Giang. Có một giếng ở đỉnh núi, nước rất
trong ngon. Lại có chùa cổ, tương truyền là nơi Công chúa nhà
Trần xuất gia tu hành ở đó”[80, tr.127].
Tính đến khi Pháp Loa viên tịch (năm 1330), “Sư đã tạo hơn 1300
tượng Phật lớn nhỏ, hai bộ tượng sơn mài, hơn trăm tượng bằng đất, dựng hai
cảnh chùa lớn và năm ngôi tháp, lập hơn 200 tăng xá” [94, tr.54]. Trong hơn
200 tăng đường mà Pháp Loa cho xây dựng, chùa Vĩnh Nghiêm là một trung
tâm, địa điểm quan trọng trong hệ thống Phật giáo Trúc Lâm. Ông đã huy
động cả giới quý tộc nhà Trần vào việc xây dựng chùa tháp lúc bấy giờ.
Bia công đức các đời mở mang và trùng tu chùa Vĩnh Nghiêm xã Đức
La, dựng năm 1932 còn ghi rõ nhiều người dân kể cả vương thân quốc thích
đã đóng góp nhiều ruộng cúng cho chùa. Bản dịch tại chùa ghi:
“Đức tổ Điều Ngự Phật hoàng Trần Nhân Tông khai mở Tùng lâm
Vĩnh Nghiêm thì kéo theo mở cả chợ chùa. Các vị vương thân quốc
thích và khắp thập phương đã phát tâm tậu nhiều ruộng cúng cho
chùa, gồm cả ruộng trong xã và ruộng ở các hạt khác nữa. ”
Văn bia Bắc Giang Bái thôn Thiệu Phúc tự của Lê Quát cũng là tư liệu
phản ánh về Phật giáo Trúc Lâm ở thời kỳ này, đặc biệt cho chúng ta thấy rõ
niềm tin Phật giáo rất sâu sắc, người dân luôn quan tâm xây dựng, trùng tu
chùa chiền, mặc du Nho giáo đã bắt đầu len lỏi vào trong xã hội. Theo Bản
dịch văn bia tại chùa, đoạn đầu của văn bia cho biết từ vương công tới người
dân đều đóng góp cho nhà Phật:
60
“Nhà Phật lấy chuyện họa phúc tác động tới lòng người, sao mà
cảm phục được người ta sâu và bền vậy! Trên từ vương công,
dưới đến thường dân, phàm là đóng góp cho việc nhà Phật, thì dù
có dốc hết tiền của, cũng không tiếc. Giá như hôm nay có gửi
gắm được gì vào tháp chùa thì hớn hở như thể cầm được khế
khoản trong tay, để ngày mai được báo đáp. ”
Đoạn tiếp theo văn bia cho thấy Phật giáo thời kỳ này rất thịnh hành và
nhiều người tin theo:
“Cho nên từ trong Kinh thành cho đến ngoài châu phủ, kể cả
những nơi thôn cùng ngõ hẻm, không bảo mà người ta cứ theo,
không hẹn mà người ta cứ tin; hễ nơi nào có nhà ở, là ắt có chùa
chiền, bỏ rồi lại dựng, hỏng rồi lại sửa, số chuông trống lâu đài
chiếm gần một nửa dân cư. Đạo Phật rất dễ thịnh hành và rất
được người ta tôn sùng. ”
Đoạn cuối văn bia cho thấy Nho giáo đã xuất hiện trong xã hội nhưng
chưa được nhiều người dân tin theo:
“Ta ngày còn trẻ đi học, dốc chí vào việc cổ kim, cũng biết qua về
đạo Thánh, muốn lấy đó để giáo hóa nhân dân, nhưng rốt cục
chưa có thể làm cho một hướng nào tin theo cả. Ta cũng thường
dạo chơi sông núi, dấu chân đã để lại trong hầu nửa thiên hạ, thế
mà chưa tìm thấy một trường học hay một văn miếu nào. Chính
vì vậy mà ta rất lấy làm hổ thẹn khi so sánh với tín đồ nhà Phật,
bèn viết ra đây để giãi tỏ lòng ta. ”
Qua những dấu ấn, dấu tích, văn bia phản ánh lại, đã phần nào cung cấp
lượng thông tin quý giá cho chúng ta biết về hoạt động xây dựng, trùng tu tôn
tạo cơ sở thờ tự của Phật giáo Trúc Lâm được sự quan tâm từ triều đình cho
tới nhân dân và tín đồ.
Như vậy, với các di tích, văn bia còn sót lại đã giúp ta biết được các
ngôi chùa thuộc Phật giáo Trúc Lâm được xây dựng, phát triển khắp các nơi
61
khu vực Tây Yên Tử. Số lượng văn bía tuy ít nhưng tư liệu này đã phản ánh
được dấu ấn của Phật giáo Trúc Lâm trên địa bàn tỉnh Bắc Giang. Tư liệu văn
bia thời Trần là nguồn tư liệu quý, có giá trị về nhiều mặt trong nghiên cứu
lịch sử văn hóa xã hội đương thời.
2.2.3. Chùa Vĩnh Nghiêm (Bắc Giang) - Trụ sở trung ương của Giáo
hội Trúc Lâm thời Trần
Trong lịch sử Phật giáo Việt Nam, chùa Vĩnh Nghiêm là một trung tâm,
quan trọng trong hệ thống Phật giáo Trúc Lâm. Chùa được xây dựng khá sớm
từ thời Lý. Đến thời Trần chùa được xây dựng thành trung tâm của Phật giáo
Trúc Lâm. Sau khi từ bỏ ngai vàng đi tu, Trần Nhân Tông: “… đã biến ngôi
chùa Vĩnh Nghiêm thành trụ sở Trung ương của Giáo hội Trúc Lâm, chứa đủ
hồ sơ của tăng, ni cả nước. Ông đã tổ chức nhiều lần độ tăng ni, mỗi lần
không dưới một nghìn người” [97, tr.12].
Phật giáo Trúc Lâm thời Trần ở Bắc Giang là một bộ phận của Phật giáo
Trúc Lâm thời Trần, duy trì chuyển tải tư tưởng Phật pháp của Phật giáo Trúc
Lâm, khẳng định chùa Vĩnh Nghiêm là một trung tâm quan trọng trong hệ
thống Trúc Lâm Yên Tử. Điều quan trọng là cả ba vị Tổ đều lấy chùa Vĩnh
Nghiêm làm trung tâm truyền bá Phật pháp của Phật giáo Trúc Lâm thời Trần.
Chùa Vĩnh Nghiêm nhanh chóng trở thành một trong những trung tâm hoằng
pháp đạo tràng an cư kiết hạ, đào tạo tăng tài, thuyết giảng. Chùa đã có tầm
ảnh hưởng cả trong giới Phật giáo và nhiều lĩnh vực khác nhau của đời sống
xã hội trong lịch sử.
Theo sử sách ghi lại thì Vĩnh Nghiêm là nơi có số lượng tăng ni tham gia
an cư kiết hạ rất đông và quần chúng phật tử đến nghe thuyết pháp rất đông.
Số người xuất gia và gia nhập giáo hội Trúc Lâm ngày một đông. Giáo hội
Trúc Lâm phát triển không ngừng. Chùa Vĩnh Nghiêm được các nhà lãnh đạo
Phật giáo bấy giờ chọn làm trụ sở Trung ương giáo hội phục vụ cho công
cuộc chấn hưng Phật giáo cũng là góp sức phát triển đất nước. Theo Nguyễn
Lang trong Việt Nam phật giáo sử luận cho biết:
62
“Tháng 9 năm Quý Sửu (1313) Pháp Loa phụng chiếu đến cư trú tại
chùa Vĩnh Nghiêm ở Lạng Giang, đã đặt văn phòng Trung ương hội
ở đó, quy định mọi chức vụ của tăng sĩ trong giáo hội, kiểm tra tự
viện và làm sổ tăng tịch. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử Phật giáo
Việt Nam tăng sĩ có hồ sơ tại giáo hội Trung ương”[66, tr.328].
Từ thời điểm này, chùa Vĩnh Nghiêm còn có thêm vai trò là nơi quy tụ
những cao tăng trong chốn thiền môn để điều hành bộ máy của Giáo hội. Cũng
theo Nguyễn Lang trong Việt Nam Phật giáo sử luận thì do số lượng tăng ni quá
đông, cứ mỗi lần tổ chức thọ giới thì phải thải ra hàng nghìn người:
“Tính đến năm 1329 số tăng sĩ đã được xuất gia trong những giới
đàn do giáo hội Trúc Lâm tổ chức dưới quyền lãnh đạo của Pháp
Loa là trên 15.000 vị. Về tự viện, năm 1313 có tới trên 100 ngôi
chùa hệ thuộc vào giáo hội Trúc Lâm. Pháp Loa đã làm rất nhiều
việc xây dựng”[66, tr.328].
Dưới sự lãnh đạo của Pháp Loa, thì nơi đây không ngừng phát triển,
mang tầm vóc như một ngôi tổ đình lớn của quốc gia, vì thế Trần Anh Tông
mới chọn chùa Vĩnh Nghiêm làm trụ sở, chứ không phải Siêu Loại, Quỳnh
Lâm, hay những ngôi Tùng lâm lớn khác ở kinh đô Thăng Long. Nguyễn
Lang trong Việt Nam Phật giáo sử luận, cũng khẳng định tầm quan trọng của
chùa Vĩnh Nghiêm đối với nền Phật giáo thời Trần: “Trong hai thế kỷ mười
ba và mười bốn, chùa là một trong những cơ sở hành đạo lớn nhất tại kinh sư
và Giáo hội Trúc Lâm đã đặt trụ sở tại đây” [66, tr.872].
Cả ba vị Tổ Trần Nhân Tông, Pháp Loa, Huyền Quang đều lấy chùa
Vĩnh Nghiêm làm Trung tâm truyền bá Phật pháp của dòng Thiền Trúc Lâm
Yên Tử. Ba vị Tổ của Phật giáo Trúc Lâm, mỗi người đều xuất thân trong một
hoàn cảnh khác nhau và có những cống hiến khác nhau cho Phật giáo Trúc
Lâm. Trần Nhân Tông là người sáng lập, Pháp Loa là người kiến tạo cơ sở vật
chất, biên soạn kinh sách, thuyết pháp và đào tạo tăng ni, Huyền Quang là
người hoàn thiện về mặt lý thuyết và kinh sách. Trần Nhân Tông khi còn tại
63
vị điều hành chính sự thỉnh thoảng về thăm ngôi chùa này. Tuy nhiên, dù đã
lên Yên Tử, thỉnh thoảng Ngài vẫn lui về Vĩnh Nghiêm tham thiền, giảng đạo
cho các tăng đồ. Trước khi viên tịch năm 1308, Ngài còn về chùa Vĩnh
Nghiêm làm lễ kiết hạ và giao cho Pháp Loa trụ trì chùa Vĩnh Nghiêm. Pháp
Loa trước trụ trì chùa Siêu Loại, khi được Trần Nhân Tông giao cho trụ trì
chùa Vĩnh Nghiêm, ngài dốc sức xây dựng chùa Vĩnh Nghiêm thành Trung
tâm Phật giáo. Ngài nghiên cứu giáo pháp, cho khắc mộc bản, kinh kệ, giảng
đạo, các tăng sĩ hằng năm theo học rất đông. Huyền Quang khi còn làm quan
dưới triều Trần đã đến chùa Vĩnh Nghiêm nghe Pháp Loa giảng đạo, sau đó
giác ngộ, từ quan đến đây tu thiền. Năm 1330 ngài được Pháp Loa giao cho
trụ trì chùa Vĩnh Nghiêm. Tại đây Ngài tiếp tục cho khắc kinh Phật, rao giảng
đạo phái, nghiên cứu Phật học.
Qua đây chúng ta thấy rằng, chùa Vĩnh Nghiêm có một vị thế quan trọng
hàng đầu trong quá trình phát triển Phật giáo Trúc Lâm thời Trần và là trụ sở
trung ương của giáo hội Trúc Lâm thời Trần.
Tiểu kết chương 2
Phật giáo Trúc Lâm thời Trần đã để lại những dấu ấn sâu đậm trên địa
bàn tỉnh Bắc Giang. Đó là dấu ấn về tông phái, tư tưởng và tu tập thể hiện qua
các hoạt động tu tập tại chùa Vĩnh Nghiêm thời Trần như an cư kiết hạ, Thiền
- giáo song hành. Dấu ấn tiếp theo về văn hóa thể hiện qua những di tích, tư
liệu văn bia thời Trần của Phật giáo Trúc trên địa bàn tỉnh Bắc Giang, đã góp
phần phác thảo được những dấu ấn của Phật giáo Trúc Lâm nơi đây. Chùa
Vĩnh Nghiêm ở Bắc Giang có vị thế quan trọng thời Trần từng là trụ sở trung
ương của giáo hội Trúc Lâm thời Trần nơi Tam tổ Trúc Lâm đều lấy làm
trung tâm truyền bá Phật pháp. Có thể nhận thấy Phật giáo Trúc Lâm thời
Trần ở Bắc Giang đã có vị thế quan trọng trong quá trình phát triển của Phật
giáo thời Trần, ảnh hưởng của nó không chỉ ở trong giới thiền môn mà còn có
tác động ảnh hưởng rộng trên nhiều giới, nhiều lĩnh vực khác nhau của đời
sống xã hội.
64
Chương 3
NHỮNG GIÁ TRỊ NỔI BẬT CỦA PHẬT GIÁO TRÚC LÂM
3.1. GIÁ TRỊ TÔN GIÁO CỦA PHẬT GIÁO TRÚC LÂM THỜI TRẦN
Ở BẮC GIANG
THỜI TRẦN Ở BẮC GIANG
3.1.1. Giá trị tông phái, hệ phái
Phật giáo Trúc Lâm thời Trần là sự kết hợp của ba dòng thiền đã có mặt
ở Việt Nam trước đó là: Tỳ Ni Đa Lưu Chi, Vô Ngôn Thông, Thảo Đường.
Trên cơ sở tiếp biến, giao lưu từ ba nguồn gốc khác nhau.
Thứ nhất, vào thế kỷ thứ VI, dòng Thiền Tỳ Ni Đa Lưu Chi do Thiền sư
Tì Ni Đa Lưu Chi người Nam Thiên Trúc (Ấn Độ) sáng lập. Tỳ Ni Đa Lưu Chi
sang Trung Quốc, đắc pháp với tam tổ Tăng Xán và được Tổ chỉ dạy về phương
Nam truyền đạo. Năm 580, thiền sư đến Việt Nam tu ở chùa Pháp Vân (chùa
Dâu), truyền pháp cho thiền sư Pháp Hiền, truyền thừa được 19 thế hệ.
Thứ hai, vào thế kỷ thứ IX, dòng Thiền Vô Ngôn Thông do Thiền sư Vô
Ngôn Thông người Trung Quốc, đệ tử đắc pháp của Tổ Nam Nhạc Hoài
Nhượng truyền sang. Năm 820, Vô Ngôn Thông từ Quảng Châu qua Việt
Nam ở chùa Kiến Sơ, truyền pháp cho Lập Đức, truyền thừa được 17 thế hệ.
Thứ ba, vào thế kỷ XI, dòng Thiền Thảo Đường do Thiền sư Thảo
Đường (là tù binh năm 1069 sau cuộc chinh phạt Chiêm Thành của vua Lý
Thánh Tông) sáng lập. Dòng Thiền Thảo Đường trải qua 6 thế hệ.
Dấu ấn căn bản của Phật giáo Trúc Lâm được Trần Nhân Tông lĩnh hội
và phát triển từ sự dung hợp giữa ba yếu tố cơ bản của ba tông phái, pháp tu
là: Thiền tông, Tịnh Độ tông và Mật tông.
Thiền tông, với chủ trương “Giáo ngoại biệt truyền”, “Bất lập văn tự”,
“Trực chỉ nhân tâm”, “Kiến tính thành Phật”, mục đích cuối cùng của người
tu theo Thiền tông là liễu ngộ Phật tính, người tu tập rèn luyện tập trung tư
65
tưởng mãnh liệt không để cho phân tán bằng cách thức “định”. Người tu hành
có thể trực tiếp chứng ngộ chân lý trong đời sống hiện tại gọi là “đốn ngộ”.
Tịnh Độ tông, thuộc dòng Đại thừa. Pháp tu này dạy con người chuyên
tâm niệm Phật, để được vãng sinh về nơi Tịnh Độ của Phật A Di Đà, đồng
thời làm cho lòng trong sạch và êm lặng.
Mật Tông, pháp tu chủ trương sử dụng những phép tu huyền bí như
dùng linh phù, mật chú, ấn quyết… Mật tông du nhập vào nước ta không tồn
tại như một tông phái riêng mà hòa vào tín ngưỡng dân gian, Đạo giáo, dùng
pháp thuật, yểm bùa…
Sự dung hợp Thiền - Tịnh - Mật chính là một trong những nét đặc trưng
của Thiền tông Việt Nam, đã thể hiện được giá trị hệ phái, tông phái trong
suốt chiều dài lịch sử hình thành và phát triển của Phật giáo Việt Nam.
Trong nhiều năm trở lại đây, Hòa thượng Thích Thanh Từ đã có xu
hướng khôi phục lại Thiền tông Việt Nam ở trong nước, xây dựng các thiền
viện Trúc Lâm, hướng dẫn và tổ chức các khóa tu thiền, thực hiện nghi thức
Lục thời sám hối khoa nghi của vua Trần Thái Tông, giảng dạy Khóa hư lục,
Ngữ Lục… Mục đích của việc thành lập các Thiền viện Trúc Lâm được Hòa
thượng Thích Thanh Từ khẳng định:
“Chúng tôi thành lập Thiền viện Trúc Lâm với mục đích khôi phục
Thiền tông Việt Nam. Nói khôi phục Thiền tông Việt Nam tức là
làm sống dậy Thiền tông đời Trần. Bởi vì Thiền tông đời Trần mới
có đủ tư cách tiêu biểu cho Thiền tông Việt Nam. Kể từ thế kỷ thứ
VII về sau, các phái thiền từ Trung Hoa đã truyền sang Việt Nam. Mãi
đến thế kỷ thứ XIII, vua Trần Nhân Tông đi xuất gia lấy niên hiệu
Trúc Lâm Đại Đầu Đà, tu trên núi Yên Tử, mới thành lập phái Thiền
Trúc Lâm Yên Tử. Đây là phái thiền đầu tiên trên đất nước Việt Nam.
Thiền tông đời Trần cũng chính là Phật giáo đời Trần, vì thời này các
thiền sư là người lãnh đạo Phật giáo Việt Nam”[6, tr.172].
66
Về phương thức tu thiền, trong hệ thống Thiền viện đều tập trung
phương thức Thiền - giáo song hành. Theo Hòa thượng Thích Thanh Từ:
“Khi lập tu viện tôi chủ trương Thiền - giáo song hành, hai bên phải nương
nhau, nương giáo để thông thiền, nhờ tu thiền sáng được kinh” [6, tr.126].
Phương thức Thiền - giáo song hành là một trong những nội dung được kế
thừa từ Tam tổ Trúc Lâm, có thể thấy hệ thống Thiền viện Trúc Lâm mà Hòa
thượng Thích Thanh Từ đang đi theo hướng khôi phục Thiền tông Việt Nam.
Cùng với Hòa thượng Thích Thanh Từ, người có nhiều công sức truyền
bá Thiền tông Việt Nam ở nước ngoài đó là Thiền sư Thích Nhất Hạnh, ông
đã đưa ra khái niệm “Phật giáo dấn thân”, kế thừa tinh thần nhập thế của Phật
giáo Trúc Lâm, ông tổ chức nhiều khóa tu thiền, thuyết giảng tại nhiều quốc
gia trên thế giới trên nền tảng tư tưởng Thiền tông Việt Nam.
Thiền - Tịnh - Mật dung hợp chính là nét đặc trưng của Phật giáo Trúc Lâm
thời Trần nói chung, Phật giáo Trúc Lâm thời Trần tại Bắc Giang nói riêng.
Phật giáo Trúc Lâm được Trần Nhân Tông, Pháp Loa, Huyền Quang xây
dựng trên ba cơ sở của ba pháp tu Thiền - Tịnh - Mật. Đồng thời được phát
triển kết hợp với tín ngưỡng dân gian bản địa, kết hợp giữa đời và đạo, lý
thuyết và thực tiễn của con người và bối cảnh văn hóa Việt, nó cũng phù hợp
với phong tục tập quán, tư tưởng văn hóa con người Đại Việt.
Về chương trình tu học, Phật giáo Trúc Lâm chủ trương Thiền - giáo
song hành, vừa tu thiền vừa học đạo trong thời gian an cư kiết hạ kể từ Rằm
tháng Tư đến Rằm tháng Bảy theo nội quy của Phật giáo Trúc Lâm, đậm nét
Thiền tông Phật giáo Đại Việt. Với ý nghĩa của việc tu trì giới luật, chính
Pháp Loa, sau khi phụng chiếu về Vĩnh Nghiêm trụ trì đã tổ chức khóa học
Luật Tứ Phần cho các tín đồ tu trì.
Phật giáo Trúc Lâm thời Trần ở Bắc Giang thường áp dụng nghi thức
Lục thời sám hối khoa nghi của Trần Thái Tông. Đây là phương thức hành
thiền phù hợp với người Việt, bằng cách sám hối, tẩy rửa lục căn đối với lục
trần, ứng với lục thời bái sám trong ngày, không cho bụi bặm đeo bám, từ đó
67
bước vào thế giới hành trì thiền định. Sự bái sám này không chỉ thực hiện
trong ba tháng an cư mà còn hành trì quanh năm suốt tháng. Mục đích là đưa
hành giả trở về thân tâm thanh tịnh. Bên cạnh đó Pháp Loa và Huyền Quang
tại chùa Vĩnh Nghiêm vẫn chủ trương cho các hành giả hành Mật giáo, Tịnh
độ theo phong thái Thiền; nghĩa là trì tụng thần chú để gia trì định lực, niệm
Phật để đi đến nhất tâm bất loạn. Có thể thấy rằng sự dung hợp Thiền - Tịnh -
Mật trong phương thức tu tập rất rõ nét.
Bằng phương pháp quan sát, tham dự tại các lễ hội lớn, cũng như ngày
Rằm, mồng Một, ngày Tết, ngày lễ tại các ngôi chùa, thiền viện thuộc Phật
giáo Trúc Lâm tỉnh Bắc Giang, kết hợp với phỏng vấn sâu tín đồ, tăng ni,
chức sắc và người dân tham dự, NCS thu thập thông tin, mô tả, phân tích thực
trạng Phật giáo Trúc Lâm hiện nay ở tỉnh Bắc Giang hiện nay.
Qua khảo sát 400 người đi lễ tại 4 địa điểm mà NCS chọn mẫu đó là: lễ hội
chùa Vĩnh Nghiêm (100 phiếu), lễ hội Tây Yên Tử (100 phiếu), lễ hội chùa Am
Vãi (100 phiếu) và tại Thiền viện Trúc Lâm Phượng Hoàng (100 phiếu) cho thấy:
Về khảo sát việc thực hiện Thiền - giáo song hành, vừa tu thiền vừa học
100%
72.25%
22.50%
50%
6.25%
0%
Có
Không
Không biết/ Không trả lời Biểu đồ 3.1. Thực hiện chủ trương Thiền - Giáo song hành trong sinh hoạt tại Thiền
đạo tại các chùa, Thiền viện. Kết quả tại Biểu đồ 3.1.
Biểu đồ 3.1. Thực hiện chủa trương Thiền - giáo song hành vùa tu thiền,
vừa học đạo tại các chùa, Thiền viện (dành cho tín đồ)
Nguồn: Khảo sát của tác giả luận án [Phụ lục 2].
68
Kết quả khảo sát cho chúng ta thấy các ngôi chùa có thực hiện chủ
trương Thiền - giáo song hành chiếm tỉ lệ cao, cụ thể: số người trả lời Có
chiếm 72,25%, Không (22,25%), Không biết/ Không trả lời 6,25%. Để kiểm
chứng câu trả lời trên, NCS hỏi tiếp câu thứ hai để có đánh giá mức độ xác
thực. Đó là việc thực hành nghi lễ Phật giáo khi đến sinh hoạt tại chùa, Thiền
Tụng kinh, niệm Phật
2%
24.25%
Nghe giảng pháp (Kinh, Luận, Ngữ Lục)
60.75%
Tu thiền
Nghi thức Lục thời sám hối khoa nghi
62.25%
Khác
viện. Kết quả tại Biểu đồ 3.2:
Biểu đồ 3.2: Thực hành nghi lễ Phật giáo khi sinh hoạt tại chùa/ Thiền
viện (dành cho tín đồ, được chọn nhiều phương án)
Nguồn: Khảo sát của tác giả luận án [Phụ lục 2].
Qua khảo sát cho thấy thực hành nghi thức Tụng kinh, niệm Phật chiếm
tỉ lệ cao nhất 62,75%, tu thiền chiếm 62,25%, nghe giảng pháp (Kinh, Luận,
Ngữ lục) chiếm 60,75%, tiếp theo câu trả lời Khác là 2% số người cho rằng
họ thực hành dâng hương. Số lượng câu kiểm tra lại xác thực có giảm một
chút nhưng đã cho thấy đa số tín đồ đến với các chùa, Thiền viện để sinh hoạt
đều thực hành theo chủ trương Thiền - giáo song hành. Tụng kinh, niệm Phật,
Nghe giảng pháp và Tu thiền đây là cách tu tập Thiền - giáo song hành nổi bật
của Phật giáo Trúc Lâm để đạt chứng ngộ, đã được các tín đồ thực hiện.
Để khảo sát thêm loại Kinh, Sách của Phật giáo Trúc Lâm mà tín đồ
thường tụng, NCS đã phỏng vấn sâu tín đồ tu tập tại Thiền viện Trúc Lâm
Phượng hoàng đã cho rằng:
69
“Các bộ kinh của Thiền phái Trúc Lâm có nhiều, nhưng nhiều bộ dài
và khó nên chúng tôi đến đây thường tụng 2 loại chính đó là: Kinh
A Di Đà và Kinh Pháp Hoa, đối với Kinh A Di Đà ai tụng kinh này
sẽ được Đức Phật Di Đà đưa về cõi Tây Phương Cực Lạc, cố gắng
nhất tâm bất loạn để tự độ cho mình và sau độ cho người khác. Còn
tụng kinh Pháp Hoa sẽ có được vô lượng và công đức. Ngoài ra,
bên cạnh những hoạt động tụng kinh, thỉnh thoảng chúng tôi còn
phải đọc các loại sách như: Chư phẩm Kinh, Công văn tập, Thích
khoa giáo”[PL 5].
Có thể thấy các tín đồ Phật giáo Trúc Lâm tại Bắc Giang không đọc hết
được các loại kinh của Phật giáo Trúc Lâm thời Trần mà đọc chủ yếu 2 loại
kinh: Kinh A Di Đà và Kinh Pháp Hoa và thỉnh thoảng đọc thêm các loại sách
Chư phẩm kinh, Công văn tập, Thích khoa giáo. Chư phẩm kinh: Tuyển tập
những Phẩm Kinh thiết yếu và thực dụng. Công văn tập: Tuyển tập các bài
văn sớ điệp dùng trong các nghi lễ Phật giáo. Thích khoa giáo: Tập sách giáo
khoa về Phật học. Đây là điểm cơ bản có thể nhận ra được Phật giáo Trúc
Lâm qua các bộ kinh, sách mà tín đồ sinh hoạt tụng niệm.
Ngoài ra, Phật giáo Trúc Lâm ở Bắc Giang hiện nay đã có sự hỗn dung
với tín ngưỡng dân gian, ngoài thờ ba vị Tam tổ Trúc Lâm ra, có thể thấy các
cơ sở thờ tự đã thờ thêm các vị thần, thờ Mẫu, thờ cúng người đã khuất. Tiêu
biểu tại chùa Vĩnh Nghiêm, ở nhà khách có đặt tượng thờ Thần Độc Cước
(được đặt từ thế kỷ XVIII). Độc Cước là pho tượng chỉ có một chân, chỉ có
nửa người, chỉ có một mắt, một lỗ mũi, nửa mồm, một tai, một tay, một chân,
nửa thân về phía bên trái. Theo truyền thuyết, Độc Cước là vị thần linh thiêng
ở vùng sông nước và cư dân trồng lúa nước. Thần có sức mạnh vô biên giúp
đỡ con người khi gặp hoạn nạn khó khăn. Phía sau nhà Tổ đệ nhị là nơi thờ
các bà Thánh Mẫu (từ thế kỷ XVIII).
70
Ngoài tượng Phật, tượng Mẫu, tượng các vị thần, chùa Vĩnh Nghiêm còn
có ban thờ ảnh người đã khuất của người dân cúng hậu lên chùa. Tục gửi hậu
được tiến hành đều đặn từ lâu đời nay. Nội dung bia phía đông sau tiền đường
chùa Vĩnh Nghiêm đã được dịch tại chùa phán ảnh tục gửi giỗ hậu thế kỷ
XVIII: “Mẹ của Vũ Thám Thành là bà Giáp Thị Hán, cùng vợ Vũ Thám
Thành là Lý Thị Điệp và con gái là Vũ Thị Thư được gửi giỗ hậu tại chùa.
Cung tiến cho chùa La 12 sào ruộng ở khu Cửa Lẻo và 500 quan tiền”.
Qua đây ta có thể thấy sự dung hợp giữa Phật giáo Trúc Lâm ở Bắc
Giang hiện nay với tín ngưỡng dân gian.
Khảo sát sự hỗn dung giữa Phật giáo Trúc Lâm và tín ngưỡng dân gian
hiện nay biểu hiện qua thờ Mẫu, thờ thần, thờ người qua đời của tín đồ và
78.25
18.75
3.00
0.00
0.00
100 90 80 70 60 50 40 30 20 10 0
Chỉ lễ Phật
Chỉ lễ Mẫu
Chỉ lễ Thần
Chỉ lễ người qua đời
Cả lễ Phật, Mẫu, Thần, Người qua đời
người dân Bắc Giang qua Biểu đồ 3.3.
Biểu đồ 3.3: Biểu hiện sự hỗn dung Phật giáo Trúc Lâm với tín ngưỡng
dân gian hiện nay
Nguồn: Khảo sát của tác giả luận án [Phụ lục 2].
71
Kết quả khảo sát cho thấy có 78,25 % đối tượng được hỏi đến chùa, sau
khi lễ Phật đều lễ Thần, lễ người qua đời và đến lễ Mẫu tại nhà Mẫu. Chỉ lễ
Phật chiếm 18,75 %, chỉ lễ Mẫu chiếm 3%, người đến chùa chỉ để lễ Thần
hay chỉ để lễ người qua đời là không có ai. Có thể thấy rằng tín đồ và người
dân đến chùa đều lễ cả Phật, lễ Mẫu, lễ thần và lễ người qua đời, đây chính là
sự hỗn dung giữa Phật giáo Trúc Lâm với tín ngưỡng dân gian hiện nay, thể
hiện tính cởi mở mang bản sắc văn hóa Việt Nam qua các thời kỳ lịch sử.
Nhìn từ lịch sử cho thấy, Phật giáo từ khi du nhập đã dung hợp với tín ngưỡng
bản địa người Việt, trong đó có việc thờ thần, thờ Mẫu, thờ người qua đời.
Chùa không chỉ là nơi dành cho các Phật tử tu hành mà còn là nơi đáp ứng
nhiều nhu cầu của cộng đồng.
Hiện nay, sự ảnh hưởng sâu rộng của tín ngưỡng thờ Mẫu với các ngôi
chùa thuộc Phật giáo Trúc Lâm ở Bắc Giang rất rõ nét. Điều dễ nhận biết nhất
là đa số các ngôi chùa thuộc Phật giáo Trúc Lâm hiện nay ở Bắc Giang đều có
điện thờ Mẫu. Kiến trúc phổ biến của các ngôi chùa theo kiểu “tiền Phật hậu
Mẫu”. Ngoài ra trong chùa còn thờ thần, thờ cúng người qua đời. Người dân
đi chùa vừa lễ Phật, lễ Mẫu, lễ người đã khuất.
Trong sự hỗn dung hiện nay đã đề cập ở trên chúng ta vẫn có thể nhận
diện ra được Phật giáo Trúc Lâm qua một số biểu hiện như sau:
Về phương pháp tu hành nổi bật:
Phương pháp Thiền - giáo song hành hiện nay vẫn được duy trì, có thể
nhận diện được qua cách thức tu tập tại các cơ sở thuộc Phật giáo Trúc Lâm ở
Bắc Giang, như chùa Vĩnh Nghiêm, và biểu hiện rõ nhất tại Thiền viện Trúc
Lâm Phượng hoàng, là nơi chuyên tu Thiền, đồng thời vẫn giảng Kinh, Luận,
Ngữ Lục cho các tín đồ đến tu thiền, học đạo. Sự dung hợp Thiền - Tịnh - Mật
được thể hiện ngay trong mỗi thời trì tụng, trong mỗi kinh trì tụng và trong
đời sống sinh hoạt hằng ngày. Các bộ kinh tín đồ thường tụng như: Kinh Pháp
Hoa, Kinh A Di Đà. Các Ngữ lục được giảng giải như: Truyền Đăng Lục, Đại
72
Huệ Ngữ Lục, Khóa Hư Lục, Tiết Đậu Ngữ Lục… Trì chú niệm Phật A Di
Đà, tập trung tư tưởng quán Phật, quán chú là yếu tố không thể thiếu.
Nghi thức Lục thời sám hối khoa nghi được áp dụng tại các cơ sở
thuộc Phật giáo Trúc Lâm, tiêu biểu là Thiền viện Trúc Lâm Phượng
Hoàng, chùa Vĩnh Nghiêm. Đây chính là sám lỗi trước để không vướng vào
lỗi sau. Sự bái sám này được thực hiện quanh năm. Bái sám được phân làm
6 thời, mỗi thời lễ bái 1 căn. 6 căn bao gồm: căn mắt, căn tai, căn mũi, căn
lưỡi, căn thân, căn ý.
Tư tưởng “Phật tại tâm” của Phật giáo Trúc Lâm không phân biệt xuất
gia hay tại gia, tăng hay tục, mà chủ trương giúp người tu hành tu dưỡng đạo
đức, giữ tâm trong sáng, trau giồi đạo đức bằng lối sống từ bi, thực hành thập
thiện, phương thức tu tập đơn giản nhưng mạch lạc gần gũi, làm cho tín đồ dễ
tiếp thu, thực hành, mang lại hiệu quả thiết thực và lợi ích cho con người
trong cuộc sống hiện nay.
Về cơ sở thờ tự:
Có thể nhận diện ra các cơ sở của Phật giáo Trúc Lâm qua cách bài trí
tượng Phật, mặc dù tín ngưỡng thờ Mẫu đã đan xen vào trong các cơ sở thờ tự
vào thế kỷ XVII - XVIII, nhưng được đặt ở khu vực riêng thờ các bà Thánh
Mẫu: Liễu Hạnh, Mẫu Thoải, bà chúa Thượng Ngàn và Tứ phủ chư vị: Thiên
phủ, Địa phủ, Thoải Phủ và Nhạc Phủ. Trong khi đó khu vực Nhà Tổ luôn có
đặt 3 pho tượng thờ 3 vị sư tổ của Phật giáo Trúc Lâm (Trần Nhân Tông,
Pháp Loa, Huyền Quang). Ngoài ra, Tượng thờ trong các ngôi chùa Phật giáo
Trúc Lâm ở Bắc Giang (đã đề cập ở trên), tiêu biểu như tượng thờ ở chùa
Vĩnh Nghiêm thể hiện sự hỗn dung Thiền - Tịnh - Mật:
Yếu tố Thiền tông thể hiện ở bộ tượng Niêm Hoa: Thích Ca Mâu Ni, bên
cạnh là An Nan và Ca Diếp. Ca Diếp được coi là Đệ nhất tổ của Thiền tông
Ấn Độ. Bên cạnh đó ở nhà Tổ thường có tượng thờ Bồ Đề Đạt Ma, là tổ thứ
28 của Thiền tông Ấn Độ, Sơ tổ của Thiền tông Trung Hoa.
73
Yếu tố Tịnh độ thể hiện ở bộ tượng Di Đà Tam Tôn: Đức Phật A Di Đà,
hai bên là Quan Thế Âm Bồ Tát và Đại Thế Chí Bồ Tát.
Yếu tố Mật tông thể hiện qua pho tượng Quan Âm Thiên Thủ Thiên
Nhãn, Quan Âm Chuẩn Đề.
Phật giáo Trúc Lâm tỉnh Bắc Giang đang phát triển mạnh mẽ trong
những năm gần đây. Ngoài địa bàn Tây Yên Tử còn có Chùa Ích Minh ở
thôn Đồng Ích, Xã Hương Mai, huyện Việt Yên, là ngôi chùa mang đặc thù
của Phật giáo Trúc Lâm. Do nhu cầu sinh hoạt và tu tập của nhân dân Phật tử
trong và ngoài vùng ngày càng lớn, chùa Ích Minh ngày càng đông không đủ
không gian để tu tập, sinh hoạt Phật giáo. Vì vậy chùa Ích Minh đã được tiến
hành cải tạo lại, hoàn thành xong chùa Ích Minh Hạ vào ngày 27/01/2013.
Chứng tỏ rằng Phật giáo Trúc Lâm phát triển mạnh mẽ không chỉ ở riêng khu
vực Tây Yên Tử mà còn lan tỏa rộng rãi sang các khu vực khác trên địa bàn
tỉnh Bắc Giang.
Hoạt động tại các ngôi chùa thuộc Phật giáo Trúc Lâm thời Trần hiện
nay có thể nhận thấy vẫn còn một số hoạt động mang nét Phật giáo Trúc Lâm
thời Trần có thể nhận diện được thông qua thực hành nghi lễ niệm Phật, bái
sám, tọa thiền, qua tụng một số bộ kinh của Phật giáo Trúc Lâm, đặc biệt là
tọa thiền tại Thiền viện Trúc Lâm Phượng hoàng… Mặt khác Phật giáo Trúc
Lâm tại tỉnh Bắc Giang hiện nay đã có phần hỗn dung với tín ngưỡng thờ
Mẫu, người dân vừa lễ Phật, vừa lễ Mẫu, đồng thời các hoạt động khác của Phật
giáo Trúc Lâm cũng dung hợp vào chung với các hoạt động của Phật giáo tỉnh
Bắc Giang như: lễ hội, lễ Phật đản, lễ Vu Lan, Đại lễ cầu siêu, cầu Quốc thái dân
an, lễ Vía Đức Phật và Bồ Tát… Tất cả các hoạt động đều tuân theo đúng quy
định của GHPGVN tỉnh Bắc Giang. Có thể nhận thấy rằng từ thời Trần cho tới
hiện tại, Phật giáo Trúc Lâm bên cạnh các hoạt động mang nét Trúc lâm thời
Trần, về sau đã có sự hỗn dung với các loại hình tín ngưỡng khác, nhưng vẫn
khẳng định được giá trị hệ phái, tông phái của Phật giáo Việt Nam.
74
3.1.2. Giá trị tư tưởng, đạo đức
Giá trị tư tưởng, đạo đức của Phật giáo Trúc Lâm là gắn liền với tâm,
toàn bộ hành động của con người đều xuất phát từ tâm. Theo Trần Thái Tông
thì mọi việc thiện ác đều xuất phát từ tâm, trong bài Giới vọng ngữ văn (Văn răn
nói càn), Ngài dạy: “Phàm tâm là gốc của thiện ác, miệng là cửa của họa phúc.
Nghĩ một ý thì ảnh hưởng không lầm, buông một lời thì hệ quả chẳng lẫn. Quân
tử trọng lời nói như biện luận, người xưa giữ mồm miệng kín như bình. Nói thì
thẳng thắn công bằng, kể thì không cong không vẹo” [173, tr.100].
Theo quan niệm của Phật giáo Trúc Lâm, tu dưỡng đạo đức để trở về
với cái tâm, giữ cho được cái tâm trong sáng. Theo Trần Nhân Tông thì con
người ta phải biết giữ gìn tâm cho sáng, không lạc vào tà đạo; Phật ở trong
lòng mỗi người khi minh tâm, tức Phật tức tâm, trong Cư trần lạc đạo phú,
hội thứ 3, Ngài viết:
“Gìn giữ tính sáng, mựa lạc tà đạo;
Sửa mình học, cho phải chính tông.
Chỉn Bụt là lòng, sá ướm hỏi đòi cơ Mã Tổ;
Vong tài đuổi sắc, ắt tìm cho phỉ thói Bàng Công.
Áng tư tài, tính sáng chẳng tham, há vì ưa cánh diều Yên Tử
Răn thanh sắc, niệm dừng chẳng chuyển, lọ chi ngồi am sạn non Đông”
[53, tr.615].
Tu dưỡng đạo đức, rèn luyện bản tâm và cuộc sống trong sạch để được
minh tâm kiến tính. Đệ nhị tổ Pháp Loa trong bài Tán Tuệ Trung Thượng sĩ, viết:
“Ôi!
Thép ròng rèn được,
Gang sống đúc thành.
Thước trời tấc đất,
Gió mát trăng hanh
Ha!” [173, tr.485]
Trong Phật tâm ca, ông viết:
Xưa không có tâm,
75
Nay không có Phật;
Phàm, thánh, người, trời nhanh như chớp giật.
Tâm thể không phải cũng không trái,
Phật tính không hư cũng không thực” [173, tr.272]
Hay:
“Tâm tức Phật,
Phật tức tâm.
Diệu chỉ sáng thiêng kim cổ thông.
Xuân đến, tự nhiên hoa xuân nở,
Thu sang, đâu chẳng nước thu trong”. [173, tr.276]
Nếu như trước đây, Trần Thái Tông khi được khai thị qua lời chỉ bảo của
Quốc sư Trúc Lâm đã chợt hiểu rằng Phật ngay chính trong tâm mỗi người,
lòng lặng mà biết thì lập tức thành Phật, không cần phải nhọc công tìm kiếm
bên ngoài, thì đến Tuệ Trung, ông đã thấm nhuần tư tưởng ấy:
“Dục cầu tâm,
Hưu ngoại mịch;
…
Tâm tức Phật,
Phật tức tâm” [173, tr.272].
Trong Đại cương triết học Phật giáo Việt Nam của Nguyễn Hùng Hậu viết:
“Hẳn là Nhân Tông muốn tiếp chí ông nội là vua Thái Tông xưa đã
tìm cách dẫn dắt dân chúng từng bước tin vào Phật, tự mình tìm biết
rõ mình qua tụng niệm. Như vậy, việc hướng vào tâm để thấy tính,
và nay trong hành động cụ thể, bằng mười điều thiện, để xây dựng
trong nhân dân một đạo đức xã hội lành mạnh trên nền tảng đạo đức
Phật giáo là ước nguyện của ông”[49, tr.133].
Tư tưởng này đã dạy con người ta cần phải tu dưỡng đạo đức bản thân
để trở thành người tốt trong xã hội và đất nước, làm việc thì tâm phải sáng thì
mọi việc tốt đẹp đem lại sự tin tưởng cho mọi người. Đúng như lời khuyên
76
bảo của Trần Nhân Tông trong Tọa Thiền Luận: “Phàm người học đạo chỉ cần
kiến tính” [173, tr.87].
Về sự khác biệt tư tưởng Phật tại tâm so với Thiền tâm ở Ấn Độ và
Trung Hoa, có thể nhận thấy rằng Trần Nhân Tông lấy thiền tâm làm chính -
thiền tâm ấy không phải chỉ có ở Phật giáo Trúc Lâm mà Phật giáo trước đó
đã có đề cập tới. Song các phương pháp thiền tâm thời ấy chủ yếu nhìn bức
vách, luyện khí, luyện Yoga… được coi trọng đó là những phương pháp rèn
tinh, khí, thần thụ lối ép xác tạo công lực để đạt tới độ trí tuệ. Cách này buộc
người tu tâm phải xa lánh cõi trần tục, xuất gia tìm nơi tu tập.
Chữ tâm ở Trần Nhân Tông là chữ lòng. Lòng ta, lòng mọi người, lòng
dân, lòng Đức Phật. Tâm trong sáng thì lòng mới trong sáng. Lòng trong sạch
thì biển khổ mới lặng. Vì thế chủ trương Phật tại tâm của Phật giáo Trúc Lâm
là giữ cho lòng được ung dung, tự tại, trong sáng. Ở đây chúng ta thấy rõ Phật
tại tâm của Trần Nhân Tông là tu đạo Phật không nhất thiết phải ở núi cao
rừng sâu, mà ở đâu cũng được nhưng phải đạt tới độ thân tâm phải luôn tự tại.
Tư tưởng tu dưỡng đạo đức, minh tâm kiến tính của Phật giáo Trúc
Lâm đã có nhiều ảnh hưởng trong đời sống xã hội thời bấy giờ và các thời đại sau:
Kết quả khảo sát tại địa bàn nghiên cứu về tu dưỡng đạo đức theo tư
tưởng “Phật tại tâm” hiện nay:
Có
92%
Không
5%
3%
Không biết/ Không trả lời
Biểu đồ 3.4. Tư tưởng “Phật tại tâm” góp phần tu dưỡng đạo đức,
giúp tâm trong sáng
Nguồn: Khảo sát của tác giả luận án [Phụ lục 2].
77
Qua bảng khảo sát cho thấy số người cho rằng tu dưỡng đạo đức theo
tư tưởng “Phật tại tâm” giúp tâm trong sáng chiếm tỷ lệ cao nhất (92%), trong
đó tỷ lệ trả lời Không là 5%; Không biết/ không trả lời chiếm 3%. Để kiểm
chứng tính xác thực kết quả xem tín đồ và người có phân biệt được tư tưởng
“Phật tại tâm” của Phật giáo Trúc Lâm hay của Phật giáo nguyên thủy, NCS
88.75%
Biểu đồ 3.5. Cách hiểu của Tín đồ, người dân về tư tưởng Phật tại tâm"
5.75%
5.5%
100 90 80 70 60 50 40 30 20 10 0
Tu ở núi cao, rừng sâu, luyện khí
Không biết/ Không trả lời
Phật ở trong lòng mỗi người, thân tâm luôn tự tại, trong sáng
đã thực hiện câu hỏi tiếp theo:
Nguồn: Khảo sát của tác giả luận án [Phụ lục 2].
Kết quả kiểm chứng thấy rằng có 88,75% người cho đã có hiểu về tư
tưởng “Phật tại tâm” của Phật giáo Trúc Lâm, có thể thấy rằng số người này
đã cho rằng tu dưỡng đạo đức theo tư tưởng “Phật tại tâm” giúp tâm trong
sáng trong bảng 3.4. Chứng tỏ tư tưởng “Phật tại tâm” của Phật giáo Trúc
Lâm ở Bắc Giang đã ăn sâu trong tư tưởng nhiều người dân nơi đây. Tư tưởng
này giúp người dân và tín đồ tu dưỡng đạo đức, rèn luyện tâm trong sáng, khi
đó làm mọi việc sẽ tốt đẹp hơn. Trong cuộc sống tăng, ni thuộc các ngôi chùa
Phật giáo Trúc Lâm ở Bắc Giang luôn thực hành gắn đạo với đời, với nhiều
hoạt động tu tập, truyền giảng tư tưởng “Phật tại tâm”, giáo lý Phật giáo Trúc
78
Lâm cho cư sĩ, Phật tử, thanh thiếu niên đã góp phần to lớn trong việc tu
dưỡng đạo đức, hướng thiện cho con người và giữ gìn thuần phong mỹ tục
của dân tộc. Ngoài chùa Vĩnh Nghiêm, hiện nay Thiền viện Trúc lâm
Phượng Hoàng (huyện Yên Dũng) thu hút rất nhiều thanh niên, phật tử đến
tu tập. Đến đây mọi người được học giáo lý, tu đạo Phật đạt thân tâm luôn
tự tại, được giảng đạo đức lối sống, đạo hiếu, tình yêu nước con người, đất
nước, mọi người được rèn luyện tính kiên trì, vươn lên trong cuộc sống, tự
tin và tự lập với chính bản thân mình, bên cạnh đó các khóa tu của thiền
viện giúp mọi người tránh xa được cám dỗ, thói hư tật xấu của cuộc sống
đời thường. Trong nhiều năm qua, có thể khẳng định Phật giáo Trúc Lâm
Bắc Giang luôn gắn đạo với đời, tư tưởng “Phật tại tâm” cũng như giáo lý
Phật giáo Trúc Lâm đã góp phần to lớn trong việc giáo dục đạo đức và tâm
hồn cho thế hệ trẻ.
3.1.3. Giá trị phương pháp tu tập
Căn cứ vào tài liệu Khóa hư lục, Tuệ Trung Thượng sĩ ngữ lục, Tam Tổ
thực lục, Cư trần lạc đạo phú... đời Trần, đời sống sinh hoạt tu tập Thiền qua
nhiều phương thức khác nhau như niệm Phật, bái sám, tọa thiền. Phật giáo
Trúc Lâm đã thiết lập một đời sống tu tập thực nghiệm, giác ngộ ngay giữa
cuộc đời.
Về niệm Phật, loại bỏ niệm xấu, thay vào đó là niệm tốt để tâm trở nên
trong sạch hoàn toàn. Trong bài Niệm Phật luận, Trần Thái Tông viết: “Ư
niệm Phật thì chánh thân đoan tọa, bất hành tà hạnh, thị tức thân nghiệp dã.
Khẩu tụng chân ngôn, bất đạo tà ngữ, thị tức khẩu nghiệp dã. Ý tồn tinh tiến,
bất khởi tà niệm, thị tức ý nghiệp dã” [173, tr.84].
Dịch nghĩa là: Trong lúc niệm Phật thân thẳng ngồi ngay, không làm
việc tà, như vậy là tắt được nghiệp thân. Miệng tụng lời chân chính, không
nói điều xằng bậy, thế là tắt được nghiệp miệng. Ý chăm chú ở sự tinh tiến,
không nảy sinh ý nghĩ tà, thế là tắt được nghiệp ý.
79
Theo Trần Thái Tông, trong xã hội có ba loại trí: thượng trí, trung trí và
hạ trí, ứng với ba cách thức hành trì niệm Phật.
Cách thứ nhất dành cho bậc thượng trí: Bài Niệm Phật luận ghi:
“Bậc thượng trí thì tâm tức Phật, không phải nhờ thêm sự tu hành.
Ý nghĩ là bụi trần không vướng một mảy. Ý nghĩ bụi trần vốn
tịnh, cho nên nói “như như không động là thân Phật”. Thân
Phật tức là thân ta, không có hai tướng. Tướng và tướng không
phải là hai, lặng lẽ tồn tại hằng thường. Tồn tại mà không biết, đó
là Phật sống”[173, tr.84].
Cách thức thứ hai dành cho đối tượng có căn trí bậc trung:
“Bậc trung trí ắt nhờ niệm Phật. Chú ý tinh cần, luôn luôn niệm
mà không quên thì tâm mình ắt tự thuần thiện. Ý nghĩ thiện đã
hiện ra thì ý nghĩ ác sẽ bị tiêu tan. Ý nghĩ ác đã bị tiêu tan thì chỉ
còn ý nghĩ thiện. Dùng ý nghĩ mà ý thức về nghĩ thì mọi ý nghĩ
đều bị diệt hết. Khi ý nghĩ đã bị tiêu diệt ắt trở về chính đạo; lúc
mệnh hết qua đời sẽ được niềm vui cõi Niết bàn”[173, tr.84].
Cách thức thứ ba dành cho người có căn cơ hạ trí:
“Kẻ hạ trí miệng chuyên cần niệm lời Phật, lòng mong thấy hình
tướng Phật, thân nguyện sinh ở nước Phật, ngày đêm tu hành
chăm chỉ, không thối chí thay đổi, như vậy đến khi mệnh hết qua
đời sẽ theo ý nghĩ thiện mà được sinh ở nước Phật; sau đó lĩnh
hội Chính pháp mà chư Phật nêu ra và chứng được Bồ đề cũng
được Phật quả”[173, tr.84].
Phật giáo Trúc Lâm đã hướng quần chúng bước vào con đường thiền
chú tâm hướng nội, đi từ thấp đến cao qua sự vận dụng pháp môn Niệm Phật
truyền thống vào việc hành thiền.
Phật giáo Trúc Lâm thời Trần ở Bắc Giang thường áp dụng nghi thức
Lục thời sám hối khoa nghi của Trần Thái Tông. Đây là phương thức hành
80
thiền phù hợp với người Việt, đặc biệt là là các tăng, ni và Phật tử, bằng cách
sám hối, tẩy rửa lục căn đối với lục trần, ứng với lục thời bái sám trong ngày,
không cho bụi bặm đeo bám, từ đó bước vào thế giới hành trì thiền định. Sự
bái sám này không chỉ thực hiện trong ba tháng an cư mà còn hành trì quanh
năm suốt tháng của các tín đồ Phật giáo. Mục đích là đưa hành giả trở về thân
tâm thanh tịnh. NCS đã phỏng vấn sâu tín đồ trả lời về việc áp dụng nghi thức
Lục thời sám hối khoa nghi:
“Chúng tôi có biết về nghi thức Lục thời sám hối này, đây là nghi
thức tụng niệm sám hối sáu căn, nghi thức cơ bản của Thiền Trúc
Lâm. Bình thường chỉ có các thầy ở chùa thực hiện thôi, một ngày
chia sáu thời để thực hiện, chứ Phật tử như chúng tôi thì may ra một
tháng đến chùa vào ngày Rằm hay mồng Một để các thầy hướng
dẫn thực hiện, chứ thực hiện nghi thức này mất thời gian cả ngày,
liên tục trong khi chúng tôi còn bận nhiều công việc khác”[PL 5].
Có thể thấy việc thực hiện nghi thức Lục thời sám hối khoa nghi được
các tín đồ thực hiện ở đây trung bình một tháng một lần, do không có thời
gian. Việc thực hiện cách tu Lục thời sám hối khoa nghi vẫn được các tăng, ni
hướng dẫn tu tập tại các ngôi chùa Phật giáo Trúc Lâm. Một ngày chia làm 6
thời, mỗi thời 15 phút. Trong mỗi thời có 1 bài kệ dâng hương, 1 bài kệ dâng
hoa, 1 bài kệ trần bạch, 1 bài kệ sám hối, 1 bài kệ cung thỉnh, 1 bài tùy hỷ, 1
bài kệ hồi hướng, 1 bài kệ phát nguyện, 1 bài kệ vô thường. Buổi khuya thực
hành 1 thời sám hối. Sau đó cứ 4 tiếng đồng hồ thì thực hành 1 thời sám hối
tiếp theo. Sự sám hối này được hành trì đều đặn năm này qua năm khác. Việc
áp dụng Lục thời sám hối khoa nghi trong hành trì đã được các tăng, ni và
Phật tử ở Bắc Giang vẫn duy trì thực hiện, tuy mức độ ít, không thường xuyên
nhưng nghi thức này của Phật giáo Trúc Lâm không bị mất đi, vẫn được thực
hiện đúng nghi thức trong bối cảnh hiện nay.
81
Về Thiền tâm ở Phật giáo Trúc Lâm không phải áp dụng các phép thiền
đi, thiền đứng, thiền ngồi, thiền nằm mà phép thiền ở đây là rèn lòng, rèn theo
thập thiện. Như thế người ta luôn phải tu tập để cho ai cũng có tấm lòng tốt, ai
cũng đối xử tốt với cảnh vật, mọi người xung quanh. Đây là điểm căn bản của
Phật giáo Trúc Lâm rất đơn giản, không phải sự bắt buộc mà là sự tự giác.
Trần Nhân Tông luôn vận dụng những giáo lý của Phật giáo vào thực tiễn
cuộc sống, Ngài không lấy những giáo lý cao siêu, bác học, uyên thâm để
giáo hóa dân chúng mà Ngài lấy chính những giáo lý căn bản, gần gũi cho
dân chúng dễ dàng tiếp nhận đó là Thập thiện. Thập thiện đó là mười việc
thiện được thực hiện qua Thân, Khẩu và Ý. Thân gồm: Không sát sinh,
Không tà dục, Không trộm cắp. Khẩu gồm: Không nói dối, Không thêu dệt,
Không nói lưỡi hai chiều, Không nói lời hung ác. Ý gồm: Không ham muốn,
Không hờn giận, Không si mê. Thập thiện này được Trần Nhân Tông lấy làm
nền tảng đạo đức giáo dục dân chúng. Tại các am Tử Tiêu, Ngọa Vân, Thạch
Thất, Tri Kiến hay tại các chùa Vĩnh Nghiêm, Siêu Loại, Ngài thường đi vân
du hoằng đạo để khuyên dân chúng làm thiện và trừng ác, phá bỏ dâm từ và
thực hành giáo lý thập thiện. Tam tổ thực lục chép Ngài đã “đi khắp các chốn
thôn quê, trừ bỏ các dâm từ và dạy dân thực hành thập thiện” [94, tr.248].
Đây là điểm nổi bật của Phật giáo Trúc Lâm, về sau được các chùa rất chú
trọng việc hướng dẫn tín đồ tu theo thập thiện.
NSC thực hiện khảo sát về tần suất thực hiện thập thiện của tín đồ và
người dân. Kết quả tại Biểu đồ 3.6.
82
100
97.25
96.5
90
86.25
Thường xuyên
78
80
69.5
69.5
70
65.5
59.25
Thỉnh thoảng
58.75
60
54.75
54.25
50
40
Hiếm khi
31.25
28.75
28.75
30
26.25
24.5
23.75
20
19.5
20
12.75
12.5
Không bao giờ
8.75
8.75
10
2.25
3.5
2.25
1.5
1.5
1.25
0.75
1 0.75
0.5
0.25
1.25 0
0
0
0
0
0
Không sát sinh Không tà dục
Không nói dối Không thêu dệt Không nói lưỡi
Không si mê
Không trộm cắp
2 chiều
Không nói lời hung ác
Không tham muốn
Không hờn giận
Biểu đồ 3.6: Thực hiện Thập thiện của tín đồ và người dân
Nguồn: Khảo sát của tác giả luận án [Phụ lục 2].
83
Nhìn vào biểu đồ khảo sát có thể thấy tần suất thực hiện thường xuyên
việc không trộm cắp, không tà dục, không nói lưỡi hai chiều chiếm tỉ lệ cao
nhất, sau đó việc thực hiện thường xuyên không nói lời hung ác, không thêu
dệt, không nói dối, không sát sinh... Tuy nhiên, bảng khảo sát trên chỉ mang
tính chất kham khảo. NCS phỏng vấn sâu thêm tín đồ về thực hiện Thập
thiện, tín đồ trả lời:
“Chúng tôi luôn làm theo giới răn của nhà Phật, đó là thực hiện Thập
thiện thường xuyên, tu theo Thập thiện giúp cho chúng tôi không
giết người, sát hại sinh linh, trộm cắp, quan hệ bất chính với người
ngoài, giúp thân, khẩu, ý thanh tịnh từ đó không nói lời hung ác và
nói lưỡi hai chiều, không thêu dệt, không mê muội. Tuy nhiên việc
nói dối, hờn giận hay tham muốn thì thỉnh thoảng chúng tôi vẫn
chưa thực hiện được hoàn chỉnh, vì trong nhiều hoàn cảnh vẫn để
xảy ra, nhưng rất ít, chúng tôi sẽ cố gắng hoàn thiện hơn việc tu
thập thiện để có nhân cách cao đẹp hơn, sống có đạo đức, làm cho
xã hội tươi đẹp hơn nữa”[PL 5].
Kết quả khảo sát bảng hỏi và phỏng vấn sâu cho thấy, tín đồ và người
dân Bắc Giang có nhận thức và thực hiện các giới răn dạy của Phật giáo, đặc
biệt là thực Thập thiện khá nghiêm túc, điều này không chỉ các Phật tử thực
hiện mà còn ảnh hưởng tới người dân. Phật giáo Trúc Lâm đã đóng góp quan
trọng trong việc tạo lập một cộng đồng xã hội hướng thiện. Chính sự coi trọng
Thập thiện và cụ thể hóa căn bản giáo lý này trong tín đồ và dân chúng, Trần
Nhân Tông đã cho thấy vai trò quan trọng của Thập thiện trong việc giáo hóa
người dân, dân chúng muốn được nghiệp lành, thì cần phải thực hành mười điều
thiện. Trong xã hội hiện nay, nếu một con người thực hiện tốt Thập thiện, đó là
không giết người, không trộm cắp, không tà dâm, miệng không nói dối, nói lật
lọng, nói hung ác, nói thêm thắt, không tham, sân, tà kiến thì con người ấy đẹp
đẽ biết bao. Một cá nhân tốt sẽ góp phần tạo nên một xã hội tốt đẹp hơn.
84
Để làm rõ thêm giá trị tôn giáo của Phật giáo Trúc Lâm đã ảnh hưởng
đến đời sống nơi đây như thế nào, NCS tiếp tục khảo sát làm rõ lợi ích khi tu
hành theo giáo lý, tư tưởng, nghi lễ của Phật giáo Trúc Lâm. Đối tượng được
phỏng vấn được trả lời nhiều phương án. Kết quả thu được tại Biểu đồ 3.7
100
93.75%
90
87.75%
86.5%
80
77.75%
72.25%
70
60
50
40.25%
40
30
21.25%
20
10
3%
0
Cân bằng cuộc sống
Tâm thanh thản, trong sáng hơn
Nâng cao sức khỏe hơn
Làm nhiều việc thiện hơn
Tránh xa các tệ nạn xã hội
Tăng khả năng tư duy và sáng tạo
Thu nhập kinh tế tốt hơn
Không biết/ Không trả lời
như sau:
Biểu đồ 3.7. Lợi ích khi tu tập theo Phật giáo Trúc Lâm
Nguồn: Khảo sát của tác giả luận án [Phụ lục 2].
Số người cho rằng khi tu tập theo Phật giáo Trúc Lâm sẽ thấy tâm thanh
thản, trong sáng hơn có số lượng cao cao nhất 375 người (chiếm tỷ lệ
93,75%) , tiếp theo tránh xa các tệ nạn xã hội có 351 người (chiếm 87,75%),
cân bằng cuộc sống có 346 người (chiếm 86,5%), làm nhiều việc thiện hơn
311 người (chiếm 77,75%), nâng cao sức khỏe có 289 người (chiếm 72,25%),
tăng khả năng tư duy sáng tạo có 161 người (chiếm 40,25%), thu nhập kinh tế
tốt hơn có 85 người (chiếm 21,25%), không biết/ không trả lời có 12 người
(chiếm 3%). Kết hợp phỏng vấn sâu tín đồ về lợi ích tu tập theo Phật giáo
Trúc Lâm, tín đồ cho rằng:
“Trước đây, gia đình tôi xảy ra rất nhiều chuyện không hay, làm
cho tôi luôn mệt mỏi, đau đầu, tôi phải suy nghĩ rất nhiều, hay cáu
85
giận, phiền não, nhiều lúc chẳng muốn sống nữa vì quá bế tắc, sau
đó tôi đến Thiền viện tu vài tháng thấy đầu óc thanh thản hơn, ăn
ngủ tốt, hết cảm giác đau đầu, cảm thấy cuộc sống cân bằng hơn.
Tu thiền có thể coi như là gia đình thứ hai của tôi, giúp tôi vượt qua
những khó khăn trong mọi hoàn cảnh”[PL 5].
Từ kết quả khảo sát ta có thể thấy rằng, giá trị tôn giáo của Phật giáo
Trúc Lâm có ảnh hưởng trực tiếp tới đời sống người dân nơi đây. Việc đưa
những giáo lý, tư tưởng, cách thức tu tập của Phật giáo Trúc Lâm nhằm
hướng tín đồ và người dân tới những triết lý nhân sinh sâu sắc, tâm thanh
thản, trong sáng, tăng khả năng tư duy sáng tạo, đồng thời nâng cao sức khỏe,
tránh xa các tệ nạn xã hội từ đó tạo ra sự cân bằng cuộc sống, thu nhập kinh tế
tốt hơn, làm tự thiện giúp đỡ mọi người. Giá trị tôn giáo của Phật giáo Trúc
Lâm đã khuyên răn con người để chỉnh hành vi xã hội góp phần hình thành
nên lối sống mẫu mực với những phẩm chất đạo đức tốt đẹp, định hướng đạo
đức và nhân cách con người mọi thời đại và đặc biệt trong bối cảnh xây dựng
3.2. GIÁ TRỊ VĂN HÓA CỦA PHẬT GIÁO TRÚC LÂM THỜI TRẦN
Ở BẮC GIANG
nền đạo đức xã hội mới ở nước ta hiện nay.
3.2.1. Giá trị văn hóa vật thể
3.2.1.1. Hệ thống văn bia, văn tự
Văn bia thời Trần mà phần lớn là văn bia chùa là nguồn tư liệu quý, có
giá trị về nhiều mặt trong nghiên cứu lịch sử văn hóa xã hội đương thời. Phật
giáo Trúc Lâm Yên Tử để lại dấu ấn sâu đậm ở cụm di tích danh thắng thuộc
dãy núi Yên Tử và phụ cận, mà cụ thể là các di tích thuộc huyện Đông Triều
(tỉnh Quảng Ninh), ở một số di tích thuộc huyện Chí Linh (tỉnh Hải Dương)
và vùng Tây Yên Tử, thuộc tỉnh Bắc Giang). Nội dung văn bia khá phong phú
phản ánh nhiều mặt về hoạt động Phật giáo.
86
Chùa Sơn Tháp là một cơ sở của Phật giáo Trúc Lâm. Văn bia khắc
trên Thiền vị của ngôi tháp đá cổ thuộc phế tích chùa Sơn Tháp (thuộc xã
Cẩm Lý, huyện Lục Nam) có nội dung như sau: “Huyền cơ thiện thọ Pháp
Vân Hòa thượng vị” (Nghĩa là: Bài vị Hòa thượng có đạo hiệu là Huyền Cơ
Thiện Thọ Pháp Vân). Ở chùa Am Vãi (Am Ni tự) được xây dựng từ thời
Trần, trên vườn chùa còn ngôi tháp đá cổ thời Trần “Liên Hoa bảo tháp”
(Tháp báu Liên Hoa). Trong lòng tháp có tấm bia bài vị tuy đã bị phong hóa
nhưng vẫn khôi phục được đủ nội dung: “Trúc Lâm viên tịch Ma ha Tỳ khưu
Như Liên hóa thân Bồ tát cẩn vị” (Nghĩa là: Vị thiền sư là Ma ha Tỳ khưu
Như Liên hóa thân bồ tát được viên tịch về chốn tổ Trúc Lâm).
Một trong số văn bia có niên đại sớm nhất và quý giá thời Trần là văn
bia chùa Hang Tràm (Nham Nguyệt tự) ở xã Tân Liễu, huyện Yên Dũng. Văn
bia được soạn khắc năm Xương Phù thứ 11 (1387). Bài văn bia khắc khi
nhiều sự kiện liên quan đến việc chấn hưng Phật giáo Trúc Lâm Yên Tử ở
một bảo sái thờ Phật thời kỳ giữa và cuối thế kỷ XIV.
Thời Trần còn có bài văn bia nổi tiếng của Lê Quát là Bắc Giang Bái
thôn Thiệu Phúc tự. Chúng ta biết rằng, chùa Thiệu Phúc, thôn Bái được đề
cập ở đây chính là chùa thôn Cung Bái (xã Đan Hội) ngày nay, vốn là danh
lam bảo sái thời Trần ở sườn Tây Yên Tử. Tiếp nối văn bia thời Trần là văn
bia thời Lê sơ phản ánh các danh lam cổ tự của Trúc Lâm ở Tây Yên Tử. Đó
là ở chùa Khám xã Khám Lạng, huyện Lục Ngạn có một bệ đá hoa sen niên
hiệu Thuận Thiên và bệ tượng Phật niên hiệu Hồng Đức thời Lê Sơ. Cụ thể là
minh văn khắc trên bệ đá chùa Khám ghi Thuận Thiên ngũ niên Nhâm tí niên,
Khám xã Hạ phẩm Lưu Câu, thê Đỗ Xú. Nghĩa là: Năm Nhâm Tí niên hiệu
Thuận Thiên thứ 5 (1432). Lưu Câu chức Hạ phẩm người xã Khám và vợ là
Đỗ Xú (công đức). Minh văn khắc trên bệ tượng Phật vào năm Hồng Đức thứ
25 (1494).
87
Ngoài ra, chùa Vĩnh Nghiêm, Trung tâm của Phật giáo Trúc Lâm thời
Trần, hiện còn lưu giữ nhiều di sản Hán Nôm của Phật giáo Trúc Lâm. Trong
đó, kho Mộc bản chùa Vĩnh Nghiêm vừa được tổ chức UNESCO ghi danh là
“Di sản tư liệu ký ức thế giới khu vực châu Á - Thái Bình Dương”. Pháp Loa
đã cho san khắc các bộ kinh luật từ những năm đầu thế kỷ XIV tại chùa Vĩnh
Nghiêm để phục vụ việc truyền giảng và lưu giữ giáo lí, tư tưởng của Phật
giáo Trúc Lâm như: Đại tạng kinh, Tứ phần luật, Kim cương tràng đà la ni
kinh khoa chú, Tuệ Trung thượng sĩ, Tham thiền chỉ yếu, Niết bàn đại kinh
khoa sớ, Pháp Hoa kinh khoa sớ... Tuy nhiên, đến đầu thế kỷ XV giặc Minh
đã hủy hoại hết mộc bản thời kỳ này. Đến cuối thế kỷ XVI, các sư tổ chùa
Vĩnh Nghiêm lại cho san khắc một số tạng kinh, nhưng do chiến tranh Lê -
Mạc và khí hậu khắc nghiệt nên số lượng mộc bản san khắc thời kỳ này còn
lại rất ít. Cuối thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX, kho mộc bản được san khắc lại,
đây là di sản tư liệu phong phú, thuộc nhiều lĩnh vực, trong đó giá trị lịch sử
thể hiện rõ nét qua nội dung của khối mộc bản này.
Thông qua Mộc bản chùa Vĩnh Nghiêm giúp chúng ta có cái nhìn sâu sắc
và toàn diện về Phật giáo Trúc Lâm. Điều này, được thể hiện rõ qua các tác
phẩm khắc trên Mộc bản đó là Thiền tông bản hạnh, Yên Tử nhật trình, là những
tập thơ nói về sự ra đời và truyền bá Phật giáo Trúc Lâm. Từ Tuệ Trung Thượng
Sĩ đến Trần Thái Tông rồi đến Trần Nhân Tông cùng Pháp Loa, Huyền Quang.
Tiếp đó là Trần Anh Tông và Trần Minh Tông, tất cả đều là những bậc tiền bối
của Phật giáo Trúc Lâm và cũng là những người in dấu chân Phật lên khắp dãy
núi Yên Tử ở vùng Đông Bắc, Việt Nam.
Kho mộc bản chùa Vĩnh Nghiêm thể hiện rõ tư tưởng Phật giáo Trúc
Lâm do 3 vị tam tổ sáng lập. Đây là chi phái Phật giáo mang bản sắc Việt
Nam, trên cơ sở tiếp thu, hội nhập văn hoá Phật giáo của Ấn Độ và Trung
Quốc trong hoàn cảnh lịch sử cụ thể. Tư tưởng Phật giáo của Phật giáo Trúc
Lâm thể hiện bản lĩnh Việt Nam trong việc tiếp biến tinh hoa văn hóa nước
88
ngoài. Sự ra đời của Phật giáo Trúc Lâm khẳng định sự độc lập, tự chủ, bước
lớn mạnh của Phật giáo Việt Nam, đánh dấu quá trình Việt Nam hóa Phật
giáo của Ấn Độ và Trung Quốc. Nội dung trên khối tư liệu mộc bản này còn
nguyên giá trị cho đến hiện nay, nên cần được nghiên cứu kỹ lưỡng, bảo tồn
và phát huy giá trị.
Chùa Vĩnh Nghiêm hiện còn một số bia tháp ghi tự hiệu một số vị
Thiền sư của Phật giáo Trúc Lâm thời Trần. Chùa còn khá nhiều văn bia khác
ghi về tiến trình xây dựng, trùng tu chùa, tô tượng, đúc chuông. Chẳng hạn,
văn bia Chúc thánh Vĩnh Nghiêm tự bi khắc dựng cuối triều nhà Mạc thế kỷ
XVI, ghi việc Đà Quốc công Mạc Ngọc Liễn và Công chúa Phúc Thành công
đức góp sức trùng tu chùa. Văn bia Trùng tu Vĩnh Nghiêm tự bi ghi việc trùng
tu tòa thượng điện, thiêu hương, tiền đường, hậu đường những năm đầu thế
kỷ XVII. Văn bia Vĩnh Nghiêm tự công đức bi được soạn năm 1606 ghi việc
trùng tu, tô tượng chùa Vĩnh Nghiêm.
Phật giáo Trúc Lâm còn góp phần quan trọng đối với quá trình phát
triển của hệ thống văn tự Việt Nam. Ngoài một số mộc bản được khắc bằng
chữ Hán thì chữ Nôm được dùng khá phổ biến. Đó là loại văn tự của riêng
người Việt Nam, được sáng tạo ra từ thế kỷ XI trên cơ sở các ký tự chữ Hán, ghi âm tiếng Việt.
Như vậy, văn bia, văn tự ở phía Tây Yên Tử thuộc địa phận tỉnh Bắc
Giang khá phong phú và quý giá, là sản phẩm và dấu tích trực tiếp của các
hoạt động và thực hành tôn giáo của Phật giáo Trúc Lâm thời Trần. Đây là
chứng tích xác định đối với các cơ sở thuộc Phật giáo Trúc Lâm, đóng góp giá
trị rất lớn vào di sản văn hóa Việt Nam.
3.2.1.2. Hệ thống di tích thời Trần qua khai quật khảo cổ học
Bên cạnh hệ thống văn bia, văn tự kể trên, giá trị văn hóa của Phật
giáo Trúc Lâm thời Trần còn thể hiện qua hệ thống di tích, di vật khảo cổ
các ngôi chùa thời Trần mà nay đã bị tàn phá và trở thành phế tích ở khu
89
vực Tây Yên Tử tỉnh Bắc Giang. Thông qua hệ thống di tích khảo cổ học
này, có thể làm sáng tỏ nhiều vấn đề trong lịch sử, phục vụ công tác nghiên
cứu khoa học, trùng tu, phục dựng con đường văn hóa tôn giáo của Phật
giáo Trúc Lâm.
Chùa Am Vãi: hiện còn hai di tích là chùa cũ và chùa mới. Chùa cũ:
gồm các tòa tiền đường, tam bảo, hành lang, hậu đường và nhà bếp, giếng
nước, vườn tháp.
+ Tòa tiền đường nền dài 20m, rộng 5,5m.
+ Tam bảo: dài 10m, rộng 6m.
+ Hành lang trái: dài 15,5m, rộng 3,80m.
+ Hậu đường: dài 15m, rộng 7m.
+ Hai tháp đá: 1m x 1,10m. Mỗi tháp cách nhau 3,4m.
Chùa mới: có mặt bằng kích thước dài 11m, rộng 6,1m.
Tháp chùa Am Vãi (số lượng 02, phục hiện 1). Tháp có mặt bằng hình
vuông, kích thước: 1,8m x1,8m, cao toàn bộ 3,2m. Thân tháp cao 1,10m.
Chóp tháp: 4 đao rộng 1,35m. Trên thân tháp có bài vị của thiền sư được thờ.
Chùa Hòn Tháp: Được san làm 3 cấp. Khu tam bảo ở cấp thứ 3, cấp thứ
2 bỏ không vì sườn núi hẹp; cấp thứ nhất là sân vườn rộng và có một nền có
thể là tam quan. Cạnh tam bảo có một nhà dành cho tăng ni cư trú. Nền chùa
có kích thước dài 8m, rộng 10m. Nhà tăng ni dài 6m, rộng 10m. Tháp chùa có
mặt bằng kích thước: 1,40m x 1,40m, cao 2,1m.
Tháp chùa Hòn Tháp: Đá đế tháp có kích thước: 40cm x 60cm x 40cm.
Đá bệ tháp có gờ chỉ: 47cm x 40 cm x 15 cm. Đá thân tháp có bài vị: 70cm x
34 cm x 28cm. Đá chóp tháp tương đương 50 cm x 50 cm x 40cm.
Chùa Bình Long: có 3 khu. Khu 1: ở giữa núi Bình Long thuộc dãy
Huyền Đinh, khu 2: ở núi Hòn Chùa, khu 3: ở trong Làng Chùa.
Khu 1: gồm khu Tam bảo do cây rừng mọc kín, không thể phát hiện
dấu vết nền chùa, chỉ còn hai khối đá lớn. Khu giếng nước: ở sườn phải núi
90
chùa có đường kè đá đi lại. Giếng nằm ở bên chân khối đá lớn, trên phiến đá
có hai chữ “Thanh Thủy” chữ Hán.
Khu 2: là khu chùa di chuyển từ núi về Hòn Chùa. Chùa nằm ở
sườn núi quay về phái huyện Lục Nam, bao quanh chùa còn có tường và
dấu nền chùa.
Khu 3: ở thôn Chùa, trong khu đất đình cũ. Ngôi chùa này mới xây
dựng, quy mô nhỏ, kiến trúc đơn giản, 3 gian tiền đường, 2 gian tam bảo, một
nhà khách và nhà tăng ni.
Chùa Yên Mã:
Khu Tam bảo: Ở trên chùa cao của sườn núi được kè đá mặt dưới. Nền
chùa kích thước dài 18m, rộng 14m. Cách hai bên đầu chùa 3,5m có hai nền
nhỏ mỗi chiều dài 3,5m, rộng 2,8m. Phía dười sườn núi có nền dài 21m, rộng
7,8m. Phía dưới có hai thềm kè đá 5m và 3,5m, dưới thềm Tam bảo ó ba thềm
đất 20m, 15m, 10m. Bên phải khu suối chùa có phiến đá lớn, trên đó đục dấu
một bàn chân khổng lồ, kích thước dài 40cm, rộng 20cm, sâu 25cm.
Chùa Hồ Bấc:
Gồm có 7 cấp nền, 4 nền kè đá, 3 nền tuy có kè nhưng dấu tích
không rõ.
Hồ Bấc: Nam Bắc 43m, Đông Tây 45m
Giếng giữa hồ: đường kính 8m, cao 0,5m.
Bãi rộng trước chùa 70m
Bãi đất nền tam bảo: dài 35,5m, rộng 40,5m
Nền Tam bảo thứ nhất: dài 13m, rộng 23m
Nền thứ hai: rộng 7,5m, dài 37,5m
Nền thứ ba: rộng 20m, dài 50m.
Nền thứ tư rộng 25m, dài 60m.
Nền thứ năm rộng 15m, dài 60m.
Nền thứ sáu rộng 20m, dài 70m.
Nền thứ bảy rộng 20m, dài 100m.
91
Cụm di tích Hang Non - Khám Lạng - Chùa Cao:
Núi Khám Lạng nằm ở bờ hữu sông Lục Nam, cách huyện lỵ Lục Nam
chừng 3km. Núi thuộc các địa phận các xã Khám Lạng, Chu Điện, Phượng
Sơn. Trên núi có các ngọn cao chừng 100m mang tên Hang Non, rừng
Thông… Trên núi có hang lớn gắn với truyền tích Thánh Mẫu và dấu bàn
chân. Bên hang có thờ ba vị thần với các phiến đá chạm khắc rồng phượng
độc đáo. Hang Non rất rộng. Quanh núi có nhiều di tích cổ xưa. Đó là chùa
Cao xây dựng từ thời Trần nằm trong quần thể di tích chùa Khám Lạng với
Chùa Khám - Chùa Cao - Đình Hạ - chùa Hang Non - Đền Mẫu - Đền Trung -
Đền Thượng.
Chùa Hang Non bị thời gian hủy hoại nhưng còn Hang Non và bãi đá có
vết chân thần. Chùa nằm ở lưng chừng của núi Non gần cửa Hang Non và đền
Non Thượng. Hiện vật chỉ còn các mảnh chạm khắc rồng trên bệ đá.
Chùa Khám Lạng: đây là công trình Phật giáo có quy mô lớn. Trên bức
đại tự có ghi 4 chữ “Thiền Lâm Cổ Tự” cho ta thấy đây là một ngôi chùa theo
Phật giáo Trúc Lâm. Về kiến trúc, chùa nằm trong một khuôn viên rộng 3.600m2. Tòa tam bảo gồm 5 gian tiền đường, 3 gian tam bảo có kết cấu liên
hoàn theo bố cục chữ “Đinh”. Ngói lợp có hai loại: ngói âm dương và ngói
mũi hài. Tòa tăng đường hơi lệch về phía sau gồm 5 gian gỗ lim nhỏ hơn.
Công trình này được tạo dựng muộn hơn tòa Tam bảo nhưng hiện nay cũng
đã bị xuống cấp nghiêm trọng. Chùa Khám Lạng hiện còn lưu giữ nhiều loại
hiện vật có giá trị như: sập thời thời Lê, lọ hương đá, mõ đá, v.v… Ngoài ra
còn có các bức đại tự, câu đối cửa võng, sơn son thếp vàng lộng lẫy, chạm
khắc nhiều hoa văn đẹp. Tượng Phật còn giữ được 27 pho. Hương án đá chùa
Khám Lạng là một hiện vật gốc độc bản duy nhất, được các nghệ nhân dân
gian khởi tác và hoàn thành cách đây 600 năm. Đây là một kiệt tác nghệ thuật
hoàn mỹ với kích thước dài 3,12m, rộng 1,4m, cao 1,2m. Các họa tiết được
chạm khắc trên Hương án đá từ hình rồng, cánh sen, hoa cúc, hoa văn sóng
92
nước… đều lưu giữ những giá trị văn hóa - lịch sử đặc trưng thời Nhà Lý -
Trần. Chạm khắc hình hoa sen, hoa cúc mang biểu trưng sức mạnh hùng trí
của nhà Phật; hình rồng mang biểu trưng của vương quyền; các hình văn,
sóng nước biểu trưng của văn hóa sông nước, văn hóa miền biển. Với những
giá trị lịch sử, văn hóa, giá trị mỹ thuật và tính độc đáo quý hiếm, Hương án
chùa Khám Lạng được Thủ tướng Chính phủ công nhận là bảo vật Quốc gia
tại Quyết định số 2382/QĐ-TTg ngày 25 tháng 12 năm 2015.
Chùa Cao (Hưng Quang tự) thuộc thôn Nồi, xã Khám Lạng, huyện Lục
Nam. Căn cứ vào dấu tích còn xót lại, xưa kia chùa có quy mô kiến trúc hoàn
chỉnh thời Lý - Trần. Chùa quay mặt về hướng Nam, phía trước có sông Lục
Nam. Chùa được bố cục theo kiểu nội công, ngoại quốc. Quanh khu vực chùa
được khuôn lại bằng bức tường đắp đất lẫn sỏi cơm nay vẫn còn dấu tích.
Chùa đã bị tàn phá vào khoảng cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX bởi chiến
tranh. Đến giữa thế kỷ XIX địa phương phục hồi lại nhưng với quy mô nhỏ
hơn. Thời kỳ kháng chiến chống Pháp chùa một lần nữa bị hủy hoại. Năm
1995 nhân dân địa phương phục hồi lại trên nền đất cũ với quy mô nhỏ 3 gian
tiền đường, 2 gian Phật điện.
Các di vật thời Lý: là các đá nhám kê chân tháp có tạc hoa văn sóng
nước. Do vật này có trọng lượng nặng, thể khối lớn. Có di vật hình lá đề bằng
đá, trên có chạm đôi rồng thời Lý. Các viên ngói lợp chùa cỡ lớn: 52 x 32 x 4cm
mũi cao 6-7 cm. Có viên gắn hình lá đề với đôi rồng lá đề ở trên mũi ngói.
Các di vật thời Trần: là những viên ngói mũi cao 5-7cm, khổ lớn như
ngói thời Lý và có một số loại kích thước nhỏ hơn. Ở đây đã phát hiện được
đầu rồng đất nung, trên khu vực chùa. Mặt tiếp xúc đoạn thân rồng được cắt
chéo, phẳng, rỗng. Chiều cao từ đỉnh đầu đến đoạn cắt là 46 cm, đoạn thân
cao 28 cm đường kính đoạn cổ và thân rồng là 15 cm, dày 3 cm.
Cuộc khai quật năm 1999 đã phát hiện ra móng gạch của một công trình
chùa cổ. Móng xây bằng gạch nung không chắc như gạch thời Lý có kích
93
thước 24 x 40 x 5cm. Đồ gốm cũng được tìm thấy nhiều song đều vỡ thành
các mảnh. Năm 2003, trong lần tu sửa chùa, người dân phát hiện những hiện
vật bằng đá. Đó là những trụ cột chân tảng đá lớn. Với những di vật đã phát
hiện ở chùa Cao giúp chúng ta có những thông tin về niên đại của ngôi chùa
này. Dưới thời Lý, công trình kiến trúc chùa Cao đã khá hoàn chỉnh, với quy
mô lớn, kiến trúc đẹp. Đến thời Trần chùa vẫn tồn tại và hưng thịnh. Có thể
chùa đã qua nhiều lần tu sửa, song kiến trúc cơ bản vẫn là nền móng kiến trúc
từ thời Lý - Trần.
Chùa Ngọ
Chùa Ngọ, hay còn gọi là chùa Đồng Vành, thuộc xã Lục Sơn, huyện
Lục Nam. Trong thung lũng Mai Sưu sát núi Phật Sơn. Xưa thuộc tổng Vô
Tranh gồm các xã Vũ Ninh, Hổ Lao, Đám Trì. Trong sơn phận này là tiếp
giáp 3 tỉnh Bắc Giang, Quảng Ninh, Hải Dương. Hệ thống núi này có chùa
Hồ Thiên, Am Ngọc Vân, chùa Ngọ (Đồng Vành). Chùa Hồ Thiên là một
thiền viện lớn do Pháp Loa xây dựng, Am Ngọc Vân do Trần Nhân Tông xây
dựng (2 chùa này thuộc tỉnh Quảng Ninh). Chùa Ngọ thuộc xã Lục Sơn (Lục
Nam). Chùa xưa không rõ địa điểm chính xác, tục truyền chùa được xây dựng
dưới thời Trần, cùng thời gian xây dựng chùa Hồ Thiên, Am Ngọa Vân. Chùa
là nơi dừng chân của Trần Nhân Tông trước khi ngài lên Yên Tử tu hành.
Chùa nằm ở khu vực đồi Chè (Đèo Gọn) thuộc làng Đồng Vành, đầu thế kỷ
XX người dân đã di chuyển về Rừng Họ (làng Đồng Vành). Chùa hiện nay
chỉ còn phế tích. Hiện vật có giá trị duy nhất còn lại là pho tượng Phật ngồi
trên tòa sen bằng chất liệu đá nhám. Tượng có chiều cao 50 cm, được tạc
khoảng thế kỷ XVII - XVIII. Đầu thế kỷ XX tượng bị vỡ phần đầu đã được
người dân địa phương khôi phục lại. Hiện vẫn chưa có đợt khảo cổ học lớn
nào khai quật tại đây để làm rõ hơn về quy mô kiến trúc cũng như vị trí cũ của
ngôi chùa này.
94
Qua các dấu vết khảo cổ các ngôi chùa thời Trần ở phía Tây Yên Tử ta
có thể nhận xét rằng các ngôi chùa trên hiện tại đã hoàn toàn bị tàn phá, trở
thành phế tích. Tuy thế qua các vật liệu còn tìm thấy ở di tích có thấy được
các di tích đó đều mang giá trị văn hóa mà nó chưa đựng. Các ngôi chùa này
được xây dựng theo kiểu kết cấu bộ vì kèo với các kết cấu liên kết xà kẻ với
quy mô khác nhau. Do các chùa nằm ở trên núi cao nên các mặt bằng kiến
trúc đều phải có hướng chính là nhìn xuống sườn thấp phía trước. Còn sau
chùa đều phải dựa vào núi. Vì vậy để có mặt bằng chùa, các chùa hầu hết phải
san núi kè nền bằng đá để có một bố cục mặt bằng theo ý muốn. Tùy theo địa
hình cụ thể mà mặt bằng công trình đặt ra các cấp độ khác nhau. Các di tích
chùa cổ tuy ở độ cao và độ xa cách nhau nhưng nhìn chung các di tích vẫn có
một mối liên hệ với nhau và với xã hội. Các di tích Am Vãi, Yên Mã, Bình
Long, Hòn Tháp, Hồ Bấc, Đồng Vành, chùa Cao đã có vai trò tích cực, là cơ
sở trực tiếp của trung tâm Phật giáo Vĩnh Nghiêm. Đây là những di tích của
Phật giáo Trúc Lâm thời Trần mang nhiều giá trị văn hóa vật thể cần phải
được bảo tồn, phục dựng và phát huy giá trị.
Để khảo sát quan điểm đánh giá của cán bộ văn hóa tỉnh Bắc Giang về
hệ thống văn bia, văn tự, di tích, di vật của Phật giáo Trúc Lâm thời Trần ở
Bắc Giang, NCS đã phỏng vấn ông Nguyễn Hữu Phương - Trưởng phòng
Quản lý Di sản Văn hóa, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Bắc Giang,
cho rằng:
“Hệ thống văn bia, văn tự, di tích, di vật của Phật giáo Trúc Lâm thời
Trần ở Bắc Giang rất đa dạng, nằm ở khu vực Tây Yên Tử tỉnh Bắc
Giang, nội dung vô cùng phong phú và quý giá, những tư liệu văn
bia cùng với các di tích nơi đây đã phản ánh nhiều mặt hoạt động
của Phật giáo Trúc Lâm thời Trần, đóng góp nhiều giá trị vào di sản
văn hóa Việt Nam. Chính vì vậy, tỉnh Bắc Giang luôn nỗ lực trong
công tác bảo tồn và phát huy giá trị các di tích, di vật của Phật giáo
Trúc Lâm”[PL 4].
95
Ngoài ra, NCS đã làm rõ thêm những đánh giá của GHPG tỉnh Bắc
Giang về giá trị văn hóa của Phật giáo Trúc Lâm thời Trần. Phỏng vấn sâu
Đại đức Thích Pháp Minh - Trưởng Ban Hoằng pháp cho rằng:
“Hệ thống di tích Tây Yên Tử do Pháp Loa xây dựng, đều có nguồn
gốc từ thời Lý-Trần, đến thời Trần thì được hưng công xây dựng
lớn, mặc dù ngày nay hệ thống chùa ở Tây Yên Tử đều là phế tích,
có nơi thì được xây dựng lại, những di tích, di vật, văn bia còn xót
lại đều ẩn chứa giá trị văn hóa nổi bật, nội dung tư liệu quý giá,
nhiều điểm di tích có tiềm năng du lịch lớn cần được bảo tồn, gìn
giữ và phát huy giá trị. Bên cạnh đó còn là di sản văn hóa phi vật
thể đó là các lễ hội của các ngôi chùa ở Tây Yên Tử, phản ánh
không gian văn hóa của Phật giáo Trúc Lâm thời Trần. Điều quan
trọng của hệ thống di tích, di vật này là vẻ đẹp núi rừng chưa bị
mất, qua di tích khảo cổ học vẫn còn các yếu tố cơ bản nhất, nó mới
mất đi một phần yếu tố do con người tạo ra. Nếu nó được quan tâm
chú ý hơn thì di tích này lại trở lại với vẻ đẹp như xưa”[PL 3].
Theo quan điểm của NCS, có thể thấy giá trị của các di tích, di vật của
Phật giáo Trúc Lâm là một minh chứng sống động cho khả năng tồn tại và
phát triển của nền văn hóa dân tộc. Đây không chỉ là tinh hoa Phật giáo Việt
Nam, mà còn là tinh hoa văn hóa của cả dân tộc. Trong khi phần lớn di tích
kiến trúc Phật giáo thời Trần ở Tây Yên Tử, Bắc Giang đến nay đã bị hư
hỏng, biến đổi nhiều, thì những văn bia, văn mộc bản còn sót lại được xem là
trang sử có giá trị trong việc khôi phục diện mạo của các di tích cũng như các
hoạt động Phật giáo và văn hóa xã hội thời nhà Trần.
3.2.2. Giá trị văn hóa phi vật thể
3.2.2.1. Văn học Thiền
Thi phú bằng chữ Nôm có mặt rất sớm trong chốn thiền môn. Điển
hình là hai tác phẩm Cư trần lạc đạo phú và Đắc thú Lâm tuyền thành đạo ca
96
của Trúc Lâm Điều Ngự. Tổ Huyền Quang cũng đã để lại bài phú Vịnh Vân
Yên tự. Có thể nói, bài “Cư Trần Lạc Đạo Phú” của Phật hoàng đã trở thành
một triết lý sống, là tôn chỉ của Phật giáo Trúc Lâm lúc đó cũng như mãi về
sau này. Ở đó, Phật hoàng đã khái quát phương cách tu hành và xuất thế giải
thoát hết sức đơn giản và thực tế:
“Ở trần vui đạo hãy tuỳ duyên
Đói đến thì ăn, nhọc ngủ liền
Trong nhà có báu thôi tìm kiếm
Đối cảnh không tâm chớ hỏi thiền” [147, tr.94].
Có thể tóm tắt tư tưởng nhất quán của Phật giáo Trúc Lâm là: Sống hòa
mình với đời, không câu chấp, Tự tin vào mình, trở về khơi dậy tiềm lực của
chính mình, không tìm cầu tha lực, Không phụ thuộc vào bất cứ gì, dù Thiền
hay Phật, Hành động tùy duyên, làm việc cần làm, đúng lúc phải làm và
không trái quy luật tự nhiên. Đó cũng chính là những tinh hoa, thể hiện giá trị
ưu việt và tính thời đại của Thiền phái, phù hợp với quy luật phát triển tất yếu
của xã hội.
Kế thừa, tiếp thu quan điểm của bậc tiền bối, đặc biệt là từ Ngài Tuệ
Trung và vua Trần Thái Tông, với lối diễn đạt đơn giản, thực tế, Phật hoàng
đã khẳng định:
“Bụt ở trong nhà
Chẳng phải tìm xa
Nhân khuây bản nên ta tìm Bụt;
Đến cốc hay chỉn Bụt là ta” [147, tr.186].
Ngài cũng đã dạy con người kiên trì rèn luyện, tu trì bằng nhiều
phương thức để giác ngộ, dù cách thức khác nhau, nhưng chân lý đạt giác ngộ
là một:
“Vậy cho hay
Cơ quan Tổ giáo
97
Tuy khác nhiều đàng
Chẳng cách mấy gang” [147, tr.191].
Với việc vận dụng tư tưởng Phật tại tâm, tư tưởng vô ngã một cách sinh
động vào đời sống xã hội, nhà vua đã biến tấm lòng của thiên hạ thành những
tấm lòng cao đẹp của giác ngộ với chân tâm thường lạc.
Trong hệ thống mộc bản ở chùa Vĩnh Nghiêm, có nhiều tác phẩm có
giá trị văn học như: Thần du Tây phương ký, Tây phương mĩ nhân truyện,
Kính tín lục, Yên Tử nhật trình - Thiền tông bản hạnh. “Riêng tập Thiền tông
bản hạnh gồm 8 tác phẩm văn học viết theo thể phú hoặc diễn ca, dễ đọc, dễ
nhớ, dễ truyền tụng. Thủ pháp “dùng thơ nói Thiền”, thể hiện quan niệm đậm
chất triết lý Thiền bằng các hình tượng cụ thể sinh động nên người đọc dễ tiếp
nhận… có tác dụng trao truyền cho thế hệ nối tiếp hướng theo tinh thần đề
cao, rèn luyện nội lực của Thiền.” [73, tr.75].
Văn học chữ Nôm được hình thành trong thời Trần. Những tác phẩm
chữ Nôm của Trúc Lâm Điều Ngự và Huyền Quang cũng được lưu truyền.
“Từ góc độ lý luận văn học, hệ thống tác phẩm văn học Nôm Trúc Lâm (Yên
Tử), vừa có giá trị như những tác phẩm mở đầu cho sáng tác văn học bằng
ngôn ngữ bản địa, vừa có giá trị như một sự chuyển đổi “hệ hình” nghệ thuật
trong môi trường song ngôn ngữ - song văn hóa. Những tác phẩm này đồng
thời là nguồn ngữ liệu sớm nhất để nghiên cứu về đặc điểm từ vựng, ngữ pháp
của tiếng Việt vào đời Trần” [33, tr.25].
NCS đã phỏng vấn ông Nguyễn Hữu Phương - Trưởng phòng Quản lý
Di sản Văn hóa, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Bắc Giang đánh giá về
văn học của Phật giáo Trúc Lâm thời Trần ở Bắc Giang, ông cho rằng:
“Văn học đời Trần ở Bắc Giang cũng chịu ảnh hưởng sâu sắc của
Phật giáo Trúc Lâm, đó là văn học Thiền. Văn học Thiền đề cao vẻ
đẹp của con người ở bản chất, ở tự nhiên, không cầu kỳ. Văn học
Thiền viết theo thể phú hoặc diễn ca, dễ đọc, dễ nhớ, dễ truyền
98
tụng. Hình ảnh con người trong thơ Thiền đời Trần còn mang nét
đẹp cao cả, khả năng tự lực, tự cường, biết dựa vào sức mình. Chất
nhân văn trong thơ Thiền đời Trần không chỉ đề cao sức mạnh tự
lực, tự cường của con người mà còn đẹp trong suy nghĩ, hành
động. Trong xã hội hiện nay, giá trị văn học của Phật giáo Trúc
Lâm có giá trị cho tâm thức con người về một cuộc sống tốt đẹp, và
có sự ảnh hưởng tích cực đến đời sống xã hội và được nhiều nhà
nghiên cứu văn học trong và ngoài nước quan tâm tìm hiểu”[PL 4].
Theo NCS, văn học của Phật giáo Trúc Lâm tiêu biểu cho Phật giáo
thời Trần, trong một tác phẩm vận dụng được nhiều thể loại thể hiện sự phong
phú. Nhiều thể loại kệ, thơ Thiền, ngữ lục, phú, tự… rất sống động và tinh tế,
nhiều bài thơ mang cảm hứng Thiền học, thể hiện sự phát triển của văn học
Phật giáo thời Trần. Văn học đời Trần chịu ảnh hưởng sâu đậm tinh thần cởi
mở, dung hợp của Phật giáo. Vì thế, giới sĩ phu không theo Phật giáo cũng
được trọng dụng. Điều này là tác nhân giúp cho văn học đời Trần phong phú,
rực sáng, nhiều nét đẹp. Về thi ca đời Trần, chúng ta thấy rõ sự ảnh hưởng
mạnh mẽ của Thiền học, diễn tả sự diễn tiến của mọi việc với tâm định tĩnh tuyệt vời, thể hiện cái thấy biết sâu xa của người thâm nhập thiền quán.
3.2.2.2. Lễ hội của Phật giáo Trúc Lâm
Về lễ hội của Phật giáo Trúc Lâm, tiêu biểu là chùa Vĩnh Nghiêm tổ
chức lễ hội với quy mô to lớn, thể hiện sự ảnh hưởng to lớn của Phật giáo
trong đời sống xã hội, đồng thời cũng thể hiện niềm tin, sự sùng bái của nhân
dân xa gần đối với các vị sư tổ.
Có thể nhận thấy “người dân đến với lễ hội chùa Vĩnh Nghiêm không
chỉ thể hiện lòng thành tâm đối với Phật, cầu mong mọi điều tốt đẹp trong
cuộc sống mà còn được tham gia, thưởng thức các trò chơi, hình thức sinh
hoạt văn hóa, văn nghệ. Đồng thời, đây cũng là dịp để mọi người cùng được
ôn lại truyền thống văn hóa của quê hương mình, thưởng thức vẻ đẹp của
99
những công trình kiến trúc, các tác phẩm nghệ thuật điêu khắc cùng với các
hoành phi, câu đối, bi ký trong chùa” [113, tr.23].
Thể hiện lòng biết ơn các vị sư tổ, vào các ngày giỗ, người dân tổ chức
cúng tế trang trọng. Dần dần ngày giỗ của các vị tổ trở thành ngày hội chùa,
không chỉ của các sư tăng, của người dân địa phương mà còn là lễ hội lớn
của người dân trong vùng và khách thập phương. Trong ngày hội (14/2 Âm
lịch), các tăng, ni ở chùa thắp hương tụng kinh, niệm Phật ở tam bảo, nhà tổ
đệ nhất và nhà tổ đệ nhị, đồng thời cũng thỉnh chuông hoằng dương phật
pháp vào lúc sớm, tối trong ngày. Sư trụ trì sẽ cúng Phật đại khoa. Dân trong
vùng và các tín đồ vào chùa lễ Phật, cúng tổ. Ở nội tự, không khí trang
nghiêm cùng với những tiếng cầu kinh niệm Phật của các tín đồ thập
phương, còn khuôn viên bên ngoài là từng đoàn người có niềm tin vào Phật
đến lễ chùa với lòng thành tâm.
Hình thức Kể hạnh (nội dung nói về Phật giáo Trúc Lâm) được diễn ra
vào buổi tối, do nhà sư và các cụ kể lại, đây là hình thức đọc và kể lại nội
dung viết trong tập Thiền tông bản hạnh. “Kể hạnh là cầu nối giữa quá khứ và
hiện tại giúp cho thế hệ trẻ hôm nay hiểu được công lao to lớn của tổ tiên,
thêm tự hào về truyền thống quê hương đất nước. Những câu văn kể hạnh
thường là những câu thơ lục bát liên quan đến tích nhà Phật. Trong đó, một cụ
bà hát những câu văn lục bát, các cụ khác chắp tay thành kính, xướng lại lời
hát như lối hát - hò” [113, tr.26]. Có thể thấy đây là một hình thức bảo tồn tư
tưởng Phật giáo Trúc Lâm.
Vào ngày lễ Phật đản, trụ trì chùa Vĩnh Nghiêm giảng đạo về giá trị, ý
nghĩa ra đời của Đức Phật cho các Phật tử, hướng dẫn cho Phật tử ứng dụng
Phật pháp trong đời sống hàng ngày, truyền đạt lại những giáo lý tốt đẹp đó
cho mọi người xung quanh để tất cả cùng nhau được bình an, hạnh phúc.
Bên cạnh lễ hội chùa Vĩnh Nghiêm, một số lễ hội khác bên phía Tây dãy
Yên Tử, hằng năm, cứ đến ngày hội là các tín đồ, người dân khắp nơi trong
100
vùng lại tấp nập kéo về chùa, thể hiện niềm tin, lòng thành tâm của mình đối
với Tam tổ.
Chùa Am Vãi hay còn gọi là Am Ni tự, nằm trong quần thể di tích thuộc
Phật giáo Trúc Lâm. “Không biết từ bao giờ, người dân nơi đây đã tin vào sự
linh thiêng và mầu nhiệm của chùa Am Vãi, tin vào sự may mắn mà chùa
mang lại cho dân làng. Sự liêng thiêng của chùa được nhân dân hai làng
Biềng và Nam Điện gắn liền với sinh hoạt hằng ngày, nhất là mỗi khi làng
xảy ra sự cố lớn, trong tâm thức mỗi người lại hướng lên dãy núi cao nhất nơi
có chùa Am Vãi” [51, tr.64]. Những năm gần đây cùng với việc chùa Am Vãi
được phục dựng trở lại, tín đồ, người dân đến chùa ngày một nhiều hơn,
thường xuyên hơn, nhất là các lễ hội, ngày mồng Một, ngày Rằm.
Lễ hội Chùa Am Vãi là một trong những lễ hội lớn của huyện Lục Ngạn,
thu hút đông đảo tín đồ và người dân tham dự. Phần lễ được diễn ra trọng thể
cùng với nghi thức rước tượng Phật hoàng và lễ dâng hương. Sau khi khai
hội, các tăng ni đã tới dâng hương trọng thể tại chùa và tổ chức nghi lễ cầu
quốc thái dân an. Buổi chiều, tại sân chùa diễn ra Đại lễ cầu siêu Chư vị anh
linh, anh hùng liệt sĩ của huyện Lục Ngạn. Lễ hội hằng năm bên cạnh việc
dâng hương theo nghi lễ truyền thống, Ban tổ chức cũng đưa các trò chơi dân
gian và văn nghệ đặc sắc chào mừng lễ hội do chi đoàn thanh niên và chi hội
phụ nữ của nhiều thôn trong xã tham gia.
Lễ hội Tây Yên Tử được tổ chức ngày 11 và 12 tháng Giêng Âm lịch
tại thôn Đồng Thông, xã Tuấn Mậu, huyện Sơn Động. Nhiều nghi lễ diễn ra
tại lễ hội gồm: Lễ rước tượng Phật từ chùa Vĩnh Nghiêm (Yên Dũng) lên
chùa Hạ, thực hiện lễ an vị tượng Phật và các nghi lễ có liên quan khác…
Trong đó, điểm nhấn có ý nghĩa đặc biệt quan trọng về mặt thực hành Phật
giáo là lễ rước tượng Phật. Các nghi lễ được tổ chức trang nghiêm, thể hiện
ước nguyện của nhân dân cầu mong quốc thái dân an.
101
Tiếp theo, NCS khảo sát mức độ tham gia lễ hội Phật giáo Trúc Lâm
5.75%
0%
15.5%
Thường xuyên Thỉnh thoảng
78.75%
Hiếm khi
Không bao giờ
của tín đồ và người dân, kết quả Biểu đồ 3.8:
Biểu đồ 3.8: Mức độ tham gia lễ hội Phật giáo Trúc Lâm
Nguồn: Khảo sát của tác giả luận án [PL 2]
Có thể thấy rằng hầu hết những người được khảo sát đều đã tham gia lễ
hội, mức độ thường xuyên tham gia các lễ hội chiếm tỉ lệ cao (75,5%), thỉnh
thoảng 16,5%), hiếm khi (8%), và không có ai không tham gia lễ hội bao giờ.
NCS tiếp tục hỏi thêm câu hỏi phụ để kiểm chứng xem tín đồ và người dân có
27.5%
72.5%
Có
Không
biết đây là lễ hội của Phật giáo Trúc Lâm hay không. Kết quả tại Biểu đồ 3.9:
Biểu đồ 3.9: Sự hiểu biết của tín đồ và người dân về lễ hội của Phật giáo
Trúc Lâm
Nguồn: Khảo sát của tác giả luận án [PL 2]
Kết quả khảo sát cho thấy có 72,5% người cho rằng khi tham dự lễ hội
đều biết đó là lễ hội của Phật giáo Trúc Lâm, số còn lại không biết là 27,5%.
102
Có thể khẳng định số người biết lễ hội của Phật giáo Trúc Lâm và thường
xuyên tham gia các lễ hội này phần lớn là các tín đồ chiếm tỉ lệ cao.
Các lễ hội của Phật giáo Trúc Lâm trên địa bàn tỉnh Bắc Giang thường
được tổ chức trang nghiêm, quy mô lớn như: lễ hội chùa Vĩnh Nghiêm, lễ hội
chùa Am Vãi, lễ hội Tây Yên Tử… nên số lượng tín đồ và người dân tham
gia rất đông đảo. Lễ hội được tổ chức thường niên, đều đặn. Với niềm tin vào
Tam tổ Trúc lâm, tín đồ và người dân tham gia thường xuyên để thực hiện các
hoạt động Phật sự.
NCS tiếp tục khảo sát ảnh hưởng của lễ hội Phật giáo Trúc Lâm tới đạo
100.00
89.25%
90.00
80.25%
80.75%
80.00
70.25%
70.00
60.00
50.00
40.00
30.00
20.00
10.00
3%
0.00
Khác
Sống hướng thiện hơn
Tránh xa các tệ nạn xã hội
Không vi phạm pháp luật
Sống hòa nhập với cộng đồng hơn
Tỷ lệ
80.25
89.25
80.75
70.25
3
đức, lối sống của tín đồ và người dân, kết quả khảo sát cho thấy:
Biểu đồ 3.10. Ảnh hưởng của lễ hội Phật giáo Trúc Lâm tới đạo đức, lối
sống tín đồ và người dân (được chọn nhiều phương án)
Nguồn: Khảo sát của tác giả luận án [PL 2]
103
Ta có thể thấy được ảnh hưởng của lễ hội Phật giáo Trúc Lâm tới lối sống,
đạo đức tín đồ, người dân nơi đây làm cho họ sống hòa nhập với cộng đồng
hơn có 357 người chiếm tỉ lệ cao (89,25%), Sống hướng thiện hơn có 321
người (80,25%), Tránh xa các tệ nạn xã hội có 323 người (80,75%), Không vi
phạm pháp luật có 289 người (72,25%). Trong đó có 12 người (3%) ý kiến
khác trả lời là lợi ích của tham gia lễ hội để nâng cao kinh tế. Theo kết quả
khảo sát, có thể thấy lễ hội của Phật giáo Trúc Lâm đã làm cho mọi người
sống hòa nhập cộng đồng hơn, sống hướng thiện hơn… làm cho mọi người
tránh xa các tệ nạn xã hội, không vi phạm pháp luật, phần nào đó giúp họ
nâng cao kinh tế. Kết hợp phỏng vấn sâu tín đồ cho rằng: “Khi tham gia các lễ
hội tôi thấy mình hòa nhập hơn với mọi người, giúp tôi hiểu thêm được những
phong tục tập quán từ xưa, nhớ về các vị sư tổ, hiểu thêm về lịch sử, từ đó tôi
thấy mình thêm lòng yêu nước, tự hào dân tộc, đoàn kết và làm việc thiện
nhiều hơn” [PL 5].
Lễ hội Phật giáo Trúc Lâm là nơi sinh hoạt văn hóa, tín ngưỡng của địa
phương, khơi dậytinh thần yêu nước, tôn vinh các bậc tiền nhân, chứa đựng
nhiều giá trị cao đẹp, lễ hội đã làm thay đổi ý thức và sự nhìn nhận của tín đồ,
người dân trong việc giữ gìn và phát huy những giá trị văn hóa dân tộc của
quê hương, đất nước, cùng gắn bó đoàn kết với nhau hơn. Thông qua lễ hội
các giá trị văn hóa truyền thống của cộng đồng được duy trì góp phần giáo
dục ý thức bảo tồn và phát huy giá trị của lễ hội.
Tính cộng đồng được củng cố bền chặt thông qua các lễ hội của Phật
giáo Trúc Lâm, khi tham gia lễ hội không phân biệt tuổi tác, trình độ, nghề
nghiệp. Các loại hình nghệ thuật, trò chơi dân gian, nhiều hoạt động truyền
thống của lễ hội được duy trì và bảo tồn. Lễ hội góp phần xây dựng cuộc sống
hài hòa tốt đẹp hơn.
Lễ hội của Phật giáo Trúc Lâm được tổ chức lâu đời đã có những ảnh
hưởng tới xã hội nhất định, vì giá trị xã hội thể hiện ở cộng đồng, thông qua lễ
104
hội đã tạo ra được sự hòa nhập cộng đồng của người dân, mọi người hướng
thiện, tránh xa các tệ nạn xã hội và không vi phạm pháp luật.
Đánh giá về giá trị văn hóa của Phật giáo Trúc Lâm, NCS có thể khẳng
định Phật giáo Trúc Lâm nói chung và Phật giáo Trúc Lâm thời Trần ở Bắc
Giang nói riêng là một thành tố của văn hóa Việt Nam. Phật giáo Trúc Lâm
đã chứng tỏ khả năng dung hợp và tiếp biến văn hóa của người Việt Nam đối
với các yếu tố văn hóa và tôn giáo ngoại lai. Giá trị văn hóa của Phật giáo
Trúc Lâm thời Trần ở Bắc Giang được thể hiện rõ nét qua hệ thống văn bia,
văn tự. Văn bia thời Trần, nhất là văn bia chùa có giá trị nhiều mặt trong việc
nghiên cứu Phật giáo, cũng như lịch sử văn hóa xã hội đương thời. Trong
khi phần lớn di tích kiến trúc Phật giáo thời Trần ở Tây Yên Tử, Bắc Giang
đến nay đều bị hư hỏng, biến đổi nhiều, thì những văn bia, văn tự còn sót
lại được xem là trang sử “đá”, có giá trị đáng kể trong việc khôi phục diện
mạo của các di tích đó, cũng như các hoạt động Phật giáo và văn hóa xã hội
thời nhà Trần. Văn học Phật giáo Trúc Lâm mang đậm âm hưởng Thiền sâu
sắc hòa với dòng văn học nhân đạo và yêu nước Việt Nam, mang tư tưởng
nhân văn hướng thiện của đạo Phật. Có thể khẳng định, giá trị văn hóa của
Phật giáo Trúc Lâm là một minh chứng sống động cho khả năng tồn tại và
phát triển của nền văn hóa dân tộc ta. Ngày nay, hệ thống thiền viện Trúc
Lâm đã được xây dựng và phát triển nhiều nơi trong nước và quốc tế, cho
thấy sức sống mãnh liệt của Phật giáo Trúc Lâm khi đã đạt tới đỉnh cao giá
trị văn hóa, khi đã hòa nhập vào đời sống tinh thần của nhân loại. Giá trị
văn hóa của Phật giáo Trúc Lâm không chỉ là tinh hoa Phật giáo Việt Nam,
mà còn là tinh hoa văn hóa của cả dân tộc. Chính vì lẽ đó, việc bảo vệ và
phát huy giá trị văn hóa của Phật giáo Trúc Lâm vừa là quyền lợi, nhưng
đồng thời là trách nhiệm cao cả của toàn xã hội và các tăng ni Phật tử trong
và ngoài nước.
3.3. GIÁ TRỊ LỊCH SỬ CỦA PHẬT GIÁO TRÚC LÂM THỜI TRẦN Ở
BẮC GIANG
105
3.3.1. Phật giáo Trúc Lâm thời Trần ở Bắc Giang là một bộ phận
của Phật giáo Trúc Lâm thời Trần
3.3.1.1. Phật giáo Trúc Lâm thời Trần ở Bắc Giang đã duy trì,
chuyển tải những tư tưởng Phật pháp thời Trần
Về an cư kiết hạ, theo Việt Nam Phật giáo sử luận của Nguyễn Lang,
vào thời Trần thì các tu viện, đại danh lam Yên Tử, Vĩnh Nghiêm, Siêu Loại,
Vĩnh Phúc, Báo Ân, An Lạc, Tàng Viện… là những cơ sở được chọn làm đạo
tràng an cư kiết hạ trọng điểm có sự bảo trợ của triều đình, ưu tiên cho những
ai là tăng sĩ ưu tú thuộc Phật giáo Trúc Lâm. Có thể nói Vĩnh Nghiêm là một
trong những đạo tràng an cư kiết hạ thuộc cấp trung ương giáo hội, mang tính
kiểu mẫu thời đó. Tam Tổ thực lục ghi:
“Ngày mồng một tháng Giêng, năm Mậu Thân (1308), Điều Ngự
sai Pháp Loa nhận chức trụ trì để nối dòng pháp tại chùa Báo Ân,
huyện Siêu Loại. Tháng tư, Điều Ngự đến kiết hạ tại chùa Vĩnh
Nghiêm ở Lạng Giang, giảng truyền đăng lục, lại sai Pháp Loa
giữ chức trụ trì, bảo Quốc sư Đạo Nhất giảng kinh Pháp cho đại
chúng”[94, tr.19].
Mỗi kỳ an cư là mỗi lần giáo hội cùng phối hợp với triều đình có chủ
trương xây dựng, thiết kế chương trình tu học thời khóa thật cụ thể, để sau
một mùa an cư đều đem lại sự đắc pháp cho các hành giả và lợi lạc cho mọi
người dân Phật tử.
Về chương trình tu học, Căn cứ vào các thư tịch còn lại như Khóa hư lục,
Lục thời sám hối khoa nghi của Trần Thái Tông; Thiền Lâm thiết chủy ngữ
lục, Thạch thất mỵ ngữ, Cư trần lạc đạo phú… của Sơ tổ Trúc Lâm; Tham
thiền yếu chỉ, Pháp sự khoa văn của Nhị tổ Pháp Loa; hoặc các thư tịch
như Tam tổ thực lục, Thánh đăng lục… thì ta thấy, chương trình tu học trong
106
ba tháng an cư được thiết lập với quy củ thiền môn đậm nét Phật giáo Đại
Việt. Với ý nghĩa quan trọng của việc tu trì giới luật, chính Pháp Loa, người
lãnh đạo Giáo hội Trúc Lâm đã từng hiệu đính bộ Tứ Phần luật, khắc in 5.000
bản lần đầu tiên vào năm 1322, tổ chức khóa học Luật Tứ phần cho các hành
giả tu trì. Điều đáng nói là Tổ đã mời các vị cao tăng như Quốc sư Tông Kính
và Quốc sư Bảo Phác đến các đạo tràng giảng giới luật. Sách Tam Tổ thực
lục ghi:
“Tư Đồ Văn Huệ Vương mời sư về dinh thự An Long giảng
kinh Thủ Lăng Nghiêm, nhân tiện, sư xem lại bản Tứ Phần luật
san bổ sao, in để ấn tống hơn 5.000 quyển. Sư nhờ Quốc sư Tông
Kính ở Du Tiên, Quốc sư Bảo Phác ở núi Vũ Ninh đến chùa Siêu
Loại giảng bộ Luật này”[94, tr.49].
Các bộ kinh như Pháp Hoa, Hoa Nghiêm, Lăng Nghiêm, Bát Nhã được
Giáo hội Trúc Lâm đưa vào chương trình giảng dạy ở các khóa học đạo
tràng, đặc biệt là chùa Vĩnh Nghiêm. Bởi vì đây là những bộ kinh quan yếu
của hệ thống kinh điển Đại thừa, các hành giả y cứ vào đó thực thi Thiền -
giáo song hành mà chứng ngộ; cũng là cơ sở lý luận hình thành học thuyết
Cư trần lạc đạo mà Sơ tổ Trúc Lâm chủ trương để phục vụ cho đường lối
hoạt động của Giáo hội Trúc Lâm, góp phần xây dựng đất nước phồn vinh,
đạo pháp trường tồn.
3.3.1.2. Chùa Vĩnh Nghiêm - trụ sở Trung ương của giáo hội Phật
giáo Trúc Lâm thời Trần nơi Tam tổ Trúc Lâm đều chọn làm trung tâm
truyền bá Phật pháp
Trần Nhân Tông tạo nền tảng cho sự phát triển Phật giáo Trúc Lâm thời
Trần ở Bắc Giang
Trần Nhân Tông tên tục là Trần Khâm, con của vua Trần Thánh Tông
(1240-1290), sinh năm 1258, lên ngôi vua năm 1278, xuất gia năm 1299, tịch
năm 1308, thọ 51 tuổi. Trần Nhân Tông có vai trò to lớn đối với việc phát
107
triển chùa Vĩnh Nghiêm ở Bắc Giang thành ngôi chùa Phật giáo Trúc Lâm nổi
tiếng thời Trần. Sách Địa Chí Hà Bắc cho biết, chùa Vĩnh Nghiêm thành lập
từ thời Lý nhưng đến thời Trần mới nổi tiếng: “Chùa Đức La chỉ nổi tiếng từ
khi vua Trần Nhân Tông đến trụ trì, còn trước đó thì chưa rõ. Dòng Vô Ngôn
Thông và dòng Tỳ Ni Đa Lưu Chi chưa có ai nổi tiếng tu ở đây. Nhưng chắc
chắn là nó đã có rồi”. [155, tr.499]
Có thể từ trước đó chùa Vĩnh Nghiêm chưa có ai trụ trì mà chỉ là “nơi
dừng chân cho khách hàng hương từ Kinh Bắc vượt đường núi lên Yên Tử”
[111, tr.625].
Năm 1308, Trần Nhân Tông đã an cư kiết hạ tại chùa Vĩnh Nghiêm,
Tam Tổ Thực Lục chép:
“Tháng tư, Điều Ngự đến kiết hạ tại chùa Vĩnh Nghiêm ở Lạng
Giang, giảng Truyền Đăng Hoa cho đại chúng. Xong hạ, Điều Ngự
vào núi Yên Tử, cho các tịnh nhân và những kẻ theo hầu trở về, chỉ
giữ lại 10 thị giả thân cận để giúp đỡ. Điều Ngự lên ở trên am Tử
Tiêu, giảng Truyền Đăng Lục cho Pháp Loa, thị giả dần dần xuống
núi gần hết, chỉ còn một đệ tử thượng túc là Bảo Sát ở lại mà
thôi”[94, tr.30].
Sách Địa Chí Hà Bắc có thể đã dựa vào đoạn trích trên nên đã cho rằng
Trần Nhân Tông từng nhập hạ nhiều lần tại chùa Vĩnh Nghiêm: “Trần Nhân
Tông sau hai lần đánh thắng quân Nguyên, năm 1293 nhường ngôi cho con là
Trần Anh Tông, xuất gia tu hành ở hai chùa Vĩnh Nghiêm và Yên Tử, lấy hiệu là
Hương Văn Đại Đầu Đà. Hàng năm kiết hạ ở chùa Đức La.” [155, tr.495].
Sách Chùa cổ Việt Nam có đoạn chép: “Những cây thủy tùng từ thời vua
Trần Nhân Tông vẫn vươn mình xanh tốt, ngạo nghễ với thời gian” [61, tr.76]
Có thể thấy rằng năm 1308, chùa Vĩnh Nghiêm đã được Trần Nhân Tông an
cư kiết hạ giảng truyền Hoa Đăng cho tín đồ và nhân dân, tạo nền tảng cho chùa
Vĩnh Nghiêm thành ngôi chùa lớn, đủ điều kiện để cho các tăng, ni về tu tập.
108
Nhị Tổ Pháp Loa xây dựng Vĩnh Nghiêm trở thành Trung Tâm Phật giáo
đời Trần.
Pháp Loa (1284 - 1330) tên tục là Đồng Kiên Cương, người huyện Nam
Sách, tỉnh Hải Dương, xuất gia năm 1304 theo sự dẫn dắt của Trúc Lâm đại
sĩ, thọ giới Tỳ kheo và Bồ tát năm 1305. Năm 1306, Pháp Loa được lập làm
Giảng chủ chùa Báo Ân. Tháng 4 năm 1308, Pháp Loa được Trúc Lâm đại sĩ
chỉ định làm trụ trì chùa Vĩnh Nghiêm ở Bắc Giang. Về mối liên hệ giữa đệ
nhị tổ Pháp Loa với chùa Vĩnh Nghiêm, sách Tam tổ thực lục chép:
“Tháng 9 năm Quý Sửu (1313), Sư phụng chiếu đến chùa Vĩnh
Nghiêm ở Lạng Giang, quy định các chức vụ của tăng sĩ trong
nước và bổ nhiệm đến hơn trăm ngôi già - lam. Chư tăng trong
nước từ đó mới có sổ bộ và đều do Sư trong coi. Bấy giờ, Sư độ
hơn mười người. Về sau cứ ba năm độ tăng một lần, mỗi lần
khoảng dưới nghìn người”[94, tr.46].
Đây được coi là một bước tiến trong quá trình củng cố, phát triển hệ
thống tổ chức của Phật giáo Trúc Lâm từ trung ương đến địa phương, từ xây
dựng chùa chiền đến đào tạo, bổ sung nguồn tăng sĩ.
Tính từ khi được truyền y bát (1308) đến khi qua đời (1330), đệ nhị tổ
Pháp Loa đã có tới 22 năm giữ quyền lãnh đạo cao nhất trong Phật giáo Trúc
Lâm. Trong thời gian ấy, chùa Vĩnh Nghiêm có một vị trí quan trọng trong hệ
thống các chùa cũng như vai trò cơ quan tổ chức, điều hành của giáo hội.
Tam tổ Huyền Quang tiếp tục phát triển sự nghiệp Phật giáo tại Bắc Giang
Huyền Quang Thiền sư (1254 - 1334) là Đệ tam tổ Phật giáo Trúc Lâm
đời Trần. Huyền Quang thiền sư vốn tên là Lý Đạo Tái, quê ở hương Vạn Tải,
thuộc lộ Bắc Giang Hạ (đời Lê Thánh Tông đổi là xã Vạn Tư, huyện Gia
Định, nay thuộc xã Thái Bảo, huyện Gia Lương, tỉnh Bắc Ninh). Niên hiệu
Bảo Phù thứ hai (1274), đời Vua Trần Thánh Tông, ông thi đỗ Tiến sĩ, sau
được bổ làm quan ở Hàn Lâm viện. Một hôm, Sư theo Vua Anh Tông đến
109
chùa Vĩnh Nghiêm nghe Thiền sư Pháp Loa giảng kinh, chợt tỉnh ngộ duyên
trước, ông dâng biểu xin từ chức để xuất gia tu hành. Đến niên hiệu Hưng
Long thứ mười ba (1305), ông xuất gia thọ giới tại chùa Vĩnh Nghiêm, theo
làm thị giả Điều Ngự, được pháp hiệu là Huyền Quang. Sách Tam tổ thực lục
chép: “Ngài đã dâng biểu đến ba lần xin từ chức để xuất gia học đạo tu hành.
Thủa ấy, vua đang tôn sùng Phật giáo nên người chấp nhận. Ngài thọ giáo với
Thiền sư Pháp Loa, được pháp hiệu là Huyền Quang” [94, tr.80].
Năm Giáp Tuất (1334), ngài viên tịch tại Côn Sơn, thọ 80 tuổi. Vua Trần
Minh Tông phong thụy là Trúc Lâm Thiền Sư Đệ Tam Đại, đặc phong Từ
Pháp Huyền Quang Tôn Giả.
Có thể thấy rằng, Chùa Vĩnh Nghiêm là trung tâm của Phật giáo Trúc
Lâm gắn với những hoạt động tích cực của Tam tổ Trúc Lâm thời kỳ hưng
thịnh nhất. Sau tam tổ trụ trì, có các vị cao tăng khác kế truyền trụ trì. Theo
nguồn tư liệu sưu tầm được tại chùa Vĩnh Nghiêm, NCS giới thiệu thêm về
các tổ truyền thừa Phật giáo Trúc Lâm tại chùa Vĩnh Nghiêm:
Thiền sư Linh Không: tên húy là Vũ Văn Thông, hiệu là Huệ Khải, trụ trì
chùa Vĩnh Nghiêm những năm cuối thế kỷ XVI, đầu thế kỷ XVII.
Thiền sư Tính Thành: Không rõ năm sinh, năm mất và sự nghiệp tu
hành. Trụ trì chùa Vĩnh Nghiêm những năm đầu thế kỷ XVIII.
Tì khiêu ni Vũ Thị Lương: Không rõ năm sinh, năm mất và sự nghiệp tu
hành. Là người kế truyền tổ Tính Thành vào những năm giữa thế kỷ XVIII.
Tì khiêu Thích Hải Hài: Trù trì chùa từ năm Minh Mệnh thứ 10 (1830).
Nhà sư Tịnh Phương (pháp hiệu Tâm Viên): là người huyện La Sơn, phủ
Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh. Sinh năm Kỷ Mão (1819), trụ trì chùa từ năm Tự Đức
thứ hai (1849).
Thích Thanh Quýnh: người xã Cự Lâm, xã Thư Trì, huyện Kiến Xương,
tỉnh Thái Bình. Sau khi tổ quy tịch (1907), nhân dân đã thỉnh tổ Thích Thanh
Hanh về trụ trì.
110
Hòa thượng Thích Thanh Hanh (1841-1937): tên húy là Nguyễn Thanh
Đàm sinh năm Tân Sửu (1841) tại làng Thanh Liệt, huyện Thanh Trì, tỉnh Hà
Đông (nay thuộc Hà Nội). Hòa thượng chuyên tâm lui tới trường Bác Cổ tìm
tòi tạng kinh điển Đại Thừa, sai môn đồ san khắc và tạo nên phong trào sao
kinh, khắc ván giữa các sơn môn. Hòa thượng tu bổ Chùa Vĩnh Nghiêm, biên
soạn lịch sử chùa và cho khắc nội dung vào bia, dựng ở trong tòa thánh tổ.
Ngài viên tịch năm 1937, thọ 96 tuổi.
Hòa thượng Thích Tâm Duyệt: Tên húy là Đào Ngọc Duyệt, sinh năm
1885, huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình. Năm 1954, ngài về trụ trì chùa Vĩnh
Nghiêm. Năm 1958, được bầu vào Ban Trị sự Trung ương Hội Phật giáo
Thống nhất Việt Nam. Năm 1961, Hoàng thượng lại được mời vào Ban
Chứng minh đạo sư của Trung ương Hội Phật giáo Thống nhất Việt Nam.
Ngài có nhiều công lao với cách mạng trong cuộc kháng chiến chống thực
dân Pháp và xây dựng các công trình phúc lợi của xã Trí Yên, huyện Yên
Dũng. Ngài quy tịch năm 1991 tại chùa Vĩnh Nghiêm.
Những nội dung nêu trên đã cho chúng ta thấy, kể từ khi xây dựng, chùa
Vĩnh Nghiêm trở thành trung tâm Phật giáo thời Trần, những đóng góp của
Tam tổ Trúc Lâm, đặc biệt là Pháp Loa đối với Phật giáo Trúc Lâm tại Bắc
Giang là rất lớn. Phật giáo Trúc Lâm có sức hấp dẫn, thu hút nhiều tầng lớp
trong xã hội xuất gia. Dân chúng sùng kính đạo Phật, chùa chiền được xây
dựng ở khắp nơi. Phật giáo Trúc Lâm là một yếu tố quan trọng liên kết cộng
đồng thời kỳ này.
Vị thế hiện nay của chùa Vĩnh Nghiêm
Trải qua các giai đoạn lịch sử, chùa Vĩnh Nghiêm từng là trung tâm
truyền bá Phật giáo Trúc Lâm thời Trần, đến hiện nay chùa Vĩnh Nghiêm vẫn
giữ được nguyên vẹn kiến trúc và các giá trị của chùa trên nhiều lĩnh vực, bao
gồm nhiều di sản quý giá như tượng thờ, văn bia, hoành phi, câu đối… Đặc
biệt chùa là nơi lưu giữ 3.050 Mộc bản được UNESCO công nhận là Di sản tư
111
liệu ký ức thế giới khu vực Châu Á - Thái Bình Dương năm 2012. Năm 2013
Lễ hội chùa Vĩnh Nghiêm được công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể quốc
gia. Đây là lễ hội lớn của khu vực, thu hút nhiều tầng lớp tham gia, có nét đặc
trưng riêng, nâng tầm văn hóa của quốc gia. Năm 2015 chùa được công nhận
là Di tích quốc gia đặc biệt. Mộc bản chùa Vĩnh Nghiêm đã được nhiều thiền
sư ở nước ngoài về xin dập lại toàn bộ kho mộc bản để mang về nước nghiên
cứu, biên soạn, giáo trình, sách về Phật giáo Trúc Lâm, đồng thời các nhà
khoa học trong nước thường xuyên về chùa nghiên cứu, hội thảo khoa học về
Phật giáo Trúc Lâm, từ đó tư tưởng, giáo lý của Phật giáo Trúc Lâm ngày
càng phát triển truyền bá rộng trong và ngoài quốc tế.
3.3.2. Góp phần xây dựng một giáo hội Phật giáo Việt Nam độc lập,
thống nhất mang tinh thần nhập thế
Trong các giai đoạn của lịch sử Phật giáo Việt Nam, Phật giáo Trúc Lâm
thời Trần đã xây dựng và hình thành nên tổ chức giáo hội Trúc Lâm và có thể
coi đây là giai đoạn lịch sử góp phần xây dựng một giáo hội Phật giáo Việt
Nam độc lập thống nhất thời Trần. Ngoài ra, giá trị lịch sử của Phật giáo Trúc
Lâm thời Trần còn là bài học lịch sử cho GHPGVN xây dựng một giáo hội
độc lập, thống nhất qua các thời kỳ. Chùa Vĩnh Nghiêm ở huyện Yên Dũng,
tỉnh Bắc Giang là trụ sở của giáo hội Trúc Lâm thời Trần từ khi ra đời, hoạt
động có tổ chức, ổn định khẳng định bản sắc dân tộc, tạo nền tảng củng cố
giáo hội Trúc Lâm thời Trần thống nhất. Phật giáo Trúc Lâm ra đời với tinh
thần nhập thế, đoàn kết toàn dân tộc góp phần cho công cuộc dựng nước và
giữ nước, gắn đạo với đời.
3.3.2.1. Nhập thế chính trị
Giá trị lịch sử của Phật giáo Trúc Lâm mang tính tự chủ, tinh thần yêu
nước không lệ thuộc vào nước ngoài, tạo ra giáo hội thống nhất, xây dựng
ý thức độc lập dân tộc. Trong Tìm hiểu xã hội Việt Nam thời Lý - Trần cho
rằng:
112
“Một là, thoát khỏi sự lệ thuộc chặt chẽ về ý thức hệ với nước ngoài
để thanh toán hoàn toàn mọi cơ sở của nước xâm lược. Hai là, làm
cơ sở tư tưởng để thống nhất ý thức dân tộc trên cơ sở thống nhất
dân tộc về mặt chính trị để củng cố sự thống nhất dân tộc một bước
nữa. Ba là: làm công cụ thống nhất quyền lực của chính quyền
Trung ương… Bốn là: làm phương tiện giải quyết các mâu thuẫn
nội bộ dân tộc…”[168, tr.648].
Phật giáo Trúc Lâm đã biểu lộ tính độc lập dân tộc, thống nhất ý thức hệ:
“Một là: Tự mình phân biệt với Thiền tông ở Trung Quốc biểu lộ
tính độc lập dân tộc. Hai là: thay đổi một phần nội dung tiêu cực và
thân ngoại quốc của các phái khác của Thiền tông. Ba là: Vượt lên
trên sự khác biệt của tất cả các tông phái Phật giáo cũng như tín
ngưỡng phi Phật giáo để ý đồ thống nhất ý thức hệ… Bốn là, tự
khoác cho mình chiếc áo một tôn giáo mới… phái Trúc Lâm đã có
những thành tựu rõ rệt”[168, tr.649 - 650].
Để xây dựng thiết chế chính trị và đạo đức xã hội, Trần Nhân Tông đã
sử dụng những nguyên tắc của Phật giáo, kết hợp giữa việc đạo với việc đời.
Dù tu hành ở Yên Tử nhưng Trần Nhân Tông vẫn đi nhiều nơi để thuyết pháp.
Nhập thế chính trị của Trần Nhân Tông còn thể hiện tầm nhìn của ông
vì sự phát triển tiếp nối, ổn định của Phật giáo và đất nước, đó là sự chuyển
giao quyền lực êm thấm cho con Trần Anh Tông và chuyển giao giáo hội cho
Pháp Loa trở thành tổ thứ hai của Phật giáo Trúc Lâm. Trên phương diện tôn
giáo, Ngài là người sáng lập ra Phật giáo Trúc Lâm, kết hợp giữa chính trị và
tôn giáo. Năm 1301, Trần Nhân Tông đã hứa gả công chúa Huyền Trân cho
vua Chiêm là Chế Mân trong chuyến đi đến Chămpa. Có thể thấy rằng “Nhân
Tông muốn qua cuộc hôn nhân này xây dựng quan hệ hoà bình giữa Đại Việt
và Chămpa” [96, tr.248].
113
Thời Trần, Phật giáo Trúc Lâm đã phát huy sức mạnh trong cuộc kháng
chiến chống quân Nguyên - Mông năm 1285 và 1288 đem lại sự nghiệp toàn
thắng cho dân tộc mà Trần Nhân Tông chính là người đã trực tiếp chỉ huy các
cuộc kháng chiến này. Với quyết tâm bảo vệ đất nước, các vua Trần đồng thời
cũng là các thiền sư, cư sĩ đã đoàn kết mọi người, cố kết lòng dân. Tư tưởng
yêu nước của Phật giáo Trúc Lâm được thể hiện rõ nét khi các thiền sư tham
gia vào công cuộc chống ngoại xâm, “nhiều tăng ni, Phật tử sẵn sàng “cởi cà
sa, khoác chiến bào” cùng toàn dân đánh tan mọi âm mưu xâm lược của kẻ
thù” [74, tr.47]. Về sự tham gia của các thiền sư tham gia vào công cuộc chống
ngoại xâm, Nguyễn Lang lý giải trong Việt Nam Phật giáo sử luận lý giải:
“Thứ nhất, họ là những người có học, có ý thức quốc gia, sống gần
gũi với quần chúng và biết được những khổ đau của người dân bị
đô hộ và bóc lột hà khắc; Thứ hai, họ không muốn tranh ngôi vua,
không giành quyền bính và địa vị ngoài đời nên được vua tin tưởng;
Thứ ba, họ không cố chấp vào thuyết trung quân, nên họ có thể
cộng tác với bất cứ ông vua nào đem lại hạnh phúc cho dân; Thứ tư,
các vua cần sức học của họ…”[66, tr.185-186].
Có thể nhận thấy rằng các vị vua và các thiền sư thời Trần đã biết vận
dụng tư tưởng, giáo lý của Phật giáo, làm cho Phật giáo Trúc Lâm trở nên
hùng mạnh, mang tinh thần yêu nước, giúp cho công cuộc bảo vệ và xây dựng
đất nước vững chắc thời Trần.
Bắc Giang là miền đất được xem là phên dậu, cửa ải phía đông bắc của
Tổ quốc từng phải hứng chịu nhiều mất mát, đau thương nhưng vô cùng vẻ
vang trong lịch sử chống giặc ngoại xâm của dân tộc. Dấu tích về cuộc chiến
chống giặc Tống, Nguyên - Mông, Thanh, tàn quân Thái Bình Thiên Quốc
còn in đậm trên các di tích ở làng mạc, ngọn núi, dòng sông. Thành tựu về
quân sự, ngoại giao trong đấu tranh chống thù trong giặc ngoài của quân dân
Bắc Giang trong lịch sử được kết tinh bởi tư duy trí tuệ, óc sáng tạo, sức lao
114
động, chiến đấu gan dạ còn lưu lại trên các di tích lịch sử và những trang sử
vẻ vang của dân tộc.
Đầu năm 1285, giặc Nguyên - Mông do Thoát Hoan chỉ huy chia làm
nhiều cánh quân thủy bộ tiến vào nước ta theo các hướng các nhau. Cánh
quân chủ lực của chúng tiến qua lộ Bắc Giang. Vua quan nhà Trần đã chọn
Bắc Giang làm một địa bàn quan trọng, lập phòng tuyến ngăn chặn quân chủ
lực của giặc trước cửa ngõ Thăng Long. Trần Quốc Tuấn thấy rõ Bắc Giang
là một địa bàn chiến lược quan trọng. Đây là một vùng rừng núi hiểm trở có
thể chặn đứng được bước tiến của kẻ thù trước cửa ngõ Thăng Long. Điều
kiện địa lý thuận lợi giúp cho nhà Trần bố trí các tuyến phòng thủ xa gần bởi
vì vùng này có hệ thống sông ngòi nối Thăng Long với biên cương qua các
sông Đuống, sông Cầu, sông Thương, sông Lục Nam. Trần Quốc Tuấn đã
điều động một lực lượng lớn quân chủ lực để trấn giữ vùng Bắc Giang - Lạng
Giang lập một phòng tuyến quân sự ở vùng đông Bắc lộ Bắc Giang từ Khả Ly
(Xa Lý) đến Động Bản (Biển Động), Nội Bàng. Trần Quốc Tuấn đóng đại bản
doanh ở Nội Bàng. Hàng vạn quân chủ lực cùng với lực lượng dân binh các địa
phương được bố trí ở các huyện Lục Nam, Lục Ngạn (Na Ngạn) Yên Dũng…
Có thể nói, cuộc kháng chiến chống giặc Nguyên - Mông có sự đóng góp
to lớn của nhân dân Bắc Giang. Thứ nhất, đó là sự đóng góp sức người, sức
của giúp vua Trần xây dựng các căn cứ chống quân xâm lược. Thứ hai là việc
thực hiện chính sách vườn không nhà trống và trực tiếp tham gia chiến đấu
tiêu hao sinh lực địch để ngăn chặn sức tấn công của giặc vào thành Thăng
Long, mà trực tiếp là nhân dân và các thủ lĩnh dân binh miền núi, tiêu biểu
nhất là Vi Hùng Thắng, người con của quê hương Lục Ngạn.
Đầu thế kỷ XX, trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp, phong
trào cách mạng ở miền Bắc diễn ra rất sôi nổi, thu hút nhiều chức sắc, nhà tu
hành tham gia tích cực vào phong trào cách mạng, đồng hành cùng dân tộc,
giải phóng đất nước, tiến tới cách mạng tháng Tám năm 1945. Hòa chung vào
115
bầu không khí đó, chức sắc, nhà tu hành Phật giáo tỉnh Bắc Giang nói chung
và Phật giáo Trúc Lâm nói riêng đã luôn đồng hành cùng dân tộc, tham gia
vào các phong trào cách mạng, phát huy tinh thần yêu nước, bảo vệ Tổ quốc.
Hòa thượng Thích Thanh Hanh trụ trì chùa Vĩnh Nghiêm là một nhà sư
có uy tín lớn với Phật giáo miền Bắc. Khi thực dân Pháp áp đặt các chính
sách, nghi lễ không hợp thuần phong mỹ tục ở Việt Nam, vì vậy Hòa thượng
Thích Thanh Hanh nhiều lần đứng lên phản đối. Chùa Vĩnh Nghiêm thời kỳ
này có hơn 20 nhà sư trực tiếp đi ra ngoài chiến trường chống giặc. Đến năm
1947, Pháp oanh tạc đại bác, đạn pháo các xã quanh chùa Vĩnh Nghiêm, một
phần chùa đã bị phá hủy hoàn toàn. Chùa Vĩnh Nghiêm đã giúp đỡ về nơi ăn,
chốn ở nhiều khóa huấn luyện chính trị và quân sự của địa phương, du kích
các xã trong vùng tập trung đông trong chùa thời gian này.
Thiền sư Thích Thanh Tân trưởng Phật giáo Trúc Lâm tại chùa Vĩnh
Nghiêm đã có công lao và đóng góp trong cuộc cách mạng giải phóng dân
tộc. Ông sinh năm 1883, quê huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh. Ông được mẹ
đưa lên chùa Vĩnh Nghiêm tu học năm 15 tuổi, ông được cử làm trưởng chốn
tổ Vĩnh Nghiêm năm 1939. Năm 1941, lo sợ thực dân Pháp phát hiện thì chùa
Vĩnh Nghiêm sẽ bị tàn phá, ông đã chuyển sang chùa Nội Bò, xã Đức Giang,
huyện Yên Dũng để tiếp tục hoạt động cách mạng.
Ông trực tiếp vận động nhân tham gia nhiều trận chặn đánh càn quét của
thực dân Pháp như: Đánh bốt Chợ Xa (Thái Đào, Bắc Giang) Bốt Nam Tào
(Chí Linh, tỉnh Hải Dương). Ngoài ra ông đã thành lập Đội du kích Phật giáo
kêu gọi, dìu dắt nhiều nhà sư tham gia hoạt động kháng chiến. Ông còn tham
gia vào nhiều phong trào cứu đói, chữa bệnh cho nhân dân. Ông được bầu giữ
chức Chủ tịch Hội phật giáo cứu quốc Bắc Kỳ tháng 12 năm 1946.
Đêm ngày 24/9/1947, thực dân Pháp đã đưa quân vào bắt được ông tại
chùa Nội Bò, trên người có thẻ Việt Minh và thẻ Đảng. Giặc Pháp đã tra tấn
để ép ông khai hoạt động của tổ chức nhưng không được. Sau đó, ông đã bị
116
giặc Pháp hành hình tại ngã ba Phượng Nhãn. Năm 2011, hài cốt của ông mới
được nhân dân trong vùng tìm thấy, đến ngày 26/7/2018, ông đã được Đảng
Thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, các chức sắc, nhà tu hành ở chùa Vĩnh
và nhà nước công nhận Liệt sĩ và truy tặng Bằng tổ Quốc ghi công. [174]
Nghiêm đã hưởng ứng lời kêu gọi “Tăng gia sản xuất” của Chủ tịch Hồ Chí
Minh, có nhiều cố gắng trong việc trồng trọt và chăn nuôi, góp công, góp của
cho kháng chiến. Hòa thượng Thích Tâm Duyệt là người trực tiếp chèo đò
chở cán bộ, bộ đội trên bến đò La qua sông Lục Nam. Hòa thượng được Nhà
nước tặng Huân chương vì đã có công trong sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước.
Thời kỳ độc lập, đất nước thống nhất, chùa Vĩnh Nghiêm lại là nơi tu
hành, thực hiện các nghi lễ Phật giáo, đáp ứng nhu cầu nguyện vọng của nhân
dân, đồng thời các chức sắc, nhà tu hành vẫn phát huy tinh thần yêu nước và
nhập thế của mình trong giai đoạn hiện nay, góp phần sức lực vào sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Trong công tác xã hội, tăng, ni GHPGVN tỉnh Bắc Giang trong đó có
tăng, ni Phật giáo Trúc Lâm đã tham gia vào các cơ quan dân cử, tham gia
UBMTTQ các cấp, HĐND tỉnh. Trong cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa
XIV và HĐND các cấp nhiệm kỳ 2016 - 2021 đã có 01 vị trúng cử HĐND
tỉnh, 02 vị trúng cử HĐND huyện, 02 vị trúng cứ HĐND xã, phường, thị trấn.
Ngoài ra còn một số tăng, ni là ủy viên UBMTTQ cấp tỉnh, huyện, xã,
phường, thị trấn. Tư tưởng của các chức sắc, tín đồ luôn ổn định, vững vàng,
tin tưởng vào chủ trương chính sách của Đảng, chấp hành pháp luật của nhà
nước, luôn đoàn kết và tích cực tham gia các phong trào thi đua yêu nước của
địa phương, vận dụng thực hiện đường hướng dành đạo: “Đạo pháp - Dân tộc
- Chủ nghĩa xã hội”.
3.3.2.2. Nhập thế xã hội
Tinh thần nhập thế của Trần Nhân Tông là kết hợp lý tưởng Phật giáo và
lý tưởng đất nước. Với Ngài, không quan trọng là xuất gia hay tại gia mà
117
quan trọng là hiểu và đem giáo lý Phật giáo để giải quyết các vấn đề của xã
hội. Trần Nhân Tông đề cao tính nhập thế của Phật giáo, gắn đạo với đời qua
phương châm “Cư trần lạc đạo”, “Hòa quang đồng trần”.
Tinh thần nhập thế của Phật giáo Trúc Lâm thể hiện trong giáo dục đạo
đức. Năm 1304, Trần Nhân Tông đi giảng đạo, khuyên người dân giữ ngũ
giới và tu thập thiện, đã chuyển đổi nhận thức người dân về điều thiện và
hành động việc thiện. Trần Nhân Tông đã phong thần cho những người có
công với nước: “Lần đầu tiên, một thần điện Việt Nam được hình thành với
những con người cụ thể, sống bằng xương, bằng thịt trong quá khứ, có sự
tích, có hành trạng, chứ không chỉ gồm các vị thần, vị thánh từ nước ngoài
đưa vào, hay được tưởng tượng ra ở trong nước” [103, tr.170].
Việc phong thần này đã làm tái hiện một quá khứ anh hùng của dân tộc.
Từ đó, người dân càng dễ tiếp nhận giáo lý dung dị của đạo Phật mà sống và
hành thiện. Chính hoạt động nhập thế của Phật giáo đã góp phần vào quá trình
điều chỉnh hành vi xã hội. Nó cũng làm thay đổi một vài thói quen, nếp sống
truyền thống của người Việt Nam.
Trần Nhân Tông đã ứng dụng linh hoạt Phật giáo vào đời sống và đem
lại những thành tựu rực rỡ, trên cơ sở tiếp thu tinh hoa nhập thế của Thiền
Phật giáo và khuynh hướng nhập thế của Phật giáo Việt Nam. Tinh thần Nhập
thế trong tư tưởng Phật giáo Trúc Lâm của Trần Nhân Tông là điển hình nhập
thế của Phật giáo Việt Nam nói chung và Phật giáo đời Trần nói riêng. Trần
Nhân Tông đã vận dụng linh hoạt và mềm dẻo những triết lý sâu sắc của Phật
giáo vào giải quyết các vấn đề chính trị - xã hội, tạo nên một nét mới trong
văn hoá, giáo dục, đạo đức của dân tộc.
Do đó, đạo đức Phật giáo đã trở thành triết lý sống không chỉ của Phật
tử, mà cả các tầng lớp khác nhau trong xã hội: từ vua chúa, quan lại, thiền sư
và phổ cập rộng trong đại đa số quần chúng nhân dân. Đạo đức Phật giáo đã
“đi thẳng vào thế gian” và có ảnh hưởng to lớn đến đạo đức cổ truyền của dân
118
tộc. Trần Nhân Tông đã thể hiện tư tưởng nhập thế của Phật giáo rất rõ ràng:
dùng đạo để hướng dẫn đời và dùng đời để thực hành đạo [103, tr.384].
Trong giai đoạn hiện nay, GHPGVN tỉnh Bắc Giang luôn nhận được sự
quan tâm của Trung ương GHPGVN, của các cấp ủy chính quyền, đoàn thể
trong tỉnh, tạo tiền đề cho Phật giáo Bắc Giang nói chung và Phật giáo Trúc
Lâm nói riêng đạt được nhiều kết quả tốt, tạo điều kiện cho chức sắc, nhà tu
hành trong hành đạo hướng tín đồ đến tư tưởng nhập thế. Phát huy tinh thần
phụng đạo yêu nước, tăng ni, Phật tử theo Phật giáo Trúc Lâm tỉnh Bắc Giang
đã sống chan hòa, thiết thực cùng xã hội, hiện hữu trong lòng dân tộc, quyết
tâm giữ vững tinh thần độc lập quốc gia, phục vụ nhân dân. Với tư cách là
thành viên trong khối Đại đoàn kết toàn dân, tăng, ni, Phật tử đã gắn hoạt
động đạo pháp với dân tộc và chủ nghĩa xã hội, hưởng ứng các cuộc vận
động, tích cực động viên Phật tử tuyên truyền sâu rộng trong tầng lớp nhân
dân, gia đình Phật tử, xây dựng nếp sống văn minh, gia đình văn hóa, thực
hiện việc cưới, tang, lễ tết… “Văn minh lành mạnh tiết kiệm”, bài trừ mê tín
dị đoan, cùng toàn dân xây dựng an ninh quốc phòng, giữ gìn kỷ cương an
toàn xã hội. Thực hiện cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết, xây dựng đời sống
văn hóa” do Ủy ban Trung ương MTTQ VN phát động, chùa Vĩnh Nghiêm
được công nhận và chùa văn hóa, văn minh. Ngoài ra, tăng, ni Phật tử theo
Phật giáo Trúc Lâm trong tỉnh tích cực tham gia các phong trào thi đua, yêu
nước ở địa phương, giữ gìn an ninh, trật tự và an toàn xã hội, kết hợp chặt chẽ
với chính quyền đoàn thể, xây dựng làng văn hóa mới ở khu dân cư.
Đối với vấn đề từ thiện, nhân đạo, trong thời gian qua các tổ chức, chức
sắc Phật giáo, các Phật tử đã tổ chức nhiều việc làm có ý nghĩa. Các tăng, ni,
đặc biệt những người đứng đầu các cơ sở thờ tự, là những người đi tiên phong
cho việc đóng góp từ thiện hoặc kêu gọi đóng góp từ thiện trong cộng đồng,
xã hội. Chùa Vĩnh Nghiêm, Bắc Giang hằng năm đều dành riêng một khoản
kinh phí nhất định cho các hoạt động từ thiện, bên cạnh các hoạt động kêu gọi
119
ủng hộ từ thiện từ các tổ chức xã hội, coi đó là một trong những hoạt động
thường xuyên của chùa.
Từ năm 2012 - 2017, Thượng tọa Thích Thiện Văn đã ủng hộ quà thiếu
nhi 1-6, học sinh thi đỗ Đại học tại các chùa Hồng Phúc, chùa Hướng, chùa
Đại Miễn, chùa Kế, chùa Vĩnh Nghiêm, chùa Rền, và chùa Đại Giáp với tổng
giá trị 1 tỷ đồng. Ngoài ra, Thượng tọa còn ủng hộ ngày thương binh liệt sỹ,
người bị nhiễm chất độc màu da cam, đồng bào bị thiên tai lũ lụt, người già cô
đơn, cấp sổ nghèo… với tổng giá trị 1 tỷ đồng. Thượng tọa Thích Thiện Văn
xây nghĩa trang, làm đường, trồng cây trong nghĩa trang xã Trí Yên, huyện
Yên Dũng với tổng kinh phí 300 triệu đồng, trong các ngày lễ đặt vòng hoa
tưởng niệm tại nghĩa trang liệt sỹ. Làm các lễ cầu siêu cho anh hùng liệt sỹ
với tổng kinh phí hơn 100 triệu đồng. Ngoài các hoạt động từ thiện các vị sư
ở chùa Vĩnh Nghiêm còn mở quầy thuốc nam, giúp chữa bệnh cho những
người có hoàn cảnh khó khăn.
Vào thứ bảy hoặc chủ nhật hằng tháng, Đại đức Thích Thanh Vịnh, Phó
Thường trực trụ trì chùa Vĩnh Nghiêm tích cực triển khai mô hình các buổi tham
quan, tu tập một ngày qua đó phổ biến những tư tưởng, triết lý đạo đức Phật giáo
như các bài giảng về đạo hiếu, gia đình, về hạnh phúc…. Đối tượng tham gia rất
đa dạng, gồm học sinh các trường, người cao tuổi trên địa bàn. Số lượng đăng ký
tham gia nhiều khi vượt quá khả năng đáp ứng về điều kiện cơ sở vật chất của
chùa. Hiện tại, chùa vẫn tiếp tục đón nhận các buổi tham quan, tu tập cho học
sinh, nhưng giới hạn số lượng học sinh tham dự để đảm bảo chất lượng.
Những hoạt động của chức sắc, nhà tu hành đã khơi dậy phần nào niềm
tin, hiểu biết của Phật tử với chính pháp. Nội dung các buổi giảng pháp là dạy
đạo lý, động viên Phật tử gương mẫu góp phần an vui hòa nhã trong gia đình,
bình đẳng và luôn luôn có tinh thần yêu nước, giúp đỡ mọi người xung quanh,
góp phần xây dựng Tổ quốc. Các tín đồ đến nghe giảng đã có những chuyển
biến thật sự, sống tốt đời đẹp đạo.
120
NCS phỏng vấn bảng hỏi về việc làm từ thiện giúp đỡ mọi người của tín
, 55%
38%
7%
, 0%
100 90 80 70 60 50 40 30 20 10 0
Thường xuyên
Thỉnh thoảng
Hiếm khi
Không bao giờ
đồ và người dân. Kết quả khảo sát thu được tại Biểu đổ 3.11 như sau:
Biểu đồ 3.11. Tần xuất làm từ thiện của tín đồ và người dân
Nguồn: Khảo sát của tác giả luận án [PL 2].
Phần lớn người trả lời cho rằng thường xuyên làm từ thiện giúp đỡ mọi
người là 220 (tỷ lệ 55%), thỉnh thoảng là 152 người (tỷ lệ 38%), hiếm khi là
28 người (tỷ lệ 7%). Kết quả cho biết rằng số lượng người trả lời làm từ thiện
giúp đỡ mọi người thường xuyên chiếm tỉ lệ cao. Làm từ thiện xã hội chính là
thực hiện lời dạy từ bi, hỷ xả, cứu khổ cứu nạn của Phật giáo, hành động theo
luân lý và đạo đức của giáo lý Phật giáo nói chung, tinh thần nhập thế của
Phật giáo Trúc Lâm nói riêng. GHPGVN tỉnh Bắc Giang cùng với các tăng,
ni, Phật tử trong đó có tăng, ni Phật giáo Trúc Lâm đã thường xuyên làm từ
thiện giúp đỡ mọi người, đồng thời vận động đóng góp xây dựng quỹ từ thiện
xã hội như: Nạn nhân chất độc màu da cam, Quỹ người mù, Quỹ học sinh
nghèo vượt khó, Quỹ xóa đói giảm nghèo, ủng hộ đồng bào lũ lụt, tham gia
xây dựng Quỹ khuyến học chữ thập đỏ… Những việc làm này đã biểu hiện rõ
tinh thần nhập thế của tăng, ni và Phật tử ở Bắc Giang hiện nay.
Theo đánh giá của NCS, giá trị lịch sử của Phật giáo Trúc Lâm thời Trần
có ý nghĩa lịch sử quan trọng trong việc thống thống nhất các tổ chức Phật
giáo tại Việt Nam. Trần Nhân Tông đã thống nhất 3 dòng thiền Tỳ Ni Đa Lưu
121
Chi, Vô Ngôn Thông, Thảo Đường tạo nên sự thống nhất các tổ chức giáo hội
Phật giáo của Đại Việt. GHPGVN hiện nay đã kế thừa giá trị lịch sử của Phật
giáo Trúc Lâm thời Trần trong việc thống nhất các hệ phái, cả 3 hệ phái Phật
giáo Bắc tông, Phật giáo Nam tông, Phật giáo Khất sĩ đều hoạt động dưới sự
lãnh đạo của GHPGVN. Phật giáo Trúc Lâm thời Trần đã mang giá trị lịch sử
góp phần dẫn tới sự ra đời GHPGVN thống nhất các tổ chức, hệ phái Phật
giáo trong cả nước vào năm 1981. Trải qua các thời kỳ lịch sử Phật giáo Trúc
Lâm tại Bắc Giang luôn là nơi sinh hoạt tu tập các nghi lễ Phật giáo, đáp ứng
nhu cầu của tăng ni, Phật tử và người dân, phát huy tinh thần yêu nước và
nhập thế góp phần trong công cuộc xây dựng đất nước, bảo vệ Tổ quốc.
Tiểu kết chương 3
Phật giáo Trúc Lâm thời Trần để lại nhiều giá trị trong đó 3 giá trị nổi
bật của Phật giáo Trúc Lâm thời Trần ở Bắc Giang đó là: giá trị tôn giáo, giá
trị văn hóa và giá trị lịch sử. Các giá trị này đã có ảnh hưởng đến đời sống tín
đồ và người dân Bắc Giang. Qua các di sản văn hóa vật thể là hệ thống di
tích, di vật còn xót lại cùng với các lễ hội - di sản văn hóa phi vật thể đã đóng
góp giá trị rất lớn vào di sản văn hóa Việt Nam, cùng với đó là các hoạt động
tu tập được tổ chức thường xuyên trên địa bản tỉnh Bắc Giang đã góp phần tu
dưỡng đạo đức, giúp tâm trong sáng, hình thành nên lối sống mẫu mực, phẩm
chất đạo đức tốt đẹp, ổn định xã hội, đồng thời khơi dậy tinh thần yêu nước,
tự lực tự cường, ý chí bảo vệ nền độc lập dân tộc, theo tư tưởng yêu nước và
nhập thế của Phật giáo Trúc Lâm truyền lại. Phật giáo Trúc Lâm thời Trần ở
Bắc Giang là một bộ phận của Phật giáo Trúc Lâm thời Trần đã duy trì,
chuyển tải tư tưởng Phật giáo thời Trần, góp phần xây dựng giáo hội Phật
giáo độc lập, thống nhất mang tinh thần nhập thế. Phật giáo Trúc Lâm thời
Trần ở Bắc Giang hiện nay đã có sự hỗn dung hòa chung với các hoạt động
của Giáo hội Phật giáo Việt Nam tỉnh Bắc Giang, và có những ảnh hưởng tới
đời sống người dân Bắc Giang từ thời Trần tới hiện tại, đó là những biểu hiện
122
tinh thần yêu nước, tự lực tự cường, ý chí bảo vệ nền độc lập dân tộc, tinh
thần nhập thế của Phật giáo Trúc Lâm truyền lại. Nhìn chung, công tác hoằng
pháp ngày càng khởi sắc, với nhiều chương trình thuyết giảng, khóa tu phong
phú. Đồng thời, khéo léo kết hợp giữa hoằng pháp, từ thiện xã hội, hướng tín
đồ đến tư tưởng yêu nước, tư tưởng nhập thế. Trong sự nghiệp đổi mới, hội
nhập và phát triển, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân tỉnh Bắc Giang
không ngừng phát huy tinh thần yêu nước, truyền thống văn hóa và cách
mạng, đẩy mạnh phát triển kinh tế xã hội, từ thiện xã hội, đoàn kết và bảo vệ
chủ quyền quốc gia dân tộc.
123
Chương 4
GIẢI PHÁP CƠ BẢN VÀ KHUYẾN NGHỊ NHẰM PHÁT HUY
GIÁ TRỊ CỦA PHẬT GIÁO TRÚC LÂM THỜI TRẦN
4.1. GIẢI PHÁP CƠ BẢN NHẰM PHÁT HUY GIÁ TRỊ CỦA PHẬT GIÁO
TRÚC LÂM THỜI TRẦN Ở BẮC GIANG HIỆN NAY
Ở BẮC GIANG HIỆN NAY
4.1.1. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền nhằm nâng cao nhận thức và
trách nhiệm của chính quyền các cấp, chức sắc, tín đồ và người dân trong
việc bảo tồn, phát huy các giá trị của Phật giáo Trúc Lâm thời Trần ở Bắc
Giang hiện nay
Sau hơn 30 năm Đổi mới, Đảng và Nhà nước ta đã phát huy được thành
tựu của tôn giáo, tín ngưỡng trong cả nước, trong đó có phát huy giá trị của
Phật giáo. Về Phật giáo Trúc Lâm, nhiều di tích chùa, thiền viện đã được
công nhận, tu bổ, tôn tạo hoặc xây mới, điển hình như: Khu di tích, danh
thắng Yên Tử (Uông Bí), chùa Quỳnh Lâm (Đông Triều)… Trước thời kỳ
Đổi mới, năm 1964, Chùa Vĩnh Nghiêm được Nhà nước xếp hạng là Di tích
lịch sử - văn hóa cấp quốc gia. Từ khi Đổi mới đến năm 2012, Mộc bản chùa
Vĩnh Nghiêm đã được UNESCO công nhận là Di sản tư liệu ký ức thế giới
khu vực Châu Á - Thái Bình Dương. Năm 2013, lễ hội Chùa Vĩnh Nghiêm (tổ
chức hằng năm vào ngày 12 tháng 2 âm lịch) được Bộ Văn hóa, Thể thao và
Du lịch công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể Quốc gia. Ngày 23/12/2015,
Thủ tướng ban hành Quyết định số 2367/QĐ-TTg Về việc xếp hạng di tích
quốc gia đặc biệt, trong đó có di tích của Phật giáo Trúc Lâm là Chùa Vĩnh
Nghiêm (huyện Yên Dũng, tỉnh Bắc Giang). Đồng thời, Thủ tướng Chính phủ
ban hành Quyết định số 2382/QĐ-TTg ngày 23/12/2015 về việc công nhận
bảo vật quốc gia. Trong đó có Hương án chùa Khám Lạng (niên đại năm
1432, hiện lưu giữ tại di tích chùa Khám Lạng, xã Khám Lạng, huyện Lục
124
Nam, tỉnh Bắc Giang. Hương án đá hoa sen chùa Khám Lạng được chạm
khắc trên đá của các nghệ nhân dân gian rất độc đáo; là một tác phẩm nghệ
thuật hoàn mỹ. Hương án được tạo tác từ nhiều khối đá xanh ghép lại thành
khối lớn hình chữ nhật, dài 3,12m, rộng 1,4m, cao 1,2m và được chia thành 3
phần chính: Mặt Hương án, Hương án, chân đế Hương án.
Phật giáo Trúc Lâm thời Trần trên địa bàn tỉnh Bắc Giang để lại nhiều
giá trị, trong đó nổi bật là giá trị tôn giáo, giá trị văn hóa, giá trị lịch sử. Các
giá trị này đã có những ảnh hưởng tới đời sống của người dân nơi đây. Xác
định rõ tầm quan trọng trong việc bảo tồn, phát huy các giá trị Phật giáo Trúc
Lâm, trong nhiều năm qua tỉnh Bắc Giang đã bảo tồn và phục dựng nhiều di
tích Phật giáo Trúc Lâm ở khu vực Tây Yên Tử, trong các lễ hội lớn nhiều
hoạt động được diễn ra nhằm tuyên truyền quảng bá các giá trị văn hóa của
Phật giáo Trúc Lâm và hình ảnh con người Bắc Giang.
Từ năm 1997 tỉnh đã tổ chức Hội thảo đánh giá về hệ thống ngôi chùa
cổ phía Tây Yên Tử tỉnh Bắc Giang, tổ chức khảo sát các di tích, di vật
thuộc Tây Yên Tử. Chỉ đạo đầu tư kinh phí cho công tác tu bổ, tôn tạo di
tích lịch sử văn hóa, lập hồ sơ xếp hạng một số điểm di tích, danh thắng có
giá trị... Đặc biệt, từ khi luật Di sản văn hóa được ban hành (2001), đã tăng
cường hiệu lực quản lý nhà nước, bảo vệ và phát huy giá trị Di sản văn hoá,
góp phần vào việc xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiến tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc, đáp ứng nhu cầu về văn hoá ngày càng tăng của
nhân dân; nâng cao trách nhiệm của nhân dân trong việc tham gia bảo vệ
và phát huy giá trị của di sản văn hoá. Ngày 21/6/2001 Chủ tịch UBND
tỉnh có Chỉ thị số 07/CT-CT, về việc Tăng cường bảo vệ di tích lịch sử, văn
hóa, danh lam thắng cảnh.
Để thực hiện Luật Di sản văn hoá tốt hơn, UBND tỉnh đã phê duyệt
thực hiện 2 đề án:
- Đề án Bảo tồn và phát huy di sản văn hoá các dân tộc thiểu số tỉnh
Bắc Giang giai đoạn 2001-2005.
125
- Đề án Bảo tồn và phát huy di sản văn hoá các dân tộc tỉnh Bắc Giang
giai đoạn 2003-2010.
Đến năm 2006, tỉnh Bắc Giang tiếp tục thực hiện thêm 1 đề án: Đề án
Bảo tồn và phát huy di sản văn hoá các dân tộc tỉnh Bắc Giang giai đoạn
2006-2010. Do đó công tác bảo tồn và phát huy các di sản văn hoá đã thu
được nhiều kết quả tốt đẹp.
Ngày 17/12/2017, tại chùa Vĩnh Nghiêm, xã Trí Yên (huyện Yên Dũng),
UBND huyện Yên Dũng phối hợp với GHPGVN tỉnh Bắc Giang tổ chức lễ
khánh thành đưa vào sử dụng Nhà lưu giữ và trưng bày mộc bản chùa Vĩnh
Nghiêm. Trước khi Nhà lưu trữ đi vào xây dựng đã có nhiều đợt hội thảo để
thống nhất xây dựng công trình lưu giữ và trưng bày. Công trình là nơi lưu
giữ tất cả các văn bản, đặc biệt là mộc bản và thư tịch, những nội dung liên
quan đến Phật giáo... Nhà lưu giữ nhằm bảo quản tốt hơn bộ mộc bản (đã
được UNESCO công nhận là Di sản ký ức thế giới khu vực Châu Á - Thái
Bình Dương), đồng thời để trưng bày giới thiệu đến nhân dân và khách du
lịch về giá trị của bộ mộc bản này. Ngoài mộc bản, ở đây còn lưu giữ những
văn bản, hiện vật liên quan đến Phật giáo thời Trần mà Ban Trị sự và các sư
sưu tầm mang về, để khi khách đến có cái nhìn rộng hơn không chỉ ở ngôi chùa
Vĩnh Nghiêm mà còn biết thêm về Phật giáo Trúc Lâm, tìm hiểu sâu hơn những
giá trị văn hóa, vật thể. Bên cạnh đó là dự án bảo vệ nhằm chống thất thoát,
chống hỏa hoạn, chống mối mọt, ẩm mốc...
Để phát huy giá trị bộ mộc bản, UBND huyện Yên Dũng đã ban hành kế
hoạch tuyên truyền, nâng cao nhận thức, tuyên truyền cho người dân về các di
tích lịch sử, văn hóa trên địa bàn huyện. Đó là di tích cấp quốc gia đặc biệt
chùa Vĩnh Nghiêm và giá trị bộ mộc bản. Đồng thời tuyên truyền đến học
sinh các trường THCS, Tiểu học trên địa bàn huyện. UBND huyện Yên Dũng
đã ban hành Đề án tổ chức lễ hội chùa Vĩnh Nghiêm giai đoạn 2018 - 2025,
trong đó có những định hướng cụ thể trong việc tuyên truyền, quảng bá, giới
126
thiệu về di tích cấp quốc gia đặc biệt chùa Vĩnh Nghiêm, nhất là giá trị bộ
mộc bản, đồng thời nâng tầm quy mô tổ chức lễ hội cấp huyện.
Bên cạnh đó, trong dịp lễ hội, UBND huyện phối hợp với nhà chùa lựa
chọn một số tác phẩm tiêu biểu để dịch và giới thiệu nội dung đến khách du
lịch. Đồng thời nâng cao chất lượng đội ngũ thuyết minh viên, chất lượng nội
dung tuyên truyền, giới thiệu về bộ mộc bản để trong các mùa lễ hội sẽ tuyên
truyền, quảng bá được với khách du lịch. Phối hợp với Sở Văn hóa, Thể thao và
Du lịch và các cơ quan chức năng tiếp tục làm hồ sơ đề nghị công nhận mộc
bản kinh Phật chùa Vĩnh Nghiêm là di sản thế giới.
Nhìn một cách tổng quát, khách quan, có thể khẳng định quan điểm của
Ðảng, Nhà nước ta trong việc bảo vệ và phát huy giá trị của Phật giáo Trúc
Lâm ở tỉnh Bắc Giang là quan điểm nhất quán, xuyên suốt, phù hợp với thực
tiễn đòi hỏi của từng giai đoạn. Hệ thống văn bản pháp luật nêu trên hiện đã
và đang góp phần tăng cường hiệu lực quản lý nhà nước, nâng cao trách
nhiệm của chính quyền và nhân dân trong việc tham gia bảo tồn và phát huy
các giá trị của Phật giáo Trúc Lâm thời Trần tỉnh Bắc Giang.
Tuy nhiên việc tuyên truyền quảng bá chỉ diễn ra khi có các lễ hội với
tính chất quảng cáo hình ảnh để du khách biết là chính, chưa thật sự có giải
pháp nâng cao nhận thức về công tác bảo tồn các giá trị của Phật giáo Trúc
Lâm đối với cán bộ, tín đồ và người dân. Đặc biệt tình trạng xâm phạm di
tích đã xảy ra một số địa phương vì vậy cần thiết phải nâng cao nhận thức,
trách nhiệm trong việc bảo tồn các giá trị. Muốn vậy cần phải làm tốt các
nội dung sau:
Thứ nhất, các cơ quan thông tấn, báo chí trong nước và địa phương tích
cực đưa các bản tin, phóng sự, bài báo có nội dung về các giá trị của Phật giáo
Trúc Lâm trên địa bàn tỉnh Bắc Giang, từ đó giúp chính quyền, người dân và
tín đồ nhận thức rõ hơn về các giá trị này, đồng thời đẩy mạnh công tác tuyên
truyền nhằm nâng cao nhận thức, trách nhiệm của các cấp, các ngành, nhân
127
dân và tín đồ trong việc tham gia bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa của Phật
giáo Trúc Lâm.
Thứ hai, chính quyền các cấp cần tạo điều kiện, hỗ trợ cho các chùa
thực hiện tuyên truyền cung cấp các tài liệu (sách, báo, tạp chí, băng, đĩa
v.v...) hoặc tổ chức các buổi nói chuyện về Phật giáo Trúc Lâm giúp cho
người dân và tín đồ nhận thức rõ hơn về các giá trị của Phật giáo Trúc Lâm.
Thứ ba, tăng cường bồi dưỡng nâng cao năng lực cho cán bộ làm công
tác tôn giáo hiểu rõ về chính sách tôn giáo và các giá trị của Phật giáo Trúc
Lâm, từ đó lựa chọn nội dung, đổi mới phương pháp, tuyên truyền, phổ biến
chính sách tôn giáo và các giá trị của Phật giáo Trúc Lâm tới từng địa bàn, đối
tượng, giúp người dân và tín đồ có trách nhiệm trong việc bảo tồn và phát huy
các giá trị của Phật giáo Trúc Lâm.
Thứ tư, chức sắc, nhà tu hành của Phật giáo Trúc Lâm là những người
lưu giữ những giá trị tôn giáo như giáo lý, tư tưởng, cách thức tu hành của
Phật giáo Trúc Lâm, những người này có ảnh hưởng tới cộng đồng xã hội, vì
vậy các chức sắc, nhà tu hành cần phải giữ gìn các giáo lý, nghi lễ của Phật
giáo Trúc Lâm. Khuyến khích trụ trì các chùa trên địa bàn có những hoạt
động sáng tạo để truyền bá giáo lý, tư tưởng, cách thức tu hành của Phật giáo
Trúc Lâm đối với người dân và tín đồ, để họ nắm vững, hiểu thấu lý tưởng
sống của Phật giáo Trúc Lâm, giúp họ điều chỉnh hành vi của mình trong đời
sống xã hội.
Thứ năm, quan tâm đào tạo, xây dựng đội ngũ tăng ni đủ năng lực và
đạo hạnh để làm tốt công tác Phật sự, tiếp tục phát huy các giá trị của Phật
giáo Trúc Lâm hướng dẫn các tín đồ thực hiện các giá trị này trong đời
sống, hướng họ hành động theo lý tưởng sống của nhà Phật, thông qua
những tấm gương người tốt việc tốt trong xã hội, để cho họ hiểu sâu hơn về
các giá trị, từ đó giúp họ điều chỉnh lối sống của bản thân, gia đình và mọi
người xung quanh.
128
Thứ sáu, các cấp chính quyền tạo điều kiện thuận lợi cho những cá
nhân, tổ chức và các chùa có nhiều đóng góp trong các hoạt động từ thiện xã
hội. Có những hình thức tuyên dương, khen thưởng kịp thời đối với những
tấm gương, những mô hình làm việc thiện có hiệu quả, đúng pháp luật, phổ
biến nhân rộng mô hình từ thiện đó sang các địa phương khác.
4.1.2. Bảo tồn, phục dựng các di tích Phật giáo Trúc Lâm thành
quần thể hoàn chỉnh, thống nhất
Ở phía sườn Tây Yên Tử hiện có hàng loạt các công trình di tích liên
quan chặt chẽ đến quá trình hình thành và hưng thịnh của Phật giáo Trúc Lâm
như: Chùa Vĩnh Nghiêm, chùa Am Vãi, chùa Hồ Bấc, chùa Bình Long, chùa
Sơn Tháp… Trải qua thời gian, nhiều di tích đã bị tàn phá, một số chỉ còn xót
lại những văn bia, văn tự, di vật quý giá, cùng với đó là hàng loạt các di tích
thời Trần khác. Hệ thống các di tích này gắn kết chặt chẽ với các cơ sở Phật
giáo Trúc Lâm của tỉnh Quảng Ninh và Hải Dương trong không gian tôn giáo
đã trải qua mấy trăm năm. Trong thời gian qua, tỉnh Bắc giang đã nỗ lực trong
việc tôn tạo, bảo tồn và phục dựng các di tích của Phật giáo Trúc Lâm bên
sườn Tây Yên Tử. Được sự hỗ trợ của Chính phủ, tỉnh Bắc Giang đã xây
dựng và hoàn thiện tuyến đường 293 từ thành phố Bắc Giang qua huyện Yên
Dũng, Lục Nam, Sơn Động, và xây dựng cáp treo kết nối lên chùa Đồng tỉnh
Quảng Ninh.
Tháng 5/2012, Kho Mộc bản chùa Vĩnh Nghiêm đã được UNESCO
công nhận là Di sản Tư liệu thế giới khu vực Châu Á - Thái Bình Dương.
Công tác quy hoạch đã được quan tâm nhiều hơn. UBND tỉnh đã phê duyệt
Quy hoạch bảo tồn tổng thể di tích và danh thắng Tây Yên Tử giai đoạn 2011
- 2015. Chính phủ cũng đồng ý cho tỉnh Bắc Giang đầu tư dự án xây dựng
tuyến đường 293 (đường Tây Yên Tử nối Tp. Bắc Giang và các huyện Yên
Dũng, Lục Nam, Sơn Động) với tổng kinh phí 2.700 tỷ đồng. Nhiều hội thảo
khoa học, khảo sát, công tác phối hợp cũng đã được thực hiện giữa 3 tỉnh:
129
Bắc Giang, Quảng Ninh, Hải Dương về hệ thống di tích danh thắng Yên Tử.
Năm 2013, tỉnh Bắc Giang và Quảng Ninh đã phối hợp với Bộ VHTTDL
thống nhất việc lập Hồ sơ Di tích và danh thắng Yên Tử vào Danh mục Hồ
sơ Di sản Thế giới.
Ngày 10/5/2014, UBND tỉnh Bắc Giang triển khai kế hoạch xây dựng
Khu du lịch Sinh thái - Tâm linh Tây Yên Tử (xã Tuấn Mậu, huyện Sơn
Động, Bắc Giang), với tổng kinh phí chủ yếu từ nguồn xã hội hóa dự kiến
trên 305 tỷ đồng. Theo quy hoạch, Khu du lịch Sinh thái - Tâm linh Tây
Yên Tử thuộc trục đường mòn phía sườn Tây Yên Tử lên chùa Đồng (tỉnh
Quảng Ninh) với tổng diện tích là 13,8ha. Đây là dự án trọng điểm của tỉnh
trong giai đoạn năm 2010 đến năm 2030. Với các hạng mục đã và đang
được xây dựng như:
- Hệ thống Cáp treo có độ dài khoảng 2.000 m, có 02 nhà ga với ga cuối
cách chùa Đồng khoảng 700 m.
- Khu vực chùa Trình, chùa Hạ (chùa Phật Quang), chùa Trung và chùa
Thượng (chùa Kim Quy), cổng Khu Tây Yên Tử, làng chào đón Tây Yên Tử,
Khu Hiên Tây Yên Tử và Đình Tây Yên Tử; các điểm chùa có độ cao từ 145
m đến điểm cao nhất gần 1.000 m so với mặt nước biển, kết nối với chùa
Đồng, tượng Phật Hoàng Trần Nhân Tông trên đỉnh Yên Tử.
Khu vực chùa Hạ được khởi công xây dựng từ giữa năm 2016, được xây
dựng diện tích 1,13 ha (trên khuôn viên có diện tích 17,2 ha), xung quanh là
cây xanh, đất dịch vụ và đất giao thông. Đầu năm 2018, chùa Hạ khánh thành
giai đoạn I và khai hội Tây Yên Tử.
Khu vực chùa Thượng được xây dựng với diện tích 2.267 m2 (trên khu
đất có diện tích 2,36 ha), xung quanh là cảnh quan cây xanh, đất dịch vụ và
đất giao thông. Chùa nằm ở độ cao 840 m, thấp hơn chùa Đồng 228 m.
Năm 2015, 3 tỉnh: Bắc Giang, Quảng Ninh và Hải Dương đã thống nhất
trình Chính phủ định danh “Quần thể di tích nhà Trần và Phật giáo Trúc Lâm
130
Yên Tử tại Quảng Ninh - Bắc Giang - Hải Dương” là một chuỗi kiến trúc
công trình văn hóa, không đơn lẻ như trước. Không gian lập hồ sơ được điều
chỉnh lại gồm 4 cụm di tích thuộc 3 tỉnh, cụ thể: 1. Khu di tích Tây Yên Tử
(Bắc Giang); 2. Khu di tích lịch sử và danh thắng Yên Tử (TP Uông Bí,
Quảng Ninh); 3. Khu di tích lịch sử nhà Trần tại Đông Triều (thị xã Đông
Triều, Quảng Ninh); 4. Khu Di tích lịch sử, văn hóa Thanh Mai - Côn Sơn -
Kiếp Bạc (thị xã Chí Linh, tỉnh Hải Dương);
Ngày 09 tháng 01 năm 2017, UBND tỉnh Bắc Giang ban hành Quyết
định số 20/QĐ-UBND Về việc phê duyệt “Quy hoạch tổng thể bảo tồn, phát
huy giá trị Khu di tích lịch sử - văn hóa danh lam thắng cảnh chùa Am Vãi,
huyện Lục Ngạn, tỉnh Bắc Giang”. Một số điểm chính trong mục tiêu và quan
điểm quy hoạch là: Kiến tạo những nội dung mang tính đặc trưng thông qua
việc phục dựng những kiến trúc Phật giáo tinh hoa Việt Nam thời Lý, Trần,
trở thành một điểm hành hương quan trọng của quần thể di tích danh thắng
Tây Yên Tử. Khai thác phát huy tích hợp được các giá trị văn hóa truyền
thống, tinh hoa của thời đại Lý, Trần, Việt Nam và thế giới.
Năm 2017, UBND tỉnh Bắc Giang thông qua chương trình Quy hoạch
Khảo cổ học Bắc Giang đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2030. Chương trình
do Viện Khảo cổ học, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam kết hợp với
Sở Văn hoá thể thao và du lịch tỉnh Bắc Giang đã tiến hành khảo sát, nghiên
cứu, đánh giá tiềm năng khảo cổ, khoanh vùng bảo vệ, đưa ra định hướng
nghiên cứu, bảo vệ các di tích trong các năm tới. Qua 2 đợt khảo sát, nghiên
cứu khảo cổ học, các chuyên gia đã phát hiện và công bố hàng loạt các di tích
liên quan tới Tây Yên Tử. Tại địa bàn huyện Sơn Động phát hiện thêm 23 di
tích mới, với một hệ thống chân tảng, bờ kè, hiện vật phong phú và đa dạng
về số lượng lẫn chủng loại có niên đại kéo dài từ thế kỷ XIV-XV đến thế kỷ
XIX-XX. Kết quả của các cuộc khảo sát đã có nhiều tư liệu quan trọng về dấu
tích của Phật giáo Trúc Lâm trên địa bàn huyện Sơn Động.
131
Tuy nhiên chính quyền tập trung xây dựng mới là chủ đạo, bên cạnh
một số di tích lập hồ sơ đã được xếp hạng, ngoài ra vẫn còn nhiều di tích hiện
vẫn đang là phế tích chưa được phục dựng, bên cạnh đó việc bảo tồn các giá
trị tôn giáo, giá trị lịch sử vẫn chưa có giải pháp thực hiện. Vì vậy giải pháp
bảo tồn đồng bộ các giá trị của Phật giáo Trúc Lâm thành không gian tôn giáo
thống nhất là cần thiết.
Thứ nhất, chính quyền các cấp cần tiếp tục lên kế hoạch tổng kiểm
tra, đánh giá thực trạng của từng di tích, đề ra phương án tốt nhất trong
biện pháp bảo vệ, tu bổ, tôn tạo, phát huy giá trị. Đồng thời phục dựng các
di tích, công trình tín ngưỡng tại khu vực này tạo thành quần thể hoàn
chỉnh, thống nhất.
Thứ hai, những giá trị của Phật giáo Trúc Lâm thời Trần ở tỉnh Bắc
Giang rất phong phú và đa dạng. Vì vậy, chính quyền cần kết hợp với
GHPGVN các cấp có kế hoạch xây dựng, phát triển các trung tâm bảo tồn,
phát huy các giá trị của Phật giáo Trúc Lâm ở tỉnh Bắc Giang hiện nay. Đồng
thời phối hợp với các chuyên gia, nhà nghiên cứu tổ chức nhiều đợt khảo sát,
cũng như hội thảo khoa học, làm rõ hơn nữa các giá trị của Phật giáo Trúc
Lâm thời Trần, để cùng với chính quyền phục dựng lại các di tích trong không
gian văn hóa thời Trần.
Thứ ba, các tổ chức Phật giáo phối hợp với chính quyền các cấp tổ
chức thường xuyên, hiệu quả các nghi lễ, lễ hội của Phật giáo Trúc Lâm với
quy mô rộng lớn, có thể liên khu vực Bắc Giang, Quảng Ninh, Hải Dương,
nhằm khôi phục lại không gian tôn giáo trong vùng tạo thành một quần thể
thống nhất, đồng thời để các cho Phật tử và nhân dân được tham gia đông
đảo, góp phần bảo tồn các giá trị của Phật giáo Trúc Lâm.
Thứ tư, Phật giáo Trúc Lâm là tôn giáo mang mang bản sắc văn hóa
Việt Nam, là sự dung hợp giữa Phật giáo và tín ngưỡng dân gian... chính
quyền các cấp cần tạo được sự đồng thuận, quản lý và phát triển tôn giáo phù
132
hợp với tính lịch sử cụ thể của tỉnh trên cơ sở chính sách tôn giáo của Đảng và
Nhà nước, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cũng như hỗ trợ các chùa thuộc
Phật giáo Trúc Lâm tổ chức các lễ hội, lớp học thiền, lớp học giáo lý, khóa tu
định kỳ… cho các Phật tử trong và ngoài tỉnh tham dự.
Thứ năm, chú trọng, quan tâm đào tạo bồi dưỡng cán bộ quản lý di tích
từ cấp huyện tới cơ sở, nhằm nâng cao nghiệp vụ trong công tác bảo tồn,
phát huy các giá trị của Phật giáo Trúc Lâm, tổ chức lễ hội trong huyện gắn
với các di tích thuộc Phật giáo Trúc Lâm theo đúng quy định của pháp luật.
Thứ sáu, kết hợp chặt chẽ với Học viện Phật giáo Việt Nam có tăng, ni
sinh Bắc Giang theo học, vừa động viên điều chỉnh bằng nhiều biện pháp linh
động, để nâng cao phẩm hạnh và trình độ tu học của lớp tăng, ni hiện nay, vừa
xây dựng một lớp tăng ni trẻ đáp ứng được nhu cầu tu học Phật giáo Trúc
Lâm của đông đảo Phật tử. Trong các cơ sở đào tạo (Học viện Phật giáo, các
lớp cao đẳng và trường Trung cấp Phật học) cần bố trí khung chương trình và
nội dung môn học về Phật giáo Trúc Lâm để các tăng, ni được học tập, có
kiến thức, bảo tồn và phát huy được các giá trị của Phật giáo Trúc Lâm.
Thứ bảy, cần có những chính sách phù hợp nhằm tăng nguồn thu, kinh
phí để đầu tư cho các hoạt động bảo tồn, phục dựng các di tích, không gian
tôn giáo của Phật giáo Trúc Lâm, cũng như chính sách ưu tiên cho các doanh
nghiệp trong việc đóng góp hỗ trợ bảo tồn các giá trị của Phật giáo Trúc Lâm.
4.1.3. Khai thác, phát huy các giá trị của Phật giáo Trúc Lâm để
phục vụ phát triển kinh tế - xã hội của toàn địa phương
Trong những năm qua, kinh tế - xã hội Bắc Giang từng bước phát triển,
tạo việc làm, tăng thêm thu nhập cho người dân, thúc đẩy giao lưu văn hóa,
phấn đấu là điểm đến của du lịch tâm linh - sinh thái hấp dẫn ở miền
Bắc. Tỉnh Bắc Giang đã triển khai quy hoạch, xây dựng hoàn thiện giai đoạn
2 Khu du lịch tâm linh - sinh thái Tây Yên Tử ở xã Tuấn Mậu, huyện Sơn
Động, kết nối lên chùa Đồng tỉnh Quảng Ninh nhằm khai thác du lịch tâm
133
linh bấy lâu nay bị lãng quên đó là các di tích Phật giáo Trúc Lâm bên sườn
Tây Yên Tử. Tuyến đường 293 hoàn thiện giao thông thuận lợi tạo điều kiện
cho khách du lịch khắp nơi đến Tây Yên Tử nhiều hơn, từng bước góp phần
thay đổi diện mạo kinh tế địa phương trong tỉnh.
Ngày 24/8/2015, UBND tỉnh Bắc Giang có Quyết định số 1561/QQĐ-
UBND về việc phê duyệt Đồ án điều chỉnh Quy hoạch chi tiết xây dựng mở
rộng chùa Vĩnh Nghiêm và khu tái định cư xã Trí Yên huyện Yên Dũng, tỷ lệ
1/500. Đồ án điều chỉnh với mục đích, tính chất: Xây dựng khu vực chùa
Vĩnh Nghiêm là khu văn hóa tâm linh, du lịch kết hợp với dịch vụ thương mại
và khu ở di dân tái định cư… đáp ứng nhu cầu sinh hoạt văn hóa tinh thần của
nhân dân, du khách trong nước và quốc tế.
Diện tích trước khi điều chỉnh là 43,36ha, sau khi điều chỉnh là 32,8ha.
Phía Đông giáp sông Lục Nam và thôn Đức Thành, phía Tây giáp thôn Đức
Thành. Phía Bắc giáp thôn Đức Thành và thôn Quốc Khánh, phía Nam giáp
thôn Thanh Long và thôn Đan Phượng.
Chùa Vĩnh Nghiêm đang được triển khai để phù hợp và kết nối với Quy
hoạch đường 293 đã được phê duyệt; điều chỉnh vị trí xây dựng trường tiểu
học; tăng diện tích khu đất quy hoạch khuôn viên cây xanh, mặt nước thuộc
khu đất tái định cư; điều chỉnh tăng diện tích bãi đỗ xe; sắp xếp lại vị trí, diện
tích các hạng mục xây mới để phù hợp với quy mô diện tích chùa Vĩnh
Nghiêm sau khi điều chỉnh…
Thực hiện Nghị quyết số 44-NQ/TU ngày 30/3/2016 về phát triển du lịch
tỉnh Bắc Giang giai đoạn 2016-2020, Huyện ủy Yên Dũng đã ban hành kế
hoạch phát triển du lịch của huyện. Năm 2017, huyện tham mưu cho UBND
tỉnh trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt quy hoạch tổng thể bảo tồn, tôn
tạo chùa Vĩnh Nghiêm gắn với phát triển du lịch. Tham mưu cho UBND
tỉnh đầu tư xây dựng thêm các hạng mục, trùng tu, tôn tạo chùa Vĩnh
Nghiêm, quảng bá giá trị mộc bản. Trong quy hoạch chùa Vĩnh Nghiêm mà
134
Thủ tướng phê duyệt, còn có hạng mục phát triển thực nghiệm việc san
khắc mộc bản để cho các hoạt động trải nghiệm của du khách khi về thăm
chùa được chứng kiến san khắc bộ mộc bản, có thể làm sản phẩm lưu niệm
đặc trưng của chùa Vĩnh Nghiêm.
Ngày 10/1/2018, UBND tỉnh Bắc Giang đã làm việc với UBND tỉnh
Quảng Ninh bàn phương án kết nối giữa Khu du lịch tâm linh - sinh thái Tây
Yên Tử (Bắc Giang) với Khu di tích quốc gia đặc biệt Yên Tử (Quảng Ninh)
và đáp ứng như cầu phát triển kinh tế, văn hóa và xã hội của 2 địa phương.
Tại buổi làm việc, UBND tỉnh Bắc Giang đề xuất phương án 2 tỉnh vào dịp
diễn ra các sự kiện du lịch, lễ hội cần tăng cường giao lưu, phối hợp, hợp tác
xúc tiến quảng bá du lịch thiết lập các tour, tuyến kết nối du lịch giữa hai tỉnh.
Đồng thời nghiên cứu, hợp tác, trao đổi kinh nghiệm, cùng hỗ trợ nhau khai
thác các nguồn lực một cách hợp lý. Trong năm 2018, tỉnh Bắc Giang đã đưa
Khu du lịch tâm linh - sinh thái Tây Yên Tử kết nối với Khu di tích quốc gia
đặc biệt Yên Tử của Quảng Ninh. Từ năm 2018 lễ hội Tây Yên Tử được tổ
chức quy mô cấp huyện.
Ngày 17/4/2018, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số
416/QĐ-TTg về việc Phê duyệt nhiệm vụ quy hoạch tổng thể bảo tồn và phát
huy giá trị di tích quốc gia đặc biệt chùa Vĩnh Nghiêm, tỉnh Bắc Giang; Mục
tiêu của quy hoạch nhằm kết nối chùa Vĩnh Nghiêm với các di tích lịch sử -
văn hóa trong tỉnh và đặc biệt là kết nối danh thắng Yên Tử để tạo thành một
sản phẩm du lịch văn hóa phong phú.
“Xác định đầy đủ giá trị lịch sử, kiến trúc nghệ thuật của chùa Vĩnh
Nghiêm, góp phần làm sáng tỏ thêm giá trị lịch sử, văn hóa của di
sản văn hóa Phật giáo Trúc Lâm Yên Tử và xác định phương hướng
bảo tồn di tích, di vật, bảo vật và di sản văn hóa phi vật thể, không
gian lịch sử, văn hóa gắn với di tích và cảnh quan, môi trường xung
135
quanh nhằm đưa chùa Vĩnh Nghiêm thành trung tâm văn hóa, tín
ngưỡng gắn với Phật giáo Trúc Lâm Yên Tử…”[91].
Việc xây dựng Thiền viện Trúc Lâm Phượng Hoàng trên dãy núi Nham
Biền nhằm để bảo tồn, tôn vinh và phát huy các giá trị của Phật giáo Trúc
Lâm. Thiền viện được xây dựng sẽ góp phần phát triển kinh tế xã hội, phát
huy tiềm năng du lịch văn hóa tâm linh ở khu vực Tây Yên Tử, gắn liền với
hệ thống đình chùa, các di tích lịch sử và danh lam thắng cảnh trên địa bàn
huyện Yên Dũng, kết nối với chùa Vĩnh Nghiêm và hệ thống di tích Tây Yên
Tử và chùa Côn Sơn, Đền Kiếp Bạc... Thiền viện còn là nơi lưu giữ thư tịch
Phật giáo góp phần bảo tồn và phát huy những giá trị văn hóa đạo đức tốt đẹp
của Phật giáo Trúc Lâm.
Tuyến đường tỉnh 293 (đường Tây Yên Tử) và các tuyến đường dẫn đến
khu du lịch văn hóa tâm linh - sinh thái Tây Yên Tử đã hoàn thành, tạo điều
kiện thuận lợi cho du khách đến với Khu du lịch tâm linh - sinh thái Tây Yên
Tử. Qua hơn ba năm triển khai xây dựng Khu du lịch tâm linh - sinh thái Tây
Yên Tử, với sự vào cuộc của các cấp, các ngành, và sự đóng góp của tổ
chức, cá nhân, các hạng mục công trình chính như chùa Hạ, chùa Thượng,
khu Quảng trường cơ bản hoàn thành. Việc triển khai xây dựng Khu du lịch
Tâm linh - Sinh thái Tây Yên Tử nhằm kết nối để bảo tồn, tôn tạo và phát
huy tốt giá trị các di sản danh thắng khu vực Tây Yên Tử trên địa bàn tỉnh
Bắc Giang với Khu di tích quốc gia đặc biệt Yên Tử, với Phật giáo Trúc
Lâm Yên Tử, khôi phục lại con đường hoằng dương phật pháp của Phật
hoàng Trần Nhân Tông để tạo thành một hệ thống liên hoàn có tổ chức, đây
là dịp để chính quyền, tín đồ và nhân dân hiểu thêm về những giá trị văn
hóa của Phật giáo Trúc Lâm, từ đó có trách nhiệm với việc xây dựng, bảo
tồn, phát triển bền vững, phát huy hiệu quả cao nhất hệ thống di tích, đáp
ứng nhu cầu tâm linh của người dân, tạo động lực mới cho phát triển du
lịch của tỉnh Bắc Giang.
136
Tuy nhiên việc khai thác mới chỉ dừng lại ở khu vực Yên Dũng, Sơn
Động, chính quyền cần khai thác, phát huy các giá trị của Phật giáo Trúc Lâm
để phục vụ phát triển kinh tế - xã hội kết nối sang các địa bàn khác trong tỉnh
Bắc Giang.
Thứ nhất, trên cơ sở tuyến đường 293 (đường Tây Yên Tử) đã xây dựng,
cần tiếp tục hoàn thiện cơ sở hạ tầng giao thông, xây dựng, mở rộng các tuyến
đường nhánh dẫn tới các di tích Phật giáo Trúc Lâm thuộc vực Tây Yên Tử nhằm
tạo điều kiện thuận lợi cho khách du lịch đến với Khu du lịch tâm linh - sinh thái
Tây Yên Tử, kết nối Khu di tích quốc gia đặc biệt Yên Tử (Quảng Ninh).
Thứ hai, tiếp tục khảo sát, trùng tu tôn tạo các ngôi chùa theo con
đường hoằng dương Phật giáo Trúc Lâm của Trần Nhân Tông để phát triển du
lịch sinh thái - tâm linh.
Thứ ba, đối với công tác quản lý, để đảm bảo sự phát triển bền vững,
các giá trị của Phật giáo Trúc Lâm khi được khai thác không bị biến dạng, sai
lệch mà giữ được hồn cốt, nguyên bản của Phật giáo Trúc Lâm.
Thứ tư, cần bố trí đưa vào khai thác các loại hình dịch vụ du lịch sinh
thái tâm linh có sự tham gia trực tiếp của người dân địa phương để phục vụ
các nhu cầu về tham quan, nghỉ dưỡng, chiêm bái lễ Phật, tìm hiểu về Phật
giáo Trúc Lâm cho du khách trong và ngoài nước, phối hợp chặt chẽ với các
huyện để xây dựng ý thức và hình thành những sản phẩm du lịch đặc trưng
của vùng. Phát huy sức mạnh của các cấp các ngành tham gia phát triển du
lịch, khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư phát triển các loại hình du
lịch văn hóa - sinh thái. Chú trọng các tour du lịch chùa Vĩnh Nghiêm gắn với
4.2. KHUYẾN NGHỊ NHẰM PHÁT HUY GIÁ TRỊ CỦA PHẬT GIÁO TRÚC
LÂM THỜI TRẦN Ở BẮC GIANG HIỆN NAY
các chùa Phật giáo Trúc Lâm trong khu vực Tây Yên Tử.
4.2.1. Đối với Đảng, Nhà nước
4.2.1.1. Đối với Bộ, ngành Trung ương
Thứ nhất, quan tâm, tạo điều kiện giúp đỡ tỉnh Bắc Giang trong các
hoạt động bảo tồn, khai thác, phát huy các giá trị của Phật giáo Trúc Lâm trên
137
địa bàn tỉnh Bắc Giang, đồng thời tuyên truyền, phổ biến pháp luật về di sản
văn hóa, tôn giáo, tăng cường hướng dẫn về phương pháp bảo tồn các di sản
của Phật giáo Trúc Lâm cho chính quyền và người dân nhận thức rõ.
Thứ hai, bên cạnh các di tích đã được xếp hạng, TW tiếp tục xem xét
xếp hạng các di tích, di vật thuộc Phật giáo Trúc Lâm trên địa bàn tỉnh Bắc
Giang để các di tích được quan tâm bảo vệ, bảo tồn, phát huy giá trị một cách
tốt hơn, tạo ra bộ khung pháp lý bảo tồn có hệ thống cho các cán bộ quản lý di
sản tại địa phương thực hiện.
4.2.1.2. Đối với tỉnh Bắc Giang
Thứ nhất, tiếp tục phát huy những thành tựu đạt được trong việc bảo
tồn các giá trị của Phật giáo Trúc Lâm giai đoạn vừa qua, đồng thời tăng
cường quản lý nhà nước trong việc bảo tồn di tích và xử lý nghiêm kịp thời
các hành vi xâm lại, vi phạm đến di tích.
Thứ hai, các cơ quan báo chí, truyền hình trong tỉnh Bắc Giang tích cực
đưa tin, phóng sự về công tác bảo tồn, phát huy các giá trị của Phật giáo Trúc
Lâm, nhằm tuyên truyền nâng cao nhận thức trách nhiệm của các cấp, các
ngành và nhân dân trong việc bảo tồn, phát huy giá trị các di tích, đồng thời
phục vụ phát triển kinh tế - xã hội địa phương.
4.2.1.3. Đối với các huyện có di tích Phật giáo Trúc Lâm
Thứ nhất, đối với các di tích, chính quyền huyện có phương án bảo vệ
giữ nguyên hiện trạng, tránh để các di tích bị xâm hại. Về lâu dài, cần lập
hồ sơ xếp hạng di tích, thu thập cứ liệu phục dựng các di tích.
Thứ hai, tiếp tục phối hợp với các cơ sở Phật giáo trên địa bàn huyện
tổ chức thường xuyên hiệu quả các lễ hội của Phật giáo Trúc Lâm, tạo điều
kiện cho các cơ sở thờ tự phát huy tốt các hoạt động Phật sự.
4.2.2. Đối với Giáo hội Phật giáo
4.2.2.1. Đối với Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam
Thứ nhất, quan tâm đào tạo đội ngũ tăng, ni cho GHPGVN tỉnh Bắc
Giang trong đó có tăng, ni của Phật giáo Trúc Lâm, để các tăng, ni sau khi tốt
138
nghiệp là nguồn lực để xây dựng Phật giáo tỉnh Bắc Giang nói chung và Phật
giáo Trúc Lâm nói riêng bền vững, ổn định và phát triển.
Thứ hai, GHPGVN kết hợp với GHPGVN tỉnh Bắc Giang cùng với các
tổ chức, cơ quan nghiên cứu, viện nghiên cứu và các trường Đại học... cần
tiếp tục tổ chức và nhân rộng mô hình hội thảo khoa học nghiên cứu tìm hiểu
về những giá trị của Phật giáo Trúc Lâm. Một mặt, giúp cho các nhà hoạch
định chính sách tôn giáo và những người làm công tác tôn giáo nắm vững
chuyên môn, nâng cao hiệu quả công việc. Mặt khác, thông qua tham luận của
các học giả, giúp cho việc tuyên truyền giáo lý của Phật giáo Trúc Lâm đến
với cộng đồng cư dân góp phần nâng cao nhận thức của họ về sức mạnh cải
tạo của Phật giáo Trúc Lâm trong cuộc sống.
4.2.2.2. Đối với Giáo hội Phật giáo Việt Nam tỉnh Bắc Giang
Thứ nhất, tập trung xây dựng hệ thống giáo dục và đào tạo tăng ni.
Tăng cường chất lượng giảng dạy tại các Trường hạ. Mở lớp bồi dưỡng giáo
lý Phật giáo Trúc Lâm cho Phật tử tại tỉnh hội và các chùa theo Phật giáo
Trúc Lâm, phát triển quỹ bảo trợ học đường Phật giáo tỉnh nhằm hỗ trợ kinh
phí cho công tác giáo dục đạt kết quả tốt.
Thứ hai, hướng dẫn tín đồ nhận thức, bảo tồn, phát huy các giá trị của
Phật giáo Trúc Lâm, tăng cường tuyên truyền vận động, tổ chức cho tăng ni
và Phật tử theo Phật giáo Trúc Lâm tham gia vào các mặt hoạt động Phật sự
của Tỉnh hội và thông qua sự hướng dẫn của các Ban chuyên ngành hoằng
pháp, văn hóa, hướng dẫn nam nữ Phật tử có nếp sống văn hóa lành mạnh,
trong sáng, hướng thiện và đúng pháp luật.
Thứ ba, phối hợp với chính quyền các cấp bảo tồn, khai thác phát huy các
giá trị của Phật giáo Trúc Lâm phục vụ sự phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương.
Tiểu kết chương 4
Xác định rõ tầm quan trọng các giá trị của Phật giáo Trúc Lâm thời
Trần trên địa bàn tỉnh Bắc Giang, trong những năm qua, chủ trương của Nhà
139
nước, cũng như tỉnh Bắc Giang đã rất quan tâm, chú trọng tới công tác bảo
tồn và phát huy giá trị của các di tích. Tỉnh Bắc Giang đã phối hợp với các
ban ngành lập hồ sơ khoa học đề nghị xếp hạng các di tích Phật giáo Trúc
Lâm trên địa bàn. Để bảo tồn và phát huy các giá trị của Phật giáo Trúc Lâm
nhằm lưu giữ truyền thống cho các thế hệ, đặc biệt tạo cho nhân dân địa
phương nơi sinh hoạt tôn giáo, tín ngưỡng lành mạnh, các huyện, xã, thị trấn
cần phải thành lập các ban quản lý di tích của địa phương mình, hầu hết các di
tích đều phải có người trực tiếp trông coi. Họ phải là người nhiệt tình, có tâm
huyết trong việc bảo vệ giữ gìn và phát huy các giá trị di tích. Tỉnh Bắc Giang
cũng cần phải thường xuyên chỉ đạo các địa phương tổ chức tốt các lễ hội
truyền thống hằng năm, để các chùa thuộc Phật giáo Trúc Lâm có những hoạt
động thiết thực, lễ hội văn hóa truyền thống gắn với di tích. Thông qua lễ hội
nhằm ôn lại giá trị lịch sử của dân tộc, tư tưởng yêu nước và tư tưởng nhập
thế. Chính quyền các cấp cũng cần phải tích cực tuyên truyền, thực hiện đẩy
mạnh các giải pháp nhằm làm tốt công tác bảo tồn, giới thiệu, khai thác các
giá trị của Phật giáo Trúc Lâm trong các di tích. Tạo điều kiện thuận lợi cho
các du khách tiếp cận các giá trị của các di tích. v.v… Tuy nhiên, do hệ thống
di tích lớn, phong phú về loại hình, nằm rải rác khắp các địa bàn, nhiều di tích
đã xuống cấp chưa được phục hồi. Đề giải quyết những vấn đề trên cần sự
quan tâm, tạo điều kiện của các bộ, ban, ngành Trung ương hỗ trợ chính sách
về mọi mặt, để tỉnh Bắc Giang phát huy tốt các giá trị của Phật giáo Trúc Lâm
thời Trần.
140
KẾT LUẬN
1. Trong lịch sử Phật giáo Việt Nam, sự ra đời của Phật giáo Trúc Lâm
thời Trần có nhiều giá trị to lớn. Phật giáo Trúc Lâm tự có nét độc lập, tính
nhập thế, tinh thần không phụ thuộc thân ngoại, đã khẳng định là một tông
phái, hệ phái mang bản sắc văn hóa Việt Nam. Ở bên sườn Tây Yên Tử tỉnh
Bắc Giang là sự phân bố hệ thống Phật giáo Trúc Lâm như: Chùa Sơn Tháp,
chùa Bát Nhã, chùa Hồ Bấc, chùa Bình Long, chùa Am Vãi... Đặc biệt, với sự
tiếp nối các sư tổ, chùa Vĩnh Nghiêm đã trở thành trung tâm với quy mô lớn
để đào tạo tăng đồ của Phật giáo Trúc Lâm. Cho nên, cuối thế kỷ XIII, đầu thế
kỷ XIV miền Tây Yên Tử thuộc địa phận tỉnh Bắc Giang được xem là trung
tâm Phật giáo thời Trần. Có thể khẳng định, Phật giáo Trúc Lâm trên địa bàn
tỉnh Bắc Giang đóng một vai trò quan trọng, là một phần không thể tách rời
trong quần thể Phật giáo Trúc Lâm Yên Tử.
2. Phật giáo Trúc Lâm thời Trần ở Bắc Giang đã để lại dấu ấn sâu đậm.
Những tư liệu văn bia, di tích, di vật thời Trần ở khu vực Tây Yên Tử đa
dạng, có nội dung phong phú phản ánh nhiều mặt các hoạt động của Phật giáo
Trúc Lâm, góp phần xứng đáng vào kho tàng di sản văn hóa Việt Nam. Các
giá trị của Phật giáo Trúc Lâm thời Trần đã có ảnh hưởng đến đời sống tín đồ
và người dân Bắc Giang hiện nay. Phật giáo Trúc Lâm ở Bắc Giang hiện nay
đã có sự hỗn dung với các tín ngưỡng dân gian khác. Trong sự hỗn dung ấy,
hiện nay chúng ta vẫn có thể nhận diện ra được Phật giáo Trúc Lâm, biểu hiện
qua cách thức tu tập, bài trí tượng thờ. Với hệ thống di tích, di vật còn xót lại,
cùng với đó là các hoạt động tu tập của Phật giáo Trúc Lâm được tổ chức
thường xuyên trên địa bản tỉnh Bắc Giang đã góp phần tu dưỡng đạo đức,
giúp tâm trong sáng, hình thành nên lối sống mẫu mực, phẩm chất đạo đức tốt
đẹp, ổn định xã hội.
3. Phật giáo Trúc Lâm thời Trần ở Bắc Giang là một bộ phận của Phật
giáo Trúc Lâm thời Trần đã duy trì chuyển tải những tư tưởng Phật giáo thời
141
Trần, tiêu biểu là chùa Vĩnh Nghiêm là trụ sở Trung ương giáo hội của Phật giáo
Trúc Lâm thời Trần, nơi tổ chức và thành lập mô hình Phật giáo nhất tông trên
cơ sở dung hợp các thiền phái đã có từ trước, đây là mô hình đầu tiên trong lịch
sử Phật giáo Việt Nam và là mô hình giáo hội Phật giáo Việt Nam đầu tiên cho
các tổ chức giáo hội sau này. Trần Nhân Tông là người có công làm cho Phật
giáo Trúc Lâm đi vào hiện thực đời sống Phật giáo từ mô hình hoạt động, cơ cấu
tổ chức cho đến nội dung tu tập và phương pháp hành trì, sau đó là Pháp Loa và
Huyền Quang đã kế thừa và phát triển Phật giáo tại chùa Vĩnh Nghiêm. Chùa
Vĩnh Nghiêm nhanh chóng trở thành một trung tâm hoằng pháp, an cư kiết hạ,
đào tạo tăng tài, thuyết giảng giáo lý cho tăng ni mà Tam tổ Trúc Lâm xây dựng.
Việc tổ chức an cư kiết hạ được Tam tổ Trúc Lâm xem là một trong những Phật
sự hàng đầu của một giáo hội Tăng già trong sự nghiệp phát triển Phật giáo.
Phật giáo Trúc Lâm thời Trần ở Bắc Giang đã góp phần xây dựng một
giáo hội Phật giáo độc lập, thống nhất mang tinh thần nhập thế, góp phần bảo
vệ và xây dựng đất nước trong các cuộc chiến tranh chống lại quân xâm lược
Nguyên - Mông, đồng thời giá trị của Phật giáo Trúc Lâm thời Trần ở Bắc
Giang đã khơi dậy tinh thần yêu nước, tự lực tự cường, ý chí bảo vệ nền độc
lập dân tộc, mang tinh thần nhập thế, kết hợp chặt chẽ giữa đạo với đời. Hiện
nay Phật giáo Trúc lâm còn duy trì công tác cứu trợ xã hội và từ thiện. Việc
làm này không chỉ có ý nghĩa về mặt kinh tế mà còn có ý nghĩa về mặt đạo
đức, phù hợp với văn hóa dân tộc. Xét dưới góc độ tôn giáo, văn hóa, lịch sử
thì những giá trị nhân văn, nhân đạo trong các hoạt động của Phật giáo Trúc
lâm ở Bắc Giang hiện nay là những giá trị cơ bản, bền vững trong lịch sử, văn
hóa, lối sống, đạo đức của người Việt Nam. Có thể nhận thấy Phật giáo Trúc
Lâm thời Trần ở Bắc Giang đã có vị thế quan trọng trong quá trình phát triển
của Phật giáo thời Trần, ảnh hưởng của nó không chỉ ở trong giới thiền môn
mà còn có tác động ảnh hưởng rộng trên nhiều giới, nhiều lĩnh vực khác nhau
của đời sống xã hội qua các giai đoạn của lịch sử.
142
4. Các chính sách của Đảng, Nhà nước trong thời gian qua đã có tác
dụng bảo tồn và phát huy giá trị của Phật giáo Trúc Lâm thời Trần trên địa
bàn tỉnh Bắc Giang, ngăn chặn tình trạng xuống cấp của di tích lịch sử, tác
động mạnh mẽ đến sự nghiệp xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm
đà bản sắc dân tộc. Bằng chính sách xếp hạng của Nhà nước, nhiều di tích có
giá trị tiêu biểu về lịch sử, văn hóa và khoa học đã được đặt dưới sự bảo vệ
của pháp luật. Chính vì nhận thức được các giá trị của Phật giáo Trúc Lâm
trên địa bàn tỉnh Bắc Giang không phải chỉ nhằm phục vụ công tác nghiên
cứu, học tập đơn thuần, mà còn có khả năng đóng góp vào sự phát triển kinh
tế của địa phương và cả nước, nên ngoài sự quan tâm của các cấp chính quyền
từ Trung ương đến địa phương, các di sản còn nhận được sự tham gia ngày
càng tích cực của cộng đồng vào quá trình bảo tồn và phát huy giá trị di sản.
Các giá trị của Phật giáo Trúc Lâm thời Trần ở tỉnh Bắc Giang cần
được tiếp tục quan tâm, chú trọng bảo tồn, tôn tạo và phát huy hơn nữa của
chính quyền các cấp, các ngành từ TW đến địa phương, cùng với GHPGVN
các cấp và toàn thể tín đồ, dân dân. Tổ chức các hoạt động Phật giáo Trúc
Lâm trang nghiêm, đúng chính pháp, phổ biến tư tưởng yêu nước và nhập thế
của Phật giáo Trúc Lâm để vận động tăng, ni, Phật tử và người dân nâng cao
tinh thần yêu nước, gắn bó đoàn kết giữa đạo với đời, tích cực tham gia các
hoạt động nhân đạo từ thiện xây dựng cuộc sống văn minh, tiến bộ. Đặc biệt
đầu tư các khu di tích trọng điểm gắn với phát triển kinh tế - xã hội; thu hút
mọi nguồn lực đầu tư cho việc phát huy các giá trị của Phật giáo Trúc Lâm
như giá trị tôn giáo, giá trị văn hóa, giá trị lịch sử. Nâng cao chất lượng các
công trình thiết kế, xây dựng, phục dựng lại các di tích theo đúng lịch sử của
Phật giáo Trúc Lâm. Từ đó nhằm phát huy nguồn lực tôn giáo đóng góp tích
cực vào phát triển kinh tế - xã hội địa phương theo đúng như Chỉ thị số 18-
CT/TW ngày 10/1/2018 của Bộ Chính trị về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số
25-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX về công tác tôn
giáo trong tình hình mới.
143
DANH MỤC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ
CÓ LIÊN QUAN TỚI LUẬN ÁN
1. Dương Ngô Ninh (2012), “Trung tâm Phật giáo Vĩnh Nghiêm và những
ảnh hưởng đối với vùng đất Yên Dũng”, Tạp chí Nghiên cứu Tôn
giáo, số 02 (104), tr.35 - 41.
2. Dương Ngô Ninh (2018), “Một số đặc trưng của Phật giáo Trúc Lâm
thời Trần ở Bắc Giang”, Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo, số 01 (169),
tr.46 - 60.
3. Dương Ngô Ninh (2018), “Sinh hoạt Phật giáo Trúc Lâm ở tỉnh Bắc Giang
hiện nay”, Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo, số 04 (172), tr.43 - 54.
4. Dương Ngô Ninh (2018), “Giá trị văn hóa của Phật giáo Trúc Lâm Thời
Trần”, Tạp chí Khoa học Xã hội Việt Nam (10), tr.97 - 101.
5. Dương Ngô Ninh (2019), “Giá trị của các ngôi chùa cổ thời Trần ở phía
Tây Yên Tử”, Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo, số 04 (184), tr.74 - 88.
144
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đào Duy Anh (1974), Khóa hư lục, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
2. Nguyễn Quang Ân, Nguyễn Xuân Cần (chủ biên) (2002), Địa chí Bắc
Giang, Sở Văn hóa Thông tin tỉnh Bắc Giang, Trung tâm UNESCO
Thông tin Tư liệu Lịch sử và Văn hóa Việt Nam, Bắc Giang.
3. Ban Chấp hành Trung ương (1990), Nghị quyết số 24-NQ/TW Về tăng
cường công tác trong tình hình mới ngày 06/10/1990, Hà Nội.
4. Ban chấp hành Trung ương (1998), Chỉ thị số 37 về công tác tôn giáo
trong tình hình mới ngày 2/7/1998, Hà Nội.
5. Ban Quản lý Di tích và rừng quốc gia Yên Tử (2012), Danh sơn Yên Tử
Thiền phái Trúc Lâm, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
6. Ban Văn hóa Thường Chiếu (2014), Thanh Từ toàn tập, Nxb Tôn giáo,
Hà Nội.
7. Bảo tàng tỉnh Bắc Giang (2011), Bảo tồn phát huy các giá trị di sản văn
hóa Lý-Trần tỉnh Bắc Giang, Kỷ yếu Hội thảo khoa học, Nxb
Thông Tấn, Hà Nội.
8. Bảo tàng tỉnh Bắc Giang (2012), Những giá trị văn hóa cổ truyền tỉnh
Bắc Giang, Nhà xuất bản Thông tấn, Hà Nội.
9. Bảo tàng tỉnh Bắc Giang (2018), Di tích và danh thắng Tây Yên Tử, Nxb
Văn hóa dân tộc, Hà Nội.
10. Trần Lâm Biền (1996), Chùa Việt, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội.
11. Trần Lâm Biền (2000), Một con đường tiếp cận lịch sử, Nxb Văn hóa
Dân tộc, Hà Nội.
12. Bộ Khoa học và Công nghệ (2016), Giá trị mộc bản chùa Vĩnh Nghiêm
và chùa Bổ Đà gắn với phát triển bền vững, Kỷ yếu Hội thảo Khoa
học, Bắc Giang.
13. Nguyễn Xuân Cần (2001), Giới thiệu các di tích lịch sử văn hoá, di tích
khảo cổ và các đền, nghè, đình chùa, lăng mộ, địa điểm di tích cách
145
mạng nằm tại các xã, huyện của tỉnh Bắc Giang, Bảo tàng Bắc
Giang, Bắc Giang.
14. Nguyễn Xuân Cần (chủ biên) (2001), Di tích Bắc Giang, Bảo tàng tỉnh
Bắc Giang.
15. Nguyễn Xuân Cần (chủ biên) (2004), Chốn tổ Vĩnh Nghiêm, Bảo tàng
tỉnh Bắc Giang, Bắc Giang.
16. Anh Chi (2007), “Thiền phái Trúc Lâm - một nguồn lực của dân tộc”,
Tạp chí Nghiên cứu Phật học, (2), tr.16-19.
17. Nguyễn Huệ Chi (chủ biên) (1977), Thơ văn Lý Trần, Nxb Khoa học xã
hội, Hà Nội.
18. Minh Chi (1989), “Những ảnh hưởng của Phật giáo đối với xã hội ta
trước đây”, Tạp chí Xã hội học, (4), tr.74-76.
19. Nguyễn Thị Phương Chi (2008), “Phật giáo và mối liên hệ với xã hội
Đại Việt thời Trần - thế kỷ XVIII - XIV”, Nghiên cứu Tôn giáo, (7),
tr.34-43.
20. Bộ Chính trị (2018), Chỉ thị số 18-CT/TW về tiếp tục thực hiện Nghị
quyết số 25-NQ/TW của Ban Chấp hành trung ương khóa IX về
công tác tôn giáo trong tình hình mới, ngày 10-1-2018, Hà Nội.
21. Nguyễn Thế Chính (2015), “Công tác bảo tồn giá trị di sản mộc bản
Chùa Vĩnh Nghiêm”, Tạp chí Di sản Văn hóa, (4), tr.8-14.
22. Nguyễn Thế Chính, Nguyễn Sĩ Cầm, Ngô Văn Trụ (2015), Bắc Giang -
Miền di sản, Nhà xuất bản Văn hóa Dân tộc, Hà Nội.
23. Trương Văn Chung (1998), Tư tưởng triết học của Thiền Phái Trúc Lâm
đời Trần, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
24. Huyền Cương (2006), “Về bối cảnh ra đời của dòng Thiền Trúc Lâm
Yên Tử”, Tạp chí Nghiên cứu Phật học, (4), tr.31-39.
25. Tăng Xuân Dẫn (2015), “Giá trị văn hóa của Phật giáo qua sáng tác văn
học của thiền sư thời Lý-Trần”, Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo, (3),
tr.57-66.
146
26. Tăng Xuân Dẫn (2015), Vai trò của các thiền sư trong văn hóa Đại Việt
thời Lý - Trần và ý nghĩa đối với Việt Nam hiện nay, Luận án Tiến sĩ
Triết học, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Hà Nội.
27. Phan Đại Doãn, Đinh Xuân Lâm, Phạm Nguyên Tần (1999), Bắc Giang
- Những chặng đường lịch sử, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
28. Nguyễn Đăng Duy (1998), Nho giáo với văn hóa Việt Nam, Nxb Hà
Nội, Hà Nội.
29. Bùi Hữu Dược (2012), “Vị trí ngôi chùa Vĩnh Nghiêm trong Phật giáo
Việt Nam”, Tạp chí Công tác tôn giáo, (9), tr.40-44.
30. Nguyễn Hồng Dương (2012), Quan điểm đường lối của Đảng về tôn
giáo và những vấn đề về tôn giáo ở Việt Nam hiện nay, Nxb Chính
trị quốc gia, Hà Nội.
31. Nguyễn Hồng Dương (2014), Tiếp tục đổi mới chính sách về tôn giáo ở
Việt Nam hiện nay, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
32. Lê Thùy Dương (2013), “Tư tưởng nhập thế của Tam Tổ Trúc Lâm Yên
Tử”, Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo, (3), tr.33-40.
33. Trần Trọng Dương (2015), “Về di sản mộc bản chùa Vĩnh Nghiêm (Bắc
Giang)”, Tạp chí Di sản Văn hóa, (4), tr.23-27.
34. Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Văn kiện Hội nghị lần thứ Bảy Ban
Chấp hành Trung ương khóa IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
35. Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban
Chấp hành trung ương khóa VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
36. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc
lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
37. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, HN, 2011, Hà Nội.
38. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ XII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
147
39. Nguyễn Văn Đáp (2016), “Giá trị văn hoá khảo cổ học tây Yên Tử và
một vài định hướng bảo tồn, tôn tạo, phát huy giá trị”, Tạp chí Khảo
cổ học, (1), tr.82-92.
40. Thích Phước Đạt (2009), “Cảm hứng nhân văn - thế sự và cảm hứng quê
hương đất nước - quê hương Thiền tông trong tác phẩm Hán Nôm
của Thiền phái Trúc Lâm đời Trần”, Tạp chí Nghiên cứu Hán Nôm,
(5), tr.3-19.
41. Thích Thanh Đạt (2007), Thiền phái Trúc Lâm thời Trần, Luận án Tiến
sĩ Sử học, Viện Sử học, Viện Khoa học Xã hội Việt Nam, Hà Nội.
42. Lê Tâm Đắc (2012), “Góp bàn thêm về đối tượng thờ phụng trong các
ngôi chùa Việt ở Miền Bắc”, Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo, (2),
tr.42-49.
43. Hoàng Minh Đô (2009), “Những đóng góp của Tam Tổ Trúc Lâm cho
sự phát triển của Phật giáo thời Trần và tư tưởng Việt Nam”, Tạp
chí Nghiên cứu Tôn giáo, (6), tr.15-19.
44. Fichter, Joseph H, Trần Văn Đĩnh dịch (1974), Xã hội học, Nxb Hiện
đại, Sài Gòn.
45. Lâm Giang, Nguyễn Đình Bưu chủ biên (2003), Địa chí Bắc Giang di
sản Hán Nôm, Sở Văn hóa Thông tin tỉnh Bắc Giang, Bắc Giang.
46. Mai Văn Hai, Mai Kiệm (2010), Xã hội học văn hóa, Nxb Khoa học xã
hội, Hà Nội.
47. Nguyễn Thị Thanh Hải (2012), “Phật giáo đối với nghệ thuật Việt Nam
thời Lý-Trần”, Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo, (7), tr.29-37.
48. Nguyễn Hùng Hậu (1997), Lược khảo tư tưởng Thiền Trúc Lâm Việt
Nam, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
49. Nguyễn Hùng Hậu (2002), Đại cương triết học Phật giáo Việt Nam, Nxb
Khoa học xã hội, Hà Nội.
50. Đỗ Lan Hiền (2017), Những biến động trong đời sống tôn giáo hiện nay
và tác động của nó đến lối sống người Việt, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
148
51. Giáp Thị Huyền (2006), “Vài nét về chùa Am Vãi”, Tạp chí Nghiên cứu
Tôn giáo, (5), tr.62-64.
52. Nguyễn Duy Hinh (1998), Tuệ Trung: Nhân sĩ - Thượng sĩ - Thi sĩ, Nxb
Khoa học xã hội, Hà Nội.
53. Nguyễn Duy Hinh (1999), Tư tưởng Phật giáo Việt Nam, Nxb Khoa học
xã hội, Hà Nội.
54. Nguyễn Duy Hinh (2006), Triết học Phật giáo Việt Nam, Nxb Văn hóa
Thông tin, Hà Nội.
55. Nguyễn Duy Hinh (2009), Lịch sử đạo Phật Việt Nam, Nxb Tôn giáo và
Nxb Từ điển Bách khoa, Hà Nội.
56. Hoàng Thị Hoa (2015), Bảo tồn di sản văn hóa khu vực Tây Yên Tử gắn
với phát triển du lịch, Luận án Tiến sĩ Quản lý văn hóa, Viện Văn
hóa Nghệ thuật quốc gia Việt Nam, Hà Nội.
57. Trần Hoàng Hùng (2013), “Nhận thức mới về Phật giáo của Hải Lượng
Ngô Thì Nhậm qua tác phẩm “Trúc Lâm tông chỉ nguyên thanh””,
Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo, (10), tr.43-57.
58. Hoàng Văn Hùng (2016), Triết lý nhân sinh của Thiền phái Trúc Lâm
Yên Tử và giá trị lịch sử của nó, Luận văn Thạc sĩ triết học, Trường
Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, Hà Nội.
59. Nguyễn Thị Quế Hương (chủ nhiệm) (2016), Giá trị mộc bản chùa Vĩnh
Nghiêm và chùa Bổ Đà, Đề tài cấp Nhà nước, Hà Nội.
60. Đỗ Quang Hưng (2014), Chính sách tôn giáo và nhà nước pháp quyền,
Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
61. Vũ Ngọc Khánh chủ biên (2005), Chùa cổ Việt Nam, Nxb Thanh niên,
Hà Nội.
62. Hoàng Văn Khoán chủ biên (2000), Văn hóa Lý Trần, nghệ thuật kiến
trúc và điêu khắc chùa tháp, Viện Văn hóa và Nxb Văn hóa Thông
tin, Hà Nội.
63. Trần Trọng Kim (2002), Phật lục, Nxb Tôn giáo, Hà Nội.
149
64. Đặng Thị Lan (2011), “Ảnh hưởng của Phật giáo đến chính trị trong hai
triều đại Lý-Trần”, Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo, (3), tr.16-24.
65. Nguyễn Lang (1992), Việt Nam Phật giáo sử luận tập 1. Nxb Văn học
Hà Nội.
66. Nguyễn Lang (2000), Việt Nam Phật giáo sử luận tập I-II-III, Nxb Văn
học, Hà Nội.
67. Vũ Tam Lang (1998), Kiến trúc cổ Việt Nam, Nxb Xây dựng, Hà Nội.
68. Ngô Tự Lập (2010), “Bản chất tương tác xã hội của giá trị”, Tạp chí
Triết học, (7), tr.63-67.
69. Nguyễn Công Lý (2000), Văn học Phật giáo thời Lý - Trần: Diện mạo
và đặc điểm, Nxb Đại học Quốc gia, Tp.HCM.
70. Nguyễn Công Lý (2014), “Từ Phật giáo nhất tông đời Trần suy nghĩ về
Phật giáo Việt Nam hiện nay”, Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo, (8),
tr.52-63.
71. Nguyễn Công Lý (2014), “Huyền Quang (1254-1334): Vị thi tăng tài
hoa đời Trần”, Tạp chí Khoa học, Đại học Sư phạm Tp HCM, (63),
tr.141-152.
72. Lê Quốc Lý, Nguyễn Thanh Tuấn, Dương Xuân Ngọc (2016), “Khai
thác, phát huy mọi nguồn lực để phục vụ các chương trình phát
triển kinh tế - xã hội của tỉnh Bắc Giang giai đoạn 2016 - 2020”,
Kỷ yếu hội thảo khoa học, Nhà xuất bản Lý luận Chính trị, Hà Nội.
73. Nguyễn Ngọc Mai (2017), “Giá trị văn hóa của Mộc bản chùa Vĩnh
Nghiêm và chùa Bổ Đà ở Bắc Giang”, Tạp chí Nghiên cứu Tôn
giáo, (1&2), Hà Nội, tr.69-82.
74. Hà Thúc Minh (1986), “Lịch sử tư tưởng Việt Nam và vấn đề Phật
giáo”, in trong Mấy vấn đề Phật giáo và Lịch sử tư tưởng Việt Nam,
Ủy ban Khoa học Xã hội Việt Nam - Viện Triết học ấn hành, Hà
Nội, tr.43-51.
150
75. Thân Văn Mưu, Bùi Văn Hạnh, Đặng Văn Bài (2005), Di sản văn hóa
Bắc Giang: Bước đầu tìm hiểu truyền thống văn hóa các dân tộc,
Bảo tàng tỉnh Bắc Giang, Bắc Giang.
76. Đỗ Ngây (2012), Triết lý nhập thế của Phật giáo Việt Nam thời Lý -
Trần, Luận án Tiến sĩ Tôn giáo học, Học viện Khoa học Xã hội,
Viện Hàn Lâm KHXH Việt Nam.
77. Trần Thúy Ngọc (2009), “Trúc Lâm tông chỉ Nguyên Thanh - một tác
phẩm Thiền?”, Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo, (4), tr.17-22.
78. Hương Nguyên (2009), “Tản mạn về Phật phái Trúc Lâm thời Trần và
sư Huyền Quang”, Tạp chí Di sản Văn hóa, (2), tr.52-55.
79. Phan Đăng Nhật (2001), “Thiền tông Trúc Lâm với nền văn hóa Đại
Việt và sự nghiệp bảo vệ đất nước thế kỷ XIII-một cách nhìn”, Tạp
chí Nghiên cứu Tôn giáo, (4), tr.45-49.
80. Nguyễn Văn Phong (2016), Nghiên cứu văn bia tỉnh Bắc Giang, Luận
án Tiến sĩ Ngữ văn, Học viện Khoa học xã hội, Hà Nội.
81. Hà Văn Phùng chủ biên (2008), Di sản văn hóa Bắc Giang tập 3: Khảo
cổ học - từ tiền sử đến lịch sử, Viện Khảo cổ học, Sở Văn hóa
Thông tin, Bảo tàng tỉnh Bắc Giang.
82. Lê Đình Phụng (2009), “Vài nét về Thiền phái Trúc Lâm - Phật giáo
Việt Nam”, Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo, (6), tr.20-25.
83. Thích Thông Phương (2006), Trần Nhân Tông với Thiền phái Trúc Lâm,
Nxb Tôn giáo, Hà Nội.
84. Thích Chân Quang (2012), Trúc Lâm tổ sư Trần Nhân Tông, Nxb Tôn
giáo, Hà Nội.
85. Văn Quân (2012), Tại sao Phật Hoàng? Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội.
86. Nguyễn Thị Quế (2002), “Trần Nhân Tông: Đức Pháp vương của Việt
Nam thế kỷ XIII”, Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo, (3), tr.28-33.
87. Quốc sử quán triều Nguyễn, (1971), Đại Nam nhất thống chí, tập 4, Nxb
KHXH, Hà Nội.
151
88. Nguyễn Văn Quý (2016), “Thực trạng mộc bản chùa vĩnh nghiêm ở Bắc
Giang và giá trị của nó”, Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo, (4), tr.23-35.
89. Thích Thanh Quyết, Nguyễn Quốc Tuấn đồng cb (2013), Phật hoàng
Trần Nhân Tông (1258 - 1308) con người và sự nghiệp, Nxb Khoa
học Xã hội, Hà Nội.
90. Thích Thanh Quyết, Trịnh Khắc Mạnh (2018), Trúc lâm Yên Tử Phật
giáo tùng thư, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
91. Thủ tướng Chính phủ (2018), Quyết định số 416/QĐ-TTg về việc Phê
duyệt nhiệm vụ quy hoạch tổng thể bảo tồn và phát huy giá trị di
tích quốc gia đặc biệt chùa Vĩnh Nghiêm, tỉnh Bắc Giang ngày
17/04/2018.
92. Sở Văn hóa - Thể thao và Du lịch tỉnh Bắc Giang (2011), Chùa Vĩnh
Nghiêm Bắc Giang và Thiền phái Trúc Lâm trong quá trình phát
triển Phật giáo Việt Nam, Kỷ yếu Hội thảo khoa học, Nxb Thông
tấn.
93. Sở Văn hóa Thể thao và Du lịch tỉnh Bắc Giang, Giáo hội Phật giáo Việt
Nam tỉnh Bắc Giang (2015), Mộc bản chùa Vĩnh Nghiêm Thái
thượng cảm ứng thiên và Viên liễu phàm tứ huấn, Nxb Hải Phòng,
Hải Phòng.
94. Thích Phước Sơn dịch và chú (1995), Tam Tổ thực lục, Viện Nghiên cứu
Phật học Việt Nam.
95. Nguyễn Đức Sự (2008), “Trần Nhân Tông: nhà thiền học, nhà tư tưởng
lỗi lạc thời Trần”, Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo, (12), tr.12-17.
96. Hà Văn Tấn (1988), Lịch sử Phật giáo Việt Nam, Phần thứ 2: Phật giáo
từ Ngô đến Trần (Thế kỷ X-XIV), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
97. Hà Văn Tấn, Phạm Ngọc Long, Nguyễn Văn Kự (1993), Chùa Việt
Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
98. Trịnh Như Tấu (1937), Bắc Giang địa chí, Hà Nội.
152
99. Đoàn Quốc Thái (2010), “Bàn thêm về khái niệm giá trị đạo đức”, Tạp
chí Triết học, (12), tr.61-6.
100. Nguyễn Cao Thanh (2008), Khái lược Phật giáo Việt Nam, Nxb Thế
giới, Hà Nội.
101. Bồ Đề Tân Thanh, Nguyễn Đại Đồng (2012), Phật giáo Việt Nam từ
khởi nguyên đến 1981, Nxb Văn học, Hà Nội.
102. Lê Văn Thao chủ biên (2008), Trúc Lâm Yên Tử, Nxb Thế giới, Hà Nội.
103. Lê Mạnh Thát (2000), Toàn tập Trần Nhân Tông, Nxb Tp Hồ Chí Minh.
104. Lê Mạnh Thát (2001), Lịch sử Phật giáo Việt Nam, tập 2: từ Lý Nam Đế
(544) đến Lý Thái Tông (1054), Nxb Thành phố Hồ Chí Minh,
Tp.HCM.
105. Lê Mạnh Thát (2001), Nghiên cứu Thiền uyển tập anh, Nxb Thành phố
Hồ Chí Minh, Tp.HCM.
106. Lê Mạnh Thát (2001), Tổng tập văn học Phật giáo Việt Nam, tập 2, Nxb
Thành phố Hồ Chí Minh, Tp.HCM.
107. Lê Mạnh Thát (2002), Lịch sử Phật giáo Việt Nam, tập 3: từ Lý Thánh
Tông (1054) đến Trần Thánh Tông (1278), Nxb Thành phố Hồ Chí
Minh, Tp.HCM.
108. Trần Ngọc Thêm (2016), Hệ giá trị Việt Nam từ truyền thống đến hiện
đại và con đường tới tương lai, Nxb Văn hóa - Văn nghệ, Hà Nội.
109. An Thiền (1845), Đạo Giáo Nguyên Lưu, Tài liệu Lưu trữ tại Thư viện
Viện Nghiên cứu Hán Nôm, mã số 2675, Hà Nội.
110. Ngô Đức Thịnh (Chủ biên) (2014), Giá trị văn hóa Việt Nam truyền
thống và biến đổi, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
111. Ngô Đức Thọ (chủ biên) (2007), Từ điển di tích văn hóa Việt Nam, Nxb
Từ điển bách khoa, Hà Nội.
112. Ngô Đức Thọ, Nguyễn Thuý Nga (dịch) (1990), Thiền uyển tập anh,
Phân viện Nghiên cứu Phật học và Nxb Văn học, Hà Nội.
153
113. Nguyễn Văn Thọ (2016), “Lễ hội chùa Vĩnh Nghiêm tỉnh Bắc Giang”,
Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật, (381), tr.120-129.
114. Hoàng Thị Thơ (2005), Lịch sử tư tưởng Thiền từ Vêđa Ấn Độ tới Thiền
tông Trung Quốc, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
115. Hoàng Thị Thơ (2014), “Triết lý nhập thế của Phật giáo và “Cư trần lạc
đạo”của Trần Nhân Tông”, Tạp chí Triết học, (3), tr.43-51.
116. Mai Thị Thơm (2016), Văn hoá tư tưởng Phật giáo qua tư liệu văn bia
Lý - Trần, Luận án Tiến sĩ Hán Nôm, Trường Đại học Khoa học Xã
hội và Nhân văn, Hà Nội.
117. Nguyễn Thúy Thơm (2016), Vai trò của Phật giáo đối với tín ngưỡng
người Việt (qua thời Trần), Luận án Tiến sĩ Tôn giáo học, Trường
Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Hà Nội.
118. Đinh Khắc Thuân (2015), “Văn bia ghi về Thiền phái Trúc Lâm”, Tạp
chí Di sản Văn hóa, (3), tr.18-22.
119. Đinh Khắc Thuân (2015), “Văn bia chùa thời Trần”, Tạp chí Nghiên cứu
Tôn giáo, (9), tr.49-58.
120. Đỗ Lai Thúy (2005), “Lên Yên Tử nghĩ về Thiền và Thiền Trúc Lâm”,
Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật, (4), tr.24-29.
121. Bùi Thị Kim Thuỷ chủ biên (2015), Danh thắng Yên Tử với những giá
trị lịch sử - văn hoá, Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội.
122. Nguyễn Tài Thư chủ biên (1988), Lịch sử Phật giáo Việt Nam, Nxb
Khoa học xã hội, Hà Nội.
123. Nguyễn Thị Toan (2015), “Tinh thần nhập thế trong tư tưởng Phật giáo
của Trần Nhân Tông”, của, Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, (9),
tr.86-92.
124. Nguyễn Hữu Toàn (2011), “Nhân/ từ câu chuyện bảo tồn di tích chùa
Vĩnh Nghiêm Bắc Giang”, Tạp chí Di sản văn hóa, (1), tr.112-115.
125. Nguyễn Hữu Toàn (2015), “Góp bàn về mô hình tổ chức bộ máy quản lý
hệ thống di tích Tây Yên Tử”, Tạp chí Di sản Văn hóa, (4), tr.28-32.
154
126. Trần Lý Trai (2008), Giá trị văn học trong tác phẩm của Thiền phái
Trúc Lâm, Luận án Tiến sĩ Ngữ văn, Trường Đại học khoa học xã
hội và nhân văn, Tp.HCM.
127. Nguyễn Trãi (1960), Dư địa chí, Nxb Sử học, Hà Nội.
128. Võ Quang Trọng (chủ biên) (2010), Bảo tồn và phát huy giá trị di sản
văn hóa phi vật thể ở Thăng Long - Hà Nội, Nxb Hà Nội, Hà Nội.
129. Ngô Văn Trụ, Bùi Văn Thành (chủ biên) (2008), Di sản văn hóa bắc
Giang tập 4 Văn học dân gian, Bảo tàng tỉnh Bắc Giang, Bắc Giang.
130. Trung tâm Thông tin và Thống kê Khoa học và Công nghệ Bắc Giang
(2017), Bảo tồn, phát huy giá trị di sản mộc bản chùa Vĩnh Nghiêm,
chùa Bổ Đà, tỉnh Bắc Giang, Đề tài độc lập cấp Quốc gia, Bắc Giang.
131. Mai Thọ Truyền (2007), Phật giáo Việt Nam, Nxb Tôn giáo, Hà Nội.
132. Chu Quang Trứ (1998), Mỹ thuật Lý Trần, mỹ thuật Phật giáo, Nxb
Thuận Hóa, Huế.
133. Chu Quang Trứ (2001), Sáng giá chùa xưa mỹ thuật Phật giáo, Nxb Mỹ
thuật, Hà Nội.
134. Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn - Đại học Quốc gia Hà
Nội, Sở Văn hóa - Thể thao và Du lịch tỉnh Bắc Giang, Viện Nghiên
cứu Phật học Việt Nam, Trường Đại học Quốc lập Cao Hùng
(2013), Bảo tồn, khai thác giá trị mộc bản chùa Vĩnh Nghiêm, Bắc
Giang, Kỷ yếu Hội thảo khoa học quốc tế, Bắc Giang.
135. Thích Hạnh Tuệ (2018), Nghiên cứu về Trúc Lâm tông chỉ nguyên thanh,
Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
136. Thích Minh Tuệ (1993), Lược sử Phật giáo Việt Nam, Thành hội Phật
giáo Thành phố Hồ Chí Minh xuất bản, Tp.HCM.
137. Nguyễn Quảng Tuân (1990), Những ngôi chùa danh tiếng Việt Nam,
Nxb Trẻ, Viện Nghiên cứu Phật học, Tp.HCM.
138. Chu Văn Tuấn (2014), “Giá trị tôn giáo từ phương diện triết học”, Tạp
chí Nghiên cứu Tôn giáo, (1), tr.30-40.
155
139. Nguyễn Quốc Tuấn (2014), “Tiếp cận hệ thống về thực thể tôn giáo: một
cách nhìn khác về tôn giáo”, Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo, (3), tr.3-15.
140. Nguyễn Quốc Tuấn (2016), Phát huy giá trị đạo đức của tôn giáo nhằm
xây dựng và nâng cao đạo đức, lối sống con người Việt Nam hiện
nay, Đề tài cấp Nhà nước mã số KX.03/11-15, Viện Nghiên cứu
Tôn giáo, Hà Nội.
141. Nguyễn Quốc Tuấn, Nguyễn Thị Quế Hương (2017), “Phác thảo giá trị
di sản mộc bản chùa Vĩnh Nghiêm, chùa Bổ Đà tỉnh Bắc Giang”,
Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo, (1)&(2), tr.55-68.
142. Đặng Ánh Tuyết (2016), Tư tưởng Thiền học đời Trần và giá trị của nó
đối với xã hội đương thời, Luận án Tiến sĩ Triết học, Học viện Khoa
học xã hội, Hà Nội.
143. Từ điển Triết học, Nxb Tiến bộ, Matxcơva, 1986, tr.206 - 207.
144. Thích Thanh Từ (1997), Trúc Lâm Tam tổ giảng giải, Nxb Tp HCM,
Tp.HCM.
145. Thích Thanh Từ (2002), Hai quãng đời của sư tổ Trúc Lâm, Nxb Tôn
giáo, Hà Nội.
146. Thích Thanh Từ (2004), Thiền sư Việt Nam, Nxb Tôn giáo, Hà Nội.
147. Thích Thanh Từ (2008), Tam tổ Trúc Lâm giảng giải, Nxb Tổng hợp
Thành phố Hồ Chí Minh, Tp. Hồ Chí Minh.
148. Thích Thanh Từ (2010), Thiền tông Việt Nam cuối thế kỷ XX, Nxb Tôn
giáo, Hà Nội.
149. Thích Thanh Từ, Thích Phước Sơn, Thích Minh Tuệ, Minh Chi (1992),
Thiền học thời Trần, Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam, Thành phố
Hồ Chí Minh.
150. Nguyễn Minh Tường (2013), “Tiểu sử và sự nghiệp của đệ tam tổ Thiền
phái Trúc Lâm Huyền Quang”, Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam,
(5), tr.71-76.
156
151. Nguyễn Minh Tường (2016), “Đóng góp của Pháp Loa đối với Phật giáo
Việt Nam”, Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, (6), tr.64-69.
152. Võ Văn Tường (1996), Việt Nam danh lam cổ tự, Nxb Khoa học xã hội,
Hà Nội.
153. Võ Văn Tường (2007), Chùa Việt Nam xưa và nay, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
154. Ty Văn hóa Thông tin Hà Bắc (1976), Hà Bắc ngàn năm văn hiến, Thư viện
Hà Bắc, Bắc Giang.
155. Ty Văn hóa Thông tin Hà Bắc (1982), Địa chí Hà Bắc, Thư viện Hà Bắc,
Bắc Giang.
156. Nguyễn Quang Uẩn, Nguyễn Thạc, Mạc Văn Trang (1995), Định hướng
giá trị nhân cách và giáo dục giá trị, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
157. Ủy ban nhân dân huyện Lục Nam (2019), Giới thiệu huyện Lục Nam, tại
trang https://lucnam.bacgiang.gov.vn/node/3908
158. Ủy ban nhân dân huyện Lục Ngạn (2019), Giới thiệu huyện Lục Ngạn,
https://lucngan.bacgiang.gov.vn/node/80
159. Ủy ban nhân dân huyện Sơn Động (2019), Giới thiệu huyện Sơn Động,
https://sondong.bacgiang.gov.vn/node/3942
160. Ủy ban nhân dân huyện Yên Dũng (2019), Giới thiệu huyện Yên Dũng,
https://yendung.bacgiang.gov.vn/node/4987
161. Ủy ban nhân dân tỉnh Bắc Giang (2015), Xây dựng và phát triển sản
phẩm du lịch văn hóa, tâm linh - sinh thái vùng Yên Tử, Kỷ yếu
Hội thảo khoa học, Bắc Giang.
162. Ủy ban nhân dân tỉnh Bắc Giang (2019), Chi tiết tổng quan Bắc Giang,
https://www.bacgiang.gov.vn/web/guest/chi-tiet-tong-quan-bg/-
/asset_publisher/dZDYQandSWgo/content/lich-su
163. Ủy ban nhân dân tỉnh Bắc Giang (2019), Tổng quan Bắc Giang,
http://www.bacgiang.gov.vn/tong-quan-bac-giang/16866/Vi-tri-dia-
ly.html
157
164. Viện Nghiên cứu Hán Nôm (1991), Di tích lịch sử văn hóa Việt Nam,
Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
165. Viện Sử học (1971), Đại Việt sử ký toàn thư tập 1, Nxb Khoa học xã
hội, Hà Nội.
166. Viện Sử học (1972), Đại Việt sử ký toàn thư tập 2, Nxb Khoa học xã
hội, Hà Nội.
167. Viện Sử học (1972), Đại Việt sử ký toàn thư tập 3, Nxb Khoa học xã
hội, Hà Nội.
168. Viện Sử học (1980), Tìm hiểu xã hội Việt Nam thời Lý - Trần, Nxb Khoa
học xã hội, Hà Nội.
169. Viện Trần Nhân Tông, Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam (2019),
Trần Nhân Tông và Phật giáo Trúc Lâm Đặc sắc tư tưởng văn hóa,
Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
170. Viện Triết học (1986), Mấy vấn đề về Phật giáo và lịch sử tư tưởng Việt
Nam, Hà Nội, tr.82.
171. Viện Triết học (2004), Lịch sử tư tưởng Việt Nam văn tuyển tập 2, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
172. Viện Văn học (1977), Thơ văn Lý - Trần tập 1, Nxb Khoa học xã hội,
Hà Nội.
173. Viện Văn học (1989), Thơ văn Lý - Trần Tập 2, Nxb Khoa học xã hội,
Hà Nội.
174. Vũ Hoàng Thương (2018), Truy điệu HT. Thích Thanh Tân tại chùa
Vĩnh Nghiêm, https://giacngo.vn/lichsu/2018/09/22/7F72D2/
175. Trần Quốc Vượng, Trần Đình Luyện, Nguyễn Ngọc Bích (1981), Một
Hà Bắc cổ trong lòng đất, Nxb Ty Văn hóa và thông tin Hà Bắc,
Bắc Giang.
176. Trần Quốc Vượng (2000), Văn hóa Việt Nam, tìm tòi và suy ngẫm, Nxb
Văn hóa Dân tộc và Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật, Hà Nội.
158
PHỤ LỤC
155 PHỤ LỤC 1
************
PHIẾU KHẢO SÁT XÃ HỘI HỌC
(Dành cho Tăng, ni và Phật tử Phật giáo Trúc Lâm và người dân đi lễ chùa)
Cuộc khảo sát mà chúng tôi tiến hành nhằm thu thập thông tin các mặt của đời
sống xã hội liên quan đến tín đồ Phật giáo Trúc Lâm. Chúng tôi rất mong ông/bà
hợp tác bằng cách trả lời chân thực và đầy đủ các câu hỏi nêu ra dưới đây.
Chúng tôi cam kết rằng, tất cả những thông tin ông/bà cung cấp sẽ được giữ kín
và chỉ được dùng cho mục đích nghiên cứu khoa học.
Xin trân trọng cảm ơn sự hợp tác của ông/bà!
Phần I: Thông tin chung
Mã số
1. Tỉnh/Thành phố: …………………………………
Quận/Huyện: …………………………………
Phường/Xã: …………………………………
Buôn/Làng: …………………………………
2. Ngày phỏng vấn: ……………/……………./ 2019
Người phỏng vấn: …………………………………
Người giám sát: …………………………………
Phần II: Thông tin cá nhân
1. Giới tính: 1. Nam 2. Nữ Mã số
156
2. Năm sinh: 3. Dân tộc: 4. Tình trạng hôn nhân
5. Nghề nghiệp chính:
6. Trình độ học vấn: (Ghi bậc học cao nhất)
Ghi rõ: ……………………… 1. Kinh 2. Khác (ghi rõ): ……… 1. Chưa kết hôn 2. Đã kết hôn 3. Ly hôn, Góa 1. Nông dân, Ngư dân 2. Nghề tự do (Xe ôm, Cắt tóc…) 3. Công nhân 4. Buôn bán/Dịch vụ 5. Cán bộ (Giáo viên, Bác sĩ, Bộ đội…) 6. Học sinh, Sinh viên 7. Nghỉ hưu, Nội trợ 8. Khác (ghi rõ): …………………………… ………………………………… Ví dụ: không biết chữ; Tiểu học, Trung học-Phổ thông, Cao Đẳng, Đại học,Trên đại học
1. Thành thị 2. Nông thôn 1. Đã quy y 2. Chưa quy y Nếu đã quy y thì từ năm:………………… 7. Địa bàn cư trú 8. Quy y
TRẢ LỜI
- Có ................................................................................. 1 - Không ........................................................................... 2 - Không biết/ Không trả lời .............................................. 3
1.
CÂU HỎI Chùa/ Thiền viện ông (bà) sinh hoạt có thực hiện chủ trương Thiền - giáo song hành, vừa tu thiền vừa học đạo? (dành cho tín đồ)
2.
Ông (bà) thực hành nghi lễ gì khi sinh hoạt tại chùa/ Thiền viện? (dành cho tín đồ, được chọn nhiều phương án)
3.
- Tụng kinh, niệm Phật .................................................... 1 - Nghe giảng pháp (Kinh, Luận, Ngữ Lục) ...................... 2 - Tu thiền ....................................................................... 3 - Nghi thức Lục thời sám hối khoa nghi .......................... 4 - Khác (ghi rõ).................................................................. 5 - Chỉ lễ Phật .................................................................... 1 - Chỉ lễ Mẫu ..................................................................... 2 - Chỉ lễ Thần .................................................................... 3 - Chỉ lễ người qua đời ...................................................... 4 - Cả Lễ Phật, lễ Mẫu, lễ Thần và lễ người qua đời............ 5 - Có ................................................................................. 1 - Không........................................................................... .2 - Không biết/ Không trả lời ............................................ .3
4.
5.
Đến chùa ông/ bà thường lễ Phật, lễ Mẫu, lễ thần hay lễ người qua đời? Theo ông/ bà có cho rằng Tư tưởng “Phật tại tâm” giúp tu dưỡng đạo đức, tâm trong sáng không? Ông (bà) hiểu thế nào về tư tưởng “Phật tại tâm”?
6.
Khi tu tập theo tư tưởng, nghi lễ của Phật giáo Trúc Lâm ông (bà) thấy có lợi ích gì?
- Tu ở núi cao, rừng sâu, Luyện khí, luyện Yoga .............. 1 - Phật ở trong lòng mỗi người, Thân tâm luôn tự tại, trong sáng................................................................................. .2 - Không biết/ Không trả lời ............................................ .3 - Tâm thanh thản, trong sáng hơn .................................... 1 - Nâng cao sức khỏe hơn ................................................. 2 - Tránh xa các tệ nạn xã hội.............................................. 3 - Tăng khả năng tư duy và sáng tạo .................................. 4 - Cân bằng cuộc sống ....................................................... 5 - Thu nhập kinh tế tốt hơn ................................................ 6 - Không biết/ Không trả lời .............................................. 7
157 Phần III: Nội dung chính
7.
Ông/bà có tham gia các lễ hội của Phật giáo Trúc Lâm không?
- Thường xuyên ............................................................... 1 - Thỉnh thoảng ................................................................. 2 - Hiếm khi........................................................................ 3 - Không bao giờ ............................................................... 4 - Có ................................................................................. 1 - Không ........................................................................... 2
8.
9.
- Sống hướng thiện hơn................................................... 1 - Sống hòa nhập với cộng đồng hơn ................................ 2 - Tránh xa các tệ nạn xã hội ........................................... 3 - Không vi phạm pháp luật ............................................. 4 - Khác (ghi rõ) ................................................................ 5
Khi tham gia lễ hội, ông (bà) có biết đó là lễ hội của Phật giáo Trúc Lâm? Theo ông/bà, việc tham gia lễ hội của Phật giáo Trúc Lâm đem lại lợi ích gì? (được chọn nhiều phương án)
- Thường xuyên ............................................................... 1 - Thỉnh thoảng................................................................. 2 - Hiếm khi ...................................................................... 3 - Không bao giờ ..........................................................….4
10.
Ông/bà có thường xuyên tham gia các hoạt động do nhà chùa tổ chức không?
11.
- Có ................................................................................. 1 - Không........................................................................... 2
Ông (bà) có nhận được sự trợ giúp từ phía nhà chùa không?
12.
Nếu có, ông/bà nhận được sự trợ giúp gì? (được chọn nhiều phương án)
- Vật chất ........................................................................ 1 - Giới thiệu việc làm ........................................................ 2 - Đào tạo nghề ................................................................. 3 - Thăm hỏi, động viên, tư vấn .......................................... 4 - Trợ giúp khác (ghi rõ):................................................... 5
158
Thường xuyên
Thỉnh thoảng
Hiếm khi
Không bao giờ
159
Tần xuất ông/
13.
bà thực hiện
Thập thiện như
Không sát sinh Không tà dục Không trộm cắp Không nói dối Không nói thêu dệt Không nói lưỡi hai chiều Không nói lời hung ác Không tham muốn Không hờn giận Không si mê - Xây dựng và mở rộng Thiền viện Trúc Lâm ở Bắc Giang để
thế nào?
hoằng dương giáo lý Phật giáo Trúc Lâm cũng như thực
Theo ông/ bà
hành phật sự..................................................................... 1
phải làm như
- Tổ chức các lễ hội Phật giáo Trúc Lâm thường xuyên quy
thế nào để giữ
mô lớn.............................................................................. 2
gìn và phát huy
- Tổ chức thường xuyên các khóa lễ tu học chú trọng theo
14.
giá trị các tư
nghi thức của Phật giáo Trúc Lâm ................................... 3
tưởng, tu tập
- Phổ biến rộng rãi kinh sách của Phật giáo Trúc Lâm...... 4
của Phật giáo
- Đào tạo các Thiền sư có chuyên môn sâu về Phật giáo Trúc
Trúc Lâm thời
Lâm ................................................................................. 5
Trần ở Bắc
- Ý kiến khác (ghi rõ) ...................................................... 6
Giang trong giai
đoạn hiện nay?
- Bảo tồn các công trình kiến trúc, hệ thống văn bia, văn tự
160
của Phật giáo Trúc Lâm .................................................. .1
Theo ông/ bà
- Công nhận di sản văn hóa các di tích, di vật, lễ hội thuộc
phải làm như
Phật giáo Trúc Lâm.......................................................... 2
thế nào để giữ
- Tiếp tục khảo sát, khai quật, nghiên cứu các di tích, di vật,
gìn và phát huy
hiện vật thời Trần khu vực Tây Yên Tử........................... .3
giá trị văn hóa
15.
- Xây dựng và khôi phục lại các ngôi chùa, lễ hội thuộc Phật
của Phật giáo
giáo Trúc Lâm ................................................................. 4
Trúc Lâm thời
- Phổ biến rộng rãi các tác phẩm văn học của Phật giáo Trúc
Trần ở Bắc
Lâm.................................................................................. 5
Giang trong giai
- Ý kiến khác ................................................................... 6
đoạn hiện nay?
(được chọn nhiều
- Tổ chức nhiều hoạt động từ thiện xã hội ........................ 1
phương án)
- Tổ chức các lớp học giáo dục đạo đức Phật giáo cho các
Theo ông/ bà
tầng lớp xã hội ngăn ngừa phòng chống các tệ nạn xã hội,
phải làm như
bảo vệ môi trường v.v.. .................................................... 2
thế nào để giữ
- Tổ chức các công tác Phật sự đi sát với thực tế, giải quyết
gìn và phát huy
được vấn đề thực tiễn hiện nay ........................................ 3
tinh thần nhập
- Chính quyền tạo điều kiện cho các tổ chức Phật giáo hoạt
thế và tinh thần
động từ thiện xã hội.......................................................... 4
16.
yêu nước của
- Đoàn kết, bảo vệ chủ quyền quốc gia, dân tộc ............... 5
Phật giáo Trúc
Lâm thời Trần
ở Bắc Giang
trong giai đoạn
hiện nay?
(được chọn nhiều
phương án)
- Thường xuyên ............................................................... 1
161
- Không thường xuyên .................................................... 2
Ông/bà có
- Hiếm khi ....................................................................... 3
17.
thường xuyên
- Không bao giờ .............................................................. 4
đóng góp cho
các hoạt động
- Rất hài lòng: ................................................................. 1
từ thiện không?
- Hài lòng: ....................................................................... 2
Tỉnh Bắc Giang
- Không hài lòng: ............................................................ 3
đã và đang thực
hiện dự án Khu
18.
du lịch Tâm
linh - Sinh thái
Tây Yên Tử.
Ông/bà có hài
lòng về dự án
- Được tu tập theo các nghi thức của Phật giáo Trúc Lâm 1
này không?
- Được tham gia các lễ hội của Phật giáo Trúc Lâm ........ 2
Ông (bà) hài
- Được phát triển kinh tế ................................................. 3
- Được du lịch tâm linh - sinh thái ................................... 4
lòng về điều gì
19.
- Khác (ghi rõ) ................................................................. 5
về dự án Khu
du lịch Tâm
linh - Sinh thái
Tây Yên Tử?
162 PHỤ LỤC 2
KẾT QUẢ ĐIỀU TRA XÃ HỘI HỌC
GIÁ TRỊ CỦA PHẬT GIÁO TRÚC LÂM THỜI TRẦN Ở BẮC GIANG
Về địa bàn, Trong luận án này, NCS chọn mẫu là 4 địa điểm: tại Chùa
Vĩnh Nghiêm (huyện Yên Dũng), tại chùa Am Vãi (huyện Lục Ngạn), tại Thiền
viện Trúc Lâm Phượng Hoàng (huyện Yên Dũng), tại Khu du lịch Tâm linh -
Sinh thái Tây Yên Tử (huyện Sơn Động).
Về thời gian, tại lễ hội chùa Vĩnh Nghiêm ngày 17/03/2019 (tức ngày
12/02 Âm lịch); tại lễ hội chùa Am Vãi ngày 06/04/2019 (tức mồng 2/03 Âm
lịch); tại Thiền viện Trúc Lâm Phượng hoàng ngày 01/07/2019 (tức mồng 1/7
Âm lịch), tại lễ hội Tây Yên Tử (Khu du lịch Tâm linh - Sinh thái Tây Yên Tử)
ngày 16/02/2019 (tức ngày 12 tháng Giêng năm Kỷ Hợi).
Về số lượng phiếu, NCS phỏng vấn 400 người tại 4 địa điểm: chùa Vĩnh
Nghiêm (100 phiếu), chùa Am Vãi (100 phiếu), Thiền viện Trúc Lâm Phượng
Hoàng (100 phiếu), Khu du lịch Tâm linh - Sinh thái Tây Yên Tử (100 phiếu).
Về cơ cấu giới tính: Kết quả khảo sát phiếu cho biết:
Nữ giới: 264 người chiếm 66%.
Nam giới: 136 người chiếm 34%
34%
Nam
Nữ
66%
Giới tính người được phỏng vấn
163
Độ tuổi người được phỏng vấn
Độ tuổi Số người Tỉ lệ %
32 8% Dưới 15 tuổi
86 21,5% Từ 16 tới 29 tuổi
98 24,5% Từ 30 tới 50
184 46% Trên 50 tuổi
400 100% Tổng cộng
Nhóm độ tuổi có tỉ lệ cao nhất là trên 50 tuổi (chiếm 46%) bởi vì trong
các lễ hội Phật giáo Trúc Lâm nhóm đối tượng này là chủ yếu mà NCS cần khai
thác, cùng với đó là nhóm đối tượng từ 30 đến 50 tuổi chiếm 24,5% và nhóm từ
16 đến 29 tuổi chủ yếu là các đối tượng tu thiền tập trung tại Thiền viện Trúc
Lâm Phượng hoàng và tham gia lễ hội, nhóm tiếp theo là dưới 15 tuổi chủ yếu là
các em học sinh tham gia lễ hội chiếm 8%.
1.25
Phật giáo
26.25%
72.5 %
Không tôn giáo
Tôn giáo khác
Về tôn giáo của người được phỏng vấn:
Phần lớn các đối tượng mà NCS khảo sát là tín đồ Phật giáo đã quy y là
290 người chiếm 72,5%, số lượng người dân không theo tôn tôn giáo nào chiếm
là 105 người chiếm 26,25%, số người theo tôn giáo khác là 5 người chiếm
1,25% (Công giáo)
164
Trên Đại học
5%
Đại học
15%
Cao Đẳng
29%
Trung học-Phổ thông
32%
Tiểu học
17%
Không biết chữ
2%
0
10
20
30
40
Về trình độ của người được phỏng vấn:
Phần lớn những tín đồ Phật giáo trên 50 tuổi mà NCS phỏng vấn đều có
Trình độ học vấn của Trung học-Phổ thông chiếm tỉ lệ cao 128 người chiếm
32% và tiểu học 68 người chiếm 17%; số còn lại cao đẳng 116 người (chiếm
29%), đại học 60 người (chiếm 15%), trên đại học 20 người chiếm 5%, số người
không biết chữ 8 người chiếm 2% (những người không biết chữ này NCS trực
tiếp đọc câu hỏi để họ trả lời).
28%
Nông thôn
Thành thị
72%
Về địa bàn cư trú:
165
Địa bàn cư trú của người được phỏng vấn chủ yếu là Nông thôn là 288
người chiếm (72%), ở thành thị là 112 người chiếm 28%.
9%
Nghỉ hưu
16%
Nghề tự do
8%
Công chức
21%
Công nhân
9%
Sinh viên
7%
Học sinh
30%
Nông nghiệp
0
5
10
15
20
25
30
35
Nghề nghiệp chính của người được phỏng vấn:
Nghề nghiệp chính chủ yếu của người được phỏng vấn phần lớn là nông
nghiệp chiếm 30%, công nhân 21%, nghề tự do 16%, sinh viên và nghỉ hưu 9%,
công chức 8%, học sinh 7%.
Câu 1: Chùa/ Thiền viện ông (bà) sinh hoạt có thực hiện chủ trương
Thiền - giáo song hành, vừa tu thiền vừa học đạo? (dành cho tín đồ)
Chùa/ Thiền viện ông (bà) sinh hoạt có Số lượng Tỉ lệ %
thực hiện chủ trương Thiền - giáo song
hành, vừa tu thiền vừa học đạo
Có 289 72,25%
Không 86 22,5%
Không biết/ Không trả lời 25 6,25%
Câu 2: Thực hành nghi lễ Phật giáo khi sinh hoạt tại chùa/ Thiền viện
(dành cho tín đồ, được chọn nhiều phương án)
Thực hành nghi lễ Phật giáo khi sinh Số lượng Tỉ lệ %
hoạt tại chùa/ Thiền viện
251 62,75% Tụng kinh, niệm Phật
166 Nghe giảng pháp (Kinh, Luận, Ngữ Lục) 243 60,75%
Tu thiền 249 62,25%
Nghi thức Lục thời sám hối khoa nghi 98 24,25%
Khác 8 2%
(Dâng hương)
Câu 3: Đến chùa ông/ bà thường lễ Phật, lễ Mẫu, lễ thần hay lễ người
qua đời?
Biểu hiện sự dung hợp niềm tin vào Phật và Số lượng Tỉ lệ %
Mẫu
Chỉ lễ Phật 75 18,75%
Chỉ lễ Mẫu 12 3%
Chỉ lễ Thần 0 0%
Chỉ lễ người qua đời 0 0%
Cả lễ Phật, lễ Mẫu, lễ Thần, lễ người qua đời 313 78,25%
Câu 4. Tư tưởng “Phật tại tâm” góp phần tu dưỡng đạo đức, giúp
tâm trong sáng
Tư tưởng “Phật tại Có Không Không biết/
tâm” góp phần tu Không trả lời
dưỡng đạo đức, Số Tỷ lệ Số Tỷ lệ % Số Tỷ lệ
giúp tâm trong sáng lượng % lượng lượng %
368 92% 20 5% 12 3%
Câu 5. Tín đồ, người dân hiểu thế nào về tư tưởng “Phật tại tâm”
Tín đồ, người dân hiểu thế nào về tư tưởng Số lượng Tỉ lệ %
“Phật tại tâm”
Tu ở núi cao, rừng sâu, Luyện khí, luyện Yoga 23 5,75%
Phật ở trong lòng mỗi người, Thân tâm luôn tự 355 88,75%
tại, trong sáng
Không biết/ Không trả lời 22 5,5%
167
Câu 6: Lợi ích khi tu tập theo Phật giáo Trúc Lâm
Lợi ích khi tu tập theo Phật giáo Trúc Lâm Số lượng Tỉ lệ %
Tâm thanh thản, trong sáng hơn 375 93,75%
Nâng cao sức khỏe hơn 289 72,25%
Làm nhiều việc thiện hơn 311 77,75%
Tránh xa các tệ nạn xã hội 351 87,75%
Tăng khả năng tư duy và sáng tạo 161 40,25%
Cân bằng cuộc sống 346 86,5%
Thu nhập kinh tế tốt hơn 85 21,25%
Không biết/ Không trả lời 12 3%
Câu 7: Mức độ tham gia lễ hội PGTL
Mức độ tham gia lễ hội Phật giáo Trúc Lâm Số lượng Tỉ lệ %
315 78,75% Thường xuyên
62 15,5% Thỉnh thoảng
23 5,75% Hiếm khi
0 0% Không bao giờ
Câu 8: Khi tham gia lễ hội, ông (bà) có biết đó là lễ hội của PGTL
Sự hiểu biết về lễ hội của PGTL Số lượng Tỉ lệ %
290 72,5% Có
110 27,5% Không
Câu 9: Ảnh hưởng của lễ hội PGTL tới lối sống, đạo đức tín đồ và
người dân Bắc Giang
Ảnh hưởng của lễ hội PGTL tới lối sống, Số lượng Tỉ lệ %
đạo đức tín đồ và người dân Bắc Giang
Sống hướng thiện hơn 321 80,25%
168
Sống hòa nhập với cộng đồng hơn 357 89,25%
Tránh xa các tệ nạn xã hội 323 80,75%
Không vi phạm pháp luật 289 72,25%
Khác 12 3%
Ghi rõ: Để nâng cao kinh tế
Câu 10: Mức độ tham gia các hoạt động do nhà chùa tổ chức
Tham gia các hoạt động do nhà Số lượng Tỉ lệ %
chùa tổ chức
Thường xuyên 264 66%
Thỉnh thoảng 90 22.5%
Hiếm khi 40 10%
Không bao giờ 6 1.5%
Câu 11. Nhận sự trợ giúp từ phía nhà chùa
Nhận sự trợ giúp từ phía nhà Số lượng Tỉ lệ %
chùa
Có 304 76%
Không 96 24%
Câu 12. Nhận được sự trợ giúp từ phía nhà chùa
Nhận được sự trợ giúp từ Số lượng Tỉ lệ %
phía nhà chùa
Vật chất 44 11%
Giới thiệu việc làm 4 1%
Đào tạo nghề 0 0%
Thăm hỏi, động viên, tư vấn 246 61,5%
Trợ giúp khác 10 2,5%
(cầu siêu, Khâm
niệm người qua đời)
169
Câu 13: Thực hiện Thập thiện của tín đồ và người dân (được chọn nhiều
Thường xuyên
Thỉnh thoảng
Hiếm khi
Không bao giờ
Thập thiện
Số
%
Số
%
Số
%
Số
%
lượng
lượng
lượng
lượng
Không sát sinh
217
54,25%
105
26,25%
78
19,5%
0%
0
Không tà dục
386
96,5%
14
3,5%
0
0%
0%
0
Không trộm cắp
389
97,25%
9
2,25%
2
0,5%
0%
0
Không nói dối
237
59,25%
125
31,25%
35
8,75%
0,75%
3
Không thêu dệt
262
65,5%
98
24,5%
35
8,75%
1,25%
5
Không nói lưỡi
345
86,25
50
12,5%
5
1,25%
0%
0
hai chiều
Không nói lời
278
69,5%
115
28,75%
4
1%
0,75%
3
hung ác
Không tham
105
26,25%
235
58,75%
51
12,75%
9
2,25%
muốn
Không hờn giận
115
28,75%
278
69,5%
6
1,5%
0,25%
1
Không si mê
95
23,75%
219
54,75%
80
20%
1,5%
6
phương án)
Câu 14. Giữ gìn và phát huy giá trị các tư tưởng, nghi lễ của PGTL thời
Trần ở Bắc Giang trong giai đoạn hiện nay (được chọn nhiều phương án)
Giữ gìn và phát huy giá trị các tư tưởng, tu tập Số lượng Tỉ lệ %
của PGTL thời Trần ở Bắc Giang trong giai
đoạn hiện nay
Xây dựng và mở rộng Thiền viện Trúc Lâm ở Bắc 351 87,75%
Giang để hoằng dương giáo lý Phật giáo Trúc Lâm
cũng như thực hành phật sự
Tổ chức các lễ hội Phật giáo Trúc Lâm thường 297 74,25%
xuyên quy mô lớn
170
Tổ chức thường xuyên các khóa lễ tu học chú trọng 376 94%
theo nghi thức của Phật giáo Trúc Lâm
Phổ biến rộng rãi kinh sách của Phật giáo Trúc Lâm 301 75,25%
Đào tạo các Thiền sư có chuyên môn sâu về Phật 344 86%
giáo Trúc Lâm
Ý kiến khác 0 0%
Câu 15. Giữ gìn và phát huy giá trị văn hóa của Phật giáo Trúc Lâm thời
Trần ở Bắc Giang trong giai đoạn hiện nay (được chọn nhiều phương án)
Giữ gìn và phát huy giá trị văn hóa của Số lượng Tỉ lệ %
Phật giáo Trúc Lâm thời Trần ở Bắc Giang
trong giai đoạn hiện nay
Bảo tồn các công trình kiến trúc, hệ thống văn bia, 377 94,25%
văn tự của Phật giáo Trúc Lâm
Công nhận di sản văn hóa các di tích, di vật, lễ hội 389 97,25%
thuộc Phật giáo Trúc Lâm
Tiếp tục khảo sát, khai quật, nghiên cứu các di tích, 392 98%
di vật, hiện vật thời Trần khu vực Tây Yên Tử
Xây dựng và khôi phục lại các ngôi chùa, lễ hội 388 97%
thuộc Phật giáo Trúc Lâm
Phổ biến rộng rãi các tác phẩm văn học của Phật 268 67%
giáo Trúc Lâm
Ý kiến khác 0 0%
Câu 16. Giữ gìn và phát huy tinh thần nhập thế và tinh thần yêu nước
của Phật giáo Trúc Lâm thời Trần ở Bắc Giang trong giai đoạn hiện nay
Giữ gìn và phát huy tinh thần nhập thế Số lượng Tỉ lệ %
và tinh thần yêu nước của PGTL thời Trần
ở Bắc Giang trong giai đoạn hiện nay
Tổ chức nhiều hoạt động từ thiện xã hội 368 92%
171
Tổ chức các lớp học giáo dục đạo đức Phật giáo 322 80,5%
cho các tầng lớp xã hội ngăn ngừa phòng chống
các tệ nạn xã hội, bảo vệ môi trường v.v
Tổ chức các công tác Phật sự đi sát với thực tế, 278 69,5%
giải quyết được vấn đề thực tiễn hiện nay
Chính quyền tạo điều kiện cho các tổ chức Phật 355 88,75%
giáo hoạt động từ thiện xã hội
Đoàn kết, bảo vệ chủ quyền quốc gia, dân tộc 399 99,75%
Câu 17. Tần xuất làm từ thiện giúp đỡ mọi người của tín đồ và người
dân
Tần xuất làm từ thiện giúp đỡ mọi người Số lượng Tỉ lệ %
của tín đồ và người dân
Thường xuyên 220 55%
Không thường xuyên 152 38%
Hiếm khi 28 7%
Không bao giờ 0 0%
Câu 18. Mức độ hài lòng dự án Khu du lịch Tâm linh - Sinh thái Tây
Yên Tử
Mức độ hài lòng dự án Khu du lịch Tâm Số lượng Tỉ lệ %
linh - Sinh thái Tây Yên Tử
Rất hài lòng 211 52,75%
Hài lòng 182 45,5%
Không hài lòng 7 1,75%
Câu 19. Điều hài lòng về điều gì về dự án Khu du lịch Tâm linh - Sinh
thái Tây Yên Tử?
Điều hài lòng về điều gì về dự án Khu du Số lượng Tỉ lệ %
lịch Tâm linh - Sinh thái Tây Yên Tử
Được tu tập theo các nghi thức của Phật giáo 393 98,25%
172
Trúc Lâm
Được tham gia các lễ hội của Phật giáo Trúc 389 97.25%
Lâm
Được phát triển kinh tế 265 66,25%
Được du lịch tâm linh - sinh thái 235 58,75%
Khác 0 0%
173 PHỤ LỤC 3 - BIÊN BẢN PHỎNG VẤN SÂU
Nội dung phỏng vấn: Giá trị của Phật giáo Trúc Lâm thời Trần ở Bắc
Giang
Địa điểm phỏng vấn: Chùa Ích Minh, xã Hương Mai, huyện Việt Yên,
tỉnh Bắc Giang
Thời gian phỏng vấn: 14h20-15h55
Ngày phỏng vấn: 06/01/2019 (Ngày 01 tháng Chạp, Mậu Tuất)
Người được phỏng vấn: Đại đức Thích Pháp Minh
Chức vụ: Ủy viên Ban Hoằng pháp TW Giáo hội Phật giáo Việt Nam,
Trưởng Ban Hoằng pháp Giáo hội Phật giáo tỉnh Bắc Giang, Phó Trụ trì chùa
Ích Minh.
Câu hỏi 1: Xin thầy cho biết về quá trình hình thành của Phật giáo Trúc
Lâm thời Trần?
Trả lời: Như chúng ta đã biết, Phật giáo Trúc Lâm vốn dung hợp 3 dòng
thiền đã có từ trước đó là: Tỳ ni đa lưu chi thế kỷ VI, Vô Ngôn Thông thế kỷ IX
và Thảo Đường thế kỷ XI. Phật giáo Trúc Lâm do Phật hoàng Trần Nhân Tông
sáng lập, nhưng mạch nguồn là từ thiền sư Hiện Quang có công lớn trong việc
khai sơn núi Yên Tử, rồi trao truyền lại cho Đạo Viên thầy của Trần Thái Tông,
rồi tiếp tục truyền đến Trần Nhân Tông. Sau khi Phật giáo Trúc Lâm được hình
thành, và sau đó phát triển cực thịnh thông qua ba vị: Sơ tổ Trần Nhân Tông,
Nhị tổ Pháp Loa, Tam tổ Huyền Quang và điểm đặc biệt là lấy chùa Vĩnh
Nghiêm làm trung tâm hoằng pháp và trở thành vị thế đặc biệt trong Phật giáo
thời Trần.
Câu hỏi 2: Thầy có thể cho biết về tư tưởng của Phật giáo Trúc Lâm thời
Trần?
Trả lời: Tư tưởng của Phật giáo Trúc Lâm là một vấn đề lớn và khó, từ
trước đến nay có nhiều công trình nghiên cứu rồi, ở đây tôi xin nói qua về một
tư tưởng đó là: Tư tưởng tu dưỡng đạo đức minh tâm kiến tính. Tâm sáng thì
174 hành động sáng, tâm tà thì làm điều ác. Trong lịch sử Phật giáo Việt Nam,
nhiều nhà sư tu hành, trong quá trình rèn luyện và tu dưỡng đạo đức, nhưng
chưa đạt tới tâm sáng là do những điều nảy sinh từ ý nghĩ giả dối sai lầm. Theo
quan niệm của Phật giáo Trúc Lâm, tu dưỡng đạo đức không phải để tề gia, trị
quốc, bình thiên hạ như quan niệm của Nho giáo mà tu dưỡng đạo đức để trở về
với cái tâm là bản tâm, giữ cho tâm trong sáng là minh tâm. Theo lời dạy của
Trần Thái Tông, thì muốn cho tâm mình trong sáng phải thường xuyên quay đầu
soi lại chớ có phóng tâm đi mất. Bởi theo quan niệm của Trần Thái Tông thì:
“Trong núi vốn không có Phật, Phật ở ngay trong lòng. Lòng lặng lẽ mà hiểu,
đó chính là Phật”.
Câu hỏi 3: Vừa nãy thầy có nói rằng chùa Vĩnh Nghiêm có vị thế đặc biệt
trong Phật giáo thời Trần, thầy có thể nói rõ thêm vị thế của chùa Vĩnh Nghiêm
cũng như của Phật giáo Trúc Lâm thời Trần ở Bắc Giang được không?
Trả lời: Chùa Vĩnh Nghiêm là trung tâm quan trọng của Phật giáo Trúc
Lâm thời Trần. Ba vị tổ là Trần Nhân Tông, Huyền Quang và Pháp Loa đều lấy
chùa Vĩnh Nghiêm làm trung tâm truyền bá Phật pháp. Chùa được xây dựng từ
thời Lý. Đến thời Trần được xây dựng thành trung tâm của Phật giáo Trúc Lâm.
Người có vai trò to lớn trong việc xây dựng chùa bấy giờ là Nhị tổ Pháp Loa.
Ông đã huy động cả giới quý tộc nhà Trần vào việc xây dựng chùa. Ông đã biến
chùa Vĩnh Nghiêm trở thành trụ sở của Trung ương Giáo hội Trúc Lâm, giáo
hội phát triển và số tín đồ ngày một tăng. Chùa, tháp được tạo dựng rất nhiều.
Trung tâm Phật giáo Vĩnh Nghiêm đã có mối liên hệ với các cơ sở trực tiếp như:
chùa Am Vãi, Yên Mã, Bình Long, Hòn Tháp, Hồ Bấc, Đồng Vành, chùa Cao,
Khám Lạng… và đã có vai trò tích cực trong việc phát triển Phật giáo Trúc Lâm
ở phía Tây Yên Tử. Sang thời Lê - Nguyễn, chùa Vĩnh Nghiêm không còn giữ
được vai trò và vị trí trung tâm Phật giáo như triều Trần, nhưng nó còn giữ lại
được kho tàng di sản Hán Nôm khá phong phú, trong đó có kho mộc bản với
hơn 3000 tấm ván đã được UNESCO công nhận di sản.
175
Câu hỏi 4: Phật giáo Trúc Lâm thời Trần ở Bắc Giang để lại nhiều giá trị
nổi bật trong đó có giá trị tôn giáo, thầy đánh giá như thế nào về giá trị tôn giáo
của Phật giáo Trúc Lâm thời Trần?
Trả lời: Nói về giá trị tôn giáo của Phật giáo Trúc Lâm thời Trần thì như
chúng ta biết Phật giáo Việt Nam với bề dày lịch sử gần hai nghìn năm, đã kế
thừa và tiếp nhận những tinh hoa của Phật giáo Ấn Độ, Trung Hoa. Bên cạnh
đó Phật giáo Trúc Lâm vẫn thể hiện những điểm sáng tạo, nét độc đáo đặc thù,
mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc và từng làm một bước đột phá trên lịch sử
Phật giáo. Phật giáo Trúc Lâm do Phật hoàng Trần Nhân Tông sáng lập. Đây
là một thiền phái hoàn toàn Việt Nam, phương pháp thực hành đa dạng thích
ứng với mọi tầng lớp trong xã hội, dung hợp các dòng tư tưởng để tạo nên ý
thức hệ chính cho nước nhà, đáp ứng ngay nguyện vọng của đa số tầng lớp dân
chúng. Đây cũng chính là thời kỳ vàng son của Phật giáo Việt Nam.
Câu hỏi 5: Thế theo thầy phải làm gì để phát huy giá trị tôn giáo của Phật
giáo Trúc Lâm thời Trần trong thời đại hiện nay?
Trả lời: Việc làm này cũng cần phải phối hợp đồng bộ giữa chính quyền
địa phương, Giáo hội Phật giáo tỉnh và các chùa Phật giáo Trúc Lâm trên địa
bàn tỉnh Bắc Giang. Chứ hiện nay các chùa cùng các tăng ni, Phật tử vẫn
thường xuyên tu hành theo giáo lý, nghi lễ của Phật giáo Trúc Lâm, nhưng cũng
ở mức độ hẹp quy mô trong chùa thôi. Để phát huy được giá trị tôn giáo nhiều
hơn nữa thì chính quyền địa phương phối hợp với nhà chùa tổ chức các lớp phổ
biến các giáo lý, nghi lễ, lịch sử Phật giáo Trúc Lâm rộng rãi, quy mô lớn hơn,
in ấn nhiều tài liệu về Phật giáo Trúc Lâm phân phát cho mọi người, giúp họ
nhận rõ giá trị tôn giáo của Phật giáo Trúc Lâm từ đó có những suy nghĩ hành
động thay đổi tu dưỡng đạo đức, tu dưỡng bản thân hơn.
Câu 6: Về giá trị văn hóa của Phật giáo Trúc Lâm thời Trần ở tỉnh Bắc
Giang, thầy có đánh giá như thế nào?
Trả lời: Hệ thống di tích Tây Yên Tử do Pháp Loa xây dựng, đều có nguồn
gốc từ thời Lý-Trần, đến thời Trần thì được hưng công xây dựng lớn, mặc dù
176 ngày nay hệ thống chùa ở Tây Yên Tử đều là phế tích, có nơi thì được xây dựng
lại, những di tích, di vật, văn bia còn xót lại đều ẩn chứa giá trị văn hóa nổi bật,
nội dung tư liệu quý giá, nhiều điểm di tích có tiềm năng du lịch lớn cần được
bảo tồn, gìn giữ và phát huy giá trị. Bên cạnh đó còn là di sản văn hóa phi vật
thể đó là các lễ hội của các ngôi chùa ở Tây Yên Tử, phản ánh không gian văn
hóa của Phật giáo Trúc Lâm thời Trần. Điều quan trọng của hệ thống di tích, di
vật này là vẻ đẹp núi rừng chưa bị mất, qua di tích khảo cổ học vẫn còn các yếu
tố cơ bản nhất, nó mới mất đi một phần yếu tố do con người tạo ra. Nếu nó được
quan tâm chú ý hơn thì di tích này lại trở lại với vẻ đẹp như xưa.
Câu 7: Theo thầy thì cần phải phát huy giá trị văn hóa này như thế nào?
Trả lời: Trước hết cần nâng cao nhận thức trình độ của những người quản
lý trực tiếp những di tích, di vật nơi đây, tăng cường quản lý đối với hoạt động
bảo tồn, tôn tạo và khai thác giá trị văn hóa, tránh tình trạng xâm lại phá hoại
di tích. Phối hợp với các nhà khoa học khảo sát, khảo cổ, xác định được rõ vị trí
sơ đồ các di tích, hiện vật từ đó phục dựng lại các di tích Phật giáo Trúc Lâm
thời Trần. Những di tích nào được khôi phục lại rồi thì tổ chức các lễ hội và
nghi lễ của di tích theo đúng như trong tư liệu lịch sử.
Câu 8: Về giá trị lịch sử của Phật giáo Trúc Lâm thời Trần, thầy đánh giá
như thế nào?
Trả lời: Phật giáo Trúc Lâm thời Trần mang tinh thần yêu nước và tinh
thần nhập thế. Nó đã tạo nên lịch sử đó là một sự thống nhất chính trị, thống
nhất tinh thần dân tộc trên phương diện quốc gia, chiến thắng kẻ thù xâm lược.
Yếu tố liên kết nhân tâm của Phật giáo Trúc Lâm đã khiến thời kỳ này có một
nền tảng chính trị bình dị, dân chủ, thân dân. Tinh thần nhập thế của thiền phái
Trúc Lâm là một sản phẩm tinh thần mang tính thuần Việt, văn hóa Việt và cốt
cách Việt. Tinh thần nhập thế và yêu nước của Phật giáo Trúc Lâm đã góp phần
giải quyết một loạt vấn đề lịch sử đặt ra vào thời Trần và kéo dài tới ngày nay.
Câu 9: Theo thầy để phát huy giá trị lịch sử của Phật giáo Trúc Lâm thời
Trần ở Bắc Giang trong giai đoạn hiện nay phải làm như nào?
177
Trả lời: Công tác hoằng pháp về tư tưởng yêu nước và nhập thế của Phật
giáo Trúc Lâm trong xã hội thông qua hình ảnh lịch sử của Trần Nhân Tông cần
phải có kế hoạch làm sao tạo ra sức thu hút đối với cộng đồng xã hội. Mở rộng
các kênh giáo dục về Phật giáo Trúc Lâm giữa nhà chùa với nhà trường, giữa
nhà chùa với chính quyền địa phương… nhằm khơi dậy tinh thần yêu nước, sống
có ích vì cộng đồng và gìn giữ những giá trị tư tưởng yêu nước, đoàn kết dân
tộc, chấp hành tốt pháp luật của Nhà nước. Tổ chức nhiều chương trình từ thiện
xã hội, huy động các nguồn lực kinh tế từ các nhà hảo tâm hỗ trợ những gia
đình hoàn cảnh khó khăn, giúp những người nghèo làm ăn kinh tế tốt hơn.
Xin chân thành cảm ơn thầy đã trả lời những câu hỏi trên!
178 PHỤ LỤC 4 - BIÊN BẢN PHỎNG VẤN SÂU
Nội dung phỏng vấn: Giá trị của Phật giáo Trúc Lâm thời Trần ở Bắc
Giang
Địa điểm phỏng vấn: Phòng Quản lý Di sản Văn hóa, Sở Văn hóa, Thể
thao và Du lịch tỉnh Bắc Giang
Thời gian phỏng vấn: 10h05-10h37
Ngày phỏng vấn: 15/01/2019
Người được phỏng vấn: Nguyễn Hữu Phương
Chức vụ: Trưởng phòng
Câu hỏi 1: Ông đánh giá như thế nào về hệ thống văn bia, văn tự, di tích,
di vật của Phật giáo Trúc Lâm thời Trần ở Bắc Giang?
Trả lời:
Hệ thống văn bia, văn tự, di tích, di vật của Phật giáo Trúc Lâm thời Trần
ở Bắc Giang rất đa dạng, nằm ở khu vực Tây Yên Tử tỉnh Bắc Giang, nội dung
vô cùng phong phú và quý giá, những tư liệu văn bia cùng với các di tích nơi
đây đã phản ánh nhiều mặt hoạt động của Phật giáo Trúc Lâm thời Trần, đóng
góp nhiều giá trị vào di sản văn hóa Việt Nam. Chính vì vậy, tỉnh Bắc Giang
luôn nỗ lực trong công tác bảo tồn và phát huy giá trị các di tích, di vật của
Phật giáo Trúc Lâm.
Câu 2: Ông đánh giá như thế nào về văn học của Phật giáo Trúc Lâm thời
Trần?
Trả lời: Văn học đời Trần cũng chịu ảnh hưởng sâu sắc của Phật giáo Trúc
Lâm, đó là văn học Thiền. Văn học Thiền đề cao vẻ đẹp của con người ở bản
chất, ở tự nhiên, không cầu kỳ. Văn học Thiền viết theo thể phú hoặc diễn ca, dễ
đọc, dễ nhớ, dễ truyền tụng. Hình ảnh con người trong thơ Thiền đời Trần còn
mang nét đẹp cao cả, khả năng tự lực, tự cường, biết dựa vào sức mình. Chất
nhân văn trong thơ Thiền đời Trần không chỉ đề cao sức mạnh tự lực, tự cường
179 của con người mà còn đẹp trong suy nghĩ, hành động. Trong xã hội hiện nay,
giá trị văn học của Phật giáo Trúc Lâm có giá trị cho tâm thức con người về
một cuộc sống tốt đẹp, và có sự ảnh hưởng tích cực đến đời sống xã hội và được
nhiều nhà nghiên cứu văn học trong và ngoài nước quan tâm tìm hiểu.
Xin cảm ơn ông!
180 PHỤ LỤC 5 - BIÊN BẢN PHỎNG VẤN SÂU
Nội dung phỏng vấn: Giá trị của Phật giáo Trúc Lâm thời Trần ở Bắc
Giang
Địa điểm phỏng vấn: Thiền viện Trúc Lâm Phượng hoàng
Thời gian phỏng vấn: 11h00-12h00
Ngày phỏng vấn: 28/10/2019 (01/10/ Kỷ Hợi)
Người được phỏng vấn: Phạm Thị Hoài
Chức vụ: Phật tử
Năm sinh: 1960
Nghề nghiệp: Nông dân
Địa chỉ: Xã Tiền Phong, Huyện Yên Dũng, tỉnh Bắc Giang
Câu 1: Bà tu tập ở Thiền viện từ bao giờ?
Trả lời:
Tôi tu ở đây từ năm 2015, đến nay đã được 4 năm rồi.
Câu 2: Bà đến Thiền viện tu tập thường đọc những loại kinh gì?
Trả lời:
Các bộ kinh của Phật giáo Trúc Lâm có nhiều, nhưng nhiều bộ dài và khó
nên chúng tôi đến đây thường tụng 2 loại chính đó là: Kinh A Di Đà và Kinh
Pháp Hoa.
Câu 3: Bà có thể nói rõ hơn chút về 2 loại kinh này được không?
Trả lời:
Đối với Kinh A Di Đà ai tụng kinh này sẽ được Đức Phật Di Đà đưa về cõi
Tây Phương Cực Lạc, cố gắng nhất tâm bất loạn để tự độ cho mình và sau độ
cho người khác. Còn tụng kinh Pháp Hoa sẽ có được vô lượng và công đức.
Câu 4: Ngoài 2 loại kinh đó bà còn đọc thêm loại kinh sách gì nữa không?
Ngoài ra, bên cạnh những hoạt động tụng kinh, thỉnh thoảng chúng tôi còn
phải đọc các loại sách như: Chư phẩm Kinh, Công văn tập, Thích khoa giáo.
181
Câu 5: Bà có thể cho biết rõ thêm về các loại sách này không?
Trả lời: Sách này thỉnh thoảng tôi mới đọc nên chưa thuộc lắm để trả lời
lúc này được, chỉ biết có nhiều bài kinh, bài văn sớ điệp, và nội dung về Phật
học.
Câu 6: Bà có thường xuyên thực hiện nghi thức Lục thời sám hối khoa nghi
không?
Trả lời:
Chúng tôi có biết về nghi thức Lục thời sám hối này, đây là nghi thức tụng
niệm sám hối sáu căn, nghi thức cơ bản của Thiền Trúc Lâm. Bình thường chỉ
có các thầy ở chùa thực hiện thôi, một ngày chia sáu thời để thực hiện, chứ Phật
tử như chúng tôi thì may ra một tháng đến chùa vào ngày Rằm hay mồng Một để
các thầy hướng dẫn thực hiện, chứ thực hiện nghi thức này mất thời gian cả
ngày, liên tục trong khi chúng tôi còn bận nhiều công việc khác.
Câu 7: Bà có thường xuyên thực hiện Thập thiện không?
Trả lời:
Chúng tôi luôn làm theo giới răn của nhà Phật, đó là thực hiện Thập thiện
thường xuyên, tu theo Thập thiện giúp cho chúng tôi không giết người, sát hại
sinh linh, trộm cắp, quan hệ bất chính với người ngoài, giúp thân, khẩu, ý thanh
tịnh từ đó không nói lời hung ác và nói lưỡi hai chiều, không thêu dệt, không mê
muội. Tuy nhiên việc nói dối, hờn giận hay tham muốn thì thỉnh thoảng chúng
tôi vẫn chưa thực hiện được hoàn chỉnh, vì trong nhiều hoàn cảnh vẫn để xảy
ra, nhưng rất ít, chúng tôi sẽ cố gắng hoàn thiện hơn việc tu thập thiện để có
nhân cách cao đẹp hơn, sống có đạo đức, làm cho xã hội tươi đẹp hơn nữa.
Câu 8: Việc tu thiền tại đây đã mang lại lợi ích gì cho bà?
Trả lời:
Trước đây, gia đình tôi xảy ra rất nhiều chuyện không hay, làm cho tôi
luôn mệt mỏi, đau đầu, tôi phải suy nghĩ rất nhiều, hay cáu giận, phiền não,
nhiều lúc chẳng muốn sống nữa vì quá bế tắc, sau đó tôi đến Thiền viện tu vài
tháng thấy đầu óc thanh thản hơn, ăn ngủ tốt, hết cảm giác đau đầu, cảm thấy
182 cuộc sống cân bằng hơn. Tu thiền có thể coi như là gia đình thứ hai của tôi,
giúp tôi vượt qua những khó khăn trong mọi hoàn cảnh.
Câu 9: Bà có tham gia các lễ hội của Phật giáo Trúc Lâm không?
Trả lời: Có chứ! Lễ hội nào mà tôi chả tham gia hằng năm, từ Vĩnh
Nghiêm, đến Am Vãi, rồi Tây Yên Tử.
Câu 10: Bà có thấy các lễ hội của Phật giáo Trúc Lâm có ảnh hưởng gì
đới đạo đức, lối sống của mình không?
Trả lời: Khi tham gia các lễ hội tôi thấy mình hòa nhập hơn với mọi người,
giúp tôi hiểu thêm được những phong tục tập quán từ xưa, nhớ về các vị sư tổ,
hiểu thêm về lịch sử, từ đó tôi thấy mình thêm lòng yêu nước, tự hào dân tộc,
đoàn kết và làm việc thiện nhiều hơn.
Xin cảm ơn bà!
183 PHỤ LỤC 6 - DANH SÁCH TĂNG - NI TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH BẮC GIANG
GHPGVN TỈNH BẮC GIANG
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
BAN TRỊ SỰ
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Bắc Giang, ngày tháng 5 năm 2017
DANH SÁCH TĂNG - NI TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH BẮC GIANG
Họ và Tên
STT
Quê quán
Địa chỉ Thường trú, chỗ ở
Giới tính
Năm sinh
Ghi chú
Dân tộc
Tên khai sinh
Tên gọi theo TG
Trình độ văn hóa
Trình độ học vấn
1 Nguyễn Long Biên Thích Thiện Văn
Nam
1959 Hưng Yên
Kinh
7/10
ĐH
2 Nguyễn Văn Dũng Thích Thanh Dũng
Nam
1933 Quế Võ, Bắc Ninh
Kinh
ĐH
Nguyễn Văn Dũng Thích Thanh Dũng
Nam
1973
Từ Sơn, Bắc Ninh
Kinh
12/12
ĐH
3
Trương Lý Vinh
Thích Tục Vinh
Nam
1971
Lý Nhân - Hà Nam
Kinh
7/12
TC
4
Phạm Văn Huyên
Thích Tục Huyên
Nam
1976
TP Bắc Ninh
Kinh
12/12
ĐH
5
6 Nguyễn Huy Chiến Thích Pháp Minh
Nam
1984
Kinh
12/12
7 Vũ Đình Tiến
Thích Pháp Tuệ
Nam
1985
Kinh
12/12
TC
8 Nguyễn Huy Chiến Thích Minh Kiên
Nam
1995
Kinh
12/12
TC
Tân Yên, Bắc Giang Việt Yên, Bắc Giang Tân Yên, Bắc Giang
Chùa Hồng Phúc, phường Trần Nguyên Hãn, TP. Bắc Giang Chùa Mỹ Độ, phường Mỹ Độ, TP. Bắc Giang Chùa Dền, phường Lê Lợi, TP. Bắc Giang Chùa Bổ Đà, Tiên Sơn, huyện Việt Yên Chùa Bổ Đà, Tiên Sơn, huyện Việt Yên Chùa Ích Minh, xã Hương Mai, huyện Việt Yên Chùa Ích Minh, xã Hương Mai, huyện Việt Yên Chùa Ích Minh, xã Hương Mai, huyện Việt Yên
9
Chử Thị Bích
Thích Tịnh Ngọc
Nữ
1962
Kinh
12/12
TC
184 Vạn Phúc, Thanh Trì, Hà Nội
10 Đỗ Thị Lý
Thích Đàm Lý
Nữ
1965
Kim Sơn, Hà Nam
Kinh
10/10
CĐ
11 Nguyễn Thị Long
Thích Đàm Trang
Nữ
1963
Kinh
Xuân Cẩm, Hiệp Hòa
12 Nguyễn Thị Thùy
Thích Diệu Phúc
Nữ
1977
Gia Lâm, Hà Nội
Kinh
12/12
13 Nguyễn Thị Sung
Thích Đàm Tuệ
Nữ
1949
Đông Anh, Hà Nội
Kinh
14 Ngọ Thị Quảng
Thích Đàm Thảo
Nữ
1970
Sóc Sơn, Hà Nội
Kinh
15 Tạ Thị Thanh
Thích Đàm Liên
Nũ
Khả Lý, Việt Yên
Kinh
16 Lê Thị Hoa
Thích Đàm Tiến
Nữ
1952
Kinh
4/7
Chùa Thường Thượng, thôn Tiên Tiến, huyện Hiệp Hòa Chùa Linh Sóc, thôn Tiến Bộ, huyện Hiệp Hòa Chùa Linh Quang, thôn Phúc Linh, huyện Hiệp Hòa Chùa Đông Lâm, thôn Đông Lâm, huyện Hiệp Hòa Chùa Nga Trại, thôn Nga Trại, huyện Hiệp Hòa Chùa Nga Trại, thôn Nga Trại, huyện Hiệp Hòa Chùa Nội Hương, thôn Nội Hương, huyện Hiệp Hòa Chùa Chả, thôn Văn Tự, huyện Hiệp Hòa
17 Nguyễn Thị Liên
Thích Hạnh Lệ
Nữ
1982
Chùa Đức Thịnh
Kinh
Khánh Hải, Yên Khánh, Ninh Bình
Đang làm hồ sơ
18 Đỗ Thị Hằng
Thích Đàm Nghiêm
Nữ
1971
Kinh
8/10
Phúc Linh, Hương Lâm, Hiệp Hòa
Chùa Nguyễn, Mai Đình, Hiệp Hòa
19 Lê Thị Hoa
Thích Chân Thắng
Nữ
1974
Quảng Trị
Kinh
12/12
Chùa Mai Trung, huyện Hiệp Hòa
20
Phạm Thị Hiền
Thích Đàm Nghiêm
Nữ
1975
Kinh
12/12
Chùa Bảo San, Thôn San, Hiệp Hòa
Nghĩa Thắng, Nghĩa Hưng, Nam Định
Thích Thanh Phương
Nam
1969
Kinh
12/12
TC
21
Yên Phong, Bắc Ninh
Chùa Đống, thôn Ngọ Xá, Hiệp Hòa
Đang làm hồ sơ Đang làm hồ sơ ko phải sư
Thích Tịnh Hòa
Nam
1977
Nam Định
Kinh
22
23 Nguyễn Thị Tuyển Thích Nữ Trí Hiền
Nữ
1984
Kinh
Thích Đạo Ngộ
Nam
Huyện Xuyên Mộc, tỉnh Bà rịa vũng tàu Vĩnh Phúc
Chùa Xác, thôn Mai Thượng, huyện Hiệp Hòa Chùa Tân Kết, xã Đức Thắng, huyện Hiệp Hòa Chùa Phổ Ninh, thôn Xuân Quả,
Kinh
24
ko hợp lệ ko hợp
185
lệ
25 Tống Thị Thắng
Thích Đàm Lợi
Nữ
1957
Thái Bình
Kinh
Lương Phong, huyện Hiệp Hòa Chùa Thanh Quốc, thôn Đông Trước, huyện Hiệp Hòa
26
Phan Văn Long
Thích Giáp Thọ
Nam
1980
TP. Hồ Chí Minh
Chùa Mai Hạ, thôn Mai Hạ, HH
Kinh
9/12
27 Hồ Thị Mai
Thích Nữ Chơn Diệu
Nữ
1972
Kinh
12/12
Gio Linh, Quảng Trị
Chùa Trung Hòa, thôn Trung Hòa, HH
28 Hồ Thị An
Thích Nữ Hòa Tánh
Nữ
1950
Kinh
29 Tạ Thị Thoan
Thích Nữ Tâm Khiêm
Nũ
1988
Kinh
12/12
30 Mai Quới Hai
Thích Đạo Tông
Nam
1967
Kinh
12/12
Phường Minh Tân, TP Vinh, Nghệ An Sông Lô, Vĩnh Phúc Long Mỹ, Hậu Giang
Chùa Xuân Giang, thôn Xuân Giang, HH Chùa Mai Phong, thôn Mai Phong, HH Chùa Mai Phong, thôn Mai Phong, HH
Nữ
1979
Bình Thuận
31
Kinh
12/12
Nguyễn Thị Mỹ Hạnh
Thích Nữ Đồng Nguyện
Chùa Cẩm Trang, thôn Cẩm Trang, HH
32
Thích Nữ Huệ Lý
Nữ
1966
Quảng Trị
Kinh
12/12
Trần Thị Diều Huyền
Chùa Cẩm Bào, thôn Cẩm Bào, HH
33 An Thị Yến
Thích Hải Yến
Nữ
1977
Bắc Lý, Hiệp Hòa
Kinh
12/12
Chùa Cẩm Hoàng, thôn Cẩm Hoàng, HH
34 Vũ Thị Hồng
Thích Thường Lạc
Nữ
1966
Ý Yên, Nam Định
Kinh
Chùa Cẩm Xuyên, Xuân Cẩm, HH
BTVH 12
35 Nguyễn Thị Vân
Thích Huệ Viên
1977
Quốc Oai, Hà Nội
Chùa Ninh Tào, HH
Kinh
12/12
Nữ
36
Thích Đàm Đạo
Chùa Đại Bi, Hương Ninh, HH
Nữ
ko còn ở chùa Đang làm hồ sơ ko hợp lệ ko hợp lệ ko hợp lệ Đang làm hồ sơ Đã giao lại chùa Đang làm hồ sơ Đang làm hồ sơ ko hợp lệ
37 Nguyễn Văn Bảo
Thích Nguyên Hòa
Nam
1978
Đồng Cũ, Bắc Lý
Chùa Cả, Đồng Cũ, HH
Kinh
12/12
38 Trần Thị Liên
Thích Đàm Xuân
Nữ
1971 Mỹ Lộc, Nam Định Chùa Chợ, Bắc Lý, HH
Kinh
10/12
39 Cao Thị Lạp
Thích Nguyên Trang
Nữ
1972
Chùa An Lập, HH
Kinh
12/12
40
Thích Nguyên Bích
Nữ
1973
Chùa Trại, Phú Thuận, HH
Kinh
12/12
Nguyễn Thị Ngọc Anh
ko hợp lệ ko hợp lệ
41 Lễ Văn Vững
Thích Tách An
Nam
1974
Kinh
12/12
42 Trần Đình Khuê
Thích Giác Đính
Nam
1950
Kinh
10/10
TC
43 Lý Thị Hà
Thích Nữ Đàm Thoa
Nữ
1969
Kinh
10/10
ĐH
44 Nguyễn Thị Nụ
Thích Đàm Đạo
Nữ
1937
Kinh
7/10
45 Nguyễn Văn Nam
Thích Thanh Ánh
Nam
1975
Kinh
12/12
186 Hải Lăng, Quảng Trị Xuyên Mọc, tỉnh Bà rịa vũng tàu Triệu Phong, Quảng Trị Diễn Châu, Nghệ An Kim Động, Hưng Yên Nam Sách, Hải Dương Dĩnh Trì, TP. Bắc Giang
46 Nguyễn Thị Minh
Thích Đàm Minh
Nữ
1952
Tân Độ
Kinh
7/10
Chùa Minh Xuân, Bản Mỏ, Yên Thế Chùa Gia Tiến, xã Tân Trung, Tân Yên Chùa Non Đào, xã Hợp Đức, huyện Tân Yên Chùa Kim Tràng, Việt Lập, huyện Tân Yên Chùa Hồng Phúc, TT. Kép, Lạng Giang Chùa Tân Độ (chùa Nao), huyện Yên Dũng
47 Nguyễn Thị Lý
Thích Đàm Lai
Nữ
1949
Chùa Liễu Đê, huyện Yên Dũng
Kinh
48 Ngô Thị Bình
Thích Đàm Bình
Nữ
1953
Kinh
7/10
49 Lê Thị Nữ
Thích Nữ Thiền Đạo
Nữ
1968
Chùa Âm Hồn, xã Tư Mại, huyện Yên Dũng Chùa Bùi Bến, huyện Yên Dũng
Kinh
12/12
Hoàng Ninh, Việt Yên Chí Linh, Hải Dương Quảng Trị
50 Nguyễn Văn Minh Thích Đức Huệ
Nam
1988
Quế Võ, Bắc Ninh
Chùa Đèo, Nội Hoàng, Yên Dũng Kinh
12/12
51 Đặng Thị Như
Thích Đàm Lương
Nữ
1976
Bình Lục, Hà Nam Chùa Dâu, Nội Hoàng, Yên Dũng Kinh
7/10
52
Thích Đàm Minh
Nữ
1952
Yên Dũng, BG
Kinh
Chùa Tân Độ, xã Tân Liễu, Yên Dũng
53 Dương Bôi
Thích Huệ Tâm
Nam
Quảng Nam
Chùa Minh Phượng, Yên Dũng
Kinh
8/12
ko có hồ sơ quản lý
54 Thân Thị Thịnh
Thích Đàm Nguyệt
Nữ
1963
Chùa Thôn Kem, Yên Dũng
Kinh
7/10
55 Ngô Thị Túc
Thích Đàm Nhật
Nữ
1969
Tiền Phong, Yên Dũng Lục Ngạn, Bắc
Chùa Thôn Kem, Yên Dũng
Kinh
4/10
187
Giang
56 Triệu Tiến Tô
Thích Thanh Vịnh
Nam
1975
An Hà, Lạng Giang Chùa Vĩnh Nghiêm, Yên Dũng
Kinh
12/12
ĐH
57 Hoàng Văn Hồng
Thích Thanh Nhiên
Nam
1959
Yên Dũng, BG
Chùa Vĩnh Nghiêm, Yên Dũng
Kinh
7/10
SC
58 Dương Thị Liên
Thích Diệu Bình
Nữ
1957
Đông Anh, Hà Nội
Kinh
59 La Thị Đàm
Thích Nữ Đàm Nguyện
Nữ
1967
Kinh
7/10
ko hợp lệ ko hợp lệ
60 Cao Thị Ý
Thích Đàm Đương
Nữ
1953
Kinh
7/10
TC
Sàng Bến, Tân Quang, Lục Ngạn Kiến Thụy, Hải Phòng
61 Ngọc Thị Lan
Thích Minh Thảo
Nữ
1992
Sơn Động, BG
Kinh
8/12
TC
62 Vũ Thị Hoan
Thích Đàm Nhiên
Nữ
1968
Kinh
10/10
63 Bùi Thị Yến
Thích Minh Hiền
Nữ
1996
Kinh
Trực Ninh, Nam Định Kiến Thụy, Hải Phòng
64 Đàm Ngọc Lan
Thích Minh Hòa
1997
Lạng Sơn
Kinh
Nữ
65 Nguyễn Thị Hòa
Thích Đàm Bình
Chùa Hương Vũ, Thôn Chể, Lục Ngạn Chùa Sàng Bến, xã Tân Quang, huyện Lục Ngạn Chùa Hoàng Mai, Hoàng Ninh, huyện Việt Yên Chùa Hoàng Mai, Hoàng Ninh, huyện Việt Yên Chùa Hoàng Mai, Hoàng Ninh, huyện Việt Yên Chùa Hoàng Mai, Hoàng Ninh, huyện Việt Yên Chùa Hoàng Mai, Hoàng Ninh, huyện Việt Yên Chùa My Điền
Kinh
Nữ
66 Trần Văn Mạnh
Thích Chiếu Hương
Nam
1972
Chùa Phúc Lâm, Việt Yên
Kinh
12/12
TC
67 Hoàng Việt Hùng
Thích Nhật Đức
Nam
1978
Chùa Phúc Lâm, Việt Yên
Kinh
12/12
ĐH
Hoàng Ninh, Việt Yên Đông Hà, Quảng Trị
68 Hoàng Thị Cậy
Thích Đàm Phương
TT. Nếnh
Chùa Nếnh, Việt Yên
Kinh
Nữ
69 Nguyễn Thị Trang
Thích Đàm Trang
Lạng Sơn
Chùa Hữu Nghị, huyện Việt Yên
Kinh
Nữ
70 Nguyễn Văn Đà
Thích Đức Vũ
Nam
1997
Chùa Tăng Tiến, huyện Việt Yên
Kinh
12/12
TC
71
Phạm Đức Kửu
Thích Đức Hoàn
Nam
1974
Chùa Tăng Tiến, huyện Việt Yên
Kinh
12/12
TC
Thủy Nguyên, Hải Phòng Hưng Hà, Thái Bình
188
72
Phùng Mạnh Long Thích Đức Minh
Nam
1976
Quốc Oai, Hà Nội
Chùa Tăng Tiến, huyện Việt Yên
Kinh
12/12
TC
73 Nguyễn Văn Trang Thích Đức Cương
Nam
1992
Yên Lập, Phú Thọ
Chùa Tăng Tiến, huyện Việt Yên
Kinh
12/12
TC
74
Phạm Lê Khôi
Thích Đức Khôi
Nam
1985
Chùa Tăng Tiến, huyện Việt Yên
Kinh
12/12
TC
Tân Yên, Bắc Giang
75 Bùi Văn Tiến
Thích Nguyên Long
Nam
1981
Thanh Hoa, Hà Nội Chùa Tăng Tiến, huyện Việt Yên
Kinh
12/12
ĐH
76 Trần Văn Trọng
Thích Nguyên Toàn
Nam
1976
Hải Hậu, Nam Định Chùa Tăng Tiến, huyện Việt Yên
Kinh
12/12
ĐH
77
Thích Nữ Tịnh Nhơn
Nữ
1982
Chùa Nam Ngạn, Việt Yên
Kinh
12/12
ĐH
Nguyễn Thị Ánh Trang
78 Đoàn Thị Huế
Thích Nữ Hiền Minh
Nữ
1982
Chùa Nam Ngạn, Việt Yên
Kinh
12/12
ĐH
ko hợp lệ ko hợp lệ
79 Đỗ Văn Phương
Thích Thanh Hiển
Nam
1976
Kinh
12/12
ĐH
Triều Phong, Quảng Trị Triều Phong, Quảng Trị Việt Yên, Bắc Giang
Chùa Quang Biểu, huyện Việt Yên
80 Nguyễn Thị Nhơn
Nữ
Quảng Trị
Chùa Nam Ngạn
ko hợp lệ
81 Nguyễn Thị Minh
Quảng Trị
Chùa Nam Ngạn
82 Nguyễn Minh Huy Thích Minh Huy
Nam
1981
Nam Định
Chùa Vân Cốc
Kinh
12/12
ĐH
ko hợp lệ ko có ở chùa
83 Nguyễn Thị Thu
Thích Nữ Minh Tâm
Nữ
1982
Chùa Trúc Tay, huyện Việt Yên
Kinh
12/12
Triệu Phong, Quảng Trị
84 Nguyễn Văn Ích
Thích Trí Trân
Nam
1985
Thái Bình
Chùa Vân Cốc
Kinh
12/12
ĐH
85 Vũ Văn Hòa
Thích Thanh Hòa
Nam
1957
Chùa Vân Cốc
Kinh
10/10
ĐH
ko có ở chùa ko có ở chùa
86 Nguyễn Văn Thống Thích Minh Quyết
Nam
1977
Kinh
10/10
TC
Chùa Trung Đồng, huyện Việt Yên
87 Ngô Thị Thúy
Thích Diệu Minh
Nữ
1981
Chùa Vân Hà, huyện Việt Yên
Kinh
12/12
TC
Việt Yên, Bắc Giang Song Mai, TP. Bắc Giang Tiền An, TP.Bắc Ninh
189
88 Nguyễn Thị Lợi
Thích Đàm Tâm
Nữ
1956
Chùa Cầu, huyện Việt Yên
Kinh
4/10
Dĩnh Trì, Lạng Giang
chuyển đến chùa Hạc Lâm, HH
89 Trần Thị Dậu
Thích Đàm Tịch
Nữ
1967
Chùa Cầu, huyện Việt Yên
Kinh
7/10
90 Đỗ Thị Nhung
Thích Đàm Hướng
Nữ
1956
Chùa Bổ Đà, huyện Việt Yên
Kinh
7/12
TC
91 Tạ Thị Thơm
Thích Minh Nguyên
Nữ
1974
Kinh
7/10
TC
92 Nguyễn Thị Tuân
Thích Đàm Nguyện
Nữ
1964
Kinh
7/10
TC
Kim Thành, Hải Dương Hoàng Ninh, Việt Yên Hiệp Hòa, Bắc Giang Yên Phong, Bắc Ninh
93 Nguyễn Thị Liên
Thích Đàm Thuấn
Nữ
1962
Tiên Du, Bắc Ninh
Kinh
10/10
ĐH
94
Phan Thanh Văn
Thích Huệ Chánh
Nam
1978
Đồng Nai
Kinh
12/12
CĐ
Chùa Thạch Long, huyện Việt Yên Chùa Thạch Long, xã Tiên Sơn, huyện Việt Yên Chùa Phổ Am, TT. Bích Động, huyện Việt Yên Chùa Ngân Phúc, xã Minh Đức, huyện Việt Yên
95 Nguyễn Thị Hải
Thích Nữ Diệu Hải
Nữ
Kinh
Chùa Kẻ, xã Quảng Minh, Việt Yên
96 Trần Thị Thu
Thích Nữ Minh Tâm
Nữ
1958
Kinh
12/12
Phường 10, TP. Đà Lạt
Chùa Sùng Nghiêm, xã Hồng Thái, Việt Yên
97 Lê Mỹ Thiện
Nữ
1972
Quảng Trị
98 Vũ Đình Kiệt
Nam
1975
Đồng Nai
Chùa Dĩnh Sơn, xã Trung Sơn, Việt Yên Chùa Yên Liễn, xã Nghĩa Trung, Việt Yên
Sadi ko dc nhận chùa riêng Đang thử thách ko hợp lệ ko hợp lệ
99 Nguyễn Thị Tiền
Thích Đàm Tuyến
Nữ
1979
Chùa Kế, TP.Bắc Giang
Kinh
12/12
TC
100 Nguyễn Thị Sửu
Thích Đàm Tiến
Nữ
1949
Chùa Phụng Pháp, TP.Bắc Giang
Kinh
7/10
TC
101 Nguyễn Thị Lan
Thích Đàm Đức
Nữ
1956
Chùa Song Khê, TP. Bắc Giang
Kinh
10/10
Lục Nam, Bắc Giang Vĩnh Bảo, Hải Phòng Vân Dương, Bắc
190
Ninh
102 Trần Thị Châm
Thích Đàm Luyện
Nữ
1973
Từ Liêm, Hà Nội
Kinh
12/12
Chùa Liêm Xuyên, TP. Bắc Giang
đã trả chùa
103 Lê Đàm Văn
Thích Đàm Văn
Nam
1952
Hà Đông, Hà Nội
Chùa Yên Khê, TP.Bắc Giang
Kinh
4/12
đã mất
Kinh
7/10
TC
104 Lương Thị Hằng
Thích Đàm Nghiêm
Nữ
1949
Kinh
7/10
TC
105 Lương Thị Trang
Thích Đàm Trang
Nữ
1958
Kinh
12/12
ĐH
106 Nguyễn Văn Tuyên Thích Thanh Tuấn
Nam
1977
Kinh
12/12
TC
107 Nguyễn Thị Ninh
Thích Tâm Thiện
Nữ
1983
Hữu Lũng, Lạng Sơn Hữu Lũng, Lạng Sơn Yên Dũng, Bắc Giang Lạng Giang, Bắc Giang
Chùa Diên Khánh, xã Đồng Sơn, TP.Bắc Giang Chùa Diên Khánh, xã Đồng Sơn, TP.Bắc Giang Chùa Vẽ, Phường Thọ Xương, TP.Bắc Giang Chùa Hồng Phúc, Phường Trần Nguyên Hãn, TP. Bắc Giang
Kinh
108 Nguyễn Thị Cao
Thích Đàm Ý
Nữ
Kinh
12/12
109 Nguyễn Thị Di
Nữ
1983
ko hợp lệ
Chùa Văn Sơn, xã Tân Tiến, TP.Bắc Giang Chùa Di, xã Vô Tranh, huyện Lục Nam
Kinh
12/12
110 Nguyễn Thị Lũy
Thích Nữ Nguyên Tâm
Nữ
1976
111 Nguyễn Thị Kim
Thích Đàm Thiện
Nữ
1971
Kinh
12/12
ĐH
Lục Nam, Bắc Giang Quảng Điền, TT.Huế Yên Phong, Bắc Ninh
112 Đỗ Thị Lan
Thích Đàm Quyết
Nữ
1965
Phú Xuyên, Hà Nội
Kinh
7/10
Kinh
12/12
CĐ
113 Phạm Văn Hùng
Thích Nguyễn Trí
Nam
1979
Kinh
12/12
TC
114 Chung Hùng Sơn
Thích Minh Bảo
Nam
1991
Kinh
12/12
TC
115 Đặng Nhân Trung
Thích Minh Quân
Nam
1982
Triệu Hải, Quảng Trị Ninh Kiều, Cần Thơ Long Mỹ, Hậu Giang
ko hợp lệ ko hợp lệ
Chùa Chàng, TT. Đồi Ngô, huyện Lục Nam Chùa Mười Lăm, xã Yên Sơn, huyện Lục Nam Chùa Khám Lạng, xã Khám Lạng, huyện Lục Nam Chùa Đọ, xã Cương Sơn, huyện Lục Nam Chùa Đọ, xã Cương Sơn, huyện Lục Nam
116 Nguyễn Thị Huề
Thích Đàm Thủy
Nữ
1960
Gia Bình, Bắc Ninh
Kinh
7/10
TC
Chùa Tè, xã Cương Sơn, huyện Lục Nam
191
117 Nguyễn Thị Minh
Thích Đàm Minh
Nữ
1952
Chùa Nao, Đức Giang, Yên Dũng Kinh
118
Thích Đàm Lý
Nữ
1964
Chùa Đèo, Nội Hoàng, Yên Dũng Kinh
119 Lê Văn Lợi
Thích Trúc Thành Trí
Nam
1939
Bình Thuận
Thiền viện Tây Thiên, Vĩnh Phúc
Kinh
120 Nguyễn Văn Hốp
Thích Minh Hiển
Nam
1947
Bình Thuận
Thiền viện Tây Thiên, Vĩnh Phúc
Kinh
Ban Hưng công Thiền viện Trúc Lâm Phượng Hoàng
121 Nguyễn Văn Việt
Thích Huệ Hùng
Nam
1986
Hà Nội
Thiền viện Tây Thiên, Vĩnh Phúc
Kinh
122 Phan Huy Hà
Thích Huệ Thanh
Nam
1975
Hà Nội
Thiền viện Tây Thiên, Vĩnh Phúc
Kinh
TM. BTS GHPGVN TỈNH BẮC GIANG
TRƯỞNG BAN (đã ký) Thượng tọa. Thích Thiện Văn
192 PHỤ LỤC 7
KHÓA TU TẠI THIỀN VIỆN TRÚC LÂM PHƯỢNG HOÀNG
Nguồn: Thiền viện Trúc Lâm Phượng Hoàng
193 PHỤ LỤC 8 - ẢNH
Chùa Vĩnh Nghiêm xã Trí Yên, huyện Yên Dũng, tỉnh Bắc Giang (Ảnh NCS)
Chùa Vĩnh Nghiêm xã Trí Yên, huyện Yên Dũng, tỉnh Bắc Giang (Ảnh NCS)
194
Khu trưng bày Mộc bản tại chùa Vĩnh Nghiêm (Ảnh NCS)
Mộc bản chùa Vĩnh Nghiêm được trưng bày (Ảnh NCS)
195
Những bản sách được in bằng mộc bản (Ảnh NCS)
Lễ đón nhận bằng xếp hạng di tích quốc gia đặc biệt chùa Vĩnh Nghiêm năm
2016 (Ảnh NCS)
196
Người dân đang lễ bái tại chùa Vĩnh Nghiêm (Ảnh NCS)
Lễ hội chùa Vĩnh Nghiêm năm 2018 (Ảnh NCS)
197
Khu thờ tượng Tam tổ Trúc Lâm tại chùa Vĩnh Nghiêm
198
Hiện vật khai quật chùa Yên Mã xã Bắc Lũng, huyện Lục Nam (Ảnh NCS)
Giếng nước cổ chùa Yên Mã xã Bắc Lũng, huyện Lục Nam (Ảnh NCS)
199
Chân tảng đá hoa sen thời Trần chùa Yên Mã (Ảnh NCS)
Chùa Am Vãi (huyện Lục Ngạn) (Ảnh NCS)
200
Bảng lịch sử chùa Am Vãi huyện Lục Ngạn (Ảnh NCS)
201
“Bàn chân Phật” trên đỉnh núi chùa Am Vãi (Ảnh NCS)
Lá đề có hình rồng thời Lý chùa Đám Trì, xã Lục Sơn, huyện Lục Nam, tỉnh
Bắc Giang (Ảnh NCS)
202
Vách đá khắc 3 chữ “Động Thanh Thủy” bằng Hán tại Bình Long tự trên dãy
núi Huyền Đinh, xã Huyền Sơn, huyện Lục Nam (Ảnh NCS)
Bức tường chùa Bình Long tự kè bằng đá gan trâu (Ảnh NCS)
203
Ảnh NCS đang ăn cơm chay cùng các Phật tử tại chùa Ba Vàng, tỉnh Quảng
Ninh
204
Ảnh NCS khảo sát tại chùa Đồng, tỉnh Quảng Ninh
205
Ảnh NCS Khảo sát tại Khu du lịch Sinh thái - Tâm linh Tây Yên Tử
16/2/2019 (huyện Sơn Động)
Ảnh các tín đồ đang tu thiền tại Thiền viện Trúc lâm Phượng Hoàng ngày mồng
Một Tết Kỷ Hợi 2019 tại xã Nham Sơn, Yên Dũng, Bắc Giang (Ảnh NCS)