HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

BẠCH THANH SANG

HỘI ĐOÀN KẾT SƯ SÃI YÊU NƯỚC

VÙNG TÂY NAM BỘ

LUẬN ÁN TIẾN SĨ

CHUYÊN NGÀNH: TÔN GIÁO HỌC

HÀ NỘI - 2020

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

BẠCH THANH SANG

HỘI ĐOÀN KẾT SƯ SÃI YÊU NƯỚC

VÙNG TÂY NAM BỘ

LUẬN ÁN TIẾN SĨ

CHUYÊN NGÀNH: TÔN GIÁO HỌC

Mã số: 9229009 (Cũ: 62220309)

Người hướng dẫn khoa học: PGS,TS LÊ VĂN LỢI

HÀ NỘI - 2020

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu,

kết quả nêu trong luận án là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng và được trích

dẫn đầy đủ theo quy định.

Tác giả

Bạch Thanh Sang

Trang 1 9

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI 1.1. Nhóm công trình nghiên cứu liên quan đến dân tộc, tôn giáo vùng Tây

Nam Bộ

9

1.2. Nhóm công trình nghiên cứu mang tính chuyên sâu về Phật giáo Nam

13

tông Khmer

1.3. Nhóm công trình liên quan đến tổ chức Phật giáo và Hội Đoàn kết sư

sãi yêu nước

15 20 25

27 27

1.4. Câu hỏi, giả thuyết và lý thuyết nghiên cứu 1.5. Một số thuật ngữ sử dụng trong luận án Chương 2: QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN VÀ TÍNH CHẤT, CHỨC NĂNG, NHIỆM VỤ CỦA HỘI ĐOÀN KẾT SƯ SÃI YÊU NƯỚC VÙNG TÂY NAM BỘ 2.1. Khái quát Phật giáo Nam tông Khmer vùng Tây Nam Bộ 2.2. Quá trình hình thành và phát triển của Hội Đoàn kết sư sãi yêu nước vùng

Tây Nam Bộ

43

2.3. Tính chất và chức năng, nhiệm vụ của Hội Đoàn kết sư sãi yêu nước

55

vùng Tây Nam Bộ

63 63 85 98

101

Chương 3: THỰC TRẠNG HỘI ĐOÀN KẾT SƯ SÃI YÊU NƯỚC VÙNG TÂY NAM BỘ VÀ VẤN ĐỀ ĐẶT RA HIỆN NAY 3.1. Thực trạng Hội Đoàn kết Sư sãi yêu nước vùng Tây Nam Bộ 3.2. Đánh giá ưu điểm, hạn chế và nguyên nhân 3.3. Một số vấn đề đặt ra hiện nay Chương 4: QUAN ĐIỂM, GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ NHẰM PHÁT HUY VAI TRÒ TÍCH CỰC CỦA HỘI ĐOÀN KẾT SƯ SÃI YÊU NƯỚC VÙNG TÂY NAM BỘ 4.1. Dự báo các xu hướng tác động đến Hội Đoàn kết Sư sãi yêu nước vùng

101 115

Tây Nam Bộ 4.2. Một số quan điểm 4.3. Những giải pháp cơ bản nhằm phát huy vai trò tích cực của Hội Đoàn

kết sư sãi yêu nước vùng Tây Nam Bộ

4.4. Kiến nghị

126 139

149

151 152 162

KẾT LUẬN DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ CÓ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤ LỤC

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

BTSPG : Ban Trị sự Phật giáo

GHPGVN : Giáo hội Phật giáo Việt Nam

Hội ĐKSSYN : Hội Đoàn kết sư sãi yêu nước

HĐND : Hội đồng nhân dân

MTDTGP : Mặt trận Dân tộc Giải phóng

MTDTGPMNVN : Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam Việt Nam

PGNTK : Phật giáo Nam tông Khmer

PGNT : Phật giáo Nam tông

UBĐKCG : Ủy ban Đoàn kết Công giáo

UBND : Ủy ban nhân dân

UBMTTQVN : Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam

UBTWMTTQVN : Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam

DANH MỤC CÁC BẢNG

Trang

Bảng 3.1: Số lượng Tăng sĩ từ 1975 đến 6/1998 67

Bảng 3.2: Kết quả khảo sát tiêu chí trong cộng đồng người Khmer 92

1

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Tin theo tôn giáo nói chung, Phật giáo nói riêng là nhu cầu tinh thần của

một bộ phận Nhân dân và có ảnh hưởng sâu sắc đến các lĩnh vực của đời sống

xã hội. Năm 1963, cùng với phong trào cách mạng của Nhân dân miền Nam,

phong trào yêu nước của Tăng, Ni, Phật tử đã bùng nổ thành phong trào Phật

giáo rộng lớn ở miền Nam - Việt Nam. Chính quyền Sài Gòn tiến hành đàn áp

phong trào Phật giáo, càn quét, bắt giam Tăng, Ni và Phật tử yêu nước; đồng

thời, cho lập nên Giáo hội Phật giáo Khemaranikay và Giáo hội Phật giáo

Theravada nhằm thực hiện ý đồ chính trị; lừa mị quần chúng, khống chế

Tăng, Ni, Phật tử nói chung, Tăng sĩ và Phật tử Khmer ở miền Nam nói riêng.

Trước tình hình diễn biến phức tạp, Khu ủy Tây Nam Bộ chủ trương

thành lập “Hội Đoàn kết Sư sãi yêu nước” trong cộng đồng người Khmer

vùng Tây Nam Bộ nhằm tập hợp, đoàn kết, vận động các Tăng sĩ và Phật tử

Khmer ủng hộ, tham gia đấu tranh chống lại chính quyền tay sai, phản động ở

miền Nam. Năm 1964, Hội Đoàn kết sư sãi yêu nước (ĐKSSYN) khu Tây Nam

Bộ chính thức được thành lập và hoạt động với tư cách là tổ chức thành viên của

Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam Việt Nam (MTDTGPMNVN). Tiếp

theo đó, các tổ chức Hội ĐKSSYN cấp tỉnh và cấp huyện lần lượt được hình

thành và hoạt động dưới sự lãnh đạo, hướng dẫn, giúp đỡ trực tiếp của Ban

Khmer vận cùng cấp.

Giai đoạn 1964 -1975, Hội ĐKSSYN đã tập hợp, đoàn kết được các vị

Tăng sĩ và Phật tử Khmer tích cực tham gia các phong trào kháng chiến chống

Mỹ cứu nước. Sự ra đời của Hội ĐKSSYN vùng Tây Nam Bộ được xem là

một tất yếu của lịch sử, phản ánh sự khát vọng độc lập, thống nhất đất nước

của các vị Tăng sĩ và Phật tử Khmer ở Nam Bộ. Tính chất hoạt động của Hội

ĐKSSYN trong giai đoạn này vừa là tổ chức chính trị, vừa là tổ chức xã hội

của giới Tăng sĩ và Phật tử Khmer. Hội ĐKSSYN hoạt động như một tổ chức

đoàn thể chính trị - xã hội; nội dung và phương thức hoạt động chủ yếu là

2

tuyên truyền, vận động Tăng sĩ và Phật tử Khmer tham gia, ủng hộ phong trào

đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước.

Sau giải phóng, Ban Chấp hành Trung đảng Lao động Việt Nam tiến hành

Hội nghị lần thứ XXVI bàn về “nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam trong giai

đoạn mới”; ngày 29/9/1975, Hội nghị thống nhất ban hành Nghị quyết số 247-

NQ/TW; quyết định: “Giải thể Trung ương Cục miền Nam, giải thể các Khu ủy

ở cả hai miền…”; theo đó, Khu ủy Tây Nam Bộ cùng với các tổ chức trực thuộc

kết thúc nhiệm vụ lịch sử và chấm dứt hoạt động. Tuy nhiên, do sự tồn tại

khách quan, Hội ĐKSSYN tại một số địa phương vẫn tiếp tục phát huy truyền

thống yêu nước, tập hợp Tăng sĩ và Phật tử Khmer tham gia khắc phục hậu

quả chiến tranh, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; đặc biệt là việc duy trì hoạt

động của Phật giáo Nam tông Khmer (PGNTK) trong những năm đầu khi đất

nước mới giải phóng.

Năm 1981, thể theo nguyện vọng của đa số các vị chức sắc, Tăng, Ni và

Phật tử cả nước, Ban Vận động thống nhất Phật giáo Việt Nam đã tổ chức Đại

hội đại biểu Phật giáo toàn quốc lần thứ nhất, thành lập Giáo hội Phật giáo

Việt Nam (GHPGVN); theo đó, mặc dù Hội ĐKSSYN khu Tây Nam Bộ đã

chấm dứt hoạt động nhưng do một số địa phương vẫn còn duy trì tổ chức này

nên đã đại diện cho PGNTK vùng Tây Nam Bộ tham gia thống nhất việc thành

lập và tự nguyện hoạt động trong ngôi nhà chung của GHPGVN.

Từ năm 1989, sau khi đã ổn định tình hình và tư tưởng đối với một bộ

phận Tăng sĩ và Phật tử Khmer qua một số vụ việc liên quan đến tình hình

an ninh chính trị trong vùng đồng bào Khmer và vùng biên giới Tây Nam

sau những năm mới giải phóng, thống nhất đất nước; đồng thời, nhận thức

được vị trí, vai trò của Tăng sĩ Khmer nói chung; Hội ĐKSSYN nói riêng

qua quá trình lịch sử đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước.

Ngày 18/4/1991, Ban Bí thư Trung ương Đảng (khóa VI) ban hành Chỉ thị

số 68-CT/TW về công tác ở vùng đồng bào Khơ-me, trong đó đề ra chủ

trương: “lập Hội Đoàn kết Sư sãi yêu nước hoặc các hình thức tổ chức

3

thích hợp để động viên và phát huy truyền thống yêu nước của sư sãi góp phần vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” [13, tr.04]. .

Thực hiện chủ trương của Ban Bí thư; đến nay, có 8/13 tỉnh, thành phố

vùng Tây Nam Bộ có chùa PGNTK đã củng cố, kiện toàn Hội ĐKSSYN

nhằm động viên và phát huy truyền thống yêu nước của Tăng sĩ và Phật tử

Khmer góp phần vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trong hoạt động

tôn giáo, hầu hết các vị lãnh đạo Hội ĐKSSYN đều giữ các vị trí lãnh đạo

quan trọng trong hệ thống tổ chức của GHPGVN. Do vậy, mối quan hệ phối

hợp giữa Ban Trị sự Phật giáo (BTSPG) và Hội ĐKSSYN ở các địa phương

diễn ra khá thuận lợi.

Tuy nhiên, sau năm 1975, Đảng đã có chủ trương chấm dứt hoạt động

Khu ủy Tây Nam Bộ và các tổ chức trực thuộc; trong đó, có tổ chức Hội

ĐKSSYN nhưng: “Tại sao Hội ĐKSSYN tại một số địa phương vẫn duy trì

hoạt động”? “Vì sao Ban Bí thư Trung ương Đảng (khóa VI) đề ra chủ

trương lập Hội Đoàn kết Sư sãi yêu nước”? Hiện nay, có một số ý kiến cho

rằng: “Sự tồn tại của Hội ĐKSSYN có cần thiết không”? “Nếu tồn tại thì phải

như thế nào” ? “Quan điểm của Đảng và Nhà nước đối với Hội ĐKSSYN ra

sao”? “Cần những giải pháp gì để Hội ĐKSSYN tiếp tục phát huy vai trò tích

cực của mình” ?...

Bên cạnh đó, do chưa có sự hướng dẫn thống nhất chung về Điều lệ và

Quy chế hoạt động nên cơ cấu tổ chức, cơ chế hoạt động của Hội ĐKSSYN ở

mỗi địa phương đều có sự khác nhau nhất định; trong đó, có sự chồng chéo

lấn sân lẫn nhau trong hoạt động giữa BTSPG và Hội ĐKSSYN cùng cấp.

Vấn đề này, một mặt làm giảm sút vai trò của BTSPG gây ra những mâu thuận

trong nội bộ Phật giáo; mặt khác cũng đặt ra nhiều vấn đề cho công tác quản lý

Nhà nước về tôn giáo. Hoặc là, trong khi có các địa phương chưa lập Hội

ĐKSSYN như: An Giang và các tỉnh, thành phố miền Đông Nam Bộ có

PGNTK thì lại có ý kiến cho rằng cần thành lập hệ thống Hội ĐKSSYN trên cấp

tỉnh để có sự chỉ đạo thống nhất hoạt động cho các cấp hội.

4

Do vậy, việc nghiên cứu một cách có hệ thống về “Hội Đoàn kết Sư sãi

yêu nước vùng Tây Nam Bộ” nhằm thống nhất nhận thức và quan điểm, qua

đó, có những giải pháp sát hợp để tiếp tục phát huy vai trò tích cực của loại

hình tổ chức “vừa có yếu tố dân tộc, vừa có yếu tố tôn giáo” trong đời sống

xã hội vùng Tây Nam Bộ là rất cấp thiết cả về lý luận và thực tiễn theo chủ

trương xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc nhằm nâng cao chết lượng,

hiệu quả công tác dân tộc, tôn giáo và công tác đối với tổ chức hội - hội quần

chúng trong tình hình hiện nay.

2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án

2.1. Mục tiêu nghiên cứu

Trên cơ sở phân tích quá trình hình thành và phát triển; tính chất và thực

trạng hoạt động của Hội ĐKSSYN vùng Tây Nam Bộ. Luận án đề xuất các

quan điểm, đưa ra một giải pháp; đồng thời kiến nghị nhằm phát huy vai trò

tích cực của Hội ĐKSSYN trong đời sống xã hội vùng Tây Nam Bộ.

2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Để thực hiện được mục tiêu nghiên cứu, Luận án thực hiện các nhiệm vụ

nghiên cứu như sau:

Một là, nghiên cứu cơ sở lý luận, phương pháp và lý thuyết nghiên cứu

để vận dụng phân tích, luận giải, đánh giá vai trò của Hội ĐKSSYN vùng Tây

Nam Bộ.

Hai là, nghiên cứu sự hình thành và phát triển; tính chất, chức năng và

nhiệm vụ của Hội ĐKSSYN vùng Tây Nam Bộ trong quá trình lịch sử.

Ba là, nghiên cứu thực trạng hoạt động của Hội ĐKSSYN vùng Tây

Nam Bộ và những vấn đề đặt ra hiện nay.

Bốn là, đưa ra các quan điểm, đề xuất những giải pháp cơ bản và kiến nghị

nhằm phát huy vai trò tích cực của Hội ĐKSSYN vùng Tây Nam Bộ thời gian tới.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

3.1. Đối tượng nghiên cứu

5

Đối tượng nghiên cứu của luận án: Hội Đoàn kết Sư sãi yêu nước vùng

Tây Nam Bộ

3.2. Phạm vi nghiên cứu

- Không gian: các tỉnh/thành phố vùng Tây Nam Bộ có Hội Đoàn kết Sư

sãi yêu nước (cụ thể là: Trà Vinh, Vĩnh Long, Cần Thơ, Sóc Trăng, Bạc Liêu,

Cà Mau, Kiên Giang và Hậu Giang).

- Thời gian: Từ năm 1991 đến năm 2019 (từ khi có Chỉ thị số 68-CT/TW,

ngày 18/4/1991 của Ban Bí thư Trung ương Đảng - khóa VI)

4. Cơ sở lý luận, cách tiếp cận và phương pháp nghiên cứu

4.1. Cơ sở lý luận

Luận án dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ

Chí Minh và các quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng; chính sách,

pháp luật của Nhà nước Việt Nam về công tác dân tộc, tôn giáo; về công tác

đối với các tổ chức hội - hội quần chúng. Luận án xác định đại đoàn kết toàn

dân tộc là chiến lược được thực hiện nhất quán trong các giai đoạn cách mạng

Việt Nam trên cơ sở kế thừa, phát huy truyền thống đoàn kết của dân tộc,

quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.

Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, khối đại đoàn kết toàn dân tộc bao gồm tất cả

các giai cấp, tầng lớp, lực lượng, đảng phái, các dân tộc, các tôn giáo, các cá nhân

yêu nước , người Việt Nam ở nước ngoài, kể cả những người đã lầm đường, lạc

lối nhưng biết hối cải trở về với Nhân dân. Đặc biệt là tư tưởng đoàn kết lương -

giáo trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc đã góp phần hoàn thành thắng lợi sự

nghiệp giải phóng dân tộc, giữ vững nền độc lập cho Tổ quốc. Ngoài ra, luận án

có kế thừa và tiếp thu có chọn lọc những tư tưởng của các tác giả trong một số

công trình nghiên cứu khoa học có liên quan đến đề tài nghiên cứu.

4.2. Cách tiếp cận

- Tiếp cận tôn giáo học: Nhìn nhận tôn giáo là hiện tượng xã hội, có tác

động sâu sắc đến mọi mặt của đời sống xã hội và hiện nay, tôn giáo ngày càng

can thiệp sâu hơn vào đời sống chính trị với nhiều hình thức khác nhau.Mặt

6

khác, vấn đề tôn giáo - dân tộc luôn gắn liền và là một trong những nhân tố

tiềm ẩn nguy cơ gây mất ổn định. Vì thế, không một quốc gia nào không đặt

ra vấn đề phải nâng cao hiệu quả công tác tôn giáo, công tác dân tộc; do vậy,

khi nghiên cứu tôn giáo, ngoài phương pháp của bản thân ngành tôn giáo học

thì phải kết hợp nhiều phương pháp của một số ngành khoa học khác; trong

đó, có ngành dân tộc học.

- Tiếp cận hệ thống: Cách tiếp cận này giúp tìm hiểu hệ thống nội tại của

Hội ĐKSSYN vùng Tây Nam Bộ cùng các chức năng tôn giáo và chức năng

xã hội của nó. Giúp nhìn nhận Hội ĐKSSYN như một hệ thống động, giao

thoa, tác động qua lại với các hệ thống khác, như: hệ thống chính trị, hệ thống

giáo hội, hệ thống tổ chức xã hội...

- Tiếp cận chính trị học: Nhìn nhận tôn giáo nói chung, PGNTK, Hội

ĐKSSYN nói riêng và Nhà nước có quan hệ rất gắn bó trong quá trình lịch sử

xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tôn giáo cũng là những hình thái ý thức được lựa

chọn để xây dựng mô hình nhà nước sao cho phù hợp với sự phát triển của quốc

gia - dân tộc; phù hợp với xu hướng phát triển của xã hội hiện đại.

- Tiếp cận lịch sử: Nhìn nhận Hội ĐKSSYN như một hiện tượng lịch sử,

có quá trình ra đời, quá trình vận động, biến đổi, tác động; có vai trò đối với

cộng đồng người Khmer, đối với xã hội trong từng giai đoạn lịch sử cụ thể.

- Tiếp cận dân tộc học: Giúp nhìn nhận Hội ĐKSSYN trong mối quan hệ

tộc người Khmer - Nam bộ.

- Tiếp cận vùng: Tiếp cận vùng sẽ giúp nhìn nhận Hội ĐKSSYN gắn với

đặc trưng vùng địa lý với những đặc trưng về điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã

hội, văn hóa và tộc người ở vùng Tây Nam Bộ. Qua đó, nhận thức khách quan

về sự tồn tại của Hội ĐKSSYN trong đời sống xã hội ở vùng Tây Nam Bộ.

4.3. Phương pháp nghiên cứu

Luận án vận dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng

và chủ nghĩa duy vật lịch sử nhằm phân tích mối quan hệ giữa đổi mới đường

lối chính sách tôn giáo và công tác tôn giáo; mối quan hệ giữa đời sống tôn

7

giáo và chính sách tôn giáo; mối quan hệ giữa Nhà nước và giáo hội qua công

tác tôn giáo; mối quan hệ giữa cái chung và cái riêng. Luận án sử dụng các

phương pháp nghiên cứu chủ yếu gồm: Phân tích và tổng hợp, lôgic và lịch

sử, thống kê, so sánh, SWOT, tổng kết thực tiễn, điều tra xã hội học, dự báo,

phương pháp chuyên gia, tọa đàm khoa học.

Trong đó, phương pháp phân tích và tổng hợp, lôgic và lịch sử được sử

dụng để nghiên cứu các tài liệu thứ cấp về lịch sử và thực trạng của Hội

ĐKSSYN. Phương pháp tổng kết thực tiễn, thống kê, so sánh, SWOT, điều

tra xã hội học được sử dụng để nghiên cứu về cơ cấu tổ chức và hoạt động của

Hội ĐKSSYN; so sánh tương quan giữa các Hội ĐKSSYN của các địa

phương. Phương pháp dự báo được sử dụng nhằm dự báo các xu hướng tác

động đến sự tồn tại và phát triển của Hội ĐKSSYN trong thời gian tới.

Phương pháp chuyên gia, tọa đàm khoa học được sử dụng kết hợp với các

phương pháp khác nhằm nghiên cứu các phương diện khác nhau của sự tồn tại

và phát triển của Hội ĐKSSYN vùng Tây Nam Bộ, cũng như quan điểm, giải

pháp phát huy vai trò tích cực của tổ chức này trong công đồng người Khmer.

5. Đóng góp mới về khoa học của luận án

Luận án khái quát được quá trình hình thành , đánh giá khách quan thực

trạng và dự báo các xu hướng có tác động đến Hội ĐKSSYN vùng Tây Nam

Bộ. Qua đó, đưa ra các quan điểm, đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm phát

huy vai trò tích cực của Hội ĐKSSYN vùng Tây Nam Bộ. Điểm mới của luận

án là những luận cứ khoa học, những chứng cứ thực tiễn đang đặt ra hiện nay

ở vùng Tây Nam Bộ cho thấy sự tồn tại của tổ chức “Hội Đoàn kết Sư sãi yêu

nước” là cần thiết.

Kết quả nghiên cứu góp phần nâng cao nhận thức về vị trí, vai trò của

Hội ĐKSSYN vùng Tây Nam Bộ trong quá trình lịch sử xây dựng và bảo vệ

Tổ quốc; đóng góp quan trọng trong việc thực hiện chủ trương về xây dựng

khối đại đoàn kết toàn dân tộc; chính sách phát triển kinh tế - xã hội, văn hóa,

8

ổn định chính trị, đảm bảo an ninh trật tự vùng Tây Nam Bộ - nơi có đông

đồng bào dân tộc Khmer theo PGNTK sinh sống.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án

6.1. Về lý luận

Luận án chỉ ra cơ sở lý luận và thực tiễn từ khi có chủ trương thành lập -

giải thể - (tồn tại khách quan) - củng cố, kiện toàn Hội ĐKSSYN vùng Tây

Nam Bộ; luận giải được tính chất hoạt động và dự báo các xu hướng tác động

đến Hội ĐKSSYN vùng Tây Nam Bộ, góp phần bổ sung vào nhận thức về vị

trí, vai trò của tổ chức này trong quá trình lịch sử.

6.2. Về thực tiễn

Kết quả nghiên cứu đóng góp quan trọng trong việc thực hiện chủ

trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về xây dựng khối đại đoàn kết toàn

dân tộc, phát triển kinh tế - xã hội, văn hóa, ổn định chính trị, đảm bảo an

ninh trật tự ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số và vùng đồng bào tôn giáo nói

chung; vùng Tây Nam Bộ - nơi có đông đồng bào Khmer theo PGNTK sinh

sống nói riêng.

7. Kết cấu của luận án

Ngoài lời cam đoan, mục lục, các chữ viết tắt, phần mở đầu, kết luận,

phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo; luận án được kết cấu gồm 04 chương,

15 tiết.

9

Chương 1

TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI

1.1. NHÓM CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN DÂN TỘC,

TÔN GIÁO VÙNG TÂY NAM BỘ

Đối với công trình nghiên cứu có liên quan đến dân tộc, tôn giáo vùng

Tây Nam Bộ; nghiên cứu sinh tham khảm: Sách Tôn giáo - Tín ngưỡng của

các cư dân vùng đồng bằng sông Cửu Long [20]. Công trình dày 488 trang, gồm

7 chương; các tác giả đã trình bày được bức tranh tổng thể, với những nét cơ bản

về các tộc người ở đồng bằng sông Cửu Long; cũng như về tôn giáo, tín ngưỡng

của từng tộc người cụ thể. Trong chương II và III, các tác giả đề cập các vấn đề

liên quan đến người Khmer ở Nam Bộ. Đây là tài liệu góp phần rất lớn cho các

nhà quản lý nhà nước về công tác dân tộc, tôn giáo vùng Tây Nam Bộ; hiểu hơn

về đồng bào dân tộc, hiểu hơn về các tôn giáo tránh xảy ra các xung đột sắc tộc

và xung đột tôn giáo như một số nước trong khu vực Đông Nam Á.

Sách Miền Nam giữ vững thành đồng [38]; công trình dày 422 trang, tác

giả Trần Văn Giàu đề cập đến sự ra đời của Liên minh các lực lượng dân tộc,

dân chủ và hòa bình Việt Nam; một tổ chức xã hội yêu nước có sự tham gia

đầy đủ của các thành phần xã hội, trong đó có tín đồ tôn giáo. Hoạt động của

tổ chức này luôn sát cánh với MTDTGPMNVN, đấu tranh chống Mỹ cứu

nước với mục đích rất rõ ràng. Kết quả hoạt động được Thông tấn xã Giải

phóng (03/05/1968) đánh giá rất cao; bên cạnh đó, Tạp chí Học tập (05/1968)

xem sự ra đời của Liên minh các lực lượng dân tộc, dân chủ và hòa bình là

một biểu hiện của sự thức tỉnh của tinh thần dân tộc. Chủ tịch Hồ Chí Minh

có nhận xét: “Việc thành lập Liên minh các lực lượng dân tộc, dân chủ và hòa

bình là một thắng lợi to lớn của chính sách đại đoàn kết toàn dân chống Mỹ

cứu nước” [38, tr.189].

Sách Cao Triều Phát - Nghĩa khí Nam Bộ [45]. Công trình dày 245

trang, tác giả Phan Văn Hoàng giành 11 trang (136 -147) để khái quát các

10

hoạt động của tổ chức yêu nước trong đạo Cao Đài qua hai thời kỳ kháng

chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ gồm: Cao Đài Cứu Quốc, Cao Đài

Liên Giao I và Cao Đài Liên Giao II. Trong Hội nghị quyết định thành lập

một tổ chức để lãnh đạo chức sắc và tín đồ đạo Cao Đài các hệ phái góp phần

vào công cuộc kháng chiến bảo vệ độc lập dân tộc và thống nhất đất nước, cụ

Cao Triều Phát phát biểu: “Các Phật tử đã có Hội Phật giáo cứu quốc, các giáo

dân đã có Hội Công giáo kháng chiến. Người Cao Đài chúng ta phải thành lập

Hội Cao Đài cứu quốc, vì hiện nay cứu quốc là hành đạo, hành đạo là cứu

quốc” [45, tr.140]. Sau khi thành lập và chỉ trong một gian ngắn hoạt động, Chủ

tịch Hồ Chí Minh đã có lời khen: “Mười hai phái Cao Đài do cụ Cao Triều Phát

lãnh đạo luôn luôn cùng đồng bào toàn quốc hăng hái kháng chiến, Tổ quốc và

Chính phủ sẽ nhớ công những người con trung thành” [45, tr.143].

Bên cạnh đó, trong đạo Cao Đài còn có tổ chức được thành lập từ năm

1991; qua bài viết Ban Qui ước các phái Cao Đài thành phố Cần Thơ - Một hình

thức phát huy truyền thống yêu nước của đồng bào đạo Cao Đài trong thời kỳ

đổi mới [108]. Tác giả Nguyễn Thị Ánh Ngà đã khái quát được quá trình hình

thành và phát triển; đồng thời, đánh giá kết quả hoạt động của Ban Qui ước các

phái Cao Đài thành phố Cần Thơ góp phần rất lớn trong công cuộc xây dựng và

bảo vệ Tổ quốc; các công trình này giúp nghiên cứu sinh nhìn nhận sự tồn tại

của các tổ chức xã hội có yếu tố tôn giáo là khách quan và có tính lịch sử.

Bài viết Đặc điểm của phong trào yêu nước phi vô sản ở Nam kỳ đầu thế

kỷ XX và vị trí của nó trong lịch sử phong trào giải phóng dân tộc Việt Nam

[18], tác giả Võ Văn Sen và Trần Nam Tiến đã phân tích các sự kiện liên quan

đến phong trào chống Pháp của các Hội kín ở Nam kỳ và đưa ra nhận định:

Về mặt tư tưởng, phong trào Hội kín Nam kỳ thể hiện rõ tư tưởng yêu nước

qua khẩu hiệu “Phản Pháp phục Nam” và lời thề một lòng cứu nước, cứu dân

của những người gia nhập hội. Yêu nước là tư tưởng chủ đạo, nó quy định

mục đích và đối tượng đấu tranh của Hội kín. Tuy nhiên, ngoài tư tưởng yêu

nước thì tư tưởng phong kiến cũng rất đậm nét và mang đậm tư tưởng tôn

11

giáo pha lẫn ma thuật với các lễ nghi thần bí, bùa chú được sử dụng phổ biến.

Pháp thuật và bùa chú đóng vai trò như một thứ “vũ khí tinh thần”; đối với

những người lãnh đạo phong trào thì tư tưởng tôn giáo, ma thuật được dùng

như một phương tiện để họ thực hiện mục đích cứu nước.

Riêng đối với các công trình liên quan đến dân tộc Khmer: Trước năm

1975, vấn đề dân tộc Khmer ở Nam bộ - Việt Nam được nhiều nhà nghiên

cứu người Pháp như: Barrault, Francois Martine, Louis Malleret, S. Bernard

Thierry…đặc biệt quan tâm nhưng họ chủ yếu nghiên cứu và đề cấp đến từng

khía cạnh riêng biệt về lịch sử, mỹ thuật, kiến trúc chùa, nghi lễ tôn giáo, sinh

hoạt dân gian, thơ ca dân gian. Ngoài ra, còn có các công trình“Người Việt

gốc Miên” (1969) của Lê Hương và bản ghi chép “Chân lạp phong thổ ký”

của Châu Đạt Quan do Lê Hương dịch (1973) đã giới thiệu cơ bản về nguồn

gốc, dân số, sinh hoạt, xã hội, phong tục, tập quán, tôn giáo, tín ngưỡng của

người Khmer Nam bộ - Việt Nam.

Từ năm 1975 đến năm 1986, việc nghiên cứu liên quan đến người

Khmer ở Nam bộ liên tục được chú trọng và đạt nhiều kết quả đáng quan tâm;

trong đó phải kế đến tác giả Phan An, một trong những nhà nghiên cứu hàng

đầu về cộng đồng người Khmer ở Nam bộ như: “Vài khía cạnh dân tộc học về

người Khmer ở Việt Nam và Camphuchia” (1980); “Một số vấn đề kinh tế -

xã hội của vùng nông thôn Khmer Đồng bằng sông Cửu Long - Vấn đề dân

tộc ở Đồng bằng sông Cửu Long” (1984); “Dân tộc Khmer trong các dân tộc

ít người ở Việt Nam (các tỉnh phía Nam)”(1984); “Nghiên cứu người Khmer

ở đồng bằng sông Cửu Long”(1985) …Qua các công trình nghiên cứu, tác giả

đã chỉ rõ các mối quan hệ, những tương đồng và dị biệt giữa người Khmer ở

Việt Nam và người Khmer ở Campuchia; đồng thời, chú trọng nghiên cứu về

vấn đề dân tộc và tôn giáo của người Khmer ở Nam bộ trong quá trình cộng

cư với các dân tộc người khác trong khu vực.

Trong giai đoạn này, tác giả Nguyễn Khắc Cảnh cũng có công trình

nghiên cứu về Loại hình công xã của người Khmer ở đồng bằng sông Cửu

12

Long [25]; tác giả giới thiệu các loại hình công xã của người Khmer dưới

nhiều góc độ khác nhau và xem đó là một đơn vị cư trú truyền thống của

người Khmer, qua đó nghiên cứu về cấu trúc và chức năng, về những biến

động trong lịch sử... Theo đó, phum là một tập hợp người Khmer dựa trên mối

quan hệ huyết thống là chính, còn sóc là một tập hợp người dựa trên cùng cư

trú trên một địa vực nhất định. Sóc truyền thống của người Khmer ở Nam Bộ

mang tính cộng đồng của một công xã nông thôn của cư dân canh tác lúa

nước ở vùng châu thổ sông Cửu Long. Việc nghiên cứu loại hình công xã của

người Khmer ở đồng bằng sông Cửu Long cho thấy rõ hơn những đặc điểm

về tổ chức xã hội truyền thống của người Khmer.

Sau năm 1986, những công trình nghiên cứu của người nước ngoài về

dân tộc Khmer ở Nam bộ rất hạn chế nhưng công trình của các tác giả ở trong

nước thì đa dạng và phong phú; trong đó, phải kể đến sách Quá trình phát

triển dân cư và dân tộc ở Đồng bằng sông Cửu Long từ Thế kỷ thứ XV đến thế

kỷ thứ XIX; sau đó là Vấn đề dân cư và dân tộc ở Đồng bằng sông Cửu Long

(Vấn đề dân tộc ở Đồng bằng sông Cửu Long) [32]. Tác giả Mạc Đường đã

khái quát quá trình hình thành các tộc người Việt, Khmer, Hoa và Chăm;

đồng thời, làm rõ đặc điểm các cộng đồng tộc người này ở đồng bằng sông

Cửu Long nhằm làm cơ sở nghiên cứu những đặc trưng riêng của từng tộc

người, của các cộng đồng dân cư trong vùng sinh thái nhân văn cụ thể. Ngoài

ra, còn có nhiều công trình của các tác giả: Ngô Văn Lệ, Nguyễn Văn Tiệp,

Đinh Văn Liên, Phan Thị Yến Tuyết, Lâm Văn Tòng, Nguyễn Xuân Nghĩa,

Đỗ Khắc Tùng, Thạch Voi, Huỳnh Ngọc Trảng, Sorya, Văn Công Chí, Văn

Xuân Chí, Hoàng Túc, Đặng Vũ Thị Thảo…

Đặc biệt, trong thời gian gần đây, tác giả Nguyễn Thuận Quý có công

trình nghiên cứu về Quan hệ tộc người của người Khmer ở hai bên biên giới

Việt Nam - Campuchia (khu vực Tây Nam Bộ) [87], công trình dày 145 trang

đã phân tích sâu mối quan hệ tộc người của người Khmer khu vực biên giới

Tây Nam Bộ được biểu hiện trên các lĩnh vực kinh tế, xã hội, văn hóa thông

13

qua những trục quan hệ: Với Quốc gia - Tổ quốc xã hội chủ nghĩa; với các tộc

người cận cư (tộc người đa số và các tộc người thiểu số khác); với người đồng

tộc (nội tộc và xuyên biên giới). Đồng thời, tác giả phân tích ý thức và hành

động của người Khmer đối với quốc gia - Tổ quốc Việt Nam như: Việc chấp

hành tốt chính sách, chủ trương, pháp luật của Đảng và Nhà nước; có ý thức

là công dân nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; thực hiện nghĩa vụ

của công dân…Việc phân tích các mối quan hệ dân tộc và tộc người khu vực

biên giới Tây Nam Bộ; tác giả nhận định có xu hướng cố kết, đoàn kết sâu sắc

nhưng mối quan hệ này ít nhiều còn chịu ảnh hưởng từ quốc gia láng giềng và

một số nước lớn chi phối. Quá trình cộng cư của các tộc người ở khu vực biên

giới Tây Nam Bộ đã giúp các tộc người có sự giao thoa văn hóa vật chất và

tinh thần, là sợi dây liên kết giúp các tộc người xích lại gần nhau, siết chặt

tình đoàn kết giữa các tộc người cùng cư trú ở vùng biên cương. Tuy nhiên,

với đặc trưng đa tộc người, đa tôn giáo thì vùng Tây Nam Bộ vẫn còn nhiều

nguy cơ mất ổn định do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan. Tác giả

cũng đã đưa ra một số kiến nghị đề xuất góp phần cho việc quản lý nhà nước

về công tác dân tộc được hiểu quả hơn.

Qua các công trình như đã nêu trên, có thể thất rõ tình hình kinh tế, văn

hóa - xã hội, an ninh, trật tự an toàn xã hội ở vùng Tây Nam Bộ, nhất là

những vấn đề liên quan đến dân tộc, tôn giáo.

1.2. MỘT SỐ CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU MANG TÍNH CHUYÊN SÂU

VỀ PHẬT GIÁO NAM TÔNG KHMER

Nhóm công trình này, nghiên cứu sinh tham khảo: Sách Phật giáo

Khmer Nam bộ (Những vấn đề nhìn lại) [26]. Đây là công trình mang tính

chuyên đề nghiên cứu sâu về PGNTK ở Nam Bộ, tác giả Nguyễn Mạnh

Cường khái quát được lịch sử hình thành và phát triển vùng đồng bằng sông

Cửu Long, quá trình hình thành tộc người Khmer ở khu vực Đông Nam Á,

người Khmer ở vùng đồng bằng sông Cửu Long, mối quan hệ giữa người

Môn với người Khmer; đề cập đến quá trình du nhập và phát triển của Phật

14

giáo trong vùng đồng bào Khmer ở Nam bộ; những triết lý Phật giáo và kinh

kệ mà người Khmer đã thực hành trong hành đạo; đề cập đến vai trò của

trường chùa đối với đời sống giáo dục, văn hóa Khmer, vai trò của Tăng sĩ

Khmer đối với sự phát triển kinh tế, văn hóa - xã hội của người Khmer, vai trò

của Phật giáo trong quản lý cộng đồng phum sóc, vai trò của chùa trong đời

sống người Khmer và một số nghi thức tụng niệm kinh kệ trong PGNTK... Qua

đó, tác giả cũng đưa ra những định hướng và những đề xuất các chủ trương,

chính sách phù hợp với tâm tư, nguyện vọng với đồng bào Khmer.

Luận văn Biến đổi trong đời sống văn hóa của tu sĩ Phật giáo Nam tông

Khmer tỉnh Kiên Giang (từ sau năm 1986 đến nay)[102]. Tác giả Danh Út đã

trình bày đời sống văn hóa của Tăng sĩ Khmer ở Kiên Giang trước năm 1986

trên các lĩnh vực về văn hóa nhận thức, văn hóa tổ chức và văn hóa ứng xử.

Đặc biệt, trong văn hóa tổ chức, tác giả đã trình bày và mô tả được các loại

hình tổ chức truyền thống trong PGNTK gồm: Wên (một tổ chức trong Phật

tử), Ban Quản trị chùa, Hội Mêkon, Hội ĐKSSYN. Đặc biệt, công trình đã

trình bày được các hoạt động của Tăng sĩ Khmer trong các mối quan hệ xã

hội giúp nghiên cứu sinh có cở sở đánh giá các hoạt động tôn giáo trong đời

sống xã hội.

Luận văn Công tác vận động sư sãi Phật giáo Nam tông Khmer trên địa

bàn tỉnh Trà Vinh hiện nay [68]. Tác giả Kiên Ngọc Khánh trình bày được

đặc điểm tâm lý, phong tục tập quán, tín ngưỡng; truyền thống đoàn kết yêu

nước của các vị Tăng sĩ và Phật tử Khmer; tình hình PGNTK và thực trạng

công tác vận động quần chúng trong giới Tăng sĩ Khmer hiện nay. Kết quả

nghiên cứu góp phần vào việc tổng kết thực tiễn và đề xuất một số giải pháp,

nhằm nâng cao hiệu quả công tác vận động, tranh thủ các vị Tăng sĩ Khmer

trong việc tuyên truyền, vận động đồng bào Khmer thực hiện chủ trương của

Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước trong thời gian tới.

Ngoài ra, còn có nhiều công trình, bài viết đăng tải trên các tạp chí như:

Bài viết: “Phật giáo tiểu thừa Khmer ở vùng nông thôn Đồng bằng sông Cửu

15

Long: chức năng xã hội truyền thống và động thái xã hội” của tác giả Nguyễn

Xuân Nghĩa in trong Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo, số 5 (2003). Tác giả luận

giải về thời gian du nhập Phật giáo Nam tông vào vùng đồng bằng sông Cửu

Long; trình bày những nghi thức thờ cúng cũng như những sinh hoạt tinh thần

của cộng đồng người Khmer; bên cạnh đó, tác giả thống kê được số Tăng sĩ

Khmer từ năm 1974 đến năm 1984. Bài viết “Phật giáo trong đời sống của

người Khmer Nam Bộ” của Phan An in trong Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo,

số 5 (2003). Tác giả nghiên cứu sâu về chức năng, vai trò của chùa và các

Tăng sĩ Khmer trong đời sống của cộng đồng người Khmer...

1.3. NHÓM CÔNG TRÌNH LIÊN QUAN ĐẾN TỔ CHỨC PHẬT GIÁO VÀ

HỘI ĐOÀN KẾT SƯ SÃI YÊU NƯỚC

Riêng đối với nhóm công trình này, nghiên cứu sinh tham khảo một số

công trình và các tài liệu như sau: Sách Phật giáo sử [112]. Công trình dày

464 trang có đề cập đến 02 tổ chức xã hội có yếu tố tôn giáo gồm: “Hội

Chúng cư sĩ” và“Hội Phật giáo Đại Bồ Đề”. Hội Chúng cư sĩ là tổ chức có

nhiều cư sĩ được xem là những vị pháp tu sĩ lỗi lạc biết đem tài sản, của cải ra

cứu tế; Hội Phật giáo Đại Bồ Đề là tổ chức do ông Sri D. M. Dhammapala

thành lập nhằm khởi động phong trào phục hưng văn hóa dân tộc và Phật

giáo. Tuy tác giả không đề cập đến cơ chế hoạt động nhưng đây là tổ chức có

yếu tố tôn giáo được hình thành từ rất sớm ở quốc gia có Phật giáo Nam tông.

Sách Về sự ra đời của các tổ chức Phật giáo ở miền Nam Việt Nam, giai

đoạn 1951-1954 [76]; tác giả Dương Thanh Mừng phân tích và trình bày khác

rõ về sự ra đời, cơ cấu tổ chức và một số kết quả hoạt động của Hội Phật học

Nam Việt và Hội Tăng già Nam Việt. Tuy đây là tổ chức đoàn thể tôn giáo

nhưng hai tổ chức này đã luôn giữ vai trò nòng cốt trong các hoạt động chấn

hưng, cũng như trong cuộc đấu tranh để giữ vững sự vẹn toàn của Đạo pháp

trước Pháp nạn năm 1963 tại miền Nam - Việt Nam.

Sách Maha Sơn Thông - cách mạng là sự nghiệp cả cuộc đời [11]. Công

trình dày 88 trang, tập trung giới thiệu về cuộc đời và sự nghiệp cách mạng

16

của Maha Sơn Thông. Ông đã sớm giác ngộ cách mạng khi bản thân còn

khoác trên mình chiếc áo “càsa” (xuất gia từ năm 13 tuổi). Ông chính là người

đề xuất việc thành lập Hội ĐKSSYN với Khu ủy Tây Nam Bộ và được Ban

Thường vụ Khu ủy Tay Nam Bộ nhất trí tán thành. Năm 1994, Hội ĐKSSYN

khu Tây Nam Bộ được thành lập; cố Hòa thượng Thạch Som ở chùa Ô Mịch

được suy cử làm Hội trưởng. Việc thành lập Hội ĐKSSYN chứng minh thêm

rằng cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của dân tộc ta đã khơi dậy trong

mọi tầng lớp Nhân dân tinh thần yêu nước mãnh liệt. Mặc dù, công trình chưa

miêu tả một cách chi tiết quá trình hình thành và kết quả hoạt động nhưng

cũng giúp nghiên cứu sinh biết được ai là người khởi xướng hình thành Hội

ĐKSSYN vùng Tây Nam Bộ nhằm tập hợp, đoàn kết Tăng sĩ và Phật tử

Khmer tham gia phong trào giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước.

Sách Phật giáo trong cộng đồng người Việt ở Nam bộ Việt Nam, từ thế

kỷ XVII đến 1975 [72]. Công trình dày 125 trang gồm 03 phần. Tác giả Trần

Hồng Liên giành riêng phần 03 để viết về PGNT của người Khmer ở Nam

Bộ; trong đó, có đề cập đến kết quả hoạt động của Hội ĐKSSYN qua trích

dẫn bài tham luận của Hòa thượng Dương Nhơn in trong Kỷ yếu Hội nghị Đại

biểu thống nhất Phật giáo Việt Nam (ngày 4-7/11/1981); với nội dung: Trong

phong trào đấu tranh chống Mỹ cứu nước của các vị sư sãi càng lên cao, đến

mùa Thu năm 1964, Hội Sư sãi yêu nước miền Tây Nam Bộ đã ra đời, do Đại

đức Thạch Som làm Hội trưởng, là một tổ chức đoàn kết rộng rãi với các tôn

giáo, dân tộc anh em, đấu tranh vì lợi ích của tổ quốc và Nhân dân... Có thể

nói Hội Sư sãi yêu nước miền Tây Nam Bộ là sản phẩm trong sự nghiệp đấu

tranh chống Mỹ cứu nước của đồng bào Khmer và sư sãi nói chung.

Đề tài khoa học cấp bộ Vai trò của chùa Khmer đối với đời sống văn hóa

của đồng bào Khmer Nam Bộ [104]. Công trình tuy dày chỉ 64 nhưng nhóm

tác giả đã trình bày khái quát đặc điểm và phân tích khá sâu về vai trò của

PGNTK; trong đó có vai trò của Hội ĐKSSYN đối với cộng đồng người

Khmer ở Nam Bộ; nhóm tác giả có đề ra một số kiến nghị đối với Hội

17

ĐKSSYN nhằm tiếp tục phát huy vai trò tích cực trong đời sống xã hội vùng

Tây Nam Bộ.

Đề tài khoa học cấp bộ: Truyền thống đấu tranh cách mạng của đồng

bào Khmer Nam bộ dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam (1939-

1975) [103]. Công trình dày 112 trang, có đề cập đến việc thành lập các tổ

chức mang tính xã hội trong cộng đồng người Khmer dưới sự lãnh đạo của

Đảng như: Hội Cao Miên tự do, Hội Isarắk hoặc Hội Ủng hộ Isarăk, Ban

Khmer vận, Mặt trận Sư sãi yêu nước, đội võ trang tuyên truyền liên quân

Miên - Việt... nhằm tập hợp Tăng sĩ và Phật tử Khmer tham gia, ủng hộ

phong trào cách mạng tại các địa phương. Công trình trình bày khá đầy đủ và

chi tiết các cuộc đấu tranh chống áp bức bóc lột, bất công có sự tham gia của Hội

ĐKSSYN vùng Tây Nam Bộ nhằm bảo vệ quê hương, bảo vệ Tổ quốc.

Ngày 20/5/2013, Ban Dân vận Trung ương ban hành Kế hoạch số 26-

KH/BDVTW về việc khảo thực trạng tổ chức và hoạt động của Hội Đoàn kết

Sư sãi yêu nước trong Phật giáo Nam tông Khmer; với tư cách là cán bộ của

Ban Chỉ đạo Tây Nam Bộ, nghiên cứu sinh cũng có điều kiện trực tiếp khảo

sát và tiếp cận được các báo cáo chuyên đề về thực trạng tổ chức và hoạt động

của Hội ĐKSSYN tại 08 địa phương có PGNTK vùng Tây Nam Bộ. Cụ thể,

nghiên cứu sinh trực tiếp khảo sát và tham khảo các báo cáo chuyên đề của

các Ban Dân vận Tỉnh ủy/Thành ủy: (1) Cần Thơ (số 134, ngày 4/7/ 2013), (2)

An Giang, (số 131, ngày 20/6/2013), (3) Bạc Liêu (số 133, ngày 01/7/2013), (4)

Hậu Giang (số 228, ngày 26/06/2013), (5) Kiên Giang (số 145, ngày 20/6/2013),

(6) Sóc Trăng (số 186, ngày 27/06/2013), (7) Trà Vinh (số 23, ngày 11

/7/2013), (8) Vĩnh Long (số 35, ngày 28/06/2013), (9) Cà Mau (ngày 20

/5/2014) về thực trạng tổ chức và hoạt động của Hội ĐKSSYN trong PGNTK.

Qua đó, giúp nghiên cứu sinh tham khảo được lịch sử hình thành và phát triển;

thực trạng hoạt động của Hội ĐKSSYN và một số đề xuất quan điểm, giải pháp

nhằm tiếp tục phát huy vai trò tích cực của Hội ĐKSSYN của từng địa phương.

18

Mặc dù, đây là công trình và kết quả nghiên cứu mang tính rời rạc nhưng đã giúp

nghiên cứu sinh có sự hình dung nội dung tổng thể cần đạt được trong luận án.

Một năm sau đó, Ban Dân vận Trung ương phối hợp với Ban Chỉ đạo

Tây Nam Bộ tổ chức buổi tọa đàm: Tổ chức và hoạt động của Hội Đoàn kết

sư sãi yêu nước trong Phật giáo Nam tông Khmer - Thực trạng và giải pháp

vào ngày 20/5/2014 tại Cần Thơ. Trong tài liệu tọa đàm có các tham luận của

Ban Dân vận Trung ương, Ban Chỉ đạo Tây Nam Bộ, Ban Dân vận và các cơ

quan quản lý Nhà nước về dân tộc, tôn giáo của 09 tỉnh, thành có đông người

Khmer vùng Tây Nam Bộ có đề cập trực tiếp đến vị trí, vai trò của Hội

ĐKSSYN; đồng thời, đề xuất ý kiến nhằm kiện toàn và phát huy vai trò của

Hội ĐKSSYN trong tình hình hiện nay là cần thiết. Qua buổi tọa đàm, nghiên

cứu sinh có dịp nghe nhiều ý kiến phát biểu của các đại biểu làm công tác

quản lý nhà nước, các đại biểu trong cấp ủy am hiểu về vấn đề Hội ĐKSSYN

vùng Tây Nam Bộ.

Song song đó, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh triển khai thực

hiện Đề án Tổng thể về chính sách đối với Phật giáo Nam tông Khmer và

đồng bào Khmer vùng Tây Nam Bộ đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030.

Nghiên cứu sinh đã có dịp tham khảo Kỷ yếu hội thảo khoa học với đề tài

nhánh: “Chính sách đối với tổ chức, hội đoàn, chức sắc, nhà tu hành, cơ sở

thờ tự của Phật giáo Nam tông Khmer vùng Tây Nam Bộ” do PGS.TS Hoàng

Minh Đô (chủ nhiệm) [52]. Kỷ yếu đề tài dày 389 trang, tập hợp được 17 bài

viết của các nhà nghiên cứu, nhà quản lý về công tác dân tộc, tôn giáo đầu

ngành. Đây là tài liệu có các bải viết nghiên cứu sâu về vùng đất, cư dân, về

các thể chế chính trị trong lịch sử; về tình hình tôn giáo trong cộng đồng

người Khmer. Ngoài ra, các tác giả cũng đặt ra những vấn đề cấp bách cần

giải quyết và đưa ra những giải pháp góp phần để bổ sung, hoàn thiện các

chính sách đối với tổ chức, hội đoàn, chức sắc, nhà tu hành, cơ sở thờ tự của

PGNTK và đồng bào Khmer vùng Tây Nam Bộ.

19

Bên cạnh đó, đối với các công trình nghiên cứu về Hội ĐKSSYN;

nghiên cứu sinh cũng có bài viết: Phát huy vai trò của Hội Đoàn kết sư sãi

yêu nước trong Phật giáo Nam tông Khmer vùng Tây Nam Bộ trên con đường

hội nhập và phát triển hiện nay [109]. Qua đó, nghiên cứu sinh cũng đã khái

quát được lịch sử hình thành và phát triển; thực trạng về cơ cấu tổ chức và

hoạt động của Hội ĐKSSYN vùng Tây Nam Bộ. Đồng thời, có đưa ra một số

giải pháp nhằm tiếp tục phát huy vai trò tích cực của Hội ĐKSSYN đối với

cộng đồng người Khmer vùng Tây Nam Bộ trong thời gian tới.

Tác giả Nguyễn Hồng Dương có 02 bài viết: Thực trạng tình hình và

thực hiện chính sách đối với Hội Đoàn kết Sư sãi yêu nước [52] và Hội Đoàn

kết Sư sãi yêu nước một tổ chức gắn đạo với đời của Phật giáo Nam tông Khmer

Việt Nam [107]. Qua hai bài viết, tác giả đề cập khá chi tiết về mô hình tổ chức

và có những đánh giá kết quả hoạt động của Hội ĐKSSYN vùng Tây Nam Bộ;

qua đó đưa ra một số giải pháp nhằm tiếp tục phát huy vai trò của Hội ĐKSSYN

trong bối cảnh hội nhập quốc tế.

Luận văn Hội Đoàn kết Sư sãi yêu nước trong đời sống văn hóa của

người Khmer tỉnh Sóc Trăng [97]. Công trình được kết cấu gồm 03 chương,

10 tiết. Tác giả Thạch Thanh Tùng tập trung tìm hiểu vai trò của Hội

ĐKSSYN trong đời sống văn hóa cộng đồng người Khmer ở tỉnh Sóc Trăng;

đồng thời, khẳng định vai trò của Hội ĐKSSYN trong việc kêu gọi, dẫn dắt

Phật tử Khmer đề cao cảnh giác với âm mưu chia rẽ tình đoàn kết các dân tộc,

đồng lòng đồng sức xây dựng cuộc sống hạnh phúc, ấm no và thật sự là trung

tâm đoàn kết trong giới Tăng sĩ và Phật tử Khmer nói riêng; tín đồ các tôn

giáo trên địa bàn tỉnh Sóc Trăng nói chung.

Tóm lại, dưới những góc nhìn khác nhau, các tác giả đã khái quát được

bức tranh khá toàn diện về các tổ chức Phật giáo nói chung, Hội ĐKSSYN

vùng Tây Nam Bộ nói riêng. Tuy nhiên, qua các công trình của các tác giả

chưa đi sâu nghiên cứu mang tính chuyên sâu đối với Hội ĐKSSYN - tổ chức

đặc thù của giới Tăng sĩ và Phật tử Khmer vùng Tây Nam Bộ. Do vậy, còn

20

nhiều khoảng trống cần bổ sung, hoàn thiện để tiếp tục làm rõ đối với loại

hình tổ chức xã hội “vừa có yếu tố dân tộc, vừa có yếu tố tôn giáo”, hiện

đang tồn tại trong cộng đồng người Khmer vùng Tây Nam Bộ góp phần vào

công tác lý luận về vấn đề dân tộc, tôn giáo gắn với công tác đối với tổ chức

hội - hội quần chúng ở nước ta trong tình hình hiện nay. Cụ thể, các công

trình chưa nghiên cứu sâu để làm rõ bối cảnh lịch sử; quá trình hình thành, tồn

tại và phát triển; chưa nghiên cứu sâu về mô hình, tổ chức và hoạt động; chưa

đánh giá một cách cụ thể về thực trạng và kết quả hoạt động của Hội

ĐKSSYN vùng Tây Nam Bộ qua các thời kỳ lịch sử...

1.4. CÂU HỎI, GIẢ THUYẾT VÀ LÝ THUYẾT NGHIÊN CỨU

1.4.1. Câu hỏi nghiên cứu

hiện nay, tổ chức này có cần thiết tồn tại hay không?

Một là, Hội ĐKSSYN vùng Tây Nam Bộ có vị trí, vai trò như thế nào và

Hai là, nếu Hội ĐKSSYN vùng Tây Nam Bộ tiếp tục tồn tại thì cần giải

quyết những vấn đề tồn tại gì ?

Ba là, cần những quan điểm và giải pháp gì để Hội ĐKSSYN vùng Tây

Nam Bộ tiếp tục phát huy vai trò tích cực trong đời sống xã hội?

1.4.2. Giả thuyết nghiên cứu

Với những vấn đề cần tiếp tục làm rõ đối với Hội ĐKSSYN vùng Tây

Nam Bộ, luận án đưa ra một số giả thuyết để nghiên cứu như sau:

Một là, trải qua quá trình phát triển gắn bó và đồng hành cùng dân tộc, Hội

ĐKSSYN vùng Tây Nam Bộ đã có những đóng góp tích cực cho khối đại đoàn

kết dân tộc trong cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước. Phải

chăng sự tồn tại của Hội ĐKSSYN vùng Tây Nam Bộ hiện nay là cần thiết?

Hai là, phải chăng cơ cấu tổ chức, hoạt động của Hội ĐKSSYN vùng

Tây Nam Bộ dần ổn định và đi vào nề nếp? Việc phát huy vai trò của Hội

ĐKSSYN vùng Tây Nam Bộ trong đời sống xã hội còn hạn chế nhất định?

Ba là, để tiếp tục phát huy hơn nữa vai trò tích cực của Hội ĐKSSYN

vùng Tây Nam Bộ trong đời sống xã hội. Phải chăng các cấp ủy Đảng,

21

Chính quyền, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị - xã hội và

GHPGVN cần thống nhất quan điểm và tiến hành đồng bộ các giải pháp về

lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý, tổ chức bộ máy, cơ chế, chính sách, đào tạo, bồi

dưỡng… phù hợp với điều kiện thực tiễn vùng Tây Nam Bộ đáp ứng đời

sống xã hội của đồng bào Khmer hiện nay?

1.4.3. Lý thuyết nghiên cứu

- Lý thuyết cấu trúc - chức năng: Lý thuyết cấu trúc - chức năng gắn

liền với tên tuổi của các nhà khoa học nổi tiếng như: A. Comte (1798-1857),

H. Spencer (1820-1903), E. Durkheim (1858-1917), T. Parsons (1902-1979),

R. Merton (1910-2003), P. Blau (1918-2002)... Họ coi xã hội như một sinh

thể hữu cơ đặc biệt với hệ thống gồm các thành phần có những chức năng

nhất định tạo thành cấu trúc ổn định.

Lý thuyết xã hội học trong nghiên cứu tôn giáo” [02], tác giả Phạm Minh

Anh cho rằng: (1) Mọi hệ thống đều bao gồm các yếu tố có quan hệ chặc chẽ với

nhau và mạng lưới các mối quan hệ đó tạo thành cấu trúc của hệ thống; (2) Mỗi

yếu tố của hệ thống, đến lượt nó, đều có thể là một hệ thống con (tiểu hệ thống)

và dưới tiểu hệ thống lại có những hệ thống nhỏ hơn nữa; (3) Mọi hệ thống đều

có mối quan hệ mật thiết với môi trường cảnh quan xung quanh chúng.

Các tác giả của thuyết chức năng đều nhấn mạnh tính liên kết chặt chẽ

của các bộ phận cấu thành nên một chỉnh thể mà từng bộ phận có chức năng

nhất định, góp phần đảm bảo sự tồn tại của chỉnh thể đó với tư cách là một

cấu trúc tương đối ổn định, bền vững. Sự biến đổi chức năng của từng bộ

phận sẽ kéo theo sự biến đổi của cấu trúc của cả chỉnh thể xã hội. Thuyết cấu

trúc - chức năng không chỉ lý giải và đưa ra cách giả quyết các chức năng tích

cực mà cả mặt tiêu cực của nó.

Ngoài ra nó còn tập trung vào sự cân bằng giữa các chức năng và phi

chức năng cũng như nhấn mạnh vai trò của trạng thái cân bằng động trong sự

biến đổi cấu trúc xã hội. Mặt khác, “...Vì chức năng đích thực của tôn giáo là

gắn kết cá nhân và nhóm xã hội - đoàn kết cộng đồng dựa trên nền tảng niềm

22

tin tôn giáo, làm cho họ hoạt động một cách tự tin và giúp cho họ sống theo

quan niệm của họ” [02, tr.113].

Khi nghiên cứu tôn giáo dưới cách tiếp cận lý thuyết này sẽ giúp nghiên

cứu sinh thấy rõ tôn giáo là tiểu hệ thống trong hệ thống xã hội; tuy nhiên,

thuyết chức năng - cấu trúc thường hay tính đến chức năng mà ít đề cập đến

vấn đề loạn chức năng, nhấn mạng sự tồn tại, thống nhất mà ít đề cập đến sự

biến đổi, xung đột... Vận dụng quan điểm này để thấy rằng sự tồn tại của tổ

chức tôn giáo nói chung, của tổ chức xã hội có yếu tôn giáo nói riêng có vai

trò nhất định đối với cộng đồng tín đồ; sự tồn tại của Hội ĐKSSYN trong

cộng đồng người Khmer vùng Tây Nam Bộ là tất yếu và khách quan.

- Lý thuyết thế tục hóa: Thuật ngữ thế tục hoá được sử dụng lần đầu

trong Hòa ước Wessphalie (1648) để chỉ việc giáo hội chuyển giao tài sản cho

các thế lực trần tục. Thế tục hóa là kết quả của cuộc đấu tranh đòi tách tôn

giáo ra khỏi chính trị, giải phóng Nhà nước ra khỏi Nhà thờ. Nói cách khác,

thế tục hóa là tiến trình đưa tôn giáo ra khỏi lĩnh vực công, cả Nhà nước lẫn

xã hội, để khoanh lại trong lĩnh vực tư, nghĩa là trong đời sống tinh thần cá

nhân. Quá trình thế tục hóa diễn ra có sự khác nhau giữa các tôn giáo, giữa

các quốc gia và châu lục. Hiện nay, thuật ngữ thế tục hóa nói lên những thay

đổi bên trong của các giáo hội tôn giáo. Nội dung cơ bản của thế tục hoá được

nhiều nhà nghiên cứu thống nhất ở các đặc điểm như sau:

Một là, thế tục hóa biểu hiện trong cuộc đấu tranh của một bộ phận tiến

bộ trong từng tôn giáo muốn xoá bỏ những điểm lỗi thời trong giáo lý, những

khắt khe trong giáo luật, muốn tiến tới sự đoàn kết giữa các tín đồ tôn giáo và

không tôn giáo; Hai là, thế tục hoá còn biểu hiện ở chỗ con người dường như

ra khỏi tôn giáo nhất định nhường lại một tâm thức tôn giáo bàng bạc; Ba là,

thế tục hóa biểu hiện ở các nước công nghiệp nhất là với bộ phận dân cư

thành thị và tầng lớp thanh niên vai trò của tôn giáo bị giảm đi. Sự quyết định

đời sống chủ yếu dựa vào bản thân chứ không phụ thuộc hoặc ít phụ thuộc

23

vào đấng siêu nhiên; Bốn là, những hành vi nhập thế của mọi tôn giáo bằng

cách tham gia vào những hoạt động trần tục phi tôn giáo nhằm cứu thế.

Nhìn chung, thế tục hoá xoay quanh ba vấn đề cơ bản là quá trình

chuyên môn hoá, duy lí hoá và nhập thế, trong đó nhập thế là quá trình xoay

chuyển các quan tâm của con người từ các lĩnh vực tôn giáo đến các nhu cầu

trần thế. Ngoài ra, trong những năm gần đây, có một số quan điểm mới về thế

tục hóa cho rằng:

Lý thuyết thế tục hóa được hình thành và lý giải hiện tượng trong

bối cảnh ở Châu Âu nhưng tác động của chủ nghĩa cá nhân và lý

tính cũng khác nhau ở xã hội này. Nhìn chung ở Châu Âu, trong khi

có sự phát triển về mặt kinh tế và chính trị thì tôn giáo đã mất đi ảnh

hưởng công cộng và vai trò xã hội. Thế tục hóa trở thành một hậu

quả không tránh khỏi được của quá trình hiện đại hóa [82, tr.25].

Vận dụng lý thuyết thế tục hóa để luận giải về sự giảm dần Tăng sĩ và

một bộ phận người Khmer chuyển đổi niềm tin tôn giáo là xu thế chung trong

thế giới hiện đại. Và nếu như khẳng định PGNTK là tôn giáo truyền thống và

là thành tố chủ yếu trong bản sắc văn hóa của người Khmer ở Việt Nam thì

rất cần những chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước nhằm tạo điều

kiện để đồng bào Khmer giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa của dân tộc

mình; trong đó, vai trò của Hội ĐKSSYN vùng Tây Nam Bộ đóng vai trò

quan trọng.

- Lý thuyết mâu thuẫn (thuyết xung đột): Lý thuyết mâu thuẫn gắn liền với

tên tuổi của hai nhà triết học: C. Mác (1818-1883) và Ph.Ăngghen (1820-1895).

Lý thuyết này nhấn mạnh sự mâu thuẫn, xung đột và biến đổi xã hội. Luận điểm

góc của thuyết này là sự khang hiếm nguồn lực, bất bình đẳng trong phân bổ

nguồn lực, quyền lực và sự phân công lao động nên quan hệ giữa các cá nhân,

nhóm xã hội luôn trong trạng thái mâu thuẫn, cạnh tranh, xung đột lẫn nhau.

Theo C.Mác và Ph.Ăngghen thì toàn bộ phát triển xã hội từ buổi đầu văn

minh đến nay diễn ra trong sự mâu thuẫn thường xuyên và chính là sự mâu

24

thuẫn, đấu tranh là nguồn gốc, động lực của sự biến đổi phát triển xã hội. Tôn

giáo như là một hiện tượng xã hội phức tạp, đa dạng, gắn liền với những lĩnh

vực khác nhau của đời sống xã hội. Bản chất của tôn giáo có tính chất hai

mặt, vừa là biểu hiện của thế giới hiện thực, vừa là sự phản kháng chống lại

thế giới đó. Trong đời sống xã hội có nhiều loại mâu thuẫn, có mâu thuẫn đối

kháng và mâu thuẫn không đối kháng; tuy các nhà khoa học chưa đưa ra khái

niệm mâu thuẫn xã hội - tôn giáo nhưng qua bài viết: Lý thuyết xã hội học trong

nghiên cứu tôn giáo của tác giả Phạm Minh Anh cho thấy: “Lý thuyết mâu thuẫn

nhìn nhận xã hội - tôn giáo về cơ bản luôn có sự chia rẽ, mâu thuẫn và xung đột

giữa các cá nhân hoặc nhóm xã hội - tôn giáo khác nhau” [02, tr.114].

Bên cạnh đó, bài viết: Những biểu hiện mới của vấn đề tôn giáo - dân

tộc trong tình hình hiện nay của tác giả Đỗ Quang Hưng đăng trong Tạp chí

Nghiên cứu Tôn giáo, (số 02/2003) cũng đã đề cập đến học thuyết của ông

Samuel Hungtinton trong công trình nghiên cứu “Xung đột các nền văn minh”

nhưng đến nay vẫn còn gây ra nhiều tranh cải, khi ông ta đưa ra luận đề: Sau

chiến tranh lạnh, xung đột ý thức hệ đã nhường bước cho kỉ nguyên các xung

đột sắc tộc, tôn giáo, xung đột các nền văn hóa, văn minh... và khi đi tìm

nguyên nhân xung đột sắc tộc, người ta thường nghỉ đến ba lý do:

Một là, các truyền thống văn hóa và di sản lịch sử dễ khơi dậy những

“mối hận thù trong lịch sử”; Hai là, những mâu thuẫn, căng thẳng về kinh tế

- xã hội, hậu quả của hiện đại hóa và phát triển không đồng đều đã nhen nhóm

tư tưởng bạo lực giữa các nhóm sắc tộc; Ba là, sự bất ổn về chính trị và “các

nhà nước bất lực”, đã tạo ra thế “tiến thoái lưỡng nan về an ninh”, giữa các

nhóm sắc tộc và nó thường bị các thế lực chính trị đầy tham vọng khai thác.

Ngoài ra, tác giả Đỗ Quang Hưng còn đưa ra một lý luận khá thuyết

phục nảy sinh trong xung đột là: cái cốt lõi của di sản lịch sử và những “hận

thù lịch sử” chính là truyền thống tôn giáo - văn hóa và những kí ức về xung

đột xa xưa. Tóm lại, các mâu thuẫn, xung đột dân tộc/sắc tộc, tôn giáo trên thế

giới rất phức tạp, căng thẳng, gây ra nhiều hậu quả hết sức nặng nề; không chỉ

25

làm suy yếu các lực lượng cách mạng và tiến bộ, mà còn làm các quốc gia bị

chia rẽ, phân lập, chìm trong nội chiến kéo dài.

Tóm lại, mâu thuẫn, xung đột xã hội là các quan hệ và quá trình xã hội

mà ở đó có thể phân biệt hai hay nhiều cá nhân, nhóm có quyền lợi đối lập

nhau trong những cách giải quyết vấn đề nhất định. Vận dụng khung lý thuyết

này để luận giải nhìn nhận xã hội - tôn giáo về cơ bản luôn có sự chia rẽ, mâu

thuẫn và xung đột giữa các cá nhân hoặc nhóm xã hội - tôn giáo khác nhau.

Mâu thuẫn là một hiện tượng không thể tránh khỏi trong đời sống xã hội, là

thuộc tính vốn có của quá trình phát triển. Nắm được quy luật này, giải quyết,

giải tỏa và quản lý xung đột xã hội - tôn giáo theo xu hướng phát triển khách

quan thì mâu thuẫn, xung đột xã hội - tôn giáo không sinh ra những điểm

nóng tôn giáo hoặc điểm nóng chính trị, xã hội - tôn giáo.

1.5. MỘT SỐ THUẬT NGỮ SỬ DỤNG TRONG LUẬN ÁN

Thuật ngữ “Hội”: Công trình Vai trò của các hội trong đổi mới và phát

triển đất nước [86], nhóm tác giả đã đưa ra các văn bản và các công trình đã

nghiên cứu nhằm thống nhất cách hiểu của khái niệm về hội. Theo đó, trên cơ

sở phân tích các dấu hiệu về tính chất, vị trí, vai trò, chức năng, hệ thống tổ

chức, phương thức hoạt động...nhiều nhà khoa học thống nhất với nhau cách

hiểu khái niệm về hội như sau: Hội là những tổ chức tự nguyện của quần

chúng; là nơi tập hợp đông đảo người cùng ngành nghề, hoặc cùng giới, hoặc

cùng sở thích... cùng góp kiến thức, sức lực và hành động một cách thường

xuyên để đạt một mục đích nào đó, do những người tự nguyện sáng lập đề ra,

mục đích đó không trái với lợi ích của quốc gia - dân tộc; không vụ lợi và

trong khuôn khổ pháp luật.

Thuật ngữ “dân tộc Khmer” là một trong 54 dân tộc Việt Nam; nghiên cứu

sinh sử dụng từ “Khmer” theo tinh thần của Chỉ thị 117/CT-TW ngày 29/9/1981.

Nếu trong luận án có sử dụng dân tộc “Khơ-me” (do trích dẫn nguyên văn của

các tác giả) thì cũng được hiểu là dân tộc “Khmer”; điều đó có nghĩa: dân tộc

“Khơ-me” và “Khmer” là cùng một tộc người ở Việt Nam.

26

Thuật ngữ “Phật giáo Nam tông” là dùng để chỉ một trong 02 hệ phái:

Bắc tông và Nam tông. “Phật giáo Nam tông Khmer” là Phật giáo Nam tông

của người Khmer ở Nam bộ, phân biệt với Phật giáo Nam tông của người

Kinh ở Việt Nam.

Thuật ngữ “Sư sãi”: Sư sãi là người xuất gia (tu sĩ) theo hệ phái Nam

tông thực hành tôn giáo trong vùng đồng bào Khmer theo cách gọi phổ thông

nhưng người Khmer thường gọi người xuất gia là: “Presh Song” (tạm dịch là:

Tăng sĩ) hoặc gọi thông dụng hơn là: “Lốt Soong” (gọi theo người Kinh là

“Lục” hoặc “Sư”). Tuy nhiên, trong luận án, nghiên cứu sinh thống nhất sử

dụng thuật ngữ “Tăng sĩ” thay cho thuật ngữ “Sư sãi”; nếu trong luận án có

xuất hiện thuật ngữ “Sư sãi” do trích dẫn nguyên văn thì cũng được hiểu là

“Tăng sĩ” và ngược lại.

Thuật ngữ “Hội Đoàn kết Sư sãi yêu nước” là tổ chức xã hội của giới

Tăng sĩ và Phật tử Khmer; là thành viên của Mặt trận Tổ quốc; Hội hoạt động

chủ yếu là tuyên truyền, vận động Tăng sĩ và Phật tử Khmer ủng hộ, tham gia

phong trào xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Thuật ngữ “Vùng”: Vùng là thuật ngữ địa lý được sử dụng theo nhiều

cách khác nhau tùy theo từng ngành khác nhau. Tuy nhiên, trong phạm vi

nghiên cứu của đề tài luận án, khái niệm Vùng được hiểu: là diện tích trung

bình của một vùng đất ... hoặc theo cách hiểu thông thường, một vùng là một

bộ phận giới hạn của không gian trái đất. Ngoài ra, vùng còn được xem là

những cấu trúc nhân văn có thể tự thể hiện bằng cả những cách thức hiện thực

và tưởng tượng. Nhưng trước hết, vùng chỉ có ý nghĩa khi được tạo bởi các

mối quan hệ giữa các tác nhân tạo vùng, mà trung tâm là các mối quan hệ xã

hội, con người, môi trường và các nguồn của một vùng.

Thuật ngữ “Hội Đoàn kết Sư sãi yêu nước vùng Tây Nam Bộ”: là tên

gọi chung cho tất cả các cấp Hội ĐKSSYN của các tỉnh/thành phố vùng Tây

Nam Bộ; tránh nhầm lẫn với tên gọi Hội ĐKSSYN khu Tây Nam Bộ đã từng

tồn tại trong giai đoạn 1964- 1975.

27

Chương 2

QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN VÀ TÍNH CHẤT,

CHỨC NĂNG, NHIỆM VỤ CỦA HỘI ĐOÀN KẾT SƯ SÃI YÊU NƯỚC

VÙNG TÂY NAM BỘ

2.1. KHÁI QUÁT VỀ PHẬT GIÁO NAM TÔNG KHMER VÙNG TÂY NAM BỘ

2.1.1. Lịch sử du nhập và phát triển của Phật giáo Nam tông

Khmer vùng Tây Nam Bộ

Nam bộ - Việt Nam nói chung, vùng Tây Nam Bộ nói riêng vốn là phần

đất của Vương quốc Phù Nam; đây là một thực thể lịch sử được hình thành từ

khoảng đầu Công nguyên và tồn tại cho đến thế kỷ thứ VII. Một số công trình

nghiên cứu cho thấy, từ sau thế kỷ thứ II, Phù Nam đã mở rộng cương giới ra

gần hết phía Nam bán đảo Đông Dương và một vài khu vực khác ở Đông

Nam Á kế cận. Cụ thể, theo ghi chép trong một bộ sử Trung Hoa thì cương

giới Phù Nam ngoài phần đất đai ở lưu vực miền Trung và châu thổ sông Mê

Kông, còn mở rộng đến một phần đất Thái Lan hiện nay tiếp giáp với Ấn Độ

Dương và một phần đất nay thuộc Mã Lai.

Với những đặc điểm lịch sử và vị trí địa lý như đã nêu, Phù Nam sớm trở

thành trung tâm lớn giao lưu buôn bán đường biển giữa Ấn Độ với các nước

Đông Nam Á và nhanh chóng chịu sự ảnh hưởng nền văn hoá Ấn Độ; thể hiện

rõ nét nhất trong việc cư dân Phù Nam vừa sùng bái đạo Bàlamôn, vừa tín

ngưỡng Phật giáo. Đáng lưu ý, Phù Nam là một quốc gia sớm có chữ viết;

chữ Phạn đã trở thành văn tự sử dụng phổ biến trong triều đình và tôn giáo;

nhiều minh văn, bia đá của Phù Nam cho thấy chữ Phạn đã được sử dụng khá

thành thục.

Mặt khác, những dữ liệu của địa - sử học, khảo cổ học, những ghi chép

trong thư tịch cổ đã cho chúng ta có những hiểu biết từ quá trình hình thành

đến những nét đặc thù của vùng đất này. Cụ thể, năm 1944, ông Louis

Malleret (nhà khảo cổ học người Pháp) đã tiến hành khai quật khu di tích văn

28

hóa Óc Eo. Đây là một phát hiện, một công trình khoa học mang ý nghĩa mở

đầu công cuộc nghiên cứu về nền văn hóa Óc Eo và Vương quốc Phù Nam

trên vùng đất Nam bộ - Việt Nam. Mặc dù đã chấm dứt sự tồn tại nhưng lịch

sử Phù Nam cùng với di sản Văn hóa Óc Eo trên vùng châu thổ sông Mê

Kông là một dòng chảy góp phần tạo thành lịch sử, văn hóa Việt Nam trong

đó có văn hóa Phật giáo.

Theo tác giả Ngô Văn Lệ: Văn hóa Óc Eo được phân bố rộng ở vùng tứ giác

Long Xuyên, vùng Đồng Tháp Mười, vùng U Minh - Năm Căn, vùng Duyên Hải

và vùng Đông Nam Bộ. Như vậy cư dân Óc Eo đã mở rộng địa bàn cư trú trên

một diện rộng ở vùng châu thổ sông Mê Kông và một phần Đông Nam

Campuchia. Trên địa bàn này từ đầu công nguyên đã phát triển một nền văn hóa

với nhiều thành tựu và bản sắc riêng... Văn hóa Óc Eo tiếp nhận nhiều yếu tố văn

hóa Ấn Độ như đạo Bàlamôn, đạo Phật du nhập vào thế kỷ đầu Công nguyên và

đã nhanh chóng chiếm vị trí quan trọng trong đời sống dân cư [67, tr.320].

Qua phân tích những đặc điểm lịch sử và vị trí địa lý thời kỳ Phù Nam,

cho thấy Phật giáo du nhập bằng đường biển qua quá trình giao lưu buôn bán

giữa Ấn Độ với các nước Đông Nam Á đến vùng đất Nam Bộ ngày nay từ thế

kỷ thứ II. Tuy nhiên, tùy theo giai tầng xã hội mà cư dân Phù Nam sùng bái

đạo Bàlamôn hoặc tín ngưỡng Phật giáo. Đến thế kỷ thứ IV thì PGNT mới

được thể hiện rõ nét qua niên đại xây dựng của“chùa Som Bua Răng Sây, ấp

Trà Kháu, xã Hòa Ân, huyện Cầu Kè, tỉnh Trà Vinh, xây dựng năm 373...” [40,

tr.96-97] trên nền tảng và mang dấu ấn của đạo Bàlamôn còn lưu giữ trong

khuôn viên của các chùa Khmer hiện nay.

Sau Phù Nam là vương triều Chân Lạp, Phật giáo tồn tại có lúc thịnh, lúc

suy nhưng tư tưởng, văn hóa, đạo đức đã bám rễ và ảnh hưởng sâu sắc đến cộng

đồng người Khmer; từ thế kỷ thứ VII nhiều chùa ở đồng bằng sông Cửu Long đã

được xây dựng như: ở Trà Vinh có chùa Kos Keo Sế Rây (xây dựng năm 613),

chùa Knông Sróc (xây dựng năm 641), chùa Somrong Ek và chùa Compong

(xây dựng năm 642); ở tỉnh Vĩnh Long có chùa Hạnh Phúc Tăng (xây dựng năm

29

632). Đến thế kỷ thứ XVIII thì hầu hết các tỉnh ở Nam Bộ có đông người

Khmer sinh sống đều có chùa thờ Phật theo hệ phái Nam tông; cụ thể: “năm

1970, toàn Nam Bộ có 402 chùa, 11.979 tu sĩ” [40, tr.94].

Từ khi truyền vào vùng đất Nam Bộ, hòa với văn hóa tín ngưỡng truyền

thống của dân tộc Khmer; PGNT được bản địa hóa và biến thành một thành tố

không thể tách rời trong cấu trúc tổng thể văn hóa tư tưởng và in dấu sâu đậm

trong tâm thức của người Khmer. Trải qua nhiều thăng trầm, cùng với những

chính sách được áp dụng qua các thời kỳ lịch sử ở Việt Nam, PGNTK luôn

gắn liền và đồng hành cùng dân tộc từ nhiều thế kỷ, tạo nên bản sắc văn hóa

đặc thù riêng của tộc người Khmer ở Nam Bộ. Tuy nhiên, từ thế kỷ XVIII,

khi người Kinh đã chiếm số đông ở Nam Bộ thì triều đình nhà Nguyễn bắt

đầu thiết lập bộ máy cai trị xuống tận vùng cực Nam của Tổ quốc. Vấn đề này

đã gây tác động mạnh mẽ đến thiết chế tự quản truyền thống của người

Khmer. Bộ máy hành chính dần dần thay thế bộ máy tự quản truyền thống của

người Khmer, phum - sóc không được coi là đơn vị hành chính chính thức, nó

dần được tích hợp vào cơ cấu làng, xã của người Kinh.

Trước những tác động ấy, người Khmer càng dựa vào hệ thống tổ chức trong

PGNT để duy trì và bảo vệ cơ cấu tổ chức xã hội truyền thống của mình. Mặt khác,

vua Minh Mạng vì muốn thống nhất việc tu hành trong Phật giáo nên đã bắt

buột Tăng sĩ Khmer mặc áo cổ vuông và ăn chay như các Tu sĩ hệ phái Bắc

tông. Chính sách này đã gây sự phản đối của cộng đồng người Khmer dẫn đến

phong trào chống đồng hóa của đồng bào Khmer ở huyện Trà Cú, tỉnh Vĩnh

Bình (nay là tỉnh Trà Vinh); kết quả, các vị Tăng sĩ Khmer vẫn duy trì sinh

hoạt đạo theo truyền thống của dân tộc đến nay.

Trong thời kỳ Đông Dương thuộc Pháp khi mâu thuẫn xã hội, đàn áp dân

tộc ngày càng tăng do ảnh hưởng chính sách chia để trị thì người Khmer lại

càng xây nhiều chùa và gắn bó tha thiết với Phật giáo. Trong thời kỳ này

PGNTK ở Việt Nam trực thuộc Giáo hội Phật giáo Vương quốc Campuchia

nên các địa phương ở Nam Bộ có chùa Khmer đều hình thành hệ thống tổ

30

chức Hội Đồng kỷ luật sư sãi (02 cấp) để thực hiện giáo quyền theo tính biệt

truyền của tôn giáo. Đến những năm đầu thập niên 60 của thế kỷ XX, cùng

với phong trào yêu nước và cách mạng của Nhân dân miền Nam, cuộc đấu

tranh của Tăng, Ni, Phật tử miền Nam chống lại Chính quyền Ngô Đình Diệm

và sự ra đời của MTGPDTMNVN (22/12/1960); PGNTK đã thể hiện vai trò

và tích cực tham gia Ủy ban Liên phái Bảo vệ Phật giáo. Người Khmer đã sát

cánh với các dân tộc đấu tranh giải phóng dân tộc, giành độc lập; nhiều vùng

cư trú của đồng bào Khmer trở thành căn cứ địa cách mạng vững chắc, nhiều

chùa Khmer là cơ sở cách mạng (còn được gọi là Chùa Mặt trận); Nhiều

Tăng sĩ, Phật tử Khmer không ngại khó khăn, nguy hiểm đào hầm trong nhà,

trong chùa nuôi dấu cán bộ cách mạng ; góp phần làm nên chiến thắng vĩ đại

trong lịch sử Việt Nam.

Sau năm 1975, PGNTK có sự đổi mới về tổ chức; các giáo phái khác

nhau từ trước giải phóng đã tự giải tán và quay lại với phái gốc của mình

là Mahanikaya. Thế nhưng, trong những năm đầu giành độc lập, thống

nhất đất nước; việc thực hiện chính sách đối với vùng đồng bào Khmer

chưa được quan tâm đúng mức, chính sách đối với cán bộ Khmer còn

nhiều thiếu sót; có trường hợp vi phạm nghiêm trọng chính sách dân tộc

và tôn giáo tại một số địa phương gây tác động tiêu cực đến cộng đồng

người Khmer.

Vấn đề này đã làm cho một bộ phận cán bộ, đảng viên, Tăng sĩ và Phật

tử Khmer bất mãn, nghi ngờ, mất lòng tin vào sự lãnh đạo của Đảng; kẻ địch

lợi dụng kích động, lôi kéo làm cho tình hình những năm mới giải phóng diễn

biến rất phức tạp, một bộ phận khá đông trong Tăng sĩ và đồng bào Khmer

trốn sang Campuchia sinh sống; một số làm tướng lĩnh ở Campuchia, một số

khác trong những người này đã tham gia trong các tổ chức phản động Khmer

Campuchia Krom gây ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động thuần túy của PGNTK

ở Nam Bộ - Việt Nam và làm cho hoạt động của PGNTK ở một số tỉnh như

Trà Vinh, Sóc Trăng bị ngưng lại.

31

2.1.2. Một số đặc điểm cơ bản của Phật giáo Nam tông Khmer

2.1.2.1. Đặc điểm về giáo lý, giáo luật và lễ nghi

PGNTK gồm 02 chi phái Mahanikaya và Dhammayutta (thường gọi

Thommadut) thuộc hệ phái Theravada, có mối quan hệ mật thiết với Phật giáo

tại các quốc gia như: Srilanka, Thái Lan, Lào, Myanmar, Campuchia ... Hệ

phái Theravada được xem là hệ phái thực hành đạo đúng nhất theo kinh sử

của Phật giáo; cụ thể: từ y phục, cách đọc kinh, cách hành đạo, cách sinh hoạt

và cách thiền định đều dựa trên kinh điển của đức Phật được lưu truyền và ghi

chép đầy đủ trong bộ Tam Tạng kinh bằng tiếng Pali nên còn gọi là Phật giáo

Nguyên Thủy. Hiện nay, bộ Tam tạng kinh đã được dịch bằng nhiều ngôn

ngữ, trong đó có ngôn ngữ Khmer.

Tam Tạng kinh bao gồm: (1) Kinh tạng là các bài thuyết pháp của đức

Phật; (2) Luật tạng là các giới luật do đức Phật định ra để làm khuôn phép cho

đời sống và cho việc tu học của các đệ tử, nhất là để giữ gìn kỷ luật trong

những người xuất gia; (3) Luận tạng được các đệ tử xây dựng sau khi Phật

nhập Niết bàn nhằm giới thiệu giáo lý nhà Phật một cách có hệ thống; đồng

thời phê bình, uốn nắn những nhận thức sai trái, những quan điểm xuyên tạc

đạo Phật. Trong đó, có các đặc điểm cơ bản như sau:

- Đặc điểm cơ bản về giáo lý: Giáo lý căn bản nhất của đạo Phật không

ngoài tư tưởng diệt khổ, tu đạo để đến Niết Bàn; giáo lý không phải chỉ là một

hệ thống giáo huấn về luân lý thông thường mà nó được trình bày từ thấp đến

cao phù hợp với từng giai đoạn lịch sử cụ thể để người Phật tử dễ dàng tiếp

thu. Mặc dù hệ phái Bắc tông và Nam tông có sự khác nhau về tư tưởng và

thực hành đạo nhưng giáo lý căn bản dường như tương đồng; bởi vì, giáo lý

Phật giáo Bắc tông thực chất là sự phát triển trên nền tảng của Phật giáo

Nguyên Thủy nên nội dung cơ bản của cả hai hệ này đều là: vô tạo giả, vô

thường, vô ngã, nhân quả… Đặc biệt là bốn chân lý “tứ diệu đế” đều luận

giải sự hợp tan của sự vật, hiện tượng, lý giải cuộc sống của con người từ khi

sinh ra cho tới khi chết đi đều như nhau. Phật giáo cho rằng: đời là bể khổ;

32

đồng thời chỉ ra nguyên nhân dẫn đến nỗi khổ của con người. Với sự lý giải

căn nguyên về nỗi khổ, Phật giáo đã đưa ra phương pháp để loại bỏ nỗi khổ

của con người với thuyết “tứ diệu đế”. Tóm lại, giáo lý Phật giáo bao hàm rất

nhiều nội dung phong phú, ngoài vô tạo giả, vô ngã, vô thường, thuyết tứ diệu

đế thì còn đề cập đến thuyết nhân duyên, luân hồi, nghiệp báo…Trong đó, tứ

diệu đế là giáo lý căn bản mà bất kỳ người xuất gia tu học dù thuộc hệ phái nào

đều phải biết tới và tu theo để mong giải thoát, đạt đến Niết bàn.

- Đặc điểm cơ bản về giới luật: Khi đức Phật còn tại thế, Phật giáo vốn là

một thể thống nhất, không có sự phân chia hệ phái; chỉ đến khi đức Phật nhập

Niết bàn, các đệ tử Phật kết tập để đọc tụng, ghi nhớ lại những điều Phật dạy;

khi đó mới xuất hiện những quan điểm, hệ tư tưởng khác biệt về việc thực

hành giới luật. Giới luật là những phép tắc, qui định về những điều răn cho

người xuất gia, tăng sĩ đã thọ giới và Phật tử tại gia. Mục đích của giới luật

nhằm để giáo dục đạo đức con người, hướng mọi người đến cái chân - thiện -

mỹ. Đạo đức Phật giáo tuy thể hiện rộng rãi trong giáo lý nhưng tương đối tập

trung trong giới luật. Giới luật mà đức Phật cấm được gọi là điều học (giới),

tiếng Pali gọi là (Sikkhapada), cụ thể như sau:

+ Đối với người tu tại gia: Trong giới luật có ghi rõ người tu tại chùa

phải cạo râu tóc và lông mày, mặc y cà sa và giữ giới luật nghiêm chỉnh. Đối

với trường hợp người tu tại gia thì không cần phải cạo râu tóc và lông mày, có

thể mặc quần áo nhiều màu, nhiều kiểu nhưng phải giữ ngũ giới suốt đời hoặc

giữ bát quan trai hay thập giới một ngày đêm theo định kỳ.

+ Đối với Tăng sĩ: Người mới vào tu khi đã được mặc y cà sa gọi là Sadi

thì phải giữ 30 điều học được chia làm 03 phần: (1) phép học (Sikkàpada) có

10 điều; (2) phép hành phạt (Dandakamma) có 10 điều; (3) phép trục xuất

(Nàsananga) có 10 điều. Ngoài 30 điều trên, tu sĩ ở bậc Sadi còn phải thọ trì

thêm 75 điều trong Patidesaniya (Ưng học pháp); tổng cộng giới luật dành

cho tăng sĩ bậc Sadi là 105 điều. Riêng đối với bậc Tỳ khưu là những Tăng sĩ

đã thọ giới Sadi khi đã đủ 20 tuổi thì được phép thọ giới lên bậc Tỳ khưu

33

nhưng phải thọ trì được 227 điều; được chia làm 07 phần: (1) Parajika: Bất

cộng trụ có 04 điều; (2) Sanghadisesa: Tăng tàn có 13 điều; (3) Aniyata: Bất

tịnh có 02 điều; (4) Nissaggiya: Ưng xã đối trị có 30 điều; (5) Suddhika

pàcittiya: Ưng đối trị có 92 điều; (6) Pàtidesanìya: Ưng phát lộ có 04 điều; (7)

Patidesaniya: Ưng học pháp có 75 điều. Ngoài ra Tăng sĩ ở bậc Tỳ khưu còn

phải học thêm 07 điều Diệt tránh (adhikarana samatha) nữa nên tổng cộng có

227 điều mà bậc Sadi thọ giới lên bậc Tỳ Khưu.

Đặc biệt, trong chùa PGNTK không có Tu sĩ nữ, phần lớn nữ giới tu tại

gia theo sự truyền đạt lại của người chồng, người cha, người anh hoặc thông

qua các lễ hội truyền thống được tổ chức hằng năm tại phum/sóc. Trong đời

sống, PGNTK thực hành theo giới luật Phật giáo Nguyên thủy nên không ăn

chay như Phật giáo Bắc tông. Các vị Tăng sĩ chỉ ăn hai bữa một ngày (vào

sáng sớm và trước giờ Ngọ); sau giờ Ngọ cho đến hết đêm chỉ được dùng vật

lỏng như: cà phê, sữa, trà…

- Đặc điểm về lễ nghi: Lễ nghi của Phật giáo nói chung thể hiện sự trang

nghiêm, tôn kính đối với người sáng lập. Ban đầu, lễ nghi của Phật giáo khá

đơn giản và đồng nhất nhưng cùng với quá trình truyền thừa, Phật giáo phân

chia thành nhiều tông phái, hệ phái, chi phái và du nhập vào cộng đồng tộc

người khác nhau. Mặt khác, để tồn lại và phát triển, Phật giáo đã hòa đồng

cùng với tín ngưỡng dân gian của người bản địa nên lễ nghi của Phật giáo dần

dần có sự khác biệt giữa các cộng động người, các tộc người, khu vực và

vùng miền…Tuy nhiên, riêng đối với PGNTK, xuất phát từ lý tưởng truyền

thống là hướng về đức Phật nên trong cuộc sống hằng ngày, dù là Tăng sĩ ở

chùa hay dân chúng tại gia đều phải rèn luyện theo đạo pháp: thọ giới - bố thí

- tụng niệm. Người Khmer lấy việc làm thiện, tránh điều ác để làm lẽ sống và

cho rằng bố thí, làm phước, cứu giúp đồng loại là việc làm thiện, làm phước.

Hằng ngày, người dân trong các phum/ sóc dâng cơm cho các vị Tăng sĩ,

mong muốn các vị chiếu cố dùng cơm; đó là một điều phước lớn nên ngoài

việc thực hành tôn giáo thường xuyên có định kỳ vào các ngày: 08, 15, 23, 30

34

(âm lịch) hàng tháng thì còn có việc tổ chức tại chùa những nghi lễ do Tăng

đoàn hoặc Ban Quản trị chùa tiến hành theo kinh điển quy định như: Lễ Ban

hành giáo lý, lễ Phật Đản, lễ Nhập hạ, lễ Dâng y…Bên cạnh đó, các lễ truyền

thống của người Khmer cũng được tổ chức tại chùa gắn liền với văn hóa nông

nghiệp và sinh hoạt cộng đồng như: Ngày 13 - 15/4 dương lịch: Lễ mừng năm

mới (Chôl Chnăm Thmây - Tết cổ truyền của dân tộc Khmer); ngày 30/8 âm

lịch: Lễ cúng ông bà, tổ tiên (Sene Đôn Ta); khoảng tháng 9 - tháng 10 âm

lịch (sau khi kết thúc khóa hạ): Lễ Dâng Y (hay lễ Dâng Bông hoặc lễ

Kathina); ngày 15/10 âm lịch: Lễ hội cúng trăng (OkOmBok).

2.1.2.2. Đặc điểm về chi phái và giáo phái

- Chi phái Mahanikaya: Người Khmer phần lớn thực hành tôn giáo

thuần túy theo Phật giáo Nguyên thủy - Theravada có nguồn gốc từ Ấn Độ,

Srilanka… còn gọi là chi phái Mahanikaya; chi phái này dùng chỉ hội chúng

đông, không phải là giáo hội hay tông phái; theo nghĩa này thì Mahanikaya có

nghĩa là chi phái lớn, chi phái phổ thông hoặc chi phái bình dân.

- Chi phái Dhammayutta (thường gọi phái Thommayutt): Chi phái này ra

đời là do vị trưởng lão tên là Preah Saukonn bất mãn trong tăng đoàn ở

Campuchia nên qua Thái Lan tu hành và lập nên. Năm 1864, sau khi thành

lập chi phái Dhammayutta tại Thái Lan, ngài Preah Saukonn trở lại

Campuchia để truyền bá; được Hoàng gia Campuchia ủng hộ và xuất gia theo

nên có tầm ảnh hưởng khá mạnh. Sau khi hoạt động ổn định ở Campuchia,

chi phái này cử Tăng đoàn sang Nam Bộ - Việt Nam để truyền đạo và được

19 ngôi chùa Khmer ở An Giang theo. Mặc dù số lượng ít nhưng trước đây

chi phái này vẫn “bầu cử một Hội đồng kỷ luật Sư sãi ở huyện Tri Tôn đặt trụ

sở tại chùa Preyveng”[26, tr. 70] thuộc tỉnh An Giang để chỉ đạo đường

hướng hoạt động của chi phái. Tuy nhiên, về mặt kinh điển và nghi lễ thì hai

chi phái (Mahanikaya và Dhammayutta) cơ bản là đồng nhất, chỉ có một vài

điểm khác biệt nhỏ như: giáo phái Dhammayutta đi khất thực thì để bình bát

trần vì theo họ đức Phật ngày xưa cũng như thế chỉ có khăn lót bát chứ không

35

như phái Mahanikaya có dây và áo bát cho tiện cho việc khất thực; phái

Dhammayutta không phát âm chữ “ia” như phái Mahanikaya mà thay vào đó

là phát âm chữ “a”.

- Giáo phái Theravada Cư sĩ: Ở Việt Nam người thành lập giáo phái này

là Cư sĩ Sơn Thái Nguyên, ông là một công chức của Hoàng gia Campuchia.

Giáo phái này được hậu thuẫn bởi Tăng sĩ và Phật tử Khmer với mục đích là

phát huy truyền thống Phật giáo Nguyên thủy của dân tộc Khmer tại Việt

Nam. Năm 1963, Viện Hóa Đạo - Giáo hội Phật giáo Thống nhất công nhận

giáo phái Theravada là một đại diện cho Cư sĩ Việt gốc Khmer tại Việt Nam.

2.1.2.3. Đặc điểm về hệ thống tổ chức

Trong thời kỳ Đông Dương thuộc Pháp, PGNTK ở Việt Nam trực thuộc

Giáo hội Phật giáo Vương quốc Campuchia nên các địa phương ở Nam Bộ có

chùa Khmer đều hình thành hệ thống tổ chức Hội Đồng kỷ luật sư sãi (02 cấp)

để thực hiện giáo quyền theo tính biệt truyền của tôn giáo. Cấp tỉnh, với tên

gọi theo âm tiếng Khmer là “Kha Năs Mon Trây Song Khet”, tạm dịch là

“Hội Đồng kỷ luật sư sãi tỉnh hoặc Ban Chức sắc Phật giáo tỉnh”, có các

phân Ban giúp việc tương tự như BTSPG tỉnh, thành phố thuộc GHPGVN

hiện nay; người đứng đầu gọi là Mêkon. Cấp huyện, với tên gọi theo âm tiếng

Khmer là “Kha Năs Mon Trây Song Sróc”, tạm dịch là “Hội Đồng kỷ luật sư

sãi huyện hoặc Ban Chức sắc Phật giáo huyện”. Trong “Ban Chức sắc Phật

giáo huyện” có các phân Ban giúp việc. Người đứng đầu tổ chức cấp huyện

gọi là Anuskon.

Các tổ chức này được sự giúp đỡ của chính phủ Hoàng gia Campuchia,

sự giúp đỡ này kéo dài đến thời kỳ ngoại giao giữa Việt Nam và Campuchia

bị gián đoạn. Các Tăng sĩ Khmer ở Nam Bộ không còn liên lạc với

Campuchia nhưng vẫn giữ vững hoạt động của tổ chức này và tự đặt riêng

một hệ thống trong ngành tôn giáo tại các tỉnh có các giáo phái Mahanikay,

Thommayud (Châu Đốc), Theravada, Hội Phật giáo Nguyên Thủy (Vĩnh

Bình) đều có Hội Đồng kỷ luật sư sãi riêng của mình.

36

Tuy nhiên, do sự chia rẽ giáo phái nên Hội Đồng kỷ luật sư sãi được

thành lập ở các tỉnh không có sự thống nhất. Tại Vĩnh Bình (cũ) có 02 Hội

đồng; Bạc Liêu, Ba Xuyên, Chương Thiện, Phong Dinh có 01 Hội đồng. Tại

Châu Đốc có 02 Hội đồng. Đặc biệt, giáo phái Thommayud dù chỉ có một ít

sư sãi nhưng cũng bầu cử một Hội Đồng kỷ luật sư sãi ở huyện Tri Tôn đặt

trụ ở tại chùa Preyveng để coi sóc 18 ngôi chùa [52, tr. 233].

Sau năm 1954, với mục đích chính trị và để thống nhất quản lý toàn

diện, chính quyền Sài Gòn đã cắt đứt mối quan hệ giữa PGNTK ở Việt

Nam và Giáo hội Phật giáo Vương quốc Campuchia để thành lập mới các

Trung ương Giáo hội PGNTK ở trong nước với 03 mô hình:

Mô hình thứ nhất, duy trì tổ chức bộ máy truyền thống của PGNTK vốn

có trước đây; mặc dù, chính quyền Sài Gòn không quan tâm, không công

nhận tư cách pháp nhân tổ chức Mahanikaya vốn là tổ chức truyền thống, có

bộ máy hoạt động từ lâu đời nhưng tổ chức Mahanikaya ở 2 cấp tỉnh, huyện

vẫn hoạt động thuần túy theo tính biệt truyền của PGNTK.

Mô hình thứ hai, hình thành mới “Giáo hội Phật giáo Khemaranikay” ở

3 cấp (trung ương, tỉnh, huyện) suy tôn cố Hòa thượng Thạch Ngôs (Keo

Sme) làm Tăng thống, cố Hòa thượng Thạch Pếch làm Tổng thư ký.

Mô hình thứ ba, hình thành mới “Giáo hội Phật giáo Theravada” ở 3

cấp (trung ương, tỉnh, huyện) do cố Cư sĩ Sơn Thái Nguyên làm Trưởng giáo.

Việc thành lập hai tổ chức tôn giáo (Khemaranykay và Theravada) của

chính quyền Sài Gòn và việc đặt PGNTK trực thuộc Viện Hóa đạo Trung

ương GHPGVN Cộng hòa là nhằm mục đích giành dân, giành đất với cách

mạng và làm suy yếu phong trào đấu tranh của người Khmer ở Nam Bộ. Bên

cạnh đó, chính quyền Sài Gòn còn tạo dựng mâu thuẫn, kích động tư tưởng

hẹp hòi chia rẽ dân tộc, phủ nhận sự tồn tại của người Khmer ở Nam Bộ, bài

xích PGNTK, cấm dạy chữ Pali với âm mưu đồng hóa dân tộc Khmer.

Tình báo Mỹ (CIA) đã lập nên những tổ chức phản động như: Khmer

Srei, Đảng khăn trắng, Mặt trận đấu tranh cho vùng Miên Hạ, tổ chức Khmer

37

Kampuchia Krom (KKK), Tổ chức Miên vụ... những tổ chức này hoạt động bí

mật hoặc công khai khắp ở Nam Bộ dưới sự chỉ đạo giúp đỡ đắc lực của lực

lượng đặc biệt Mỹ. Một mặt, chúng đàn áp, cấm mọi hoạt động của PGNTK;

mặt khác, chúng dùng tiền bạc, vật chất để mua chuộc dụ dỗ một số Tăng sĩ

Khmer có uy tín để làm tay sai phục vụ ý đồ của chúng.

Tóm lại, nội dung giáo lý, giáo luật, lễ nghi của PGNT không chỉ biểu

hiện ở nội dung triết lý ẩn chứa trong đó, mà quan trọng hơn là những nguyên

tắc giáo dục đạo đức phù hợp với chuẩn mực, hành vi; cùng với sự ràng buộc

trong mối quan hệ cộng đồng hướng Phật tử đến với cái “chân - thiện - mỹ”.

Người Khmer tiếp nhận PGNT không phải với tư cách là một hệ tư tưởng,

cùng các giáo lý cao siêu, thần bí mà là những điều rất gần gũi với tâm tư,

tình cảm, tính cách của người Khmer nên họ đã chấp nhận những giá trị đạo

đức mang tính chuẩn mực, phù hợp với tâm lý, cốt cách, lối sống, hoàn cảnh

mà tôn giáo này đã mang lại; đó là tư tưởng nhân đạo, tinh thần bác ái, rộng

lượng, cứu khổ, cứu nạn, trừ gian, diệt bạo, vì cuộc sống bình yên, hạnh phúc,

lành mạnh của con người. Do vậy, dù chi phái Mahanikay hoặc Dhammayutta

thì PGNTK có những đặc điểm là khuyến khích thanh thiếu niên xuất gia, thời

gian tu tập dài hay ngắn tùy thuộc vào sự phát nguyện của từng người và khi

người xuất gia đã tu đủ thời gian mình muốn thì có thể hoàn tục.

Đây là ưu điểm rất lớn của tôn giáo này; bởi vì khi con người ta muốn

được tu tập theo giáo lý nhà Phật thì cánh cửa chùa mở rộng đón họ vào, khi

họ đã cảm thấy có được những gì mà mình muốn thì cánh cửa chùa cũng

không khóa chặt nhốt họ lại bên trong. Chính đặc điểm này mà số lượng Tăng

sĩ trong chùa luôn đông; người hôm nay tu được là nhờ người đi trước dìu dắt;

trước khi hoàn tục, các vị Tăng sĩ luôn giúp đỡ, ủng hộ những người sắp xuất

gia; đó cũng là một cách trả ơn Tam Bảo. Điều này, chúng ta cũng dễ chứng

minh, khi mà hiện nay Tăng, Ni cả nước có trên 53.941 vị nhưng số lượng

Tăng sĩ Khmer chiếm khoảng 15%. Số lượng Tăng sĩ Khmer đông là một

trong những điều kiện để duy trì và phát triển PGNT nói chung và là nguồn

38

lực đảm bảo cho Hội ĐKSSYN nói riêng phát huy vai trò của mình trong

cộng đồng người Khmer vùng Tây Nam Bộ.

2.1.3. Hoạt động của Phật giáo Nam tông Khmer từ năm 1981 đến nay

Trước những vấn đề đặt ra đối với hoạt động của PGNTK từ những năm

đầu sau khi giải phóng, thống nhất đất nước. Ngày 30/9/1981, Ban Chấp hành

Trung ương đảng ban hành Thông tri số 136/TT-TW về chủ trương thống

nhất các tổ chức Phật giáo; trong tinh thần lục hòa của Phật giáo, các vị cao

tăng PGNTK đại diện cho Hội ĐKSSYN vùng Tây Nam Bộ tham gia ủng hộ

chủ trương thống nhất Phật giáo Việt Nam. Sự thống nhất tổ chức được xây

dựng trên nguyên tắc: “Thống nhất ý chí và hành động, thống nhất lãnh đạo

và tổ chức; đồng thời vẫn tôn trọng và duy trì các truyền thống Hệ phái, cũng

như các pháp môn và phương tiện tu hành đúng Chính pháp” [33, tr.01-02].

Do đó, từ năm 1981, Hội ĐKSSYN vùng Tây Nam Bộ đại diện cho hệ

phái Nam tông Khmer trở thành 01 trong 09 tổ chức, hội, hệ phái của Phật

giáo cùng sinh hoạt trong ngôi nhà chung GHPGVN. Tuy nhiên, đây chỉ là

việc hợp nhất về mặt tổ chức; còn mọi hoạt động vẫn thực hiện theo giới luật

và nghi lễ của hệ phái với các đặc điểm: (1) PGNTK có giới luật và nghi lễ

biệt truyền khác với PGNT Kinh, Phật giáo Khất sĩ, Phật giáo Cổ truyền…;

(2) Ngôn ngữ của PGNTK là ngôn ngữ độc lập theo hệ Pali - Khmer; (3)

Phong tục đặc thù về sinh hoạt đạo trong cộng đồng người Khmer rất khác so

với Phật giáo trong cộng đồng người Kinh; (4) PGNTK tu học theo giáo lý

Nguyên thủy, vừa học Pali - Khmer vừa học phổ thông.

PGNTK là hệ phái Nguyên thủy mang tính biệt truyền, bao gồm chi phái

Mahanikay và Dhammayutta cùng tồn tại song song trong cộng đồng người

Khmer từ thế kỷ kỷ thứ IV, góp phần hình thành bản sắc văn hóa của dân tộc

Khmer ở Nam Bộ, là một bộ phận không thể tách rời của văn hóa Việt Nam. Cả

nước, hiện nay có 463 chùa Khmer nhưng tập trung chủ yếu ở vùng Tây Nam Bộ,

cụ thể là: Trà Vinh: 143 chùa, Sóc Trăng: 92 chùa, Kiên Giang: 75 chùa, An

Giang: 66 chùa (trong đó, có 19 chùa thuộc chi phái Thommayutt), Bạc Liêu: 22

39

chùa, Hậu Giang: 15 chùa, Vĩnh Long: 13 chùa, Cần Thơ: 12 chùa, Cà Mau: 07

chùa, thành phố Hồ Chí Minh: 02 chùa, Đồng Nai: 02 chùa, Bà Rịa - Vũng Tàu:

03 chùa, Bình Phước: 04 chùa, Tây Ninh: 06 chùa, Hà Nội: 01 chùa; với số lượng

Tăng sĩ Khmer dao động hàng năm trên dưới 8.000 vị.

Từ năm 1981 đến nay, GHPGVN đã trãi qua 08 nhiệm kỳ hoạt động ổn định,

phát triển và ngày càng nâng cao vị thế ở trong và ngoài nước. Trong sự đổi mới

về tổ chức, các vị Tăng sĩ Khmer luôn được quan tâm, suy tôn, suy cử tham gia

vào Hội đồng Chứng minh, Hội đồng Trị sự, các Ban, Viện và BTSPG các cấp tại

địa phương; phát huy được truyền thống đoàn kết, hòa hợp, tích cực tham gia các

phong trào ích nước lợi dân, phúc lợi xã hội trong ngôi nhà chung GHPGVN, cụ

thể như sau:

2.1.3.1. Số lượng Tăng sĩ Khmer tham gia Hội đồng Chứng minh, Hội

đồng Trị sự và các Ban, Viện Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam qua

các nhiệm kỳ

- Nhiệm kỳ I (1981 - 1986): 01 vị Phó Pháp chủ và 04 thành viên Hội

đồng Chứng minh; 01 Phó Chủ tịch Hội đồng Trị sự.

- Nhiệm kỳ II (1987 - 1992): 01 vị Phó Pháp chủ và 04 thành viên Hội đồng

Chứng minh; 01 Phó Chủ tịch Hội đồng Trị sự, 02 Ủy viên Hội đồng Trị sự.

- Nhiệm kỳ III (1992 - 1997): 02 vị Phó Pháp chủ, 05 thành viên Hội

đồng Chứng minh; 01 Phó Chủ tịch, 03 Ủy viên Hội đồng Trị sự.

- Nhiệm kỳ IV (1997 - 2002): 02 vị Phó Pháp chủ, 05 thành viên Hội

đồng Chứng minh; 01 Phó Chủ tịch, 06 Ủy viên Hội đồng Trị sự.

- Nhiệm kỳ V (2002 - 2007): 01 vị Phó Pháp chủ, 06 thành viên Hội

đồng Chứng minh; 01 Phó Chủ tịch Hội đồng Trị sự, 01 Ủy viên Thư ký, 01

Ủy viên Thường trực và 20 Ủy viên Hội đồng Trị sự.

- Nhiệm kỳ VI (2007 - 2012): 02 vị Phó Pháp chủ, 15 thành viên Hội

đồng Chứng minh; 01 Phó Chủ tịch Hội đồng Trị sự, 01 Ủy viên Thư ký, 01

Ủy viên Thường trực và 29 Ủy viên Hội đồng Trị sự.

40

- Nhiệm kỳ VII (2012 - 2017): 02 vị Phó Pháp chủ, 03 thành viên Ban

Thường trực, 15 thành viên Hội đồng Chứng minh; 02 Phó Chủ tịch Hội đồng Trị

sự, 01 Ủy viên Thư ký, 02 Ủy viên Thường trực và 32 Ủy viên Hội đồng Trị sự.

- Nhiệm kỳ VIII (2017 - 2022): 14 thành viên Hội đồng Chứng minh,

trong đó 01 vị Phó Pháp chủ, 03 thành viên Ban Thường trực, 10 thành viên

Hội đồng Chứng minh; riêng Hội đồng Trị sự có 26 thành viên, trong đó: 02

Phó Chủ tịch Hội đồng Trị sự, 01 Ủy viên Thư ký, 02 Ủy viên Thường trực

và 21 Ủy viên Hội đồng Trị sự.

Bên cạnh đó, 100% Ban, Viện Trung ương GHPGVN qua các nhiệm kỳ

đều có sự tham gia của các vị Tăng sĩ PGNTK với các chức vụ được phân công

như: Phó Trưởng ban Thường trực, Phó Trưởng ban, các Ủy viên Thường trực

và các Ủy viên của các Ban, Viện Trung ương. Ngoài ra, Ban Thường trực Hội

đồng Trị sự đã hướng dẫn, giúp đỡ các vị Tăng sĩ Khmer thành lập các Phân ban,

Phân Viện thuộc Ban, Viện Trung ương chuyên trách PGNTK như: Phân ban

Tăng sự Trung ương, Phân ban Giáo dục Phật giáo, Phân ban Hoằng pháp, Phân

ban Văn hóa, Phân ban Thông tin Truyền thông... Đặc biệt, ngày 13/10/2018,

Hội đồng Trị sự đã ký Quyết định bổ sung Phân viện Nghiên cứu PGNTK thuộc

Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam; bổ nhiệm Hòa thượng Danh Lung, Ủy

viên Thư ký Hội đồng Trị sự, Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu Phật học Việt

Nam làm Phân Viện trưởng.

2.1.3.2. Tăng sĩ Khmer tham gia Ban Trị sự Phật giáo cấp tỉnh

Tại các tỉnh, thành phố vùng Tây Nam Bộ có PGNTK đều có các vị

Tăng sĩ Khmer tham gia trong BTSPG các cấp, với các cương vị Trưởng

BTSPG, Phó Trưởng BTSPG, Ủy viên Thường trực, Ủy viên Ban Trị sự....

Qua kết quả Đại hội nhiệm kỳ 2017 - 2022, cương vị Trưởng BTSPG cấp

tỉnh, thành phố gồm có: Hòa thượng Thạch Sok Xane (Trà Vinh); Hòa

thượng Đào Như (Cần Thơ); Hòa thượng Tăng Nô (Sóc Trăng); Hòa thượng

Danh Đổng (Kiên Giang).

2.1.3.3.Về tăng sự và kinh sách

41

Phật tử là người Khmer vùng Tây Nam Bộ có khoảng 1.155.097 người;

trong đó, có 8.644 thành viên Ban Quản trị chùa sinh hoạt tại 445/463 chùa

Khmer. Số lượng Tăng sĩ Khmer dao động hàng năm trên dưới 8.000 vị; trong

đó, có 60 vị Hòa thượng, 127 vị Thượng tọa, 1.355 vị Đại đức; còn lại là Sadi

khoảng 6.427 vị, cụ thể: Trà Vinh: 3.255 vị, Sóc Trăng: 1.873 vị; Kiên

Giang: 1.010 vị; An Giang: 1.100 vị; Bạc Liêu: 292 vị; Hậu Giang: 70 vị;

Vĩnh Long: 219 vị; Cần Thơ: 128 vị; Cà Mau: 32 vị. Tại Đại hội Phật giáo

toàn quốc lần thứ VIII; GHPGVN đã tấn phong 04 vị Thượng tọa lên hàng

giáo phẩm Hòa thượng và 12 vị Đại đức lên hàng giáo phẩm Thượng tọa; truy

phong Tăng sĩ Hữu Nhem (Cà Mau); 04 Tăng sĩ Liệt sĩ (Lâm Hùng, Danh

Hom, Danh Hoi, Danh Tấp), Thượng tọa Tăng Phô (Trần Phố), Thượng tọa

Danh Kê tỉnh Kiên Giang lên hàng giáo phẩm Hòa thượng. BTSPG các tỉnh,

thành đã bổ nhiệm 100% Trụ trì và Ban Quản trị các chùa Khmer.

Nhằm đáp ứng yêu cầu đọc tụng, nghiên cứu, học tập của các vi Tăng sĩ và

Phật tử Khmer, Trung ương Giáo hội và đại diện PGNTK đã thống nhất in ấn

kinh sách PGNTK gồm các Kinh, Luật, Luận, Luật xuất gia Tỳ Khưu, Sa di,

Luật Cư sĩ, Văn phạm Pali, Song ngữ Khmer - Pali, ngữ pháp Khmer, Lễ Dâng

y, kinh Nhựt tụng, Lịch Sử Đức Phật, Kinh pháp cú, các Bài giảng Phật ngôn,

Bài giảng Luật giới, Phạn ngữ Căn bản, 38 Pháp Hạnh Phúc, Giáo trình Lịch sử

Phật giáo Nguyên thủy… Đến nay, đã in 04 đợt sách với 82 đầu Kinh sách, trên

200 ngàn quyển; đồng thời, đã trao đến tất cả các chùa Khmer.

Song song đó, BTSPG các tỉnh, thành phố có PGNTK như: An Giang,

Kiên Giang, Hậu Giang, Sóc Trăng, Trà Vinh, Vĩnh Long, Tây Ninh, Cần

Thơ, Chùa Chantarangsay, thành phố Hồ Chí Minh được các cơ quan chức

năng cho phép nhập 473 bộ Đại Tạng Kinh bằng chữ Khmer. Song song đó,

Ban Điều hành Học viện Phật giáo Nam tông Khmer gồm: Hòa thượng Thạch

Sok Xane, Hòa thượng Đào Như, Hòa thượng Danh Lung, Thượng tọa Lý

Hùng, Đại đức Danh Dần đã sang Vương quốc Campuchia thỉnh được 96 đầu

sách để phục vụ Tăng sinh nghiên cứu, học tập.

42

Ngoài ra, PGNTK có 02 website (Phật giáo Nam tông Khmer và Phật

giáo tỉnh Kiên Giang) do Phân ban Văn hóa PGNTK chịu trách nhiệm, đã và

đang vào hoạt động ổn định trong mạng lưới văn hóa, truyền thông của

GHPGVN. Bên cạnh đó, các vị Tăng sĩ Khmer còn tham gia đăng tin, hình

ảnh các hoạt động Phật sự trên Tạp chí Phật giáo Nguyên thủy của Phật giáo

Nam tông Kinh, tạo nên một sắc thái đặc biệt phong phú, đoàn kết, hài hòa

của hai hệ phái.

2.1.3.4. Về hoạt động văn hóa - xã hội

Hằng năm vào các ngày lễ hội truyền thống của đồng bào Khmer như:

Lễ Chôl Chnăm Thmây, lễ Sene Đône Ta, lễ hội Ok Om Bok tại các chùa

PGNTK đều tổ chức ít nhất 03 loại hình văn hóa: Đua Ghe Ngo, Trống Sa

Dăm và Nhạc Ngũ Âm, thông qua đó vừa bảo vệ và phát huy bản sắc văn hóa

dân tộc, vừa góp phần làm phong phú món ăn tinh thần cho quần chúng Nhân

dân. Mặt khác, nhằm giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa của đồng bào

Khmer, Ban Tôn giáo Chính phủ, GHPGVN, BTSPG các tỉnh, thành và các

cơ quan chức năng đã có sự quan tâm đặc biệt trong việc hỗ trợ trùng tu các

chùa Khmer. Đến nay, 100% các chùa Khmer đều có tường rào và được trùng

tu, tôn tạo khang trang, đảm bảo được nét kiến trúc đặc thù văn hóa PGNTK,

xứng đáng là cơ sở Phật giáo tại địa phương, là nơi chiêm bái, tu học và sinh

hoạt của cộng đồng người Khmer ở Nam Bộ.

Học viện Phật giáo Nam tông Khmer được thành lập từ năm 2006 tại

thành phố Cần Thơ; đến nay đã đào tạo được 03 khóa với 98 Tăng sinh tốt

nghiệp Cử nhân Phật học và đang đào tạo Khóa IV, khóa V với 31 Tăng sinh

theo học. Đặc biệt, theo đề nghị của Hội đồng Điều hành Học viện Phật giáo

Nam tông Khmer, Ban Thường trực Hội đồng Trị sự GHPGVN đã có công

văn số 481/CV-HĐTS ngày 28/12/2015 chấp thuận về nguyên tắc cho phép

Học viện Phật giáo Nam tông Khmer liên kết với Trường Đại học Khoa học

Xã hội và Nhân văn - Đại học Quốc gia Hà Nội đào tạo chuyên ngành Tôn

giáo học, hệ vừa làm vừa học cho Tăng sinh và Phật tử Khmer, có 76 học

43

viên. Song song đó, để các lớp học Sơ cấp Pali, Vini được hoạt động ổn định,

Nhà nước đã giúp một phần kinh phí cho hoạt động giảng dạy tại các Trường

Trung cấp, Sơ cấp, Khmer ngữ của các tỉnh: Sóc Trăng, Cần Thơ, An Giang,

Bạc Liêu, Cà Mau, Hậu Giang, Kiên Giang, Vĩnh Long, Trà Vinh. Các lớp bổ túc

văn hóa cấp 1, 2, 3 và các lớp Anh văn, tin học cho Tăng sĩ Khmer và thanh thiếu

niên đồng bào dân tộc Khmer đều được duy trì và đạt được nhiều kết quả tại các

đơn vị này; mỗi năm học, có từ 4.000 đến 6.000 học viên tham gia. Việc thành lập

Trường đào tạo nghiệp vụ Sư phạm Trung cấp Phật học Pali cũng đã được

GHPGVN thông qua và đã có văn bản ủy quyền cho Hòa thượng Thạch Sok Xane

- Phó Chủ tịch Hội đồng Trị sự, Phó Trưởng ban Tăng sự Trung ương GHPGVN,

Trưởng BTSPG tỉnh Trà Vinh lập đề án và có kế hoạch triển khai thực hiện.

2.2. QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA HỘI ĐOÀN KẾT SƯ

SÃI YÊU NƯỚC VÙNG TÂY NAM BỘ

2.2.1. Bối cảnh lịch sử

Thời kỳ Pháp thuộc và dưới chế độ Cộng hòa miền Nam Việt Nam, hoạt

động của Phật giáo nói chung gặp rất nhiều khó khăn. Giai đoạn này, PGNTK

tồn tại riêng một hệ thống, với cơ cấu tổ chức chặt chẽ từ Trung ương đến cơ

sở. Xét thấy PGNTK là tôn giáo gắn liền với tộc người Khmer nên thực dân

Pháp đã triệt để lợi dụng hệ thống tổ chức của PGNTK nhằm phục vụ cho

mục đích chính trị. Tuy nhiên, các vị Tăng sĩ và Phật tử Khmer nhận thức

được triết lý từ bi, lòng vị tha nhân ái, niềm mong ước cho con người sống

đời sống yên vui hạnh phúc; đã đoàn kết đứng lên chống chế độ thực dân, tiêu

biểu nhất có cố Hòa thượng Tăng Phô (tên gọi khác Trần Phố) tích cực tham

gia hoạt động chống thực dân Pháp, được Tướng quân Đào Công Bửu (còn

gọi là cả Bửu, hay gọi Đại Nguyên soái Tướng quân) cấp cho bằng “Quân

Đại hùng sư”.

Từ khi có Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo, các vị Tăng sĩ và Phật tử

Khmer đã luôn tin tưởng và tham gia tích cực các phong trào cách mạng giải

phóng dân tộc góp phần thắng lợi trong các cuộc chiến chống thực dân Pháp.

44

Tuy nhiên, thay thực dân Pháp là đế quốc Mỹ xâm chiếm nước ta, từ năm

1954, chính quyền Sài Gòn tìm mọi cách để chia rẽ nội bộ PGNTK và trong

người Khmer ở Nam Bộ. Mục tiêu của Mỹ đối với người Khmer ở Nam Bộ

nói chung là phá hoại công cuộc đấu tranh thống nhất đất nước, phân hóa và

loại trừ các lực lượng thân Pháp, xây dựng chính quyền tay sai, nắm quyền

chỉ huy quân ngụy, tổ chức các đảng phái phản động thân Mỹ. Biện pháp cơ

bản của chúng là thực hành “tố cộng, diệt cộng”, tập trung đánh phá phong

trào cách mạng ở Nam Bộ.

Chúng huy động mọi lực lượng quân sự, mật vụ, hành chính, tình báo,

thông tin, tuyên truyền, tâm lý,… cùng bọn tay sai, địa chủ phản động mở

nhiều cuộc vây ráp, khủng bố triệt phá cơ sở cách mạng người Khmer. Mặt

khác, kế thừa một cách có chọn lọc những thủ đoạn trước đây của thực dân

Pháp, đế quốc Mỹ triệt để lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo của người Khmer

để chống phá cách mạng, dựng lên các đảng phái phản động mang màu sắc

dân tộc, tôn giáo để lừa bịp, lôi kéo quần chúng. Đế quốc Mỹ xác định, địa

bàn Tây Nam Bộ và vùng đất người Khmer cư trú có một vị trí chiến lược

quan trọng về chính trị và quân sự, nên chúng không từ bỏ phương thức thủ

đoạn nào để giữ vùng đất này. Mỹ ra sức viện trợ, ủng hộ chính quyền tay sai

thực hiện chính sách đồng hóa dân tộc, đàn áp, tàn phá các phum sóc của

người Khmer nhằm thực hiện chính sách thực dân mới.

Dưới sự chỉ đạo của Mỹ, chính quyền Ngô Đình Diệm ban hành các chỉ

dụ số 02 và số 07 về việc thu hồi ruộng đất của chính quyền cách mạng đã cấp

cho dân nghèo trong thời kỳ kháng chiến, trả lại cho địa chủ, mâu thuẫn giữa

đồng bào Khmer ở Nam Bộ với Mỹ - Ngụy ngày càng trở nên gay gắt. Do đó,

đồng bào Khmer càng quyết tâm đứng lên đấu tranh chống lại chế độ Mỹ -

Ngụy, để bảo vệ cuộc sống, bảo vệ quyền lợi của dân tộc mình. Đặc biệt, tại

Campuchia, cuối năm 1960 người Khmer Krom thành lập Mặt trận Giải

phóng Kampuchea Krom (tiếng Pháp: Front de Libération du Kampuchea

Krom, FLKK), chủ trương tấn công Việt Nam Cộng hòa đòi lại đất Nam Kỳ.

45

Chau Dera làm chủ tịch, với hai yêu sách chính: (1) Bình đẳng giữa người

Khmer và người Kinh; (2) Công nhận người Khmer Krom là công dân

Campuchia; vấn đề này đã tác động rất lớn đến tình hình ở Việt Nam.

Ngày 20/12/1960, tại vùng giải phóng ở xã Tân Lập, huyện Châu Thành

(nay là huyện Tân Biên), tỉnh Tây Ninh, MTDTGPMNVN được thành lập

bao gồm đại biểu các tầng lớp Nhân dân, các dân tộc, các tôn giáo, các nhân

sĩ yêu nước ở miền Nam, không phân biệt xu hướng chính trị, với Tuyên ngôn

và Chương trình hành động 10 điểm. Sự ra đời của MTDTGPMNVN do cố

Hòa thượng Sơn Vọng, rồi đến cố Hòa thượng Hữu Nhem làm Phó Chủ tịch;

phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc của các tầng lớp Nhân dân ở Nam

Bộ; trong đó, có sự tham gia của đồng bào Khmer diễn ra ngày càng mạnh

mẽ, rộng khắp, với nhiều hình thức rất sôi nổi.

Đến tháng 5/1961, Ủy ban Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Tây Nam

Bộ được thành lập tại xã Trí Phải, huyện Thới Bình, tỉnh Cà Mau; đứng đầu

có cố vấn Ủy ban là cố Hòa thượng Sơn Vọng và cố Hòa thượng Hữu Nhem;

Ủy ban Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Tây Nam Bộ có sức hút mạnh mẽ

và đã lôi cuốn các vị Tăng sĩ và Phật tử Khmer; theo đó, Mặt trận Sư sãi yêu

nước khu Tây Nam Bộ cũng ra đời (năm 1962) tổ chức được các cuộc mitting

với quy mô lớn gây được tiếng vang, thu hút đông đảo các tầng lớp Nhân dân

tham gia.

Ngày 20/12/1962, Trung ương Cục miền Nam ra Chỉ thị về đẩy mạnh

tuyên truyền và thực hiện chính sách dân tộc của Đảng trong vùng đồng bào

dân tộc Khmer nhằm chống lại âm mưu chia rẽ, bảo vệ khối đoàn kết dân tộc;

vận động đồng bào Khmer và đồng bào các dân tộc nhận rõ âm mưu và quyết

tâm làm thất bại chính sách bình định của địch. Năm 1963, phong trào yêu

nước, chống lại Chính quyền Ngô Đình Diệm của Nhân dân miền Nam nói

chung; của Tăng, Ni, Phật tử nói riêng đã bùng nổ thành phong trào Phật giáo

rộng lớn. Chính quyền Ngô Đình Diệm cho lập nên hai tổ chức Phật giáo để

lừa mị quần chúng và khống chế Tăng, Ni, Phật tử nói chung; Mỹ viện trợ

46

tiền bạc, vật chất cho tổ chức này hoạt động nhằm lôi kéo Tăng sĩ và Phật tử

Khmer để khoét sâu sự khác biệt và gây mâu thuẫn phân hóa trong nội bộ tín

đồ Phật giáo người Khmer.

Song song đó, ngoài việc thực hiện chính sách gom dân, lập ấp; đế quốc

Mỹ còn ráo riết đẩy mạnh chiêu bài Khmer tự trị để mua chuộc và đưa các

tầng lớp Tăng sĩ, trí thức người Khmer vào hoạt động trong các đảng phái, các

cơ quan do Mỹ lập ra; tuyển mộ thanh niên Khmer cho tổ chức phản động;

khơi lại những thành kiến dân tộc, gây mâu thuẫn trong nội bộ cư dân ở Nam

Bộ nhằm để chống phá cách mạng Việt Nam. Năm 1963, cùng với phong trào

cách mạng của Nhân dân miền Nam, phong trào yêu nước của Tăng, Ni, Phật

tử đã bùng nổ thành phong trào Phật giáo rộng lớn.

Trong thời điểm này, ngày 27/8/1963, ngài Norodom Sihanouk tuyên bố

đoạn giao với Việt Nam Cộng hòa nhằm gây áp lực tranh đấu cho người

Khmer Krom. Chính quyền Campuchia còn giúp cơ sở vật chất và ngoại giao

cho FLKK. Cuối năm 1963 lực lượng này sáp nhập với Mặt trận Giải phóng

Champa và Mặt trận Giải phóng Kampuchea phía Bắc (Front de Libération

du Kampuchea Nord FLKN) thành khối FULRO, mở rộng địa bàn hoạt động

từ các tỉnh, thành phố vùng Tây Nam Bộ đến tỉnh Phú Yên.

Đặc biệt, để đối phó với âm mưu của đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai Ngô

Đình Diệm; từ ngày 25/9/1963 đến ngày 15/10/1963, Trung ương Cục miền

Nam tổ chức Hội nghị dân vận Mặt trận miền Nam, Hội nghị đề ra nhiệm vụ

trước mắt là: “Không ngừng củng cố và mở rộng Mặt trận dân tộc thống nhất

bằng cách tăng cường tập hợp, đoàn kết các tầng lớp Nhân dân, các dân tộc,

tôn giáo, ra sức xây dựng lực lượng chính trị quần chúng, động viên lòng yêu

nước nồng nàn và chí căm thù giặc cao độ...” [ 79, tr. 480]. Trước tình hình

diễn ra ở trong và ngoài nước; Maha Sơn Thông (Tăng sĩ Khmer) chính là

người đề xuất việc thành lập Hội ĐKSSYN với Khu ủy Tây Nam Bộ nhằm

tập hợp, đoàn kết, vận động Tăng sĩ và Phật tử Khmer ủng hộ, tham gia phong

47

trào đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước và được Ban Thường

vụ Khu ủy Tây Nam Bộ nhất trí tán thành.

2.2.2. Giai đoạn từ khi hình thành đến dừng hoạt động (1964-1975)

Trước tình hình phát triển mạnh mẽ của phong trào cách mạng, sự khủng

hoảng của Chính quyền Sài Gòn; Trung ương Cục nhận định: “Trong năm

1964, Mỹ - Ngụy tăng cường bình định miền Nam bằng càn quét và lập ấp

chiến lược tại vùng đồng bằng Nam Bộ, trung tâm châu thổ Cửu Long...thi

hành một số chính sách bịp bợm đối với các tôn giáo...để tập hợp lực lượng

phản động “chống cộng” [79, tr. 520]. Trên cơ sở nhận định về âm mưu của

Mỹ - Ngụy, Khu ủy Tây Nam Bộ chủ trương thành lập “Hội Đoàn kết Sư sãi

yêu nước” ở 03 cấp (khu, tỉnh, huyện) trong cộng đồng người Khmer vùng

Tây Nam Bộ. Một mặt, nhằm tập hợp, đoàn kết các Tăng sĩ và Phật tử Khmer

đấu tranh chống lại chính quyền tay sai, phản động ở miền Nam - Việt Nam.

Mặt khác, nhằm đối trọng với Giáo hội Phật giáo Khemaranikay và Giáo hội

Phật giáo Theravada do Chính quyền Ngô Đình Diệm lập ra trước đó.

Năm 1964, Hội ĐKSSYN khu Tây Nam Bộ chính thức được thành

lập; cố Hòa thượng Thạch Som - Phó Chủ tịch UBMTDTGPMN được tín

nhiệm cử làm Hội trưởng; cố Hòa thượng Sơn Vọng - Phó chủ tịch

UBMTDTGPMN làm Chủ tịch danh dự. Sau đó, Hội ĐKSSYN ở các địa

phương như: Ba Xuyên (sau này là Sóc Trăng và Bạc Liêu); An Xuyên (sau

này là Cà Mau); Rạch Giá (sau này là Kiên Giang); Vĩnh Bình (sau này là Trà

Vinh) lần lượt được thành lập, với mục đích vận động Tăng sĩ và Phật tử

Khmer tham gia phong trào cách mạng, giải phóng dân tộc. Cụ thể như:

Tỉnh Ba Xuyên gồm: Sóc Trăng, Cần Thơ và Hậu Giang ngày nay; Hội

ĐKSSYN tỉnh Sóc Trăng được thành lập từ năm 1964. Ngày 01/01/1971, Hội

ĐKSSYN tỉnh Bạc Liêu được tách ra từ Hội ĐKSSYN tỉnh Sóc Trăng; cố

Hòa Thượng Thạch Som, Hội trưởng Hội ĐKSSYN khu Tây Nam Bộ đã

công bố và phân công Tăng sĩ Sơn Thal (Phó Trụ trì chùa Prey Chóp, xã Lai

Hòa, Vĩnh Châu, Sóc Trăng) làm Hội trưởng lâm thời và 6 thành viên trong

48

Ban Chấp hành lâm thời. Sau năm 1975, đến nay được sự quan tâm tạo điều

kiện của các cấp ủy Đảng, Chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và đoàn thể, Hội

ĐKSSYN tỉnh Sóc Trăng vẫn duy trì hoạt động.

Tỉnh Vĩnh Bình (nay là Trà Vinh và Vĩnh Long); Hội ĐKSSYN tỉnh Trà

Vinh được thành lập vào ngày 20/3/1965 tại chùa Cà Hom (xã Hàm Giang,

huyện Trà Cú, tỉnh Trà Vinh) dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Maha Sơn Thông -

Ủy viên Khu Tây Nam Bộ và Ban Thường vụ Tỉnh ủy Trà Vinh. Tại tỉnh An

Xuyên (nay là Cà Mau); dưới sự chủ trì của cố Hòa thượng Hữu Nhem, Hội

ĐKSSYN được thành lập vào ngày 12/6/1966 tại Rạch Cui (xã Khánh Bình

Đông, huyện Trần Văn Thời); Đại hội bầu cố Tăng sĩ Kim Vol làm Hội

trưởng, Thạch Huê làm Phó hội trưởng, Lâm Nuôl làm Thư ký, các ông Hữu

Khưm, Trần Sĩ Quang, Lý Hoàng Chia làm ủy viên. Hội ĐKSSYN tỉnh Rạch

Giá (nay là tỉnh Kiên Giang) được thành lập vào ngày 28/8/1968 tại chùa Xẻo

Cạn, huyện An Biên, tỉnh Rạch Giá (nay là huyện U Minh Thượng, tỉnh Kiên

Giang); đại hội triệu tập được 237 tăng sĩ và hàng trăm đồng bào Phật tử

Khmer trong vùng về tham dự.

Về số lượng hội viên trong giai đoạn 1964 - 1975, nếu căn cứ số liệu:

năm 1970, toàn Nam Bộ có 402 chùa, với 11.979 Tăng sĩ Khmer và số liệu

của “năm 1975, số lượng Tăng sĩ Khmer là 12.151 vị” [19, tr. 238]; chúng ta

có thể suy luận rằng: Số hội viên của Hội ĐKSSYN vùng Tây Nam Bộ

(không tính tỉnh An Giang) giao động khoảng 10.000 vị. Giai đoạn này, Hội

ĐKSSYN là tổ chức thành viên của Mặt trận Tổ quốc; hoạt động dưới sự chỉ

đạo, quản lý, hướng dẫn, hỗ trợ của Ban Khmer vận. Kết quả hoạt động của

Hội ĐKSSYN đã làm chuyển biến, phân hoá nhiều lực lượng địch. Số Tăng sĩ

và Phật tử Khmer ở các chùa vùng tạm chiếm thân chính quyền Mỹ - Ngụy

dần chuyển sang trung lập. Một bộ phận khác trung lập đã thay đổi chuyển

theo cách mạng tạo thành khối đoàn kết tiến hành các cuộc biểu tình lớn nhỏ

khắp các địa phương chống lại chính quyền Sài Gòn với các hình thức từ thấp

đến cao, góp phần tích cực vào chiến thắng 30/04/1975, thống nhất đất nước.

49

Trong đó phải kể đến thành tích của Hội ĐKSSYN tỉnh Sóc Trăng vì đã

tham gia chỉ đạo các chùa vận động Tăng sĩ và đồng bào Khmer kêu gọi con

em trong hàng ngũ của địch hãy buôn súng trở về chính nghĩa.

Nổi bật là phong trào đấu tranh chính trị của đồng bào và sư sãi Khmer ở Đại

Tâm, huyện Mỹ Xuyên chống lại việc ép, đuổi nhà dân và chùa Trà Tim cũ để

mở rộng sân bay Sóc Trăng; phối hợp giải tán tổ chức phản động Khmer

SaRây, cảm hóa được 57 sư sãi theo tổ chức này trở về với Nhân dân hoặc

tham gia phong trào chống bắt lính trong đồng bào Khmer [09, tr.78].

Qua tổng kết hai cuộc chiến tranh, toàn vùng hiện có 92 bà mẹ Việt Nam

anh hùng, 11 anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, 2.863 liệt sĩ, 1.029

thương binh là người dân tộc Khmer, hằng chục ngàn gia đình người Khmer

có công với nước và 139 chùa PGNTK có công với cách mạng. Nhiều Tăng sĩ

tham gia kháng chiến cống hiến cho cách mạng như: Liệt sĩ, Hòa thượng Hữu

Nhem, nguyên là Trụ trì chùa Cao Dân, cố vấn Hội Đoàn kết Sư sãi Yêu nước

khu Tây Nam Bộ, Phó Chủ tịch UBMTDTGPMNVN; cố Hòa thượng Tăng

Nê, nguyên Phó Chủ tịch Mặt trận Liên Việt; cố Hòa thượng Tăng Hô; cố

Tăng sĩ Kim Cơ và nhiều vị Tăng sĩ khác đã tích cực vận động Phật tử

Khmer trong khu vực tham gia cách mạng, góp phần cho sự nghiệp chống Mỹ

cứu nước, giải phóng dân tộc. Song song đó, các vị Tăng sĩ hoạt động trong

Hội ĐKSSYN tỉnh Kiên Giang được Nhà nước tặng Huân chương, Huy

chương Kháng chiến như: Hoà thượng Danh Nhưỡng - Huân chương độc lập

hạng I, Huân chương kháng chiến hạng III; Cố Hoà thượng Danh Dĩnh - Huy

chương Kháng chiến hạng I; Cố Hòa thượng Ngô Văn Ẩm -Huân chương

Kháng chiến hạng I; Cố Hoà thượng Danh Thọ - Huy chương Kháng chiến

hạng III...

Tóm lại, dưới sự lãnh đạo của Khu ủy Tây Nam Bộ, sự chỉ đạo trực tiếp

của Ban Khmer vận, sự quản lý và giúp đỡ của Chính quyền, Mặt trận Tổ

quốc và đoàn thể chính trị - xã hội; cùng với sự nỗ lực to lớn của các vị Tăng

sĩ và Phật tử Khmer. Hội ĐKSSYN vùng Tây Nam Bộ đã phát huy hiệu quả

50

trong việc vận động, tập hợp, đoàn kết Tăng sĩ và Phật tử Khmer ủng hộ,

tham gia các phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc. Mặt khác, với tư cách là

tổ chức thành viên của Mặt trận Tổ quốc, Hội ĐKSSYN đã quy tụ, đoàn kết

được đông đảo Tăng sĩ và Phật tử Khmer nêu cao tinh thần yêu nước, đấu tranh

đòi độc lập dân tộc, chống lại mọi sự xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo và

luôn sát cánh cùng cộng đồng các dân tộc đang sinh sống ở Nam Bộ đóng góp sức

người, sức của cho kháng chiến đến ngày toàn thắng. Hoạt động của Hội

ĐKSSYN vùng Tây Nam Bộ được thể hiện rõ qua các phong trào đấu tranh

chống Mỹ cứu nước của các vị Tăng sĩ PGNTK, cụ thể là:

Mùa thu năm 1964, Hội Sư sãi yêu nước miền Tây Nam Bộ đã ra

đời, do Đại đức Thạch Som làm Hội trưởng, là một tổ chức đoàn kết

rộng rãi với các tôn giáo, dân tộc anh em, đấu tranh vì lợi ích của Tổ

quốc và Nhân dân... Có thể nói Hội Sư sãi yêu nước miền Tây Nam Bộ

là sản phẩm trong sự nghiệp đấu tranh chống Mỹ cứu nước của đồng bào

Khmer và Sư sãi nói chung [72, tr.113].

2.2.3. Giai đoạn từ năm 1975 - 1991

Trong giai đoạn này, tình hình trong nước, biên giới, khu vực và thế giới

diễn biễn phức tạp và những chuyển biến sôi động của công cuộc đổi mới đã

tác động mạnh mẽ đến đời sống, tư tưởng và hành động của các tầng lớp

Nhân dân. Nghiên cứu sinh phân tích một số vấn đến có liên quan nhằm làm

rõ các câu hỏi: (1) “Vì sao, từ năm 1975, Đảng đã có chủ trưởng chấm dứt

hoạt động Khu ủy Tây Nam Bộ và các tổ chức trực thuộc nhưng tại một số địa

phương, Hội ĐKSSYN vẫn duy trì hoạt động ? (2) Tại sao, Ban Bí thư Trung

ương Đảng (khóa VI) ban hành Chỉ thị số 68-CT/TW (1991), trong đó đề ra

chủ trương: “lập Hội Đoàn kết Sư sãi yêu nước... để động viên và phát huy

truyền thống yêu nước của sư sãi góp phần vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ

Tổ quốc”? Cụ thể như sau:

Tình hình thế giới và khu vực: Bên cạnh sự kiện Thiên An Môn tại

Trung Quốc (4/1989), sự kiện Liên xô và hệ thống xã hội chủ nghĩa bị sụp đổ;

51

nhiều quốc gia nổ ra hàng loạt các cuộc xung đột vũ trang kéo dài trong đó có

những nguyên nhân về tôn giáo và sắc tộc, chính xác hơn là tộc người. Tại

khu vực Đông Nam Á, cùng với sự kết thúc của “chiến tranh lạnh”, sự giảm

căng thẳng trong quan hệ giữa các cường quốc trên thế giới; đến cuối những

năm 90 của thế kỷ XX, hầu hết các nước lớn như: Mỹ, Nga, Đức, Anh, Pháp,

Ấn Độ, Nhật Bản, Trung Quốc... đều có sự điều chỉnh và công khai chiến

lược Đông Nam Á.

Tình hình Campuchia: Việt Nam và Campuchia là hai quốc gia láng

giềng gần gũi, có mối quan hệ lịch sử, tộc người, tôn giáo, văn hóa, chính trị

lâu đời. Campuchia là một trong những đất nước mà người dân có một niềm

tin vào tôn giáo mạnh mẽ nhất và dường như tuyệt đối. Trước đây các vị Tăng

sĩ Khmer ở Việt Nam chịu sự tấn phong giáo phẩm của vua sãi Campuchia;

do vậy, vấn đề dân tộc - tôn giáo ở vùng Tây Nam Bộ luôn có mối quan hệ

chặt chẽ với Campuchia nên mọi diễn biến chính trị đều có ảnh hưởng và tác

động qua lại. Mặt khác, vấn đề “chính trị hóa” Phật giáo ở Campuchia đã

tồn tại từ rất lâu và càng trở nên sâu sắc hơn; các đảng phái chính trị ở

Campuchia thường dựa vào Phật giáo để tranh giành ảnh hưởng, vị thế của

mình trên chính trường Campuchia. Từ những năm 1975 - 1979, Việt Nam

giúp nhân dân Campuchia xóa bỏ chế độ diệt chủng Pol Pot - Ieng Sary và

trong 10 năm sau đó (1979 -1989), Việt Nam lại giúp Campuchia khôi phục

đất nước sau nội chiến. Quan hệ Campuchia - Việt Nam chủ yếu xoay quanh

việc giải quyết vấn đề hòa bình, hòa hợp dân tộc; đây cũng là thời gia cực kỳ

khó khăn trong quan hệ hai nước; mãi đến tháng 10/1991, Hiệp định hòa bình

Paris về vấn đề Campuchia được ký kết đánh dấu sự chấm dứt cuộc khủng

hoảng ở Campuchia và mở ra thời kỳ hợp tác và phát triển của khu vực Đông

Nam Á, trong đó có Việt Nam.

Tình hình trong nước: Sau ngày giải phóng miền Nam thống nhất đất

nước, Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam ban

hành Nghị định sáp nhập các tỉnh miền Nam theo tinh thần Nghị quyết số 19-

52

NQ/TW, ngày 20/9/1975 và Nghị quyết số 245-NQ/TW, ngày 20/12/1975 của

Ban chấp hành Trung ương Đảng về việc bãi bỏ cấp khu và hợp nhất cấp tỉnh.

Do chính quyền vừa mới được thiết lập và các thế lực thù địch tăng cường các

hoạt động chống phá cách mạng Việt Nam nên hoạt động của PGNTK ở một

số tỉnh mới hợp nhất dường như bị tê liệt.

Song song đó, cuộc chiến tranh biên giới Tây Nam để chống lại chế

độ diệt chủng Khmer Đỏ và chiến tranh biên giới phía Bắc bảo vệ Tổ quốc đã

tác động đến người dân trong vùng Tây Nam Bộ tìm cách chạy khỏi đất nước

để “tỵ nạn”, trốn tránh đi nghĩa vụ quân sự, tránh “rủi ro” do chiến trạnh hoặc

sợ buộc đi cải tạo, đi khai hoang vùng kinh tế mới … Mặc khác, trong những

năm cuối thập niên 80, đầu thập niên 90, tình hình đời sống kinh tế trong vùng

đồng bào Khmer gặp rất nhiều khó khăn, “số hộ thuộc diện nghèo chiếm 39,6%,

số hộ giàu chỉ chiếm 3%, số hộ khá chiếm khoảng 12%” [43, tr. 85].

Với tình hình diễn ra khác phức tạp và những khó khăn đang diễn ra trong

vùng Tây Nam Bộ, đồng bào Khmer đã biết tự giác tập hợp trong tổ chức Hội

ĐKSSYN đã được hình thành từ trước đó để tiếp tục vận động, tuyên truyền

Tăng sĩ, Phật tử Khmer cùng nhau đoàn kết khắc phục hậu quả chiến tranh, xây

dựng và bảo vệ Tổ quốc. Các cấp ủy đảng, chính quyền các địa phương cũng đã

nhận thấy vai trò của tổ chức đặc thù này nên đã không can thiệp vào hoạt động

của hội mặc dù đã có chủ trương chấm dứt hoạt động.

Qua 15 năm hoạt động (1975-1990) , Hội ĐKSSYN một số địa phương đã

có những đóng góp thiết thực trong quá trình vận động, tập hợp, đoàn kết Tăng

sĩ và Phật tử Khmer tham gia xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trước những diễn

biến phức tạp của tình hình quốc tế và trong nước; ngày 27/3/1990, tại Hội

nghị lần thứ 8, Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa VI) ban hành hai nghị

quyết quan trọng: Nghị quyết 8A-NQ/HNTW về Tình hình các nước xã hội

chủ nghĩa, sự phá hoại của chủ nghĩa đế quốc và nhiệm vụ cấp bách của

Đảng ta và Nghị quyết 8B-NQ/HNTW về Đổi mới công tác quần chúng, tăng

cường mối quan hệ giữa Đảng và Nhân dân.

53

Dưới sự lãnh đạo theo tinh thần đổi mới của Đảng, kết hợp sự nhạy bén,

năng động của từng Đảng bộ tại các địa phương, Mặt trận Tổ quốc và đoàn

thể chính trị - xã hội vùng Tây Nam Bộ đã vận động các tầng lớp Nhân dân

phát huy truyền thống đoàn kết yêu nước, vượt qua những khó khăn, đùm bọc

tương trợ nhau trong sản xuất và cuộc sống. Trong thời điểm này rất cần có

một tổ chức trong PGNTK chính thức tham gia thành viên của Mặt trận Tổ

quốc như giai đoạn 1964-1975 để động viên và phát huy truyền thống yêu

nước của Tăng sĩ và Phật tử Khmer góp phần vào sự nghiệp xây dựng và bảo

vệ Tổ quốc. Nhận thức được vị trí, vai trò của Hội ĐKSSYN, năm 1991, Ban

Bí thư Trung ương Đảng (khóa VI) kịp thời ban hành Chỉ thị số 68-CT/TW,

trong đó đề ra chủ trương lập Hội Đoàn kết Sư sãi yêu nước...

Tóm lại, với những tác động bởi tình hình trong nước, biên giới, khu vực

và thế giới như đã phân tích và với nhận thức của các vị Tăng sĩ và Phật tử

Khmer về hoạt động Hội ĐKSSYN trong giai đoạn 1964 -1975 do Đảng lãnh

đạo đã mang lại hòa bình, độc lập, tự do cho dân tộc; nhất là chương trình

hành động 10 điểm của MTDTGPMNVN gồm:

(1) Đánh đổ thuộc địa trá hình của Mỹ và chính quyền tay sai, thành lập chính

quyền liên minh dân tộc, dân chủ; (2) Thực hiện chế độ dân chủ rộng rãi và

tiến bộ; (3) Xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ thực hiện cải thiện dân sinh;

(4) Thực hiện giảm tô, giải quyết ruộng đất cho nông dân, thực hiện người

cày có ruộng; (5) Xây dựng một nền văn hóa, giáo dục dân tộc, dân chủ; (6)

Xây dựng một quân đội dân tộc bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ Nhân dân; (7) Thực

hiện dân tộc bình đẳng, nam nữ bình quyền, bảo vệ quyền lợi của ngoại kiều

và kiều bào; (8) Thực hiện chính sách ngoại giao hòa bình, trung lập; (9) Lập

lại quan hệ bình thường giữa hai miền, tiến tới hòa bình thống nhất Tổ quốc;

(10) Chống chiến tranh xâm lược, bảo vệ hòa bình thế giới [85, tr. 182-183].

Song song đó, cùng với các chủ trương, chính sách nhằm ổn định tình

hình tư tưởng đối với một bộ phận Tăng sĩ và Phật tử Khmer và nhận thức rõ

vị trí, vai trò của các vị Tăng sĩ và Phật tử Khmer nói chung, Hội ĐKSSYN

54

nói riêng trong việc vận đông, tập hợp, đoàn kết ủng hộ tham gia phong trào

cách mạng trong lịch sử đấu tranh giải phóng dân tộc; phong trào thi đua yêu

nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Ngày 18/4/1991, Ban Bí thư Trung ương

Đảng (khóa VI) ban hành Chỉ thị số 68-CT/TW đã giải quyết được vấn đề dân

tộc ở vùng Tây Nam Bộ trong hoàn cảnh lịch sử đặc biệt khó khăn nên cộng

đồng người Khmer càng tin tưởng và mong muốn có sự trực tiếp lãnh đạo của

Đảng đối với cộng đồng thông qua tổ chức Hội ĐKSSYN.

2.2.4. Giai đoạn năm 1991- 2019

Trước vấn đề chia tách, tái lập các tỉnh được đặt ra theo Nghị quyết ngày

26/12/1991 tại kỳ hợp thứ 10 của Quốc hội (khóa VIII). Tuy các địa phương

vùng Tây Nam Bộ phải lo chuẩn bị về công tác nhân sự, cùng các điều kiện về

cơ sở vật chất khi phải tách nhưng vẫn quán triệt tốt Nghị quyết 8B-NQ/HNTW

ngày 27/3/1990 của Hội nghị lần thứ 8, Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa

VI) về Đổi mới công tác quần chúng, tăng cường mối quan hệ giữa Đảng và

Nhân dân. Song song đó, là việc triển khai thực hiện Chỉ thị số 68-CT/TW của

Ban Bí thư Trung ương Đảng (khóa VI) về công tác ở vùng đồng bào Khơ-me.

Đến nay, trên địa bàn vùng Tây Nam Bộ đã có 08 tỉnh, thành phố củng cố và

kiện toàn tổ chức “Hội Đoàn kết Sư sãi yêu nước” nhằm vận động Tăng sĩ và

Phật tử Khmer phát huy truyền thống yêu nước, tiếp tục tham gia các phong trào

xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Quá trình hình thành và phát triển của Hội ĐKSSYN ở các địa phương diễn

biến như sau: Hội ĐKSSYN tỉnh Minh Hải được thành lập vào năm 1966. Sau

khi chia tách tỉnh; ngày 03/12/1993, Hội ĐKSSYN tỉnh tổ chức Đại hội đại

biểu lần II (nhiệm kỳ 1993-1997) với tên gọi mới là Hội ĐKSSYN tỉnh Cà

Mau. Hội ĐKSSYN tỉnh Bạc Liêu được tách ra từ Hội ĐKSSYN tỉnh Sóc

Trăng, đến nay đã hoạt động được 06 nhiệm kỳ.

Sau năm 1975, Hội ĐKSSYN tỉnh Hậu Giang (cũ) vẫn duy trì hoạt động;

sau khi tách ra từ Hậu Giang, Hội ĐKSSYN tỉnh Sóc Trăng tiếp tục được

củng cố, kiện toàn tổ chức để hoạt động nhiệm kỳ II; đến nay đã qua 8 kỳ đại

55

hội (lần thứ VIII, nhiệm kỳ 2017-2022). Song song đó, trên cơ sở kế thừa hoạt

động của Hội ĐKSSYN tỉnh Hậu Giang; sau khi tách tỉnh, Hội ĐKSSYN

thành phố Cần Thơ tiếp tục được kiện toàn và hoạt động nhiệm kỳ II, đến nay

đã qua 6 kỳ đại hội (lần thứ VI, nhiệm kỳ 2016-2021). Riêng đối với tỉnh Hậu

Giang, sau một thời gian dài từ khi tách tỉnh đến năm 2006, Hội ĐKSSYN

tỉnh Hậu Giang mới được thành lập và hoạt động được 02 kỳ đại hội; tuy

nhiên, giữa hai nhiệm kỳ tiếp tục bị gián đoạn, cụ thể nhiệm kỳ I (2006 -2011)

và nhiệm kỳ II (2015-2020).

Hội ĐKSSYN tỉnh Rạch Giá (nay là tỉnh Kiên Giang) được thành lập vào

ngày 28/8/1968. Sau năm 1975, Hội ĐKSSYN tỉnh Rạch Giá chấm dứt hoạt động

cùng với hệ thống tổ chức cấp vùng Tây Nam Bộ; sau năm 1991, Hội ĐKSSYN

tỉnh Kiên Giang được củng cố và hoạt động đến nay được 06 nhiệm kỳ.

Tỉnh Cửu Long được thành lập vào năm 1976; từ ngày 26/12/1991, tỉnh

Cửu Long được tách ra thành 02 tỉnh (Trà Vinh và Vĩnh Long); đến năm

1993, Hội ĐKSSYN tỉnh Trà Vinh được củng cố và hoạt động như mô hình

ban đầu khi mới thành lập từ ngày 20/3/1965 tại chùa Cà Hom, xã Hàm

Giang, huyện Trà Cú, đến nay đã qua 7 kỳ đại hội. Riêng tỉnh Vĩnh Long, đến

ngày 05 tháng 11 năm 2009, Hội ĐKSSYN mới được thành lập. Đại hội suy

cử Thượng tọa Sơn Ngọc Huynh (Trụ trì chùa Hạnh Phúc Tăng) làm Chủ tịch

Hội, cùng 18 vị trong Ban Chấp hành Hội.

Tóm lại, hiện nay hoạt động của Hội ĐKSSYN tại các địa phương đang

ở các giai đoạn và nhiệm kỳ khác nhau, cụ thể như: Sóc Trăng, nhiệm kỳ VIII

(2017 - 2022); Trà Vinh, nhiệm kỳ VII (2018 - 2023); Kiên Giang, nhiệm kỳ

VI (2014 -2019); Cà Mau, nhiệm kỳ VI (2014 -2019); Cần Thơ, nhiệm kỳ VI

(2016 -2021); Bạc Liêu, nhiệm kỳ VI (2018 -2023). Năm 2006, Hội

ĐKSSYN tỉnh Hậu Giang được thành lập nhưng hiện nay Hội vẫn đang hoạt

động ở nhiệm kỳ II (2015 -2020). Hội ĐKSSYN tỉnh Vĩnh Long được thành

lập vào năm 2009, hiện đang hoạt động ở nhiệm kỳ III (2019 - 2024).

56

Hội ĐKSSYN vùng Tây Nam Bộ hoạt động với tính chất là tổ chức xã hội,

được Ủy ban nhân dân cùng cấp ra quyết định phê chuẩn danh sách Ban Chấp

hành và Điều lệ do Đại hội đại biểu Hội ĐKSSYN thông qua. Tuy tôn chỉ, mục

đích, tính chất được quy định trong Điều lệ của Hội ĐKSSYN tại các địa

phương có sự khác nhau nhất định nhưng về cơ bản đều có tính chất và chức

năng, nhiệm vụ đồng nhất. Đó là tiếp nối truyền thống tốt đẹp của các bậc tiền

bối, Tăng sĩ và Phật tử Khmer tích cực tham gia các phong trào thi đua yêu

nước, lao động sản xuất, nâng cao đời sống, thực hiện đường hướng hành đạo

gắn bó với dân tộc theo đường hướng: “Đạo pháp - Dân tộc - Chủ nghĩa xã hội”.

2.3. TÍNH CHẤT VÀ CHỨC NĂNG, NHIỆM VỤ CỦA HỘI ĐOÀN KẾT SƯ SÃI

YÊU NƯỚC VÙNG TÂY NAM BỘ

2.3.1. Tính chất và chức năng, nhiệm vụ giai đoạn 1964-1975

Tôn giáo có tính lịch sử, tính chính trị, tính quần chúng; theo đó, Hội

ĐKSSYN vùng Tây Nam Bộ là tổ chức xã hội của giới Tăng sĩ Khmer, là tổ

chức thành viên của Mặt trận Tổ quốc, gắn bó mật thiết với sinh hoạt, đời

sống của giới Tăng sĩ và Phật tử Khmer vùng Tây Nam Bộ. Trong thời kỳ

này, Hội ĐKSSYN hoạt động với tính chất và chức năng, nhiệm vụ cơ bản

như sau:

Về tính chất: Hội ĐKSSYN là tổ chức vừa mang tính chính trị, vừa

mang tính xã hội đặc thù trong giới Tăng sĩ PGNTK vùng Tây Nam Bộ

Về chức năng, nhiệm vụ: Chức năng, nhiệm vụ của Hội ĐKSSYN chủ

yếu là tuyên truyền, vận động Tăng sĩ và Phật tử Khmer ủng hộ, tham gia

thực hiện mục tiêu của sự nghiệp cách mạng Việt Nam; đó là đấu tranh giải

phóng dân tộc, thống nhất đất nước. Hội ĐKSSYN hoạt động như một tổ

chức đoàn thể chính trị - xã hội; với phương châm: “Muốn cứu đạo phải cứu

nước, không có độc lập dân tộc, không đánh thắng được đế quốc Mỹ xâm

lược thì đạo pháp chân chính không thể tồn tại và phát triển được” [09, tr.02].

2.3.2. Tính chất và chức năng, nhiệm vụ giai đoạn 1991- nay

Hội ĐKSSYN vùng Tây Nam Bộ được Ủy ban nhân dân cùng cấp ra quyết

57

định phê chuẩn danh sách Ban Chấp hành và Điều lệ hoạt động do Đại hội đại

biểu Hội ĐKSSYN thông qua. Tuy tôn chỉ, mục đích, tính chất được quy định

trong Điều lệ của Hội ĐKSSYN tại các địa phương có sự khác nhau nhất định

nhưng về cơ bản đều có tính chất và chức năng, nhiệm vụ đồng nhất với những

luận giải như sau:

2.3.2.1. Về tính chất của Hội Đoàn kết Sư sãi yêu nước

Một là, tính tự nguyện: Trong thực tiễn, bất cứ hội quần chúng nào được

lập ra đều xuất phát từ sự tự nguyện của quần chúng. Hội ĐKSSYN là tổ chức

tự nguyện của giới Tăng sĩ và Phật tử Khmer cùng thực hiện mục tiêu, nguyện

vọng, sở thích, sở trường của mình trong một tổ chức. Tính tự nguyện còn

được biểu hiện trong công việc của từng cá nhân hội viên thực hiện các nhiệm

vụ một cách tự nguyện do tổ chức đề ra và tất nhiên không đòi hỏi điều kiện

khi thực hiện nhiệm vụ đó. Tính chất tự nguyện của Hội chính là biểu hiện

tính tích cực xã hội của các hội viên nhằm thực hiện thỏa mãn những nhu cầu

và lợi ích của mình và của cộng đồng. Tính chất tự nguyện của Hội cũng là

một trong những sự khác biệt giữa các tổ chức hội quần chúng với các tổ chức

chính trị - xã hội.

Hai là, tính xã hội - chính trị: Tôn giáo và chính trị có mối quan hệ mật

thiết với nhau. Điều này được C. Mác, Ph. Ănggen chú ý đến ngay trong bước

đầu hoạt động cách mạng và khoa học của mình. Tuy nhiên, tính chính trị của

tôn giáo chỉ xuất hiện khi xã hội đã phân chia giai cấp, các giai cấp thống trị

đã lợi dụng tôn giáo để phục vụ lợi ích của mình. Ở Việt Nam, trong thời kỳ

kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, một số tôn giáo nói chung

thường gắn hoạt động tôn giáo với hoạt động chính trị. Riêng ở miền Nam -

Việt Nam, nổi bật nhất là các tổ chức có yếu tố tôn giáo như: Hội kín (Thiên

địa hội); Cao Đài Cứu Quốc, Cao Đài Liên Giao I và Cao Đài Liên Giao;

Liên đoàn Công giáo Nam Bộ, Hội Công giáo kháng chiến Nam Bộ (nay là

Ủy ban Đoàn kết Công giáo Việt Nam)... Trong Phật giáo có không ít tổ chức

yêu nước vừa hoạt động thuần túy tôn giáo vừa hoạt động chính trị; nổi bật nhất

58

ở Nam Bộ có Hội Phật học Nam Việt và Hội Tăng già Nam Việt là hai tổ chức

giữ vai trò nòng cốt trong các hoạt động chấn hưng, cũng như trong cuộc đấu

tranh để giữ vững sự vẹn toàn của Đạo pháp trước Pháp nạn năm 1963.

Khi phong trào yêu nước và cách mạng của Nhân dân, Tăng, Ni, Phật tử

ở miền Nam lên cao. Khu ủy Tây Nam Bộ có chủ trương thành lập Hội

ĐKSSYN trong giới Tăng sĩ Khmer nhằm để đối trọng với hai tổ chức do

Chính quyền Ngô Đình Diệm lập ra; điều đó thể hiện rõ “tính xã hội -chính

trị” của các chủ thể đã lập ra nó. Sau năm 1975, mặc dù tính chính trị trong

hoạt động của Hội ĐKSSYN có phần hạn chế. Thế nhưng, hiện nay trong tổ

chức Hội ĐKSSYN vẫn hiện hữu lực lượng lớn là đại biểu Quốc hội, đại biểu

Hội đồng nhân dân (HĐND), Ủy viên Mặt trận Tổ quốc, thành viên của các

đoàn thể xã hội - chính trị…; đặc biệt là lực lượng theo Quy định số 123-

QĐ/TW ngày 28/9/2004 của Bộ Chính trị sẽ góp phần rất lớn trong sự phát

triển kinh tế - xã hội; hòa giải được các vụ việc liên qua đến vấn đề an ninh

chính trị tại các địa phương.

Tóm lại, Hội ĐKSSYN là tổ chức xã hội có yếu tố tôn giáo luôn đồng

hành cùng dân tộc; tính chất xã hội - chính trị luôn quyện chặt và thể hiện

sinh động qua các mối quan hệ chặt chẽ trong các mặt kết cấu tổ chức; từng

thời kỳ lịch sử cách mạng, tùy thái độ của giai cấp thống trị, tùy mức độ, mục

tiêu tập hợp, cố kết của tổ chức đặc thù trong giới Tăng sĩ và Phật tử Khmer

mà hai mặt này chuyển hóa cho nhau, có lúc trội về mặt này, có lúc trội về

mặt kia. Cụ thể là, trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước thì tính chất

chính trị của Hội nổi bật hơn, còn trong thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc

thì tính xã hội lại chiếm phần ưu thế.

Ba là, tính dân tộc - tôn giáo: Người Khmer ở Nam Bộ gắn với Phật

giáo Nam tông như hình với bóng nên được gọi là “Phật giáo Nam tông

Khmer”. Những hình thức như trên được các nhà nghiên cứu gọi là cộng

đồng dân tộc - tôn giáo. Theo đó, Hội ĐKSSYN là tổ chức xã hội của giới

Tăng sĩ Khmer, có mối quan hệ mật thiết với cộng đồng người Khmer đáp

59

ứng cả hai yếu tố dân tộc và tôn giáo trong tổ chức hội gồm: “dân tộc Khmer

và Phật giáo Nam tông”. Mặt khác, lẽ ra từ sau năm 1975 thì Hội ĐKSSYYN

vùng Tây Nam Bộ đã hoàn toàn chấm dứt hoạt động theo Nghị quyết số 247-

NQ/TW ngày 29/9/1975 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt

Nam (Hội nghị lần thứ XXIV) nhưng do tình cảm gắn bó sâu đậm của người

Khmer đối với tổ chức này trong thời kỳ ác liệt của cuộc chiến tranh nên Hội

ĐKSSYN vẫn duy trì hoạt động tại một số địa phương nhằm vận động Tăng

sĩ và Phật tử Khmer khắc phục hậu quả chiến tranh cho đến khi có Chỉ thị số

68-CT/TW về công tác ở vùng đồng bào Khơ-me; những luận giải như trên

cho thấy “tính dân tộc - tôn giáo” của Hội ĐKSSYN được thể hiện rất rõ nét.

Bốn là, tính vùng - tộc người: PGNTK là tôn giáo gắn liền với một tộc

người cụ thể, tồn tại với những đặc trưng: cộng đồng đức tin, hệ thống nghi

lễ, hệ thống tổ chức, hệ thống luân lý.... Xét về mặt tổ chức, PGNTK nằm

trong GHPGVN; mối quan hệ giữa PGNTK với PGNT và Bắc tông của người

Kinh, người Hoa diễn ra rất hài hòa và tốt đẹp. Hội ĐKSSYN vùng Tây Nam

Bộ vẫn có vị trí, vai trò nhất định trong cộng đồng người Khmer, vì đây là

một tổ chức liên kết giữa Tăng sĩ và Phật tử Khmer. Xét về yếu tố tộc người

thì dân tộc Khmer sống tập trung ở vùng Tây Nam Bộ, xét về yếu tố tổ chức

thì Hội ĐKSSYN chỉ có ở vùng có đông đồng bào Khmer. Do đó, “tính vùng

- tộc người” của Hội ĐKSSYN được thể hiện rất rõ ở vùng Tây Nam Bộ mà

các vùng, miền khác không có loại hình tổ chức này.

Năm là, tính cố kết cộng đồng: Dân tộc Khmer là cư dân có mặt sớm trên

vùng đất Nam Bộ. Để tồn tại và duy trì truyền thống văn hóa tộc người, người

Khmer đã tập hợp nhau lại thành những khu vực cư trú ổn định; tổ chức thành

những đơn vị tự quản xã hội truyền thống với hai thiết chế là phum và sóc.

Phum là đơn vị xã hội nhỏ nhất, sóc là đơn vị xã hội hoàn chỉnh của người

Khmer do nhiều phum hợp thành. Tôn giáo là sản phẩm của lịch sử nên trong

từng thời kỳ của lịch sử, tôn giáo có sự biến đổi cho phù hợp với kết cấu

60

chính trị và xã hội của thời đại đó và PGNTK cũng không ngoại lệ. Tôn giáo

này với tộc người Khmer luôn có mối quan hệ liên kết rất mật thiết.

Hội ĐKSSYN ra đời với mục đích tập hợp, đoàn kết Tăng sĩ và Phật tử

Khmer nêu cao tinh thần yêu nước, đấu tranh chống lại mọi sự xâm phạm tự

do tín ngưỡng, tôn giáo dưới chế độ của Chính quyền sài Gòn; sát cánh cùng

cộng đồng các dân tộc Việt Nam đóng góp sức người, sức của cho cuộc kháng

chiến giải phóng dân tộc thắng lợi. Hiện nay, Hội ĐKSSYN tiếp tục là tổ

chức tập hợp, đoàn kết cùng thực hiện mục tiêu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc

Việt Nam; đặc biệt là việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc. Song

song đó, trong kết cấu tổ chức, Hội ĐKSSYN là tổ chức liên kết hoàn toàn tự

nguyện của Tăng sĩ và Phật tử Khmer không phân biệt tuổi đời, tuổi đạo cùng

hoạt động vì một mục tiêu do tổ chức đề ra nên tính cố kết cộng đồng cũng

được thể hiện rõ trong tổ chức đặc thù này.

2.3.2.2. Về chức năng, nhiệm vụ của Hội Đoàn kết sư sãi yêu nước

hiện nay

Hội ĐKSSYN thể hiện tinh thần đoàn kết, thống nhất hành động, gắn bó

mật thiết với đồng bào Khmer; là thành viên của Mặt trận Tổ quốc, có mối

quan hệ chặt chẽ với BTSPG, các tổ chức chính trị - xã hội, ngành Dân tộc,

ngành Tôn giáo cùng cấp... Phương thức và nội dung hoạt động của Hội

ĐKSSYN căn cứ vào chương trình, mục tiêu do Đại hội thông qua và được

Ủy ban nhân dân (UBND) cùng cấp phê duyệt. Hội ĐKSSYN vùng Tây Nam

Bộ đều có quy định chức năng, nhiệm vụ trong Điều lệ nhưng chức năng,

nhiệm vụ chung nhất của các tổ chức hội được thể hiện bởi các nội dung cơ

bản như sau:

- Về chức năng:

Phát huy truyền thống yêu nước, vì sự nghiệp đại đoàn kết của dân tộc,

giữ gìn bảo tồn phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, giáo dục đào tạo đội ngũ trí

thức trong giới Tăng sĩ và Phật tử Khmer, tuyên truyền hướng dẫn Tăng sĩ và

Phật tử Khmer tu học hành đạo đúng theo chánh pháp, với phương châm

61

“Đạo pháp - Dân tộc - Chủ nghĩa xã hội”; theo truyền thống dân tộc và chủ

trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước.

- Về nhiệm vụ:

Một là, tập hợp, tuyên truyền, vận động giới Tăng sĩ và Phật tử

Khmer đoàn kết thực hiện đúng chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng

và Nhà nước, nhất là chính sách về dân tộc, tôn giáo; thực hiện tốt quyền

và nghĩa vụ công dân; tích cực tham gia các phong trào thi đua yêu nước

“Sống tốt đời, đẹp đạo”;

Hai là, chăm lo đời sống vật chất cho Tăng sĩ và Phật tử Khmer; vận động

phát triển sản xuất, xây dựng kinh tế nhà chùa phù hợp với đạo pháp và chủ

trương, chính sách hiện hành. Cùng đồng bào chăm lo đời sống vật chất, tinh

thần cho người nghèo, đối tượng chính sách; thực hiện xóa đói, giảm nghèo;

Ba là, tham gia phát triển giáo dục; xóa mù chữ phổ thông và chữ Khmer

cho Tăng sĩ và thanh thiếu niên người Khmer. Phối hợp với các ngành chức

năng hướng dẫn khoa học kỹ thuật, nâng cao trình độ nhận thức về mọi mặt

cho hội viên, Tăng sĩ và Phật tử Khmer;

Bốn là, tham gia bảo tồn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc; cải tiến, đơn

giản hóa các nghi lễ trong tôn giáo, phong tục tập quán trong cộng đồng, xóa

bỏ dần các hủ tục lạc hậu. Vận động Tăng sĩ và Phật tử thực hành tiết kiệm,

góp phần xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư, xây dựng nông thôn mới,

đô thị văn minh vùng đồng bào Khmer. Giáo dục hội viên, Tăng sĩ và Phật tử

phát huy truyền thống đoàn kết, tinh thần yêu nước; nâng cao ý thức cảnh giác

và ngăn ngừa mọi hành vi lợi dụng tự do tín ngưỡng, tôn giáo để hoạt động

trái pháp luật;

Năm là, phối hợp và hỗ trợ BTSPG địa phương thực hiện việc quản lý tăng

sự và cơ sở thờ tự của hệ phái Nam tông theo luật đạo; hướng dẫn việc thực hành

tôn giáo cho Tăng sĩ và Phật tử Khmer theo phong tục, đạo pháp; đúng với chính

sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước; theo phương châm: “Đạo pháp - Dân tộc

- Chủ nghĩa xã hội” của GHPGVN.

62

Tiểu kết chương 2

Đồng bào Khmer ở Nam Bộ nói chung có mối thân tộc, cùng chung tiếng

nói, chữ viết, phong tục tập quán, tín ngưỡng, tôn giáo với người Khmer ở

Campuchia. PGNT luôn giữ vai trò quan trọng, chi phối mọi mặt trong đời sống

xã hội của người Khmer nên gọi là PGNTK; nổi bật nhất là việc giữ gìn và phát

huy tiếng nói, chữ viết, bản sắc văn hóa dân tộc, đào tạo đội ngũ trí thức, tạo ra

các hoạt động xã hội thiết thực.

Phát huy truyền thống yêu nước, đoàn kết dân tộc; các lực lượng tiến bộ

trong giới Tăng sĩ và Phật tử Khmer đã luôn tin vào sự lãnh đạo của Đảng.

Năm 1964, Hội ĐKSSYN khu Tây Nam Bộ ra đời; giai đoạn 1964-1975, Hội

hoạt động như tổ chức chính trị - xã hội, nội dung và phương thức hoạt động

chủ yếu là tuyên truyền, vận động Tăng sĩ và Phật tử Khmer ủng hộ, tham gia

các phong trào cách mạng; góp phần tạo nên những thắng lợi vẻ vang trong

lịch sử đấu tranh giải phóng dân tộc của Việt Nam.

Sau 30/4/1975, Hội ĐKSSYN cấp khu chấm dứt hoạt động nhưng Hội

ĐKSSYN cấp tỉnh, huyện ở một số địa phương vẫn duy trì hoạt động. Ngày

18/4/1991, Ban Bí thư Trung ương Đảng (khóa VI) ban hành Chỉ thị số 68-

CT/TW chủ trương tái lập Hội ĐKSSYN và đến nay có 08/13 tỉnh, thành phố

vùng Tây Nam Bộ đã củng cố, kiện toàn Hội ĐKSSYN để tiếp tục thực hiện

vai trò vận động, tập hợp, đoàn kết giới Tăng sĩ và Phật tử Khmer tham gia

các phong trào thi đua yêu nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Với tư cách là tổ chức xã hội, tổ chức thành viên của Mặt trận Tổ quốc,

mặc dù Hội ĐKSSYN ở mỗi địa phương có sự khác nhau nhất định về cơ cấu,

tổ chức, cơ chế hoạt động nhưng về cơ bản đều có chung mục đích nhằm phát

huy truyền thống yêu nước; đoàn kết dân tộc; giữ gìn và phát huy bản sắc văn

hóa; giáo dục và đào tạo đội ngũ trí thức; tuyên truyền và hướng dẫn Tăng sĩ

và Phật tử Khmer tu học hành đạo đúng theo truyền thống dân tộc và theo

pháp luật của Nhà nước.

63

Chương 3

THỰC TRẠNG HỘI ĐOÀN KẾT SƯ SÃI YÊU NƯỚC

VÙNG TÂY NAM BỘ VÀ VẤN ĐỀ ĐẶT RA HIỆN NAY

3.1. THỰC TRẠNG HỘI ĐOÀN KẾT SƯ SÃI YÊU NƯỚC VÙNG TÂY NAM BỘ

3.1.1. Hệ thống tổ chức và cơ chế hoạt đông

3.1.1.1. Về hệ thống tổ chức

- Về tổ chức: Tây Nam Bộ có 13 tỉnh, thành phố; trong đó, có 09 đơn vị

có đông đồng bào Khmer sinh sống, gồm: Trà Vinh, Sóc Trăng, Kiên Giang,

An Giang, Bạc Liêu, Hậu Giang, Vĩnh Long, Cần Thơ và Cà Mau. Thực hiện

tinh thần Chỉ thị số 68-CT/TW ngày 18/4/1991 của Ban Bí thư Trung ương

Đảng (khóa VI) về công tác ở vùng đồng bào Khơ-me; đến nay, có 08/09 địa

phương có đông đồng bào dân tộc Khmer đã củng cố, kiện toàn tổ chức Hội

ĐKSSYN gồm: Trà Vinh, Sóc Trăng, Kiên Giang, Bạc Liêu, Hậu Giang,

Vĩnh Long, Cần Thơ và Cà Mau.

Tỉnh Bạc Liêu, tỉnh Hậu Giang và thành phố Cần Thơ là địa phương tổ

chức 01 cấp hội (Hội ĐKSSYN tỉnh); tỉnh Cà Mau và tỉnh Vĩnh Long thực tế

chỉ tồn tại Hội ĐKSSYN cấp tỉnh, mặc dù trong Điều lệ quy định hệ thống tổ

chức của Hội gồm 02 cấp. Các địa phương còn lại được tổ chức 2 cấp hoặc 03

cấp, cụ thể: Tỉnh Sóc Trăng, có 01 Hội ĐKSSYN tỉnh và 10 Chi hội, gồm:

Trần Đề, Long Phú, Mỹ Tú, Mỹ Xuyên, Thạnh Trị, Châu Thành, Trần Đề, Kế

Sách, Vĩnh Châu, Sóc Trăng (Thị xã Ngã Năm và huyện Cù Lao Dung không

thành lập hội do mỗi đơn vị chỉ có 01 chùa nên 2 địa phương này đã suy cử

Tăng sĩ tham gia vào Ban Chấp hành của Chi Hội ĐKSSYN huyện Thạnh Trị

và huyện Long Phú).

Tỉnh Trà Vinh và Kiên Giang được tổ chức 03 cấp (tỉnh, huyện, cơ sở):

Tại Trà Vinh, ngoài Hội ĐKSSYN tỉnh, có 09 Chi hội gồm: Trà Cú, Cầu Kè,

Cầu Ngang, Tiểu Cần, Châu Thành, Càng Long, Duyên Hải, Trà Vinh; cấp cơ

sở (Chi hội xã, phường, Chi hội chùa) được quy định theo từng xã, phường,

64

thị trấn và các chùa. Hội ĐKSSYN cấp tỉnh đã trải qua 7 kỳ đại hội (nhiệm kỳ

2018-2023), với số lượng Ban chấp hành là 60 vị; cấp huyện trải qua 5 kỳ đại

hội với số lượng Ban chấp hành là 190 vị; cấp cơ sở trải qua 4 kỳ đại hội với

số lượng Ban chấp hành là 350 vị.

Tại tỉnh Kiên Giang, ngoài Hội ĐKSSYN cấp tỉnh, trên địa bàn có 08

Chi hội, bao gồm: 06 Chi hội cấp huyện (Rạch Giá, Gò Quao, Hòn Đất, Vĩnh

Thuận, Châu Thành, Giồng Riềng), 02 Chi hội liên huyện (An Biên - U Minh

Thượng và Hà Tiên - Kiên Lương - Giang Thành), cấp cơ sở (Tổ hội) được

quy định theo từng chùa.

Hội ĐKSSYN tỉnh Kiên Giang và Trà Vinh; tuy được tổ chức ở 03 cấp

nhưng cấp Chi hội và Tổ hội của hai địa phương này lại được cơ cấu tổ chức

khác nhau. Cụ thể: Chi hội ĐKSSYN cấp huyện của tỉnh Trà Vinh được tổ

chức theo đơn vị xã, phường, thị trấn; ở chùa thì có Tổ hội hoặc phân hội

riêng; còn Chi hội ĐKSSYN cấp huyện của tỉnh Kiên Giang được tổ chức

theo đơn vị chùa và mỗi chùa có 03 hội viên trở lên thì thành lập Tổ hội.

Mặt khác, dù được tổ chức ở các cấp khác nhau nhưng ở từng cấp Hội

ĐKSSYN vùng Tây Nam Bộ đều có Ban Chấp hành Hội. Tỉnh Trà Vinh và

Vĩnh Long có quy định số lượng tối đa Ủy viên Ban Chấp hành hội và quy

định rõ chức danh, chức trách, lề lối làm việc; cụ thể, tại Điều 12, Điều lệ hoạt

động của Hội ĐKSSYN tỉnh Trà Vinh quy định:

Số lượng Ban Chấp hành Hội ĐKSSYN tỉnh từ 45 - 65 thành viên;

Ban Chấp hành huyện, thành phố tùy theo địa bàn hành chánh lớn

nhỏ, nhưng địa bàn lớn nhất số lượng Ban Chấp hành không quá 39

thành viên; Ban Chấp hành cấp xã, phường, thị trấn số lượng không

quá 19 thành viên; Chi hội từng chùa nhiều nhất là 15 thành viên, ít

nhất từ 7 thành viên trở lên;

Chức danh của từng cấp hội: Những vị đứng đầu của các cấp hội gọi

là Chủ tịch, các Phó Chủ tịch, Chánh thư ký, Chánh văn phòng, và

các Ủy viên. Riêng những vị đứng đầu Chi hội gọi là Chi hội

trưởng, Chi hội phó;

65

Ban Chấp hành các cấp hội, được suy cử Ban Cố vấn để cùng nhau

trao đổi công việc quan trọng của tổ chức hội [62].

Riêng Hội ĐKSSYN tỉnh Vĩnh Long quy định số lượng Ban Chấp hành

hội các cấp tại Điều 13, Điều lệ của Hội như sau:

Số lượng Ban chấp hành tỉnh hội không quá 21 thành viên; Ban Thường trực

không quá 07 thành viên.

Mỗi Chi hội phải có 03 hội viên trở lên, nơi nào không đủ số lượng quy định

thì ghép với Chi hội khác.

Chi hội có từ 03 đến 05 hội viên, được cử 01 Chi hội trưởng; Chi hội có từ 06

đến 09 hội viên, được cử 1 Chi hội trưởng, 01 Chi hội phó; Chi hội có 10 hội

viên trở lên, được cử 1 Chi hội trưởng, 01 Chi hội phó và 01 ủy viên [63].

Các địa phương còn lại không có quy định cụ thể số lượng Ủy viên Ban

Chấp hành trong Điều lệ Hội ĐKSSYN mà do Đại hội đại biểu mỗi nhiệm kỳ

quyết định. Tùy theo đặc điểm, tình hình PGNTK của từng địa phương mà số

lượng Ủy viên Ban Chấp hành hội được xác định.

Cụ thể: Ban Chấp hành hội cấp tỉnh Trà Vinh, nhiệm kỳ VII (2018 -

2023) có 60 vị; Sóc Trăng, nhiệm kỳ VIII (2017 -2022) có 58 vị; Kiên Giang,

nhiệm kỳ VI (2014 -2019) có 37 vị; Cần Thơ, nhiệm kỳ VI (2016 -2021) có

28 vị; Cà Mau, nhiệm kỳ VI (2017 -2022), có 10 vị; Bạc Liêu, nhiệm kỳ VI

(2018 -2023) có 17 vị; Hậu Giang, nhiệm kỳ II (2015 -2020) có 29 vị; Vĩnh

Long, nhiệm kỳ II (2014 -2019) có 21 vị.

Hầu hết các Ủy viên Ban Chấp hành hội đều là Tăng sĩ PGNTK; riêng ở

tỉnh Sóc Trăng, Kiên Giang và Hậu Giang có chọn Cư sĩ là người trí thức

Khmer tham gia làm hội viên, thông qua Đại hội nhiệm kỳ, bầu các vị này vào

Ban Chấp hành hội nhằm hỗ trợ, giúp đỡ cho các hoạt động của Hội được tốt

hơn (Sóc Trăng: 15 vị, Kiên Giang: 9 vị, Hậu Giang: 02 vị).

Ban Chấp hành Hội ĐKSSYN tỉnh Kiên Giang bầu Ban Thường vụ; tỉnh

Trà Vinh và Sóc Trăng có thành lập các Ban chuyên môn tương đồng với các

Ban chuyên môn trực thuộc hệ thống tổ chức của GHPGVN. Các địa phương

66

còn lại không bầu Ban Thường vụ, không thành lập các Ban chuyên môn mà

chỉ suy cử hoặc bầu Thường trực gồm: Chủ tịch (Hội trưởng), các Phó chủ

tịch (các Phó hội trưởng) và Ủy viên Thư ký hội (Chánh Thư ký) phụ trách

từng lĩnh vực cụ thể.

- Về hội viên: Số hội viên từ năm 1991, tuy chưa thể tổng hợp một cách

đầy đủ nhưng qua biểu số liệu đồng bào Khmer đi tu ở chùa từ năm 1975 theo

bảng dưới đây. Nghiên cứu sinh có cơ sở nhận định rằng: Số lượng Tăng sĩ

Khmer từ năm 1975 đến nay có xu hướng giảm; tuy nhiên, nếu tính từ năm

1991 đến nay thì số lượng Tăng sĩ Khmer cơ bản ổn định; nghĩa là sau khi

Chỉ thị 68-CT/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng được ban hành; Hội

ĐKSSYN vùng Tây Nam Bộ được củng cố và kiện toàn tổ chức thì số lượng

hội viên của Hội ĐKSSYN vùng Tây Nam Bộ tương ứng như số hội viên như

hiện nay (nếu không tính số Tăng sĩ Khmer của tỉnh An Giang).

Bảng 3.1: Số lượng Tăng sĩ từ 1975 đến 6/1998

Ghi chú

Thời gian (năm)

Dân số (người)

700.000

Số lượng Sư sãi 12.151 11.000 8.246 7.500 8.361

Theo Trần Hồng Liên

1975 1979 1985 1995 6/1998 Nguồn: [26].

Hiện nay, cả nước có 8.092 Tăng sĩ Khmer đang sinh hoạt đạo tại 463

chùa PGNTK; tuy nhiên do tính biệt truyền nên việc nhập tu và hoàn tục của

các vị Tăng sĩ diễn ra thường xuyên, số lượng biến động liên tục nên rất khó

khăn trong việc quản lý và thống kê chính xác số hội viên tại một thời điểm

nhất định. Mặt khác, việc quy định tiêu chuẩn và điều kiện để trở thành hội

viên trong Điều lệ của từng địa phương đều có sự khác nhau nhất định. Qua

đối chiếu những quy định trong Điều lệ và số Tăng sĩ theo báo cáo của các địa

phương; hiện nay, số hội viên của 08 địa phương có Hội ĐKSSYN giao động

67

khoảng hơn 6.800 vị. Nghiên cứu sinh trích dẫn một số nội dung trong Điều

lệ; đồng thời, phân tích, luận giải thực trạng hội viên của Hội ĐKSSYN vùng

Tây Nam Bộ, như sau:

- Hội ĐKSSYN tỉnh Sóc Trăng: “Tất cả Sư sãi Phật giáo Nam tông

Khmer trong tỉnh từ Sadi trở lên đương nhiên là Hội viên chính thức của

Hội”. Theo đó, tỉnh Sóc Trăng có 1.794 hội viên là Tăng sĩ; trong đó, có 92

chức sắc (13 Hòa thượng, 13 Thượng tọa, 66 Đại đức), chiếm 5,1 %; còn lại

94,9 % là Sadi.

- Hội ĐKSSYN tỉnh Trà Vinh: “Sư sãi có quan điểm tốt, lập trường vững

vàng, có năng lực và đạo đức tốt, lý lịch rõ ràng, có trình độ học vấn từ trung học

phổ thông, trung cấp Phật học hoặc cao hơn, nếu tán thành Điều lệ Hội, tự

nguyện làm đơn xin gia nhập Hội đều được xem xét kết nạp”. Theo đó, tỉnh Trà

Vinh hiện có 3.255 hội viên là Tăng sĩ; trong đó, có 302 chức sắc (25 Hòa thượng,

57 Thượng tọa, 220 Đại đức), chiếm 9,3%; còn lại là Sadi, chiếm 90,7%.

- Hội ĐKSSYN tỉnh Kiên Giang : “Tất cả sư sãi và Phật tử tiêu biểu, có

trình độ Phật học cơ bản (Kinh Luận Giới lớp Trây) trở lên, nếu trong thời

gian không bị kỷ luật đạo và vi phạm pháp luật của Nhà nước, tán thành điều

lệ Hội, được ít nhất 2 hội viên đương nhiệm giới thiệu và 2/3 số Hội viên

trong Chi Hội biểu quyết đồng ý, được Ban Chấp hành huyện Hội phê chuẩn

thì được kết nạp làm Hội viên, sau khi được kết nạp chính thức sẽ được cấp

thẻ Hội viên”. Theo đó, trên địa bàn tỉnh Kiên Giang có 1.010 hội viên là

Tăng sĩ; trong đó, có 575 chức sắc (06 Hòa thượng, 14 Thượng tọa, 555 Đại

đức), chiếm 57%; còn lại 43% là Sadi.

- Hội ĐKSSYN tỉnh Bạc Liêu: “Tất cả các vị sư từ Hòa thượng đến Sadi

và một số vị cư sĩ, Achar đều được tham gia vào Hội”. Theo đó, Hội ĐKSSYN

tỉnh Bạc Liêu có 292 hội viên; trong đó, có 39 chức sắc (02 Hòa thượng, 09

Thượng tọa, 28 Đại đức), chiếm 13,4%; còn lại vị Sadi, chiếm 86,6%.

- Hội ĐKSSYN thành phố Cần Thơ: “Tất cả các vị sư sãi và trụ trì các

chùa từ Hòa thượng, thượng tọa, Đại đức, Tỳ khưu, Sadi, Achar, Ban quản trị

68

chùa nếu tự nguyện, tự giác tán thành điều lệ hoạt động của Hội được thường

trực hội xem xét đều được gia nhập vào tổ chức Hội”. Hiện nay, có 128 hội

viên; trong đó, có 13 chức sắc (02 Hòa thượng, 04 Thượng tọa, 07 Đại đức),

chiếm 10,2%, còn lại 89.8 % là Sadi.

- Hội ĐKSSYN tỉnh Cà Mau: “Tất cả những vị sư từ Hòa thượng,

Thượng tọa, Đại đức, Pháp sư, Achar, Tỳ Khưu, Sadi, Ban Quản trị nếu tán

thành Điều lệ Hội và tự nguyện xin gia nhập vào Hội đều được xem xét kết

nạp, là những vị tiêu biểu”. Theo đó, có hơn 32 hội viên; trong đó, có 08

chức sắc (02 Hòa thượng, 01 Thượng tọa, 05 Đại đức), chiếm 25 %; Sadi có

24 vị, chiếm 75%.

- Hội ĐKSSYN tỉnh Hậu Giang: “Tất cả các vị Sư sãi và trụ trì các chùa

từ Hòa thượng, Thượng tọa, Đại đức, Tỳ khưu, Sadi, Achar, Ban Quản trị

chùa nếu tự nguyện, tự giác tán thành điều lệ hoạt động của Hội được

Thường trực hội xem xét đều được gia nhập vào tổ chức Hội”. Toàn tỉnh, có

hơn 70 hội viên; trong đó, có (01 Hòa thượng, 10 Thượng tọa, 15 Đại đức),

chiếm 37,1%; còn lại là 54 vị Sadi, chiếm 62,9%.

- Hội ĐKSSYN tỉnh Vĩnh Long: “Tất cả các Sư sãi từ 18 tuổi trở lên, có

trình độ học vấn Tiểu học trở lên, nếu tán thành Điều lệ Hội, tự nguyện làm

đơn xin gia nhập Hội được xem xét kết nạp”. Đến nay, có 219 hội viên; trong

đó, có (01 Hòa thượng, 03 Thượng tọa, 130 Đại đức), chiếm 61,2%; còn lại

38,8% là Sadi.

Qua số liệu và tỷ lệ hội viên theo thành phần của từng địa phương cho

thấy: Thực trạng hội viên giữa các tổ chức Hội ĐKSSYN vùng Tây Nam Bộ

không thống nhất theo thành phần, độ tuổi, trình độ Phật học; số lượng chức

sắc chưa đồng đều giữa các tổ chức hội, giữa các địa phương. Cụ thể, đội ngũ

chức sắc có phẩm trật Hòa thượng,Thượng tọa, Đại đức tại tỉnh Kiên Giang

và Vĩnh Long: trên 50% hội viên; Hậu Giang: 37,1% ; Cà Mau: 25%; Cần

Thơ và Bạc Liêu: 10-15%; riêng Sóc Trăng và Trà Vinh: 10%. Mặt khác,

theo cách tính phẩm trật trong Phật giáo có quy định: “Năm 20 tuổi đời, vị

69

xuất gia thụ giới tỳ khưu được gọi là Đại đức; Năm 40 tuổi đời, vị tỳ khưu

được 20 tuổi đạo, được gọi là Thượng tọa; Năm 60 tuổi đời, vị tỳ khưu được 40 tuổi đạo, được gọi là Hòa thượng” [49].

Do vậy, nếu căn cứ vào số liệu Tăng sĩ Khmer của các địa phương có tổ

chức hội (An Giang chưa thành lập hội) thì hiện nay có 6.800 Tăng sĩ Khmer;

trong đó có: 52 Hòa thượng, 111 Thượng tọa, 1.026 Đại đức; còn lại là Sadi

khoảng 5.611 vị. Việc phân tích tuổi đời, tuổi đạo có thể giúp chúng ta định

lượng hoặc định tính được mức độ ảnh hưởng nhất định của các vị chức sắc

PGNTK đối với hội viên và cộng đồng người Khmer vùng Tây Nam Bộ.

Cụ thể, độ tuổi trên 60 có: 52 Hòa thượng/6.800 Tăng sĩ, chiếm 0,76%;

độ tuổi từ 40-59 có: 111 Thượng tọa/6.800 Tăng sĩ, chiếm 16,3%; độ tuổi từ

20-39 có 1.026 Đại đức/6.800 Tăng sĩ, chiếm 15%; còn lại, độ tuổi dưới 20 là

các vị Sadi có khoảng 5.611/6.800 Tăng sĩ, chiếm khoảng 82,5%. Qua tỷ lệ

trung bình của 08 Hội ĐKSSYN cho thấy, số Tăng sĩ có phẩm trật Hòa

thượng, Thượng tọa, Đại đức (gọi chung là chức sắc) chiếm 17,5 %, Tăng sĩ

có phẩm trật thấp (Sadi) chiếm 82,5%.

Tóm lại, qua thực trạng hội viên Hội ĐKSSYN vùng Tây Nam Bộ hiện

nay; đa số các vị lãnh đạo đứng đầu Hội cấp tỉnh đều là các vị chức sắc đang

giữ các vị trí quan trọng, chủ chốt trong hệ thống tổ chức GHPGVN. Nhiều vị

là đại biểu Hội đồng nhân dân, Ủy viên Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam,

thành viên các đoàn thể chính trị - xã hội các cấp. Đây là điều kiện để Hội

ĐKSSYN dễ dàng phát huy được vai trò trong việc vận động, tập hợp, đoàn

kết giới Tăng sĩ và Phật tử Khmer ủng hộ, tham gia thực hiện các phong trào

thi đua yêu nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

3.1.1.2. Về cơ chế hoạt động

Hội ĐKSSYN của từng địa phương đều được tổ chức và hoạt động theo

Điều lệ do Đại hội Đại biểu thông qua và được UBND cùng cấp ra quyết định

công nhận. Điều lệ bao gồm các nội dung: Tên gọi - tôn chỉ - tính chất - mục

đích, chức năng - nhiệm vụ - quyền hạn, hội viên, hệ thống tổ chức, nguyên

70

tắc làm việc, tư cách pháp nhân, khen thưởng - kỷ luật, tài chính, sửa đổi điều

lệ hội. Nội dung cụ thể được quy định trong Điều lệ của Hội ĐKSSYN vùng

Tây Nam Bộ về cơ bản phù hợp với chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà

nước, phù hợp với Hiến chương GHPGVN.

Song song với Điều lệ, Hội ĐKSSYN tỉnh Sóc Trăng và Bạc Liêu có ban

hành Quy chế làm việc, trong đó quy định trách nhiệm và quyền hạn, nguyên

tắt và chế độ làm việc; đồng thời phân công nhiệm vụ cho từng bộ phận, cá

nhân phụ trách các nhiệm vụ cụ thể. Riêng Hội ĐKSSYN tỉnh Sóc Trăng có

quy định về sinh hoạt, hoạt động của các chùa PGNTK trên địa bàn được ban

hành kèm theo quyết định của Ban Chấp hành Hội; trong đó, quy định nhiệm

vụ và quyền hạn đối với Trụ trì chùa, Tăng sĩ, Ban Quản trị chùa và Phật tử.

Tuy nhiên, tại Điều 6, Điều lệ hoạt động của Hội ĐKSSYN tỉnh Cà Mau

quy định: “...Ban Chấp hành Hội bầu ra Hội Mê-Kol trong lãnh đạo Hội

thực hiện quyền giám sát và xử lý mọi vi phạm nhằm đảm bảo việc chấp hành

Điều lệ Hội, tôn trọng kỷ cương của giáo luật...” [56]; nội dung này nghiên

cứu sinh nhận thấy chưa phù hợp với tình hình thực tiễn tại địa phương.

Nhìn chung, Điều lệ của Hội ĐKSSYN vùng Tây Nam Bộ đều quy định

nhiệm kỳ hoạt động của Hội cấp tỉnh và cấp huyện là 05 năm; riêng cấp Phân

hội, Tổ hội ở Trà Vinh và Kiên Giang thì quy định là 2,5 năm. Hầu hết các địa

phương đều quy định Ban Chấp hành Hội cấp tỉnh và cấp huyện 03 tháng họp

01 lần, cấp Phân hội, Tổ hội 01 tháng họp 01 lần; 06 tháng và 01 năm đều có

sơ, tổng kết để đánh giá hoạt động và củng cố, kiện toàn tổ chức. Bên cạnh

đó, nguyên tắc làm việc của các tổ chức Hội ở vùng Tây Nam Bộ được quy

định cũng chưa được thống nhất, cụ thể:

- Điều lệ của Hội ĐKSSYN tỉnh Trà Vinh quy định:

Điều 16. Hội làm việc theo nguyên tắc dân chủ, bình đẳng, tập thể

lãnh đạo, cá nhân phụ trách, thiểu số phục tùng đa số, cấp trên lắng

nghe ý kiến cấp dưới, cấp dưới tôn trọng ý kiến cấp trên. Nội bộ

đoàn kết, xây dựng thống nhất hành động, thân ái tự phê bình và phê

71

bình để cùng nhau tiến bộ.

Điều 17. Thường xuyên quan hệ với sư sãi và đồng bào phật tử; Ban

Chấp hành các cấp hội và các tổ chức thành viên, thực hiện có nề nếp

việc tiếp xúc, lắng nghe ý kiến đóng góp của các tầng lớp sư sãi và

đồng bào phật tử, phát huy những ưu điểm, kịp thời uốn nắn, khắc

phục những khuyết điểm, để hội hoạt động được tốt và hiệu quả [62].

Đối với Hội ĐKSSYN tỉnh Hậu Giang quy định mối quan hệ trong Điều

lệ hoạt động như sau:

Điều 2.…Có mối quan hệ chặt chẽ với BTSPG tỉnh Hậu Giang,

đoàn kết rộng rãi với tôn giáo bạn, nhằm tập hợp các vị Sư sãi tu

học, các chùa trong tỉnh.

Điều 9: Hội và thành viên thực hiện có nề nếp việc tiếp xúc với các tầng

lớp Sư sãi, Achar, Ban Quản trị chùa và đồng bào Khmer, tuyên truyền

vận động đồng bào dân tộc Khmer và Sư sãi thực hiện tốt các chủ

trương, chính sách của Đảng và pháp luật Nhà nước. Tìm hiểu tâm tư

nguyện vọng của Sư sãi và đồng bào dân tộc Khmer, phản ánh, kiến

nghị, đề xuất thông qua UBMTTQVN, BTSPG tỉnh [57].

- Điều lệ của Hội ĐKSSYN tỉnh Vĩnh Long quy định:

Điều 16. Hội ĐKSSYN tỉnh Vĩnh Long được tổ chức và hoạt động

theo nguyên tắc tự nguyện, tự trang trải về tài chính và tự chịu trách

nhiệm trước pháp luật Nhà nước. Hội làm việc theo nguyên tắc tập

trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách, thiểu số phục tùng

đa số, cấp dưới phục tùng cấp trên, cấp trên lắng nghe ý kiến cấp dưới,

nội bộ đoàn kết, bình đẳng, tương trợ, giúp nhau cùng tiến bộ [63].

- Điều lệ của Hội ĐKSSYN tỉnh Sóc Trăng thì quy định tinh gọn trong Điều

8: Dân chủ, bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau, thống nhất hành động theo đa số [61].

Riêng đối với kinh phí hoạt động của Hội ĐKSSYN vùng Tây Nam Bộ

đều được tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tự nguyện, tự trang trải về tài

chính và tự chịu trách nhiệm trước pháp luật Nhà nước. Tuy nhiên, Hội

72

ĐKSSYN của địa phương có những quy định khác nhau về kinh phí hoạt

động, cụ thể như:

- Điều lệ của Hội ĐKSSYN tỉnh Sóc Trăng quy định:

Điều 9. Nguồn tài chính của Hội :

1. Do các chùa đóng góp.

2. Do các tổ chức, cá nhân hợp pháp khác đóng góp.

3. Do Nhà nước hỗ trợ.

Điều 10. Tài chính, cơ sở vật chất của Hội là tài sản chung của tất cả

Hội viên và được sử dụng vào lợi ích chung của Hội, do Ban chấp

hành quản lý, sử dụng và báo cáo công khai với hội viên trong các

kỳ sinh hoạt Hội [61].

- Điều 25 của Điều lệ của Hội ĐKSSYN tỉnh Trà Vinh quy định tài chính

hội được huy động từ các nguồn:

1. Thu hội phí từ hội viên;

2. Đóng góp từ các chùa;

3. Cá nhân, tập thể phật tử cúng dường;

4. Một phần hỗ trợ của Nhà nước [62].

Việc thu chi kinh phí phải công khai, minh bạch, dân chủ. Kinh phí của

cấp nào thì cấp đó quản lý sử dụng. Việc chi tài chính phải tiết kiệm và đúng

mục đích như: tiếp khách, văn phòng phẩm, sửa chửa, mua sắm phương tiện

phục vụ cho lĩnh vực hoạt động của hội.

- Tại Điều 19 của Điều lệ của Hội ĐKSSYN tỉnh Kiên Giang quy định

kinh phí hoạt động bao gồm nguồn thu và chi, như:

1. Nguồn thu bao gồm:

a) Đóng góp của các Chi hội (chùa)

b) Các tổ chức, cá nhân hoặc đồng bào, Phật tử, mạnh thường quân

trong và ngoài nước có lòng hảo tâm ủng hộ

c) Thu từ nguồn hỗ trợ của các cơ quan Chính quyền, Mặt trận và

các đoàn thể

73

2. Chi: Chi cho hoạt động của Hội [58]

- Điều lệ của Hội ĐKSSYN tỉnh Cà Mau quy định:

Điều 14. Nguồn tài chính của Hội

1. Hội phí do Đại hội đại biểu quyết định

2. Sản xuất tự túc và Nhà nước hỗ trợ

3. Các tổ chức cá nhân khác ủng hộ

Điều 15: Tài chính và cơ sở vật chất của Hội là tài sản chung của tất

cả hội viên Hội đoàn kết sư sải yêu nước tỉnh Cà Mau, sư sãi, achar

được sử dụng vào mục đích lợi ích và nhiệm vụ chung của Hội do

Ban chấp hành cử người quản lý, thực hiện nguyên tắc tài chính kế

toán, thủ quỹ sử dụng, thanh quyết toán đúng qui định, định kỳ báo

cáo công khai với hội viên trong các kỳ sinh hoạt Hội [56].

3.1.2. Hoạt động và phát huy vai trò

Từ năm 1991 đến nay, hoạt động của Hội ĐKSSYN vùng Tây Nam Bộ

từng bước đi vào nề nếp; mọi hoạt động của từng tổ chức hội tại địa phương

đều bám sát vào Điều lệ, Quy chế hoạt động. Tuy nhiên, qua những kết quả

hoạt động nổi bật trong các nhiệm kỳ gần đây của Hội ĐKSSYN vùng Tây

Nam Bộ; nghiên cứu sinh không phân tích theo đúng các nhiệm vụ cơ bản

như đã nêu ở phần chức năng, nhiệm vụ của Hội ĐKSSYN vùng Tây Nam Bộ

tại mục 2.3.2.2 trong chương 2 mà chỉ khái quát một số kết quả hoạt động

mang tính chuyên sâu để dễ nhận diện vai trò hoạt động của Hội ĐKSSYN

như sau:

3.1.2.1. Tham gia tuyên truyền, vận động Tăng sĩ và Phật tử Khmer

thực hiện chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước

Phật giáo Việt Nam có truyền thống “hộ quốc an dân, đồng hành cùng

dân tộc”, luôn gắn bó với vận mệnh của đất nước. Lịch sử cho thấy, khi đất

nước hùng cường thì Phật giáo hưng thịnh; khi Tổ quốc lâm nguy, Phật giáo

sẵn sàng đứng lên tham gia chống giặc ngoại xâm, góp phần giành lại độc lập

cho dân tộc. Từ khi được củng cố và kiện toàn mới đến nay; Hội ĐKSSYN đã

74

tích cực ủng hộ, tham gia và tuyên truyền vận động các Tăng sĩ và Phật tử

Khmer phát huy truyền thống yêu nước; thực hiện đúng chủ trương, chính

sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước đạt được nhiều kết quả đáng ghi nhận.

Đặt biệt, Hội ĐKSSYN vùng Tây Nam Bộ đã phối hợp tốt với các ngành

chức năng tổ chức tuyên truyền về lược sử vùng đất Nam Bộ; vận động Tăng

sĩ và Phật tử Khmer đoàn kết thực hiện tốt chủ trương, đường lối của Đảng;

chính sách, pháp luật của Nhà nước; chấp hành tốt luật Phật chế và Hiến

chương của GHPGVN; tham gia các chương trình phát triển kinh tế, xã hội tại

địa phương; thực hiện nếp sống văn minh nơi cơ sở thờ tự, đoàn kết, hỗ trợ

giúp nhau cùng phát triển, thể hiện qua một số kết quả như sau:

Từ 2008, Hội ĐKSSYN tỉnh Sóc Trăng đã tổ chức được 11 cuộc, với

hơn 4.500 lượt người dự. Hội ĐKSSYN tỉnh Bạc Liêu (2009 -2013) tổ chức

được 29 cuộc, với 3.350 lượt người dự. Hội ĐKSSYN tỉnh Hậu Giang, tính

đến năm 2013 tổ chức được nhiều cuộc, với 6.000 người tham dự. Hội

ĐKSSYN tỉnh Vĩnh Long, trong nhiệm kỳ I (2009-2014) tổ chức 12 cuộc, với

939 lượt người dự; trong nhiệm kỳ II (2014-2019), Hội cũng đã tổ chức được

60 cuộc, với 2.160 lượt người tham dự. Hội ĐKSSYN tỉnh Trà Vinh, nhiệm

kỳ 2012 -2017 tổ chức được 2.019 cuộc, có 38.135 lượt người dự [06].

Song song đó, với phương châm: “Đạo pháp - Dân tộc - Chủ nghĩa xã

hội”, các vị chức sắc đã có hoạt động phối hợp trong quá trình truyền giảng

giáo lý giúp các vị Tăng sĩ và Phật tử có nhận thức đúng đắn và thái độ tích

cực đối với đường lối, chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà

nước. Qua kết quả khảo sát trong giới Tăng sĩ và Phật tử Khmer cho thấy:

Có 90,3% tín đồ và 94% sư sãi Phật giáo Nam tông Khmer cho rằng

các chức sắc tôn giáo tuyên truyền, vận động cảnh giác trước sự lợi

dụng và xúi giục của kẻ xấu; có 96,3% cho rằng, cần phải chấp hành

tốt chủ trương, chính sách của nhà nước…và có 80,8% cho rằng là

không nghe kẻ xấu xúi giục và lợi dụng [75, tr.460-461].

Bên cạnh đó, qua tổng kết trong phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ

75

quốc trong giai đoạn 2008 -2014 đã xuất hiện nhiều tấm gương người có uy

tín gương mẫu, tiêu biểu như: Hòa thượng Danh Nhưỡng, Hòa thượng Đào

Như, Hòa thượng Tăng Nô, Hòa thượng Thạch Sok Xane, Hòa thượng Thạch

Hà, Hòa thượng Danh Đổng, Hòa thượng Trần Nhíp; Thượng tọa Danh Dỗ,

Thượng tọa Danh Nhuôl … đã nhiệt tình hỗ trợ cơ quan Công an và các ban

ngành thực hiện công tác tuyên truyền, vận động Tăng sĩ, đồng bào Khmer

tham gia bài trừ mê tín dị đoan, phòng chống tệ nạn xã hội, bảo đảm an ninh

trật tự tại địa phương. Đặc biệt, Đại đức Hữu Trung (chùa Cao Dân, Tân Lộc,

Thới Bình, Cà Mau) đã phát hiện và chủ động đấu tranh, vận động đồng bào

Khmer không tin vào lời kích động, lôi kéo của đối tượng xấu tuyên truyền,

kích động tư tưởng hận thù dân tộc giữa người Khmer và người Kinh trên địa

bàn; Hòa thượng Lý Sa Muoth, Chủ tịch Hội ĐKSSYN tỉnh Bạc Liêu tích cực

tham gia xây dựng mô hình “Tổ tự quản dòng tộc” trong vùng đồng bào dân

tộc trên địa bàn tỉnh Bạc Liêu.

3.1.2.2. Tham gia chăm lo đời sống cho Tăng sĩ và Phật tử Khmer

Phật giáo luôn cao trí tuệ, cân bằng nội tâm để thích ứng với xã hội đầy

năng động; để đào tạo nguồn nhân lực kế thừa, BTSPG và Hội ĐKSSYN đã

khuyến khích và đã tạo điều kiện cho trên 100 hội viên là Tăng sĩ Khmer du

học ở bậc học thạc sĩ, tiến sĩ Phật học tại các quốc gia như: Thái Lan,

Campuchia, Myanmar, Srilanka, Ấn Độ; chỉ tính riêng tỉnh Trà Vinh có 57

Tăng sinh, Bạc Liêu có 04 tăng sinh đi học ở nước ngoài theo diện được Ban

Tôn giáo Chính phủ cho phép; hàng trăm vị Tăng sĩ Khmer cũng đang theo

học các trường đại học, cao đẳng ở trong nước với các ngành học như: Dân

tộc học, Tôn giáo học, Ngoại ngữ, Văn hóa học, Ngữ văn Khmer, Luật, Công

nghệ thông tin, Báo chí, Kế toán, Du lịch, điêu khắc gỗ... tại các tỉnh/thành

phố như: Hồ Chí Minh, Cần Thơ, Trà Vinh.

Song song đó, Hội ĐKSSYN vùng Tây Nam Bộ đã phối hợp chặt chẽ với

chính quyền địa phương, cơ quan chức năng tổ chức được hàng trăm lớp

chuyển giao khoa học - kỹ thuật, hướng dẫn Tăng sĩ và đồng bào Khmer áp

76

dụng kiến thức về khoa học công nghệ trong sản xuất, trồng trọt, chăn nuôi.

Cụ thể là: “tổ chức các lớp trồng hoa kiểng, cắt may, dạy vi tính, sửa chữa xe

Honda,… cho hàng ngàn sư sãi và đồng bào Khmer, tạo công ăn việc làm,

góp phần tích cực vào việc xóa đói giảm nghèo, nâng cao đời sống cho đồng

bào” [09, tr.13]; trong đó, Hội ĐKSSYN thành phố Rạch Giá phối hợp tổ

chức “được 36 lớp với 1.270 học viên theo học” [54, tr.04].

Ngoài ra, Hội ĐKSSYN vùng Tây Nam Bộ còn hỗ trợ được nhiều tập

viết và kinh phí cho con em người Khmer có điều kiện theo học các lớp phổ

thông và lớp ngữ văn Khmer. Đặc biệt, tại chùa Gho Si Ta Ram (ấp Cù Lao,

xã Hưng Hội, huyện Vĩnh Lơi, tỉnh Bạc Liêu), Hòa thượng Hữu Hinh - Chủ

tịch danh dự Hội ĐKSSYN tỉnh Bạc Liêu đã phối hợp với Trung tâm giáo dục

thường xuyên tỉnh tổ chức điểm trường dạy Bổ túc văn hóa hàng năm cho

Tăng sinh và con em đồng bào dân tộc Khmer từ lớp 9 đến lớp12; số học sinh

giao động hàng năm từ 120 đến 150 người.

3.1.2.3. Tham gia xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc

Với tinh thần đoàn kết hòa nhập, gắn bó giữa đạo và đời, phát huy

truyền thống phụng đạo yêu nước với phương châm: Đạo pháp - Dân tộc -

Chủ nghĩa xã hội; đồng thời, ý thức được Hội ĐKSSYN là tổ chức thành viên,

Ban Chấp hành Hội đã tích phối hợp cùng địa phương vận động Tăng sĩ và

Phật tử Khmer tham gia hưởng ứng các cuộc vận động do UBMTTQVN phát

động như: Cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng nông thôn mới”,

“Người Việt Nam dùng hàng Việt Nam”...; giới thiệu hội viên tham gia hiệp

thương, ứng cử đại biểu HĐND, tham gia Ủy viên UBMTTQVN, tham gia

thành viên các đoàn thể chính trị - xã hội các cấp.

Cụ thể như: Sóc Trăng (nhiệm kỳ 2011-2016), Hội ĐKSSYN đã giới

thiệu và hiệp thương được: 01 vị Đại biểu Quốc hội, 01 vị Ủy viên Ủy ban

Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (UBTWMTTQVN), 01 vị Trung

ương Hội Chủ thập đỏ Việt Nam, 01 vị Hội Chủ thập đỏ Việt Nam tỉnh, Ủy viên

UBMTTQVN các cấp 75 vị (cấp tỉnh 02 vi, huyện 17 vị, xã 53 vị), đại biểu

77

HĐND các cấp 37 vị (cấp tỉnh 01 vị, huyện 06 vị, xã 30 vị). Bên cạnh đó, Ban

Chấp hành Hội các cấp đều có tham gia Hội Khuyến học tại địa phương [61];

Hậu Giang (nhiệm kỳ 2006-2015), Hội ĐKSSYN đã giới thiệu: 01 vị là

đại biểu HĐND cấp thành phố; nhiều vị trong Ban Thường trực tham gia các

tổ chức thành viên gồm: UBMTTQVN tỉnh, Hội Liên hiệp Thanh niên tỉnh,

Hội Chữ thập đỏ tỉnh [57];

Trà Vinh (nhiệm kỳ 2013-2018), Hội ĐKSSYN đã giới thiệu các vị Tăng

sĩ tham gia vào các tổ chức, cụ thể như sau: 01 vị Ủy viên UBTWMTTQVN, 05

vị Ủy viên UBMTTQVN tỉnh, 02 vị Đại biểu HĐND tỉnh, 01 vị Hội Chủ thập

đỏ Việt Nam tỉnh, 12 vị Hội Đông y tỉnh, 01 Ủy viên UBMTTQVN tỉnh [62];

Vĩnh Long (nhiệm kỳ 2014-2019), Hội ĐKSSYN đã giới thiệu được 19

vị Tăng sĩ Khmer tham gia Ủy viên UBMTTQVN, đại biểu HĐND và các cơ

quan ban ngành đoàn thể các cấp; trong đó, cấp tỉnh có 03 vị, cấp huyện 08 vị,

cấp xã có 08 vị [63];

Bạc Liêu, Hội ĐKSSYN (nhiệm kỳ 2013- 2018) có hội viên tham gia đại

biểu HĐND tỉnh 01 vị, HĐND huyện 03 vị, UBMTTQVN huyện 04 vị,

UBMTTQVN xã 04 vị [55];

Cần Thơ (nhiệm kỳ 2016 - 2021) có 02 hội viên là đại biểu HĐND cấp

quận/huyện, 01 đại biểu là đại biểu HĐND cấp phường/xã. Ngoài ra, Hội

ĐKSSYN tỉnh Kiên Giang, Cà Mau và thành phố Cần Thơ cũng có nhiều hội

viên tham gia làm thành viên của các cơ quan ban, ngành như:

UBTWMTTQVN, UBMTTQVN thành phố, Hội Liên hiệp Thanh niên thành

phố, Hội Hữu nghị Việt Nam - Campuchia, Hội Chữ thập đỏ [53].

Với các số lượng các vị Chức sắc PGNTK là đại biểu, thành viên, hội

viên như đã nêu trên. Ban Chấp hành Hội đã tích phối hợp cùng với các

ngành chức năng của địa phương vận động hòa giải có hiệu quả một số vụ

việc gây mất đoàn kết trong cộng đồng; cụ thể như: Hội ĐKSSYN tỉnh Kiên

Giang tham gia vận động giải quyết có hiệu quả trong vụ tranh chấp đất đai ở

chùa Láng Cát (Rạch Giá), chùa Sóc Xoài (Hòn Đất), chùa Khlang Mương

(Châu Thành), chùa Kinh 2 (Vĩnh Thuận).

78

Hội ĐKSSYN tỉnh Sóc Trăng đã phối hợp với các ngành chức năng giải

quyết có hiệu quả vụ việc phức tạp xảy ra tại Trường Bổ túc Văn hóa - trung

cấp Pali Nam Bộ (08/02/2007) và tại các chùa Prây Chóp, chùa Tà sết

(5/2013) ở thị xã Vĩnh Châu, tỉnh Sóc Trăng. Theo đó, Chi Hội ĐKSSYN thị

xã Vĩnh Châu đã tích cực đôn đốc và phối hợp với các cơ quan chức năng giải

quyết được 29 vị việc khiếu nại liên quan đến tôn giáo; trong đó, có 04 vụ

việc tranh chấp phức tạp kéo dài.

Đặc biệt, sau khi biết được việc làm sai phạm của một số Tăng sĩ chùa

Tà Sết (xã Vĩnh Hải) và chùa Prey Chóp (xã Lai Hòa); Chi hội đã thể hiện

được trách nhiệm phối hợp, hỗ trợ UBMTTQVN và các đoàn thể chính trị -

xã hội tổ chức được 31 cuộc tuyên truyền, với 2.741 người tham dự (đối

tượng là chức sắc, Tăng sĩ, Ban Quản trị chùa, thân nhân của các Tăng sĩ vi

phạm và đồng bào Khmer tại xã Vĩnh Hải và xã Lai Hòa) [61].

Hội ĐKSSYN tỉnh Bạc Liêu giải quyết đạt kết quả tốt về mâu thuẫn nội

bộ giữa Phật tử và Ban Quản trị chùa Cù Lao (xã Hưng Hội) trong việc di dời

06 tháp cốt nhỏ vào một tháp cốt lớn; việc đền bù, giải tỏa hàng rào chùa

Mới (thị trấn Hòa Bình). Đặc biệt, trong phong trào bảo vệ an ninh Tổ

quốc, Hội ĐKSSYN tỉnh Bạc Liêu đã phối hợp với các cơ quan an ninh và

các ngành chức năng của tỉnh thành lập được 49 Tổ Tự quản dòng tộc, với

1.253 hộ, 7.249 người tham gia thực hiện nhiệm vụ bảo vệ an ninh, trật tự

an toàn xã hội ở khu dân cư, khóm ấp; trong đó, tại chùa Sereyvongsa

Jayaram (Khải Tông - Đìa Muồn), ấp Vĩnh Lộc, xã Vĩnh Phú Đông, huyện

Phước Long mới thành lập được 12 Tổ họ tộc vào ngày 20/10/2011, có 249

hộ, với 1.277 người Khmer; ở khu vực chùa Hội Phòng mới (phường Hộ

Phòng, thành phố Bạc Liêu) mới tổ chức ra mắt 11 Tổ họ tộc, có 169 hộ,

với 1.026 người [55]. Nội dung hoạt động của Tổ tự quản dòng tộc góp

phần tuyên truyền, vận động đồng bào Khmer thực hiện tốt các chủ trương,

chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, quy định của các địa

phương; tự giải quyết những tranh chấp bất hòa trong nội bộ, phát huy và

79

giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, thể hiện được tinh thần đoàn kết và giúp

đỡ nhau cùng phát triển.

3.1.2.4. Tham gia hoạt động giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa

truyền thống của dân tộc

Hội ĐKSSYN vùng Tây Nam Bộ rất quan tâm đến việc giữ gìn và phát

huy các giá trị bản sắc văn hóa dân tộc; thường xuyên quan tâm hướng dẫn,

phối hợp vận động các chùa xóa bỏ các tập tục lạc hậu, tổ chức dạy chữ

Khmer cho thanh, thiếu niên, cụ thể như: Hội ĐKSSYN thành phố Cần Thơ

đã tham gia và phối hợp tổ chức lớp dạy múa hát múa Aday, nghệ thuật sân

khấu Dù kê, các lớp nhạc công sử dụng nhạc cụ dân tộc; phối hợp thực hiện

tốt các dự án văn hóa phi vật thể có nguy cơ bị mai một như: “Phục dựng dự

án Dù kê”,“Truyền dạy kỹ thuật cắt, may trang phục tu sĩ truyền thống dân

tộc Khmer”, “Khôi phục và truyền dạy nghi thức giúp Achar Yuki trong lễ

tang truyền thống dân tộc Khmer.

Hội ĐKSSYN tỉnh Trà Vinh vận động các chùa đã thành lập được 87

dàn nhạc ngũ âm, 95 bộ trống Chhayam, 35 đội múa chằn, 40 đội bóng

chuyền, 08 đội ghe ngo…[53]. Song song đó, qua các nhiệm kỳ và giai đoạn

hoạt động khác nhau trong thời gian gần đây; Hội ĐKSSYN vùng Tây Nam

Bộ đã thực hiện có hiệu quả công tác giáo dục cho Tăng sinh và con em đồng

bào Khmer như sau:

Giai đoạn 2011 -2016, Hội ĐKSSYN tỉnh Cà Mau đã tổ chức được 125

lớp dạy chữ Khmer với 4.260 học viên [56].

Hội ĐKSSYN tỉnh Sóc Trăng (nhiệm kỳ 2012-2017) đã chỉ đạo các chùa

mở các lớp Pali Roong cho 2.165 Tăng sinh và Thommaviny cho 1.030 Tăng

sinh; tổ chức được 1.651 lớp Ngữ văn Khmer, với trên 50.546 vị Tăng sinh

và con em đồng bào Phật tử theo học [61].

Từ 2009-2014, Hội ĐKSSYN tỉnh Vĩnh Long đã tổ chức giảng dạy được

34 lớp Sơ cấp Phật học, với 927 học viên; 93 lớp ngữ văn Khmer từ lớp 1 đến

lớp 5, có 3.162 học viên [63].

80

Hội ĐKSSYN tỉnh Hậu Giang, nhiệm kỳ I (2006-2015) đã chỉ đạo và kết

hợp với các chùa tổ chức lớp xóa mù chữ Khmer cho hơn 400 con em người

Khmer [57].

Tại Trà Vinh, nhiệm kỳ 2013-2018, Hội ĐKSSYN các cấp đã tổ chức

được 680 lớp Ngữ văn Khmer, với 15.933 học viên; 109 lớp Sơ cấp Phật học,

với 2.306 học viên; 15 lớp trung cấp Phật học, với 386 học viên [62].

Trong nhiệm kỳ 2013-2018, hàng năm Hội ĐKSSYN tỉnh Bạc Liêu đều

tổ chức lớp Ngữ văn Khmer, với số lượng biến động hàng năm từ 2.900 đến

3.500 học viên [55].

Đặc biệt, nhiệm kỳ 2009-2014, Hội ĐKSSYN tỉnh Kiên Giang đã thành

lập được Ban Giáo dục để điều hành, quản lý việc học tập; chỉ đạo cho các

chùa trong tỉnh mở lớp dạy chữ Khmer, chữ Pali và Kinh Luận giới cho Tăng

sĩ và con em đồng bào Khmer được 03 lớp Kinh Luận giới (lớp Trây (đệ I

niên) có 409 thí sinh, lớp Tô (đệ II niên) có 186 thí sinh, Lớp Ek (đệ III niên)

có 59 thí sinh) và 01 lớp Pali roong, có 97 thí sinh. Song song đó, trong dịp hè

hàng năm, Hội phối hợp với ngành giáo dục, Ban Dân tộc chỉ đạo các chùa

Khmer tổ chức được 269 lớp dạy chữ Khmer, có 7.003 học viên [58].

Với tư cách là tổ chức xã hội, là thành viên của Mặt trận Tổ quốc đã góp

phần cho công cuộc xây dựng và đổi mới hệ thống chính trị, giúp hệ thống

chính trị ngày càng phát triển vững mạnh; thực hiện tốt việc giữ gìn và phát

huy bản sản văn hóa dân tộc; phát huy tốt vai trò vận động quần chúng tham

gia, ủng hộ phong trào giải phóng dân tộc, phong trào xây dựng và bảo vệ Tổ

quốc. Các hoạt động của Hội ĐKSSYN đã góp phần không nhỏ vào việc phát

triển tổ chức, phát triển con người mới một cách toàn diện trong bối cảnh hội

nhập quốc tế; góp phần quan trọng trong việc thúc đẩy công cuộc đổi mới đất

nước; thúc đẩy sự quản lý và phát triển của xã hội trong cộng đồng người

Khmer vùng Tây Nam Bộ.

Tóm lại, ngoài những hạn chế nhất định trong hoạt động của Tăng sĩ

Khmer; qua thực tiễn 25 năm triển khai thực hiện Chỉ thị 68-CT/TW, các cấp

81

ủy Đảng từ trung ương đến địa phương đã có báo báo tổng kết; trong đó có

đánh giá vai trò của Hội ĐKSSYN vùng Tây Nam Bộ trong đời sống xã hội,

nhất là vấn đề giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa truyền thống của dân tộc,

cụ thể như sau:

Làm tốt công tác tổ chức các lớp học tiếng Khmer, chương trình Pali

và chương trình Vini (Phật học); hoạt động đúng điều lệ theo

phương châm “Đạo pháp, dân tộc và chủ nghĩa xã hội”, tích cực

tham gia tuyên truyền giáo dục, vận động sư sãi và đồng bào Phật tử

thực hiện tốt đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật

của Nhà nước, hăng hái lao động sản xuất, nâng cao dân trí, giữ gìn

văn hóa truyền thống dân tộc, tham gia các phong trào cách mạng

tại địa phương, góp phần tích cực vào việc xây dựng khối đại đoàn

kết tôn giáo và dân tộc [03, tr.07].

3.1.2.5. Tham gia hoạt động từ thiện - xã hội

Vùng Tây Nam Bộ được xem là vùng giàu tiềm năng nhưng đời sống

của đồng bào Khmer còn nhiều khó khăn nên việc thực hiện các hoạt động

nhân đạo từ thiện còn rất hạn chế, thậm chí không được thực hiện trong một

thời gian dài. Tuy nhiên, từ khi là thành viên sinh hoạt trong ngôi nhà chung

của GHPGVN; PGNTK đã phát huy truyền thống đoàn kết, hòa hợp, tích cực

tham gia các phong trào ích nước lợi dân, phúc lợi xã hội, xây dựng đời sống

văn hóa mới trên địa bàn khu dân cư, góp phần xây dựng, phát triển xã hội

theo mục tiêu “Dân giàu nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” .

Đặc biệt, trong thời gian gần đây khi cuộc sống cộng đồng người Khmer

ngày càng được cải thiện thì các vị Tăng sĩ Khmer đã dần dần phát huy và

thực hiện những giá trị cốt lõi trong giáo lý từ bi, phổ độ chúng sinh của Phật

giáo. Thông qua hoạt động của Hội ĐKSSYN, các vị Tăng sĩ Khmer đã bắt

đầu quan tâm đến các hoạt động nhân đạo từ thiện.

Cụ thể, qua kết quả khảo sát gần đây trong cộng đồng người Khmer cho

thấy: “có 86,9% cho rằng là tham gia các phong trào thi đua yêu nước; có

82

86,7% cho rằng là tham gia các hoạt động từ thiện” [75, tr.460-461]. Đây là

biểu hiện mới trong giới Tăng sĩ và Phật tử Khmer, trong đó Hội ĐKSSYN là

chủ thể thực hiện các hoạt động hướng đến đời sống xã hội mang lại những

hiệu quả thiết thực qua một số kết quả nổi bật như sau:

Tỉnh Trà Vinh, nhiệm kỳ (2008- 2013), Hội ĐKSSYN vận động được

hơn 6 tỷ đồng nhưng nhiệm kỳ (2013-2018), Hội đã tích cực vận động được

hơn 58,2 tỷ đồng thực hiện công tác từ thiện xã hội; trong đó, Hội Đoàn kết

Sư sãi yêu nước tỉnh: 3.630.225.000 đồng; Chi hội các huyện, thị xã, thành

phố: Trà Cú, 13.789.200.000 đồng; Cầu Kè, 18.837.000.000 đồng; Cầu

Ngang, 4.371.030.000 đồng; Duyên Hải, 3.485.830.000 đồng; Tiểu Cần,

2.492.400.000 đồng; Châu Thành, 6.295.705.000 đồng; Càng Long,

1.819.623.000 đồng; Trà Vinh, 3.530.500.000 đồng [62].

Hội ĐKSSYN tỉnh Kiên Giang, nhiệm kỳ 2009-2014 đã vận động các

chùa trong toàn tỉnh đóng góp công tác từ thiện xã hội và xây dựng công trình

phúc lợi với tổng số tiền là 24.304.857.000đ; thực hiện được 61 căn nhà tình

thương, nhà đại đoàn kết; xây dựng được 142 cây cầu qua sông bằng bê tông

cốt thép; làm lộ giao thông nông thôn được 5.326m; kết hợp Hội chữ thập đỏ,

Hội từ thiện “vòng tay nhân ái”...khám và phát thuốc trị bệnh miễn phí cho

7.657 lượt người, hốt được 71.780 thang thuốc nam, hiến được 607 đơn vị

máu, phát được 7.356 suất quà; cấp được 366 cái phát áo quan, 20.200 cuốn

tập,trên 10.000 cây viết cho học sinh đi học chữ Khmer trong dịp hè và 2.960

phần quà cho học sinh nghèo vượt khó học giỏi [58].

Đặc biệt, Hội ĐKSSYN tỉnh Kiên Giang có 05 cơ sở khám chữa bệnh

miễn phí đặt tại các chùa gồm: Chùa Thôn Dôn (Rạch Giá), chùa Rạch Sỏi

(Rạch Giá), chùa Khlang Mương (Châu Thành), chùa Nha Si Cũ (Giồng

Riềng), chùa Thủy Liễu (Gò Quao). Chỉ tính trong năm 2015 và 6 tháng đầu

năm 2016, các cơ sở này đã khám và điều trị được 7.074 người; cấp phát được

50.670 thang thuốc; châm cứu được 4.337 người [59].

83

Hội ĐKSSYN tỉnh Sóc Trăng, trong 5 năm (2005-2012) đã thực hiện

công tác từ thiện xã hội được 4,683 tỷ đồng và trên 80 tấn gạo, vận động phật

tử và các chùa hiến 27.600 m2 đất để xây dựng trường học, làm giao thông

nhưng đến cuối nhiệm kỳ (2012-2017), Hội đã vận động được hơn 19,68 tỷ

đồng và trên 100 tấn gạo [61].

Hội ĐKSSYN tỉnh Bạc Liêu, trong nhiệm kỳ 2013 -2018 đã vận động

Phật tử tham gia đóng góp vào quỹ đến ơn đáp nghĩa, an sinh xã hội ... được

tổng trị giá hơn 5 tỷ đồng [55].

Nhiệm kỳ I (2009-2014), Hội ĐKSSYN tỉnh Vĩnh Long vận động

được hơn 02 tỷ đồng nhưng trong những năm của nhiệm kỳ II (2014 -

2019), Hội đã vận động được hơn 07 tỷ đồng, ủng hộ quỹ vì người nghèo

được 50 triệu đồng [63].

Tóm lại, với tinh thần nhập thế trong các hoạt động từ thiện xã hội, y

tế, giáo dục; chỉ trong thời gian 05 của một nhiệm kỳ gần nhất, Hội

ĐKSSYN vùng Tây Nam Bộ đã vận động được gần 113,5 tỷ đồng; góp

phần chia sẻ gánh nặng xã hội cho Nhà nước thế tục. Những hoạt động

này là một kênh truyền tải những giá trị đạo đức tốt đẹp của Tăng sĩ

PGNTK nói chung, Hội ĐKSSYN nói riêng đến với cộng đồng người

Khmer vùng Tây Nam Bộ và đến với xã hội. Do vậy, Hội ĐKSSYN rất

cần những điều kiện về chủ trương và chính sách từ phía Đảng và Nhà

nước; về vật chất và tinh thần của cả cộng đồng, xã hội để Hội ĐKSSYN

tiếp tục phát huy vai trò và thực hiện tối chức năng, nhiệm vụ góp phần

thực hiện công tác an sinh xã hội cùng với địa phương và với xã hội.

3.1.2.6. Tham gia hỗ trợ Ban Trị sự Phật giáo cùng cấp thực hiện

việc quản lý Tăng sự và cơ sở thờ tự

Từ năm 1981, PGNTK là một trong 09 tổ chức, hội, hệ phái thành viên

sáng lập ra GHPGVN (Hội Phật giáo Thống nhất Việt Nam, Giáo hội Phật

giáo Thống nhất Việt Nam, Giáo hội Phật giáo Cổ truyền Việt Nam, Giáo hội

Tăng già Nguyên thủy, Ban liên lạc Phật giáo yêu nước thành phố Hồ Chí

84

Minh, Giáo hội Thiên thai giáo Quán tông, Giáo hội Tăng già Khất sĩ Việt

Nam, Hội Đoàn kết Sư sãi yên nước Tây Nam Bộ, Hội Phật học Nam Việt)

nên mọi điều hành tổ chức thuộc về GHPGVN nhưng vẫn tôn trọng và giữ

nguyên về biệt truyền của hệ phái.

Tuy nhiên, việc trực thuộc GHPGVN chỉ là trên cơ sở pháp lý trong hệ

thống tổ chức PGVN, song thực chất PGNTK vẫn hoạt động theo tính biệt

truyền riêng. Do vậy, PGNTK đang tồn tại ba loại hình tổ chức có sự tham gia

của Tăng sĩ Khmer, gồm: “Hội ĐKSSYN” (mang tính chất hội quần chúng,

được địa phương hỗ trợ một phần kinh phí cho hoạt động thường xuyên);

“BTSPG” tại địa phương (do GHPGVN quản lý, Nhà nước không hỗ trợ

kinh phí cho hoạt động thường xuyên) và “Hội Mêkon” (tổ chức này hoạt

động thuần túy tôn giáo và hiện đang tồn tại ở tỉnh Trà Vinh).

Nhìn chung thì ba tổ chức này đều có chức năng, nhiệm vụ quản lý Tăng

sự và cơ sở thờ tự; đa số công tác quản lý và triển khai thực hiện công việc

Phật sự giữa BTSPG và Hội ĐKSSYN cùng cấp đều có sự phối hợp do được

quy định trong Điều lệ, cụ thể: Tôn chỉ, mục đích của Hội ĐKSSYN tỉnh Sóc

Trăng xác định: “Hội Đoàn kết Sư sãi yêu nước tỉnh Sóc Trăng sinh hoạt

trong ngôi nhà chung của Giáo hội Phật giáo Việt Nam, là tổ chức xã hội của

giới sư sãi Phật giáo Nam tông Khmer”[61]. Hội ĐKSSYN tỉnh Kiên Giang

có quy định mối quan hệ với giáo hội, với các cơ quan chức năng và mối quan

hệ giữa Tăng sĩ và Phật tử Khmer như sau:

Điều 2: Hội ĐKSSYN tỉnh Kiên Giang có mối quan hệ với BTSPG

tỉnh Kiên Giang, quan hệ làm việc với UBMTTQVN, Ban Dân

Tộc, Ban Tôn Giáo - Sở Nội vụ tỉnh để được hướng dẫn, giúp đỡ

nhằm tập hợp đoàn kết các tầng lớp sư sãi và đồng bào người

Khmer là Phật tử hệ phái Phật giáo Nam tông vào tổ chức Hội, để

chăm lo đời sống vật chất, tinh thần cho hội viên, sư sãi và Phật tử;

vận động đồng bào Khmer trong tỉnh hăng hái thi đua trong học tập

và lao động sản xuất, làm giàu chính đáng, hợp pháp, giữ gìn và

85

phát huy bản sắc văn hoá dân tộc, góp phần tích cực vào công cuộc

đổi mới của đất nước vì mục tiêu: “Dân giàu, nước mạnh, xã hội

công bằng, dân chủ, văn minh”…

Hội thành lập và hoạt động theo giấy phép của cơ quan Nhà nước có

thẩm quyền, căn cứ vào chương trình, mục tiêu do Đại hội đại biểu

Hội ĐKSSYN tỉnh đề ra; được sự giúp đỡ và hướng dẫn trực tiếp

của UBMTTQVN cùng cấp.

Điều 13. Các cấp Hội, các Hội viên phải thực hiện có nề nếp trong

việc quan hệ tiếp xúc giữa sư sãi và đồng bào Phật tử trên cơ sở

truyền thống [58].

Riêng tại Trà Vinh, tại khoản 2, Điều 6 Điều lệ của Hội ĐKSSYN tỉnh

quy định: “Hội có quyền đề nghị Sala Kon và Ban Trị sự Phật giáo tỉnh tiến

hành xem xét kỷ luật đối với hành vi sai trái giới luật xuất gia của sư sãi.

Trường hợp vi phạm nghiêm trọng pháp luật Nhà nước thì Hội sẽ đề nghị

Sala Kon tỉnh, huyện hội phối hợp với trụ trì xử lý cho hoàn tục” [62].

Tóm lại, với những kết quả đã đạt được qua hoạt động tham gia phối hợp

với BTSPG cùng cấp trong việc quản lý Tăng sự và cơ sở thờ tự cho thấy: Sự

tồn tại của Hội ĐKSSYN là rất quan trọng đối với sự phát triển của cộng

đồng và sự phát triển của xã hội. Tuy nhiên, với Điều lệ hoạt động của một số

Hội ĐKSSYN như đã trích dẫn. Nghiên cứu sinh nhận thấy vẫn còn việc làm

thay, thậm chí lấn lướt hoạt động của BTSPG cùng cấp; về lâu dài sẽ làm

giảm sút vai trò của BTSPG hoặc có thể gây mâu thuẫn trong hoạt động giữa

hai tổ chức và còn nhiều vấn đề khác đặt ra đối với việc quản lý Nhà nước về

tôn giáo nên việc tìm kiếm các giải pháp để giúp Hội ĐKSSYN vùng Tây

Nam Bộ phát huy vai trò của mình trong bối cảnh hội nhập quốc tế là vấn đề

mang tính cấp thiết.

3.2. ĐÁNH GIÁ ƯU ĐIỂM, HẠN CHẾ VÀ NGUYÊN NHÂN

3.2.1. Đánh giá về tổ chức và cơ chế hoạt động

3.2.1.1.Về ưu điểm

86

Một là, Hội ĐKSSYN vùng Tây Nam Bộ đã hình thành rộng khắp từ

cấp tỉnh đến cơ sở (chùa) và được tổ chức tương đối chặt chẽ, với nhiều Tăng

sĩ và Phật tử tham gia;

Hai là, Hội ĐKSSYN vùng Tây Nam Bộ đã hình thành cơ chế hoạt động

thông suốt giữa các cấp Hội thông qua Điều lệ và Quy chế hoạt động;

Ba là, về cơ bản Hội ĐKSSYN vùng Tây Nam Bộ hoạt động đúng tôn

chỉ, mục đích theo Điều lệ; tuân thủ pháp luật của Nhà nước và Hiến chương

của GHPGVN;

Bốn là, trong quá trình hoạt động, Hội ĐKSSYN vùng Tây Nam Bộ đã

chủ động xây dựng mối quan hệ chặt chẽ và tốt đẹp với Chính quyền, Mặt

trận Tổ quốc và các tổ chức thành viên của Mặt trận Tổ quốc;

Năm là, Hội ĐKSSYN vùng Tây Nam Bộ đã phát huy tốt vai trò trong

việc tập hợp, đoàn kết Tăng sĩ và Phật tử Khmer ủng hộ, tham gia các phong

trào thi đua yêu nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

3.2.1.2. Về hạn chế

Một là, hệ thống tổ chức của Hội ĐKSSYN vùng Tây Nam Bộ chưa

thống nhất giữa các địa phương; chưa tập hợp hết Tăng sĩ và Phật tử hiện có ở

vùng Tây Nam Bộ tham gia;

Hai là, cơ chế hoạt động của Hội ĐKSSYN vùng Tây Nam Bộ còn

chồng chéo với chức năng, nhiệm vụ với BTSPG cùng cấp;

Ba là, trình độ, năng lực điều hành hoạt động Hội ĐKSSYN của một bộ

phận Tăng sĩ trong Ban Chấp hành còn hạn chế;

Bốn là, hoạt động của một số Hội ĐKSSYN vùng Tây Nam Bộ chưa

đúng với Điều lệ, Quy chế và Hiến chương của GHPGVN;

Năm là, một số Hội ĐKSSYN cấp cơ sở chưa phát huy hết vai trò trong việc

tập hợp, đoàn kết Tăng sĩ và Phật tử Khmer; chưa chủ động xử lý các trường hợp

hội viên vi phạm những quy định trong tôn giáo và pháp luật của Nhà nước.

3.2.2. Đánh giá về hoạt động và phát huy vai trò

3.2.2.1. Về ưu điểm

Một là, hoạt động của Hội ĐKSSYN với tư cách là tổ chức thành viên,

87

Hội đã tham gia tích cực các phong trào do Mặt trận Tổ quốc phát động; góp

phần quan trọng trong việc thực hiện an sinh xã hội; thực hiện công cuộc xây

dựng và đổi mới đất nước,

Hai là, hoạt động của Hội ĐKSSYN với tư cách là hội quần chúng, là

thành tố trong hệ thống chính trị; Hội đã góp phần hỗ trợ đắt lực cho công

cuộc xây dựng và đổi mới hệ thống chính trị, giúp hệ thống chính trị ngày

càng phát triển vững mạnh;

Ba là, với tư cách là tổ chức xã hội trong giới Tăng sĩ Khmer, hoạt động

của Hội ĐKSSYN vùng Tây Nam Bộ đã góp phần không nhỏ vào việc quản

lý xã hội, phát triển tổ chức - phát triển xã hội - phát triển con người mới một

cách toàn diện trong thời kỳ hội nhập.

3.2.2.2. Hạn chế

Một là, hoạt động của Hội ĐKSSYN vùng Tây Nam Bộ với tư cách là tổ

chức thành viên Mặt trận Tổ quốc nhưng một số Hội chưa vận động được

100% Tăng sĩ Khmer tham gia các phong trào thi đua yêu nước, xây dựng và

bảo vệ Tổ quốc;

Hai là, hoạt động của Hội ĐKSSYN với tư cách là hội quần chúng; là

thành tố trong hệ thống chính trị nhưng một số Hội chưa phát huy hết vai

trò tập hợp hội viên tham gia phản biện xã hội, góp ý xây dựng Đảng, xây

dựng Chính quyền;

Ba là, hoạt động của Hội ĐKSSYN với tư cách là tổ chức xã hội trong

giới Tăng sĩ Khmer nhưng do số lượng chức sắc không phân bố điều nên một

số Hội chưa phát huy hết vai trò vận động, tuyên truyền và tập hợp sức mạnh

đại đoàn kết toàn dân tộc.

3.2.3. Nguyên nhân ưu điểm và hạn chế

3.2.3.1. Nguyên nhân ưu điểm

Một là, các cấp ủy Đảng, Chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và đoàn thể

thường xuyên quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo, tạo điều kiện và giúp đỡ về mọi

mặt cho Hội ĐKSSYN phát triển và hoạt động có hiệu quả.

88

Cụ thể, thông qua Ban Dân vận cấp ủy, Mặt trận Tổ quốc, ngành dân tộc,

tôn giáo… hỗ trợ kinh phí hoạt động thường xuyên, trang bị cơ sở vật chất

cho các cấp hội. Theo báo cáo của các địa phương (năm 2013), mức hỗ trợ

kinh phí hoạt động và trang bị cơ sở vật chất cho Hội ĐKSSYN như sau:

Trà Vinh hỗ trợ kinh phí hoạt động cấp tỉnh 240 triệu đồng/năm, cấp

huyện 10 đến 13,5 triệu đồng/huyện/năm. Kiên Giang hỗ trợ 50 triệu

đông/năm. Sóc Trăng hỗ trợ 50 triệu đồng/năm và đã hỗ trợ hơn 200 triệu để

xây dựng và mua sắm trang thiết bị cần thiết cho Văn phòng làm việc của

Hội. Cần Thơ hỗ trợ 30 triệu đồng/năm. Cà Mau hỗ trợ từ 60 đến 70 triệu

đồng/năm và đã xây dựng Văn phòng làm việc của Hội trong khuôn viên chùa

phường 1. Vĩnh Long năm 2010 hỗ trợ 50 triệu đồng, năm 2011 là 90 triệu

đồng, năm 2012 là 100 triệu đồng và năm 2013 là 150 triệu đồng. Bạc Liêu hỗ

trợ 15 triệu đồng/năm. Các tỉnh Trà Vinh, Sóc Trăng, Kiên Giang đã hỗ trợ xe ô

tô làm phương tiện đi lại cho Hội cấp tỉnh [06, tr.07].

Song song đó, các địa phương còn hỗ trợ kinh phí tổ chức đại hội, kinh

phí xây dựng, trùng tu các chùa, xây dựng nhà hỏa táng, xây dựng phòng học,

trang bị sách giáo khoa tiếng Khmer, sách song ngữ Việt - Khmer cho các

chùa, với số tiền lên đến hàng chục tỷ đồng, cụ thể:

Năm 2010 -2011, tỉnh Trà Vinh hỗ trợ xây dựng, trùng tu 14 điểm

chùa, kinh phí 1 tỷ 153 triệu đồng; hỗ trợ xây dựng 5 phòng học cho

2 chùa 1 tỷ 620 triệu đồng; hỗ trợ xây lò hỏa táng được 99 điểm

chùa trên 52 tỷ đồng, tặng 2.759 quyển sách gồm: sách giáo khoa

tiếng Khmer quyển 6 và sách song ngữ Việt - Khmer. Tỉnh Sóc

Trăng đã có 72/92 chùa có lò hỏa táng. Kiên Giang hỗ trợ xây dựng

trùng tu tháp 4 sư liệt sỹ và 26 chùa có công trong kháng chiến số

tiền trên 10 tỷ đồng. Thành phố Cần Thơ hỗ trợ xây dựng, sửa chữa

lò hòa táng 450 triệu đồng, hỗ trợ đóng mới 2 ghe ngo trị giá 400

triệu đồng, hỗ trợ 6 bộ nhạc cụ ngũ âm. Tỉnh Bạc Liêu xây dựng,

sữa chữa, trùng một số cơ sở thờ tự có công với cách mạng sổ tiền

gần 16,9 tỷ đồng [06, tr.08].

89

Cà Mau hỗ trợ gần 8 tỷ đồng để xây dựng trụ sở làm việc của Hội, xây

dựng chánh điện các chùa, xây dựng 2 Salatel, đóng mới 03 ghe ngo và đầu tư

04 bộ nhạc ngũ âm [09, tr.59]. Bên cạnh đó, Đảng và Nhà nước còn quan tâm

giới thiệu các vị Tăng sĩ Khmer tham gia hiệp thương, ứng cử đại biểu Quốc

hội; đại biểu HĐND, tham gia Mặt trận Tổ quốc các cấp; xem xét kết nạp

Tăng sĩ Khmer vào Đảng; đề nghị khen thưởng các tập thể, cá nhân có thành

tích xuất sắc, có nhiều công lao với đạo pháp và dân tộc...

Hai là, hoạt động của Hội ĐKSSYN vùng Tây Nam Bộ tạo được sự

chuyển biến mới về nhận thức và hành động, đưa mọi hoạt động đi vào ổn

định và phát triển theo phương châm: “Đạo pháp - Dân tộc - Chủ nghĩa xã

hội”. Mặt khác, Hội ĐKSSYN cấp tỉnh là tổ chức có thẩm quyền cao nhất

trên địa bàn một tỉnh, thành phố nên Hội cấp tỉnh thể hiện được vai trò lãnh,

chỉ đạo trực tiếp đến các chi hội, tổ hội và hội viên chấp hành tốt Điều lệ, Quy

chế hoạt động. Mặt khác, Hội ĐKSSYN vùng Tây Nam Bộ đã phát huy vai

trò đại diện cho Tăng sĩ và Phật tử Khmer trong quá trình lịch sử; tích cực

tham gia các phong trào thi đua yêu nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Ba là, hầu hết các vị lãnh đạo Hội ĐKSSYN đều giữ các vị trí lãnh đạo

quan trọng trong hệ thống tổ chức của GHPGVN các cấp. Cụ thể, qua kết quả

Đại hội nhiệm kỳ 2017 - 2022 tại 09 tỉnh/thành phố có đông đồng bào Khmer

thì có 04 vị Trưởng BTSPG là Tăng sĩ Khmer gồm: Hòa thượng Thạch Sok

Xane (Trà Vinh); Hòa thượng Đào Như (Cần Thơ); Hòa thượng Tăng Nô

(Sóc Trăng); Hòa thượng Danh Đổng (Kiên Giang); các địa phương còn lại

đều có Tăng sĩ Khmer là Phó trưởng BTSPG cấp tỉnh hoặc Trưởng BTSPG và

Phó BTSPG cấp huyện.

Bốn là, trước thời Pháp thuộc Tăng sĩ Khmer không tham gia các việc

chính trị, xã hội, không tham dự vào công việc của chính quyền, không bỏ phiếu,

không làm chứng trước tòa, không thưa kiện ai dù bị đánh chửi...Tuy nhiên,

ngày nay, Tăng sĩ Khmer trước hết là công dân của một nước độc lập; có đầy đủ

các quyền và nghĩa vụ nên các vị đã tham gia đóng góp tích cực cho hoạt động

90

xã hội; nhiều vị là đại biểu Hội động nhân dân, Ủy viên UBMTTQVN, thành

viên các đoàn thể chính trị - xã hội các cấp.

Năm là, hiện nay sốTăng sĩ Khmer giao động hàng năm khoảng trên dưới

8.000 vị, chiếm khoảng 15% so với số lượng Tăng, Ni trong cả nước. Mặt

khác, toàn vùng có 260 Ủy viên Ban chấp hành Hội đều là Chức sắc, Tăng sĩ

tiêu biểu; người có uy tín với cộng đồng người Khmer là một trong những

điều kiện để phát triển PGNTK và là nguồn lực đảm bảo cho Hội ĐKSSYN

phát huy vai trò vận động Tăng sĩ và đồng bào Khmer thực hiện đúng chủ

trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước; vai trò tập hợp, đoàn kết

Tăng sĩ và đồng bào Khmer tham gia hoạt động hướng đến đời sống xã hội.

Sáu là, người Khmer tiếp nhận PGNT không phải với tư cách là một hệ

tư tưởng, cùng các giáo lý cao siêu, thần bí mà là những điều rất gần gũi với

tâm tư, tình cảm, tính cách của mình nên họ đã chấp nhận những giá trị đạo

đức mang tính chuẩn mực, phù hợp với tâm lý, cốt cách, lối sống, hoàn cảnh

mà tôn giáo này mang lại; đó là tư tưởng nhân đạo, tinh thần bác ái, rộng

lượng, cứu khổ, cứu nạn, trừ gian, diệt bạo, vì cuộc sống bình yên, hạnh phúc,

lành mạnh của con người.

Bảy là, tổ chức xã hội truyền thống của người Khmer ở Nam Bộ có sự

đan xen giữa thiết chế xã hội tự quản truyền thống của tôn giáo; mối quan hệ

của hai yếu tố dân tộc - tôn giáo đã duy trì sự ổn định và tạo cho phum, sóc

của người Khmer có diện mạo riêng biệt so với các vùng, miền trong nước.

Cụ thể, xét về mặt giáo lý của PGNTK thì Tăng sĩ chỉ chăm lo việc tu hành,

thờ phụng và phục vụ đời sống tâm linh cho cộng đồng nhưng trong thực tế ở

vùng đồng bào Khmer cho thấy: Tăng sĩ Khmer đã có những đóng góp tích

cực trong việc quản lý cộng đồng. Khi thiết chế quản lý của Nhà nước đã

vươn tới các phum, sóc thì bộ máy tự quản truyền thống đã rút lui vào nhà

chùa; dưới sự điều hành của Trụ trì chùa, Ban Quản trị chùa tiếp tục thể hiện

chức năng quản lý; điều hành các hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo đây là điều

kiện để tuyên truyền các chủ trương chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà

91

nước đến Tăng sĩ và Phật tử Khmer gắn với việc phổ biến giáo lý của Phật

giáo; động viên đồng bào Khmer thực hiện tốt nghĩa vụ công dân…

Mặt khác, qua kết quả khảo sát trong cộng đồng người Khmer được thể

hiện qua biểu tổng hợp dưới đây cho thấy: Tăng sĩ và Phật tử Khmer rất quan

tâm và tích cực thực hiện các vấn đề trong đời sống xã hội. Tuy nhiên, với tỷ lệ

19,2% chưa khẳng định không nghe kẻ xấu xúi giục và lợi dụng cũng là con số

cũng khá cao mà chúng ta cần tiếp tục làm công tác vận động Tăng sĩ và Phật tử

Khmer luôn cảnh giác với các hoạt động lợi dụng PGNTK của các thế lực thù

địch để chống phá cách mạng Việt Nam.

Bảng 3.2: Kết quả khảo sát tiêu chí trong cộng đồng người Khmer

Tiêu chí Tỷ lệ (%)

Chấp hành tốt chủ trương, chính sách của nhà nước Tham gia các phong trào thi đua yêu nước Tham gia các hoạt động từ thiện Không nghe kẻ xấu xúi giục và lợi dụng Số lượng (người) 1367 1233 1230 1146 96,3 86,9 86,7 80,8

Nguồn: [75].

Nhìn chung, nguyên nhân ưu điểm về hệ thống tổ chức và cơ chế hoạt

động của Hội ĐKSSYN vùng Tây Nam Bộ là do các cấp ủy Đảng, Chính

quyền, Mặt trận Tổ quốc và đoàn thể ở địa phương thường xuyên quan tâm

lãnh đạo, chỉ đạo, tạo điều kiện, giúp đỡ mọi mặt. Các vị Chức sắc, Tăng sĩ

Khmer được giới thiệu, hiệp thương, bầu cử, ứng cử tham gia đại biểu Quốc

hội, đại biểu HĐND, thành viên Mặt trận các cấp; xem xét kết nạp Tăng sĩ

vào Đảng; đề nghị khen thưởng các tập thể, cá nhân có thành tích xuất sắc, có

nhiều công lao với Đạo pháp và Dân tộc.

Ban Chấp hành Hội có ý thức khắc phục khó khăn, đoàn kết, thống nhất

trong lãnh, chỉ đạo; sự nhiệt tình, đầy trách nhiệm các vị Trụ trì và Ban Quản

trị chùa. Đồng thời, luôn nhận thức rõ về vai trò và trách nhiệm tổ chức Hội

đối với Tăng sĩ và Phật tử Khmer; biết phát huy truyền thống cách mạng trong

sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc.

Các thành viên trong Ban chấp hành Hội, đa số là những vị Tăng sĩ tiêu

92

biểu, có uy tín với cộng đồng nên khả năng tuyên truyền, vận động Tăng sĩ và

Phật tử Khmer thực hiện đúng chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của

Nhà nước rất hiệu quả.

Mối quan hệ phối hợp giữa BTSPG và Hội ĐKSSYN các cấp ở từng địa

phương nhìn chung khá tốt và thuận lợi vì hầu hết các vị lãnh đạo Hội

ĐKSSYN các cấp, đều giữ các vị trí lãnh đạo quan trọng trong BTSPG các

cấp nên hai tổ chức này luôn có mối quan hệ gắn bó, giúp đỡ, hỗ trợ lẫn nhau

trong hoạt động; các phần việc liên quan vai trò, trách nhiệm của từng tổ chức

cơ bản đều được bàn bạc dân chủ, thống nhất trên tinh thần đoàn kết.

3.2.3.2. Nguyên nhân hạn chế

Một là, một số địa phương có quan điểm xem Hội ĐKSSYN không phải

là tổ chức xã hội quần chúng mà xem Hội ĐKSSYN như là tổ chức “hội,

đoàn” trong tôn giáo nên sự quan tâm chưa đúng mức. Hoạt động của Hội

ĐKSSYN vùng Tây Nam Bộ bị gián đoạn trong một thời gian dài. Cụ thể là:

Từ năm 1975, Khu ủy Tây Nam Bộ và các tổ chức trực thuộc đã hoàn thành

sứ mệnh lịch sử, chất dứt hoạt động; trong đó có Hội ĐKSSYN các cấp (khu,

tỉnh, huyện). Đến ngày 18/4/1991, Ban Bí thư Trung ương Đảng (khóa VI)

ban hành Chỉ thị số 68-CT/TW thì Hội ĐKSSYN mới được củng cố, kiện

toàn và thành lập mới nên hoạt động thiếu tính liên tục, thiếu tính kế thừa gây

ảnh hưởng đến chuỗi hoạt động và phát triển của các tổ chức Hội ĐKSSYN

vùng Tây Nam Bộ.

Hai là, mô hình tổ chức, bộ máy, chức danh, điều lệ, nội dung và

phương thức hoạt động của các cấp Hội ĐKSSYN giữa các địa phương thiếu

nhất quán nên gây ảnh hưởng đến hoạt động chung. Cụ thể như: Sóc Trăng là

tỉnh có số lượng đồng bào Khmer sinh sống đông nhất trong vùng, với 92

chùa và 37 Salatel nhưng Hội ĐKSSYN chỉ được tổ chức ở 02 cấp (cấp tỉnh

và cấp huyện, thị xã, thành phố). Hội ĐKSSYN tỉnh Cà Mau và Vĩnh Long

có quy định hệ thống của Hội gồm 02 cấp nhưng trong thực tế chỉ tồn tại tổ

chức Hội cấp tỉnh. Điều này dẫn đến việc duy trì hoạt động thường xuyên,

cũng như công tác triển khai, tuyên truyền chủ trương, chính sách của Đảng,

93

pháp luật của Nhà nước sẽ gặp khó khăn; việc nắm bắt tâm tư nguyện vọng

của Tăng sĩ và Phật tử ở vùng sâu, vùng xa sẽ không kịp thời giải quyết.

Ba là, Hội ĐKSSYN là tổ chức xã hội quần chúng của giới Tăng sĩ, gắn

bó mật thiết với Phật tử Khmer, là tổ chức thành viên của Mặt trận nhưng việc

giao đơn vị theo dõi, giúp đỡ tổ chức Hội chưa thống nhất giữa các địa

phương (Hậu Giang, Vĩnh Long giao cho Ban Tôn giáo (Sở nội vụ), Trà Vinh

giao cho Ban Dân tộc...) . Công tác lãnh đạo của một số cấp ủy Đảng đối với

Hội ĐKSSYN còn có mặt hạn chế; việc lãnh, chỉ đạo quán triệt, phổ biến,

triển khai thực hiện việc sơ kết, tổng kết các hoạt động của tổ chức Hội chưa

được quan tâm thường xuyên.

Một số cơ quan quản lý Nhà nước chưa nắm chắc được các hoạt động

của tổ chức hội, nhất là hội ở cơ sở. Công tác phối hợp giữa Mặt trận Tổ

quốc, các tổ chức chính trị - xã hội với Hội ĐKSSYN có lúc, có nơi chưa

thường xuyên và chưa chặt chẽ. Các vị Tăng sĩ và Phật tử Khmer phần lớn

sinh hoạt gắn bó với Hội ĐKSSYN; đồng thời, xem Hội như là một tổ chức

của Giáo hội nên mọi hoạt động liên quan đến PGNTK đều do Hội ĐKSSYN

xem xét và quyết định; cụ thể:

- Khoản 4. Điều 5, Điều lệ của Hội ĐKSSYN tỉnh Kiên Giang quy

định: Các cấp Hội phối hợp với BTSPG cùng cấp, quản lý mọi hoạt động

và cơ sở vật chất của các chùa hệ phái Phật giáo Nam tông (Khmer-

Kinh) đúng theo truyền thống. Xem xét, đề xuất phong phẩm, tán dương,

kỷ luật, trục xuất theo đúng giới luật và quy định pháp luật [58].

- Điều 13, Điều lệ của Hội ĐKSSYN tỉnh Bạc Liêu quy định:

Các Tăng sĩ tu học hoặc hội viên nào làm trái tôn chỉ, mục đích, điều lệ

hoặc có vi phạm giới luật Phật giáo tùy theo mức độ nặng nhẹ mà xử lý, cao nhất

thì đưa ra khỏi tăng chúng các chùa Khmer trong tỉnh, nếu làm vi phạm quy định

của Hội thì Trụ trì và Ban Quản trị phải chịu trách nhiệm trước Hội về những

sai lầm của mình [55].

Bốn là, vai trò và hoạt động của các chi hội, phân hội chưa được thể hiện

rõ nét; ít sinh hoạt theo Điều lệ nhưng lại thiếu sự quan tâm, kiểm tra, nhắc

94

nhở; công tác quản lý hội viên chưa chặt chẽ nên tình trạng vi phạm giáo luật,

pháp luật trong giới Tăng sĩ, nhất là Tăng sĩ trẻ còn xảy ra. Các cấp chi hội,

phân hội chưa thể hiện được vai trò đối với hội viên; khi hội viên vi phạm

giáo luật hoặc pháp luật thì cấp chi hội, phân hội không có khả năng xử lý mà

phải kiến nghị lên cấp trên để giải quyết.

Ban Thường vụ, Ban Thường trực Hội chưa có sự phân công nhiệm vụ

công việc cụ thể cho từng thành viên; phương thức làm việc của các Tiểu ban

chuyên môn trực thuộc chưa rõ ràng nên các vị trong Ban Chấp hành chưa

phát huy hết vai trò của mình. Mặt khác, các vị giáo phẩm, cao tăng, chức sắc

PGNTK cùng lúc vừa là trụ trì chùa, vừa là thành viên của nhiều tổ chức từ

trung ương đến cơ sở nên các vị luôn bị động trong công việc, không đủ thời

gian để thực hiện trọng trách theo từng cương vị được phân công đảm nhiệm

ở từng tổ chức, trong đó có Hội ĐKSSYN.

Bên cạnh đó, việc tham gia hội họp với BTSPG chủ yếu là giải quyết

công việc nội sự của hệ phái Bắc tông; việc của hệ phái Nam tông Khmer thì

đã có Hội ĐKSSYN giải quyết. Quan hệ phối họp giữa Hội ĐKSSYN và

BTSPG cùng cấp tại một số địa phương đôi lúc chưa thực sự nhịp nhàng; có

nơi hầu như hoạt động độc lập dẫn đến việc thực hiện chồng chéo chức năng,

nhiệm vụ. Cơ sở vật chất, kinh phí, phương tiện chưa đáp ứng được yêu cầu

công tác của Hội ĐKSSYN.

Thực tế cho thấy, văn phòng làm việc của các cấp Hội ở địa phương đều

sử dụng cơ sở vật chất sẵn có tại điểm chùa; kinh phí hỗ trợ hàng năm chỉ đáp

một phần hoạt động thường xuyên của hội; phương tiện, trang thiết bị cơ bản

chưa đáp ứng được nhu cầu. Một số Hội ĐKSSYN hoạt động còn hình thức,

nội dung hoạt động chậm được đổi mới, chưa phát huy tính chủ động, sáng

tạo, khả năng tập hợp, thu hút hội viên; việc chăm lo, bảo vệ quyền và lợi ích

hợp pháp của hội viên còn hạn chế. Chế độ báo cáo thực hiện chưa nề nếp;

công tác nắm bắt tình hình, tư tưởng hội viên chưa kịp thời.

Năm là, việc xác định vị trí, vai trò của Hội ĐKSSYN đối với công việc

Phật sự của hệ phái Nam tông Khmer chưa rõ ràng giữa nên trong quản lý,

95

điều hành và xử lý công việc thường bị lúng túng; đôi khi chồng chéo với

chức năng, nhiệm vụ với BTSPG cùng cấp. Một số địa phương có quan điểm

xem Hội ĐKSSYN không phải là tổ chức xã hội quần chúng mà xem Hội

ĐKSSYN như là tổ chức “hội, đoàn” trong tôn giáo nên sự quan tâm chưa

đúng mức. Cụ thể, thành phố Cần Thơ xác định:

Hội Đoàn kết Sư sãi yêu nước thành phố Cần Thơ là một hội đoàn của Giáo hội

Phật giáo Việt Nam, do Ban Trị sự Phật giáo thành phố Cần Thơ đăng ký hoạt

động và chịu trách nhiệm trước Ủy ban nhân dân thành phố Cần Thơ về hoạt

động của Hội. Ban Trị sự Phật giáo thành phố Cần Thơ có trách nhiệm quản lý

hoạt động của Hội [09, tr.66].

Tỉnh Sóc Trăng có quan điểm chưa rõ ràng qua nhận xét, đánh giá: “Hội

Đoàn kết Sư sãi yêu nước các cấp là tổ chức thành viên của Ủy ban Mặt trận

Tổ quốc Việt Nam tỉnh Sóc Trăng, đồng thời là thành viên của Giáo hội Phật

giáo Việt Nam”[09, tr. 47]. Một số nơi, các cấp ủy Đảng, Chính quyền chưa

có sự quan tâm chỉ đạo thường xuyên đối với Hội ĐKSSYN; hoạt động của

Hội thời gian qua ít được các ngành chức năng kiểm tra, phát hiện những hạn

chế để kịp thời góp ý, chấn chỉnh và khắc phục. Mặt khác, vai trò tham mưu

của Mặt trận Tổ quốc và các ngành chức năng còn chậm nên chưa kịp thời

giải quyết những khó khăn, vướng mắc nhất là Hội ĐKSSYN ở cấp cơ sở.

Công tác quản lý theo dõi diễn biến tư tưởng của các chức sắc, Tăng sĩ

PGNTK thiếu thường xuyên; một số chức sắc, trụ trì chùa, nhất là Tăng sĩ trẻ

chỉ quan tâm đến việc tu hành, thái độ chính trị, nhận thức chủ trương, chính

sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước còn hạn chế. Việc xây dựng chức sắc,

Tăng sĩ tiêu biểu làm nồng cốt trong các phong trào quần chúng của địa

phương có đông đồng bào dân tộc Khmer chưa được rộng rãi.

Các vị trong Ban Chấp hành Hội phần lớn đã lớn tuổi và hầu hết là Trụ

trì ở các chùa lớn, công việc Phật sự nhiều nên thời tập trung cho công việc

của Hội ĐKSSYN chưa nhiều. Mặt khác, đa số các vị chỉ làm theo thói quen

và kinh nghiệm dẫn đến lúng túng trong xử lý công việc hành chính. Bên cạnh

đó, đa số các vị Tăng sĩ và Phật tử Khmer xem Hội ĐKSSYN như là tổ chức

96

chính trị - xã hội (giai đoạn 1964-1975) nên luôn trong chờ vào sự hỗ trợ về

mọi mặt, kể cả kinh phí hoạt động từ phía Nhà nước.

Ban Chấp hành Hội các cấp ở cơ sở không ổn định về nhân sự vì một

số thành viên đã hoàn tục nhưng chưa kịp thời bổ sung. Nhận thức của một số

vị Tăng sĩ trẻ về vị trí, vai trò của Hội ĐKSSYN còn hạn chế nên chưa chủ

động, tích cực tham gia công tác tổ chức. Thông tin, báo cáo của các tổ chức

cấp cơ sở về cấp trên chưa kịp thời. Công tác giáo dục, quản lý Tăng sĩ chưa

nghiêm; trong đó, có vai trò của Trụ trì và Ban Quản trị chùa nên vẫn còn

Tăng sĩ vi phạm giáo luật, pháp luật ở một số điểm chùa.

Hội ĐKSSYN không nằm trong danh sách các tổ chức hội đặc thù nên

việc hỗ trợ kinh phí cho hoạt động thường xuyên tại các địa phương cũng gặp

rất nhiều khó khăn, lúng túng. Do vậy, cùng với việc hỗ trợ một phần kinh

phí, phương tiện, trang thiết bị để Hội ĐKSSYN có điều kiện hoạt động, một

số địa phương đã phải vận dụng từ nhiều nguồn và nhiều hình thức khác nhau

để hỗ trợ cho hoạt động của Hội; từ đó, tạo sự so bì giữa các địa phương ở

vùng Tây Nam Bộ.

Sáu là, mặc dù các vị trong Ban Chấp hành và Ban Thường trực Hội

ĐKSSYN là những người có trí thức, có uy tín và am hiểu sâu đặc điểm dân

tộc, tôn giáo trong cộng đồng người Khmer nhưng năng lực quản lý, điều

hành tổ chức có phần còn hạn chế nên chất lượng, hiệu quả hoạt động chưa

cao, có mặt chưa đáp ứng được nhiệm vụ đặt ra trong thời kỳ cách mạng công

nghệ 4.0. Trong thực tế cho thấy do đặc điểm, tâm lý không muốn rời xa ngôi

chùa của các vị Trụ trì nên các vị ít đến Văn phòng Hội ĐKSSYN để trao đổi

công việc theo Điều lệ, Quy chế đã đề ra gây ảnh hưởng rất lớn đến chất

lượng và hiệu quả hoạt động của tổ chức.

Bảy là, với tỷ lệ 17,5% là chức sắc trong Ban Chấp Hội nhưng do phân

bố không đồng điều để vận động 82,5% là Tăng sĩ có tuổi đời và tuổi đạo khá

thấp tại các địa phương cũng là nguyên nhân gây ảnh hưởng đến hoạt động

chung của Hội ĐKSSYN và hiện đang bộc lộ những vấn đề bất cập. Vẫn còn

97

một số vị trong Ban Chấp hành hội chưa phát huy tốt vai trò trong việc vận

động đồng bào Khmer khắc phục việc trông chờ ỉ lại Nhà nước hỗ trợ; một số

thành viên trong Ban Chấp hành Chi hội, Phân hội còn trẻ nên hạn chế về

trình độ năng lực, chưa có kinh nghiệm trong công tác quản lý nên việc điều

hành các hoạt động của Chi hội, Tổ hội chưa ổn định; chế độ báo cáo của một

số Chi hội chưa kịp thời.

Tám là, nhận thức của một số vị Tăng sĩ trẻ về vị trí, vai trò, chức năng,

nhiệm vụ của Hội ĐKSSYN còn hạn chế; nhận thức về chủ trương, đường lối của

Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước còn thấp; điều này cũng gây ảnh hưởng

rất lớn đến công tác tuyên truyền, vận động Phật tử Khmer. Một số vị trong Ban

Chấp hành Hội chưa phát huy được tinh thần đoàn kết, nhất trí trong nội bộ, gây

ảnh hưởng đến hoạt động chung của Hội ĐKSSYN trong một thời gian dài.

Theo báo cáo của Ban Tôn giáo (Sở Nội vụ) tỉnh Hậu Giang

(20/11/2013): Trên địa bàn tỉnh Hậu Giang có 8/15 chùa Khmer phát sinh

mâu thuẫn giữa Tăng sĩ với Ban Quản trị chùa; giữa Tăng sĩ chùa này với

chùa khác; một số Phật tử thưa kiện cả Trụ trì, Ban Quản trị và theo báo cáo

của Ban Dân vận Tỉnh ủy Bạc Liêu (01/7/2013) thì việc củng cố, kiện toàn bộ

máy tổ chức Hội ĐKSSYN tỉnh Bạc Liêu còn hạn chế, nhất là từ nhiệm kỳ

2008-2013. Qua khảo sát nắm tỉnh hình Ban Chấp hành Hội (11/15 vị) tập

trong đóng góp, các ý kiến về nội bộ Ban Chấp Hành Hội từ sau đại hội đến

nay: Nội bộ trong Ban Chấp hành Hội chưa nhất trí cao, có biểu hiện mất đoàn

kết; một số thành viên trong Ban Chấp hành Hội cũng có biểu hiện mất đoàn kết

theo nhóm nhưng chưa mạnh dạng đấu tranh vì quyền lợi chung của Hội, cũng

như chăm lo quyền lợi cho đồng bào dân tộc.

Nhìn chung, nguyên nhân của những hạn chế là do sau một thời gian

dài không hoạt động; nhận thức về vị trí, vai trò về Hội ĐKSSYN của các vị

Tăng sĩ và Phật tử Khmer chưa thống nhất nên việc lãnh, chỉ đạo, quản lý và

điều hành hoạt động của Hội ĐKSSYN còn bị lúng túng. Hệ thống văn bản

hướng dẫn về cơ chế, chính sách, tổ chức quản lý hoạt động của Hội

98

ĐKSSYN còn nhiều bất cập gây khó khăn trong quá trình thực hiện tại địa

phương. Đa số Hội ĐKSSYN hoạt động chủ yếu do ngân sách Nhà nước hỗ

trợ, chưa đúng tôn chỉ, mục đích được quy định trong Điều lệ. Đội ngũ lãnh

đạo Hội ĐKSSYN vùng Tây Nam Bộ đa số đều lớn tuổi, sức khỏe có hạn chế

hoặc tham gia nhiều tổ chức khác nhau nên hiệu quả hoạt động chưa cao. Một

số Hội ĐKSSYN ở cấp cơ sở hoạt động còn thụ động, vẫn trông chờ sự hỗ trợ

từ tổ chức hội cấp trên.

3.3. NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA HIỆN NAY

Giai đoạn 1964 -1975, tính chất hoạt động của Hội ĐKSSYN vùng Tây

Nam Bộ vừa là tổ chức chính trị, vừa là tổ chức xã hội trong giới Tăng sĩ và Phật

tử Khmer. Quan hệ chính trị - tôn giáo được thể hiện rất rõ nét qua kết quả hoạt

động tuyên truyền, vận động Tăng sĩ và Phật tử Khmer ủng hộ và tham gia

phong trào cách mạng, đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước. Từ

năm 1981, PGNTK là một trong 09 tổ chức, hội, hệ phái Phật giáo tự nguyện

tham gia hoạt động trong ngôi nhà chung GHPGVN.

Sau năm 1991, Hội ĐKSSYN vùng Tây Nam Bộ được củng cố, kiện

toàn được xác định là tổ chức xã hội của Tăng sĩ PGNTK nhưng khi phân tích

nội dung tôn chỉ, mục đích và nhiệm vụ của Hội ĐKSSYN ở từng địa

phương; nghiên cứu sinh nhận thấy: ngoài tính xã hội thì tính chính trị vẫn

được thể hiện rất rõ nét qua các quy định trong Điều lệ của Hội được UBND

cùng cấp phê duyệt. Nhìn chung, Hội ĐKSSYN hoạt động cơ bản ổn định và

phát huy tốt vai trò trong việc vận động, tập hợp, đoàn kết giới Tăng sĩ và

Phật tử Khmer tham gia các phong trào xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tuy

nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được trong hoạt động của Hội ĐKSSYN

vùng Tây Nam Bộ có một số vấn đề đặt ra hiện nay cần được quan tâm:

Một là, các Hội ĐKSSYN ở các địa phương đều được tổ chức và hoạt

động theo quy định của Điều lệ và Quy chế, nhưng do chưa có sự hướng dẫn

thống nhất chung về mô hình tổ chức và cơ chế hoạt động nên mỗi địa

phương có sự khác biệt nhất định.

Hai là, quan hệ phối họp giữa Hội ĐKSSYN và hệ thống tổ chức của

99

GHPGVN các cấp ở một số nơi chưa thật sự nhịp nhàng; mặt khác, do tính

biệt truyền nên đa số các vị Tăng sĩ và Phật tử Khmer xem Hội ĐKSSYN như

là tổ chức của Giáo hội nên hầu như hoạt động độc lập với BTSPG cùng cấp

dẫn đến việc chồng chéo chức năng, nhiệm vụ.

Ba là, nhận thức về vị trí, vai trò của Hội ĐKSSYN của một số hội viên,

cán bộ, đảng viên còn hạn chế, nhất là ở cấp cơ sở nên mối quan hệ giữa Hội

ĐKSSYN và các cấp ủy Đảng, Chính quyền, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể

chính trị - xã hội chưa thật sự chặt chẽ.

Bốn là, đa số các vị Tăng sĩ Khmer tham gia Ban Chấp hành Hội

ĐKSSYN đều lớn tuổi, một số vị sức khỏe yếu; trong khi đó, công tác đào

tạo, bồi dưỡng đội ngũ tăng tài để kế thừa chưa được quan tâm đúng mức gây

ảnh hưởng rất lớn đến công tác điều hành và chất lượng hoạt động.

Năm là, chế độ sinh hoạt, hội họp được các các cấp Hội ĐKSSYN thực

hiện chưa đúng với Điều lệ và Quy chế hoạt động, nhất là cấp cơ sở; thường

thì các cấp Hội chỉ tập trung tổ chức sơ kết 06 tháng hoặc tổng kết năm. Tuy

nhiên, vấn đề này ít được quan tâm để đôn đốc nhắc nhở.

Tóm lại, dù có 05 vấn đề cần quan tâm giải quyết nhưng để giúp Hội

ĐKSSYN vùng Tây Nam Bộ tiếp tục phát huy vai trò tích cực trong đời sống

xã hội thì các cấp ủy Đảng, Chính quyền, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể

chính trị - xã hội và GHPGVN cần tập trung quán triệt, làm rõ; đồng thời đưa

ra các giải pháp nhằm tháo gỡ 04 nội dung cơ bản là:

Một là, sự thống nhất chung về mô hình, tổ chức, cơ chế hoạt động của

các cấp ủy Đảng, Chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị -

xã hội đối với Hội ĐKSSYN;

Hai là, sự nhận thức chung về vị trí, vai trò của Đảng, Nhà nước và

GHPGVN đối với Hội ĐKSSYN;

Ba là, sự nhận thức chung về vị trí, vai trò của các vị Tăng sĩ và Phật tử

Khmer đối với Hội ĐKSSYN;

100

Bốn là, sự thống nhất chung về chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà

nước đối với Hội ĐKSSYN trong tổng thể chính sách phát triển kinh tế - xã

hội, văn hóa, an ninh - quốc phòng vùng Tây Nam Bộ.

Tiểu kết chương 3

Hội ĐKSSYN vùng Tây Nam Bộ là vấn đề tồn tại của lịch sử và hiện

nay vai trò của Hội ĐKSSYN vẫn còn ảnh hưởng sâu rộng đến các lĩnh vực

của đời sống xã hội. Mặc dù kết quả hoạt động trong quá trình lịch sử còn

những hạn chế nhất định nhưng với tư cách là tổ chức xã hội, là thành viên

của Mặt trận đã góp phần cho công cuộc xây dựng và đổi mới hệ thống chính

trị, giúp hệ thống chính trị ngày càng phát triển vững mạnh; thực hiện tốt việc

giữ gìn và phát huy bản sản văn hóa dân tộc; phát huy tốt vai trò vận động

quần chúng tham gia, ủng hộ phong trào giải phóng dân tộc, phong trào xây

dựng và bảo vệ Tổ quốc. Các hoạt động của Hội ĐKSSYN đã góp phần

không nhỏ vào việc phát triển tổ chức, phát triển con người mới một cách

toàn diện trong bối cảnh hội nhập quốc tế; góp phần quan trọng trong việc

thúc đẩy công cuộc đổi mới đất nước; thúc đẩy sự quản lý và phát triển của xã

hội trong cộng đồng người Khmer vùng Tây Nam Bộ.

Xuất phát từ yêu cầu nhiệm vụ về công tác dân tộc, tôn giáo; công tác

đối với tổ chức hội- hội quần chúng và công tác dân vận đồng bào Khmer

thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. Vấn đề đặt ra đối

với Hội ĐKSSYN vùng Tây Nam Bộ trong giai đoạn hiện nay là: “Tiếp tục

phát huy hay là chấm dứt vai trò lịch sử của Hội ĐKSSYN vùng Tây Nam

Bộ”. Tuy nhiên, qua phân tích thực trạng Hội ĐKSSYN vùng Tây Nam Bộ từ

năm 1964 đến nay. Nghiên cứu sinh cho rằng: Sự tồn tại của Hội ĐKSSYN là

rất quan trọng đối với sự phát triển cộng đồng người Khmer, đối với việc

quản lý và phát triển xã hội trong bối cảnh hội nhập quốc tế. Do vậy, cần tiếp

tục giữ lại mô hình “đặc thù” này ở vùng Tây Nam Bộ để tiếp tục phát huy

vai trò tích cực trong đời sống xã hội.

101

Chương 4

QUAN ĐIỂM, GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ NHẰM PHÁT HUY VAI

TRÒ TÍCH CỰC CỦA HỘI ĐOÀN KẾT SƯ SÃI YÊU NƯỚC

VÙNG TÂY NAM BỘ

4.1. DỰ BÁO CÁC XU HƯỚNG TÁC ĐỘNG ĐẾN HỘI ĐOÀN KẾT SƯ SÃI

YÊU NƯỚC VÙNG TÂY NAM BỘ

4.1.1. Xu hướng tác động mang tính tích cực

4.1.1.1. Chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước đối với sự

phát triển bền vững vùng Tây Nam Bộ

Thực hiện chính sách đổi mới, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân đã nổ

lực phấn đấu đạt được những thành tựu rất quan trọng: Chính trị - xã hội ổn

định; quốc phòng - an ninh được giữ vững và tăng cường; quan hệ đối ngoại,

hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng và hiệu quả; sức mạnh đại đoàn kết toàn

dân tộc được củng cố, dân chủ xã hội chủ nghĩa được phát huy...Riêng đối với

vùng Tây Nam Bộ, Đảng và Nhà nước đã có nhiều chủ trương, chính sách

phát triển vùng Tây Nam Bộ như: Nghị quyết 21-NQ/TW ngày 20/01/2003

của Bộ Chính trị về phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp phát triển kinh tế - xã

hội và đảm bảo an ninh, quốc phòng vùng đồng bằng sông Cửu Long giai

đoạn 2001-201; sau đó là Kết luận số 28-KL/TW ngày 14/8/2012 của Bộ

Chính trị về phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp phát triển kinh tế - xã và

bảo đảm an ninh, quốc phòng vùng đồng bằng sông Cửu Long đến năm 2020.

Để triển khai thực hiện Kết luận số 28-KL/TW; ngày 21/11/2013, Thủ

tướng Chính phủ ban hành Quyết định 2270/QĐ-TTg; qua đó chỉ đạo các địa

phương xây dựng kế hoạch và triển khai thực hiện nhằm đưa vùng đồng bằng

sông Cửu Long phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững, trong đó có vùng dân

tộc thiểu số. Đặc biệt, từ năm 1991, Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chủ

trương, chính sách đúng đắn, toàn diện và ngày càng phù hợp với yêu cầu ổn

định và phát triển vùng đồng bào dân tộc Khmer; trọng tâm là Chỉ thị 68-

CT/TW ngày 18/4/1991 của Ban Bí thư Trung ương Đảng (khóa VI); sau đó

102

là Thông báo số 67-TB/TW ngày 14/3/2007 của Ban Bí thư Trung ương Đảng

về tiếp tục thực hiện Chỉ thị 68-CT/TW về công tác ở vùng đồng bào dân tộc

Khmer; đáp ứng được nhiều nhu cầu bức xúc của cán bộ, Tăng sĩ và đồng bào

Khmer Nam Bộ; tạo sự chuyển biến tích cực về kinh tế - xã hội, ổn định về an

ninh, quốc phòng trong vùng.

Chỉ thị 68-CT/TW đã làm chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức, ý thức

trách nhiệm của cấp ủy đảng, chính quyền các cấp, trong cán bộ, đảng viên về

công tác dân tộc; nhất là trong tổ chức thực hiện chủ trương, chính sách dân

tộc của Đảng và Nhà nước đối với đồng bào Khmer được nâng cao, tác động

tích cực, động viên và phát huy sức mạnh tổng hợp thực hiện hoàn thành

thắng lợi nhiệm vụ chính trị và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của địa

phương. Đồng thời, làm cho Tăng sĩ và đồng bào Khmer hiểu đúng hơn về

chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước, phấn khởi, tin tưởng vào sự lãnh

đạo của Đảng.

Trong thực tế, qua 25 năm triển khai thực hiện Chỉ thị 68/CT-TW, Trung

ương đã tập trung, tăng cường hỗ trợ, đầu tư vào vùng đồng bào Khmer bằng

các chương trình 134, 135, chính sách vay vốn ưu đãi, chính sách định canh,

định cư, chính sách hỗ trợ đất sản xuất, đất ở, nhà ở, nước sạch, điện sinh

hoạt, chính sách cử tuyển, dự bị đại học... góp phần thúc đẩy kinh tế - xã hội

từng bước phát triển. Hiện nay, Chỉ thị 68/CT-TW đã được nghiên cứu, bổ

sung cho phù hợp với tình hình thực tiễn hiện nay và được thay thế bằng Chỉ

thị số 19-CT/TW, ngày 10 tháng 01 năm 2018. Đặc biệt là việc triển khai

thực hiện Nghị quyết số 88/2019/QH14 ngày 18/11/2019 của Quốc hội trong

thời gian gắp tới sẽ là điều kiện để cộng đồng người Khmer nói chung, Hội

ĐKSSYN vùng Tây Nam Bộ nói riêng vươn lên và phát triển.

4.1.1.2. Sự đổi mới chính sách, pháp luật về tôn giáo

Bước ngoặt của sự đổi mới tư duy về vấn đề tôn giáo của Đảng ta được

đánh dấu bằng sự xuất hiện Nghị quyết 24-NQ/TW ngày 16/10/1990 của Bộ

Chính trị về tăng cường công tác tôn giáo trong tình hình mới đã đáp ứng kịp

thời nhu cầu đổi mới nhận thức về tôn giáo và công tác tôn giáo trong tình

103

hình mới với ba luận điểm quan trọng: Một là, tôn giáo là một vấn đề còn tồn

tại lâu dài; hai là, tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận

nhân dân; ba là, đạo đức tôn giáo có nhiều điểm phù hợp với công cuộc xây

dựng xã hội mới.

Cùng với đổi mới nhận thức về tôn giáo, công tác tôn giáo cũng có có

một bước chuyển quan trọng, ba quan điểm về công tác tôn giáo thời kỳ đổi

mới đã được xác định: Một là, công tác tôn giáo vừa quan tâm giải quyết hợp

lý nhu cầu tín ngưỡng của quần chúng vừa kịp thời đấu tranh chống địch lợi

dụng tôn giáo để phá hoại cách mạng. Hai là, nội dung cốt lõi của công tác

tôn giáo là công tác vận động quần chúng. Ba là, làm tốt công tác tôn giáo là

trách nhiệm của toàn bộ hệ thống chính trị do Đảng lãnh đạo.

Các quan điểm đó hiện đã được cụ thể hóa bằng chính sách, pháp luật để

bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của Nhân dân; thống nhất quyền

lợi, nghĩa vụ của công dân để các chức sắc, nhà tu hành, tín đồ tôn giáo sống

“tốt đời, đẹp đạo”; phát huy những giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp của các tôn

giáo trong xây dựng xã hội mới;...Song song đó, tư tưởng và hành động “Hộ

quốc an dân” là truyền thống ngàn đời của Phật giáo Việt Nam; đó chính là

biểu hiện nhập thế của Phật giáo góp phần vào công cuộc bảo vệ và xây dựng

Tổ quốc, góp phần vào việc thực hiện an sinh xã hội.

Đặc biệt, kể từ ngày PGNTK gia nhập vào GHPGVN, với phương châm:

“Đạo pháp - Dân tộc - Chủ nghĩa xã hội”, truyền thống hộ quốc an dân của

PGNTK lại một lần nữa được phát huy; thông qua hoạt động của Hội

ĐKSSYN, Tăng sĩ và Phật tử Khmer tích cực hưởng ứng các cuộc vận động

do Mặt trận Tổ quốc phát động; nhiệt tình hưởng ứng các chính sách “Đền ơn

đáp nghĩa”, đóng góp công sức tiền của xây dựng nhà tình thương, nhà tình

nghĩa, mở phòng khám chữa bệnh miễn phí, tham gia các hoạt động từ thiện

nhân đạo … Thời đại ngày nay, hòa cùng sự thịnh trị của đất nước, Phật giáo

nói chung, PGNTK nói riêng cũng ngày càng phát triển, tiếp tục khẳng định

vai trò là một thành viên tích cực của GHPGVN đã đồng hành gắn bó với

khối đại đoàn kết toàn dân. Với tiềm lực và truyền thống yêu nước; đồng thời,

104

nhận được sự quan tâm hỗ trợ từ phía Đảng và Nhà nước, cùng với sự động

viên khích lệ của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị - xã hội và các tổ

chức thành viên của Mặt trận. Hội ĐKSSYN sẽ tiếp tục phát huy thế mạnh

sẵn có, phấn đấu nỗ lực cống hiến hết mình vì lý tưởng xây dựng một xã hội

tình thương, an lạc và hạnh phúc.

4.1.2. Xu hướng tác động mang tính tiêu cực

4.1.2.1. Mặt trái của nền kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế

Một trong những đặc điểm của xã hội hiện đại đó là sự tiến bộ vượt bật

về khoa học kỹ thuật và kinh tế thị trường là sản phẩm tất yếu và khách quan

trong quá trình vận động của nền kinh tế thế giới. Tuy nhiên, tuy mặt trái của

nó đã tạo nên những ảnh hưởng tiêu cực đến tình hình an ninh chính trị, kinh

tế và đời sống văn hóa xã hội. Dưới sự tác động của kinh tế thị trường dễ gia

tăng sự phân hóa giàu nghèo trong xã hội; dễ nảy sinh tham nhũng, tội phạm,

kích thích lối sống thực dụng, chủ nghĩa cá nhân. Song song đó là sự suy

thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống với những biểu hiện khác nhau

về sự phai nhạt lý tưởng, sa vào chủ nghĩa cá nhân ích kỷ, cơ hội, chạy theo

danh lợi, tiền tai, địa vị...những tác động này, ít nhiều cũng ảnh hưởng đến

đồng bào dân tộc Khmer Nam Bộ.

Bời vì, phần đông đồng bào dân tộc Khmer ở Việt Nam sinh sống ở khu

vực nông thôn, vùng sâu, vùng xa, biên giới, nơi có điều kiện kinh tế - xã hội đặc

biệt khó khăn, nghề nghiệp chủ yếu là sản xuất nông nghiệp trong khi một bộ

phận đồng bào còn thiếu đất sản xuất. Khí hậu có lúc diễn biến phức tạp, thiên

tai bất thường; kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc Khmer có xuất phát điểm

thấp, cơ sở hạ tầng có nơi còn hạn chế, kinh tế đời sống, điều kiện đi lại, học hành,

chữa bệnh còn nhiều mặt khó khăn; nguồn nhân lực còn hạn chế (dân tộc Khmer

là một trong nhóm các dân tộc có chất lượng nguồn nhân lực thấp theo Nghị

quyết 52/NQ-CP ngày 15/6/2016). Do vậy, với những tác động này, ít nhiều cũng

ảnh hưởng đến hoạt động của tổ chức Hội ĐKSSYN vùng Tây Nam Bộ.

Song song đó, biến đổi trong đời sống văn hóa của Tăng sĩ Khmer, nhìn

chung là biến đổi từ rời rạc lên chặt chẽ, từ chưa tiến bộ lên văn minh. Sự

105

biến đổi này là phù hợp với thời đại, với xu thế chung. Tuy nhiên, cũng cần

thấy rằng, tác động mạnh mẽ của nền kinh tế thị trường đã len lỏi ngày càng

nhiều và sâu vào lĩnh vực văn hoá Phật giáo. Mặt khác, với xu hướng Phật

giáo nhập thế ngày càng được thể hiện rõ hơn qua sự tham gia vào các hoạt

động trong đời sống xã hội. Trong xu thế phát triển đó cần lưu ý để hạn chế

và ngăn chặn những biểu hiện tiêu cực...

4.1.2.2. Những hạn chế trong việc triển khai thực hiện chủ trương,

chính sách của Đảng và Nhà nước đối với vùng đồng bào dân tộc Khmer

Bên cạnh những kết quả tích cực đã đạt được thì trong quá trình triển

khai thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước đối với vùng

đồng bào dân tộc Khmer không sau tránh khỏi những tồn tại, hạn chế. Hệ

thống kết cấu hạ tầng vùng sâu, vùng xa còn nhiều bất cập, địa bàn nằm xa

các trục giao thông lớn, công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ phát triển

chậm, chủ yếu là thuần nông, những hộ ít đất hoặc không có tư liệu sản xuất

có việc làm không ổn định nên thu nhập không đủ trang trải trong cuộc sống

gia đình; công tác giảm nghèo có nơi chưa thật sự bền vững, thiên tai, hạn hán

và xâm nhập mặn ảnh hưởng nặng nề đến đời sống, sản xuất của đồng bào.

Đời sống của một bộ phận đồng bào Khmer vẫn còn nhiều khó khăn, tỷ lệ hộ

nghèo và cận nghèo còn cao. Cụ thể, tính đến tháng 7/2017, “có 428.421 hộ

nghèo, trong đó, đồng bào dân tộc Khơ- me có 68.298 hộ, chiếm 15,94% tổng số

hộ nghèo; số cận nghèo chiếm 10,3%; số có nguy cơ tái nghèo là 74,9%. Hiện

còn 8.286 hộ thiếu đất ở, 29.722 hộ thiếu đất sản xuất” [105, tr.10].

Chất lượng giáo dục, đào tạo vùng dân tộc còn thấp so với mặt bằng chung,

“hiện có khoảng 43.000 người dân tộc Khơ me không biết chữ phổ thong,

784.729 người không biết chữ Khmer. Số học sinh bỏ học ngày một tăng, toàn

vùng có khoảng 218.430 em bỏ học” [105, tr.10]. Các trường đặc thù như: Trường

Bổ túc văn hóa - Pali trung cấp Nam Bộ tại tỉnh Sóc Trăng, Học viện Phật giáo

Nam tông Khmer tại thành phố Cần Thơ và Trường Trung cấp Pali - Khmer tỉnh

Trà Vinh từ khi thành lập đến nay đã đi vào hoạt động ổn định nhưng vẫn còn gặp

khó khăn về kinh phí hoạt động, giáo trình và giáo viên dạy chữ Pali.

106

Công tác xây dựng hệ thống chính trị vùng đồng bào dân tộc Khmer còn

nhiều bất cập. Việc phát triển đảng viên tuy tăng khá nhưng tỷ lệ đảng viên

dân tộc Khmer/dân số dân tộc Khmer còn thấp; việc quy hoạch, đào tạo bồi

dưỡng cán bộ, công chức, viên chức mang chiến lược chưa được quan tâm

nhiều, cán bộ dân tộc Khmer được bố trí chức danh lãnh đạo quản lý các cấp

trong hệ thống chính trị còn rất ít so với tỷ lệ dân số. Trong thực tế, cán bộ

người dân tộc thiểu số được bầu vào cấp ủy các cấp đạt tỷ lệ thấp so với dự

kiến, có nơi tỷ lệ còn thấp hơn so với nhiệm kỳ trước.

Cụ thể, số cán bộ tham gia cấp ủy nhiệm kỳ 2015-2020 vùng Tây Nam

Bộ giảm 102 người so với nhiệm kỳ 2010-2015. Công tác quản lý nhà nước

về tôn giáo một vài nơi thiếu quan tâm, chưa phát huy hết vai trò của các vị

chức sắc, Tăng sĩ Khmer, Hội ĐKSSYN, Ban Quản trị chùa và các vị Achar

nên có một bộ phận đồng bào bỏ tôn giáo truyền thống theo tôn giáo khác.

4.1.2.3. Xu hướng chính trị hóa trong Phật giáo Nam tông Khmer

PGNT có vai trò đặc biệt quan trọng trong đời sống chính trị, kinh tế, văn

hoá, xã hội và tinh thần đối với cộng đồng người Khmer ở Nam Bộ. Do tính

biệt truyền của hệ phái, PGNTK có mối quan hệ đồng đạo từ lâu đời với một

số quốc gia trong khu vực có cùng hệ phái; đặc biệt là mối quan hệ đồng tộc,

đồng tôn với người Khmer ở Campuchia; đồng thời chịu sự chi phối của Phật

giáo ở Campuchia trong một thời gian dài. Sau năm 1981, PGNTK đã sinh

hoạt trong ngôi nhà chung của GHPGVN thế nhưng xét về phương diện thực

hành tôn giáo vẫn còn những điểm khác biệt; nhân sự trong hệ thống tổ chức

GHPGVN có phần “lép” nên đa số Tăng sĩ Khmer xem Hội ĐKSSYN như là

một tổ chức giáo hội truyền thống như trước năm 1955. Từ đó, trong PGNTK

xuất hiện lực lượng bên ngoài tác động tư tưởng ly khai khỏi GHPGVN trong

một bộ phận Tăng sĩ và Phật tử Khmer để được sinh hoạt trong tổ chức riêng.

Song song đó, do điều kiện khách quan ở trong nước chưa đáp ứng nhu

cầu nên nhiều Tăng sinh ở Nam Bộ sang Campuchia và các nước khác để tu

học; xu hướng các Phật tử Khmer ở hải ngoại cúng dường trùng tu, xây dựng

chùa chiền ngày càng tăng…Những vấn đề trên cho thấy PGNTK vẫn còn

107

phụ thuộc vào các tổ chức Phật giáo ở nước ngoài. Đây chính là điều kiện

thuận lợi để các thế lực thù địch lợi dụng để chống phá cách mạng Việt Nam.

Trong thực tiễn, một số vị Tăng sĩ trẻ trong PGNTK ở các tỉnh Trà Vinh, Sóc

Trăng, Bạc Liêu... đã có những hoạt động tuyên truyền, xuyên tạc những quan

điểm sai trái và đã xuất hiện các vị Tăng sĩ tham gia các hội, nhóm chưa được

Chính quyền địa phương chấp thuận cho hoạt động, như: “ Hội tăng sinh

Khmer tỉnh Trà Vinh”, “Quỹ học bổng vì sinh viên Khmer nghèo hiếu học”,

“Hội tăng sinh vòng hoa lài”, “Nhóm sư sãi thắt lưng trắng” tiếp tục nhen

nhóm duy trì hoạt động dưới hình thức vừa công khai, vừa bí mật có biểu hiện

thách thức chính quyền” [04, tr.05].

Ngoài ra, tình hình chính trị phức tạp của Campuchia và sự phân hóa

sâu sắc Phật giáo ở Campuchia theo xu hướng chính trị khác nhau, đã và đang

ảnh hưởng đến đội ngũ Tăng sĩ PGNTK ở Nam Bộ - Việt Nam ở những mức

độ khác nhau. Thời gian tới, tình hình trị và Phật giáo ở Campuchia sẽ còn

tiếp tục có những diễn biến phức tạp, khó lường. Phe đối lập dù chưa nằm

được quyền lãnh đạo song cũng đã củng cố được vị thế nhất định của nó ở

Campuchia, nhất là đối với đội ngũ Tăng sĩ trẻ. Điều đó sẽ có những ảnh

hưởng không tốt đối với PGNTK ở Việt Nam. Các thế lực thù địch sẽ tiếp tục

lợi dụng, nhất là lôi kéo Tăng sĩ trẻ người Khmer để chống phá cách mạng

Việt Nam.

Đặc biệt, do vấn đề do lịch sử để lại, đặc biệt là vấn đề biên giới, Việt

kiều đã thực sự gây nhiều trở ngại trong mối quan hệ Campuchia - Việt Nam.

Trong bối cảnh tình hình thế giới có nhiều biến động phức tạp, mặc dù xu thế

hòa bình và ổn định đóng vai trò chủ đạo nhưng vẫn xuất hiện ngày càng

nhiều những cuộc chiến tranh cục bộ, nhiều quốc gia, khu vực đang rơi vào

vòng xoáy khủng hoảng chưa có lối thoát. Sự hiện diện của các cường quốc

với những mưu đồ và tham vọng tại khu vực châu Á - Thái Bình Dương đã

kéo theo nhiều vấn đề an ninh - chính trị cực kỳ phức tạp. Tất cả những điều

này đã trực tiếp hay gián tiếp tác động sâu sắc đến sự phát triển của mỗi nước

cũng như mối quan hệ Campuchia - Việt Nam.

108

Tóm lại, mấy thập kỷ gần đây, vấn đề tín ngưỡng tôn giáo được nhiều

người quan tâm, theo dõi trên cả phương diện lý luận và thực tiễn. Tôn giáo

có liên quan chặt chẽ với những cuộc xung đột dân tộc đang diễn ra ở nhiều

nơi; không chỉ vì nó có vai trò và tác động mạnh mẽ đến các lĩnh vực của đời

sống xã hội mà còn là biểu hiện của sự bảo lưu, giữ gìn bản sắc văn hóa của

từng cộng đồng dân tộc trước xu thế khu vực hóa, toàn cầu hóa như hiện nay.

Trong hai thập niên trở lại đây, sự mâu thuẫn chia rẽ sắc tộc, đảng phái, giáo

phái và chiến tranh tôn giáo trên thế giới ngày càng gia tăng.

Tính từ năm 1991 đến nay, thế giới đã xảy ra hơn 100 cuộc xung đột

dân tộc, sắc tộc, tôn giáo, cùng nhiều vụ khủng bố liên tiếp xảy ra điển hình

như: Vụ thảm xác ở quần đảo Malaku- Inđonêsia (6/2000), cuộc khủng bố ở

quần đảo Bali - Inđônêsia, cuộc nổi loại đòi ly khai tôn giáo ở Tây Tạng, Tân

Cương - Trung Quốc (02/1997), cuộc chiến giữa cộng đồng Thiên chúa giáo

và Hồi giáo ở Inđônêsia, cuộc chiến giữa quân đội Moro Hồi giáo và Chính

phủ Philippines, cuộc bạo động của Phật giáo với Ấn Độ giáo ở Bodhgaya

(Ấn Độ) năm 1998, cuộc khủng bố tấn công Mumbai - Ấn Độ (26/11/2008),

cuộc biểu tình của Phật giáo ở Hàn Quốc (8/2008), cuộc đảo chính tại Thái

Lan (năm 2006, 2008, 2009, 2010)... [46, tr. 07].

4.1.2.4. Xu hướng giảm việc thực hành tôn giáo truyền thống và

chuyển đổi niềm tin tôn giáo của một bộ phận người Khmer

Tôn giáo là một hiện tượng xã hội nên nó thường biến đổi chậm so với cơ

sở kinh tế, xã hội mà nó sinh ra. Tuy nhiên, “tính lạc hậu, bất cập và lỗi thời

khiến nhiều hình thức tôn giáo tín ngưỡng bộc lộ mặt phản giá trị và trở thành

lực lượng kìm hãm sự phát triển xã hội” [93, tr. 785]. Hiện nay, tuy đạo Tin lành

và Công giáo chưa phát triển mạnh ở cộng đồng người Khmer vùng Tây Nam

Bộ như ở vùng Tây Nguyên và Tây Bắc nhưng với “số người Khmer theo các

tôn giáo khác là 4.433, trong đó: Tin lành 2.153, Công giáo 2.186, Cao Đài 78,

Baha’I 34” [03, tr.14] và việc phát triển đạo Tin lành tại các địa phương có mật

độ người Khmer đông nhất ở tỉnh Trà Vinh như: Trà Cú, Duyên Hải, Tiểu Cần,

Châu Thành, Càng Long là vấn đề đặt ra cần phải tiếp tục nghiên cứu.

109

Song song đó, mặc dù chưa có một thống kê đầy đủ và tin cậy nào về

người Khmer lao động Khmer xa quê nhưng trong thực tế, điều có thể ghi

nhận là tuyệt đại đa số người lao động Khmer tìm việc ở các thành phố lớn

đều là thanh niên với số lượng khá đông. Có một số xã ở Trà Vinh, hầu hết

thanh niên đều đi việc làm xa, tại xã chỉ còn một vài thanh niên còn gắn bó

với lao động nông nghiệp và tham gia công tác chính quyền và đoàn thể.

Trong số các địa phương nơi thanh niên Khmer nhập cư làm việc, có lẽ thành

phố Hồ Chí Minh là địa phương thu hút đông đảo lao động thanh niên Khmer

hơn cả, sau đó là các tỉnh Bình Dương, Đồng Nai... nơi có nhiều khu công

nghiệp. Việc làm của thanh niên Khmer xa quê là hết sức đa dạng, từ lao động

phổ thông, giúp việc nhà, phụ buôn bán đến các ngành vốn thu hút đông đảo

lao động như: xây dựng, dệt may, thủy sản…

Chính đời sống không nơi sinh hoạt tôn giáo nên thanh niên Khmer lao

động xa quê này rất dễ bị cải đạo. Việc cải đạo thành niên Khmer lao động xa

quê diễn ra dưới các dạng: (1) Chủ sử dụng lao động là người có tôn giáo

hướng người lao động theo tôn giáo mình đang theo; (2) Nhóm truyền đạo tìm

cách tiếp xúc, thâm nhập vào nơi tập trung đông thanh niên Khmer lao động

xa quê để gửi giấy mời dự các sự kiện, tổ chức gặp gỡ, hỗ trợ... ngoài mặt là

không kèm điều kiện nhưng mục đích cuối cùng là thúc đẩy, lôi kéo thanh

niên gia nhập tôn giáo; (3) Cải đạo do hôn nhân có yếu tố nước ngoài hoặc

người theo tôn giáo khác.

Nếu trong thời gian tới số người Khmer theo Tin lành và Công giáo

tiếp tục tăng sẽ ảnh hưởng đến tình cảm, tâm lý và tác động trực tiếp đến tín

ngưỡng, tôn giáo truyền thống, ảnh hưởng đến văn hóa, phong tục tập quán

của đồng bào dân tộc, thậm chí dẫn đến xung đột trong gia đình, dòng họ anh

em với nhau và giữa người Khmer theo tôn giáo truyền thống với người

Khmer theo các tôn giáo khác... Hệ quả sẽ là sự vênh về văn hóa, tôn giáo của

các thế hệ trong một gia đình, các gia đình trong một phum, sóc hoặc rộng

hơn gây sự hiểu lầm xa cách, mất đoàn kết nội bộ; đồng thời, tác động đến

chính sách đại đoàn kết dân tộc, tôn giáo của Đảng và Nhà nước; tạo ra sự

110

phát triển không cân bằng hài hòa gây ảnh hướng đến tình hình an ninh, trật

tự an toàn xã hội tại các địa phương.

Tóm lại, đây là một vấn đề diễn ra hàng năm nhưng lại mang tính thời

sự, xã hội, chính trị và cũng là vấn đề để các cơ quan, cán bộ làm công tác

quản lý Nhà nước về dân tộc, tôn giáo nói riêng; các cơ quan chức năng của

Đảng và Nhà nước nói chung cần nghiên cứu điều chỉnh các chính sách cho

phù hợp với đặc điểm tình hình vùng Tây Nam Bộ nhằm gìn giữ sự bình yên,

bảo đảm sự phát triển đời sống của cư dân, nhất là ổn định chính trị, trật tự an

toàn xã hội góp phần phát triển bền vững vùng Tây Nam Bộ.

4.1.2.5. Xu hướng giảm dần và trẻ hóa đội ngũ Tăng sĩ Khmer

Xu hướng số lượng Tăng sĩ Khmer giảm là do tác động của các yếu tố

ngoại sinh, sự thay đổi cơ chế sinh hoạt của chính quyền, giao lưu văn hoá các

nơi được đẩy mạnh …nên khá nhiều thanh niên Khmer không đi tu như trước

đây. Hiện nay, trường chùa Khmer không còn trở thành một trung tâm duy

nhất đào tạo, giảng dạy tiếng mẹ đẻ cho các thành viên trong phum, sóc mà

thay vào đó là các trường phổ thông, là trung tâm dạy tiếng Khmer. Mặt khác,

với sự chuyển đổi nhanh chóng của xã hội trong thời kỳ hội nhập quốc tế nên

việc học chữ Khmer, chữ Pali trong chùa không còn giúp nhiều cho cuộc sống

hiện đại sau khi các Tăng sĩ hoàn tục.

Đối vấn đề trẻ hóa: Giáo lý, giáo luật của PGNT đã ăn sâu vào đời sống

tinh thần và đã trở thành nếp sống của người Khmer. Chùa chiền, Tăng sĩ và

những nghi thức lễ hội đã trở thành “máu thịt” và một điều hiển nhiên với

người Khmer là sự tôn kính Tăng sĩ vì họ xem Tăng sĩ chính là sự hiện thân

của Đức Phật, gần như không bao giờ người Khmer dám làm trái lời Tăng sĩ.

Đây là điểm tích cực mà cũng là điểm đáng lưu ý, vì hiện tượng giảm sút số

lượng Tăng sĩ Khmer đã đưa đến nhiều hệ quả là: Các vị Trụ trì chùa đang

được trẻ hoá, số Tăng sĩ Khmer có tuổi đời cao càng ít dần, một số chùa

không có Trụ trì buộc phải điều Tăng sĩ Khmer từ nơi khác đến. Cụ thể, theo

kết quả nghiên cứu gần đây cho thấy:

111

Độ tuổi sư Trụ trì đang trẻ hoá. Tuổi bình quân sư Trụ trì 43; Sư độ tuổi

20 - 30 chiếm 39%... bình quân số lượng sư trong một chùa từ năm 1975 đến

tháng 12/2013 có nhiều thay đổi: Năm 1975: 29 Sư /chùa; năm 1985 là 19

sư/chùa; năm 1995 là 16 Sư/chùa; năm 1999 là 19 Sư/chùa; T6/2004 khoảng

20 Sư/chùa; 12/2013 là 21 Sư/chùa [75, tr.230-231].

Sự trẻ hóa đội ngũ Tăng sĩ Khmer sẽ làm giảm vai trò đối với cộng đồng

người Khmer; mặt khác, vấn đề trẻ hóa này sẽ đi đến hai khuynh hướng vừa

có tính tích cực, vừa có tính tiêu cực nhưng tính tiêu cực lại chiếm phần trội

hơn, cụ thể là:

Thứ nhất, sự trẻ hóa đội ngũ Tăng sĩ sẽ tạo ra được tính năng động, sáng

tạo; có nhiều điều kiện và dễ tiếp xúc với các thành tựu khoa học kỹ thuật,

nhạy bén với những cái mới phù hợp với xã hội hiện đại.

Thứ hai, sự trẻ hóa đội ngũ Tăng sĩ dễ dẫn tới nguy cơ “chệch hướng”;

mặt khác, chính yếu tố “năng động, sáng tạo” dễ bị các thế lực thù địch lợi

dụng, lôi kéo để thực hiện các mục đích chính trị theo ý đồ của chúng.

Tóm lại, mặc dù được cộng đồng dân cư tôn vinh theo đạo lý truyền

thống, thế nhưng hiện nay đa số Trụ trì và phó Trụ trì đều khá trẻ (20 - 30

tuổi), sự hiểu biết về giáo lý, văn hóa dân tộc, chữ Pali, chữ Khmer, chữ phổ

thông… còn nhiều hạn chế. Mặt khác, đa số Tăng sĩ (lục phức, lục nên…) và

người nhập tu (để báo đáp công ơn Tam bảo, đất nước và cha mẹ) có trình độ

thấp… Thời gian tu tập ở chùa thường là không đủ lâu để thanh niên khi

“xuất tu” có đủ những kiến thức nhất định trở thành trụ cột khi lập gia đình.

Nói theo cách nhà chùa, người này “Phật tính” chưa cao nên sau khi trở về

với cuộc sống đời thường rất dễ sa vào các tệ nạn hoặc sự tôn trọng của người

dân có phần nào ít đi.

4.1.2.6. Xu hướng tăng cường các hoạt động chống phá của các thế

lực thù địch

Trong lịch sử ở vùng đất Nam Bộ, giai cấp phong kiến đã áp dụng nhiều

chính sách xã hội có tính chất đàn áp nhằm đồng hóa văn hóa dân tộc Khmer;

trong đó, có PGNTK. Đến thời Pháp thuộc, nhà cầm quyền cố tình khoét sâu

112

hơn những mối quan hệ tiêu cực trước đó bằng nhiều chính sách thuộc nhiều

lĩnh vực nhằm tạo ra một tâm lý đối kháng giữa người Khmer và người Kinh.

Trong đó, có việc tổ chức võ đài cố ý xếp người Việt và người Khmer

đấu với nhau, dẫn đến tình trạng xô xát trong thực tế, gây nên sự đối nghịch

giữa hai dân tộc trong tư tưởng, tình cảm của mỗi dân tộc. Bên cạnh đó, Pháp

còn sử dụng lính người Khmer càn quét vùng người Kinh và ngược lại nhằm

gây nên tâm lý thù địch giữa hai tộc người vốn cùng chung lưng đấu cật khai

khá vùng đất Nam Bộ dẫn đến việc chém giết lẫn nhau trong lịch sử.

Giai đoạn 1947-1949, thực dân Pháp lập ra “Hội Khmer Nam kỳ tự trị”

hòng thổi lên ngọn lửa hận thù của tư tưởng hẹp hòi trong lòng người Khmer.

Đến khi Mỹ thay Pháp xâm chiếm Việt Nam, mặc dù âm mưu cắt đứt vùng

Tây Nam Bộ thành vùng tự trị do Mỹ nắm trực tiếp không đạt được nhưng

ảnh hưởng của nó không phải dễ xóa sạch trong mối quan hệ giữa người

Khmer và người Kinh.

Trong thực tiễn, các thế lực thù địch đã xây dựng được một số nòng cốt

ở trong nước; đồng thời chỉ đạo tạo ra các cuộc gây rối ở vùng Tây Nam Bộ

như: Vụ kích động một số Tăng sĩ trẻ gây rối trước trụ sở Công an huyện

Tiểu Cần, tỉnh Trà Vinh (ngày 19/01/2007); vụ tập hợp lực lượng để gây áp

lực với cán bộ, các vị chức sắc trong Hội ĐKSSYN tỉnh Sóc Trăng tại chùa

Nước Mặn (ngày 08/02/2007) nhưng không thành. Chúng liền tạo cớ kích

động Tăng sinh Trường Bổ túc văn hóa Pali trung cấp Nam Bộ gây rối trước

trụ sở Công an thị xã Sóc Trăng; vụ kích động, xúi giục đồng bào Khmer ở

các tỉnh đồng loạt kéo về thành phố Cần Thơ và Hồ Chí Minh khiếu kiện

đông người. Đầu năm 2008, chúng tiếp tục kích động, xúi giục một số đồng

bào (xã Châu Lăng, huyện Tri Tôn và xã An Cư, xã An Hảo, huyện Tịnh

Biên, tỉnh An Giang) tự bao chiếm đất đai của người trực canh, ném đá trụ sở

xã, đập phá trụ sở ấp, bám trụ một phần trụ sở xã, phá hoại tài sản Nhà nước

và tài sản công dân; đánh cán bộ gây thương tích, gần đây nhất là vụ ở chùa

Tà Sết và chùa Prây Chóp thuộc thị xã Vĩnh Châu, tỉnh Sóc Trăng và còn

nhiều vụ khác nữa ở cập biên giới Việt Nam - Campuchia…

113

Hiện nay, các thế lực thù địch vẫn tiếp tục lợi dụng các vấn đề trong nước

và quốc tế để tuyên truyền xuyên tạc chủ trương, chính sách về dân tộc, tôn giáo

của Đảng và Nhà nước, kích động tư tưởng dân tộc cực đoan, biểu tình, bạo loạn

nhằm gây bất ổn về an ninh trật tự - xã hội, hạ thấp uy tín của Đảng, chia rẽ nội

bộ, làm giảm lòng tin của Nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng; móc nối xây

dựng cơ sở ngầm ở Campuchia và về sát biên giới đối diện các tỉnh vùng Tây

Nam Bộ, lôi kéo các đối tượng chống đối trong nước xuất cảnh sang Campuchia,

Thái Lan tham gia các lớp tập huấn về phương thức hoạt động.

Số lượng Tăng sinh đi du học ở nước ngoài trong thời gian qua tương

đối nhiều nhưng số Tăng sinh đi theo quy định của pháp luật Việt Nam thì rất

ít và phần lớn trong số này thường hay định cư ở nước ngoài nếu có trở về địa

phương thường là hoàn tục hoặc nếu là Tăng sĩ thì tự nguyện phục vụ cho hệ

thống tổ chức GHPGVN là rất ít. Do đó, việc đi du học của các Tăng sinh ít

nhiều tạo tư tưởng hướng ngoại; đồng thời tìm ẩn nhiều vấn đề ảnh hưởng đến

vấn đề an ninh chính trị vùng Tây Nam Bộ. Đối với vấn đề này, có thể lấy

một sự kiện ở Trung Quốc làm bài học kinh nghiệm:

Thời điểm Trung Quốc chuẩn bị khai mạc Olympic Bắc Kinh. Nhận

định về sự kiện này, Đại Công báo Hồng Kông, ngày 29-3-2008

viết: Sự kiện bạo loạn này rõ ràng không chỉ một nhóm nhỏ nhà sư,

họ chẳng qua chỉ bị lừa làm công cụ mà thôi, thế lực chống Trung

Quốc đằng sau các nhà sư mới là kẻ chủ mưu. Thế lực mà báo chí

này chỉ là Mỹ, Anh và một số nước phương Tây [27, tr.211].

Ngoài ra, các lực lượng đối lập, phản động ở Campuchia đã lợi dụng

một số tồn tại trong quan hệ Việt Nam - Campuchia, kích động tư tưởng “bài

Việt” trong dân chúng Campuchia. Đồng thời, chúng tăng cường cấu kết với

các tổ chức cực đoan để củng cố thực lực, gia tăng các hoạt động chống phá

cả trên thực dịa và trên nghị trường về biên giới lãnh thổ.

Trong thực tế, ngày 19/07/2015, các tổ chức này đã “tập hợp 2.000

người, trong đó có khoảng 100 sư sãi KKK do Thạch Hà Saman (tự xựng là

trụ trì chùa Samaky Rengsey) và Sơn Hải (đối tượng KKK cực đoan, từng bị

bắt vì có hành vi chống phá Việt Nam) cầm đầu, kéo đến khu vực cột mốc

114

202, 203 thuộc địa bàn ranh giữa xã Thlok, huyện Kampong Ro, tỉnh Svay

Rieng và xã Bình Hòa, huyện Mộc Hóa, tỉnh Long An để gây rối” [69, tr.184].

Nhìn lại trong lịch sử đấu tranh giữ nước và dựng nước của dân tộc Việt Nam tuy chưa xảy ra xung đột, chiến tranh giữa các dân tộc, cũng chưa xảy ra

xung đột, chiến tranh giữa các tôn giáo. Tuy nhiên, trong hơn 80 năm bị nước ngoài đô hộ (1858-1945) và 30 năm (1945-1975) kháng chiến chống giặc

ngoại xâm, các thế lực thù địch luôn thực hiện chính sách “chia để trị”, chia rẽ đồng bào có đạo và đồng bào không có đạo, chia rẽ các đồng bào dân tộc thiểu số với người Kinh. Hiện nay, các thế lực thù địch vẫn tiếp tục nuôi dưỡng những phần tử phản động để kích động tư tưởng dân tộc hẹp hòi, kích động và tập hợp tín đồ vào các hoạt động gây rối, kể cả hoạt động bạo loạn chính trị, bạo loạn vũ trang, chống lại Nhà nước, đòi tự trị, ly khai, gây ra nhiều điểm nóng xã hội liên quan đến tôn giáo và dân tộc.

Với những đặc điểm, tình hình của vùng đất Nam bộ nói chung, vùng

Tây Nam Bộ nói riêng; các thế lực thù địch tiếp tục lợi dụng vấn đề do lịch sử để lại, lợi dụng mối quan hệ thân thuộc giữa đồng bào Khmer ở Nam Bộ và đồng bào Khmer ở Campuchia để kích động, gây mâu thuẫn, chống phá cách mạng. Bên cạnh đó, PGNTK luôn là điểm nóng bị các thế lực thù địch triệt để lợi dụng kích động tư tưởng dân tộc cực đoan, làm rạn nức khối đại đoàn kết toàn dân tộc, làm mất ổn định xã hội, đe dọa an ninh, chủ quyền quốc gia.

Mặt khác, việc tranh chấp đất đai, những sơ hở trong chính sách và những hạn chế thiếu sót trong quá trình triển khai thực hiện chính sách dân tộc, tôn giáo của chính quyền địa phương đều được các thế lực thù địch lợi dụng, kích động, biểu tình, gây bạo loạn làm mất ổn định chính trị. Trong thời kỳ hội nhập quốc tế, bên cạnh những thuận lợi nhưng dự báo sẽ có nhiều tác động bất ngờ đến cộng đồng người Khmer ở Nam Bộ theo các kịch bản như:

Thứ nhất, cùng với việc đẩy mạnh tuyên truyền, kích động tư tưởng dân tộc cực đoan, chủ nghĩa ly khai đối với người Hmông ở phía Bắc, người dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên; các thế lực thù địch tiếp tục thực hiện mục tiêu là kích động PGNTK đòi ly khai khỏi GHPGVN; kích động người Khmer ở Nam Bộ gây bạo loạn hòng tách Nam Bộ ra khỏi Việt Nam để thành lập Nhà

nước Khmer Krôm hoặc sáp nhập vào Campuchia.

115

Thứ hai, các thế lục thù địch tăng cường lôi kéo Tăng sĩ, Tăng sinh, sinh

viên, học sinh người Khmer ở Nam Bộ ra nước ngoài, nhất là Campuchia, Thái

Lan, Mỹ… để đào tạo thành trí thức tôn giáo, trí thức dân tộc; từ đó đưa về hoạt

động tại cộng đồng phum/sóc, tại các điểm chùa Khmer ở Nam Bộ nhằm phục

vụ cho âm mưu chống phá cách mạng Việt Nam theo ý đồ chính trị của chúng.

Thứ ba, với danh nghĩa hợp tác, giúp đỡ PGNTK ở Nam Bộ - Việt Nam

thực hiện các hoạt động từ thiện xã hội; các tổ chức phi chính phủ tăng cường

sự gắn kết giữa các thế lực thù địch bên ngoài với cộng đồng người Khmer

thông qua các hoạt động cung cấp đồ dùng việc đạo để phục vụ sinh hoạt tôn

giáo - nhu cầu tín ngưỡng thiết yếu của người Khmer nhằm thực hiện những

hoạt động khác vi phạm pháp luật Việt Nam.

Thứ tư, các thế lực thù địch thông qua các tổ chức trung gian với danh

nghĩa Phật giáo hải ngoại “viện trợ” tài chính phục vụ cho việc tu sửa, nâng

cấp các chùa Khmer ở Nam Bộ. Qua đó, họ cử người về từng bước nắm các

hoạt động Phật sự; nhất là các vị Trụ trì chùa, từ đó nắm cộng đồng người

Khmer để phục vụ mục đích chính trị.

Tóm lại, với những biến động trong cộng đồng dân tộc Khmer trước đây,

bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân khác nhau và với các xu hướng tác động của

các nhân tố tiêu cực, đòi hỏi chúng ta phải có cách nhìn khách quan và thực hiện

chủ trương, chính sách đúng đắn của Đảng và Nhà nước đối với đồng bào dân

tộc Khmer để giải quyết, xử lý phù hợp, có lý, có tình không ngừng cũng cố,

tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc, thực hiện thắng lợi mục tiêu xây

dựng xã hội Việt Nam “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.

4.2. MỘT SỐ QUAN ĐIỂM

4.2.1. Phát huy vai trò tích cực trên cơ sở nhận thức và đánh giá

đúng đắn, khách quan về vị trí, vai trò của các Hội Đoàn kết sư sãi yêu

nước ở vùng Tây Nam Bộ trong quá trình lịch sử

Các tổ chức xã hội quần chúng có vai trò quan trọng trong Mặt trận Tổ

quốc đại đoàn kết toàn dân tộc, trong vận động, tập hợp hội viên, các tầng lớp

Nhân dân thực hiện thắng lợi các chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng

116

và Nhà nước và sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Do vậy,

ngay trong những năm kháng chiến chống Mỹ cứu nước, ngày 14/6/1957,

Thủ tướng Chính phủ ban hành Nghị định số 257/TTg quy định chi tiết thi

hành Luật số 101/LS/L.003 về việc ban bố Luật quy định quyền tự do hội

họp và Nghị định số 258/TTg quy định chi tiết thi hành Luật số

102/LS/L.004 về việc ban bố Luật quy định quyền lập hội. Song song đó,

qua các thời kỳ lịch sử, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn nhận thức vai trò to

lớn của khối đại đoàn kết toàn dân tộc đối với sự thành bại của cách mạng;

đồng thời khẳng định: “Vấn đề dân tộc và đoàn kết các dân tộc luôn có vị trí

chiến lược trong sự nghiệp cách mạng” [31, tr.127].

Xác định đoàn kết dân tộc là chiến lược được thực hiện nhất quán trong

các giai đoạn cách mạng; trên cơ sở kế thừa, phát huy truyền thống đoàn kết

của dân tộc, quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và

phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ trong mỗi giai đoạn cách mạng. Ngày

20/12/1962, Trung ương Cục miền Nam ra Chỉ thị về đẩy mạnh tuyên truyền

và thực hiện chính sách dân tộc của Đảng trong vùng đồng bào dân tộc

Khmer; trong nội dung Chỉ thị Trung ương Cục miền Nam nhấn mạnh:

Đồng bào Khơme là một cộng đồng dân tộc trong đại gia đình các

dân tộc Việt Nam... Cần giữ các tổ chức quần chúng như hiện nay,

chưa nên đề ra các tổ chức riêng cho người Khơme, đồng thời phải

nghiên cứu các hình thức tổ chức thích hợp với đặc điểm của đồng

bào dân tộc, không nên tổ chức rập khuôn tổ chức như vùng đồng

bào người Việt [79, tr.420].

Hai năm sau đó, Hội ĐKSSYN vùng Tây Nam Bộ ra đời theo chủ trương

của Khu ủy Tây Nam Bộ nhằm chống lại sự chia rẽ của chế độ Mỹ-Ngụy và là

nòng cốt, trung tâm đoàn kết Tăng sĩ và Phật tử Khmer yêu nước đứng lên chống

lại chính quyền Sài Gòn để bảo vệ đạo pháp, bảo vệ phum, sóc; đồng thời ủng hộ,

tham gia tích cực trong các phong trào cách mạng giải phóng dân tộc, thống nhất

đất nước. Sự tồn tại của Hội ĐKSSYN vùng Tây Nam Bộ trong giai đoạn 1964 -

1975 đã phát huy tốt vai trò và thực hiện hoàn thành nhiệm vụ là đoàn kết Tăng sĩ

117

và Phật tử Khmer cùng chung sức, đồng lòng tham gia kháng chiến, giành độc lập

cho Tổ quốc. Sau năm 1975; Khu ủy Tây Nam Bộ cùng với các tổ chức trực thuộc

Khu ủy kết thúc nhiệm vụ lịch sử và đã chấm dứt hoạt động.

Từ năm 1981, các vị Tăng sĩ PGNTK đại diện cho Hội ĐKSSYN vùng

Tây Nam Bộ tham gia Hội nghị Đại biểu Thống nhất Phật giáo Việt Nam.

Tuy nhiên, do sự tồn tại khách quan, Hội ĐKSSYN tại một số địa phương tiếp

tục duy trì hoạt động nhằm phát huy truyền thống yêu nước, tập hợp Tăng sĩ

và Phật tử Khmer tham gia tích cực vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ

quốc. Ngày 18/4/1991, Ban Bí thư Trung ương Đảng (khóa VI) ban hành Chỉ

thị số 68-CT/TW, có đề ra chủ trương: “lập Hội Đoàn kết Sư sãi yêu nước…”

để động viên và phát huy truyền thống yêu nước của Tăng sĩ góp phần vào sự

nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc là chủ trương đúng đắn. Mặt khác, theo

kết quả qua phiếu khảo sát gần đây cho thấy: có 98,77% cho rằng trong thời

kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, vị trí, vai trò của Hội ĐKSSYN đối với cộng

đồng người Khmer là rất quan trọng; có 98,35% cho rằng nên duy trì và phát

huy vai trò tổ chức Hội ĐKSSYN như hiện nay.

Tóm lại, sự ra đời của Hội ĐKSSYN vùng Tây Nam Bộ được xem là

một tất yếu của lịch sử, là khát vọng độc lập của Tăng sĩ và Phật tử Khmer.

Từ năm 1991, việc củng cố và thành lập mới Hội ĐKSSYN tại các địa

phương có đông đồng bào Khmer là hoàn phù hợp với nhu cầu nguyện vọng

của cộng đồng người Khmer; đáp ứng được yêu cầu công tác vận động quần

chúng. Sự tồn tại của Hội ĐKSSYN là khách quan; do vậy, cần nâng cao

nhận thức và đánh giá đúng đắn vị trí, vai trò của Hội ĐKSSYN trong quá

trình lịch sử. Qua đó, giúp Hội ĐKSSYN tiếp tục phát huy vai trò tích cực,

góp phần cho sự phát triển chung, bền vững vùng Tây Nam Bộ.

4.2.2. Phát huy vai trò của các Hội Đoàn kết sư sãi yêu nước phải nhằm

mục đích củng cố, phát huy khối đoàn kết toàn dân tộc, góp phần phát triển

bền vững vùng Tây Nam Bộ nói riêng, phát triển đất nước nói chung

Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ đi lên xã hội chủ

nghĩa của Đảng ta xác định:

118

Các đoàn thể Nhân dân tùy theo tính chất, tôn chỉ và mục đích đã xác định,

vừa vận động đoàn viên, hội viên giúp nhau chăm lo, bảo vệ các lợi ích thiết

thực; vừa giáo dục nâng cao trình độ mọi mặt cho đoàn viên, hội viên; vừa

tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội [30, tr.42].

Bên cạnh đó, Đảng ta chủ trương:

Đại đoàn kết toàn dân tộc cần lấy mục tiêu giữ vững độc lập, thống

nhất của Tổ quốc, vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn

minh, dân chủ làm điểm tương đồng để gắn bó đồng bào các dân

tộc, các tôn giáo, các tầng lớp Nhân dân ở trong và đồng bào ta định

cư ở nước ngoài... [29, tr.41].

Chính vì vậy, vấn đề tập hợp, đoàn kết và đoàn kết tôn giáo trong thời

đại ngày nay chưa bao giờ mất đi ý nghĩa và vai trò quan trọng của nó. Phát

huy truyền thống yêu nước và đoàn kết dân tộc; từ năm 1991, Hội ĐKSSYN

vùng Tây Nam Bộ được củng cố và kiện toàn tổ chức tiếp tục phát huy vai trò

và đã có những đóng góp rất thiết thực trong việc thực hiện phương châm:

“Đạo pháp - Dân tộc và Chủ nghĩa xã hội”; quyết tâm gắn bó với vận mệnh

của quê hương đất nước và đồng hành với dân tộc.

Ngoài ra, Hội ĐKSSYN còn thể hiện tốt vai trò làm cầu nối giữa Tăng sĩ

và Phật tử Khmer với các cấp ủy Đảng, Chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và

các đoàn thể chính trị - xã hội; với GHPGVN; phát huy được vai trò là tổ

chức thành viên của Mặt trận trong việc vận động, tập hợp, đoàn kết được các

vị Tăng sĩ và Phật tử Khmer tham gia tích cực các cuộc vận động như: Toàn

dân xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh; toàn dân đoàn kết xây dựng

nếp sống văn hóa ở khu dân cư...

Tóm lại, trong các cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, vũ khí tinh thần có

khi quan trong hơn súng đạn. Thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước, có

một câu mà nghiên cứu sinh cảm thấy rất hay và rất đúng: “Vũ khí tối tân

không bằng toàn dân đoàn kết”. Hồ Chí Minh đã từng khẳng định: “Không

có thứ vũ khí nào khác có đủ sức mạnh vô địch để chiến thắng kẻ thù ngoài sự

đoàn kết các giai cấp, các dân tộc, các tôn giáo”. Phát huy truyền thống yêu

119

nước, Hội ĐKSSYN vùng Tây Nam Bộ tiếp tục là điểm tựa tinh thần; là cầu

nối giữa các cấp ủy Đảng, Chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể

chính trị - xã hội với đồng bào Khmer; tiếp tục thể hiện vai trò vận động, tập

hợp, đoàn kết Tăng sĩ và Phật tử Khmer chấp hành tốt Hiến chương

GHPGVN, thực hiện đúng chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà

nước; tham gia tích cực các phong trào thi đua yêu nước, xây dựng và bảo vệ

Tổ quốc góp phần phát triển bền vững vùng Tây Nam Bộ.

4.2.3. Phát huy vai trò của các Hội Đoàn kết sư sãi yêu nước ở vùng

Tây Nam Bộ phải bảo đảm tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo,

quyền lập hội theo quy định của pháp luật Việt Nam

Tôn giáo là một vấn đề tế nhị, nhạy cảm, dễ bị kích động. Chủ trương,

chính sách đối với tôn giáo của Đảng và Nhà nước; một mặt, được xây dựng

trên quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh

về vấn đề tín ngưỡng, tôn giáo; mặt khác, căn cứ vào đặc điểm tín ngưỡng,

tôn giáo ở Việt Nam và nhu cầu của cách mạng trong từng thời kỳ lịch sử ở

trong và ngoài nước. Thời gian qua, cùng với việc ban hành các chủ trương,

chính sách đổi mới về kinh tế, ổn định về chính trị, Đảng và Nhà nước đã và

đang từng bước hoàn thiện chính sách về tín ngưỡng, tôn giáo, khẳng định

quan điểm nhất quán trong việc thực hiện quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo,

trong đó bao hàm cả quyền tự quyết tự do không tín ngưỡng, tôn giáo, quyền

thay đổi tôn giáo một cách tự nguyện của Nhân dân. Điều này được thể hiện

rõ tại Điều 70 của Hiến pháp nước CHXHCNVN năm 1992 và Điều 24, Hiến

pháp Nước CHXHCNVN năm 2013.

Song song đó, trong quá trình cách mạng, qua bài học phát huy tinh thần

yêu nước và bản chất cách mạng của tín đồ các tôn giáo giai đoạn 1975 -

1990; qua kinh nghiệm tiếp quản sau giải phóng miền Nam cho thấy ngay ở

những nơi đông tín đồ được các thế lực thù địch chống phá mạnh nhưng

chúng ta quan tâm chỉ đạo, làm tốt công tác thì vẫn tạo nên sự chuyển biến

tích cực; đều đó cũng nói lên tinh thần yêu nước, bản chất cách mạng của

quần chúng lao động trong tôn giáo là sâu sắc. Đúc kết những bài học kinh

120

nghiệm trong quá trình lịch sử, năm 2003, Hội nghị lần thứ 7, Ban Chấp hành

Trung ương Đảng (khóa IX) ban hành Nghị quyết 25 về công tác tôn giáo;

đây là sự kế thừa và phát triển Nghị quyết 24 (năm 1990) đã thống nhất nhận

thức về các quan điểm và chính sách cơ bản sau đây:

(1) Tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân, đang

và sẽ tồn tại cùng dân tộc trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.

Đồng bào các tôn giáo là bộ phận của khối đại đoàn kết toàn dân tộc; (2) Đảng, Nhà

nước thực hiện nhất quán chính sách đại đoàn kết toàn dân tộc; (3) Nội dung cốt lõi

của công tác tôn giáo là công tác vận động quần chúng; (4) Công tác tôn giáo là

trách nhiệm của cả hệ thống chính trị; (5) Vấn đề theo đạo và truyền đạo... [15].

Do vậy, việc tiếp tục duy trì hoạt động của tổ chức Hội ĐKSSYN vùng

Tây Nam Bộ là phù hợp với quan điểm, chủ trương của Đảng và chính sách,

pháp luật của Nhà nước; việc phát huy vai trò của Hội ĐKSSYN vùng Tây

Nam Bộ trước hết là bảo đảm tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và

đoàn kết hòa hợp của Tăng sĩ và Phật tử Khmer; tiếp đến là bảo đảm quyền tự

do lập hội theo quy định của pháp luật.

4.2.4. Phát huy vai trò của các Hội Đoàn kết sư sãi yêu nước gắn liền

với củng cố, nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng, hiệu lực, hiệu quả hoạt

động của hệ thống chính trị ở vùng Tây Nam Bộ

Sự phát triển của các hội quần chúng trong giai đoạn hiện nay là nhu cầu

khách quan đòi hỏi tiếp tục đổi mới và tăng cường sự lãnh, chỉ đạo của Đảng,

sự quản lý của Nhà nước, sự phối hợp của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể

chính trị - xã hội từ Trung ương đến địa phương đối với các hội quần chúng.

Dưới ánh sáng của chủ nghĩa C.Mác - V.Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh,

Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định: “Cách mạng là sự nghiệp cách mạng

của quần chúng nhân dân, cho nên ra sức chăm lo và phát triển các tổ chức

quần chúng. Bên cạnh việc phát huy vai trò của các hội truyền thống đã có,

Đảng đã lập ra nhiều hội yêu nước và cách mạng” [ 86, tr.42].

Với tình hình thực tiễn đang đặt ra, Khu ủy Tây Nam Bộ chủ trương

thành lập Hội ĐKSSYN với mục đích vận động Tăng sĩ và Phật tử Khmer

121

tham gia phong trào đấu tranh, giải phóng dân tộc. Dưới sự lãnh đạo trực tiếp

của Ban Khmer vận và với tư cách là tổ chức thành viên của

MTDTGPMNVN; kết quả hoạt động của Hội ĐKSSYN trong các phong trào

đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước đã khẳng định vai trò to lớn

của tổ chức này. Hiện nay, ngoài việc giúp cho GHPGVN thực hiện công tác

Phật sự đối với hệ phái Nam tông Khmer, Hội ĐKSSYN còn ảnh hưởng sâu

rộng và chi phối tư tưởng tình cảm và nếp sống đạo của mỗi Phật tử; tập hợp,

đoàn kết, vận động Phật tử cùng chung tay xây dựng đời sống cộng đồng,

tuân thủ luật pháp, góp phần nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho cộng

đồng người Khmer ở Nam Bộ.

Đại hội VII của Đảng (1991) đã nhấn mạnh yêu cầu phát huy dân chủ xã

hội chủ nghĩa, nâng cao năng lực quản lý của Nhà nước và vai trò của các

đoàn thể Nhân dân, khẳng định:

...Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể Nhân dân cần được đổi mới về

tổ chức và hoạt động để thực sự góp phần thực hiện dân chủ và đổi

mới xã hội, chăm lo và bảo vệ lợi ích chính đáng của Nhân dân; tham

gia các công việc quản lý nhà nước; giữ vững và tăng cường mối liên

lệ mật thiết giữa Đảng, Nhà nước với Nhân dân. Các đoàn thể có

nhiệm vụ giáo dục chính trị tư tưởng và đạo đức mới, động vên, phát

huy tính tích cực xã hội của các tầng lớp Nhân dân, đoàn kết toàn dân,

phấn đấu cho sự thành công của cuộc đổi mới [65, tr.41].

Với tư duy mới về vai trò của Nhân dân, về sức mạnh của khối đại đoàn

kết toàn dân tộc; chủ trương lập Hội ĐKSSYN để động viên và phát huy

truyền thống yêu nước của Tăng sĩ góp phần vào sự nghiệp xây dựng và bảo

vệ Tổ quốc theo tinh thần Chỉ thị số 68-CT/TW ngày 18/4/1991 là chủ

trương có tầm nhìn xa và đến nay nội dung này vẫn còn nguyên giá trị nên

được thay thế Chỉ thị 19-CT/TW ngày 10/01/2018.

Mặt khác, trong báo cáo đề dẫn với nhan đề: “Đảng cộng sản Việt Nam với

công tác quần chúng - Thực tiễn và một số kinh nghiệm” tại Hội thảo Lý luận

lần thứ bảy giữa Đảng Cộng sản Việt Nam và Đảng Cộng sản Trung Quốc [65].

122

Ủy viên Bộ Chính trị, Trưởng ban Tuyên giáo Trung ương, Chủ tịch Hội đồng

Lý luận Trung ương; Đinh Thế Huynh đã rút ra một số kinh nghiệm trong công

tác quần chúng giúp nghiên cứu sinh có cách nhìn nhận đúng đắn về giải pháp

này: Một là, phải quán triệt sâu sắc trong tư tưởng và thực hiện nhất quán

trong công tác hằng ngày của Đảng và của từng cán bộ, đảng viên quan điểm

mấu chối: sự nghiệp cách mạng là của Nhân dân, do dân, vì Nhân dân; Hai là,

không ngừng củng cố, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc là một trong

những phương châm, phương thức cơ bản để đạt được những thắng lợi trong

sự nghiệp cách mạng; Ba là, động lực thúc đẩy phong trào quần chúng là đáp

ứng lợi ích thiết thực của Nhân dân và kết hợp hài hòa các lợi ích, thống nhất

giữa quyền lợi và nghĩa vụ của công dân; Bốn là, các hình thức tập hợp Nhân

dân phải đa dạng, phong phú, thiết thực và hữu ích; Năm là, công tác quần

chúng và việc không ngừng nâng cao vai trò, hiệu quả công tác quần chúng là

trách nhiệm công tác của Đảng, Nhà nước và các đoàn thể Nhân dân, của toàn

bộ hệ thống chính trị; Sáu là, phát huy vai trò tích cực xã hội và sức sáng tạo

của Nhân dân trong các thời kỳ cách mạng; đặc biệt là, trong công cuộc đổi mới,

phát triển đất nước gắn với sự kiên định lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã

hội là nét đặc sắc của Đảng trong công cuộc vận động quần chúng.

Do vậy, việc phát huy các giá trị trong quá trình lịch sử và với tư cách là

thành viên của Mặt trận, Hội ĐKSSYN tiếp tục phát huy truyền thống tốt đẹp,

tập hợp đoàn kết rộng rãi Tăng sĩ và Phật tử Khmer; đoàn kết giữa PGNTK

với các tổ chức, hệ phái trong GHPGVN, với các tôn giáo khác tạo được sự

chuyển biến mới về nhận thức và hành động; đưa mọi hoạt động của Tăng sĩ

Khmer đi vào ổn định và phát triển theo phương châm: Đạo pháp - Dân tộc -

Chủ nghĩa xã hội. Để lãnh, chỉ đạo, giúp đỡ, hỗ trợ và hướng dẫn Hội ĐKSSYN

tiếp tục phát huy vai trò tích cực trong đời sống xã hội. Các cấp ủy Đảng, Chính

quyền, Mặt trận Tổ quốc và đoàn thể chính trị - xã hội cần đánh giá một cách sâu

sắc và đúng đắn về công tác đối với các tổ chức hội - hội quần chúng nói chung,

về vị trí, vai trò của Hội ĐKSSYN nói riêng trong quá trình lịch sử. Qua đó, rút

ra những bài học quý báu trong công tác vận động quần chúng để tiếp tục củng

123

cố vững chắc lòng tin của Nhân dân nói chung, cộng đồng người Khmer Nam

Bộ nói riêng đối với Đảng; tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc và mối

quan hệ máu thịt giữa Đảng với Nhân dân; tập hợp, vận động Nhân dân thực

hiện tốt các chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước; phát

huy sức mạnh to lớn của Nhân dân, tạo phong trào cách mạng rộng lớn xây dựng

và bảo vệ Tổ quốc và thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện

đại hóa đất nước.

Tóm lại, đại đoàn kết là sự nghiệp của toàn dân tộc, của cả hệ hống

chính trị mà hạt nhân lãnh đạo là các tổ chức đảng, được thực hiện bằng

nhiều biện pháp, hình thức, trong đó các chủ trưởng của Đảng, chính sách,

pháp luật của Nhà nước có ý nghĩa quan trọng hàng đầu. Mặt khác, đại

đoàn kết toàn dân tộc được xác định là đường lối cơ bản nguồn lực và động

lực chủ yếu, là tư tưởng chỉ đạo, phương pháp cơ bản trong đổi mới, ổn

định, phát triển và bảo vệ Tổ quốc; đại đoàn kết trong tổ chức sẽ nhân lên

sức mạnh của toàn dân tộc.

Ở Việt Nam, mặc dù đã có Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị -

xã hội nhưng vẫn chưa bao quát hết toàn bộ các tầng lớp Nhân dân và chưa

đáp ứng đầy đủ các nhu cầu đa dạng và phong phú của Nhân dân. Do vậy,

việc tăng cường sự lãnh, chỉ đạo của Đảng; sự quản lý của Nhà nước đối với

các tổ chức xã hội quần chúng; trong đó có Hội ĐKSSYN là đòi hỏi cấp thiết

từ nhiều phía trong tình hình hiện nay mà trước hết là từ bản thân của các tổ

chức hội - hội quần chúng; kế đến là việc giữ vững vai trò lãnh, chỉ đạo của

Đảng, vai trò quản lý của Nhà nước đối với toàn xã hội, giúp xã hội phát triển

một cách bền vững.

4.2.5. Phát huy vai trò của các Hội Đoàn kết sư sãi yêu nước nhưng

luôn cảnh giác và kiên quyết đấu tranh, ngăn chặn các hoạt động lợi

dụng Phật giáo Nam tông Khmer vào mục đích chính trị phản động

Từ khi xuất hiện đến nay, tôn giáo luôn luôn biến động phản ánh sự biến

đổi của lịch sử; một tổ chức tôn giáo có thể hưng thịnh, suy vong, thậm chí

mất đi nhưng nhu cầu tôn giáo luôn luôn song hành cùng với đời sống của

124

nhân loại. Tôn giáo là một hiện tượng xã hội sẽ còn tồn tại lâu dài; sau khi

Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, chính quyền cách mạng chủ trương thành

lập nhiều tổ chức yêu nước có yếu tố dân tộc - tôn giáo ở vùng đồng bào

Khmer Nam Bộ nhằm vận động Tăng sĩ và Phật tử Khmer tham gia, ủng hộ

phong trào cách mạng như: Ban Vận động Cao Miên tự do, Hội Ủng hộ

Isarrak (Hội Khmer đoàn kết kháng chiến) ở Sóc Trăng (1948), Ban Khmer

vận ở Trà Vinh (1948), ở Cà Mau có Ban Tôn giáo vận... Kết quả hoạt động

của Hội ĐKSSYN giai đoạn 1964 -1975 đã được Đảng và Nhà nước khẳng

định; đồng thời, đánh giá rất cao vai trò của các vị Tăng sĩ và tinh thần yêu

nước của đồng bào Khmer ở Nam Bộ.

Tuy nhiên, trong bối cảnh hiện nay, “xã hội dân sự” được nhìn nhận là

một vấn đề chính trị, xã hội hết sức phức tạp và nhạy cảm. Sự sụp đổ của hệ

thống xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và các nước Đông Âu cũng như biến động

chính trị trên thế giới thời gian gần đây như “Cách mạng màu” ở các nước

không gian hậu Xô viết hay “Mùa xuân Ảrập ” ở Bắc Phi và Trung Đông cho

thấy Mỹ, phương Tây và các lực lượng đối lập đã triệt để lợi dụng vấn đề “xã

hội dân sự” để tập hợp lực lượng lật đổ chính quyền đương nhiệm. Đối với

Việt Nam, các thế lực thù địch cũng đã và đang lợi dụng vấn đề “xã hội dân

sự” để thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” với âm mưu thâm nhập,

chuyển hóa chế độ chính trị ở nước ta.

Thời gian qua, một số đối tượng xấu đã lợi dụng các tổ chức dân sự để phục

vụ cho các mưu đồ chính trị, tiến hành thành lập các tổ chức “xã hội dân sự

chính trị” để thực hiện các hoạt động chống phá Đảng, Nhà nước. Trong đó, có

thể kể đến những tên hội: “Hội cựu tù nhân lương tâm”, “Hội phụ nữ nhân

quyền”, “Hội anh em dân chủ”, “Diễn đàn xã hội dân sự”, “Khối 8406”, “Bau xít

Việt Nam”, “Hiệp hội dân oan Việt Nam”, “Văn đoàn độc lập”, “Kiến nghị 72”,

“Tổ chức Việt Tân” … Các tổ chức này đều được lập ra bởi các đối tượng có

quan điểm chính trị đối lập, những người “bất đồng chính kiến”. Chúng lợi dụng

các vấn đề “tự do”, “dân chủ”, “nhân quyền” để tuyên truyền xuyên tác các vấn

đề chính trị, kinh tế, xã hội; vu cáo Đảng, Nhà nước, đòi xóa bỏ vai trò lãnh đạo

125

của Đảng Cộng sản (xóa bỏ Điều 4 Hiến pháp năm 2013), đòi đa nguyên, đa

đảng, gây mất lòng tin của quần chúng nhân dân.

Song song đó, tình hình tại các quốc gia tiếp giáp với Việt Nam, nhất là

Campuchia trước mắt ổn định, nhưng do tranh giành ảnh hưởng quyết liệt của

các nước lớn, tranh giành giữa các đảng phái chính trị nên tiềm ẩn nhiều yếu

tố mất ổn định. Các thế lực thù địch triệt để lợi dụng việc Việt Nam hội nhập

quốc tế và những sơ hở, thiếu sót để đẩy mạnh thâm nhập, tác động chuyển

hoá nền kinh tế Việt Nam theo tư bản chủ nghĩa. Lợi dụng vấn đề dân chủ,

nhân quyền, dân tộc, tôn giáo; đấu tranh chống tiêu cực, tham nhũng để gây

áp lực, hạ uy tín chính quyền cơ sở và hậu thuẫn cho bọn cơ hội, chống đối

chính trị đẩy mạnh hoạt động chống phá.

Các tổ chức phản động người Việt Nam ở nước ngoài liên kết với bọn

chống đối trong nước đẩy mạnh chống phá nền tảng tư tưởng, đường lối,

quan điểm của Đảng; thông qua các tổ chức phi Chính phủ, Việt kiều,...

đưa người về móc nối, xây dựng lực lượng; tìm cách tập hợp những người

có tư tưởng bất mãn, hình thành tổ chức chính trị phản động; lợi dụng khó

khăn về kinh tế, khiếu kiện của người dân, vấn đề Biển Đông... để kích

động biểu tình, gây rối.

Trong thực tế, những vấn đề này đã diễn ra tại các tỉnh như: Trà Vinh,

Sóc Trăng, Bạc Liêu...; bên cạnh đó, một bộ phận Tăng sĩ trẻ bị lôi cuốn tham

gia vào các tổ chức chư được Chính quyền công nhận như: “Hội tăng sinh

Khmer tỉnh Trà Vinh”,“Hội bảo trợ Phật học và văn hóa Khmer huyện Trà

Cú”,“Hội tăng sinh Khmer vòng hoa lài”, “Hội giáo viên yêu nước chùa

Xoài Xiêm mới”... Các hoạt động lợi dụng PGNTK để chống phá cách mạng

Việt Nam được thực hiện chủ yếu trên 04 yếu tố: (1) Yếu tố tôn giáo; (2) Yếu

tố quan hệ quốc gia - tộc người; (3) Yếu tố lịch sử và địa - chính trị; (4) Yếu

tố hạn chế trong việc thực hiện chủ trương, chính sách.

Đây là những lý do để Hội ĐKSSYN vùng Tây Nam Bộ tiếp tục tồn tại

và phát huy vai trò tập hợp, đoàn kết Tăng sĩ và Phật tử Khmer thực hiện

thắng lợi mục tiêu phát triển của đất nước. Bên cạnh những đóng góp của Hội

126

ĐKSSYN vùng Tây Nam Bộ trong phát triển kinh tế - xã hội; bảo tồn và phát

huy những giá trị văn hóa dân tộc. Hội ĐKSSYN còn chủ động tuyên truyền,

vận động Tăng sĩ và Phật tử Khmer đề cao cảnh giác, chủ động các biện pháp

thích hợp đấu tranh với các thế lực thù địch lợi dung tôn giáo nhằm chống phá

chính quyền Nhân dân, phá hoại khối đại đoàn kết các dân tộc. Đây là các

điều kiện đủ để Hội ĐKSSYN kiên quyết ngăn chặn các hoạt động lợi dụng

PGNTK, lợi dụng hội viên vào mục đích chính trị phản động.

Tóm lại, qua bài học lịch sử đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất

nước, chúng ta hoàn toàn có cơ sở để tin rằng, tinh thần yêu nước và bản chất

cách mạng của quần chúng có đạo là cơ bản. Tuy nhiên, với tính chất và vai trò

hoạt động của Hội ĐKSSYN có thể bị các thế lực thù địch xem Hội ĐKSSYN

như là tổ chức “xã hội dân sự”, là một “thực thể” có tính hai mặt (tích cực và tiêu

cực). Những giá trị nhân văn của PGNTK nói chung, Hội ĐKSSYN vùng Tây

Nam Bộ nói riêng có thể góp phần vào sự phát triển xã hội nếu như được quản lý

và phát huy tốt các chức năng, nhiệm vụ. Ngược lại, ở góc độ tiêu cực thì Hội

ĐKSSYN là một “thực thể” được tạo bởi các mối quan hệ tự nguyện, tự quản,

phi lợi nhuận…nên tính tổ chức khá lỏng lẻo, dễ tổn thương, dễ mất kiểm soát

và rơi vào hỗn loạn, dễ bị lợi dụng vào mục đích chính trị phản động.

4.3. CÁC GIẢI PHÁP CƠ BẢN NHẰM PHÁT HUY VAI TRÒ TÍCH CỰC

CỦA HỘI ĐOÀN KẾT SƯ SÃI YÊU NƯỚC VÙNG TÂY NAM BỘ

4.3.1. Tăng cường sự lãnh, chỉ đạo của các cấp ủy Đảng, sự quản lý

của Nhà nước đối với hoạt động của Hội Đoàn kết Sư sãi yêu nước vùng

Tây Nam Bộ

Tinh thần đoàn kết của người Việt Nam là một nhu cầu tất yếu để có thể

tồn tại, phát triển, là nguồn sức mạnh để giải phóng dân tộc và xây dựng xã

hội. Trong thời đại mới, truyền thống đoàn kết của người Việt Nam được nâng

lên trở thành một chiến lược cách mạng; là then chốt của thành công. Tinh thần

đoàn kết của người Việt Nam xuất phát từ nhu cầu tình cảm hết sức tự nhiên,

chứ không coi đó là thủ đoạn chính trị nhất thời mang tính sách lược, từ ý

muốn chủ quan của người lãnh đạo.

127

Trong suốt 90 năm qua, Đảng ta luôn coi trọng vai trò to lớn của Nhân

dân và được kết nối chặt chẽ trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Trong quá

trình lãnh đạo cách mạng, Đảng luôn nhận thức sâu sắc rằng quần chúng

Nhân dân là lực lượng quyết định, sáng tạo ra lịch sử và xác định: “Các tổ

chức quần chúng mạnh, tức Đảng mạnh và ảnh hưởng của Đảng với mọi mặt

của đời sống xã hội càng sâu rộng và chắc chắn. Các tổ chức xã hội quần

chúng coi sự gắn bó với sự lãnh đạo của Đảng như là nguồn sức mạnh của

chính mình” [86, tr.134].

Tuy nhiên, muốn đoàn kết được Nhân dân, điều đầu tiên là phải đảm bảo

cho Nhân dân được thực quyền làm chủ của mình; đồng thời, các tổ chức xã

hội nói chung coi sự gắn bó với sự lãnh đạo của Đảng như là nguồn sức mạnh

của chính mình. Mặt khác, trong tình hình hiện nay, việc đẩy mạnh và đổi mới

công tác quản lý xã hội là nhiệm vụ mang tính cấp thiết đối các cấp ủy Đảng,

Chính quyền vì quản lý xã hội là công tác phục vụ và quản lý con người, đơn vị

quản lý xã hội là cơ quan phục vụ quần chúng, công tác quản lý xã hội là công

tác vì lợi ích quần chúng... suy cho cùng quản lý xã hội là làm công tác quần

chúng. Thế nhưng để thực hiện tốt việc đẩy mạnh và đổi mới công tác quản lý xã

hội, các chủ thể quản lý cần thực hiện các nhiệm vụ như:

Một là, tăng cường phòng ngừa và hóa giải các mâu thuẫn xã hội vì

quản lý xã hội suy cho cùng là làm thế nào để giảm thiểu và hóa giải hiệu quả

mâu thuẫn nảy sinh, cần phải giải quyết ngay từ việc điều phối các lợi ích;

Hai là, tăng cường quản lý, phục vụ đối tượng đặc thù vì quần chúng đặc thù

vừa là nhóm đối tượng tiềm ẩn nguy cơ ảnh hưởng đến sự ổn định của xã hội,

vừa là đối tượng cần sự quan tâm đặc biệt; Ba là, tăng cường quản lý đối với sự

phát triển của tổ chức xã hội vì trong thời kỳ hội nhập các hoạt động của các tổ

chức xã hội đề có liên quan trực tiếp đến đời sống xã hội của Nhân dân.

Song song đó, việc nắm vững các quan điểm của Đảng về công tác vận

động quần chúng để xác định rõ trách nhiệm của từng tổ chức trong cả hệ

thống chính trị là khách quan. Qua đó, tạo sự thống nhất trong nhận thức xã

hội và tăng cường hơn nữa sự lãnh, chỉ đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà

128

nước thông qua vai trò của Mặt trận Tổ quốc. Mặt khác, việc xây dựng khối

đại đoàn kết toàn dân tộc và phát huy dân chủ luôn gắn bó chặt chẽ với nhau;

công tác quần chúng là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị; tổ chức quần

chúng mạnh, tức Đảng mạnh và ảnh hưởng của Đảng với mọi mặt của đời sống

xã hội càng sâu rộng và chắc chắn.

Với những luận giải trên thì Hội ĐKSSYN cũng là tổ chức xã hội; hiện

đang thực hiện nhiệm vụ quản lý xã hội đối với Tăng sĩ Khmer; vận động

quần chúng trong phạm vi cộng đồng người Khmer vùng Tây Nam Bộ. Mặt

khác, Hội ĐKSSYN là thành viên của Mặt trận, có vai trò quan trọng trong

việc phát huy dân chủ; vì dân chủ là bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa,

vừa là mục tiêu, vừa là động lực to lớn của cách mạng. Do vậy, việc tăng

cường sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước đối với các hội quần

chúng nói chung, Hội ĐKSSYN nói riêng là vấn đề cấp bách. Vì việc nâng

cao vai trò lãnh, chỉ đạo của Đảng và Nhà nước đối với tổ chức xã hội như Hội

ĐKSSYN có vị trí, vai trò rất đặc thù đối với cộng đồng người Khmer nhằm

giúp các vị Tăng sĩ và Phật tử Khmer nói chung, Ban Chấp hành Hội ĐKSSYN

nói riêng tiếp tục có điều kiện thể hiện tinh thần “nhập thế”.

Để làm được những điều này, trước hết Ban Dân vận cấp ủy phải thực

hiện tốt chế độ làm việc và quan hệ công tác theo Hướng dẫn số 537/TC-TW

ngày 04/11/1992 của Ban Tổ chức Trung ương - Ban Dân vận Trung ương và

Hướng dẫn số 69/HD-DVTW ngày 15/10/1995 của Ban Dân vận Trung ương.

Cụ thể, Ban Dân vận có chức năng kiểm tra công tác quần của Đảng. Thông

qua việc nghiên cứu kiểm tra mà đề xuất với cấp ủy biểu dương mặt làm tốt,

uốn nắn những lệch lạc, giúp cấp ủy đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với

Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể và các Hội quần chúng....Ba tháng 1 lần, Ban

Dân vận tổ chức họp với Đảng đoàn Mặt trận, các đoàn thể Nhân dân cùng

cấp để trao đổi, rút kinh nghiệm trong khối dân vận. Đồng thời tham mưu cấp

ủy Đảng tiếp tục quán triệt, triển khai thực hiện tốt Chỉ thị số 17-CT/TW ngày

28/8/2012 của Bộ Chính trị về “tiếp tục đổi mới và tăng cường sự lãnh đạo

của đảng đối với các hội quần chúng” và Chỉ thị 49-CT/TW ngày 20/10/2015

129

của Bộ Chính trị về tăng cường và đổi mới công tác dân vận của Đảng ở vùng

đồng bào dân tộc thiểu số.

4.3.2. Nâng cao nhận thức đối với cán bộ, đảng viên, Tăng sĩ, Phật tử

Khmer và xã hội về vị trí, vai trò của Hội Đoàn kết sư sãi yêu nước vùng

Tây Nam Bộ

Các cấp ủy Đảng, Chính quyền, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể và

GHPGVN cần nhận thức đầy đủ hơn về vị trí, vai trò và sự đóng góp thiết

thực, quý báu của Hội ĐKSSYN trong sự nghiệp cách mạng Việt Nam. Đây

là tổ chức đặc thù, chi phối hầu hết Tăng sĩ và Phật tử Khmer vùng Tây Nam

Bộ. Hơn nữa, đồng bào Khmer từ bao đời nay vốn gắn bó, đóng góp công sức

và trí tuệ đối với sự phát triển của vùng đất Nam Bộ giàu tiềm năng và nhiều

lợi thế.

Tiếp tục nâng cao nhận thức đối với các tổ chức trong hệ thống

GHPGVN và các cơ quan chức năng về vấn đề đào tạo Tăng sĩ Khmer; đây là

nhiệm vụ hàng đầu trong hoạt động của Phật giáo nói chung. Bởi các vị sẽ là

người “chèo lái” con thuyền giáo hội, hệ phái, tổ chức, hội...; là người định

hướng tư tưởng cho tín đồ; là đội ngũ quyết định xây dựng Giáo hội, hệ phái,

tổ chức, hội... có tự chủ, đồng hành cùng dân tộc hoặc phụ thuộc vào các lực

lượng thù địch khác...

Thống nhất nhận thức về chức năng, nhiệm vụ của Hội ĐKSSYN vùng

Tây Nam Bộ tránh việc chồng chéo hoặc nhầm lẫn giữa chức năng, nhiệm vụ

của Hội ĐKSSYN và BTSPG. Đồng thời, nhận thức rõ tính chất hoạt động

của Hội ĐKSSYN không phải là hình thức tổ chức “xã hội dân sự” như một

số nước tư bản chủ nghĩa. Đồng thời, kiên quyết đấu tranh với các tổ chức

hội, đoàn thể ở trong nước; các tổ chức phi chính phủ nước ngoài hoạt động

vi phạm pháp luật Việt Nam; kịp thời tham mưu cho Đảng, Nhà nước ban

hành các chủ trương, chính sách, xây dựng hệ thống văn bản pháp luật phù

hợp, điều chỉnh hoạt động của các tổ chức hội, đoàn thể ở trong nước; các tổ

chức phi chính phủ nước ngoài theo đúng định hướng phát triển đất nước.

130

Tóm lại, với những luận giải như đã nêu trên; các cấp ủy Đảng, Chính

quyền, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể và GHPGVN cần tập trung nhiều hơn

nữa cho việc nâng cao và thống nhất nhận thức về vị trí, vai trò trong quá

trình lịch sử; nhận thức rõ về chức năng, nhiệm vụ của Hội ĐKSSYN vùng

Tây Nam Bộ hiện nay. Qua đó, tôn trọng địa vị lịch sử, vị trí, vai trò xã hội, tư

cách đại diện cho cộng đồng người Khmer; bảo đảm sự lãnh đạo dân chủ,

phát huy tinh thần chủ động, sáng tạo của Hội ĐKSSYN. Trên cơ cở nhận

thức đúng đắn về vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ của Hội ĐKSSYN, cần

mở rộng đa dạng hóa các hình thức tập hợp Nhân dân, phát huy vai trò của

Hội ĐKSSYN trong việc xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc để cùng

tham gia các hoạt động phát triển kinh tế, văn hóa - xã hội; đảm bảo an ninh,

trật tự, an toàn xã hội trong cộng đồng người Khmer vùng Tây Nam Bộ.

4.3.3. Tăng cường sự phối hợp của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức

chính trị - xã hội và Giáo hội Phật giáo Việt Nam trong các hoạt động của

Hội Đoàn kết sư sãi yêu nước vùng Tây Nam Bộ

Với tư cách là cùng tổ chức thành viên, Mặt trật Tổ quốc Việt Nam, các

đoàn thể chính trị - xã hội và các tổ chức trong hệ thống GHPGVN cần xây

dựng quy chế phối hợp với Hội ĐKSSYN cùng cấp nhằm tăng cường mối

quan hệ cùng thực hiện các hoạt động do Mặt trận Tổ quốc phát động, góp

phần đẩy mạnh các phong trào thi đua yêu nước; cùng tham gia các hoạt động

công ích xã hội; tăng cường phối hợp xử lý hóa giải những vấn đề phát sinh

gây ảnh hưởng đến sự hòa hợp và sự đoàn kết đối với các cá nhân, các tổ chức

trong xã hội. Để thực hiện được vấn đề này, UBMTTQVN là đơn vị làm đầu

mối xây dựng quy chế phối hợp giữa các tổ chức thành viên giúp Hội

ĐKSSYN tiếp tục hoạt động có hiệu quả và thiết thực; đồng thời, theo dõi,

nghiên cứu, tham mưu, đề xuất những vấn đề còn bất cập có liên quan đến

Hội ĐKSSYN để làm cơ sở chỉ đạo thống nhất.

Song song đó, tăng cường giám sát việc thực hiện các giải pháp theo tinh

thần của Chỉ thị số 19-CT/TW ngày 10/01/2018 của Ban Bí thư; trong đó, đặc

biệt quan tâm đến giải pháp: “quan tâm đào tạo bồi dưỡng và phát triển đội

131

ngũ chức sắc; phát huy vai trò của Hội Đoàn kết Sư sãi yêu nước… đối với

công tác vận động đồng bào” [17, tr.03]. Tới đây, cần quan tâm, chú ý đến

việc hiệp thương, giới thiệu và cơ cấu hợp lý các vị giáo phẩm, cao tăng, chức

sắc PGNTK trong các tổ chức, tránh cơ cấu các vị cùng lúc đảm nhiệm nhiều

chức việc trong nhiều tổ chức khác nhau.

4.3.4. Phát huy vai trò của các vị chức sắc Phật giáo Nam tông

Khmer có vị trí trong Giáo hội Phật giáo Việt Nam để tập hợp, chia sẽ

lẫn nhau những kinh nghiệm trong hoạt động của Hội Đoàn kết sư sãi

yêu nước vùng Tây Nam Bộ; hướng đến tạo sự thống nhất chung về mô

hình tổ chức và cơ chế hoạt động

Hiện nay, toàn vùng có 60 vị Hòa thượng, 127 vị Thượng tọa, 1.355 vị

Đại đức; nhiệm kỳ VIII (2017 - 2022) có 14 thành viên Hội đồng Chứng

minh, trong đó 01 vị Phó Pháp chủ, 03 thành viên Ban Thường trực, 10 thành

viên Hội đồng Chứng minh; riêng Hội đồng Trị sự có 26 thành viên, trong đó:

02 Phó Chủ tịch Hội đồng Trị sự, 01 Ủy viên Thư ký, 02 Ủy viên Thường

trực và 21 Ủy viên Hội đồng Trị sự. Mặt khác, đa số các vị lãnh đạo đứng đầu

Hội cấp tỉnh đều là các vị chức sắc đang giữ các vị trí quan trọng, chủ chốt

trong hệ thống tổ chức GHPGVN. Đây là điều kiện để các vị dễ dàng phát

huy được vai trò trong việc vận động, tập hợp, đoàn kết giới Tăng sĩ và Phật

tử Khmer nhằm chia sẽ những kinh nghiệm hay trong quá trình điều hành các

hoạt động của Hội ĐKSSYN vùng Tây Nam Bộ

4.3.5. Hoàn thiện mô hình tổ chức và cơ chế hoạt động của Hội Đoàn

kết sư sãi yêu nước vùng Tây Nam Bộ

Để thực hiện đề tài luận án, trước đó nghiên cứu sinh đã thực hiện điều

tra bằng bảng hỏi được 243 người; kết quả cho thấy: có 98,77% xem vai trò

của Hội ĐKSSYN là rất quan trọng; 98,35% nên duy trì tổ chức Hội; 96,71%

muốn có tổ chức Hội cấp trên để có sự chỉ đạo thống nhất đối với Hội;

97,53% cho rằng các tỉnh, thành phố có PGNTK nên thành lập Hội; 98,77%

tỉnh An Giang nên thành lập Hội; 69,55% nên giữ lại tên gọi Hội ĐKSSYN;

91,18% cần thống nhất chung tất cả các Hội như về mô hình, cơ cấu tổ chức,

132

tiêu chuẩn hội viên, tên gọi những người đứng đầu (trưởng, phó), chức năng

nhiệm vụ...

Bên cạnh đó, có thể nói rằng, PGNT đã trùm lên toàn bộ đời sống xã hội

của cộng đồng người Khmer; vì đó là một tôn giáo mang tính quần chúng, nó

không đơn thuần là thần luận, mà chủ yếu là một thứ đạo đức luận, luôn mong

muốn được sống “tốt đời - đẹp đạo”, có vai trò trong việc đào tạo con em

người Khmer thành những người có trí thức và đức hạnh. Mặt khác, tôn giáo

và bản sắc dân tộc trong cộng đồng người Khmer được hòa quyện với nhau

nên không quan tâm và sử dụng thỏa đáng vai trò của PGNTK nói chung, Hội

ĐKSSYN nói riêng trong việc thực thi chính sách phát triển toàn diện xã hội

vùng Tây Nam Bộ là không thực tế.

Việc xác định sự tồn tại của tổ chức Hội ĐKSSYN là rất quan trọng đối

với sự phát triển chung của vùng Tây Nam Bộ; đây là cánh tay nối dài của

Đảng, Chính quyền địa phương thông qua Mặt trận Tổ quốc với cộng đồng

người Khmer nên việc giúp cho Hội ĐKSSYN tiếp tục khẳng định vị trí, vai trò

của mình trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc là rất thiết thực. Xác

định nhiệm vụ trọng tâm và xuyên suốt của Hội ĐKSSYN là tập hợp, đoàn

kết, hướng dẫn, động viên Tăng sĩ và Phật tử Khmer tích cực tham gia các

nhiệm vụ, chương trình phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo an ninh chính trị,

các phong trào thi đua yêu nước và các cuộc vận động do Đảng, Nhà nước và

Mặt trận Tổ quốc phát động.

Song song đó, qua kết quả thăm dò ý kiến của cộng đồng người Khmer

cho thấy: có 98,77% số phiếu xem vai trò của Hội ĐKSSYN là rất quan trọng;

98,35% nên duy trì tổ chức Hội ĐKSSYN; 96,71% muốn có tổ chức Hội cấp

trên để có sự chỉ đạo thống nhất; 97,53% cho rằng các tỉnh, thành phố có

PGNTK nên thành lập Hội; 69,55% nên giữ lại tên gọi Hội ĐKSSYN và

91,18% cho rằng cần có sự thống nhất chung về mô hình, cơ cấu tổ chức, tiêu

chuẩn hội viên, tên gọi chức danh người đứng đầu, chức năng, nhiệm vụ...

Trong thực tế, BTSPG và Hội ĐKSSYN cùng cấp đang tồn tại hai tổ

chức tách biệt. Hội ĐKSSYN hoạt động với danh nghĩa là tổ chức xã hội của

133

giới Tăng sĩ và Phật tử Khmer. Do vậy, nên giữ nguyên hiện trạng hoạt động

của Hội ĐKSSYN như hiện nay. Tuy nhiên, người đứng đầu Hội ĐKSSYN

phải là vị Tăng sĩ có chức danh cao trong BTSPG cùng cấp kiêm nhiệm.

Đồng thời, cần phải nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung Điều lệ và Quy chế hoạt

động của Hội ĐKSSYN sau cho thống nhất giữa các địa phương; xem xét lại

chức năng, nhiệm vụ của BTSPG và Hội ĐKSSYN nhằm tránh sự chồng chéo

hoặc tạo nên kẻ hở để các phần tử xấu kích động chia rẽ.

4.3.6. Hoàn thiện chính sách đối với Phật giáo Nam tông Khmer và

Hội Đoàn kết sư sãi yêu nước trong tổng thể chính sách phát triển kinh tế

- xã hội, đảm bảo an ninh trật tự vùng Tây Nam Bộ

Vấn đề dân tộc, tôn giáo trong vùng đồng bào Khmer không tách rời

nhau, Hội ĐKSSYN là tổ chức xã hội của giới Tăng sĩ và có mối quan hệ mật

thiết với cộng đồng người Khmer nên việc thực hiện xây dựng, bỏ sung chính

sách đối với PGNTK và Hội ĐKSSYN cần phải được thực hiện đồng bộ với các

chính sách về dân tộc và tôn giáo trong tổng thể chính sách phát triển kinh tế - xã

hội vùng Tây Nam Bộ. Do vậy, rất cần có sự quan tâm thực hiện chính sách đã

ban hành đối với dân tộc Khmer nói chung; PGNTK và Hội ĐKSSYN vùng Tây

Nam Bộ nói riêng; trong đó, cần chú trọng việc nâng cao dân trí, đào tạo nhân

lực và bồi dưỡng nhân tài cho người Khmer, từng bước xóa đói giảm nghèo để

cuộc sống của đồng bào được cải thiện. Theo đó, nghiên cứu sinh đưa ra một số

giải pháp để tiếp tục thực hiện có hiệu quả chủ trương, chính sách của Đảng và

Nhà nước đối với vùng đồng bào Khmer - Nam Bộ như sau:

- Đối với dân tộc Khmer: Sớm cụ thể hóa Nghị quyết số 88/2019/QH14

ngày 18/11/2019 của Quốc hội với các cơ chế chính sách giúp đồng bào

Khmer thoát nghèo, vươn lên khá, giàu về mặt đời sống vật chất, là một trong

các yếu tố quan trọng tạo điều kiện để đời sống tinh thần, tư tưởng, văn hóa,

dân trí... của dân tộc Khmer cùng phát triển, giải quyết được vấn đề bình đẳng

trong hưởng thụ cũng như phát huy được giá trị đích thực của một dân tộc

giàu bản sắc. Tuy nhiên, để giải quyết được vấn đề đói, nghèo phải đi đôi với

việc đầu tư phát triển kinh tế - xã hội các xã khó khăn, xã đặc biệt khó khăn -

134

nơi phần lớn đồng bào Khmer sinh sống góp phần vào quá trình xây dựng

nông thôn mới.

Để giảm nghèo có hiệu quả và bền vững, cần phải huy động sức mạnh

của toàn xã hội; trong đó, Đảng đóng vai trò lãnh đạo, Chính quyền xây dựng

chương trình hành động cụ thể, phối kết hợp với các doanh nghiệp, các tổ

chức trong và ngoài nước, các tổ chức phi chính phủ, tận dụng sự hỗ trợ song

phương và đa phương của các quốc gia. Các tổ chức đoàn thể có trách nhiệm

giáo dục, vận động, tuyên truyền về công tác giảm nghèo. Từng hộ nghèo

nắm bắt cơ hội được Nhà nước, cộng đồng xã hội hỗ trợ và tranh thủ các điều

kiện có được để giảm nghèo, thoát nghèo. Nhà nước, cộng đồng xã hội và

người nghèo cùng chia sẻ trách nhiệm; việc gì người nghèo làm được thì tạo

điều kiện để họ tự làm, việc gì người nghèo không tự làm được thì Nhà nước,

cộng đồng xã hội hỗ trợ (tuyệt đối không bao cấp) nhằm đảm bảo tính bền

vững, lâu dài. Do đó, các cấp, các ngành và toàn thể Nhân dân cần nhận thức

đầy đủ và cùng chia sẻ trách nhiệm hơn nữa đối với công tác giảm nghèo và

phát triển kinh tế - xã hội, đảm bao an ninh chính trị trong vùng đồng bào

Khmer, tránh có tư tưởng cho rằng Đảng và Nhà nước Việt Nam quá ưu đãi

đối với đồng bào Khmer.

- Đối với Phật giáo Nam tông Khmer: Các bộ, ban, ngành và các địa

phương có PGNTK tiếp tục phối hợp thực hiện tốt Thông báo số 122/TB-CP

ngày 26 tháng 02 năm 2004 của Văn phòng Chính phủ; nhất là một số nội

dung chưa thực hiện được theo tinh thần đã đề ra. Đồng thời, tiếp tục quan

tâm thực hiện chế độ chính sách đối với đội ngũ Chức sắc PGNTK (Hòa

thượng, Thượng tọa, Đại đức) vì các vị là tầng lớp trí thức, đại diện cho dân

tộc; có vai trò to lớn và ảnh hưởng sâu sắc trong đời sống tinh thần và đời

sống xã hội của đồng bào Khmer.

- Đối với Hội Đoàn kết Sư sãi yêu nước: Nhà nước là chủ thể quyết định

trong việc quản lý xã hội và là nhân tố cơ bản giúp xã hội tồn tại, hoạt động,

phát triển hay suy thoái; cơ chế quản lý của Nhà nước là yếu tố tác động trực

tiếp đến đời sống xã hội. Để quản lý xã hội nói chung, quản lý tổ chức “Hội”

135

nói riêng; ngay trong những năm kháng chiến chống Mỹ cứu nước, ngày

20/5/1957, Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa đã ra Sắc lệnh số

101/SL/L.003 về việc ban bố Luật quy định quyền tự do hội họp và Sắc lệnh

số 102/SL/L.004 về việc ban bố Luật quy định quyền lập hội đã được Quốc

hội biểu quyết trong khóa họp thứ VI.

Ngày 14/6/1957, Thủ tướng Chính phủ ban hành Nghị định số 257/TTg

quy định chi tiết thi hành Luật số 101/LS/L.003; Nghị định số 258/TTg quy

định chi tiết thi hành Luật số 102/LS/L.004. Ngày 05/01/1989, Hội đồng Bộ

trưởng ban hành Chỉ thị số 01/CT về việc quản lý tổ chức và hoạt động của

các hội quần chúng; ngày 05/6/1990, Hội đồng Bộ trưởng tiếp tục ban hành

Chỉ thị số 202/CT về việc chấp hành các quy định của Nhà nước trong việc

lập hội; Chỉ thị số 17-CT/TW ngày 28/8/2012 của Bộ Chính trị và Kết luận số

102-KL/TW, ngày 22/9/2014 của Bộ Chính trị nhằm tăng cường công tác

quản lý hoạt động của hội quần chúng.

Cụ thể, theo hướng dẫn số 07/TCCP ngày 06/01/1989 về việc thi hành

Chỉ thị 01/CT ngày 05/01/1989 của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng việc quản

lý tổ chức và hoạt động của hội quần chúng có quy định trách nhiệm của cơ

quan Nhà nước đối với hội quần chúng; trong đó, có giao trách nhiệm của cơ

quan Nhà nước các cấp đối với hội quần chúng, cụ thể như sau:

Chủ tịch Ủy ban Nhân dân tỉnh, thành phố, đặc khu thực thuộc

Trung ương theo dõi và quản lý về mặt Nhà nước đối với tất cả các

Hội, tạo điều kiện và giúp đỡ về cán bộ, cơ sở vật chất, phương tiện

cho các Hội quần chúng hoạt động tại địa phương, hướng hoạt động

của các hội gắn với phong trào quần chúng của địa phương trong

việc thực hiện các nhiệm vụ kinh tế, xã hội một cách thiết thực và có

hiệu quả [86, tr.212].

Đối với các Hội mới thành lập hoặc còn gặp nhiều khó khăn thì Ủy

ban Nhân dân các cấp cần quan tâm giúp các cấp Hội về mọi mặt để sớm

ổn định hoạt động và nhanh chóng đưa hoạt động có hiệu quả. Theo đó,

Hội ĐKSSYN được thành lập từ năm 1964; đây là tổ chức xã hội của giới

136

Tăng sĩ Khmer có mối quan hệ chặt chẽ với cộng đồng người Khmer; là tổ

chức quần chúng vừa có yếu tố dân tộc, vừa có yếu tôn giáo hoạt động theo

tôn chỉ, mục đích quy định trong Điều lệ được UBND cùng cấp ra quyết

định phê chuẩn. Do vậy, việc quản lý Nhà nước đối với Hội ĐKSSYN nên

do các đơn vị làm công tác dân tộc hoặc tôn giáo trực thuộc UBND cùng

cấp quản lý nhưng với tư cách là tổ chức thành viên nên cần thống nhất

giao cho Mặt trận Tổ quốc cùng cấp làm đầu mối, phối hợp với các đơn vị

có liên quan hướng dẫn, giúp đỡ Hội ĐKSSYN tiếp tục phát huy tốt vai trò

của mình trong đời sống xã hội.

Hội ĐKSSYN là tổ chức xã hội trong giới Tăng sĩ và Phật tử Khmer

nhưng do ảnh hưởng cơ chế hoạt động trong giai đoạn 1964-1975 nên mọi

hoạt động của Hội ĐKSSYN đều dựa vào các nguồn hỗ trợ từ phía Nhà nước.

Hiện nay, việc hỗ trợ kinh phí cho Hội ĐKSSYN là sự đầu tư và sử dụng có

hiệu quả ngân sách Nhà nước cho các hoạt động xã hội gắn với nhiệm vụ chính

trị tại các địa phương. Do vậy, các cấp ủy Đảng, Chính quyền, Mặt trận Tổ

quốc và đoàn thể chính trị - xã hội tiếp tục vận dụng các nguồn lực để hỗ trợ

cho Hội ĐKSSYN thực hiện tốt nhiệm vụ chung, góp phần ổn định an ninh trật

tự và phát triển kinh tế văn hóa - xã hội của địa phương.

Qua nghiên cứu về vấn đề này, nghiên cứu sinh nhận thấy tỉnh Vĩnh Long

là địa phương rất quan tâm đến vấn đề hỗ trợ kinh phí hoạt động của Hội

ĐKSSYN, cụ thể: tại Khoản 2. Điều 24 Điều lệ của Hội ĐKSSYN tỉnh Vĩnh

Long quy định:

Nguồn hỗ trợ của Nhà nước: Theo thông tư số 123/2003/TT-BTC,

ngày 16/12/2003 của Bộ Tài chính (Ngân sách Nhà nước hỗ trợ cho

các Hội có những hoạt động gắn với nhiệm vụ của Nhà nước theo

các nguyên tắc quy định tại khoản 2, Điều 2, Quyết định số

21/2003/QĐ-TTg ngày 29/1/2003 của Thủ tướng Chính phủ) [63].

Gần đây nhất, Ban Thường vụ Tỉnh ủy Vĩnh Long có ban hành Thông

báo Kết luận số 90-TB/TU ngày 07/3/2019 về chính sách cán bộ; thống nhất

hỗ trợ đối với người làm việc tại Ủy ban Đoàn kết Công giáo (UBĐKCG) và

137

Hội ĐKSSYN như sau: “Chủ tịch Hội: 3,5 lần mức lương cơ sở; Phó Chủ

tịch Hội: 3,0 lần mức lương cơ sở”; đồng thời, giao cho Ban Cán sự Đảng Ủy

ban nhân dân tỉnh lãnh, chỉ đạo triển khai thực hiện kết luận này; đến nay các

tổ chức UBĐKCG và Hội ĐKSSYN đã được hỗ trợ kinh phí để hoạt động

gắn với nhiệm vụ của Nhà nước tại địa phương.

Song song đó, nếu so sánh giữa UBĐKCG và Hội ĐKSSYN thì cả hai

đều là tổ chức có quá trình lịch sử, tính chất, tôn chỉ, mục đích, chức năng,

nhiệm vụ tương đồng nhau; việc hỗ trợ kinh phí hoạt động và phụ cấp cho

thành viên tham gia UBĐKCG các cấp theo văn bản “Hướng dẫn số

5854/BTC-HDSN ngày 10/11/1999; nay được thay bằng văn bản Hướng dẫn

số 286/BTC-HDSN ngày 13/6/2012 của Bộ Tài chính về về việc hỗ trợ kinh

phí từ ngân sách Nhà nước đối với hoạt động của tổ chức Ủy ban Đoàn kết

Công giáo các cấp. Thông thường thì hàng năm Ban Thường trực

UBMTTQVN các cấp của địa phương căn cứ vào các quy định này xây dựng

dự toán ngân sách năm sau, bố trí nguồn ngân sách cho UBĐKCG các cấp

của địa phương mình đủ kinh phí hoạt động thường xuyên.

Mặt khác, nếu nghiên cứu Nghị định số 45/2010/NĐ-CP, ngày

21/4/2010 của Chính phủ quy định về tổ chức, hoạt động và quản lý hội; Nghị

định số 33/2012/NĐ-CP, ngày 13/4/2012 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số

điều của Nghị định số 45/2010/NĐ-CP; Quyết định số 68/2010/QĐ-TTg, ngày

01/11/2010 của Thủ tướng Chính phủ quy định về hội có tính chất đặc thù và

các văn bản hướng dẫn liên quan để đối chiếu chức năng, nhiệm vụ được quy

định trong Điều lệ của Hội ĐKSSYN với Điều 34 của Nghị định 45/2010/NĐ-

CP ngày 21/4/2010 của Chính phủ thì rõ ràng các hoạt động của Hội ĐKSSYN

có đủ cơ sở để xác định là hội có tính đặc thù. Bởi vì Hội ĐKSSYN không phải

là tổ chức hội, đoàn trong tôn giáo; các hoạt động của Hội ĐKSSYN đều gắn

liền với việc thực hiện nhiệm vụ của Nhà nước tại các địa phương.

Qua việc phân tích, luận giải và so sánh những quy định về việc thực

hiện chính sách Hội ĐKSSYN có đủ điều kiện để xem xét là tổ chức có tính

chất đặc thù. Tuy nhiên, với chủ trương xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân

138

tộc và chính sách bình đẳng của Đảng và Nhà nước không nên có cơ chế

chính sách riêng cho từng tổ chức Hội, đoàn có yếu tố tôn giáo hoặc dân tộc

nói chung; Hội ĐKSSYN vùng Tây Nam Bộ nói riêng mà phải nghiên cứu,

xây dựng bổ sung trong chính sách tổng thể phát triển kinh tế - xã hội, đảm

bảo an ninh trật tự vùng Tây Nam Bộ phù hợp với chủ trương, chính sách,

pháp luật về dân tộc, tôn giáo của Đảng và Nhà nước. Hoặc tùy theo đặc điểm

tình hình của mỗi địa phương mà thực hiện bổ sung chính sách hỗ trợ hoạt

động đối với Hội ĐKSSYN gắn liền với nhiệm vụ vận động, tuyên truyền hội

viên và Phật tử Khmer đoàn kết cùng thực hiện chủ trương, pháp luật của

Đảng và Nhà nước góp phần phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo an ninh trật

tự trên địa bàn. Nếu có thể, cần có một nghiên cứu để phân loại các tổ chức xã

hội thành: (1) Tổ chức xã hội “vì lợi ích hội viên”; (2) Tổ chức xã hội “vì lợi

ích cộng đồng” ...nhằm bổ sung cơ chế chính sách như: xem xét hưởng các

ưu đãi về thuế, được nhận sự hỗ trợ từ cá nhân, tổ chức hảo tâm ở trong và

ngoài nước và kể cả các tổ chức trong hệ thống chính trị của nước ta.

Tóm lại, cả nước nói chung, Nam bộ nói riêng, là vùng đa dân tộc và

nhiều tôn giáo, vấn đề dân tộc - tôn giáo luôn có sự đan xen, thẩm thấu vào

nhau, cái này là nguyên nhân của cái kia và ngược lại hoặc nếu cái này là “cái

toàn bộ” thì cái kia là “cái bộ phận” và ngược lại. Chủ trương, chính sách

của Đảng và Nhà nước ta đã đảm bảo tính “bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng,

giúp nhau cùng phát triển”. Để tiếp tục phát huy vai trò trong việc xây

dựng khối đại đoàn kết; phát huy truyền thống đấu tranh giải phóng dân tộc

và những đóng góp tích cực trong việc bảo tồn những giá trị văn hóa truyền

thống dân tộc của Hội ĐKSSYN. Đồng thời, định hướng cho hoạt động của

Hội ĐKSSYN vùng Tây Nam Bộ phát triển đi lên con đường văn minh,

tiến bộ, gắn bó mật thiết với sự phát triển chung của cộng đồng người

Khmer và xã hội. Về lâu dài, cần nghiên cứu, bổ sung và hoàn chỉnh chính

sách mang tính tổng thể, toàn diện, thống nhất và bền vững đối với vùng

Tây Nam Bộ. Do vậy, việc xây dựng chính sách “đặc thù” riêng cho các tổ

chức có yếu tố tôn giáo hoặc dân tộc nói chung, Hội ĐKSSYN nói riêng

139

cần được nghiên cứu một cách tổng thể hướng mọi hoạt động gắn với

nhiệm vụ phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội và đảm bảo trật tự, an toàn xã

hội vùng Tây Nam Bộ.

4.4. KIẾN NGHỊ

4.4.1. Đối với Đảng, Nhà nước và các bộ, ban, ngành Trung ương

Trước tiên, cần tiếp tục chỉ đạo, quán triệt Chỉ thị số 18-CT/TW, ngày

10/01/2018 của Bộ chính trị khóa XII “về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 25-

NQ/TW của Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa IX về công tác tôn giáo

trong tình hình mới”. Kết luận số 65-KL/TW ngày 30/10/2019 của Bộ Chính

trị “Về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 24-NQ/TW của Ban chấp hành Trung

ương Đảng khóa IX về công tác dân tộc trong tình hình mới”. Nghị quyết số

88/2019/QH14 ngày 18/11/2019 của Quốc hội “Phê duyệt Đề án tổng thể

phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai

đoạn 2021-2030”, gắn với tiếp tục thực hiện các nội dung của Chỉ thị số 19-

CT/TW, ngày 10 tháng 01 năm 2018 của Ban Bí thư Trung ương Đảng “Về

tăng cường công tác ở vùng đồng bào dân tộc Khmer trong tình hình mới”;

góp phần khẳng định đường lối, chính sách nhất quán của Đảng và Nhà nước

đối với đồng bào dân tộc thiểu số, trong đó có đồng bào dân tộc Khmer. Qua

đó, cụ thể hoá bằng chính sách theo chiều sâu nhằm rút ngắn khoảng cách

chênh lệch giữa thành thị và nông thôn, trong đó có địa bàn mà đồng bào

Khmer đang sinh sống.

Hai là, chỉ đạo cụ thể cho các bộ, ban, ngành, cơ quan chức năng tổ chức

nghiên cứu, nắm chắc chủ trương, đường lối, phương châm, mục tiêu, nhiệm

vụ, giải pháp công tác dân tộc, công tác tôn giáo làm nền tảng cho công tác

nghiên cứu, tham mưu, tổ chức thực hiện chính sách đối với PGNTK nói

chung, Hội ĐKSSYN nói riêng sao cho phù hợp với đặc điểm, tình hình vùng

Tây Nam Bộ.

Ba là, tiếp tục củng cố và tăng cường ngày càng vững chắc ý thức về

quốc gia - dân tộc, về Tổ quốc Việt Nam, về ý thức công dân Việt Nam của

các vị Tăng sĩ và Phật tử Khmer ở Nam Bộ. Việc củng cố và tăng cường ý

140

thức về Tổ quốc Việt Nam, ý thức công dân Việt Nam, lòng tin đối với Đảng

và Nhà nước ta của Tăng sĩ và Phật tử Khmer phải được coi là nhiệm vụ vừa

cơ bản lâu dài, vừa cấp bách của chính sách đối với dân tộc Khmer. Đồng

thời, chỉ đạo các ngành có liên quan xác định tên gọi cụ thể đối với tộc người

“Khmer” (tên thường gọi như hiện nay).

Bởi vì theo “Danh mục các thành phần dân tộc Việt Nam” dùng thống

nhất trong cuộc tổng điều tra dân số năm 1979, cũng như trong công tác thống

kê thường xuyên, công tác nghiên cứu thì tên tộc người “Khmer” được viết

là: “Khơ-me; tên gọi khác là: Cur, Cul, Cu, thổ, Việt gốc Miên, Khơ-me

Krôm”. Tuy nhiên, ngày 29/9/1981, Ban Chấp hành Trung ương ban hành

Chỉ thị số 117/CT-TW về công tác đối với đồng bào Khmer để “thống nhất

cách dùng tên gọi dân tộc Khmer, người Khmer, người Việt (người Kinh),

không được dùng những tên gọi không chính xác hoặc hàm ý miệt thị như

người Miên, người Thổ, người Việt gốc Miên, Duôn v.v...”; do vậy, cộng

đồng người Khmer quen sử dụng tên gọi của dân tộc mình theo tinh thần của

Chỉ thị 117/CT-TW đến nay.

Song song đó, trong thực tiễn, việc áp dụng tên dân tộc “Khơ-me”,

“Khờ- me”, “Kh'me” hoặc “Khmer” vẫn chưa thống nhất trong các văn bản

qui phạm pháp luật để chỉ người Khmer hoặc dân tộc Khmer. Thế nhưng, hiện

nay việc sử dụng từ “Khmer” lại chiếm đa số trong các văn bản trong hệ

thống chính trị ở vùng Tây Nam Bộ. Mặt khác, trong hệ thống GHPGVN, với

sự thống nhất tên gọi “Phật giáo Nam tông Khmer” theo Thông báo số

122/TB-CP, ngày 26 tháng 02 năm 2004 của Văn phòng Chính phủ; nay đã và

đang được sử dụng vượt khởi biên giới quốc gia dân tộc nên rất cần thống

nhất tên gọi dân tộc “Khmer” trong bối cảnh hội nhập quốc tế như hiện nay.

Bốn là, với nội dung cơ bản của đường lối chính sách dân tộc của Đảng

Cộng sản Việt Nam là: bình đẳng, đoàn kết, tương trợ, giúp đỡ nhau cùng

phát triển phải được tiếp tục quán triệt trong toàn Đảng, toàn dân và phải

được thực thi đầy đủ trên tất cả các lĩnh vực đời sống xã hội, phải được đưa

vào Luật Dân tộc, coi đó là quan điểm cơ bản để giải quyết vấn đề dân tộc

141

Khmer ở nước ta; đồng thời, đây là điều kiện tất yếu cho sự phát triển toàn

diện và bền vững vùng Tây Nam Bộ. Do vậy, cần tiếp tục đổi mới nội dung

và phương thức lãnh, chỉ đạo của Đảng và Nhà nước, nâng cao tính khoa học

và hiệu quả của sự lãnh, chỉ đạo của hệ thống chính trị đối với Hội ĐKSSYN

vùng Tây Nam Bộ, phát huy quyền làm chủ của Nhân dân; phát huy vai trò là

tổ chức thành viên của Mặt trận Tổ quốc.

Năm là, tiếp tục kiểm tra, đôn đốc việc triển khai thực hiện 07 nội dung

về việc hỗ trợ đối với PGNTK theo Tờ trình số 01/TTr-TGCP-V2 ngày

11/02/2004 của Ban Tôn giáo Chính phủ, được Thủ tướng Chính phủ đồng ý

tại văn bản số 122/VPCP-NC ngày 26/02/2004; đồng thời, chỉ đạo triển khai

thực hiện có hiệu quả 06 nhiệm vụ trọng tâm theo tinh thần của Chỉ thị số 19-

CT/TW ngày 10/01/2018 của Ban Bí thư Trung ương Đảng (khóa XII). Vì các

nội dung này có liên quan trực tiếp đến việc phát huy vai trò của Tăng sĩ

Khmer nói chung, Hội ĐKSSYN vùng Tây Nam Bộ nói riêng, góp phần nâng

cao đời sống vật chất và tinh thần cho cộng đồng người Khmer.

Sáu là, tiếp tục quán triệt các quan điểm của Đảng về công tác vận động

quần chúng trong vùng đồng bào Khmer; trong đó, quan tâm đến các quan

điểm về công tác lãnh đạo, quản lý hội quần chúng nói chung, Hội ĐKSSYN

nói riêng; đồng thời, giao một đơn vị làm đầu mối theo dõi, nghiên cứu, tham

mưu, đề xuất những vấn đề có liên quan đến hoạt động của Hội ĐKSSYN

vùng Tây Nam Bộ để làm cơ sở chỉ đạo thống nhất chung toàn vùng.

Bảy là, tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền trong giới Tăng sĩ và

Phật tử Khmer các quan điểm, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật

Nhà nước về dân tộc, về tôn giáo, về lược sử vùng đất Nam Bộ; trong đó chú

trọng tuyên truyền trong các vị chức sắc, người đứng đầu các cấp tổ chức Hội

ĐKSSYN, các vị Achar và người có uy tín trong đồng bào dân tộc; thông qua

đó tuyên truỵền sâu rộng trong cộng động dân tộc Khmer. Đồng thời, quan

tâm hướng dẫn các vị Tăng sĩ, nhất là những vị lãnh đạo chủ chốt trong hệ

thống tổ chức GHPGVN luôn đoàn kết gắn bó với các hệ phái, đóng góp tích

142

cực vào việc xây dựng tổ chức giáo hội đủ mạnh, thực hiện tốt phương châm

“Đạo pháp - Dân tộc - Chủ nghĩa xã hội”.

Tám là, xem xét sự tồn tại của Hội ĐKSSYN như một phần tất yếu

khách quan của lịch sử; chỉ đạo các cấp ủy Đảng, Chính quyền, Mặt trận Tổ

quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội tại các địa phương có PGNTK tăng

cường sự lãnh, chỉ đạo và hỗ trợ các điều kiện giúp Hội ĐKSSYN tiếp tục mở

rộng mặt trận đoàn kết; tiếp tục phát huy giá trị truyền thống trong việc tập

hợp, vận động Tăng sĩ và Phật tử Khmer ủng hộ, tham gia phong trào cách

mạng, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Chín là, sau khi thực hiện Chỉ thị số 44-CT/TW, ngày 20/9/1994 của Ban

Bí thư Trung ương Đảng (khoá VII) về mở rộng và đổi mới hoạt động đối ngoại

nhân dân, công tác đối ngoại Nhân dân đã góp phần tích cực vào việc giữ vững

môi trường hoà bình, ổn định, mở rộng quan hệ hữu nghị, hợp tác, tạo điều kiện

quốc tế thuận lợi cho công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam

xã hội chủ nghĩa, nâng cao vị thế và uy tín của nước ta trên trường quốc tế, xây

dựng lòng tin và sự hiểu biết lẫn nhau giữa Nhân dân Việt Nam và bạn bè quốc

tế, đồng thời góp phần vào cuộc đấu tranh chung vì hoà bình, độc lập dân tộc,

dân chủ và tiến bộ xã hội. Đối ngoại Nhân dân đã cùng đối ngoại đảng và ngoại

giao nhà nước tạo nên sức mạnh tổng hợp, thực hiện thắng lợi đường lối và

chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta.

Mối quan hệ giữa Tăng sĩ và Phật tử Khmer ở Nam Bộ - Việt Nam với

người dân và Phật giáo ở Campuchia diễn ra từ lâu đời, bởi yếu tố đồng tộc,

đồng tôn, trong đó có việc một bộ phận Tăng sĩ và Phật tử Khmer ở Nam Bộ -

Việt Nam lần lượt sang Campuchia học tập, mang kiến thức về phụng sự đạo

pháp và dân tộc, góp phần rất lớn trong việc giữ gìn và phát huy giá trị bản sắc

văn hóa dân tộc. Do vậy, cần quan tâm và tiếp tục quán triệt, triển khai thực hiện

sâu rộng Chỉ thị 04 CT/TW, ngày 06/7/2011 của Bộ Chính trị về tiếp tục đổi mới

và nâng cao công tác đối ngoại Nhân dân trong tình hình mới.

Mười là, ở Việt Nam, từ năm 1957 đã ban hành Luật về hội nhưng đến

nay chưa được xem xét cho phù hợp với tình hình thực tiễn. Do vậy, cần

143

sớm nghiên cứu sửa đổi, bổ sung và ban hành Luật về hội để có cơ sở pháp lý

cao về quản lý Nhà nước đối với các tổ chức hội - hội quần chúng nói chung,

Hội ĐKSSYN nói riêng; đồng thời, có cơ chế về chính sách hỗ trợ cụ thể giúp

Hội ĐKSSYN tiếp tục phát huy vai trò trong đời sống xã hội.

4.4.2. Đối với các cấp ủy Đảng, Chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và

đoàn thể chính trị - xã hội tại địa phương

Một là, cần quan tâm hơn nữa đến công tác dân tộc, tôn giáo nói chung,

PGNTK nói riêng; nhất là việc triển khai thực hiện chính sách dân tộc, tôn

giáo của các cơ quan chức năng. Thường xuyên kiểm tra, đôn đốc và chỉ đạo

xử lý những vấn đề nảy sinh phức tạp xảy ra trong vùng đồng bào Khmer

không để kẻ xấu lợi dụng tuyên truyền xuyên tạc chủ trương, chính sách đúng

đắn của Đảng, Nhà nước, gây phức tạp tình hình tại các địa phương. Đặc biệt,

không để các thế lực thù địch lợi dụng sự yếu kém, việc mất đoàn kết nội bộ

để tiến hành các hoạt động tuyên truyền, kích động, gây chia rẽ, lôi kéo Tăng

sĩ Khmer vào các hoạt động chống đối chính quyền;

Hai là, tiếp tục quán triệt, triển khai thực hiện Chỉ thị số 17-CT/TW ngày

28/8/2012 của Bộ Chính trị và Kết luận số 102-KL/TW, ngày 22/9/2014 của

Bộ Chính trị nhằm tăng cường công tác quản lý hoạt động của hội quần

chúng; tạo điều kiện cho các tổ chức hội hoạt động có hiệu quả, đúng pháp

luật. Tăng cường đổi mới lãnh, chỉ đạo, định hướng chính trị về tổ chức và

hoạt động của Hội ĐKSSYN theo đúng tôn chỉ, mục đích, chức năng, nhiệm

vụ trong Điều lệ đã được UBND cùng cấp quyết định phê duyệt;

Ba là, tiếp tục phát huy vai trò của Chức sắc, Tăng sĩ Khmer, Ban Quản

trị chùa và Hội ĐKSSYN trong việc quản lý và phát triển xã hội nói chung,

quản lý cộng đồng người Khmer và phát triển vùng Tây Nam Bộ nói riêng.

Quan tâm nâng cao năng lực điều hành, quản lý; nâng cao chất lượng, hiệu

quả hoạt động của Hội ĐKSSYN. Để thực hiện được điều này, trước mắt

UBND các cấp cần xem xét và phân công một cán bộ thuộc ngành dân tộc

hoặc tôn giáo theo hình thức bán chuyên trách giúp Hội ĐKSSYN hoạt động

có hiệu quả. Tiếp đến là tăng cường công tác bồi dưỡng, đào tạo đội ngũ làm

quản lý, điều hành hoạt động của Hội. UBND các cấp chỉ đạo các ngành chức

144

năng tổ chức các lớp bồi dưỡng, đào tạo đội ngũ Tăng sĩ Khmer nói chung,

thành viên trong Ban Chấp hành Hội nói riêng bằng nhiều hình thức thích hợp

nhằm hướng Hội ĐKSSYN phát huy tính tự chủ, tự lực gắn liền với đoàn kết,

phối hợp trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Bốn là, tiếp tục xác định rõ tính chất, vị trí, vai trò của Hội ĐKSSYN

trong tình hình hiện nay; qua đó, tạo cơ chế quan hệ tốt hơn giữa Hội

ĐKSSYN với các cơ quan chức năng trực tiếp lãnh, chỉ đạo, quản lý, hướng

dẫn và giúp đỡ. Riêng đối với tỉnh An Giang, mặc dù qua kết quả điều tra có

98,77% phiếu thăm dò ý kiến cho rằng: An Giang nên thành lập Hội

ĐKSSYN nhưng theo nghiên cứu sinh: Việc có thành lập Hội ĐKSSYN hay

không là do địa phương quyết định; tuy nhiên, cần chú ý đến những điểm khá

đặc biệt trong hoạt động tôn giáo trên địa bàn này; vì hiện nay, PGNTK ở đây

đang tồn tại hai chi phái; trong đó, chi phái Dhammayutta (Thommayud) có mối

liên hệ mật thiết với Giáo hội Phật giáo ở Campuchia và đã có thời gian hoạt

động riêng biệt.

Năm là, chính quyền các cấp là công cụ quản lý của Nhân dân; do vậy,

cần tăng cường chỉ đạo các đơn vị liên quan hướng dẫn và tạo mọi điều kiện

để Hội ĐKSSYN hoạt động trong khuôn khổ pháp luật, đảm bảo chất lượng,

hiệu quả, thiết thực, góp phần trong việc quản lý xã hội cùng với Chính quyền.

Song song đó, cần nghiên cứu ban hành các văn bản chỉ đạo hoạt động, quản lý

các tổ chức hội quần chúng nói chung, Hội ĐKSSYN nói riêng; chính sách đối

với các vị Tăng sĩ Khmer giữ chức danh lãnh đạo và hỗ trợ kinh phí để Hội

ĐKSSYN tham gia thực hiện tốt nhiệm vụ gắn với các chương trình phát triển

kinh tế - xã hội, góp phần đảm bảo an ninh trật tự tại địa phương.

Sáu là, với vai trò là nòng cốt trong việc tập hợp quần chúng, Mặt trận

Tổ quốc và đoàn thể chính trị - xã hội cần tích cực tuyên truyền, vận động các

Chức sắc, Tăng sĩ và Phật tử Khmer tiếp tục thực hiện tốt chủ trương và

phương châm: “Đạo pháp - Dân tộc - Chủ nghĩa xã hội”. Để thực hiện điều

này, cả hệ thống chính trị phải thường xuyên quan tâm, động viên thăm hỏi

các vị Chức sắc, Tăng sĩ và Phật tử Khmer tiêu biểu nhằm tạo sự gần gũi,

145

củng cố đoàn kết dân tộc, đoàn kết tôn giáo. Tiếp tục có những định hướng và

phát huy vai trò của Hội ĐKSSYN đối với cộng đồng người Khmer và trong

đời sống xã hội. Bên cạnh đó, ngoài việc phối hợp, ủng hộ, giúp đỡ cho Hội

ĐKSSYN hoạt động có hiệu quả thì cần tạo điều kiện cho Ban Chấp hành Hội

tham gia giám sát, phản biện xã hội, góp ý xây dựng Đảng, xây dựng Chính

quyền theo tinh thần của Quyết định số 217-QĐ/TW và Quyết định số 218-

QĐ/TW, ngày 12/12/2013 của Bộ Chính trị với tư cách là tổ chức thành viên.

4.4.3. Đối với Giáo hội Phật giáo Việt Nam

Một là, năm 1980, Ban Vận động thống nhất Phật giáo Việt Nam được

thành lập; đại diện Hội ĐKSSYN khu Tây Nam Bộ cũng đã tham gia Ban

Vận động. Từ tháng 11 năm 1981, Hội ĐKSYN khu Tây Nam Bộ là một

trong những thành viên sáng lập và đã gia nhập sinh hoạt chung trong ngôi

nhà GHPGVN. Tuy nhiên, với nhiều lý do khách quan các tổ chức Hội

ĐKSSYN vẫn tiếp tục tồn tại và hoạt động có hiệu quả tại các địa phương. Do

vậy, với trách nhiệm đối với thành viên sáng lập, GHPGVN cần nghiên cứu

bổ sung vấn đề có liên quan đến Hội ĐKSSYN trong Hội nghị chuyên đề

PGNTK được tổ chức 02 năm một lần. Đây sẽ là dịp được nghe nhiều ý kiến

từ các vị Tăng sĩ có phẩm trật cao, nhiều ý kiến của các cấp ủy Đảng, Chính

quyền, Mặt trận Tổ quốc và đoàn thể chính trị - xã hội đối với thực trạng hoạt

động của Hội ĐKSSYN vùng Tây Nam Bộ để kịp thời nắm bắt được tâm tư,

nguyện vọng của Tăng sĩ và Phật tử Khmer.

Hai là, tiếp tục kiện toàn, củng cố hệ thống tổ chức của giáo hội; vì giáo

hội có vững mạnh mới duy trì và phát huy được giới luật, các Tăng sĩ mới

trang nghiêm. GHPGVN là ngôi nhà chung, ngôi nhà có vững mạnh mới có

thể yêu cầu từng thành viên vững mạnh. Hoạt động của hệ thống giáo hội rất

cần có sự quan tâm giúp đỡ của các cơ quan có chức năng bởi Phật giáo từ

xưa vốn không có tổ chức hành chính đạo; từ năm 1981, mới có tổ chức hành

chính đạo; tuy đã 39 năm hoạt động nhưng so với hơn 2000 năm Phật giáo tồn

tại ở Việt Nam vẫn là vấn đề mới.

146

Ba là, tiếp tục làm cầu nối với Ban Tôn giáo Chính phủ (Bộ Nội vụ); các

bộ, ban, ngành và các địa phương có PGNTK để thực hiện tốt các nội dung theo

thông báo số 122/TB-CP, ngày 26 tháng 02 năm 2004 của Văn phòng Chính

phủ. Đồng thời, hướng dẫn BTSPG các địa phương nghiên cứu, sửa đổi Điều lệ,

Quy chế hoạt động mang tính thống nhất; tránh chồng chéo với chức năng,

nhiệm vụ của Hội ĐKSSYN. Chú ý cơ cấu hợp lý các vị Chức sắc, Tăng sĩ

Khmer; tránh cơ cấu cùng lúc đảm nhiệm nhiều chức việc trong nhiều tổ chức

khác nhau nhằm giúp các vị có đủ thời gian thực hiện nhiệm vụ toàn tâm, toàn ý.

Bốn là, thông qua hoạt động của Hội ĐKSSYN, tiếp tục phát huy vai trò

của Chức sắc và Tăng sĩ Khmer trong công tác tuyên truyền chủ trương, chính

sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Đồng thời, tích cực vận động Tăng sĩ

và Phật tử Khmer thực hiện tốt chủ trương sống “tốt đời - đẹp đạo”; phát huy

các giá trị truyền thống tốt đẹp của Phật giáo.

Năm là, tiếp tục làm cầu nối với Bộ Ngoại giao để xây dựng tốt mối quan

hệ đoàn kết hữu nghị Việt Nam - Campuchia và nâng lên tầm cao mới theo

phương châm: “láng giềng tốt đẹp, hữu nghị truyền thống, hợp tác toàn diện,

bền vững lâu dài”; phối hợp với các bộ, ban, ngành Trung ương và địa phương

có biên giới giáp Campuchia thường xuyên tổ chức các đoàn sang thăm chính

thức các tổ chức trong hệ thống chính trị và Giáo hội Phật giáo ở Campuchia.

Sáu là, các Viện, trường của GHPGVN liên kết với các Viện, Trường

Phật giáo các nước trong khu vực để có chương trình hợp tác đào tạo; qua đó,

hàng năm có kế hoạch đào tạo Tăng sinh trong PGNTK theo nhu cầu thực

tiễn mà trong nước chưa có hoặc không có điều kiện đào tạo. Song song đó,

có kế hoạch, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ này để tạo lực lượng kế

thừa đáp ứng nhu cầu về lâu dài trong việc tham gia lãnh đạo hệ thống tổ chức

của GHPGVN các cấp. Đồng thời, tổ chức triển khai hướng dẫn việc thực

hiện Quy chế Trụ trì và Ban Quản trị chùa tránh trường hợp chồng chéo chức

năng, nhiệm vụ đáp ứng nhu cầu về lâu dài trong thực hành tôn giáo ở vùng

đồng bào Khmer.

4.4.4. Đối với Hội Đoàn kết Sư sãi yêu nước

147

Một là, tuân thủ và thực hiện đúng theo tôn chỉ, mục đích, chức năng,

nhiệm vụ trong Điều lệ hoạt động đã được UBND cùng cấp phê duyệt; thực

hiện nghiêm nguyên tắc tổ chức, hoạt động của Hội ĐKSSYN là: tự nguyện,

tự chủ, tự quản, tự trang trải kinh phí hoạt động. Thường xuyên quan hệ chặt

chẽ với Mặt trận Tổ quốc; không để kẻ xấu lợi dụng tổ chức và hoạt động của

tổ chức Hội làm phương hại đến lợi ích quốc gia, dân tộc.

Hai là, thông qua Đại hội nhiệm kỳ, cần nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung

Điều lệ sao cho thống nhất với các tổ chức Hội ĐKSSYN vùng Tây Nam Bộ;

thành lập các ban hoặc tiểu ban tương ứng với các ban, viện trong hệ thống tổ

chức của GHPGVN để dễ dàng phối hợp thực hiện nhiệm vụ trong công tác

Phật sự và công tác xã hội; đồng thời, giúp cho việc quản lý hoạt động của

PGNTK trong ngôi nhà chung GHPGVN được tốt hơn.

Ba là, tiếp tục nghiên cứu đổi mới mô hình và phương thức hoạt động

ngày càng sát hơn với cuộc sống, tham gia ngày càng phong phú và thiết thực

vào phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội; đồng hành chi phối với Nhà

nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; khắc phục tình trạng “nhà nước hóa”,

“hành chính hóa” và hướng mọi hoạt động thực sự gắn bó với quyền và lợi

ích hợp pháp, chính đáng của hội viên, của Nhân dân.

Bốn là, cần chú trọng đến công tác xây dựng tinh thần đoàn kết, nhất trí

cao trong Ban Chấp hành Hội, trong nội bộ Tăng sĩ và Phật tử Khmer. Đặc

biệt, cần phải xây dựng mối quan hệ mật thiết giữa Tăng sĩ Khmer với Ban

Quản trị chùa, với đồng bào Phật tử Khmer cùng thực hiện tốt nhiệm vụ do

Đại hội đại biểu Hội ĐKSSYN đề ra.

Năm là, thường xuyên phối hợp với BTSPG cùng cấp, hàng năm xây

dựng kế hoạch bồi dưỡng nâng cao trình độ Phật pháp cho Tăng sĩ Khmer,

giúp cho các vị có điều kiện nghiêm trì giới luật, tu hành tinh tấn góp phần

làm tăng thêm lòng tin đối với Phật tử. Đặc biệt, là việc tạo điều kiện để các

vị Tăng sĩ Khmer tham gia các khóa học về tin học, ngoại ngữ từng bước giúp

các vị sớm thích ứng với cuộc cách mạng công nghệ lần thứ IV trong bối cảnh

hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng.

148

Tiểu kết chương 4

Hội quần chúng là nhân tố tích cực của hệ thống chính trị ở nước ta; có

vai trò và đóng góp nhất định trong đại đoàn kết dân tộc và phát triển đất

nước. Vai trò và đóng góp của các tổ chức hội - hội quần chúng đã được Đảng

và Nhà nước ta khẳng định, từ đó đã có nhiều chính sách và việc làm hỗ trợ

tích cực cho các tổ chức này hoạt động. Riêng Hội ĐKSSYN là tổ chức xã hội

quần chúng gắn liền với một tộc người cụ thể; là tổ chức ra đời bởi sự vận

động nội tại của PGNTK và là yêu cầu khách quan của cuộc cách mạng trong

thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước.

Từ khi được củng cố và thành lập mới đến nay; Hội ĐKSSYN vùng Tây

Nam Bộ luôn nhận được sự quan tâm của các cấp ủy Đảng, Chính quyền, Mặt

trận Tổ quốc và đoàn thể chính trị - xã hội; sự phối hợp, hỗ trợ, hướng dẫn

giúp đỡ của các ngành chức năng ở địa phương. Với xu hướng nhập thế của

PGNTK ngày càng được thể hiện rõ nét, Hội ĐKSSYN đã phát huy tốt vai trò

tập hợp đoàn kết Tăng sĩ, Phật tử Khmer hưởng ứng các cuộc vận động

doMặt trận Tổ quốc phát động; tham gia các phong trào xây dựng và bảo vệ

Tổ quốc. Tuy nhiên, hoạt động của Hội ĐKSSYN hiện nay vẫn còn nhiều mặt

hạn chế và đang bộc lộ những vấn đề bất cập.

Để tiếp tục phát huy truyền thống yêu nước, đoàn kết đấu tranh giải

phóng dân tộc; đồng thời, tạo điều kiện cho cộng đồng người Khmer tiếp tục

xây dựng khối đại đoàn kết hướng đến sự phát triển bền vững vùng Tây Nam

Bộ thì các cấp ủy Đảng, Chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và đoàn thể chính trị

- xã hội cần thống nhất nhận thức về vị trí, vai trò của Hội ĐKSSYN trong

quá trình lịch sử; xác định rõ tính chất, chức năng, nhiệm vụ, cơ chế hoạt

động của Hội ĐKSSYN hiện nay. Qua đó, đưa ra các giải pháp phù hợp nhằm

giúp Hội ĐKSSYN tiếp tục phát huy vai trò tích cực trong đời sống xã hội

vùng Tây Nam Bộ nói chung, trong cộng đồng người Khmer nói riêng.

149

KẾT LUẬN

Năm 1964, Hội ĐKSSYN khu Tây Nam Bộ chính thức được thành lập;

sau đó Hội ĐKSSYN cấp tỉnh trong vùng lần lượt ra đời và hoạt động như

một tổ chức đoàn thể chính trị - xã hội. Sau ngày 30/4/1975, Khu ủy Tây Nam

Bộ cùng với các tổ chức trực thuộc kết thúc nhiệm vụ lịch sử và chấm dứt

hoạt động; trong đó có Hội ĐKSSYN khu Tây Nam Bộ. Ngày 18/4/1991, Ban

Bí thư Trung ương Đảng (khóa VI) ban hành Chỉ thị số 68-CT/TW, trong đó

đề ra chủ trương lập Hội ĐKSSYN; đến nay, có 08 tỉnh, thành phố vùng Tây

Nam Bộ đã củng cố, kiện toàn tổ chức “Hội ĐKSSYN” nhằm động viên và

phát huy truyền thống yêu nước của Tăng sĩ và Phật tử Khmer góp phần vào

sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Việc củng cố và kiện toàn Hội ĐKSSYN theo tinh thần của Chỉ thị số

68-CT/TW là chủ trương đúng đắn; là điều kiện thuận lợi cho việc xây dựng

khối đại đoàn kết toàn dân tộc, tập hợp lực lượng quần chúng tham gia các

phong trào cách mạng trong tình hình mới. Tuy nhiên, sau một thời gian dài

hoạt động, do chưa có sự hướng dẫn thống nhất Điều lệ nên cơ cấu tổ chức và

cơ chế hoạt động của Hội ĐKSSYN ở mỗi địa phương đều có sự khác biệt

nhất định. Mặt khác, trong khi có địa phương chưa lập Hội ĐKSSYN thì lại

có ý kiến thành lập Hội ĐKSSYN trên cấp tỉnh để có sự chỉ đạo thống nhất

hoạt động hoặc có một số ý kiến cho rằng: “Sự tồn tại của Hội ĐKSSYN

hiện nay có cần thiết không?”; “Nếu tồn tại thì phải như thế nào ?”…

Do vậy, việc nghiên cứu một cách có hệ thống về “Hội Đoàn kết Sư sãi

yêu nước vùng Tây Nam Bộ”; một loại hình tổ chức “vừa có yếu tố dân tộc,

vừa có yếu tố tôn giáo” trong đời sống xã hội vùng Tây Nam Bộ là rất cấp

thiết cả về lý luận và thực tiễn. Về cơ bản, những vấn đề đã được đặt ra trong

mục tiêu nghiên cứu, nhiệm vụ nghiên cứu; cũng như các câu hỏi và giả

thuyết nghiên cứu được nghiên cứu sinh phân tích, luận giải làm rõ trong nội

dung luận án. Cụ thể là:

150

1. Luận án chỉ ra cơ sở lý luận, phương pháp và khung lý thuyết để vận

dụng phân tích, đánh giá vai trò của Hội ĐKSSYN vùng Tây Nam Bộ; góp

phần bổ sung vào nhận thức về vị trí, vai trò của tổ chức này trong đời sống

xã hội nói chung, trong cộng đồng người Khmer nói riêng.

2. Luận án khái quát được tình hình và đặc điểm cơ bản của PGNTK;

khái quát được lịch sử hình thành và phát triển; tính chất, chức năng và nhiệm

vụ của Hội ĐKSSYN trong quá trình lịch sử;

3. Luận án đánh giá khách quan thực trạng Hội ĐKSSYN vùng Tây Nam

Bộ; đồng thời đưa ra những vấn đề còn tồn tại trong hoạt động của Hội cần

quan tâm giải quyết;

4. Luận án dự báo được các xu hướng tác động đến Hội ĐKSSYN vùng

Tây Nam Bộ; qua đó, đưa ra 05 quan điểm, đề xuất 06 giải pháp cơ bản và 04

nhóm kiến nghị nhằm giúp Hội ĐKSSYN phát huy vai trò tích cực trong đời

sống xã hội.

151

DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC

CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ CÓ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN

TT

Tên công trình và nơi xuất bản

Năm Xuất bản 2017

1

2017

2

2017

3

2018

4

2018

5

2018

6

2018

7

2018

8

2018

9

2019

10

Phát huy vai của Hội Đoàn kết Sư sãi yêu nước trong Phật giáo Nam tông Khmer vùng Tây Nam Bộ trên con đường hội nhập và phát triển hiện nay; sách: Phật giáo Nam tông Khmer đồng hành cùng dân tộc, Nxb. Văn hóa - Văn nghệ, Hồ Chí Minh, tr. 372 - 392. Hội Đoàn kết Sư sãi yêu nước với việc giữ gìn, bảo tồn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc”; sách: Văn hóa các dân tộc thiểu số tại chổ vùng Tây Nam Bộ - Những vấn đề đặt ra trong phát triển bền vững vùng (Kỷ yếu khoa học quốc gia), Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, tr. 240-255. Giáo dục Phật giáo Nam tông Khmer trên bước đường hội nhập và phát triển; sách: Phật giáo Nam tông Khmer đồng hành cùng dân tộc, Nxb. Văn hóa - Văn nghệ, HCM, tr. 500 - 515. Phật giáo và tinh thần bất bạo động (Trường hợp Phật giáo Nam tông Khmer ở Nam Bộ”; sách: Triết lý nhân sinh của người dân Nam Bộ, Việt Nam - Phần 1: Văn hóa nhận thức và Tôn giáo - Tín ngưỡng, Nxb. Đại học Cần Thơ, tr. 272 - 279. Một số biểu hiện mới trong đời sống tôn giáo của đồng bào Khmer vùng Tây Nam bộ hiện nay; sách: Tôn giáo, tín ngưỡng ở Việt Nam trong bối cảnh mới, Nxb. Lý luận chính trị, Hà Nội, tr. 356 - 364. Một số hoạt động của các tổ chức mang tính xã hội và tôn giáo ở Nam Bộ (1930 -1975), Tạp chí Lịch sử Đảng, số 327 (2), Hà Nội, tr. 90 - 92. Cộng đồng Phật giáo Nam tông Khmer ở Nam Bộ với phong trào giải phóng dân tộc và giữ gìn bản sắc văn hóa tôn giáo, Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo, số 07(175), Hà Nội, tr. 72-84. Hội Đoàn kết Sư sãi yêu nước - Tổ chức xã hội quần chúng gắn liền với tộc người Khmer vùng Tây Nam bộ”, Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc, số 24 (12), Hà Nội, tr. 148- 150. Hội Đoàn kết Sư sãi yêu nước vùng Tây Nam bộ với các hoạt động hướng đến đời sống xã hội và vấn đề đặt ra, Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo, số 12(180), Hà Nội, tr.39-59. Tìm hiểu đặc điểm và tính chất hoạt động của Hội Đoàn kết Sư sãi yêu nước vùng Tây Nam bộ, Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo, số 2 (182), Hà Nội, tr. 54-68.

152

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Phan An (2009), Dân tộc Khmer Nam Bộ, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

2. Phạm Minh Anh (2016), Lý thuyết xã hội học trong nghiên cứu tôn giáo,

Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 06, Hà Nội.

3. Ban Cán sự Đảng Ủy ban Dân tộc (26/5/2017), Báo cáo tổng kết 25 năm

thực hiện Chỉ thị số 68-NQ/TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng

(khóa IV) về công tác ở vùng đồng bào Khmer, số 108, Hà Nội.

4. Ban Chỉ đạo Tây Nam Bộ (08/02/2017), Báo cáo Tổng kết năm 2016,

phương hướng, nhiệm vụ công tác năm 2017, số 106, Cần Thơ.

5. Ban Dân vận Tỉnh ủy/Thành ủy vùng Tây Nam Bộ (2013), Báo cáo thực

trạng, tổ chức hoạt, động của Hội Đoàn kết sư sãi yêu nước trong

Phật giáo Nam tông Khmer.

6. Ban Dân vận Trung ương - Cơ quan Thường trú tại thành phố Hồ Chí

Minh (10/9/2013), Báo cáo thực trạng tổ chức và hoạt động của Hội

Đoàn kết Sư sãi Yêu nước trong Phật giáo Nam tông Khmer.

7. Ban Dân vận Trung ương - Cơ quan Thường trú tại thành phố Hồ Chí

Minh (10/6/2014), Báo cáo kết quả tọa đàm về “Tổ chức và hoạt

động của Hội Đoàn kết Sư sãi Yêu nước trong Phật giáo Nam tồng

Khmer - Thực trạng và giải pháp”.

8. Ban Dân vận Trung ương (11/10/2006), Báo cáo tổng kết việc tổ chức

thực hiện Chỉ thị 68-CT-TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng

(Khóa 6) về công tác ở vùng đồng bào dân tộc Khmer, số 03.

9. Ban Dân vận Trung ương (20/5/2014), Tài liệu Tọa đàm về “Tổ chức và

hoạt động của Hội Đoàn kết Sư sãi Yêu nước trong Phật giáo Nam

tông Khmer - Thực trạng và giải pháp”, Cần Thơ.

10. Ban Tôn giáo (Sở Nội vụ) của các tỉnh/thành phố vùng Tây Nam Bộ

(2013), Báo cáo tình hình Phật giáo Nam tông Khmer trên địa bàn.

11. Ban Tư tưởng văn hóa Trà Vinh (1995), Maha Sơn Thông - cách mạng là

sự nghiệp cả cuộc đời, Xí nghiệp in Tổng hợp Cần Thơ

153

12. Bộ Chính trị (1981), Chỉ thị số 117/CT-TW ngày 29/9/1981 của Ban

Chấp hành Trung ương về công tác đối với đồng bào Khmer.

13. Bộ Chính trị (1991), Chỉ thị 68/CT-TW ngày 18/4/1991 của Ban Bí thư

Trung ương Đảng (Khóa 6) về công tác ở vùng đồng bào Khơ-me.

14. Bộ Chính trị (2003), Nghị quyết Trung ương 5 về xây dựng và phát triển

nền văn hoá Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc.

15. Bộ Chính trị (2003), Nghị quyết 25- NQ/TW của Ban Chấp hành Trung

ương (khóa IX) về công tác tôn giáo.

16. Bộ Chính trị (2012), Chỉ thị số 17-CT/TW ngày 28/8/2012 về việc tiếp

tục đổi mới và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với các hội

quần chúng.

17. Bộ Chính trị (2018), Chỉ thị số 19-CT/TW ngày 10/01/2018 của Ban Bí

thư Trung ương Đảng (khóa XII) về tăng cường công tác ở vùng

đồng bào dân tộc Khơ - me trong tình hình mới.

18. Bộ Khoa học và Công nghệ (2008), Tài liệu Hội thảo khoa học “Nam Bộ

thời cận đại”, Cần Thơ,

19. Nguyễn Mạnh Cường (2008), Phật giáo Khơ Me Nam Bộ (Những vấn đề

nhìn lại), Nxb Tôn giáo, Hà Nội.

20. Nguyễn Mạnh Cường và Bùi Minh Ngọc (2014), Tôn giáo - Tín ngưỡng

của các cư dân vùng đồng bằng sông Cửu Long, Nxb Phương Đông,

Hà Nội.

21. Chính phủ (01/11/2010), Quyết định 68/2010/QĐ-TTg của Thủ tướng

Chính phủ về việc quy định hội có tính chất đặc thù.

22. Chính phủ (21/4/2010), Nghị định số 45/2010/NĐ-CP “Quy định về tổ

chức, hoạt động và quản lý hội”.

23. Lê Cung (2013), “Sự hậu thuẫn của Mặt trận Dân tộc giải phóng miền

Nam Việt Nam với phong trào Phật giáo năm 1963”, số 08 (122),

Tạp chí Nghiên cứu tôn giáo, Hà Nội.

24. Minh Chi (2001), “Về xu thế thế tục hóa và dân tộc hóa của Phật giáo”,

số 03, Tạp chí Nghiên cứu tôn giáo, Hà Nội.

154

25. Nguyễn Khắc Cảnh (1997), Luận án “Loại hình công xã của người

Khmer ở đồng bằng sông Cửu Long”, Trường Đại học xã hội và

Nhân văn thành phố Hồ Chí Minh.

26. Nguyễn Mạnh Cường (2008), Phật giáo Khmer Nam bộ (Những vấn đề

nhìn lại), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

27. Nguyễn Hồng Dương (2012), Quan điểm đường lối của Đảng về tôn

giáo và những vấn đề tôn giáo ở Việt Nam hiện nay, Nxb Chính trị

Quốc gia, Hà Nội.

28. Đảng cộng sản Việt Nam (2004), Văn kiện Đảng, toàn tập, tập 37, Nxb

Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

29. Đảng cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc

lần thứ X . Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

30. Đảng cộng sản Việt Nam (2007), Văn kiện Đảng Toàn tập, tập 51, Nxb

Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

31. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện đại hội Đại biểu toàn quốc

lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

32. Mạc Đường (1991), Vấn đề dân cư và dân tộc ở Đồng bằng sông Cửu

Long (Vấn đề dân tộc ở Đồng bằng sông Cửu Long), Nxb Khoa học

xã hội, Hà Nội.

33. Giáo hội Phật giáo Việt Nam (2013), Hiến chương Giáo hội Phật giáo

Việt Nam, Nxb Tôn giáo, Hà Nội.

34. Giáo hội Phật giáo Việt Nam (13,14/9/2014), Tài liệu Hội nghị Chuyên

đề Phật giáo Nam tông Khmer lần thứ VI, An Giang.

35. Giáo hội Phật giáo Việt Nam (7,8/9/2016), Tài liệu Hội nghị Chuyên đề

Phật giáo Nam tông Khmer lần thứ VII, Hậu Giang.

36. Giáo hội Phật giáo Việt Nam (nhiệm kỳ VIII), Kỷ yếu Đại hội Đại biểu

Phật giáo toàn quốc, Nxb Tôn giáo, Hà Nội.

37. Giáo hội Phật giáo Việt Nam (19, 20/10/2018), Tài liệu Hội nghị Chuyên

đề Phật giáo Nam tông Khmer lần thứ VIII, Cà Mau.

155

38. Trần Văn Giàu (1975), Miền Nam giữ vững thành đồng”, Tập V, Nxb

Khoa học xã hội, Hà Nội.

39. Vũ Thị Thu Hà (2014), Luận án Hoạt động truyền giáo của Tin lành ở

Việt Nam và Trung Quốc (Từ khởi đầu đến đổi mới - cải cách mở

cửa), Học viện Khoa học Xã hội, Hà Nội.

40. Phạm Thị Phương Hạnh (2012), Văn hóa Khmer Nam bộ - Nét đẹp trong

bản sắc văn hóa Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

41. Phan Văn Hoàng (2001), Cao Triều Phát - Nghĩa khí Nam Bộ, Nxb Trẻ

TP. Hồ Chí Minh.

42. Trần Hữu Hợp (2012), Cộng đồng người Việt Công giáo Đồng bằng

sông Cửu Long - Lịch sử hình thành và quá trình hội nhập văn hóa,

Nxb Tôn giáo, Hà Nội.

43. Võ Thị Hồng Hoa (10/2014), “Tăng cường đảm bảo quốc phòng an ninh

vùng đồng bào dân tộc thiểu số ở Tây Nam Bộ (1986 -2006) ”, Tạp

chí Lịch sử Đảng, Hà Nội.

44. Lương Thị Thu Hường (2013), “Vai trò của tôn giáo trong bối cảnh toàn

cầu hóa”, số 05, Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo, Hà Nội.

45. Phan Văn Hoàng (2001), Cao Triều Phát - Nghĩa khí Nam Bộ, Nxb Trẻ

TP. Hồ Chí Minh.

46. Đỗ Lan Hiền (2011), Khoan dung tôn giáo với dân chủ, đoàn kết và

đồng thuận xã hội (trường hợp Việt Nam), Nxb Chính trị - Hành

chính, Hà Nội.

47. Đỗ Quang Hưng (2016), Sự kiện tôn giáo, Nxb Chính trị Quốc gia Sự

thật, Hà Nội.

48. Đỗ Quang Hưng (2003), “Những biểu hiện mới của vấn đề tôn giáo - dân

tộc trong tình hình hiện nay”, số 02, Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo,

Hà Nội.

49. https://phatgiao.org.vn/cach-tinh-tuoi-dao-va-pham-trat-trong-dao-phat-

d34626.html (truy cập ngày 12/12/2019).

156

50. Lê Hương (1969), Người Việt Góc Miên, Nxb Sài Gòn.

51. Nguyễn Mạnh Hưởng (2003), “Tăng cường đoàn kết dân tộc - Nội dung

cốt lõi của công tác tôn giáo hiện nay”, số 03, Tạp chí Nghiên cứu

Tôn giáo, Hà Nội.

52. Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh (2014), Kỷ yếu Đề tài nhánh:

Chính sách đối với tổ chức, hội đoàn, chức sắc, nhà tu hành, cơ sở

thờ tự của Phật giáo Nam tông Khmer vùng Tây Nam Bộ do PGS

TS. Hoàng Minh Đô (chủ nhiệm).

53. Hội ĐKSSYN thành phố Cần Thơ (2016), Văn kiện Đại hội Đại biểu Hội

ĐKSSYN thành phố Cần Thơ nhiệm kỳ VI (2016-2021).

54. Hội ĐKSSYN thành phố Rạch Giá (04/9/2014), Văn kiện Đại hội Đại biểu

Hội ĐKSSYN thành phố Rạch Giá lần thứ IV - nhiệm kỳ 2014-2019.

55. Hội ĐKSSYN tỉnh Bạc Liêu (28/12/2018), Văn kiện Đại hội Đại biểu

Hội ĐKSSYN tỉnh Bạc Liêu lần thứ VI - nhiệm kỳ 2018-2023.

56. Hội ĐKSSYN tỉnh Cà Mau (2016), Văn kiện Đại hội Đại biểu Hội

ĐKSSYN tỉnh Cà Mau lần thứ VI - nhiệm kỳ 2017-2022.

57. Hội ĐKSSYN tỉnh Hậu Giang (28/01/2015), Văn kiện Đại hội Đại biểu

Hội ĐKSSYN tỉnh Hậu Giang lần thứ II - nhiệm kỳ 2015-2020.

58. Hội ĐKSSYN tỉnh Kiên Giang (2014), Văn kiện Đại hội Đại biểu Hội

ĐKSSYN tỉnh Kiên Giang lần thứ VI - nhiệm kỳ 2014-2019.

59. Hội ĐKSSYN tỉnh Kiên Giang (29/01/2016), Báo cáo Tổng kết công tác

hoạt động năm 2015 và phương hướng hoạt động năm 2016.

60. Hội ĐKSSYN tỉnh Sóc Trăng (05/11/2017), Báo cáo Tổng kết công tác

Hội năm 2016 và phương hướng nhiệm vụ năm 2017.

61. Hội ĐKSSYN tỉnh Sóc Trăng (09/11/2017), Văn kiện Đại hội Đại biểu

Hội ĐKSSYN tỉnh Sóc Trăng lần thứ VIII - nhiệm kỳ 2017-2022.

62. Hội ĐKSSYN tỉnh Trà Vinh (20/9/2018), Văn kiện Đại hội Đại biểu Hội

ĐKSSYN tỉnh Trà Vinh lần thứ VII - nhiệm kỳ 2018-2023.

63. Hội ĐKSSYN tỉnh Vĩnh Long (22/01/2015), Văn kiện Đại hội Đại biểu

Hội ĐKSSYN tỉnh Vĩnh Long lần thứ II - nhiệm kỳ 2014-2019.

157

64. Hội ĐKSSYN thành phố Rạch Giá (04/9/2014), Văn kiện Đại hội Đại

biểu Hội ĐKSSYN thành phố Rạch Giá lần thứ IV - nhiệm kỳ 2014-

2019, Kiên Giang.

65. Hội Đồng lý luận Trung ương (2012), Làm tốt công tác quần chúng

trong tình hình mới - Kinh nghiệm Trung Quốc, kinh nghiệm Việt

Nam, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

66. Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam (2006), Lược sử vùng đất Nam bộ Việt

Nam, Nxb Thế giới, Hà Nội.

67. Hội Khoa học lịch sử (2007), Văn hóa Óc Eo và Vương quốc Phù Nam

(Kỷ yếu Hội thảo khoa học nhân 60 năm phát hiện văn hóa Óc Eo

(1944-2004), Nxb Thế giới, Hà Nội.

68. Kiên Ngọc Khánh (2004), Công tác vận động sư sãi Phật giáo Nam tông

Khmer trên địa bàn tỉnh Trà Vinh hiện nay, Luận văn Tôn giáo học,

Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh.

69. Bùi Nam Khánh và Đỗ Thị Thanh Bình (3-2018), “Hợp tác giữa Việt

Nam và Campuchia trong đảm bảo an ninh tuyến biên giới đất liền”,

Nghiên cứu Quốc tế, số 1 (112), Hà Nội.

70. Danh Lung - Châu Hoài Thái (2014), Danh tăng Phật giáo Nam tông

Khmer, Nxb Hồng Đức, Hà Nội.

71. Nguyễn Phú Lợi (2012), “Quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về

vấn đề tôn giáo, tín ngưỡng và công tác tôn giáo trong thời kỳ đổi

mới”, số 03, Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo, Hà Nội.

72. Trần Hồng Liên (2000), Phật giáo trong cộng đồng người Việt ở Nam bộ

Việt Nam, từ thế kỷ XVII đến 1975, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

73. Trần Hồng Liên (2002), Vấn đề dân tộc và tôn giáo ở Sóc Trăng, Nxb

Khoa học xã hội, Hà Nội.

74. Trần Hồng Liên (2014), “Sự chuyển đổi tôn giáo trong người Khmer ở

Trà Vinh hiện nay”, số 05 (131), Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo,

Hà Nội.

158

75. Lê Quốc Lý (2017), Chính sách đối với Phật giáo Nam tông Khmer và

đồng bào Khmer vùng Tây Nam Bộ, Nxb Chính trị Quốc gia Sự

Thật, Hà Nội.

76. Dương Thanh Mừng (2019), “Về sự ra đời của các tổ chức Phật giáo ở

miền Nam Việt Nam, giai đoạn 1951-1954”, số 2 (182), Tạp chí

Nghiên cứu Tôn giáo, Hà Nội.

77. Nguyễn Đình Minh (2016), Đoàn kết dân tộc ở Việt Nam, Nxb Chính trị

Quốc gia, Hà Nội.

78. Vũ Thành Nam (2018), Vai trò của Ủy ban Đoàn kết Công giáo Việt

Nam đối với phong trào Tốt đời, Tốt đạo của người Công giáo Việt

Nam hiện nay, Luận văn Tôn giáo học, Học viện Chính trị Quốc gia

Hồ Chí Minh.

79. Trịnh Nhu (2008), Lịch sử Biên niên Xứ ủy Nam kỳ và Trung ương Cục

miền Nam (1954-1975), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

80. Lương Ninh (2005), Vương quốc Phù Nam lịch sử và văn hóa, Viện Văn

hóa và Nxb Văn hóa - Thông tin, Hà Nội.

81. Lương Ninh (2009), Vương quốc Phù Nam, Nxb Đại học Quốc gia Hà

Nội, Hà Nội.

82. Nguyễn Xuân Nghĩa (2002), “Định nghĩa về tôn giáo và những hệ luận

trong nghiên cứu quá trình thế tục hóa”, số 2, Tạp chí Nghiên cứu

Tôn giáo, Hà Nội.

83. Nguyễn Xuân Nghĩa (2003), “Tôn giáo trong thời hiện đại: Thế tục hóa

hay phi thế tục hóa”, số 2, Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo, Hà Nội.

84. Nguyễn Xuân Nghĩa (2010), “Tâm thức tôn giáo và lý thuyết thế tục hóa ở

Châu á và Việt Nam”, số 02, Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo, Hà Nội.

85. Ngô Minh Oanh (2018), Một số hướng tiếp cận nghiên cứu lịch sử Nam

bộ, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

86. Thang Văn Phúc (2002), Vai trò của các hội trong đổi mới và phát triển

đất nước, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

159

87. Nguyễn Thuận Quý (2015), Luận án “Quan hệ tộc người của người

Khmer ở hai bên biên giới Việt Nam - Campuchia (khu vực Tây

Nam Bộ)”, Học viện Khoa học Xã hội, Hà Nội.

88. Nguyễn Văn Thanh (1995), Tổ chức và hoạt động phi chính phủ nước

ngoài ở Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

89. Huỳnh Ngọc Trảng (1987), Người Khmer ở tỉnh Cửu Long, Sở Văn hóa -

Thông tin Cửu Long xuất bản.

90. Huỳnh Ngọc Trảng (1993), Văn học Khmer vùng Đồng bằng sông Cửu

Long, Tài liệu về văn hóa của đồng bào Khmer ở Đồng bằng sông

Cửu Long, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội.

91. Tỉnh ủy Vĩnh Long (07/3/2019), Thông báo Kết luận số 90-TB/TU của

Ban Thường vụ Tỉnh ủy về chính sách cán bộ.

92. Ngô Đức Thịnh (2006), Văn hóa, văn hóa tộc người và văn hóa Việt

Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

93. Ngô Đức Thịnh chủ biên (2001), Tín ngưỡng và văn hoá tín ngưỡng ở

Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội

94. Ngô Hữu Thảo (2012), Công tác tôn giáo từ quan điểm Mác - Lênin đến

thực tiễn Việt Nam, Nxb Chính trị - Hành chính, Hà Nội.

95. Nguyễn Nghị Thanh (2012), “Vài nét về biến động của Phật giáo Nam

tông Khmer ở Đồng bằng sông Cửu Long”, số 08 (129), Tạp chí

Nghiên cứu Tôn giáo, Hà Nội.

96. Nguyễn Quốc Tuấn (2014), “Tiếp cận hệ thống thực thể tôn giáo: Một

cách nhìn khác về tôn giáo”, số 03 (129), Tạp chí Nghiên cứu Tôn

giáo, Hà Nội.

97. Thạch Thanh Tùng (2014), Hội Đoàn kết Sư sãi yêu nước trong đời sống

văn hóa của người Khmer tỉnh Sóc Trăng, Luận văn Văn hóa học,

Trường Đại học Trà Vinh.

98. Nguyễn Xuân Trung (2015), Tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết tôn giáo

- Giá trị lý luận và thực tiễn, Nxb Lý luận Chính trị, Hà Nội.

160

99. Phan Thị Yến Tuyết (1987), Truyền thống Việt - Khơ me trong trong

chiến đấu và xây dựng, Người Khơ me Cửu Long, Sở Văn hóa -

Thông tin Cửu Long.

100. Ngô Ngọc Thắng - Đoàn Minh Huấn (2014), Một số lý thuyết về phát triển

xã hội và quản lý phát triển xã hội, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

101. Phan Thuận (2014), “Vai trò của Phật giáo Nam tông Khmer đối với sự

ổn định và phát triển xã hội ở đồng bằng sông Cửu Long hiện nay”,

số 33, Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ, Cần Thơ.

102. Danh Út (2014), Biến đổi trong đời sống văn hóa của tu sĩ Phật giáo

Nam tông Khmer tỉnh Kiên Giang (từ sau năm 1986 đến nay), luận

văn Văn hóa học, Trường Đại học Trà Vinh.

103. Ủy ban Dân tộc và Miền Núi (Đề tài cấp Bộ do Cơ quan đặc trách công

tác Dân tộc ở Nam bộ (2000-2001), Truyền thống đoàn kết đấu

tranh cách mạng của đồng bào Khmer Nam bộ dưới sự lãnh đạo

của Đảng Cộng sản Việt nam (1930-1975)”, Cần Thơ.

104. Ủy ban Dân tộc và Miền Núi (Đề tài cấp bộ do Cơ quan đặc trách công

tác Dân tộc ở Nam bộ (1999-2000), Vai trò của chùa đối với đời

sống văn hóa của đồng bào Khmer Nam bộ, Cần Thơ.

105. Văn phòng Ban Chấp hành Trung ương (05/7/2017), Báo cáo đầu tháng

9 năm 2017, số 133.

106. Viện Khoa học Xã hội vùng Nam bộ thuộc Viện Hàn Lâm Khoa học xã

hội (22/03/2017), Kỷ yếu hội thảo khoa học: Những vấn đề dân tộc

ở vùng Tây Nam Bộ trong bối cảnh toàn cầu hóa, hội nhập khu vực

và quốc tế, Cần Thơ.

107. Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam và Trường Đại học KHXH&NV

TP. HCM (2015), Phật giáo vùng Mê - kông: Lịch sử & Hội nhập,

Nxb Đại học Quốc gia Hồ Chí Minh,

108. Viện nghiên cứu tôn giáo - Ban Chỉ đạo Tây Nam Bộ - Sở Nội vụ thành

phố Cần Thơ (tháng 3 năm 2012), Biến động tín ngưỡng, tôn giáo

161

trong quá trình hiện đại hóa, công nghiệp hóa (nghiên cứu trường

hợp đồng bằng sông Cửu Long), thành phố Cần Thơ.

109. Viện nghiên cứu tôn giáo thuộc Viện Hàn lâm Khoa học Việt Nam- Học

viện Phật giáo Nam tông Khmer thuộc Giáo hội Phật giáo Việt Nam

(11/6/2014), Kỷ yếu Hội thảo khoa học “Phật giáo đồng hành cùng

dân tộc”, Kiên Giang.

110. Viện Triết thuộc Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam (8-

9/12/2016), Kỷ yếu Hội thảo khoa học: Tôn giáo và sự phát triển

bền vững khu vực Tây Nam Bộ- Những vấn đề lý luận và thực

tiễn, Cần Thơ.

II. Tài liệu của các học giả nước ngoài

111. G. Coulet (1926), Hội kín trên đất Annam, Sài Gòn.

112. Sadi Giác Nguyên - Nguyên tác Thái ngữ: Thitanànathera (1998), “Phật

giáo sử, Phật giáo Nam tông”

113. Pascal Bourdeaux - Cù Thị Dung lược dịch (truy cập ngày 06/6/2017),

Tài liệu về một giáo phận của Viện Phật giáo ở Nam Kỳ,

http://luutruvn.com/index.php/2015/10/17/tai-lieu-ve-mot-giao-

phan-cua-vien-phat-giao-o-nam-ky/.

114. Jean Paul Willaime (2002), “Karl Marx và Friedrich Engels với vấn đề

xã hội học tôn giáo”, số 01, Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo, Hà Nội.

162

PHỤ LỤC

Phụ lục 1

SỐ LIỆU DÂN TỘC VÀ TÔN GIÁO

STT Tỉnh/Thành

Dân số

Cơ sở

Cơ sở

Tín đồ tôn

Tỷ lệ tín

phố

chung

tôn giáo

t. ngưỡng

giáo

đồ/ tổng

dân số

1

2

3

5

6

4

7

1

Sóc Trăng

1.310.703

407

632.364

321

48,2

2

Trà Vinh

1.050.000

20

559.602

359

53,3

3

Kiên Giang

1.776.725

Chưa TK

588.165

400

33,0

4

An Giang

2.159.859

200

1.900.000

506

88,0

5

Bạc Liêu

889.109

Chưa TK

366.320

189

41,2

6

278

373.326

Cà Mau

1.223.191

134

30,0

7

78

485.896

Cần Thơ

1.254.530

298

40,5

8

127

206.298

Hậu Giang

772.344

155

26,7

9

Vĩnh Long

1.041.453

Chưa TK

285.168

356

27,0

10

Long An

1.470.000

Chưa TK

428.690

512

30,0

11

Tiền Giang

1.712.201

Chưa TK

224.059

601

13,0

12

Bến Tre

1.387.482

10

228.801

501

16,5

13 Đồng Tháp

1.678.000

Chưa TK

420.997

384

24,5

Bảng 1. Số liệu chung vùng Tây Nam Bộ (tính đến năm 2017)

Tổng số

17.725.591

4.716 1.120

6.699.722

37,8

Nguồn bảng 1: Tổng kết 15 năm thực hiện Nghị quyết số 25-NQ/TW, ngày 12/3/2003

của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa IX) về công tác tôn giáo của các địa phương.

163

Bảng 2. Số liệu chức sắc, chức việc và tổ chức tôn giáo (tính đến năm 2017)

STT Tỉnh/Thành

Chức

Chức

Trường

Số đảng

Tổ chức tôn giáo

việc

đào tạo

viên có đạo

được công nhận

phố

sắc

2

4

5

1

7

8

9

Sóc Trăng

590

4.287

1

03

2.297

10

Trà Vinh

681

2.450

2

00

7.765

359

Kiên Giang

1.124

3.630

3

01

2.633

22

An Giang

1.290

3.359

14.180

4

00

16

Bạc Liêu

930

1.899

5

02

201

189

Cà Mau

1.216

1.913

6

0

385

154

Cần Thơ

861

1.556

7

03

2.949

48

Hậu Giang

731

1.529

8

00

351

18

Vĩnh Long

303

2.361

9

01

390

17

Long An

3.208

1.792

10

02

430

36

Tiền Giang

2.319

//

11

01

194

130

Bến Tre

1.984

2.006

12

01

615

47

13 Đồng Tháp

1.088

3.467

01

455

419

Tổng số

16.325

30.249

15

32.845

1.474

Nguồn bảng 2: Tổng kết 15 năm thực hiện Nghị quyết số 25-NQ/TW, ngày 12/3/2003

của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa IX) về công tác tôn giáo của các địa phương.

164

Bảng 3. Số liệu hộ nghèo dân tộc Khmer vùng Tây Nam Bộ (tính đến năm 2017)

TT Tỉnh/Thành

Tổng dân số

Dân số

Tỷ lê

Hộ

Hộ

Tỷ lê

phố

(người)

người

(%)

nghèo

nghèo

(%)

Khmer

chung

dân tộc

(người)

Khmer

1

2

3

4

5

6

7

8

1

Sóc Trăng

632.364

402.499

30,71

48.651

22.430

46,10

2

Trà Vinh

559.602

336.000

32,00

30.359

17.946

59,11

3

Kiên Giang

588.165

237.867

13,38

35.185

8.645

24,57

4

An Giang

1.900.000

90.714

4,19

36.726

4.937

13,44

5

Bạc Liêu

366.320

68.081

7,66

24.957

4.431

17,75

6

Cà Mau

373.326

33.439

2,73

23.646

3.038

12,84

7

Cần Thơ

485.896

22.707

1,81

16.165

1.099

6,79

8

Hậu Giang

206.298

22.398

2,90

25.147

2.493

9,91

9

Vĩnh Long

285.168

21.820

2,09

13.229

1.748

13,21

Tổng số

11.477.908

1.235.525

10,80

254.065

66.767

21

Nguồn: Theo Báo cáo số 108-BC/BCSĐ ngày 26/5/2017 của Ban Cán sự Đảng Ủy ban

Dân tộc Tổng kết 25 năm thực hiện Chỉ thị sô 68- CT/TW, ngày 18/4/1991 của Ban Bí thư

Trung ương Đảng (khoá VI) “vê công tác ở vùng đồng bào dân tộc Khơ-me ”

165

Bảng 4. Số liệu đảng viên dân tộc Khmer (tính đến năm 2017)

STT Tỉnh/Thành phố Tổ chức

Tổng số

Đảng viên

Tỷ lệ

Ghi chú

đảng

đảng viên

người dân

(%)

(người)

tộc Khmer

(người)

1

2

5

6

7

3

4

Sóc Trăng

630

40.142

5.718

14,24

1

Trà Vinh

639

41.847

6.627

15,83

2

Kiên Giang

858

52.808

3.165

5,99

3

An Giang

900

58.535

1.303

2,22

4

Bạc Liêu

344

24.163

710

2,93

5

Cà Mau

623

43.739

346

0,79

6

TP. Cần Thơ

683

45.900

477

1,03

7

Hậu Giang

523

31.118

348

1,11

8

Vĩnh Long

414

38.367

436

1,13

9

Tổng số

5.614

376.619

19.130

5,08

Nguồn: Theo Báo cáo số 108-BC/BCSĐ ngày 26/5/2017 của Ban Cán sự Đảng Ủy ban

Dân tộc Tổng kết 25 năm thực hiện Chỉ thị sô 68- CT/TW, ngày 18/4/1991 của Ban Bí thư

Trung ương Đảng (khoá VI) “vê công tác ở vùng đồng bào dân tộc Khơ-me ”

166

Bảng 5. Số liệu Phật Giáo Nam tông Khmer (đến 10/2018)

Thành

Chức sắc

Tăng

viên

Tỉnh, thành Chùa

Phật tử

Hòa

Thượng

Đại

BQT

thượng

tọa

đức

chùa

Trà Vinh

143

3.255

25

220

4.290

57

304.845

1.749

13

Sóc Trăng

92

66

1.326

13

396.999

1.010

06

Kiên Giang

75

1.654

555

14

210.899

1.100

08

An Giang

66

329

508

16

62.903

292

02

Bạc Liêu

22

28

430

09

68.129

70

01

Hậu Giang

15

15

105

10

26.257

219

01

Vĩnh Long

13

130

110

03

22.771

128

02

Cần Thơ

12

07

55

04

22.294

32

02

Cà Mau

07

05

166

01

40.000

60

Cộng (I)

445

7.891

127

1.355

8.644

1.155.097

39

01

TP.HCM

02

00

08

02

3.000

04

00

Đồng Nai

02

02

04

00

1.000

20

00

BR-VT

03

00

03

01

3.984

104

00

Bình Phước

04

02

10

01

15.578

22

00

Tây Ninh

06

06

21

00

7.538

02

//

Hà Nội

01

//

02

01

//

191

01

Cộng (II)

18

10

48

05

31.100

61

Cộng (I+II)

463

8.092

132

1.365

8.692

1.186.197

Nguồn: Cập nhật từ các Tài liệu “Hội Nghị chuyên đề Phật giáo Nam tông Khmer lần

thứ VII (2016) và VIII (2018)” của Hội Đồng trị sự - Giáo hội Phật giáo Việt Nam.

167

Bảng 6. Danh sách cơ sở thờ tự của người Khmer ở Việt Nam

TT

Tên cơ sở thờ tự

Địa chỉ (đường/ấp/khu - xã/phường/tt - huyện/thị/tp)

Năm xây dựng

4. 5. 6. 7. 8. 9. 10. 11. 12. 13. 14. 15. 16. 17. 18. 19.

20. 21. 22. 23. 24. 25. 26. 27. 28. 29. 30. 31. 32. 33.

phường 8 - thành phố Trà Vinh 613 phường 8 - thành phố Trà Vinh 642 khóm 2 - phường 1 - t. phố Trà Vinh 642 phường 8 - thành phố Trà Vinh 990 1632 phường 8 - thành phố Trà Vinh 1348 Khóm 1 - phường 7 - t. phố Trà Vinh 1421 phường 8 - thành phố Trà Vinh 1485 Khóm 7 - phường 7 - t. phố Trà Vinh 1519 Phường 9 - thành phố Trà Vinh 1642 phường 9 - thành phố Trà Vinh 1733 Khóm 8 - phường 6 - t. phố Trà Vinh ấp Trà Kháo - Hòa Ân - Cầu Kè 373 ấp Phi Rùm Sóc - Châu Điền - Cầu Kè 1097 ấp Trà Kháo - Hòa Ân - Cầu Kè 1317 ấp Bà My - Hòa Ân - Cầu Kè 1364 ấp Chùa Phật - TT.Cầu Kè - Cầu Kè 1367 ấp Nhì - Phong Phú - Cầu Kè 1525 ấp Đầu Giồng - Tam Ngãi, - Cầu Kè 1576 ấp Ô Mịch - Châu Điền - Cầu Kè 1657 ấp Ô Tưng - Châu Điền - Cầu Kè 1667 ấp Ngọc Hồ - Tam Ngãi - Cầu Kè 1680 ấp Ba - Phong Phú - Cầu Kè 1710 ấp Xóm Lớn - Châu Điền - Cầu Kè 1736 ấp Trà Kháo - Hòa Ân - Cầu Kè 1756 ấp Bến Chợ - Phong Thạnh - Cầu Kè 1758 1777 ấp Nhì - Phong Thạnh - Cầu Kè 1818 Châu Thành A - TT. Cầu Kè - Cầu Kè ấp Tư - Phong Phú - Cầu Kè 1851 ấp Giồng Dầu - Hòa Ân - Cầu Kè 1887 ấp Chông Nô - Hòa Tân - Cầu Kè 1903 ấp Kinh Xáng - Phong Phú - Cầu Kè 1960 ấp Ô Mịch - Châu Điền - Cầu Kè 1968 ấp Ô Rồm - Châu Điền - Cầu Kè 1972 ấp Đại Mong - Phú Cần - Tiểu Cần 1565

1/Tỉnh Trà Vinh (143 cơ sở thờ tự) Chùa Kos Keo Sế Rây 1. Chùa Somrong Ek 2. Chùa Kompong 3. Chùa Âng Chùa Srắs Nẹt Chùa Khươne Chùa Som Bua Chùa Ktưng Chùa ThmoTol Chùa Chom Ka Chùa Kompong Ksan Chùa SomBuaRăngsây Chùa Phi Rum Sóc Chùa Kandal Chùa Somnâng Thum Chùa Tà Thiêu Chùa Rưsrây Sróc Chùa Chông Ksach Chùa Ô Mịch Chùa Ô Tô Tưng Chùa Kombăng Bat Chùa Tà Điêu Chùa Tà Ôt Chùa Pô Thum Chùa Bat Kroma Chùa Chông ProLen Chùa Kompong Spen Chùa Mê Păng Chùa Chông Bưng Chùa Pôthisrây Chùa Kinh Xáng Chùa Ô SomPâu Chùa Prơm Chùa Kompong Leo Chùa Phnom Penh

34. 35.

1655

ấp Cây Hẹ - TT. Tiểu Cần - Tiểu Cần

ấp Ngãi Hòa - Tập Ngãi - Tiểu Cần 1859 ấp Tân Đại - Hiếu Tử - Tiểu Cần 1721 ấp Ô Đùng - Hiếu Tử - Tiểu Cần 1719 ấp Tân Trung Giồng - Hiếu Trung - TC 1760 ấp Ô Trom - Hiếu Tử - Tiểu Cần 1775 ấp Giồng Tranh - Tập Ngãi - Tiểu Cần 1970 ấp Nhì - Tân Hùng - Tiểu Cần 1826 ấp Đại Trường - Phú Cần - Tiểu Cần 1827 ấp Cầu Tre 2, Long Thới, - Tiểu Cần 1862 ấp Sóc Chùa - Tân Hùng - Tiểu Cần 1873 ấp Sóc Chàm - Hùng Hòa - Tiểu Cần 1873 ấp Sóc Dừa - Tân Hòa - Tiểu Cần 1992 ấp Ô Trao - Hiếu Tử - Tiểu Cần 1993 ấp B - Bình Phú - Càng Long 1500 ấp Sóc - Huyền Hội - Càng Long 1541 ấp Lưu Tư - Huyền Hội - Càng Long 1690 ấp Sóc Chùa - Phương Thạnh – C.Long 1700 ấp Qui Nông - Hòa Lợi - Châu Thành 641 ấp Bình La, Lương Hòa, - Châu Thành 1556 ấp Thanh Trì - TT.Châu Thành - CT 1612 ấp Trà Nốc - Song Lộc - Châu Thành 1655 ấp Hương Phụ - Đa Lộc - Châu Thành 1672 ấp Kỳ La - Hòa Thuận - Châu Thành 1660 1673 Kh.4 - TT. Châu Thành - Châu Thành 1541 ấp Trì Phong - Hòa Lợi - Châu Thành 1755 Xã Nguyệt Hoá - Châu Thành 1802 Sa Múc - Lương Hòa A - Châu Thành 1681 Hòa Lạc - Lương Hòa A - Châu Thành ấp Phú Mỹ - Mỹ Chánh - Châu Thành 1845 Xóm Giữa - Hòa Thuận - Châu Thành 1872 ấp Ba Se A - Lương Hòa - Châu Thành 1894 ấp Giồng Lức - Đa Lộc, - Châu Thành 1973 ấp Bàu Sơn - Đa Lộc - Châu Thành 2014 ấp Ô Ka Đa - Phước Hảo - Châu Thành 2017 ấp Là Ca - Nhị Trường - Cầu Ngang 1352 ấp Sóc Cụt - Trường Thọ - Cầu Ngang 1439 ấp Hòa Lục - Hiệp Hoà - Cầu Ngang 1676 ấp Lạc Thạnh A - Thạnh Hoà Sơn - CN 1512 ấp Lạc Sơn - Thạnh Hoà Sơn - CN 1631 1642 ấp Bình Tân - Hiệp Hoà - Cầu Ngang 1642 Bông Veng - Nhị Trường - Cầu Ngang 1650 1654

ấp Lạc Hòa - Thạnh Hoà Sơn - CN ấp Ba So Cũ - Hiệp Hoà - Cầu Ngang

36. 37. 38. 39. 40. 41. 42. 43. 44. 45. 46. 47. 48. 49. 50. 51. 52. 53. 54. 55. 56. 57. 58. 59. 60. 61. 62. 63. 64. 65. 66. 67. 68. 69. 70. 71. 72. 73. 74. 75. 76. 77. 78.

Chùa Ô Chhuk Chùa Kompong Răng Chùa Kompong Đung Chùa Kompong Mes Chùa Phnô Krom Chùa Đại Tô Tưng Chùa Chrây Phê Chùa Chac A Krôn Chùa Phnô Pring Chùa Prek Tung Chùa Ô Veng Chás Chùa Ô Veng Thmây Chùa Ô Trao Chùa Konleng Sés Chùa Ích Chùa Ka Ep Chùa Bi Sây Chùa Knông Sróc Chùa Banle Chây Chùa Trốt Lích Chùa Knok Chùa Trốt Cớt Chùa Ko Ki Chùa Kompong Chrây Chùa Phnô Kombut Chùa Kốk Chùa Ruôm Mích Chùa Chông Tọp Chùa Somrong Thum Chùa Ksach Candal Chùa Kompong Thmo Chùa Phnô Anđet Chùa Ô Ta Pâu Chùa Ô Ka Đa Chùa RaKa Chás Chùa Ompăng San Chùa ThLốk Chùa MêRongChás Chùa MêRongThMây Chùa KompongTuk Chùa Tropăng Veng Chùa Vel Lac Chùa ChôngMêSoChás

168

ấp Kim Câu - Kim Hoà - Cầu Ngang ấp Phiếu - Hiệp Hoà - Cầu Ngang ấp Cẩm Hương - Mỹ Hoà - Cầu Ngang ấp Ô Răng - Long Sơn - Cầu Ngang ấp Mỹ Cẩm - Mỹ Hoà - Cầu Ngang

79. 80. 81. 82. 83. 84.

85. 86.

87. 88. 89. 90. 91. 92. 93. 94. 95. 96.

97.

Chùa Ret Mol Chùa Phiêu Chùa Teo Chás Chùa Phnô Răng Chùa Pro Hut Chùa Căn Nom Chùa Teo Thmây Chùa Đom Bốt Bi Chùa Kossom Chùa ChôngMêSoThmây Chùa Cós Xoài Chùa Chêk Chrum Chùa Kompong Tô Tưng Chùa Chông Phnô Chùa Pro Khúp Chùa Thum Chùa Chrây Ta Sô Chùa Âng Kôl Chùa Trô Lôn Chùa Khnach Tô Tưng Chùa Tropăng Chhuc

1667 1667 1683 1683 1733 1749 Căn Nom - Trường Thọ - Cầu Ngang ấp Cần Dưng - Mỹ Hoà - Cầu Ngang 1807 ấp Là Ca - Nhị Trường - Cầu Ngang 1856 1868 ấp Sóc Chùa - Thuận Hoà - Cầu Ngang ấp Ba So - Nhị Trường - Cầu Ngang 1882 1890 Cos Xoài - Trường Thọ - Cầu Ngang ấp Giữa - Kim Hoà - Cầu Ngang 1908 ấp Tân Lập - Long Sơn - Cầu Ngang 1966 ấp Trà Kim, Thuận Hoà, Cầu Ngang 1975 ấp Sóc Ớt - Ngũ Lạc - Duyên Hải 1872 ấp Thốt Lốt - Ngũ Lạc - Duyên Hải 1542 ấp Rọ Say - Ngũ Lạc - Duyên Hải 1515 ấp Trà Côn - Long Vĩnh - Duyên Hải 1920 ấp Cá Cối - Long Vĩnh - Duyên Hải 1929 ấp Bổn Thanh - Ngũ Lạc- Duyên Hải 1800 ấp Đình Cũ - Long Khánh - Duyên Hải 1964 ấp Ba Sát - Đôn Châu - Duyên Hải 1450 ấp La Bang - Đôn Xuân - Duyên Hải 1856 ấp Bà Môn - Đôn Xuân - Duyên Hải 1806 ấp Tà Ròm - Đôn Xuân - Duyên Hải 1598 ấp Bà Nhì - Đôn Xuân - Duyên Hải 1694 ấp Bà Giam - Đôn Xuân - Duyên Hải 1698 ấp Lộ Sỏi - Đôn Xuân - Duyên Hải 1570 ấp Sà Vần - Ngọc Biên - Trà Cú 1466 ấp Tà Niếc - Lưu Nghiệp Anh - Trà Cú 1468 ấp Cây Da - Tập Sơn - Trà Cú 1488 ấp Vàm Ray - Hàm Tân, - Trà Cú 1498 1557 ấp Trà Cú - Kim Sơn - Trà Cú 1698 Xoài Dọt - Lưu Nghiệp Anh - Trà Cú 1568 1624 1645 1650 1635 1673 1674

ấp Chợ - An Quảng Hữu - Trà Cú ấp Chợ - Tân Sơn - Trà Cú ấp Cà Săng - Hàm Tân - Trà Cú ấp Bến Chùa - Phước Hưng - Trà Cú ấp Trà Kha - Đại An- Trà Cú ấp Bải Xào Dơi - Kim Sơn- Trà Cú ấp Trà Sất C - Long Hiệp - Trà Cú

98. 99. 100. Chùa Chrây Pra Sat 101. Chùa Sla Pang 102. Chùa Đom Bon Pac 103. Chùa Tà Rom 104. Chùa Chrây Kôk 105. Chùa Bà Giam 106. Chùa Rum Đuôl 107. Chùa Brây Vo 108. Chùa Chum Nit 109. Chùa Chet Đây (Tháp) 110. Chùa Bonray Chás 111. Chùa ThCâu 112. Chùa Xoài Dọt 113. Chùa Kompong Luông 114. Chùa Pôthi Bưng (Leng) 115. Chùa Bonray Thmây 116. Chùa Sleng Chás 117. Chùa PhnôSăngKeChás 118. Chùa Bài Chhao 119. Chùa Ba Tục

169

1838 1678 1698 1698 1699 1711 1732 1698 1751 1758 1763 1783 1868 1808 1835 1657 1885 1894 1476 1903 1915 1919 1972 1905

ấp Trà Tro - Hàm Giang - Trà Cú ấp Cây Da - Đại An - Trà Cú ấp Chợ - Long Hiệp - Tiểu Cần ấp Ba Cụm - Ngọc Biên - Trà Cú ấp Tha La - Ngọc Biên - Trà Cú ấp Nô Rè A - Long Hiệp - Trà Cú ấp Ba Trạch - Tân Hiệp - Trà Cú ấp Chông Bát - Tân Hiệp - Trà Cú ấp Sóc Chà - Thanh Sơn - Trà Cú ấp Con Lọp - Tân Hiệp - Trà Cú ấp Bải Xào Giữa - Kim Sơn - Trà Cú ấp Sóc Ruộng - Tân Hiệp - Trà Cú ấp Nô Đùng - Tân Hiệp - Trà Cú ấp Cà Hom - Hàm Giang - Tiểu Cần ấp Long Trường - Tân Hiệp - Trà Cú ấp Xoài Xiêm - Ngãi Xuyên - Trà Cú ấp Trạm - Phước Hưng - Trà Cú ấp Bến Chùa - Phước Hưng - Trà Cú ấp Kos La - Thanh Sơn - Trà Cú ấp Mé Láng - Định An - Trà Cú ấp Sóc Tro Dưới - An Quảng Hữu -TCú ấp Giồng Cao - Ngọc Biên - Trà Cú ấp Giồng Tranh - Ngãi Xuyên - Trà Cú ấp Xoài Xiêm - Ngãi Xuyên - Trà Cú

1533 Khóm 5 - P. 6 - thành phố Sóc Trăng 1725 Khóm 2 - P. 5 - thành phố Sóc Trăng 1569 Khóm 9 - P.3 - thành phố Sóc Trăng 1963 Khóm 7 - P.8 - thành phố Sóc Trăng 1664 Khóm 3 - P.7 - thành phố Sóc Trăng 1964 Khóm 5 - P.4 - thành phố Sóc Trăng 1465 Khóm Tâm Trung - P.10 - tp. Sóc Trăng 1901 ấp Phú Tức - Phú Mỹ - Mỹ Tú 1881 Đại Úi - Phú Mỹ - Mỹ Tú 1727 Bưng Cóc - Phú Mỹ - Mỹ Tú 1843 Sóc Xoài - Phú Mỹ - Mỹ Tú 1863 Bét Tôn - Phú Mỹ - Mỹ Tú 1678 Tà Ân B - Thuận Hưng - Mỹ Tú 1727 Tam Sóc - Mỹ Thuận - Mỹ Tú 1648

ấp An Thành - TT. Kế Sách - Kế sách

170

120. Chùa Bantay Kro 121. Chùa Phnô Đung 122. Chùa Tà Sất 123. Chùa Ba Cụm 124. Chùa Kompong SaLa 125. Chùa Tà Phnô Prel 126. Chùa Ba Trạch 127. Chùa Trô Prás Bat 128. Chùa Sóc Chà 129. Chùa Cós Lọp 130. Chùa Crôi Tansa 131. Chùa Rong Vel 132. Chùa Phnô Anđung 133. Chùa Đây Kro Hom 134. Chùa Phnô Ompung 135. Chùa Xoài Xiêm Chás 136. Chùa Chông Prây 137. Chùa Sleng Thmây 138. Chùa Kos Sla 139. Chùa PhnôSăngKeThmây 140. Chùa Kro 141. Chùa Pras Prang 142. Chùa Tul Tà Thok 143. Chùa Xoài Xiêm Thmây 2/Tỉnh Sóc Trăng (92 cơ sở thờ tự) 144. Chùa Khleang 145. Chùa Sôm Rông 146. Chùa Maha Túp (Dơi) 147. Chùa Peam Buôn Chas 148. Chùa (Pô) Sóc Vồ 149. Chùa Peam Buôn Thmây 150. Chùa Trà Tim Cũ 151. Chùa Pô Pus Tứk 152. Chùa Bâng Kha Don 153. Chùa Bưng Cóc 154. Chùa Đay Ta Suôs 155. Chùa Prek Pinh Tôn 156. Chùa Pô Thi Prưk Tà Ong 157. Chùa Tum Pok Sok 158. Chùa Pô Thi Khsach

ấp 8 -Trinh Phú, - Kế sách ấp 10 - Trinh Phú - Kế sách ấp An Nghiệp - An Mỹ - Kế sách ấp Kinh Giữa 1 - xã Kế Thành - Kế sách ấp Tập Rèn - Thới An Hội - Kế sách ấp Giồng Chùa A - An Hiệp - C. Thành ấp Bưng Tróp - An Hiệp - Châu Thành

ấp Tân Lợi - Thạnh Tân - Thạnh Trị ấp Trung Hòa - Tuân Tức - Thạnh Trị ấp Kiết Lợi - Lâm Kiết - Thạnh Trị

2004 1843 1860 1618 1889 1495 1890 1621 Châu Thành - An Ninh - Châu Thành ấp Mỹ Tân - Thiện Mỹ - Châu Thành 1749 ấp Trà Quýt B - Thuận Hòa - C. Thành 1881 ấp Xây Đá A - Hồ Bắc Kiện - C. Thành 1964 1860 ấp Phú Hữu - Phú Tâm - Châu Thành 1676 Phước Phong - Phú Tân - Châu Thành 1537 Phước Thuận - Phú Tân - Châu Thành 1830 1965 1798 1873 Xau Mau II - TT. Phú Lộc - Thạnh Trị ấp Giồng Chùa, TT. Hưng Lợi -Th.Trị 1910 ấp Trương Hiền - Thạnh Trị - Thạnh Trị 1971 ấp Kiết Lập B - Lâm Tân, - Thạnh Trị 1971 ấp B 1 - Thạnh Tân - Thạnh Trị 1964 ấp Vĩnh Thạnh - Vĩnh Qưới - Ngã Năm 1798 1783 ấp Cần Đước - Thạnh Phú - Mỹ Xuyên 1913 Khu 1 - Thạnh Phú, - Mỹ Xuyên 1780 Hòa Khánh - Thạnh Qưới - Mỹ Xuyên ấp Phú Giáo - Thạnh Qưới, - Mỹ Xuyên 1951 ấp Đại Thành - Đại Tâm, - Mỹ Xuyên 1815 ấp Tân Lộc - Đại Tâm, - Mỹ Xuyên 1666 ấp Tâm Kiên - Đại Tâm, - Mỹ Xuyên 1894 ấp Tắc Gồng - Tham Đôn, - Mỹ Xuyên 1224 ấp Cần Giờ II - Tham Đôn, - Mỹ Xuyên 1975 ấp Cần Giờ - Tham Đôn, - Mỹ Xuyên 1967 1957 ấp Bưng Chụm- Tham Đôn- Mỹ Xuyên 1585 Phnô Com Bôth - Tham Đôn - M.Xuyên ấp Chợ Cũ - TT. Mỹ Xuyên- Mỹ Xuyên 1507 ấp 5 - TT. Long Phú - Long Phú 1706 ấp Tân Lịch - Tân Hưng - Long Phú 1837 ấp 4 - Châu Khánh - Long Phú 1773

159. Chùa On Đôn Rưs Sây 160. Chùa Pring Prum 161. Chùa Chom Pa Chum 162. Chùa Pô Thi Pdok 163. Chùa Pô Thi Thlâng 164. Chùa Peng Som Rith 165. Chùa Kom Pong Tróp 166. Chùa Tum Núp 167. Chùa Chông Pro Lean 168. Chùa Trà Quýt Cũ 169. Chùa Trà Quýt Mới 170. Chùa Phnô Rô Ka 171. Chùa Chăm Pa 172. Chùa Bốn Mặt 173. Chùa Pong Tưk Chăs 174. Chùa Pong Tưk Thmây 175. Chùa Srăs Keo 176. Chùa Đay Chho Khmao 177. Chùa Ong Kho 178. Chùa Đay Niêl 179. Chùa Lộ Mới 180. Chùa Ong Tao 181. Chùa Prêk Chêk 182. Chùa Cần Đước 183. Chùa Nhu Gia 184. Chùa Trà Cuôn 185. Chùa Đay Om Pu 186. Chùa Sro Lôn 187. Chùa Trà Tim Giữa 188. Chùa Trà Tim Mới 189. Chùa Tắc Gồng 190. C. Phnô Canh Chơ Thmây 191. Chùa Phnô Canh Chơ Chăs 192. Chùa Pô Thi Chum 193. Chùa Phnô Kom Bôth 194. Chùa Bai Chhao 195. Chùa Tức Pray 196. C. Bưng Kro Chap Thmây 197. Chùa Bưng Kro Chap Chăs

171

1609 Trường Thành B-Trường Khánh- L.Phú 1884 ấp Phú Đức - Long Phú - Long Phú 1615 ấp Đào Viên - Viên Bình - Trần Đề 1895 ấp Lao Vên - Viên Bình - Trần Đề 1890 ấp Tiếp Nhựt - Viên An - Trần Đề 1973 ấp Bờ Đập - Viên An - Trần Đề 1887 ấp Bưng Triết - Liêu Tú - Trần Đề 1881 ấp Giồng Chát - Liêu Tú - Trần Đề 1954 ấp Tú Điềm - Đại Ân 2 - Trần Đề ấp Lâm Dồ- Đại Ân 2- Trần Đề 1899 1914 Sóc Lèo B- Lịch Hội Thượng - T. Đề 1502 Châu Thành-Lịch Hội Thượng - T.Đề 2003 Nam Chánh- Lịch Hội Thượng - T.Đề 1904 Sóc Lèo - Lịch Hội Thượng - Trần Đề 1668 Hưng Thới - Thạnh Thới An - Trần Đề ấp Giồng Chùa - TT. Trần Đề - Trần Đề 1901 1576 Khóm Cà Săng - P. 2 - TX. Vĩnh Châu 1675 K. Sở Tại A - P. Vĩnh Phước, TX. VC 1694 Vĩnh Thành-Vĩnh Phước - TX. V.Châu

1738 Wach Pích - P. Vĩnh Phước - TX. VC 1750 K. Soài Côn - phường 2 - TX. V. Châu 1767 Hòa Thành - Lạc Hòa - TX. Vĩnh Châu 1783 Vĩnh Thành B- Vĩnh Hải- TX. V. Châu 1799 Khóm 7 - phường1 - TX. Vĩnh Châu 1866 Trà Teo, Hòa Đông, TX. Vĩnh Châu 1816 Xum Thum A- Lai Hòa- TX.Vĩnh Châu 1884 Trà Sết - Vĩnh Hải - TX. Vĩnh Châu 1886 Hòa Nam - Lạc Hòa - TX. Vĩnh Châu 1870 Prây Chóp B- Lai Hòa - TX.Vĩnh Châu 1882 Phnô Puôl - Vĩnh Tân, TX. Vĩnh Châu 1937 Vĩnh Bình - phường 2 - TX. Vĩnh Châu 1949 Trà Vôn B - Vĩnh Tân - TX. Vĩnh Châu 1953 Xẻo Cốc - Lai Hòa - TX. Vĩnh Châu 1955 K. Bưng Tum- P.Khánh Hòa -TX. VC 1972 Nô Thum - Vĩnh Tân - TX. Vĩnh Châu 1973 Biến Trên A - P. Vĩnh Phước - TX.VC ấp Đại Bái - Lạc Hòa - TX. Vĩnh Châu 1973 ấp Sơn Ton- An Thạnh 2-Cù Lao Dung 1991

172

198. Chùa Săng Ke 199. Chùa Bưng Kol 200. Chùa Sêray Ta Mơn 201. Chùa Pđau Pên 202. Chùa Bâng Sa 203. Chùa Chông Prek 204. Chùa Bâng Phniết 205. Chùa Prek Chac 206. Chùa Pem Buôn 207. Chùa Đờm Pô 208. Chùa Prek Kol Thmây 209. Chùa Prek Kol Chăs 210. Chùa Phnô Tà Niêl 211. C. Kom Pong Tro Tel 212. Chùa Prek Om Pu 213. Chùa Đon Ka Đồn 214. Chùa Kro Săng 215. Chùa Đơm Om Pil 216. Chùa Sêray Kandal 217. Chùa Pích Monkhol 218. Chùa Soài Côn 219. Chùa Tăng Du 220. Chùa Pro Lean 221. Chùa Đôn Tru 222. Chùa Tà Teo 223. Chùa Chhung Thom 224. Chùa Tà Sêk 225. Chùa Tà Đớk 226. Chùa Prây Chóp 227. Chùa Phnô Pôn 228. Chùa Sala Pô Thi Mới 229. Chùa Thoma Chô 230. Chùa Tứk Sáp 231. Chùa Bâng Tung 232. Chùa Phnô Thum 233. Chùa Đơm Thnốt 234. Chùa Đay Tà Pay 235. Chùa Kos Tung 3/ Tỉnh An Giang (66 c cơ sở thờ tự)

ấp Tô Lợi - Cô Tô - Tri Tôn

1901 Bình Hưng I - Bình Mỹ - Châu Phú 1937 Cần Thạnh - Cần Đăng - Châu Thành 1820 Hoà Tân- Hoà Bình Thạnh- Châu Thành 1798 Đông Bình - Vĩnh Thạnh - Châu Thành 1816 Ba Thê - Vong Thê - Thoại Sơn 1798 1891 Tô Lợi - Cô Tô - Tri Tôn 1849 Sla Đơm - An Tức - Tri Tôn 1962 Ninh Hoà - An Tức - Tri Tôn 1513 Tapeng Trao - An Tức - Tri Tôn 1904 Som Sây - Ô Lâm - Tri Tôn 1110 Phước Thọ - Ô Lâm - Tri Tôn 1910 Tropengpôr - Ô Lâm - Tri Tôn 1846 ấp Chhuk - Ô Lâm - Tri Tôn 1799 Pa Theat - Ô Lâm- Tri Tôn 1590 Thnốt Chrum - Ô Lâm - Tri Tôn 1817 Chrốs Pốk - An Tức - Tri Tôn 1590 Sóc Triết, Cô Tô, TT 1400 Kop Treng - Núi Tô - Tri Tôn 1850 Tố Hạ - Núi Tô - Tri Tôn 1860 Chrôi - Núi Tô - Tri Tôn 1299 Ta Pôr - Cô Tô - Tri Tôn 1650 Kol Kas - Châu Lăng - Tri Tôn 1149 khóm 4 - TT. Tri Tôn - Tri Tôn 1932 Ta Ông - Ba Chúc - Tri Tôn 1992 Sập Da - Ba Chúc - Tri Tôn 1941 Kôkrômiết Trên - Lương Phi - Tri Tôn 1399 Kôkrômiết dưới - Lương Phi - Tri Tôn 1885 Chika Êng Trên - Châu Lăng - Tri Tôn 1404 Chika Êng Dưới - Châu Lăng - Tri Tôn 1746 Sà Lôn - Lương Phi - Tri Tôn 1700 Pung Rô - Châu Lăng - Tri Tôn 1608 An Hoà - Châu Lăng - Tri Tôn 1657 Som Rông - Châu Lăng - Tri Tôn 1925 Nam Qui - Châu Lăng - Tri Tôn 1699 Nam Qui Giữa - Châu Lăng - Tri Tôn 1769 Nam Qui - Châu Lăng - Tri Tôn 1510 Soài Tong - TT. Tri Tôn - Tri Tôn 1784 Tumpunglơ - Lương Phi - Tri Tôn

236. Chùa Muni Vongsa 237. Chùa Prek Stưng 238. Chùa Chắc Sđào 239. Chùa Vĩnh Trạch 240. Chùa Ba Thê 241. Chùa Pô Los 242. Chùa Pra Sath Pôs 243. Chùa Svay Tà Hon 244. Chùa Soai Ta Kum Mới 245. Chùa Tro Peng Trao 246. Chùa Som Sây 247. Chùa Soai Ta Kum Cũ 248. Chùa Kom Phlưng 249. Chùa Sre Bun 250. Chùa Pa Theat 251. Chùa Thnốt Chrum 252. Chùa Chi Pok 253. Chùa Sóc Triết 254. Chùa Khok Treng 255. Chùa Tà Pạ 256. Chùa Soài So 257. Chùa Chi Mung 258. Chùa Kol Kas 259. Chùa Prey Veng 260. Chùa Ông 261. Chùa Sập Da 262. Chùa Ta Miệt Trên 263. Chùa Ta Miệt Dưới 264. Chùa Chika Êng Trên 265. Chùa Chika Êng Dưới 266. Chùa Sà Lôn 267. Chùa Bân Rô 268. Chùa Krăn Croch 269. Chùa Pô Som Rong 270. Chùa Nam Qui trên 271. Chùa Nam Qui giữa 272. Chùa Nam Qui dưới 273. Chùa Soài Tong 274. Chùa Ta Dung trên

173

1678 Tumpungcro - Lương Phi - Tri Tôn 1678 Lê Trì - Tri Tôn 1690 Lê Trì - Tri Tôn 1946 Soài Chếk - An Cư - Tịnh Biên 1880 Vĩnh Hạt - Vĩnh Trung - Tịnh Biên 1873 Chi Lăng - Tịnh Biên 1900 Vĩnh Thuận - An Cư - Tịnh Biên 1890 Chơn Cô - An Cư - Tịnh Biên 1933 Pô Thi - An Cư - Tịnh Biên 1700 Chơn Cô - An Cư - Tịnh Biên 1690 Pô Thi - An Cư - Tịnh Biên 1890 Pô Thi - An Cư- Tịnh Biên 1890 Vĩnh Hạt - Vĩnh Trung - Tịnh Biên 1799 Pô Thi - An Cư - Tịnh Biên 1900 Chơn Cô - An Cư - Tịnh Biên 1910 Vĩnh Thượng - An Cư - Tịnh Biên 1516 An Thạnh - An Hảo - Tịnh Biên 1900 Xuân Phú - Nhà Bàng - Tịnh Biên 1899 Tân Thuận - Tân Lợi - Tịnh Biên 1699 Mỹ Á - Chi Lăng- Tịnh Biên 1600 Văn Giáo - Tịnh Biên 1600 Sây Sà Cốt - Văn Giáo - Tịnh Biên 1600 Soài Chếk - An Cư - Tịnh Biên 1860 An Hoà - An Hảo - Tịnh Biên 1800 An Cư - Tịnh Biên 1600 An Cư - Tịnh Biên 1820 Nhà Bàng - Tịnh Biên

1947 Khu vực 2 - TT. Thứ 3 - An Biên 1907 ấp 5 Chùa - Nam Thái - An Biên 1606 Thạnh Bình - Thanh Lộc - Châu Thành 1940 Bình Lợi - Minh Hoà - Châu Thành 1870 Tân Hưng - Giục Tượng - Châu Thành 1950 Phước Lợi - Mong Thọ B - Châu Thành 1835 Minh Hưng - Minh Hoà - Châu Thành 1925 Bình Hoà - Minh Hoà - Châu Thành 1948 An Bình - Minh Hoà - Châu Thành 1960 Xà Xiêm - Bình An - Châu Thành 1893 Xà Xiêm - Bình An - Châu Thành

174

275. Chùa Ta Dung dưới 276. Chùa Thlâng 277. Chùa On Đôn Tkâu 278. Chùa Soài Chếk 279. Chùa Đắc Tọt 280. Chùa Pen Lợt 281. Chùa Rô 282. Chùa Ben Đồn 283. Chùa Pô Thi 284. Chùa Thốt Nốt 285. Chùa Cô 286. Chùa Cây Đuốk 287. Chùa Thom Mít 288. Chùa Ba Soài 289. Chùa Prel 290. Chùa Cây Khoa 291. Chùa Kos Rumdet 292. Chùa Mới 293. Chùa Crăn Chay 294. Chùa Mỹ Á 295. Chùa Neng Nong 296. Chùa Văn Râu 297. Chùa Sà Rất 298. Chùa Soai Tà Som 299. Chùa Đờm Pà Ốk 300. Chùa On Đôn Pruos 301. Chùa Pothiwong 4/ Tỉnh Kiên Giang (75 cơ sở thờ tự) 302. Chùa Thứ Ba 303. Chùa Thứ Năm 304. Chùa Tà Bết 305. Chùa Chắc Kha Cũ 306. Chùa Chụng 307. Chùa Cà Săn 308. Chùa Kveng Tô Tưng 309. Chùa Gò Đất 310. Chùa Chắc Kha Mới 311. Chùa Xà Xiêm mới 312. Chùa Xà Xiêm cũ

ấp An Phú - Vĩnh Phước - Gò Quao ấp Thanh Gia - Định Hoà - Gò Quao ấp Hoà Chiếu 2 - Định Hoà - Gò Quao ấp 2 - Vĩnh Hoà Hưng - Gò Quao ấp 4 An Trường - Định An - Gò Quao ấp Trung Nông - Thới Quản - Gò Quao ấp Hoà Lệ - Thới Quản - Gò Quao ấp Hoà Tạo - Định Hoà - Gò Quao ấp Hòa Bình - Thới Quản - Gò Quao ấp Xuân Đông - Thới Quản - Gò Quao ấp 4 Hoà An - Thuỷ Liễu - Gò Quao

ấp 3 An Lợi - Định An - Gò Quao ấp 2 An Hoà - Định An - Gò Quao ấp Hòn Sóc - Thổ Sơn - Hòn Đất ấp Lình Huỳnh - Thổ Sơn - Hòn Đất ấp Rồng Kè - Bình Giang - Hòn Đất ấp Hòn Me, Thổ Sơn, Hòn Đất ấp Sơn An - Nam Thái Sơn - Hòn Đất ấp Ranh Hạt - Bình Giang - Hòn Đất

1901 Khu phố Minh Lạc - TT. Minh Lương 1627 Khu phố Minh Phú - TT. Minh Lương 1673 K.phố Minh Lương - TT. Châu Thành 1638 Khu phố Minh An - TT. Minh Lương 1658 ấp 8 - Long Thạnh - Giồng Riềng 1952 Ngọc Bình - Ngọc Chúc - Giồng Riềng 1842 Hai Lành - Hoà Thuận - Giồng Riềng 1971 Vĩnh Hoá - TT. Giồng Riềng - G. Riềng 1927 Thạnh Ngọc - Thạnh Hưng - G. Riềng ấp 2 Cây Queo - Thạnh Hoà - G. Riềng 1973 1900 Ngọc Tân - Ngọc Chúc - Giồng Riềng 1962 Vĩnh Lợi - Vĩnh Thạnh - Giồng Riềng Thạnh Đông - Thạnh Phước - G.Riềng 1895 1532 Giồng Đá - Bàn Thạch - Giồng Riềng 1931 Cây Trôm - Bàn Thạch - Giồng Riềng ấp Ngọc Bình - Ngọc Chúc - G. Riềng 1626 1733 ấp Huỳnh Tố - Vĩnh Phú - Giồng Riềng 1933 Tràm Chẹt - Bàn Tân Định - G. Riềng 1686 1910 1956 1973 1678 1889 1928 1790 1662 1964 1565 1578 Hoà Hưng, Định Hoà, Gò Quao 1956 1680 1738 1940 1829 1820 2003 1952 1966 Chòm Chuối - TT. Hòn Đất - Hòn Đất

313. Chùa Cù Là mới 314. Chùa Cù Là cũ 315. Chùa Khlang Mương 316. Chùa Khlang Ông 317. Chùa Đường Xuồng Cũ 318. Chùa Cả Đước Vàm 319. Chùa Thác Lác 320. Chùa Rạch Tranh 321. Chùa Mò Om 322. Chùa Đây Ông 323. Chùa Cả Đuốc nhỏ 324. Chùa Nha Si mới 325. Chùa Pô Som Rông 326. Chùa Giồng Đá 327. Chùa Som Rông 328. Chùa Cà Đuốc Lớn 329. Chùa Nha Si cũ 330. Chùa Tràm Chẹt 331. Chùa Sóc Sâu 332. Chùa Đường Xuồng Mới 333. Chùa Prết Prô Lít 334. Chùa Tức Sáp 335. Chùa Prết Tia 336. Chùa Thới An 337. Chùa Cỏ Khía Cũ 338. Chùa Cà Nhung 339. Chùa Tổng Quản 340. Chùa Cỏ Khía Mới 341. Chùa Prết Sla 342. Chùa Tà Mum 343. Chùa Sóc Ven Mới 344. Chùa Sóc Ven Cũ 345. Chùa Hòn Sóc 346. Chùa Lình Huỳnh 347. Chùa Rồng Kè 348. Chùa Hòn Me 349. Chùa Kinh 12 350. Chùa Ranh Hạt 351. Chùa Chòm Chuối

175

ấp Tà Phọt - Phú Mỹ - Giang Thành ấp Tà Ten - Phú Mỹ - Giang Thành ấp Giồng Kè - Phú Lợi - Giang Thành ấp Núi Trầu - Hòa Điền - Kiên Lương ấp Bãy Ớt - Dương Hòa - Kiên Lương

Kp 3 - P.Vĩnh Lợi - Tp. Rạch Giá

ấp Thanh Trúc - Thạnh Trị - Tân Hiệp

1750 Sóc Xoài - TT. Sóc Sơn - Hòn Đất 1895 1932 1878 1965 1884 1589 Bảy Chà Già- Dương Hòa- Kiên Lương ấp Hòn Chông - Bình An - Kiên Lương 1826 ấp Ba Trại - Bình An - Kiên Lương 1932 P. Pháo Đài - TT.Hà Tiên- TX. Hà Tiên 1920 1981 Xà Xía - Mỹ Đức - TX. Hà Tiên 1886 Kp 6 - P. An Hòa - Tp. Rạch Giá 1953 1504 Quang Trung- p.Vĩnh Thạnh- Tp.R.Giá 1412 Ngô Quyền - P.Vĩnh Lạc - Tp. Rạch Giá 1725 Phong Đông- Vĩnh Phong- Vĩnh Thuận 1940 ấp Vĩnh Tây- Vĩnh Phong- Vĩnh Thuận 1962 Vĩnh Phước 2 - TT. V. Thuận- V.Thuận 1725 Đồng Tranh - Vĩnh Bình Bắc – V.Thuận 1836 Bình Hòa- Vĩnh Bình Bắc- Vĩnh Thuận 2008 1974 Vĩnh Chanh- Hòa Chánh- U M.Thượng 1990 Vĩnh Chanh- Hòa Chánh - U M.Thượng 1965 Vàm Canh A-Thạnh Yên -U M.Thượng ấp Đường Bào - Dương Tơ - Phú Quốc 2011

ấp Đại Thọ - Loan Mỹ - Tam Bình ấp Sóc Rừng - Loan Mỹ - Tam Bình

1672 Phù Ly 1 - Đông Bình - tx. Bình Minh 1672 Phù Ly 2 - Đông Bình – tx. Bình Minh 1995 Thuận Tân-Thuận An - tx. Bình Minh 1800 Hóa Thành-Đông Thành- tx.Bình Minh 1060 1601 632 Trung Thạch-Trung Thành-Vũng Liêm ấp Mỹ Định - Tân Mỹ - Trà Ôn 1559 ấp Mỹ An - Tân Mỹ - Trà Ôn 1684 ấp Mỹ Bình - Tân Mỹ - Trà Ôn 1530 ấp Gia Kiết - Tân Mỹ - Trà Ôn 1878 ấp Trà Sơn - Hữu Thành - Trà Ôn 1648 ấp Ngãi Lộ A - Trà Côn - Trà Ôn 1879

176

352. Chùa Sóc Xoài 353. Chùa Tà Phọt 354. Chùa Tà Ten 355. Chùa Giồng Kè 356. Chùa Núi Trầu 357. Chùa Bãy Ớt 358. Chùa Bảy Chà Và 359. Chùa Hòn Chông 360. Chùa Ba Trại 361. Chùa Mũi Nai 362. Chùa Xà Xía 363. Chùa Thôn Dôn 364. Chùa Rạch Sỏi 365. Chùa Phật Lớn 366. Chùa Láng Cát 367. Chùa Chắc Băng Cũ 368. Chùa Kinh II 369. Chùa Chắc Băng Mới 370. Chùa Đông Tranh 371. Chùa Kè Một 372. Chùa Tà Keo 373. Chùa Xẻo Ranh 374. Chùa Ngã Năm Bình Minh 375. Chùa Xẻo Cạn 376. Chùa Bồ Đề Hải Đảo 5/ Tỉnh Vĩnh Long (13 cơ sở thờ tự) 377. Chùa Phù Ly 1 378. Chùa Phù Ly 2 379. Chùa Mỹ Bổn 380. Chùa Tòa Sen 381. Chùa Măng Khol Bô Rây 382. Chùa Kỳ Son 383. Chùa Hạnh Phúc Tăng 384. Chùa Cần Thay 385. Chùa Giữa 386. Chùa Gò Xoài 387. Chùa Gia Kiết 388. Chùa Cũ 389. Chùa Mới

ấp 5 - TT. Giá Rai - Giá Rai ấp 1 - TT. Hộ Phòng - Hộ Phòng ấp 4 - TT. Hộ Phòng - Hộ phòng ấp 4 - TT. Giá Rai - Giá Rai ấp Phú Tân - Ninh Quới - Hồng Dân

ấp Đầu Sấu - Lộc Ninh - Hồng Dân

1949 1973 1946 1972 1849 1629 Trèm Trẹm- TT. Ngàn Dừa -Hồng Dân 1946 ấp Ninh Chùa - Ninh Quới - Hồng Dân 1956 Vĩnh Lộc- Vĩnh Phú Đông- Phước Long 1901 1832 Kos Thum-Ninh Thạnh Lợi- Hồng Dân 1903 Bình Bảo - Vĩnh Phú Tây - Phước Long 1974 Kim Cấu - Vĩnh Tạch - TX. Bạc Liêu 1974 Trà Kha A - phường 8 - TX. Bạc Liêu 1887 khóm 4 - phường 7 - TX.Bạc Liêu 1887 Biển Đông B, Vĩnh Trạch Đông, TX.BL ấp Cù Lao - Hưng Hội - Vĩnh Lợi 1868 ấp Cái Giá - Hưng Hội - Vĩnh Lợi 1573 ấp Vĩnh Thạnh - Vĩnh Hậu - Vĩnh Lợi 1965 1937 ấp Cái Giá - Hưng Hội - Vĩnh Lợi 1952 Thị Trấn B - Hoà Bình - Vĩnh Lợi 1536 Thị Trấn A - Hoà Bình - Vĩnh Lợi 1928

ấp Thành Sơn - Vĩnh Bình - Vĩnh Lợi

ấp 12 - Tân Lộc - Thới Bình 1841 1788 Đường Đào - Hồ Thị Kỷ - Thới Bình 1922 ấp 7 - Tân Lộc - Thới Bình 1964 khóm III - phường I - Tp.Cà Mau 1921 Rạch Cui - Khánh Bình Đôn - T.V.Thời 1946 Bình Minh I - Trần Hợi - Trần V. Thời

1948 36 Hoà Bình, Phường An Cư, TP.CT 1949 27/18 Mạc Định, P. An Cư, TP.CT 1735 Rạch Chùa, TT. Ô Môn, Ô Môn 1704 Đồng Hoà, TT. Ô Môn, Ô Môn 1497 Thới Bình A, Thới Thạnh, Ô Môn 1822 Định Phước, Định Môn, Ô Môn 1893 Định Yên, Định Môn, Ô Môn 1720 Định Khánh An, Định Môn, Ô Môn

177

6/ Tỉnh Bạc Liêu (22 cơ sở thờ tự) 390. Chùa Giá Rai Cũ 391. Chùa Hộ Phòng Mới 392. Chùa Hộ Phòng cũ 393. Chùa Giá Rai mới 394. Chùa Dì Quán 395. Chùa Ngàn Dừa 396. Chùa Khna Ron 397. Chùa Đìa Muồng 398. Chùa Đầu Sấu 399. Chùa Kos Thum 400. Chùa Kos Đôn 401. Chùa Kim Cấu 402. Chùa Trà Kha 403. Chùa Phường 7 404. Chùa Xiêm Cán 405. Chùa Khôsêtaram 406. Chùa Cái Giá cũ 407. Chùa Vĩnh Thạnh 408. Chùa Cái Giá mới 409. Chùa Hoà Bình mới 410. Chùa Hoà Bình cũ 411. Chùa Đìa Chuối 7/ Tỉnh Cà Mau (07 cơ sở thờ tự) 412. Chùa Đầu Nai 413. Chùa Rạch Giồng 414. Chùa Cao Vân 415. Munivong Bôpharam 416. Chùa Rạch Cui 417. Chùa Tam Hiệp 8/ Thành phố Cần Thơ (12 cơ sở thờ tự) 418. Chùa Muni Rengsây 419. Chùa Pithi Khosa Rengsây 420. Chùa Pithi Somrông 421. Chùa Sanvor Pithi Nhen 422. Chùa Phe Sacha Vone 423. Chùa Ne Rey Vone 424. Chùa Serey Vong sa 425. Chùa Ompor Vone

1949 Thới Thuận, Thới Lai, Ô Môn 1960 Đông Lợi, Đông Hiệp, Ô Môn 1949 Thới Hoà B, TT. Cờ Đỏ, Ô Môn 1957 Vĩnh Nhuận, Thới Thuận, Thốt Nốt

1937 TT. Cái Tắc - Châu Thành ấp 7 Ngàn - Tân Hoà - Châu Thành 1968 ấp 8 Ngàn - Tân Hoà - Châu Thành 1968 ấp Long A - Tân Phú Thạnh - C. Thành 1632 ấp 12 - Vĩnh Viễn - Long Mỹ 1949 ấp 4 - Xà Phiên - Long Mỹ 1974 ấp 5 - Xà Phiên - Long Mỹ 1682 ấp 7 - Lương Tâm - Long Mỹ 1670 ấp 4 - Vị Đông - Vị Thanh 1974 ấp 4 - Vĩnh Trung - Vị Thanh 1952 ấp 2 - phường 4 - Vị Thanh 1972 1890 ấp Thạnh Trung - Hoả Lựu - Vị Thanh 1969 Khu vực 5 - TT. Vị Thanh - Vị Thanh 1990 1737

ấp 9 Ngàn - Vị Thanh - Vị Thanh ấp 6 - Vị Thuỷ - Vị Thuỷ

1947 164/235 Trần Quốc Thảo- p. 7 - Q. 3 1960 21/2 Bùi Thế Mỹ - p.10- Q.Tân Bình

1968 Kp. 2 - P. Phú Bình- TX. Long Khánh 1961 Km 112 - Hiệp Nhất - TT. Định Quán

1996 Khóm Bình Sơn - P. 6 - Tp. Vũng Tàu 1945 Đường Nguyễn Kim- p 4- Tp. V. Tàu 2009 Đường Trần Phú - P. 6 - Tp. Vũng Tàu

1931 ấp Sóc Lớn - Lộc Thịnh - Lộc Ninh 1903 ấp 5 - Nha Bích - Chơn Thành 1960 ấp 4 - Lộc Hưng - Lộc Ninh 2011 Phường Tân Xuân - TX. Đồng Xoài 2018

ấp Chà Là - Lộc Thịnh - Lộc Ninh

1920 Thành Tân - Thành Long - Châu Thành 1976 Thạnh Đông -Thạnh Tân - TX.Tây Ninh

178

426. Chùa Prommani Vongsa 427. Chùa Muni Ođom Rengsây 428. Chùa Sét Todor 429. Chùa Samaky Munimes 9/ Tỉnh Hậu Giang (15 cơ sở thờ tự) 430. Bô tum Vongsey 431. Chùa Khênara Rengsey 432. Chùa Thomma Rengsey 433. Chùa Aranh Nhứt 434. Chùa Săngkhum Meanchey 435. Chùa Cai Rone Mới 436. Chùa Cai Rone Cũ 437. Chùa Sarray Vongsa 438. Chùa Pôthi Rengsây 439. Chùa 14 Ngàn 440. Chùa Khu 441. Chùa Ôchum Vongsa 442. Chùa Vị Thanh 443. Chùa 9 Ngàn 444. Chùa Tức Lo Ók 10/ Thành phố Hồ Chí Minh (02 cơ sở thờ tự ) 445. Chùa Chantarangsey 446. Chùa Bothiwong 11/ Tỉnh Đồng Nai (02 cơ sở thờ tự) 447. Chùa Hoa Sơn Tự 448. Chùa Thái Hòa 12/ Tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu (03 cơ sở thờ tự) 449. Chùa Nam Sơn 450. Chùa Kiri Sakor 451. Tăng xá Sang Khemararam 13/ Tỉnh Bình Phước (04 cơ sở thờ tự) 452. Chùa Sóc Lớn 453. Chùa Bồ Đề 454. Chùa Lộc Hưng 455. Chùa Svay 456. Chùa Chà Là 14/ Tỉnh Tây Ninh (06 cơ sở thờ tự) 457. Chùa Bà Ma 458. Chùa Khê Đonl

1987 ấp Cà Ôp - Tân Đông - Tân Châu 1986 Hiệp Phước - Hoà Thành - Châu Thành ấp Hoà Đông A - Hoà Hiệp - Tân Biên 1990 ấp Đầu Cầu - Ninh Điền - Châu Thành 1998

179

459. Chùa Kà Ốp 460. Chùa Chlươl (Hiệp Phước) 461. Chùa Chung Rúc 462. Chùa Svay (Xác Rát) 15/ Thủ đô Hà Nội (01 cơ sở thờ tự)

463. Chùa Khmer

2013 Làng Văn hóa - Đồng Mô - Sơn Tây

Bảng 7. Năm thành lập Hội Đoàn kết sư sãi yêu nước vùng Tây Nam Bộ

STT

Tên Hội

Năm thành lập

Ghi chú

01 Hội ĐKSSYN thành phố Cần Thơ

1963

02 Hội ĐKSSYN tỉnh Sóc Trăng

1963

03 Hội ĐKSSYN tỉnh Trà Vinh

1965

04 Hội ĐKSSYN tỉnh Cà Mau

1966

05 Hội ĐKSSYN tỉnh Kiên Giang

1968

06 Hội ĐKSSYN tỉnh Bạc Liêu

1971

07 Hội ĐKSSYN tỉnh Hậu Giang

2006

08 Hội ĐKSSYN tỉnh Vĩnh Long

2009

09 Hội ĐKSSYN tỉnh An Giang

Không thành lập

180

Bảng 8. Số Hội viên và Ủy viên BCH Hội Đoàn kết Sư sãi yêu nước

Nhiệm kỳ

Hội viên

Ủy viên

Đơn vị

Đại hội

Nhiệm kỳ VII

Trà Vinh

3.255

60

(2018-2023)

Nhiệm kỳ VIII

Sóc Trăng

1.794

58

(2017-2022)

Nhiệm kỳ VI

Kiên Giang

1.010

37

(2014-2019)

Nhiệm kỳ V

Bạc Liêu

292

17

(2018-2023)

Nhiệm kỳ II

Hậu Giang

70

29

(2015-2120)

Nhiệm kỳ II

Vĩnh Long

219

21

(2014 -2019)

Nhiệm kỳ VI

Cần Thơ

128

28

(2016-2021)

Nhiệm kỳ VI

Cà Mau

32

10

(2016-2021)

Tổng cộng

6.800

260

181

Bảng 9. Kết quả thực hiện công tác từ thiện xã hội của Hội Đoàn kết Sư sãi yêu nước

Nhiệm kỳ

Số tiền

Đơn vị

Ghi chú

Đại hội

(Việt Nam đồng)

Nhiệm kỳ VI

Trà Vinh

58.251.513.000

(2013-2018)

Nhiệm kỳ VII

Sóc Trăng

19.683.054.000

(2012-2017)

Nhiệm kỳ VI

24.025.621.000

Kiên Giang

(tính từ năm 2016-2018)

(2014-2019)

Nhiệm kỳ V

Bạc Liêu

5.074.190.000

(2013-2018)

Nhiệm kỳ I

Hậu Giang

85.000.000

(2006-2013)

Nhiệm kỳ I

Vĩnh Long

2.085.330.000

(2009-2014)

Nhiệm kỳ V

Cần Thơ

3.244.900.000

(2011-2016)

Nhiệm kỳ V

Cà Mau

1.000.000.000

(2011-2016)

Làm tròn 113,5 tỷ đồng)

Tổng cộng

113.449.608.000

182

Bảng 10. Kết quả thực hiện công tác giáo dục của Hội Đoàn kết Sư sãi yêu nước

Đơn vị

Số học viên

Ghi chú

Nhiệm kỳ Đại hội

Trà Vinh

15.933

Số lớp Ngữ văn Khmer 680

Sóc Trăng

50.546

1.651

Kiên Giang

12.856

432

Bạc Liêu

23.000

//

Theo báo cáo năm 2015 và 2016 Mỗi năm có từ 2.900 -> 3.500 hv

Hậu Giang

400

//

Vĩnh Long

3.162

93

//

Cần Thơ

420

125

Cà Mau

4.260

Nhiệm kỳ VI (2013-2018) Nhiệm kỳ VII (2012-2017) Nhiệm kỳ VI (2014-2019) Nhiệm kỳ V (2013-2018) Nhiệm kỳ I (2006-2013) Nhiệm kỳ I (2009-2014) Nhiệm kỳ V (2011-2016) Nhiệm kỳ V (2011-2016)

Tổng cộng

2.981

110.577

Bảng 11: Kết quả điều tra hoạt động thực hiện phương châm: “Đạo pháp- Dân tộc

và Chủ nghĩa xã hội”của tín đồ Phật giáo Nam tông Khmer

Tiêu chí Chấp hành tốt chủ trương, chính sách của nhà nước Tham gia các phong trào thi đua yêu nước Tham gia các hoạt động từ thiện Không nghe kẻ xấu xíu giục và lợi dụng

Số lượng 1367 1233 1230 1146

Tỷ lệ (%) 96.3 86.9 86.7 80.8

Nguồn: [75, tr. 462] Bảng 12: Số lượng đồng bào Khmer đi tu ở chùa qua các năm

Dân số (người)

Số sư sãi

Ghi chú

Thời gian (năm) 1975 1979 1985 1995 6-1998

700.000

12.151 11.000 8.246 7.500 8.361

Theo Trần Hồng Liên

Nguồn: [19, tr. 238]

Bảng 13: Số sư sãi tu bình quân cho một chùa trong năm

Thời gian

Số sư/người

1975

29

1985

19

1995

16

1999

13

Nguồn: [19, tr 239]

Bảng 14: Độ tuổi sư trụ trì chùa hiện nay

Độ tuổi và số lượng sư sãi

Tỉnh

Số chùa cáo cáo tổng hợp

Tuổi bình quân sư trụ trì

20-30

31-40

41-50

51-60

61-70

>70

22

12

1

6

34

An Giang

43

2

41

Bạc Liêu

6

3

3

2

42

Cần Thơ

11

1

3

5

39

Cà Mau

5

2

3

6

13

2

42

Kiên Giang

71

6

33

11

5

19

3

52

Sóc Trăng

43

8

3

5

1

4

1

60

Trà Vinh

12

5

1

22

Vĩnh Long

5

1

20

6

43

76

Chung

196

38

19

13

44

Tỷ lệ

39%

19%

10%

3%

7%

22%

183

Nguồn: [19, tr 240]

184

PHỤ LỤC 2

PHIẾU THĂM DÒ Ý KIẾN

____________________________________

Kính thưa : Quý vị Tăng sĩ, vị Acha và quý Phật tử Nam tông Khmer.

Tôi tên : Bạch Thanh Sang, là chuyên viên Vụ Dân tộc - Tôn giáo, Ban Chi đạo Tây

Nam Bộ. Hiện là học viên Cao học, chuyên ngành Tôn giáo học do Học viện Chính trị

Quốc gia Hồ Chí Minh đào tạo đang thực hiện viết đề tài luận văn thạc sĩ: “Hội Đoàn kết

sư sãi yêu nước trong cộng đồng người Khmer vùng Tây Nam Bộ hiện nay”.

Để có cơ sở đề xuất giải pháp, kiến nghị mang tính khách quan cho tổ chức Hội

ĐKSSYN hoạt động ổn đinh và hiệu quả theo hướng lâu dài, tôi rất mong quý vị sư sãi, vị

Acha và quý Phật tử Nam tông Khmer vui lòng cung cấp một số thông nhằm phục vụ cho

việc nghiên cứu đề tài. Mọi thông tin của quý vị cung cấp sẽ được giữ kín, rất mong được

sự giúp đỡ của quý vị.

I. Thông tin cá nhân

Họ và tên :……………………; Tuổi :….. ; Trình độ học vấn :….………

Hiện là Tăng sĩ: , Ban Quản trị chùa : , Đồng bào Phật tử : 

Đang

sinh

hoạt

đạo

tại

chùa :…………………ấp :………………….…,

xã :……………… , huyện :…………………… , tỉnh :………………………

Số điện thoại (nếu có) :……………………………

II. Câu hỏi

Quý vị vui lòng cho biết ý kiến của mình bằng cách dánh dấu (x) vào ô vuông bên

phải phương án và trả lời câu hỏi sau đây:

Câu 1: Trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, Hội Đoàn kết sư sãi yêu nước (Hội

ĐKSSYN) trong Phật giáo Nam tông Khmer đã có những đóng góp đáng kể trong đấu

tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước. Hiện nay, trong thời kỳ xây dựng và bảo vệ

Tổ quốc, vị trí, vai trò của Hội ĐKSSYN đối với cộng đồng người Khmer như thế nào?

a. Quan trọng 

b. Bình thường 

c. Không cần thiết  d. Không có ý kiến 

Câu 2 : Có nên duy trì và phát huy vai trò tổ chức Hội ĐKSSYN như hiện nay hay không ?

a. Có 

b. Không 

c. Tùy theo lãnh đạo các địa phương 

d. Không có ý kiến 

Câu 3: Để khắc phục những khó khăn, bất cập về mô hình, cơ cấu tổ chức của Hội

Đoàn kết sư sãi yêu nước cho phù hợp với tình hình thực tiễn hiện nay, thì cần điều chỉnh

các nội dung dưới đây hay không ?

3.1. Có cần tổ chức Hội ĐKSSYN cấp trên (cấp Khu Tây Nam Bộ hoặc cấp Tây Nam

Bộ) nhằm có sự chỉ đạo thống nhất đối với Hội ĐKSSYN các tỉnh, thành phố vùng Tây

Nam Bộ hiện nay hay không ? Có :  ; Không : 

3.2. Có nhất thiết tất cả các tỉnh, thành phố vùng Tây Nam Bộ có Phật giáo Nam tông

Khmer đều có Hội ĐKSSYN hay không? Có :  ; Không : 

3.3. Hiện tại có 8/9 tỉnh, thành phố vùng TNB có chùa Khmer đã củng cố, kiện toàn

và tái lập Hội ĐKSSYN. Riêng đối với tỉnh An Giang có 66 chùa Khmer (47 chùa thuộc

hệ phái Mahanikai, 19 chùa thuộc hệ phái Thommadut) có nên thành lập Hội ĐKSSYN

thuộc tỉnh hay không ? Có :  ; Không : 

3.4. Cần đổi tên gọi : Hội Đoàn kết sư sãi yêu nước như hiện nay bằng một tên gọi

nào khác cho phù hợp với vai trò trong thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hay không?

Có :  ; Không : 

185

Ví dụ : Tên gọi khác như : Hội Đoàn kết sư sãi hoặc Hội Sư sãi Khmer

3.5. Có cần thống nhất chung tất cả các Hội Đoàn kết sư sãi yêu nước (Hội

ĐKSSYN): về mô hình, cơ cấu tổ chức, tiêu chuẩn hội viên, tên gọi những người đứng đầu

(trưởng, phó), chức năng nhiệm vụ của Hội để dễ dàng phối hợp hoạt động cho tất cả Hội

ĐKSSYN vùng TBN hay không? Có :  ; Không : 

Câu 4: Quý vị có ý kiến nào khác về Hội Đoàn kết sư sãi yêu nước (Hội ĐKSSYN)

hoặc cần kiến nghị gì với Đảng và Nhà nước về chủ trương, chính sách đối với Phật giáo

Nam tông Khmer nói chung, Hội ĐKSSYN nói riêng trong ngôi nhà chung của Giáo hội

Phật giáo Việt Nam?

..................................................................................................................................................

..................................................................................................................................................

..................................................................................................................................................

..................................................................................................................................................

Xin chân thành cảm ơn quý vị, chúc quý vị hưởng thụ được 4 pháp chúc phúc cho

hiện tại của Đức Phật: “Sống lâu, Sắc đẹp, An vui, Sức mạnh”. Hậu lai sẽ thụ hưởng

được 3 cảnh giới: “Cảnh người, Cảnh trời, và Cảnh giới cực lạc”. Trân trọng kính chào!

186

KẾT QUẢ PHIẾU THĂM DÒ Ý KIẾN

I. KẾT QUẢ TỔNG THỂ

PHẦN I: THÔNG TIN CÁ NHÂN (243 PHIẾU)

Đối tượng thăm dò

Số lượng

Tỷ lệ

Ghi chú

Sư sãi

97

39,92

Ban Quản trị chùa

55

22,63

Phật tử

91

37,45

tuổi 15-> 86; Độ trình độ: 28 Sau đại học, 22 đại học, 01 cao đẳng, 161 cấp 2 trở lên, 31 cấp 1

PHẦN II: CÂU HỎI (243 PHIẾU)

Kết quả

Ghi chú

Câu hỏi

Tỷ lệ

Tỷ lệ

Tỷ lệ

Tỷ lệ

a

b

c

d

Câu 1

240

98,77

01

0,41

01

0,41

Câu 2

239

98,35

02

0,82

Ghi chú

Câu hỏi

Kết quả

Câu 3

Tỷ lệ Không Tỷ lệ

Câu 3.1

235

96,71

8

3,29

Câu 3.2

237

97,53

6

2,47

Câu 3.3

240

98,77

3

1,23

Câu 3.4

74

30,45

169

69,55

Câu 3.5

224

91,18

19

7,82

Câu hỏi

Số lượng người có ý kiến

Tỷ lệ

Ghi chú

Câu 4

76

31,3

187

II. KẾT QUẢ CHI TIẾT

1. Tại tỉnh Trà Vinh

PHẦN I: THÔNG TIN CÁ NHÂN (30 PHIẾU)

Đối tượng thăm dò

Số lượng

Ghi chú

Tỷ lệ

Sư sãi

22

73,33

Ban Quản trị chùa

02

6,67

Độ tuổi thấp nhất: 28, cao nhất: 69, trong đó có trình độ: 07 đại học, 01 cao đẳng, 22 cấp II trở lên

Phật tử

06

20.00

PHẦN II: CÂU HỎI (30 PHIẾU)

Câu hỏi

Kết quả

Ghi chú

Tỷ lệ

Tỷ lệ

Tỷ lệ

Tỷ lệ

a

b

c

d

30

100

Câu 1

28

93,34

Câu 2

01

0,33

01

0,33

Câu hỏi

Kết quả

Ghi chú

Câu 3

Tỷ lệ

Tỷ lệ Không

Câu 3.1

28

93,34

02

6,66

Câu 3.2

29

96,67

01

3,33

Câu 3.3

30

100

Câu 3.4

00

00

30

100

Câu 3.5

96,67

01

3,33

Câu hỏi

Số lượng người có ý kiến

Tỷ lệ

Ghi chú

28

93,34

Câu 4

188

2. Tại tỉnh Hậu Giang

PHẦN I: THÔNG TIN CÁ NHÂN (30 PHIẾU)

Đối tượng thăm dò

Số lượng

Ghi chú

Tỷ lệ

Sư sãi

16

53,34

Ban Quản trị chùa

11

36,66

Phật tử

03

10,00

Các đối tượng thăm dò có độ tuổi thấp nhất là 22, cao nhất là 78, trong đó có trình độ: 02 đại học, 23 cấp II trở lên, 05 cấp I

PHẦN II: CÂU HỎI (30 PHIẾU)

Câu hỏi

Kết quả

Ghi chú

Tỷ lệ

Tỷ lệ

Tỷ lệ

Tỷ lệ

a

b

c

d

30

Câu 1

100

30

Câu 2

100

Câu hỏi

Kết quả

Ghi chú

Câu 3

Tỷ lệ

Tỷ lệ

Không

Câu 3.1

30

100

Câu 3.2

30

100

Câu 3.3

30

100

Câu 3.4

0

00

30

100

Câu 3.5

29

01

3,33

Câu hỏi

Số lượng người có ý kiến

Tỷ lệ

Ghi chú

Câu 4

0

0

189

3. Tại tỉnh Vĩnh Long

PHẦN I: THÔNG TIN CÁ NHÂN (30 PHIẾU)

Đối tượng thăm dò

Số lượng

Tỷ lệ

Ghi chú

Sư sãi

06

20,00

Ban Quản trị chùa

19

63,34

Phật tử

05

16,66

Các đối tượng thăm dò có độ tuổi thấp nhất là 37, cao nhất là 82, trong đó có trình độ: 24 cấp II trở lên, 6 cấp I

PHẦN II: CÂU HỎI (30 PHIẾU)

Câu hỏi

Kết quả

Ghi chú

Tỷ lệ

Tỷ lệ

Tỷ lệ

Tỷ lệ

a

b

c

d

30

Câu 1

100

30

Câu 2

100

Câu hỏi

Kết quả

Ghi chú

Câu 3

Tỷ lệ

Tỷ lệ

Không

Câu 3.1

30

100

Câu 3.2

30

100

Câu 3.3

30

100

Câu 3.4

01

3,33

29

96,67

Câu 3.5

29

96,67

01

3,33

Câu hỏi

Số lượng người có ý kiến

Tỷ lệ

Ghi chú

Câu 4

00

0

190

4. Tại tỉnh Kiên Giang

PHẦN I: THÔNG TIN CÁ NHÂN (46 PHIẾU)

Đối tượng thăm dò

Số lượng

Ghi chú

Tỷ lệ

Sư sãi

27

58,70

Ban Quản trị chùa

01

2,17

Phật tử

18

39,13

Đối tượng thăm dò có độ tuổi thấp nhất là 15, cao nhất là 33, trong đó có trình độ: 01 đại học, 43 cấp II trở lên, 02 cấp I

PHẦN II: CÂU HỎI ( 46 PHIẾU)

Câu hỏi

Kết quả

Ghi chú

Tỷ lệ

Tỷ lệ

Tỷ lệ

Tỷ lệ

a

b

c

d

46

Câu 1

100

46

Câu 2

100

Câu hỏi

Kết quả

Ghi chú

Câu 3

Tỷ lệ

Tỷ lệ

Không

Câu 3.1

46

100

Câu 3.2

46

100

Câu 3.3

46

100

Câu 3.4

40

86,96

06

13,04

Câu 3.5

46

100

Câu hỏi

Số lượng người có ý kiến

Ghi chú

Tỷ lệ

Câu 4

01

2,17

191

5. Tại An Giang

PHẦN I: THÔNG TIN CÁ NHÂN ( 27 PHIẾU)

Đối tượng thăm dò

Số lượng

Ghi chú

Tỷ lệ

Sư sãi

08

29,62

Ban Quản trị chùa

11

40, 76

Các đối tượng thăm dò có độ tuổi thấp nhất là 18, cao nhất là 86, trong đó có trình độ: 11 cấp II trở lên, 16 cấp I

Phật tử

08

29,62

PHẦN II: CÂU HỎI ( 27 PHIẾU)

Câu hỏi

Kết quả

Ghi chú

Tỷ lệ

Tỷ lệ

Tỷ lệ

Tỷ lệ

b

d

a

c

27

Câu 1

100

26

Câu 2

96,30

01

3,70

Câu hỏi

Kết quả

Ghi chú

Câu 3

Tỷ lệ

Tỷ lệ

Không

Câu 3.1

27

100

00

Câu 3.2

27

100

00

Câu 3.3

27

100

00

Câu 3.4

26

96,30

01

3,70

Câu 3.5

27

100

00

Câu hỏi

Số lượng người có ý kiến

Ghi chú

Tỷ lệ

Câu 4

27

100

192

6. Tại tỉnh Sóc Trăng

PHẦN I: THÔNG TIN CÁ NHÂN (31 PHIẾU)

Đối tượng thăm dò

Số lượng

Tỷ lệ

Ghi chú

Sư sãi

15

48,38

Ban Quản trị chùa

09

29,03

Phật tử

07

22,50

Các đối tượng thăm dò có độ tuổi thấp nhất là 21, cao nhất là 72, trong đó có trình độ: 02 Ths, 03 đại học, 24 cấp II trở lên, 02 cấp I

PHẦN II: CÂU HỎI (31 PHIẾU)

Câu hỏi

Kết quả

Ghi chú

Tỷ lệ

Tỷ lệ

Tỷ lệ

Tỷ lệ

a

b

c

d

Câu 1

31

100

Câu 2

31

100

Câu hỏi

Kết quả

Ghi chú

Câu 3

Tỷ lệ

Tỷ lệ

Không

Câu 3.1

31

100

Câu 3.2

31

100

Câu 3.3

31

100

Câu 3.4

01

3,22

30

96,78

Câu 3.5

27

87,10

04

12,90

Câu hỏi

Số lượng người có ý kiến

Ghi chú

Tỷ lệ

Câu 4

06

19,35

193

7. Tại thành phố Cần Thơ

PHẦN I: THÔNG TIN CÁ NHÂN (23 PHIẾU)

Đối tượng thăm dò

Số lượng

Tỷ lệ

Ghi chú

Sư sãi

02

8,70

Ban Quản trị chùa

02

82,60

Các đối tượng thăm dò có độ tuổi thấp nhất là 20, cao nhất là 70, trong đó có trình độ: 09 đại học, 14 cấp II trở lên,

Phật tử

19

8,70

PHẦN II: CÂU HỎI (23 PHIẾU)

Câu hỏi

Kết quả

Ghi chú

Tỷ lệ

Tỷ lệ

Tỷ lệ

Tỷ lệ

a

b

c

d

Câu 1

23

100

Câu 2

23

100

Câu hỏi

Kết quả

Ghi chú

Câu 3

Tỷ lệ

Tỷ lệ

Không

Câu 3.1

23

100

Câu 3.2

23

100

Câu 3.3

23

100

86,96

Câu 3.4

03

13,04

20

47,82

Câu 3.5

12

51,18

11

Câu hỏi

Số lượng người có ý kiến

Ghi chú

Tỷ lệ

Câu 4

06

26,08

194

8. Tại lớp Cao học Tôn giáo học (Học viện Chính trị khu vực IV - Cần Thơ)

PHẦN I: THÔNG TIN CÁ NHÂN (26 PHIẾU)

Đối tượng thăm dò

Số lượng

Ghi chú

Tỷ lệ

Sư sãi

01

3,84

Ban Quản trị chùa

00

00

Phật tử

25

96,16

Các đối tượng thăm dò có độ tuổi thấp nhất là 32, cao nhất là 50 (trình độ: đang học Cao học)

PHẦN II: CÂU HỎI (26 PHIẾU)

Câu hỏi

Kết quả

Ghi chú

Tỷ lệ

Tỷ lệ

Tỷ lệ

Tỷ lệ

a

b

c

d

24

Câu 1

92,32

01

3,84

01

3,84

25

Câu 2

96,16

01

3,84

Câu hỏi

Kết quả

Ghi chú

Câu 3

Tỷ lệ

Tỷ lệ

Không

20

76,93

06

Câu 3.1

23,07

21

80,77

05

Câu 3.2

19,23

23

88,77

03

Câu 3.3

11,53

03

11,53

23

Câu 3.4

88,47

25

96,16

01

Câu 3.5

3,84

Câu hỏi

Số lượng người có ý kiến

Ghi chú

Tỷ lệ

Câu 4

08

30,76

195

MỘT SỐ HÌNH ẢNH HOẠT ĐỘNG LIÊN QUAN ĐẾN HỘI ĐOÀN KẾT SƯ SÃI YÊU NƯỚC VÙNG TÂY NAM BỘ

Nội dung: Hội ĐKSSYN huyện An Biên tổ chức lễ tổng kết lớp Khmer ngữ,

nhân dịp hè năm 2017, tại chùa Sirivansa - TT. Thứ 3 - tỉnh Kiên Giang

(ngày 28/07/2017) Nguồn: Sưu tầm

Nội dung: Ông Sơn Minh Thắng, Phó trưởng ban TT Ban Chỉ đạo Tây Nam Bộ

đến tham Hội ĐKSSYN tỉnh Sóc Trăng nhân dịp Chôl Chnăm Thmây (vào năm mới)

Nguồn: Tác giả chụp tại chùa Âng, ngày 13/4/2016

PHỤ LỤC 3

Nội dung: Hội Đoàn kết Sư sãi yêu nước thành phố Rạch Giá tỉnh Kiên Giang

tham gia hoạt động từ thiện - xã hội

Nguồn: Sưu tầm

Nội dung: Ông Huỳnh Minh Đoàn, Phó trưởng Ban Chỉ đạo Tây Nam Bộ thăm Ban

Chấp hành Hội ĐKSSYN tỉnh Bạc Liêu nhân dịp lễ Sene Đôn Ta

Nguồn: Tác giả chụp tại chùa phường 7 (nơi đặt Văn phòng Hội)

(ngày 25/9/2015)

196

Nội dung: Ban Dân vận Trung ương và Ban Chỉ đạo Tây Nam Bộ phối hợp tổ chức

Tọa đàm về tổ chức và hoạt động của Hội Đoàn kết Sư sãi yêu nước trong

Phật giáo Nam tông Khmer - Thực trạng và giải pháp

Nguồn: Tác giả chụp tại buổi tọa đàm ở Cần Thơ, ngày 20/5/2014

Nội dung: Ban chấp hành Hội Đoàn kết Sư sãi yêu nước tỉnh Vĩnh Long

ra mắt trước Đại hội đại biểu nhiệm kỳ I (2009-2014), ngày 05/11/2009

Nguồn: Sưu tầm

197

Nội dung: Nguồn lực Tăng sĩ trong cộng đồng người Khmer hiện nay

Nguồn: Sưu tầm

Nội dung: Tăng sĩ Khmer tham gia lao động và bảo vệ môi trường

Nguồn: Sưu tầm

198

Nội dung: Tăng sĩ Khmer tham gia học nghề điêu khắc tại điểm chùa

Nguồn: Sưu tầm

Nội dung: Tăng sĩ và Phật tử Khmer tham gia học Ngữ văn Khmer - Pali

Nguồn: Sưu tầm

199

Nội dung: Lực lượng Công an tỉnh Kiên Giang thăm Trụ trì chùa Thôn Dôn,

thành phố Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang

Nguồn: Sưu tầm

200