LUẬN VĂN:
Đội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp các Hội Khoa
học và Kỹ thuật Việt Nam trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta hiện nay
mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong thời đại ngày nay, cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại đã,
đang tác động mạnh mẽ, sâu sắc đến mọi lĩnh vực của đời sống xã hội ở tất cả các quốc
gia và dân tộc trên thế giới. Đối với nước ta, trong sự nghiệp CNH, HĐH, cuộc cách
mạng KH&CN vừa tạo ra nhiều cơ hội, đồng thời cũng đem lại nhiều thách thức lớn. Vì
vậy, nếu đất nước ta biết tiếp thu có chọn lọc, ứng dụng kịp thời và phù hợp những thành
tựu mới nhất của KH&CN vào thực tiễn sẽ tạo điều kiện cho lực lượng sản xuất phát
triển, ngược lại, nếu không biết tiếp thu và ứng dụng kịp thời thì khoảng cách chênh lệch
về trình độ giữa nước ta với các nước tiên tiến ngày một xa hơn, sự nghiệp xây dựng
CNXH cũng khó khăn hơn nhiều.
Nhận thức rõ vấn đề này, trong Nghị quyết Đại hội IX, Đảng ta đã khẳng định:
"Phát triển khoa học và công nghệ cùng với phát triển giáo dục và đào tạo là quốc sách
hàng đầu, là nền tảng và động lực đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước" [25,
tr. 112].
Với tư cách là chủ thể chính sáng tạo ra tri thức khoa học, đội ngũ trí thức Việt
Nam chính là lực lượng đi đầu trong việc xây dựng nền tảng KH&CN cho sự phát triển
của đất nước. Cho nên, nước ta cần phải phát huy tối đa tiềm năng trí tuệ của đội ngũ trí
thức, đặc biệt là đội ngũ trí thức thuộc lĩnh vực KH&CN.
Đội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Liên
hiệp Hội) là lực lượng nòng cốt của trí thức KH&CN Việt Nam, trong những năm qua
đội ngũ này đã có những đóng góp to lớn vào đời sống chính trị, xã hội của đất nước:
Tham gia chuẩn bị, góp ý kiến cho các văn kiện, nghị quyết của Đảng và Nhà nước; phổ
biến kiến thức, khuyến khích đưa nhanh các tiến bộ khoa học - kỹ thuật vào sản xuất; Tư
vấn, phản biện, giám định xã hội về khoa học - công nghệ, kinh tế - xã hội. Vì vậy, để tạo
điều kiện cho đội ngũ này phát huy hơn nữa vai trò của mình trong sự nghiệp CNH, HĐH
đất nước, ngày 11 - 11 - 1998, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã ra Chỉ thị số 45 -
CT/TW: Về đẩy mạnh hoạt động của Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam.
Sau bảy năm thực hiện Chỉ thị của Ban chấp hành Trung ương Đảng, đội ngũ trí thức
thuộc Liên hiệp Hội đã đạt được nhiều thành tựu trong một số lĩnh vực quan trọng, góp
phần tạo tiền đề để KH&CN Việt Nam tiếp tục phát triển.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đã đạt được, đội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp
Hội còn tồn tại một số hạn chế nhất định: Hiệu quả hoạt động chưa tương xứng với tiềm
năng của đội ngũ này, chưa đáp ứng tốt những yêu cầu của quá trình đẩy mạnh CNH,
HĐH nói riêng và sự nghiệp xây dựng CNXH nói chung ở nước ta trong thời kỳ đổi mới.
Để góp phần làm rõ vai trò, đặc điểm và nhằm phát huy tiềm năng trí tuệ của đội
ngũ trí thức thuộc Liên hiệp Hội trong quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước, tôi đã
chọn đề tài : "Đội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam
trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta hiện nay " làm đề tài luận
văn thạc sĩ triết học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Cho đến nay, ở nước ta đã có nhiều công trình khoa học nghiên cứu về đội ngũ
trí thức với nhiều khía cạnh, quy mô khác nhau, trong đó có một số công trình khoa học
đã đề cập đến các góc độ mà đề tài cần nghiên cứu tham khảo và kế thừa:
- "Trí thức Việt Nam trong sự nghiệp đổi mới xây dựng đất nước" (1995) - Đỗ
Mười, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội : Tác phẩm tập hợp những bài phát biểu của Đỗ
Mười về trí thức. Qua đó đã khẳng định quan điểm của Đảng ta về vai trò của trí thức và
nhiệm vụ của đội ngũ trí thức Việt Nam trong sự nghiệp đổi mới xây dựng đất nước.
- "Trí thức Việt Nam thực tiễn và triển vọng" (1995) - Phạm Tất Dong (chủ biên),
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội: Đây là một công trình nghiên cứu khá công phu, sâu sắc
về đội ngũ trí thức Việt Nam. Từ lý luận đến thực tiễn, tác giả đã đi sâu phân tích quan
niệm hiện đại về "trí thức", trên cơ sở đó nghiên cứu đội ngũ trí thức Việt Nam qua các
thời kỳ lịch sử của thế kỷ 20. Từ việc nghiên cứu thực trạng về số lượng, cơ cấu... đến
tâm trạng, nguyện vọng của đội ngũ trí thức, tác giả đã đưa ra một số khuyến nghị nhằm
phát triển đội ngũ trí thức nước ta hiện nay.
- "Định hướng phát triển đội ngũ trí thức Việt Nam trong công nghiệp hóa, hiện
đại hóa" (2001) - GS. Phạm Tất Dong (chủ biên), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội : Trên
cơ sở nghiên cứu khái quát tình hình CNH, HĐH đất nước và một số yêu cầu đặt ra về
nguồn lực trí tuệ; tác giả đã khẳng định vai trò của đội ngũ trí thức trong CNH, HĐH,
làm rõ ưu, nhược điểm của đội ngũ trí thức ở nước ta, từ đó đề xuất những định hướng
trong hoạch định chính sách để xây dựng đội ngũ trí thức Việt Nam giai đoạn 2000 -
2010.
- "Trí thức trong công cuộc đổi mới đất nước" (1998) - PTS. Nguyễn Quốc Bảo -
Đoàn Thị Lịch, Nxb Lao động, Hà Nội: Tác phẩm đã khái quát tình hình biến đổi của trí
thức Việt Nam trong công cuộc đổi mới, phân tích những hạn chế, ưu điểm của trí thức
Việt Nam, trên cơ sở đó đề ra những giải pháp nhằm xây dựng đội ngũ trí thức nhằm đáp
ứng yêu cầu của công cuộc đổi mới đất nước.
- "Một số vấn đề về trí thức Việt Nam" (1998) - Nguyễn Thanh Tuấn, Nxb Chính
trị quốc gia, Hà Nội: Tác giả đã đi sâu nghiên cứu về trí thức, vai trò của trí thức nói
chung đối với tiến bộ xã hội; làm rõ những đặc điểm của trí thức Việt Nam trong tiến
trình lịch sử và dự báo xu hướng phát triển của đội ngũ này. Trên cơ sở đó, tác giả đã đề
ra những phương hướng đổi mới công tác quản lý và chính sách kinh tế - xã hội đối với
đội ngũ trí thức Việt Nam trong giai đoạn mới.
Một số bài viết về trí thức như: "Quan điểm và chính sách của V.I. Lênin đối với trí
thức trong cách mạng xã hội chủ nghĩa" của Trịnh Quốc Tuấn, Nghiên cứu lý luận, số 4,
1995; "Những bài học từ quan điểm của Lênin về trí thức', Tạp chí Thông tin khoa học xã
hội, số 4/1996; "Bài học từ những quan điểm của Hồ Chí Minh về trí thức, Tạp chí Lịch sử
Đảng, số 2/2001; "Trí thức trong khối liên minh công - nông - trí vì sự nghiệp xây dựng đất
nước hiện nay", Tạp chí Cộng sản, tháng 11/1999 "Bài học từ những quan điểm của chủ
nghĩa Mác về trí thức" trong cuốn "Học thuyết Mác với sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam", Nxb
Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2003 của PGS.TS. Phan Thanh Khôi... Trong đó, các tác giả đã
đi sâu nghiên cứu các vấn đề: bản chất giai cấp của trí thức, chính sách sử dụng các chuyên
gia tư sản, cải tạo trí thức cũ, đào tạo trí thức mới, xây dựng khối liên minh công - nông - trí,
các giải pháp phát huy vai trò của trí thức...
Bên cạnh đó, có một số Luận án tiến sĩ đã nghiên cứu về vị trí, vai trò, đặc điểm,
động lực sáng tạo của trí thức trong quá trình cách mạng Việt Nam như: "Vị trí và vai trò
của tầng lớp trí thức trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam" của Phạm Việt Dũng,
Luận án PTS triết học, Hà Nội, 1988; "Động lực của trí thức trong lao động sáng tạo ở
nước ta hiện nay " của Phan Thanh Khôi, Luận án PTS triết học, Hà Nội, 1992; "Xây
dựng đội ngũ trí thức khoa học Mác - Lênin trong các trường Đại học ở nước ta hiện nay"
của Phạm Văn Thanh, Luận án tiến sĩ triết học, Hà Nội, 2001; "Trí thức người dân tộc
thiểu số ở Việt Nam trong công cuộc đổi mới" của Trịnh Quang Cảnh, Luận án tiến sĩ
triết học, Hà Nội, 2001; "Phát huy vai trò nguồn lực trí thức khoa học xã hội và nhân văn
trong quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay" của Nguyễn Đình Minh, Luận án tiến sĩ triết
học, Hà Nội, 2003; "Vai trò của trí thức thủ đô Hà Nội trong sự nghiệp CNH, HĐH" của
Nguyễn Xuân Phương, Luận án tiến sĩ triết học, Hà Nội, 2004...
Ngoài ra, còn có nhiều công trình khoa học, bài viết được đăng trên các Tạp chí
liên quan ít nhiều đến trí thức, đến khoa học - công nghệ trong thời kỳ CNH, HĐH.
Tuy nhiên, trên thực tế, chưa có một đề tài khoa học, một công trình nghiên cứu
nào đề cập đến đội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam
dưới góc độ luận văn Thạc sĩ Triết học, chuyên ngành chủ nghĩa xã hội khoa học. Do đó,
đề tài nghiên cứu của tôi không trùng lắp với bất kỳ công trình khoa học nào trước đó.
3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn
- Mục đích của luận văn:
Trên cơ sở làm rõ thực trạng chung của đội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp các Hội
Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam, Luận văn nêu lên những quan điểm và giải pháp để xây
dựng và phát huy vai trò của đội ngũ này trong sự nghiệp CNH, HĐH ở nước ta hiện nay.
- Nhiệm vụ của luận văn:
+ Trình bày một cách khái quát về đội ngũ trí thức Việt Nam hiện nay và vai trò
của đội ngũ này trong sự nghiệp CNH, HĐH đất nước, phân tích những đặc điểm cơ bản
của đội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam.
+ Phân tích thực trạng của đội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp các Hội Khoa học và
Kỹ thuật Việt Nam, xu hướng vận động của đội ngũ này trong tiến trình đẩy mạnh CNH,
HĐH đất nước.
+ Đề xuất một số quan điểm và giải pháp chung nhằm xây dựng và phát huy
vai trò đội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
- Đối tượng nghiên cứu: Đội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp các Hội Khoa học
và Kỹ thuật Việt Nam, nhất là đặc điểm, vai trò của đội ngũ này trong thời kỳ đẩy
mạnh CNH, HĐH đất nước.
- Phạm vi nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu hoạt động của đội ngũ trí thức
thuộc Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam ở Trung ương. Thời gian từ
Đại hội lần thứ VIII của Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), và nhất là từ khi có Chỉ
thị 45-CT/TW (1998) cho đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
- Thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh và các Văn kiện, Nghị quyết của Đảng ta về trí thức. Luận văn cũng kế thừa
các nhân tố hợp lý của những thành tựu nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn liên
quan đến đề tài.
- Phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa
duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, kết hợp các phương pháp phân tích - tổng
hợp, lôgíc - lịch sử,...
6. Đóng góp mới về khoa học của luận văn
- Làm rõ đặc điểm và vai trò của đội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp các Hội
Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam.
- Đề xuất một số quan điểm, giải pháp xây dựng và phát huy vai trò của đội
ngũ này, đáp ứng yêu cầu của đổi mới và đẩy mạnh CNH, HĐH ở nước ta hiện nay.
7. ý nghĩa của luận văn
- Góp phần làm luận cứ khoa học cho việc xây dựng chính sách đối với đội ngũ
trí thức thuộc Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam.
- Làm tài liệu tham khảo cho nghiên cứu và giảng dạy những chuyên đề liên
quan đến trí thức trong các môn lý luận chính trị Mác - Lênin.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, luận văn
gồm 3 chương, 7 tiết.
Chương 1
đội ngũ trí thức thuộc liên hiệp
các hội khoa học và kỹ thuật việt nam - một bộ phận của trí thức việt nam hiện nay
1.1. khái quát về đội ngũ trí thức Việt Nam hiện nay và vai trò của đội ngũ
này trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
1.1.1. Khái quát về đội ngũ trí thức Việt Nam hiện nay
Trí thức ở nước ta được đào tạo từ nhiều nguồn khác nhau. Một số được đào tạo từ
trước cách mạng Tháng Tám, số lượng này đến nay không nhiều. Trong thời kỳ đấu tranh
giành độc lập dân tộc, thống nhất đất nước, Đảng và Nhà nước ta đã cử một số cán bộ đi
học tập và nghiên cứu ở nước ngoài để chuẩn bị cho công cuộc khôi phục và xây dựng
đất nước sau này. Còn lại, phần lớn trí thức nước ta được đào tạo ở các nước XHCN
trước đây và trong công cuộc đổi mới của đất nước. Trong thời kỳ mở cửa hội nhập với
quốc tế, cơ hội học tập và nghiên cứu tại các nước trên thế giới được mở rộng. Vì vậy số
lượng sinh viên Việt Nam đi du học ngày càng nhiều, lực lượng này đã bổ sung và làm
phong phú hơn nguồn đào tạo của đội ngũ trí thức Việt Nam.
Hiện nay, nước ta có hơn 1,8 triệu người đã tốt nghiệp cao đẳng, đại học, về cơ
bản có thể xem đây là trí thức. Năm 2000 nước ta mới có 1,3 triệu trí thức, sau ba năm
(từ năm 2000 đến năm 2003) số lượng trí thức tăng lên thành 1.870.315 người [70, tr.
149]. Điều đó cho thấy, ngành GD&ĐT nước ta đã có bước phát triển vượt bậc trong sự
nghiệp giáo dục và đào tạo nguồn nhân lực cho Việt Nam. Ngoài ra, đội ngũ trí thức Việt
Nam còn bổ sung từ những người tự học vươn lên để có học vấn tương đương và trong
thực tế có những đóng góp nhất định cho khoa học nước ta.
Bên cạnh đó, còn hơn 300.000 trí thức Việt Kiều - một bộ phận của trí thức dân
tộc Việt Nam. Phần lớn họ đang sinh sống ở các nước phát triển, được tiếp cận với tri
thức KH&CN hiện đại của thế giới. Trong đó, có nhiều người có trình độ cao, hiện đang
làm việc tại các Viện nghiên cứu, các trường đại học lớn trên thế giới.
Ngoài ra, nước ta có một số lượng khá đông sinh viên ở các trường cao đẳng, đại
học trên toàn quốc. Sinh viên chính là nguồn bổ sung vào lực lượng trí thức trong tương
lai. Chính vì vậy, thông qua phong trào sinh viên nghiên cứu khoa học, đã có một số
lượng công trình của đội ngũ này được ứng dụng rộng rãi và đem lại hiệu quả kinh tế - xã
hội không nhỏ.
Số lượng trí thức tăng lên trong những năm qua là thành quả to lớn của sự nghiệp
giáo dục và đào tạo Việt Nam trong điều kiện đất nước còn gặp nhiều khó khăn. Tuy
nhiên, so với số dân hiện nay của nước ta với khoảng hơn 80 triệu người, tỷ lệ trí thức
trong tổng số dân còn rất thấp, chiếm khoảng hơn 2% dân số của cả nước.
Về trình độ, trong số 1,8 triệu người tốt nghiệp cao đẳng, đại học; có hơn 25.000
thạc sĩ, tiến sĩ; 5531 giáo sư, phó giáo sư và 519 tiến sĩ khoa học [70, tr. 149]. Trong
ba năm (từ năm 2000 - 2003) trình độ của đội ngũ trí thức ở nước ta không ngừng được
nâng cao. Năm 2000, nước ta mới chỉ có 10.000 thạc sĩ, 13.500 tiến sĩ và tiến sĩ khoa
học, số người được phong hàm giáo sư là 927, phó giáo sư là 3.419 người [3, tr. 18].
Đội ngũ trí thức ở nước ta có tiềm năng trí tuệ và khả năng sáng tạo cao. Điều đó
được thể hiện rõ nét nhất thông qua sản phẩm tinh thần của đội ngũ này. Nhiều kết quả
nghiên cứu khoa học được bạn bè, đồng nghiệp quốc tế đánh giá cao và có nhiều công
trình được ứng dụng đã góp phần đem lại hiệu quả kinh tế - xã hội to lớn cho đất nước.
Ngoài ra, số lượng các công trình đạt những giải thưởng lớn và có uy tín như
Giải thưởng Hồ Chí Minh, Giải thưởng Nhà nước về Khoa học và Công nghệ, Văn học
và Nghệ thuật và gần đây là Giải thưởng sáng tạo KH&CN Việt Nam đã phần nào chứng
minh chất lượng cũng như sức sáng tạo không nhỏ của đội ngũ trí thức nước ta.
Đội ngũ trí thức nước ta có lòng yêu nước và gắn bó với nhân dân lao động, tin
tưởng vào sự nghiệp đổi mới và sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước. Sự đóng góp to lớn
của đội ngũ này vào sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của đất nước thể hiện rộng khắp
trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Đội ngũ trí thức ngành khoa học xã hội đã góp phần bổ sung, lý giải và làm rõ
thêm những quan điểm của Đảng ta về con đường đi lên CNXH ở Việt Nam. Nhiều kết
luận khoa học đã được dùng làm cơ sở để soạn thảo các nghị quyết, hoạch định các chủ
trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước ta. Trong khoa học tự nhiên, các kết
quả nghiên cứu của đội ngũ trí thức về điều kiện tự nhiên, tài nguyên thiên nhiên và môi
trường đã góp phần cung cấp những luận cứ cho Đảng và Nhà nước đưa ra các chủ
trương, chính sách phát triển kinh tế, bảo vệ môi trường, đồng thời tạo cơ sở cho quá
trình tiếp thu và làm chủ những công nghệ mới như chế tạo vật liệu, những tiến bộ về di
truyền học, sinh học, khoa học thông tin...
Đội ngũ trí thức khoa học công nghệ chủ yếu hướng hoạt động nghiên cứu của
mình vào đổi mới công nghệ trong các ngành sản xuất, dịch vụ, nâng cao năng suất lao
động, chất lượng, hiệu quả của sản xuất. Do đó, đã có nhiều thành tựu về khoa học công
nghệ mới được ứng dụng góp phần nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm, đặc biệt
trong nông nghiệp với việc ứng dụng các công nghệ kỹ thuật hiện đại, công nghệ sinh
học, di truyền... đã góp phần đem lại hiệu quả kinh tế - xã hội cao. Bên cạnh đó, đội ngũ
trí thức khoa học công nghệ đã có những cống hiến to lớn cho nền công nghiệp Việt
Nam: tiếp thu và ứng dụng những thành tựu khoa học công nghệ tiên tiến của thế giới vào
Việt Nam đã tạo cơ sở để nền công nghiệp nước ta có bước phát triển mạnh, chuyển dần
theo hướng hiện đại hóa. Đặc biệt có nhiều lĩnh vực đã bước đầu tiếp cận với công nghệ
tiên tiến của thế giới như: công nghệ tự động hóa, công nghệ laser, công nghệ xây dựng
cầu, chế tạo thiết bị bưu chính viễn thông, công nghệ gen, công nghệ sinh học...
Như vậy, với những đóng góp của đội ngũ trí thức nước ta trong công cuộc đổi
mới đất nước đã thể hiện tiềm năng trí tuệ to lớn đóng góp vào sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước, nâng cao đời sống của nhân dân và củng cố vững chắc hơn
khối liên minh công nhân - nông dân - trí thức.
Tuy nhiên, Đội ngũ trí thức của nước ta còn có những hạn chế, trình độ của đội
ngũ trí thức chưa đáp ứng kịp yêu cầu phát triển của sự nghiệp CNH, HĐH đất nước, chủ
yếu là tốt nghiệp cao đẳng, đại học. Đội ngũ trí thức có trình độ sau đại học ở nước ta
hiện nay có khoảng hơn 30.000 người (chiếm hơn 1,6% tổng số trí thức Việt Nam).
Về cơ cấu lứa tuổi, tuổi bình quân của cán bộ khoa học công nghệ nước ta hiện
nay là 40,2 (nam: 42,7 tuổi, nữ: 37,0 tuổi). Số trí thức có trình độ sau đại học tuổi khá
cao, cụ thể: tuổi bình quân của người có trình độ cao đẳng là 38,2 tuổi; đại học: 40,9 tuổi;
thạc sĩ: 42,6 tuổi và tiến sĩ là 52,5 tuổi. Số cán bộ khoa học công nghệ ở độ tuổi dưới 25
chỉ chiếm 9,06%, trong khi số cán bộ này ở độ tuổi trên 55 lên tới 13,55% [3, tr.19]. Đặc
biệt, số trí thức có trình độ cao như tiến sĩ, phó giáo sư, giáo sư và cán bộ đầu ngành có
tuổi rất cao. Sự chênh lệch về độ tuổi giữa các trình độ là khá cao, phản ánh sự thiếu hụt
lực lượng của đội ngũ trí thức trẻ có trình độ cao trong việc kế cận các thế hệ trí thức cha
anh.
Về cơ cấu ngành nghề của đội ngũ trí thức, trong số 23 ngành đào tạo, giáo viên
chiếm vị trí hàng đầu trong tổng số trí thức KH&CN (34,6%), tiếp theo là ngành kinh
doanh và quản lý (19,3%), thứ ba là ngành kỹ thuật (8,1%), ngành nông, lâm, ngư nghiệp
chiếm vị trí thứ bảy (4,41%), còn ngành chế tạo - chế biến ở vị trí thứ 17 (0,52%) [3, tr.
19]. Qua đó cho thấy, cơ cấu ngành của đội ngũ trí thức nước ta còn bất hợp lý, phần lớn
là trí thức hoạt động trong lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn, các ngành thuộc khoa
học công nghệ chiếm tỷ lệ rất thấp. Chính vì vậy, nước ta đi lên xây dựng CNXH từ một
nước nông nghiệp lạc hậu, trải qua nhiều năm chiến tranh, nhưng với số lượng cán bộ có
trình độ đại học thuộc lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp chỉ có 4,41%. Do đó khó đáp ứng
được yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa nông nghiệp và nông thôn. Để thực hiện
CNH, HĐH thì cần tăng số lượng trí thức trong các ngành kỹ thuật, nhất là một số ngành
công nghệ mới như: công nghệ tự động hóa, công nghệ thông tin, công nghệ vật liệu mới,
công nghệ sinh học…
Mặt khác, nếu theo các cấp đào tạo thì một số ngành có số lượng trí thức ít
nhưng trình độ của đội ngũ này lại cao hơn những ngành khác. Số người có trình độ sau
đại học chủ yếu ở các ngành Kinh doanh và quản lý, Khoa học tự nhiên, Kỹ thuật, Y tế.
(Xem bảng 1).
Bảng 1.1: Cơ cấu cán bộ khoa học công nghệ và thứ tự xếp hạng
các ngành đào tạo theo các cấp đào tạo đại học, thạc sĩ và tiến sĩ.
Đại học Thạc sĩ Tiến sĩ
STT Ngành đào tạo Cơ Cơ cấu Thứ Cơ cấu Thứ Thứ cấu (%) hạng (%) hạng hạng (%)
1 Khoa học tự nhiên 2,6 10 6,4 7 15,9 1
2 Kỹ thuật 9,3 3 7,3 6 14,7 2
3 Kinhdoanh và quản lý 25,3 1 15,3 1 10,3 3
4 Nhân văn 11,9 3 10,2 4 6,1 5
7,5 4 5 Y tế 14,7 2 8,4 5
7 6 Nông, Lâm, Ngư nghiệp 5,9 4,8 8 7,6 6
7 Khoa học sự sống 0,5 21 2,3 11 7,0 7
8 Khoa học xã hội và Hành 4,3 8 9,8 4 6,0 8
vi
9 Toán và thống kê 0,9 15 3,7 10 5,8 9
10 Xây dựng và Kiến trúc 6,0 6 4,5 9 3,9 10
11 Khoa học GD&ĐT 17,2 2 7,7 5 2,7 11
Nguồn :[3, tr. 21].
Tuy nhiên, đội ngũ trí thức ở nước ta hiện nay tập trung chủ yếu ở các thành phố
lớn như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh và các vùng đồng bằng. Theo số liệu thống kê
về tình hình lao động việc làm ở Việt Nam năm 2003, số trí thức tập trung nhiều nhất là
đồng bằng sông Hồng (chiếm 33,95% tổng số người tốt nghiệp cao đẳng, đại học của cả
nước), thứ hai là vùng Đông Nam Bộ (23,12%), tiếp theo là vùng Đồng bằng sông Cửu
Long (10,55%), Đông Bắc (9,41%), Bắc Trung Bộ (8,19%), Duyên hải Nam Trung Bộ
(9,18%), Tây Nguyên (3,83%), thấp nhất là vùng Tây Bắc (1,77%) [70, tr. 135]. Sự phân
bố trí thức không đồng đều giữa các vùng là một trong những yếu tố làm chậm quá trình
thu hẹp khoảng cách chênh lệch giàu - nghèo, trình độ phát triển giữa các vùng, miền
trong cả nước. Trong khi các vùng đồng bằng có điều kiện thuận lợi và tiềm năng trí tuệ
lớn có tốc độ phát triển, thì ngược lại ở các vùng trung du, miền núi có điều kiện khó
khăn thì lại càng ít cơ hội vươn lên phát triển do nguồn lực trí tuệ tập trung không nhiều.
Nhìn chung, trong điều kiện kinh tế - xã hội nước ta còn khó khăn, sự phát triển của
đội ngũ trí thức Việt Nam những năm qua là một thành quả đáng tự hào. Trước những yêu
cầu của quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH, để xây dựng và phát huy vai trò của đội ngũ trí thức
ở nước ta, cần phải khắc phục những hạn chế trên, nhất là về trình độ, số lượng, độ tuổi.
Đồng thời cũng cần cân đối lại cơ cấu ngành nghề và sự phân bố đội ngũ trí thức giữa các
vùng, miền của cả nước.
1.1.2. Trí thức Việt Nam là lực lượng đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước
Nước ta tiến hành xây dựng CNXH trong điều kiện thế giới có nhiều sự biến
động. Cuộc cách mạng KH&CN hiện đại một mặt tạo ra những thời cơ, tiền đề thuận lợi
để đất nước ta phát triển, mặt khác nó cũng đem lại nhiều thách thức to lớn, nhất là trong
điều kiện trình độ của lực lượng sản xuất ở nước ta còn lạc hậu. Chính vì vậy, CNH,
HĐH đất nước được Đảng ta coi là nhiệm vụ trung tâm, xuyên suốt thời kỳ quá độ lên
CNXH.
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Đảng ta đã đề ra nhiệm vụ cho chặng
đường đầu tiên của thời kỳ này là chuẩn bị tiền đề cho CNH, HĐH đất nước. Nhằm cụ
thể hóa tinh thần của Đại hội, Nghị quyết Trung ương 7 (khóa VII) đã nêu rõ:
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn
diện các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế, xã hội từ
sử dụng lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao
động cùng với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại, dựa
trên sự phát triển của công nghiệp và tiến bộ khoa học - công nghệ, tạo ra năng
suất lao động xã hội cao [19, tr. 65].
Như vậy, thực chất của quá trình CNH, HĐH đất nước là cải biến lao động thủ
công, lạc hậu thành lao động sử dụng kỹ thuật tiên tiến, hiện đại để đạt tới năng suất lao
động xã hội cao dựa trên nền tảng của KH&CN.
Cũng chính tại Hội nghị này, Đảng ta đã nêu ra quan điểm chỉ đạo đối với quá
trình CNH, HĐH như sau:
- Công nghiệp hóa, hiện đại hóa phải theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
- Giữ vững độc lập tự chủ đi đôi với mở rộng hợp tác quốc tế; đa phương hóa, đa
dạng hóa quan hệ với nước ngoài, kết hợp kinh tế với quốc phòng- an ninh. Xây dựng nền
kinh tế mở, hướng mạnh về xuất khẩu, đồng thời thay thế nhập khẩu bằng những sản phẩm
trong nước sản xuất có hiệu quả.
- CNH, HĐH là sự nghiệp của toàn dân, của mọi thành phần kinh tế, trong đó
kinh tế nhà nước là chủ đạo; được vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà
nước.
- Lấy việc phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh
và bền vững. Động viên toàn dân cần kiệm xây dựng đất nước. Tăng trưởng kinh tế gắn với
cải thiện đời sống nhân dân, phát triển văn hóa, giáo dục, thực hiện tiến bộ và công bằng xã
hội, bảo vệ môi trường.
- Khoa học, công nghệ là nền tảng của CNH, HĐH. Kết hợp công nghệ truyền
thống với công nghệ hiện đại; tranh thủ đi nhanh vào hiện đại ở những khâu quyết định.
- Lấy hiệu quả kinh tế - xã hội làm tiêu chuẩn cơ bản để xác định phương án phát
triển, lựa chọn dự án đầu tư và công nghệ. Đầu tư chiều sâu để khai thác tối đa năng lực
sản xuất hiện có. Trong phát triển mới, ưu tiên quy mô vừa và nhỏ, công nghệ tiên tiến,
thu hồi vốn nhanh; đồng thời xây dựng một số công trình quy mô lớn thật cần thiết và có
hiệu quả. Tập trung thích đáng nguồn lực cho các lĩnh vực, các địa bàn trọng điểm; đồng
thời quan tâm đáp ứng những nhu cầu phát triển thiết yếu của mọi vùng trong nước; có
chính sách hỗ trợ những vùng khó khăn.
Trên cơ sở tổng kết mười năm đổi mới và năm năm thực hiện Nghị quyết Trung
ương 7 (khóa VII), trước bối cảnh thế giới có nhiều biến đổi, Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ VIII của Đảng một lần nữa đã xác định: nước ta đang đứng trước thời kỳ phát triển mới
- đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước và đã đề ra mục tiêu đến năm 2020, đưa nước ta cơ bản
trở thành một nước công nghiệp.
Tiếp tục khẳng định đường lối mà Nghị quyết Đại hội VIII đã đề ra, Đại hội
Đảng toàn quốc lần thứ IX xác định:
Con đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa của nước ta cần có và có thể
rút ngắn thời gian, vừa có những bước tuần tự, vừa có bước nhảy vọt. Phát huy
lợi thế của đất nước, tận dụng mọi khả năng để đạt trình độ công nghệ tiên
tiến, đặc biệt là công nghệ thông tin và công nghệ sinh học, tranh thủ ứng
dụng ngày càng nhiều hơn, ở mức cao hơn và phổ biến hơn những thành tựu
mới về khoa học và công nghệ, từng bước phát triển kinh tế tri thức [25, tr.
91].
Như vậy, chủ trương phát triển "rút ngắn" của Đảng và Nhà nước ta là hoàn toàn
có thể thực hiện được trong điều kiện lịch sử hiện nay. Với những thành tựu về KH&CN
mà nhân loại đạt được đã mở ra cho chúng ta cơ hội thực hiện bước "nhảy vọt", để "đi
tắt", đón đầu theo kịp với trình độ phát triển của các nước mà không cần tiến hành CNH,
HĐH theo trình tự truyền thống mà các nước tư bản chủ nghĩa trước đây đã trải qua.
Tuy nhiên, chúng ta đang đứng trước nhiều vấn đề nan giải về vốn, công nghệ, đặc
biệt là trình độ của người lao động. Để thực hiện được những mục tiêu trên, đòi hỏi Đảng và
Nhà nước ta phải có những chính sách hợp lý để phát triển KH&CN, GD&ĐT, trước hết là
với đội ngũ trí thức trong lĩnh vực này. Đội ngũ trí thức có vai trò quan trọng đối với sự phát
triển của xã hội, đặc biệt trong giai đoạn hiện nay - khi khoa học đã trở thành lực lượng sản
xuất trực tiếp.
Cho nên, khi nghiên cứu lịch sử phát triển của loài người, C.Mác đã đánh giá
cao vị trí, vai trò của đội ngũ trí thức đối với sự tiến bộ của xã hội. Kế thừa những tư
tưởng của C.Mác về trí thức, trong quá trình xây dựng CNXH hiện thực, V.I. Lênin đã
khẳng định:
Không có sự chỉ đạo của các chuyên gia am hiểu các lĩnh vực khoa
học, kỹ thuật và có kinh nghiệm thì không thể chuyển lên chủ nghĩa xã hội
được, vì chủ nghĩa xã hội đòi hỏi một bước tiến có ý thức và có tính chất quần
chúng để đi tới một năng suất lao động cao hơn năng suất của chủ nghĩa tư
bản đã đạt được [46, tr. 217].
Khi nói về vai trò của trí thức đối với cách mạng Việt Nam, chủ tịch Hồ Chí
Minh cũng đã khẳng định: "Trí thức là vốn liếng quý báu của dân tộc", "Những người trí
thức tham gia cách mạng, tham gia kháng chiến rất quý báu cho Đảng. Không có những
người đó thì công việc cách mạng khó khăn thêm nhiều" [62, tr. 235].
Trên thực tế, đội ngũ trí thức nước ta đã có những đóng góp hết sức to lớn, cùng
với giai cấp công nhân và các tầng lớp nhân dân lao động đưa cách mạng Việt Nam đi
đến thắng lợi. Sự thành công của công cuộc đổi mới đất nước những năm qua cũng có
phần công sức không nhỏ của đội ngũ này. Đối với sự nghiệp CNH, HĐH đất nước hiện
nay, đội ngũ trí thức của nước ta ngày càng giữ vai trò quan trọng, thể hiện qua một số
nội dung cơ bản sau:
- Thứ nhất, trí thức là người góp phần nghiên cứu, đưa ra những luận cứ khoa
học cho việc xây dựng đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước về CNH, HĐH.
Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đã khẳng định: "Đảng và nhân dân ta
quyết tâm xây dựng đất nước Việt Nam theo con đường xã hội chủ nghĩa trên nền tảng chủ
nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh" [25, tr. 83]. Kiên định theo con đường XHCN,
chúng ta không thể áp dụng một cách máy móc những nguyên lý, quan điểm của chủ
nghĩa xã hội khoa học, mà đòi hỏi phải vận dụng sáng tạo, linh hoạt vào hoàn cảnh cụ thể
của Việt Nam.
Thông qua việc nghiên cứu lý luận, trí thức khoa học Mác-Lênin đã góp phần làm
rõ hơn về con đường đi lên CNXH ở Việt Nam, cung cấp những luận cứ khoa học để Đảng
và Nhà nước ta hoạch định các chủ trương, chính sách về CNH, HĐH không mắc phải sai
lầm của việc vận dụng rập khuôn, máy móc.
Hơn nữa, xuất phát từ một nền nông nghiệp lạc hậu, để thực hiện CNH, HĐH
thành công, ngoài lý luận khoa học, Đảng và Nhà nước ta cần phải có các kết quả nghiên
cứu về tình hình thực tế, đặc điểm của từng vùng, từng lĩnh vực, ngành nghề... làm căn cứ
khách quan. Đây chính là nguồn tư liệu quý giá, phong phú giúp cho việc đưa ra các
chiến lược xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội của mỗi thời kỳ đạt kết quả cao, không
rơi vào bệnh chủ quan, duy ý chí.
Với tư cách là nhà khoa học, trí thức nước ta đã tham mưu cho Đảng và Nhà
nước những vấn đề có tính lý luận và thực tiễn, vừa đảm bảo phát triển đúng định hướng
XHCN, đồng thời đem lại hiệu quả kinh tế - xã hội cao.
- Thứ hai, trí thức Việt Nam là lực lượng quan trọng trong việc tuyên truyền
những chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước về CNH, HĐH đến nhân
dân, đưa những chủ trương đó vào cuộc sống.
Xây dựng CNXH là sự nghiệp của toàn thể nhân dân lao động, nó phải được thực
hiện thông qua hoạt động tự giác của đông đảo quần chúng có ý thức giác ngộ về CNXH
và CNCS. Do đó, công tác giáo dục tư tưởng, tuyên truyền lý luận cách mạng phải đi
trước một bước. Bản thân lý luận không thể làm biến đổi hiện thực, nhưng nó có thể trở
thành "lực lượng vật chất, một khi nó thâm nhập vào quần chúng" [57, tr. 580].
Trong quá trình CNH, HĐH của nước ta, để thành công thì những chủ trương,
đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước cần được phổ biến sâu rộng, làm cho nhân
dân nhận thức được sự cần thiết, lợi ích cũng như vai trò, nhiệm vụ của mình, từ đó thôi
thúc mọi người dân tham gia một cách tự giác, tích cực vào sự nghiệp CNH, HĐH đất
nước. Khi ấy, CNH, HĐH từ lý luận mới trở thành sức mạnh vật chất làm thay đổi sản
xuất và đời sống xã hội.
Với chức năng cơ bản là phổ biến, truyền bá kiến thức, trí thức Việt Nam, nhất là
những người trực tiếp công tác trong ngành văn hóa, tư tưởng là lực lượng nòng cốt thực
hiện nhiệm vụ này. Thông qua các phương tiện thông tin đại chúng (báo viết, báo nói,
báo hình) và các chương trình tập huấn, họ đã góp phần triển khai các nghị quyết, đường
lối của Đảng, chủ trương, chính sách của Nhà nước về CNH, HĐH nhanh chóng tuyên
truyền đến mọi người dân, khắp các vùng miền của Tổ quốc. Trên cơ sở đó, giúp nhân
dân hiểu, tích cực và chủ động tham gia vào sự nghiệp CNH, HĐH đất nước.
Ngoài ra, việc đưa những quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách của Nhà
nước còn được đội ngũ trí thức thực hiện dưới nhiều hình thức khác như lồng ghép vào các
chương trình giảng dạy của các môn khoa học Mác - Lênin trong các trường, các lớp bồi
dưỡng, nâng cao trình độ lý luận cho cán bộ, đảng viên, v.v.
Để thực hiện thắng lợi mục tiêu CNH, HĐH đất nước, công tác tuyên truyền phải
không ngừng được nâng cao, kịp thời, phải phù hợp với từng đối tượng nhằm làm cho
nhân dân hiểu rõ quan điểm của Đảng và chính sách của Nhà nước. Ngoài việc đưa lý
luận vào thực tiễn, công tác này nhằm ngăn chặn mọi sự xuyên tạc của kẻ thù hòng làm
giảm lòng tin của nhân dân đối với Đảng.
- Thứ ba, với tư cách là chủ thể của quá trình CNH, HĐH, đội ngũ trí thức Việt
Nam là nguồn lực tham gia trực tiếp thực hiện nội dung của sự nghiệp đó.
Việt Nam quá độ đi lên xây dựng CNXH từ một nước thuộc địa, nửa phong kiến
có nền kinh tế lạc hậu, trình độ dân trí thấp. Vì vậy, bước chuyển từ lao động thủ công,
lạc hậu sang lao động sử dụng kỹ thuật công nghệ hiện đại là một bước tiến lớn về trình
độ của lực lượng sản xuất nhưng khó khăn và lâu dài. Nó không thể thực hiện được
nhanh chóng nếu không có sự tham gia của các chuyên gia và nhà khoa học.
Việc xây dựng nền tảng KH&CN cho quá trình CNH, HĐH là nhiệm vụ của toàn
thể nhân dân, trong đó đi đầu là đội ngũ trí thức. Thông qua hoạt động nghiên cứu khoa
học, đội ngũ này đã góp phần sáng tạo ra những tri thức mới, có giá trị thúc đẩy xã hội
phát triển. Ngoài ra, họ còn có thể dự báo xu hướng vận động của các sự vật, hiện tượng
trong tự nhiên, xã hội, tư duy. Những thông tin đó có thể làm căn cứ khách quan cho các
nhà quản lý, hoạch định chính sách khi xây dựng các chương trình phát triển kinh tế - xã
hội. Do đặc thù trong lao động sáng tạo, trí thức luôn phải đi trước một bước để đáp ứng
những yêu cầu của sự nghiệp CNH, HĐH đất nước.
Xu hướng quốc tế hóa, toàn cầu hóa đã và đang tạo ra những điều kiện thuận lợi
để các nước lạc hậu như nước ta có thể thực hiện bước phát triển "nhảy vọt" bằng cách
tiếp thu hợp lý những thành tựu khoa học và công nghệ tiên tiến nhất. Thực hiện nhiệm
vụ này, trách nhiệm trước hết là của các chuyên gia, nhà khoa học - những người có trình
độ chuyên môn và am hiểu sâu sắc về lĩnh vực này. Họ chính là những chiếc cầu nối đưa
thành tựu khoa học và công nghệ tiên tiến của thế giới vào Việt Nam. Nhờ đó, trình độ
của lực lượng sản xuất ở nước ta không ngừng được nâng cao nhanh chóng.
Vì vậy, với tư cách là người đi tiên phong trong khoa học và công nghệ, đội ngũ
trí thức Việt Nam cần phải phát huy hơn nữa vai trò của mình để thực hiện tốt các nhiệm
vụ mà Đảng và nhân dân giao cho, đặc biệt trên lĩnh vực nghiên cứu khoa học và phát
triển công nghệ mới, góp phần cùng giai cấp công nhân và toàn thể nhân dân lao động tạo
dựng nền tảng KH&CN vững chắc cho sự nghiệp CNH, HĐH nhanh chóng đi đến thắng
lợi.
- Thứ tư, đội ngũ trí thức Việt Nam góp phần chủ yếu đào tạo nguồn lực con
người đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp CNH, HĐH đất nước.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng khẳng định: Muốn xây dựng CNXH trước hết cần
phải có con người XHCN. Đó chính là những người "vừa hồng, vừa chuyên", sống có lý
tưởng, vì hạnh phúc của nhân dân lao động. Vì vậy, sự nghiệp CNH, HĐH ở nước ta hiện
nay cần những con người có tinh thần yêu nước, yêu quê hương, gia đình và tự tôn dân
tộc, có kiến thức cơ bản, làm chủ kỹ năng nghề nghiệp, quan tâm đến hiệu quả thiết thực,
nhạy cảm với cái mới, có ý thức vươn lên về KH&CN..., những con người có năng lực
sáng tạo, tiếp thu và ứng dụng những tri thức khoa học công nghệ mới vào phục vụ sản
xuất và đời sống xã hội. Bởi đây là chính quá trình cải biến từ một xã hội cổ truyền thành
một xã hội hiện đại, có trình độ văn minh cao hơn thể hiện không chỉ ở trình độ KH&CN
tiên tiến, có nền kinh tế phát triển, xã hội được tổ chức khoa học và hợp lý mà còn ở đời
sống chính trị, văn hóa, tinh thần của xã hội, ở sự phát triển con người, giữ gìn và phát
huy bản sắc dân tộc.
Việc đào tạo con người đáp ứng yêu cầu của công cuộc xây dựng đất nước có thể
được thực hiện với nhiều hình thức, phương pháp khác nhau. Để có con người toàn diện
cần phải kết hợp giáo dục và tự giáo dục, cần có sự liên kết giữa gia đình - nhà trường -
xã hội.
Do chức năng đặc thù là truyền bá và phổ biến tri thức khoa học, đội ngũ trí thức,
nhất là những người hoạt động trong khối hành chính sự nghiệp có vai trò quyết định đến
nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. Không có sự tham gia của trí thức,
không thể đào tạo được nguồn lực con người đáp ứng được yêu cầu của sự nghiệp CNH,
HĐH đất nước. Bằng chứng cho thấy mỗi năm đội ngũ trí thức trong lĩnh vực GD&ĐT
đã góp phần đào tạo hàng nghìn chuyên gia, cử nhân, kỹ sư, kỹ thuật viên, công nhân
lành nghề phục vụ cho sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. Năm 2003, số sinh viên tốt
nghiệp các trường cao đẳng, đại học là 163.960 người, tốt nghiệp các trường trung học
chuyên nghiệp, dạy nghề là 36.683 người [3, tr. 18].
- Thứ năm, trí thức Việt Nam có vai trò quan trọng trong tư vấn, phản biện và
giám định xã hội về KH&CN nhằm giữ vững định hướng XHCN trong sự nghiệp CNH,
HĐH đất nước.
Tính đặc thù của quá trình CNH, HĐH ở nước ta chính là tính định hướng
XHCN, điều đó quy định mục tiêu, chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Nước ta đang tiến hành cách mạng KH&CN đồng thời cùng với cách mạng giải phóng
con người và giải phóng xã hội, do vậy, con đường phát triển của Việt Nam hiện nay là
xây dựng các yếu tố của XHCN trên tất cả các lĩnh vực cơ bản của đời sống xã hội, đề
phòng sự chệch hướng XHCN diễn ra dưới mọi hình thức. Để làm được như vậy, Đảng
và Nhà nước ta trước hết phải đảm bảo những yêu cầu cơ bản sau:
- Phát triển KH&CN là nhằm tạo ra động lực và tiền đề để tăng trưởng kinh tế
đồng thời phải gắn với phát triển bền vững theo chiều sâu, triệt tiêu những hậu quả tiêu
cực đối với môi trường, cả môi trường thiên nhiên, sinh thái và nhân văn.
- Phân công lao động xã hội theo hướng tiến bộ, nghĩa là toàn bộ xã hội có công
ăn việc làm, lao động có tay nghề, hàm lượng khoa học - công nghệ ngày càng chiếm tỷ
trọng lớn trong cơ cấu lao động, đây là một trong những tiêu chí định hướng XHCN
trong phát triển KH&CN.
- Xuất phát từ trình độ KH&CN rất thấp, lại phân bố không đều và bị mất cân đối
lớn giữa các ngành, vùng, lãnh thổ như hiện nay, để khắc phục chúng ta cần phải ứng
dụng nhanh và có hiệu quả những tiến bộ KH&CN vào các ngành, vùng của nền kinh tế,
trong thời gian trước mắt cần hướng vào khu vực nông nghiệp - nông thôn, nhằm thu hẹp
sự chênh lệch giữa các vùng miền, nhất là giữa nông thôn và thành thị trong cả nước.
- Mọi thành quả kinh tế - xã hội của việc phát triển, ứng dụng KH&CN vào thực
tiễn phải vì mục tiêu phục vụ lợi ích cho toàn thể nhân dân lao động, cho sự nghiệp xây
dựng CNXH, nó thể hiện chủ yếu trong việc phân phối công bằng những thành quả của sự
nghiệp phát triển kinh tế xã hội. Do vậy, trong quá trình phát triển KH&CN đòi hỏi phải
quan tâm ngay từ đầu không chỉ hiệu quả kinh tế - kỹ thuật mà cả hiệu quả xã hội và
nhân văn của nó.
Để những mục tiêu trên được thực hiện, mọi chủ trương, đường lối, chính sách
liên quan đến KH&CN phải được xây dựng trên cơ sở khoa học, đồng thời việc đánh giá
hiệu quả cũng cần đảm bảo tính độc lập, khách quan.
Hoạt động tư vấn, phản biện và giám định xã hội có vai trò vô cùng quan trọng,
giúp cung cấp thêm những luận cứ khoa học cho việc hoạch định đường lối, chính sách,
chiến lược về KH&CN của Đảng và Nhà nước đảm bảo đúng định hướng XHCN. Những
đóng góp của đội ngũ trí thức nước ta thông qua hoạt động này đã đem lại hiệu quả cao
như: Công trình xây dựng thủy điện Sơn La, Đường Hồ Chí Minh (đoạn qua rừng quốc
gia Cúc Phương), Dự án thay nước Hồ Tây, v.v... Với tư cách là người nghiên cứu khoa
học, trí thức Việt Nam đã góp phần quan trọng vào việc hạn chế những ảnh hưởng tiêu
cực và đảm bảo đúng định hướng XHCN của các công trình, đề án kinh tế - xã hội.
Bước vào thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH, cùng với sự phát triển của KH&CN, đội
ngũ trí thức Việt Nam cũng không ngừng tăng cao cả số lượng và chất lượng, ngày càng
giữ vị trí quan trọng trong xã hội, cùng với giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và các
tầng lớp nhân dân lao động khác, họ chính là một lực lượng nòng cốt của qua trình xây
dựng và phát triển đất nước trong thời kỳ đổi mới.
1.2. Đặc điểm của đội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ
thuật Việt Nam
1.2.1. Đội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt
Nam hoạt động trong một tổ chức chính trị - xã hội của trí thức khoa học và công
nghệ Việt Nam
Đội ngũ trí thức KH&CN Việt Nam hoạt động rộng khắp trên hầu hết các lĩnh
vực của đời sống xã hội. Do làm việc trong nhiều cơ quan, tổ chức khác nhau nên ít có
điều kiện hợp tác, trao đổi học thuật và kinh nghiệm với những người cùng chuyên môn,
ngành nghề, cùng lĩnh vực nghiên cứu. Đáp ứng nhu cầu này của trí thức, một số Hội
chuyên ngành đã ra đời. Sớm nhất là Hội Luật gia Việt Nam (1955), Tổng hội Y - Dược
học Việt Nam (1955) và Hội Y học cổ truyền Việt Nam (1957). Sau đó là hàng loạt các
Hội Khoa học và Kỹ thuật khác được thành lập như: Hội Cơ học Việt Nam (1982), Hội
Xây dựng Việt Nam (1982), Hội Lâm nghiệp Việt Nam và Hội các ngành sinh học Việt
Nam (1982)...
Qua một thời gian hoạt động, các Hội Khoa học và Kỹ thuật cùng nhiều nhà khoa
học Việt Nam mong muốn có một tổ chức chung để đoàn kết, điều hòa và phối hợp các hoạt
động phong phú và đa dạng, để nói lên tiếng nói thống nhất, đề đạt những nguyện vọng và
kiến nghị chung với Đảng và Nhà nước, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam
đã ra đời vào năm 1983 (26-3-1983) và chính thức trở thành tổ chức chính trị - xã hội của trí
thức KH&CN Việt Nam.
Với vai trò của một tổ chức chính trị - xã hội, Liên hiệp Hội có chức năng cơ bản
là tập hợp, đoàn kết đội ngũ trí thức thuộc lĩnh vực KH&CN ở trong nước và trí thức
người Việt Nam ở nước ngoài; làm đầu mối giữa các hội thành viên với các cơ quan
Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức khác nhằm giải quyết những vấn đề
chung trong Liên hiệp Hội, đồng thời, đại diện, bảo vệ quyền lợi và lợi ích hợp pháp của
các hội thành viên, của trí thức KH&CN Việt Nam.
Mục đích của Liên hiệp Hội là phát huy tiềm năng trí tuệ của đội ngũ trí thức
KH&CN phục vụ sự nghiệp CNH, HĐH đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, góp
phần thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Nội
dung trên đã chi phối toàn bộ hoạt động của đội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp Hội.
Nếu trong các tổ chức xã hội - nghề nghiệp khác nội dung hoạt động chủ yếu là
trao đổi học thuật, phối hợp nghiên cứu nhằm nâng cao trình độ chuyên môn và hiệu quả
công việc cho hội viên của mình, thì mục tiêu của Liên hiệp Hội không chỉ dừng lại ở học
thuật, quyền lợi của trí thức, mà cao hơn là đem lại lợi ích cho đất nước, góp phần thực
hiện các mục tiêu mà Đảng và Nhà nước đề ra và giao cho. Sự khác biệt này được thể
hiện rõ nét nhất qua các cuộc hội thảo khoa học. ở đây ngoài mục đích tìm tòi, sáng tạo
tri thức mới, tìm ra chân lý trong khoa học còn nhằm nghiên cứu ứng dụng những tri thức
KH&CN hiện đại đó vào trong thực tiễn để đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp CNH, HĐH
đất nước.
Bản thân khoa học không có tính chính trị, nhưng làm khoa học phục vụ mục tiêu
phát triển đất nước là làm chính trị. Đội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp Hội, mặc dù được tổ
chức trong các Hội ngành Trung ương - hội mang tính chuyên môn, nghề nghiệp cao -
nhưng hướng các hoạt động của mình phục vụ cho công cuộc đổi mới đất nước, cho sự
nghiệp CNH, HĐH tức là hướng đến thực hiện những mục tiêu chính trị - xã hội mà
Đảng và Nhà nước đề ra. Điều này cho thấy tính đặc thù của đội ngũ này so với trí thức
hoạt động trong các tổ chức chỉ thuần túy mang tính xã hội - nghề nghiệp.
Đồng thời, khác với các tổ chức phi chính phủ (NGO) hoạt động hoàn toàn mang
tính độc lập, không liên quan đến các cơ quan nhà nước, các đảng chính trị, đội ngũ trí
thức thuộc Liên hiệp Hội hoạt động dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam thông
qua Đảng Đoàn của Liên hiệp Hội.Theo Chỉ thị số 45 - CT/TW của Ban chấp hành Trung
ương Đảng, Đảng đoàn của Liên hiệp Hội chịu sự lãnh đạo trực tiếp của Bộ Chính trị.
Ban Khoa giáo Trung ương giúp Bộ Chính trị theo dõi, chỉ đạo hoạt động của Liên hiệp
Hội, Ban Dân vận Trung ương và các ban khác của Đảng có trách nhiệm giúp đỡ hoạt
động của Liên hiệp Hội.
Ngoài việc thực hiện nhiệm vụ xã hội hóa các hoạt động KH&CN, GD&ĐT,
chăm sóc sức khỏe nhân dân, với tính chất là tổ chức chính trị - xã hội, Liên hiệp Hội còn
có nhiệm vụ vận động trí thức KH&CN phát huy truyền thống yêu nước, lòng tự hào dân
tộc, ý thức trách nhiệm công dân, tinh thần hợp tác, tính cộng đồng, tính trung thực và
đạo đức nghề nghiệp.
Nhằm thực hiện chủ trương xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc, Liên hiệp Hội có
nhiệm vụ vận động trí thức KH&CN người Việt Nam ở nước ngoài đóng góp công sức,
trí tuệ cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Những nhiệm vụ này đã được Liên
hiệp Hội triển khai thực hiện và bước đầu mang lại hiệu quả nhất định, đặc biệt là việc
thu hút trí thức Việt kiều về quê hương, một số người đã quyết định trở về định cư ở Việt
Nam để được đóng góp trí tuệ cho sự nghiệp chung của đất nước. Với những chức năng
và nhiệm vụ cơ bản trên, Liên hiệp Hội thực sự đã là một tổ chức chính trị - xã hội quan
trọng và lớn nhất của trí thức KH&CN Việt Nam.
Việc thực hiện các nhiệm vụ chính trị - xã hội của đội ngũ này còn thể hiện rõ nét
thông qua hoạt động tư vấn, phản biện và giám định xã hội nhằm góp phần xây dựng cơ
sở khoa học cho việc hoạch định các chủ trương, chính sách, pháp luật, các chương trình,
kế hoạch của Đảng và Nhà nước ta về phát triển kinh tế - xã hội, KH&CN, GD&ĐT, bảo
vệ môi trường, tăng cường củng cố an ninh - quốc phòng; tham gia giám sát độc lập đối
với các đề án, công trình quan trọng của đất nước.
Điểm khác biệt trong việc thực hiện tư vấn, phản biện và giám định xã hội của
các dịch vụ tư vấn chuyên nghiệp dành cho mọi tổ chức và cá nhân có pháp nhân tư vấn,
với một tổ chức chính trị - xã hội như Liên hiệp Hội thể hiện ở chỗ: Một mặt, đây là
nhiệm vụ đặt ra cho tổ chức chính trị - xã hội của trí thức KH&CN. Bên cạnh việc tư vấn
xã hội nó còn bao gồm cả phản biện xã hội và giám định xã hội. Ngoài những đề án được
giao, Liên hiệp Hội cùng các Hội thành viên có điều kiện chủ động tự đề xuất nhiệm vụ
tư vấn, phản biện và giám định xã hội đối với các đề án quan tâm, tổ chức thực hiện và đề
xuất kiến nghị gửi tới các cơ quan có liên quan và các cấp có thẩm quyền xem xét. Mặt
khác, Liên hiệp Hội thực hiện hoạt động này không vì mục tiêu lợi nhuận. Điều này cho
thấy, Liên hiệp Hội đề cao mục tiêu chính trị - xã hội, thực hiện trước hết bởi trách nhiệm
của một nhà khoa học và tâm huyết muốn cống hiến cho đất nước. Đây không chỉ là tôn
chỉ mà Liên hiệp Hội đề ra, thực tế đã khẳng định tính phi lợi nhuận trong hoạt động này.
Như công trình thủy điện Sơn La, nếu theo chi phí thuê các chuyên gia nước ngoài thì hết
hàng trăm tỷ, nhưng trong mười năm thực hiện nghiên cứu tư vấn đề án tối ưu cho Chính
phủ, với sự đóng góp công sức của hơn bốn mươi nhà khoa học, chi phí chi hết khoảng
500 đến 600 triệu đồng. Không những tích kiệm được chi phí cho Nhà nước, mà các
phương án của các nhà khoa học thuộc Liên hiệp Hội đưa ra còn mang lại hiệu quả kinh tế
- xã hội cao và giảm bớt chi phí khi thi công.
Một ví dụ khác đó là việc trùng tu, bảo tồn khu di chỉ Hoàng thành Thăng Long -
nơi Nhà nước đã có kế hoạch xây dựng công trình tòa nhà Quốc hội và Bảo tàng lịch sử
quân sự Việt Nam, trên cơ sở luận chứng khoa học các nhà nghiên cứu đã kiến nghị với
Chính phủ tạm dừng thi công các công trình này và được Chính phủ chấp thuận. Đây là
việc mà Liên hiệp Hội tự đề xuất, không phải nhiệm vụ mà Nhà nước giao cho. Điều đó
càng chứng tỏ tinh thần trách nhiệm cao của các nhà khoa học mà hoàn toàn không vì mục
tiêu lợi nhuận.
Do hoạt động trong một tổ chức chính trị - xã hội của đội ngũ trí thức KH&CN
Việt Nam, nên cũng đem lại những ưu thế nhất định: trí thức có điều kiện để nói lên tiếng
nói thống nhất, bày tỏ những tâm tư hay đề đạt nguyện vọng đối với Đảng và Nhà nước.
Không những thế Liên hiệp Hội còn là tổ chức đại diện, bảo vệ những quyền lợi, lợi ích
hợp pháp của trí thức KH&CN Việt Nam.
Ngoài ra khi tham gia Liên hiệp Hội trí thức còn có điều kiện thuận lợi trong
việc thực hiện các nhiệm vụ chính trị, như tham gia soạn thảo các văn kiện quan
trọng, tham mưu cho Đảng và Nhà nước những vấn đề quốc kế dân sinh, cung cấp
những luận cứ khoa học một cách có hệ thống giúp cho việc ban hành các chủ trương,
chính sách có thêm cơ sở khách quan và đạt hiệu quả…
Tuy nhiên, đây là một tổ chức mang tính tự nguyện có quy mô lớn nên việc quản
lý, tập hợp hội viên để phối hợp hoạt động cũng có những khó khăn nhất định. Mặt khác,
hiện nay còn tồn tại tâm lý chỉ muốn làm khoa học thuần túy mà không liên quan đến các
nhiệm vụ chính trị, cho nên tính chất chính trị - xã hội của Liên hiệp Hôi cũng là một
trong những lý do khiến một số trí thức chưa muốn tham gia.
1.2.2. Đội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt
Nam là lực lượng trí thức chuyên ngành về khoa học và công nghệ lớn nhất Việt
Nam hiện nay
Trong các tổ chức KH&CN ở Việt Nam hiện nay, Liên hiệp Hội là tổ chức có
tiềm năng chuyên gia lớn nhất với 54/56 Hội ngành Trung ương, nơi tập hợp trí thức
chuyên ngành (không tính hai Hội tập hợp chủ yếu là nông dân là Hội Nuôi ong, Hội
Làm vườn Việt Nam) thuộc các lĩnh vực:
- Khoa học xã hội và nhân văn gồm 08 Hội đó là: Hội Luật gia Việt Nam, Tổng
Hội Y - Dược học Việt Nam, Hội Đông y Việt Nam, Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam, Hội
Khoa học Tâm lý giáo dục Việt Nam, Hội Ngôn ngữ học Việt Nam, Hội Dân tộc học Việt
Nam, Hội Khoa học Kinh tế Việt Nam.
- Khoa học tự nhiên gồm 07 Hội: Hội Vật lý Việt Nam, Hội Toán học Việt Nam,
Hội Địa lý Việt Nam, Hội Hóa học Việt Nam, Hội Khoa học Đất Việt Nam, Hội Địa Vật
lý Việt Nam, Hội các ngành Sinh học Việt Nam.
- 39 Hội và Tổng hội khoa học công nghệ, cụ thể: Hội Đúc - Luyện kim Việt
Nam, Hội Khoa học công nghệ Mỏ Việt Nam, Tổng Hội Xây dựng Việt Nam, Hội Khoa
học - Kỹ thuật Địa chất Việt Nam, Hội Cơ học Việt Nam, Hội Khoa học - Kỹ thuật Lâm
nghiệp Việt Nam, Hội Khoa học - Kỹ thuật Cơ khí Việt Nam, Hội Tiêu chuẩn và Bảo vệ
người tiêu dùng Việt Nam, Hội Bảo vệ thiên nhiên và môi trường Việt Nam, Hội Tin học
Việt Nam, Hội Vô tuyến Điện tử Việt Nam, Hội Khoa học - Kỹ thuật Trắc địa - Bản đồ
Viễn thám Việt Nam, Hội Điện lực Việt Nam, Hội Chăn nuôi Việt Nam, Hội Thú y Việt
Nam, Hội Bảo quản nông sản thực phẩm Việt Nam, Hội Khoa học - Kỹ thuật nhiệt Việt
Nam, Hội Khoa học - Kỹ thuật Biển Việt Nam, Hội Kế toán Việt Nam, Hội Khoa học -
Công nghệ Tự động Việt Nam, Hội Khoa học - Kỹ thuật Phân tích Hóa, Lý và Sinh học
Việt Nam, Hội Khoa học - Kỹ thuật Cầu đường Việt Nam, Hội Khoa học - Kỹ thuật ăn
mòn và bảo vệ kim loại Việt Nam, Hội Quy hoạch và Phát triển đô thị Việt Nam, Hội
Khoa học - Kỹ thuật Mã số Mã vạch Việt Nam, Hội Khoa học - Kỹ thuật Không phá hủy,
Hội Thông tin tư liệu KH&CN Việt Nam, Hội Sở hữu công nghiệp Việt Nam, Hội Khoa
học - Kỹ thuật Đo lường Việt Nam, Hội Bảo vệ Thực vật Việt Nam, Hội Giống cây trồng
Việt Nam, Hội Khoa học Kỹ thuật - An toàn thực phẩm Việt Nam, Hội Khoa học công
nghệ Lương thực thực phẩm Việt Nam, Hội Vệ sinh an toàn lao động, Hội Các phòng thử
nghiệm Việt Nam, Hội Thiết bị y tế Việt Nam, Hội Dược học Việt Nam, Hội Trí thức
KH&CN trẻ Việt Nam, Hội Kỹ thuật Điện lạnh và Điều hòa không khí Việt Nam.
Là những đơn vị mang tính chuyên ngành, các Hội trên tập hợp được nhiều
chuyên gia hàng đầu của cả nước trong nhiều lĩnh vực quan trọng. Cơ cấu tổ chức rất đa
dạng và phong phú với mức độ chuyên sâu và quy mô khác nhau, Có Hội hoạt động
trong phạm vi chuyên ngành hẹp như: Hội Dân tộc học Việt Nam (01 đơn vị thành viên),
Hội Bảo vệ thực vật Việt Nam (01 đơn vị thành viên), Hội Khoa học - Kỹ thuật ăn mòn
và bảo vệ kim loại Việt Nam (10 đơn vị thành viên), Hội Vệ sinh an toàn lao động Việt
Nam (03 đơn vị thành viên)… Bên cạnh đó có nhiều Hội hoạt động trong phạm vi rất
rộng như Hội Khoa học Kỹ thuật Mã số Mã Vạch Việt Nam (670 đơn vị thành viên), Hội
Kế toán Việt Nam (130 đơn vị thành viên),Tổng hội Y - Dược học Việt Nam (với 96 đơn
vị thành viên), Hội Luật gia Việt Nam (86 đơn vị thành viên), Hội Đông y Việt Nam (70
đơn vị thành viên), Tổng Hội Xây dựng Việt Nam (47 đơn vị thành viên),… [55, tr. 14-
16].
Đội ngũ trí thức thuộc các Liên hiệp Hội được tập hợp từ nhiều nguồn khác nhau
(từ các cơ quan, tổ chức của Đảng và Nhà nước, các doanh nghiệp hay những người hoạt
động tự do, không thuộc cơ quan, tổ chức đơn vị nào của Nhà nước, những người đã nghỉ
hưu hoặc nghỉ theo các chế độ lao động), trong số họ không ít người đã và đang nắm giữ
những vị trí quan trọng tại các Viện Nghiên cứu khoa học, các Bộ, ngành quan trọng của
đất nước. Tuy nhiên, khi gia nhập Liên hiệp Hội, họ hoạt động với tư cách là những nhà
khoa học theo đúng chuyên môn của mình.
Tính chuyên ngành của đội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp Hội thể hiện ở chỗ các
Hội trên chỉ tập hợp những trí thức thuộc cùng chuyên môn, lĩnh vực nhất định: Hội Toán
học Việt Nam là nơi tập hợp những người làm công tác giảng dạy, nghiên cứu về Toán
học; Hội kế toán Việt Nam chỉ tập hợp những người thuộc chuyên ngành tài chính, kế
toán, kiểm toán...
Không những thế, một số Hội còn chia thành nhiều Phân hội thể hiện tính chuyên
môn hóa sâu sắc. Tiêu biểu như Hội các ngành Sinh học Việt Nam có 16 Phân hội (2001)
là: Động vật học, Thực vật học, Vi sinh vật học, Di chuyền học, Hóa sinh, Lý sinh, Côn
trùng học, Ký sinh trùng, Công nghệ sinh học, Sinh lý người và động vật, Sinh lý thực
vật, Sinh thái học, Sinh thái đất, Khoa học và công nghệ thực phẩm, Hội Sinh học phân
tử và Bệnh lý thực vật, Hội những người giảng dạy Sinh học; Hội Địa chất Việt Nam
gồm 10 Phân hội cụ thể là Cổ sinh - Địa tầng, Kiến tạo, Đệ tứ địa mạo, Trầm tích, Địa
hóa, Khoáng học, Địa chất kinh tế, Địa chất công trình, Địa chất thủy văn, và Phân hội
Công nghệ khoa,…
Trong thực tế hiện nay tại một số cơ quan, đơn vị, tổ chức cũng có sự phân
ngành như trường học, bệnh viện, viện nghiên cứu của Nhà nước... Nhưng với tính chất
là tập hợp đội ngũ trí thức chuyên ngành thì các Hội ngành Trung ương thuộc Liên hiệp
Hội là nơi tập hợp được đông đảo nhất, có quy mô lớn nhất nước ta hiện nay. Toàn Liên
hiệp Hội tập hợp được hơn 40 vạn trí thức KH&CN Việt Nam. Riêng các Hội ngành
Trung ương tập hợp được hơn 20 vạn trí thức chuyên ngành, trong đó tiêu biểu là Hội
Đông y Việt Nam (50.000 hội viên), Tổng hội Y dược học Việt Nam (hơn 10.000), Hội
Luật gia Việt Nam (hơn 16.000).
Với lực lượng "chất xám" chuyên ngành có quy mô và chất lượng lớn nhất nước
ta hiện nay, đội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp Hội là lực lượng nòng cốt của trí thức
KH&CN Việt Nam. Do tập hợp trí thức cùng chuyên môn, cùng lĩnh vực nghiên cứu và
hoạt động nên rất thuận tiện trong việc phát huy nguồn lực trí tuệ để giải quyết những vấn
đề mang tính chuyên sâu mà thực tiễn đặt ra. Sự phối hợp của nhiều nhà khoa học trong
cùng lĩnh vực nghiên cứu sẽ tạo nên sức mạnh tổng hợp to lớn mà ngoài các Hội ngành
này, các cơ quan, tổ chức khác khó có thể có được.
Ngoài ra, Liên hiệp Hội có ưu thế về liên kết các ngành khoa học, khi cần có thể huy
động được lực lượng đông đảo trí thức liên ngành đáp ứng được yêu cầu của những vấn đề đòi
hỏi tri thức tổng hợp, toàn diện cả khoa học tự nhiên, khoa học xã hội và nhân văn, khoa học
và công nghệ. Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay, khi KH&CN phát triển mạnh thì sự phân
công lao động xã hội ngày càng có tính chất chuyên môn hóa cao. Nó đòi hỏi người lao động
không chỉ hiểu sâu sắc, vận dụng hiệu quả những tri thức khoa học của lĩnh vực mà mình
tham gia, mà nó cần ở người lao động một lượng kiến thức tổng hợp, sâu rộng, phong phú.
Tuy nhiên ngoài những lợi thế trên, đội ngũ này cũng gặp phải một số hạn chế
nhất định như: do không quản lý về mặt hành chính như các cơ quan, đơn vị kinh tế - xã
hội, nên cùng lúc trí thức có thể đảm nhiệm nhiều công việc, vừa tham gia sinh hoạt Hội
vừa phải hoàn thành nhiệm vụ nơi công tác nên không đầu tư đúng mức cho công việc
của Liên hiệp Hội. Hơn nữa, phần lớn kinh phí hoạt động không được Nhà nước cấp nên
số lượng trí thức mặc dù đông nhưng không có đủ điều kiện phát huy hết năng lực của
mình. Nếu khắc phục được những bất cập trên để trí thức có thể tập trung nhiều hơn cho
công việc chuyên môn của Liên hiệp Hội thì sẽ tạo ra sức mạnh tổng hợp trong việc thực
hiện các nhiệm vụ chính trị - xã hội của đặt nước.
Kết luận chương 1
Đội ngũ trí thức nước ta là một lực lượng quan trọng trong khối liên minh công nhân
- nông dân - trí thức. Cùng với sự phát triển của KH&CN, số lượng và chất lượng của đội
ngũ này không ngừng tăng lên nhanh chóng. Tuy nhiên, đội ngũ trí thức còn nhiều bất cập
trong cơ cấu và phân bố không đều, nhưng những đóng góp quan trọng cho thành công của
công cuộc đổi mới đã ngày càng khẳng định vị trí và vai trò quan trọng của đội ngũ này đối
với sự phát triển của đất nước.
Trong quá trình CNH, HĐH, đội ngũ trí thức vừa cung cấp những luận cứ khoa
học, vừa là người góp phần to lớn đưa những chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng
và Nhà nước vào cuộc sống. Với vai trò chủ thể, họ chính là lực lượng trực tiếp và đi đầu
trong việc thực hiện nội dung của quá trình CNH, HĐH. Thông qua chức năng cơ bản là
phổ biến, truyền bá tri thức khoa học- kỹ thuật, trí thức còn giữ vai trò chính trong đào
tạo nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu của quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước.
Là một bộ phận của đội ngũ trí thức Việt Nam, ngoài những đặc điểm chung, đội
ngũ trí thức thuộc Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam có những đặc thù
riêng, đó là hoạt động trong một tổ chức chính trị - xã hội, là lực lượng "chất xám"
chuyên ngành lớn nhất ở nước ta hiện nay. Chính vì vậy, đội ngũ trí thức trong Liên hiệp
các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam đã, đang tạo nên ưu thế nhất định trong việc kết
hợp nghiên cứu khoa học chuyên sâu với các hoạt động mang tính liên ngành phục vụ sự
nghiệp xây dựng CNXH và phát triển đất nước trong giai đoạn hiện nay.
Chương 2
Thực trạng đội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp
các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước
2.1. Khái quát về số lượng, chất lượng và cơ cấu của đội ngũ trí thức thuộc
Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam
2.1.1. Số lượng
Thực hiện Chỉ thị số 45 CT/TW (1998) của Ban Chấp hành Trung ương Đảng
(khóa VIII) về việc đẩy mạnh hoạt động của Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật
Việt Nam, trong những năm qua, Liên hiệp Hội không ngừng củng cố và phát triển tổ
chức, thu hút ngày càng đông đảo trí thức KH&CN tham gia. Trong tổng số hơn 40 vạn trí
thức, ước tính có hơn 20 vạn hội viên thuộc các Hội ngành Trung ương, số còn lại hoạt động
trong các đơn vị khác.
Theo số liệu báo cáo của Hội đồng Trung ương tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ V (5/2004) Liên hiệp các Hội khoa học và Kỹ thuật Việt Nam, trong 45/56 Hội ngành đã
tập hợp được 179.246 người. Trong đó có 17.690 người hoạt động trong lĩnh vực khoa học
tự nhiên (chiếm 9,9%), 30.500 người hoạt động trong lĩnh vực khoa học xã hội và nhân
văn (chiếm 17,0%) và 131.056 người hoạt động trong lĩnh vực khoa học công nghệ
(chiếm 73,1%).
Những năm qua số lượng trí thức tham gia Liên hiệp Hội không ngừng gia tăng
thể hiện ở sự ra đời một số Hội ngành, từ 40 hội năm 1998 lên tổng số 56 hội năm 2005
(tăng 39%). Ngoài ra nhiều Hội có thêm hội viên mới, tiêu biểu như Hội Đông y Việt
Nam tăng hơn 50% (từ 24.552 người năm 1998 lên 50.000 người năm 2004), Hội Bảo vệ
thiên nhiên và môi trường năm 2001 chỉ có 200 hội viên, năm 2004 lên 3.200 (tăng 3.000
người), Hội Kế toán trong ba năm (2001 - 2004) kết nạp được 1.950 hội viên. Tương tự
cùng thời gian này các Hội Thú y Việt Nam là 4.300 người, Hội Địa chất Việt Nam 1.500
người, Hội Cơ khí Việt Nam là 500 người...Tuy vậy cũng có một vài Hội không tăng,
thậm chí số lượng giảm nhưng không đáng kể như Hội Khoa học kỹ thuật Nhiệt Việt
Nam, Hội Địa lý Việt Nam, v.v...
So với các cơ quan, đơn vị, tổ chức khác ở nước ta, hiện nay Liên hiệp Hội vẫn là
nơi tập trung nhiều nhất trí thức KH&CN Việt Nam, chỉ tính riêng các Hội ngành đã
chiếm hơn 10%. Nhưng với tư cách là tổ chức chính trị - xã hội thì số lượng đội ngũ trí
thức trên chưa thực sự tương xứng với tiềm năng của Liên hiệp Hội. Hiện nay vẫn còn
một lượng lớn trí thức ở trong nước và hơn 300.000 trí thức Việt kiều chưa tham gia Liên
hiệp Hội.
Vì vậy, trước yêu cầu ngày càng cao của quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH đất
nước, Liên hiệp Hội cần phải thu hút được đông đảo hơn nữa trí thức KH&CN, đặc biệt
là trí thức trẻ và trí thức người Việt Nam ở nước ngoài.
2.1.2. Về chất lượng
Liên hiệp Hội là nơi tập hợp những chuyên gia, các nhà khoa học đầu ngành về
KH&CN Việt Nam. Nhiều người trong số họ đã từng nắm giữ những vị trí chủ chốt tại
các cơ quan bộ, ngành, Viện nghiên cứu của Nhà nước, có bề dày về kinh nghiệm quản lý
và chuyên môn.
Về trình độ chuyên môn, hầu hết trí thức thuộc Liên hiệp Hội tốt nghiệp từ cao
đẳng, đại học hoặc tương đương trở lên. Nhiều Hội ngành phần lớn hội viên là những
người đã tốt nghiệp đại học trở lên, tiêu biểu là Hội Luật gia Việt Nam (70% có trình độ
đại học và trên đại học), Hội Toán học Việt Nam, Hội Kế toán Việt Nam... Có Hội chỉ
kết nạp những người làm công tác nghiên cứu, giảng dạy tại các Viện Nghiên cứu và các
trường Đại học có từ 3 năm kinh nghiệm trở lên. Điều đó cho thấy, trình độ chung của
lực lượng trí thức thuộc Liên hiệp Hội là tương đối cao so với mặt bằng chung của trí
thức Việt Nam hiện nay.
Bên cạnh đó, số lượng những người được phong hàm giáo sư, phó giáo sư và học
vị tiến sĩ cũng là một nhân tố phản ánh một phần quan trọng về trình độ chuyên môn của
mỗi Hội. Chẳng hạn như Tổng Hội địa chất Việt Nam hiện nay (2004) có hơn 5000 hội
viên, trong đó có 42 giáo sư, 103 phó giáo sư, hàng trăm tiến sĩ, thạc sĩ và hàng ngàn kỹ
thuật viên.
Theo báo cáo năm 2002 của Liên hiệp Hội về kết quả điều tra trình độ của trí
thức thuộc cơ quan lãnh đạo các hội ngành Trung ương, hầu hết có trình độ từ đại học và
sau đại học trở lên (xem bảng)
Bảng 2.1: Trình độ của trí thức thuộc cơ quan lãnh đạo
các Hội ngành Trung ương
Trình độ (%)
Sau đại học Đại học Trình độ khác
Cơ quan lãnh đạo
Ban Chấp hành 56,9% 40,7% 2,4%
Ban Thường vụ 64,9% 30,5% 4,6%
Văn phòng 27,2% 61,8% 11,0%
Nguồn: [49, tr. 45].
Thông qua kết quả của các công trình khoa học cũng có thể đánh giá về trình độ,
năng lực của người trí thức. Ngoài hàng trăm công trình được nhận giải thưởng KH&CN
Việt Nam, gần đây nhất (năm 2000) còn có 07 công trình và cụm công trình đã được nhận
Giải thưởng Hồ Chí Minh về KH&CN, bao gồm: "Chọn tạo các giống lúa mới cho một số
vùng sinh thái" của GS.TSKH Vũ Tuyên Hoàng; "Những hệ sinh thái rừng nhiệt đới Việt
Nam" - GS.TSKH Thái Văn Trừng; "Điều tra phân loại, lập bản đồ đất Việt Nam" của nhóm
tác giả GS.TS Lê Duy Thước, GS.TS Cao Liêm, GS.TS Vũ Cao Thái, TS. Trần Khải và một
số nhà khoa học khác; "Dao động phi tuyến tính của các hệ động lực" của GS.TSKH Nguyễn
Văn Đạo; "Vacxin phòng bại liệt" - PGS.TSKH Hoàng Thủy Nguyên thực hiện và "Nghiên
cứu chiết suất Artemisinnin từ cây thanh hao hoa vàng Việt Nam và chuyển hóa thành các
dẫn chất có hoạt tính mạnh hơn để chữa sốt rét kháng thuốc" của GS. Bác sĩ Phạm Song và
nhóm đồng tác giả Bộ Y tế, Trung tâm Khoa học tự nhiên và Công nghệ quốc gia, cùng với
Bộ Quốc phòng thực hiện. Với những kết quả tiêu biểu trên đã phản ánh khái quát nhất trình
độ, chất lượng của đội ngũ các nhà khoa học thuộc Liên hiệp Hội.
Về phẩm chất chính trị, đội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp Hội giàu lòng yêu nước,
có niềm tin sâu sắc vào sự lãnh đạo của Đảng, mong muốn được cống hiến nhiều cho Tổ
quốc. Phẩm chất đó không chỉ thể hiện trong công cuộc đổi mới mà còn bộc lộ rõ nét
thông qua hoạt động như xây dựng pháp luật, đóng góp ý kiến cho các văn kiện quan
trọng của Đảng, triển khai thực hiện đường lối, nghị quyết mà Đảng đề ra…
Sự thành công của công cuộc đổi mới đất nước đã củng cố hơn nữa niềm tin của
đội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp Hội với Đảng. Trong những năm gần đây, nhiều trí thức
tự nguyện gia nhập hàng ngũ của Đảng Cộng sản Việt Nam. Trong sáu năm (từ 1999 đến
2005), Liên hiệp Hội đã kết nạp thêm 96 đảng viên (tăng 82,05%), nâng tổng số đảng
viên lên 213 người. Cùng với sự phát triển này, quy mô của Đảng bộ Liên hiệp Hội cũng
ngày càng mở rộng, từ 11 chi bộ (1999), đến nay có 25 chi bộ. Cùng với các hoạt động cụ
thể khác, sự gia tăng số lượng đảng viên và chi bộ đã cho thấy sự trung thành và ủng hộ
con đường cách mạng do Đảng ta lãnh đạo của đội ngũ này.
Nhằm nâng cao chất lượng của đội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp Hội, hàng năm
Liên hiệp Hội và các hội thành viên thường xuyên mở các lớp tập huấn, bồi dưỡng kiến
thức cho hội viên. Do đó, chất lượng của đội ngũ này ngày càng được nâng cao. So với
mặt bằng chung của trí thức KH&CN trong cả nước, thì đây là đội ngũ có chất lượng cao,
tập trung nhiều nhất các chuyên gia đầu ngành về KH&CN của cả nước. Thực tế chứng
minh qua những nhiệm vụ quan trọng, những công trình và đề án lớn của đất nước đã
được Đảng và Nhà nước tin tưởng giao cho đội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp Hội.
Tuy nhiên, trình độ của đội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp Hội so với các nước phát
triển trong khu vực và trên thế giới còn một khoảng cách khá xa, trừ một số nhà khoa học
đầu đàn có thể trao đổi chuyên môn ngang tầm với các nhà khoa học của các nước phát
triển. Sự chênh lệch đó là một trong những thách thức đối với đội ngũ này trong quá trình
hội nhập.
Qua khảo sát một số Hội và cơ quan lãnh đạo của các Hội ngành, những trí thức
có trình độ sau đại học không nhiều, và đa số họ là những người đã hơn 40 tuổi. Những
trí thức này phần lớn được học ở các nước XHCN trước đây, kiến thức cơ bản vững vàng
nhưng do tuổi tác nên khả năng thích ứng, tiếp thu những thành tựu KH&CN hiện tại bị
hạn chế.
Những năm gần đây, số lượng đảng viên không ngừng tăng lên, nhưng so với số
lượng đội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp Hội thì tỷ lệ này còn rất thấp (213 đảng viên/ hơn
40 vạn trí thức) chiếm 0.05%. Điều này cho thấy công tác chính trị - tư tưởng và phát
triển đảng viên vẫn chưa được chú trọng đúng mức.
Nhìn chung chất lượng của đội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp Hội chưa đáp ứng đủ
yêu cầu của quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước hiện nay. Để thực hiện tốt vai trò là
lực lượng nòng cốt của trí thức KH&CN Việt Nam, Liên hiệp Hội và các Hội thành viên
cần phải không ngừng nâng cao chất lượng hội viên, ngoài việc bồi dưỡng chuyên môn,
cần nâng cao ý thức chính trị, học tập các môn khoa học Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh để phát triển một cách toàn diện.
2.1.3. Về cơ cấu
Liên hiệp Hội là một tổ chức tập hợp các hội chuyên ngành thuộc nhiều lĩnh vực
khác nhau. Do đó, cơ cấu của đội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp Hội rất đa dạng và phong
phú.
Về lĩnh vực khoa học, trong tổng số 179.246 trí thức thuộc 45 Hội ngành Trung
ương, có 73,1% hoạt động trong các Hội về khoa học công nghệ, chỉ có 9,9% hoạt động
trong 07 Hội thuộc khoa học tự nhiên, 17,0% hoạt động trong 08 Hội thuộc khoa học xã
hội và nhân văn. Qua đó cho thấy tỷ lệ chênh lệch giữa 3 lĩnh vực này là rất lớn, chủ yếu
trí thức thuộc Liên hiệp Hội là trí thức khoa học công nghệ.
Về độ tuổi, trí thức thuộc Liên hiệp Hội phần lớn từ 40 tuổi trở lên, số trí thức trẻ
(dưới 40 tuổi) rất ít. Theo kết quả điều tra của Liên hiệp Hội về cơ quan lãnh đạo các Hội
ngành Trung ương, phần lớn là từ 40 đến 60 tuổi, số người trên 60 đến 70 tuổi có nhưng
không nhiều. Cụ thể độ tuổi của trí thức tham gia các cơ quan này như sau:
Bảng 2.2: Cơ cấu trí thức thuộc cơ quan lãnh đạo các Hội ngành Trung ương
Giới tính Tên cơ quan lãnh đạo Dưới 40 40-60 Trên 60 Ghi các Hội ngành Trung tuổi % tuổi % tuổi % chú ương Nam Nữ
Ban Chấp hành 92,1% 7,9% 4,0% 72,0% 24,0%
Ban Thường vụ 94,3% 5,7% 0,2% 53,0% 46,8%
Văn phòng - - 30,0% 35,0% 35,0%
Nguồn: [49, tr. 3].
Kết quả điều tra trên cho thấy, trong các cơ quan lãnh đạo của các Hội ngành
Trung ương đại đa số là nam giới, tỷ lệ nữ giới chiếm rất ít (dưới 10%). Con số này phần
nào phản ánh đúng thực trạng cơ cấu giới tính của trí thức KH&CN ở nước ta hiện nay.
Nhìn chung, cơ cấu của đội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp Hội thể hiện sự đa dạng,
phong phú, song cũng còn sự mất cân đối về nghề nghiệp, lĩnh vực hoạt động, độ tuổi và
giới tính. Phần đông trí thức thuộc Liên hiệp Hội hoạt động trong lĩnh vực khoa học công
nghệ, trong số họ có rất ít người là nữ và trẻ tuổi.
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến sự mất cân đối về tỷ lệ nam và nữ, cơ bản là do
quan niệm lạc hậu về giới tính với nghề nghiệp. Nhiều người cho rằng nữ nên hoạt động
trong lĩnh vực khoa học xã hội, lĩnh vực khoa học kỹ thuật và công nghệ là dành cho nam
giới. Vì vậy, ngay từ khi xác định nghề nghiệp, nhiều người đã định hướng cho con cái
mình theo quan niệm đó. Kết quả là các trường đại học đào tạo các chuyên ngành khoa
học kỹ thuật rất ít sinh viên nữ, vì vậy, nguồn bổ sung trí thức nữ hàng năm cho lĩnh vực
này rất hạn chế.
Mặt khác, sự phân bố không đều giữa các lĩnh vực khoa học phản ánh sự thiếu
hụt một lực lượng trí thức khoa học cơ bản. Phần lớn hội viên thuộc các Hội ngành khoa
học công nghệ, còn khoa học tự nhiên, khoa học xã hội và nhân văn thì số lượng không
đáng kể. Đặc biệt, trong Liên hiệp Hội không có trí thức chuyên ngành về lý luận chính
trị. Điều này cũng ảnh hưởng không nhỏ đến kết quả hoạt động của đội ngũ này nhất là
trong việc thực hiện các nhiệm vụ chính trị mà Đảng và Nhà nước giao cho.
Một trong những hạn chế lớn nhất hiện nay là khó thu hút trí thức trẻ (dưới 40
tuổi) tham gia Liên hiệp Hội, đây là lực lượng giàu tiềm năng, với ưu thế được tiếp thu tri
thức KH&CN hiện đại, rất năng động và giàu tính sáng tạo, có khả năng nhạy bén và tiếp
thu cái mới. Sở dĩ Liên hiệp Hội chưa thu hút được đội ngũ này là do chưa tạo ra được cơ
chế thuận lợi, nhiều hội ngành quy định tiêu chuẩn để kết nạp hội viên còn cao so với khả
năng đáp ứng của trí thức trẻ hiện nay. Tâm lý coi trọng kinh nghiệm còn tồn tại ở một số
Hội thành viên. Mặc dù thâm niên lao động, bề dày kinh nghiệm cũng là một yếu tố rất
quan trọng, nhưng trước sự phát triển như vũ bão của KH&CN như hiện nay, trí thức trẻ
cần phải được đánh giá đúng và tạo điều kiện để khai thác, phát huy tối đa những ưu thế
của lực lượng này phục vụ cho sự nghiệp CNH, HĐH và phát triển đất nước theo định
hướng XHCN.
ở một số nước phát triển, họ rất trọng dụng lực lượng vừa tốt nghiệp các trường
đại học, còn ở nước ta đội ngũ này chưa được bồi dưỡng và đánh giá đúng, do đó hiện
tượng lãng phí "chất xám" còn xảy ra nhiều nơi. Với vai trò là một tổ chức chính trị - xã
hội, Liên hiệp Hội cần phải có chiến lược trong việc tập hợp, đoàn kết trí thức thuộc
nhiều lĩnh vực, độ tuổi khác nhau để không những tăng sức mạnh trí tuệ, mà còn hướng
tới sự toàn diện trong các hoạt động của mình phục vụ tốt hơn cho sự nghiệp CNH, HĐH
đất nước.
Thực trạng về số lượng, chất lượng cũng như cơ cấu của đội ngũ trí thức thuộc
Liên hiệp Hội cho thấy đây là một đội ngũ giàu tiềm năng và giữ vai trò quan trọng đối
với sự phát triển của đất nước. Bên cạnh những kết quả đã đạt được trong việc tập hợp,
đoàn kết một lực lượng khá đông đảo những chuyên gia, các nhà khoa học đầu ngành của
Việt Nam vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế, bất cập, nhất là trong việc thu hút trí thức trẻ và
những trí thức Việt kiều - một nguồn lực dồi dào đang rất cần được khai thác.
Để thực hiện tốt vai trò là lực lượng nòng cốt, trong thời gian tới đội ngũ này
phải không ngừng củng cố tổ chức, nâng cao cả chất lượng và số lượng, khắc phục những
khó khăn, yếu kém đang tồn tại đáp ứng ngày càng tốt hơn những yêu cầu của công cuộc
xây dựng CNXH.
2.2. kết quả thực hiện nhiệm vụ của đội ngũ trí thức thuộc liên hiệp các hội khoa
học và kỹ thuật Việt Nam trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
2.2.1. Hoạt động nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ
Thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước nhằm xây dựng nền tảng cho qua
trình CNH, HĐH đất nước, đội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp Hội luôn coi trọng công tác
nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ. Những năm qua, nhiều dự án, đề tài thuộc
các lĩnh vực và các cấp quản lý khác nhau đã được trí thức thuộc Liên hiệp Hội triển khai
thành công, trong đó có những công trình phát huy hiệu quả lớn trong thực tiễn. Tiêu biểu
là một số công trình nghiên cứu: Định hướng chiến lược phát triển năng lượng đến 2020;
Tổng hợp chiến lược và chính sách phát triển năng lượng bền vững quốc gia; Hoàn thiện
công nghệ thiết kế, chế tạo và thi công kè thảm bê tông tự chèn lưới thép P.D.TAC-M bảo
vệ bờ sông khỏi sạt lở; Nghiên cứu đề xuất các giải pháp sử dụng hợp lý tài nguyên khoáng
sản năng lượng và bảo vệ môi trường v.v... (xem phụ lục 1). Đặc biệt, Liên hiệp Hội có
chương trình khoa học công nghệ cấp Nhà nước về Xây dựng chiến lược, chính sách phát
triển, năng lượng bền vững được triển khai trong giai đoạn 1990 - 2000 và đã được tổng
kết vào tháng 12/2001, kết quả nghiên cứu của chương trình được đánh giá xuất sắc, đặt
cơ sở khoa học đáng tin cậy cho việc hoạch định chính sách năng lượng quốc gia giai
đoạn 2010 - 2020. Những kết quả trên đây cho thấy, Liên hiệp Hội đã góp phần to lớn
cho chiến lược phát triển công nghệ cao ở Việt Nam, đồng thời tạo tiền đề quan trọng để
phát triển những ngành này trong thời gian tới.
Bên cạnh một số ít đề tài thuộc các lĩnh vực công nghệ cao, phần lớn các đề tài
của Liên hiệp Hội phục vụ công tác quản lý nhà nước về môi trường. Các đề tài này tập
trung chủ yếu vào việc đánh giá tác động môi trường, ứng dụng các công nghệ xử lý
môi trường, giáo dục và truyền thông bảo vệ môi trường. Trong đó một số công trình
tiêu biểu như: Xây dựng Atlas điện tử môi trường vùng đồng bằng Bắc Bộ; Nghiên cứu
cơ sở phân vùng địa lý phục vụ phổ biến thông tin về phát triển bền vững kinh tế - xã
hội và truyền thông, vận động bảo vệ môi trường nông thôn đồng bằng sông Hồng; Kỹ
thuật dự báo cháy rừng bằng ảnh viễn thám; Quy hoạch môi trường khu vực Hàm Rồng
(Thanh Hóa); Công nghệ xử lý nước thải làng nghề; Công nghệ xử lý và chôn lấp rác
thải; Công nghệ phân hủy thuốc bảo vệ thực vật.v.v... (xem phụ lục 2).
Ngoài ra, Liên hiệp Hội còn có một số lượng đáng kể các đề tài phục vụ cho việc
phát triển sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản, cải tạo và sử dụng đất, bảo vệ và
sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên, xử lý nước sinh hoạt, chăm sóc sức khỏe nhân
dân, y tế dự phòng... Trong số này, nổi bật là đề tài "Xây dựng mô hình phát triển nông
nghiệp, nông thôn theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa". Việc ứng dụng kết quả
nghiên cứu của đội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp Hội đã đem lại nhiều lợi ích thiết thực
cho sản xuất nông nghiệp, bảo vệ môi trường sinh thái, góp phần nâng cao đời sống của
nhân dân, đồng thời củng cố vững chắc hơn khối liên minh giữa công nhân, nông dân và
trí thức.
Theo dự thảo Báo cáo sơ kết 5 năm thực hiện Chỉ thị số 45-CT/TW của Liên hiệp
Hội, trong 5 năm (1998-2003) số lượng các đề tài, dự án cấp Nhà nước giao cho các nhà
khoa học của Liên hiệp Hội không ngừng tăng. Cụ thể năm 1998: 15 đề tài/ dự án, năm
2000:18 đề tài/ dự án, năm 2001: 30 đề tài/ dự án, năm 2002: 35 đề tài/dự án, năm 2003:
55 đề tài/ dự án. Nhưng thành tựu nổi bật nhất là các công trình được nhận những giải
thưởng có uy tín như Giải thưởng Hồ Chí Minh về KH&CN&CN, Giải thưởng KH&CN
Việt Nam cho những đề tài về các ngành công nghệ cao: Công nghệ thông tin, công nghệ
vật liệu mới, công nghệ cơ khí và tự động hóa.
Ngoài ra, đội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp Hội đã tổ chức và tham gia một số hội
nghị, hội thảo khoa học trong nước và quốc tế như Hội nghị CAPEO của Liên đoàn các
tổ chức kỹ sư ASEAN, Hội thảo Sinh học quốc tế (2001), Hội thảo quốc tế về bảo vệ môi
trường và sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên (2002)... Bên cạnh đó những Hội thảo
chuyên ngành và chuyên đề về khoa học - công nghệ mỏ, năng lượng, tài nguyên nước,
kinh tế tri thức và phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam, công nghệ khí sinh học, môi
trường và giáo dục môi trường... cũng đã được Liên hiệp Hội tổ chức (phụ lục 3).
Thông qua các cuộc hội thảo này, trí thức thuộc Liên hiệp Hội có điều kiện tiếp
thu những thành tựu về KH&CN mới nhất, được trao đổi kinh nghiệm với các nhà khoa
học đến từ nhiều quốc gia để nâng cao trình độ, góp phần thúc đẩy KH&CN trong nước
phát triển, tạo tiền đề đưa nhanh những tiến bộ khoa học vào sản xuất và đời sống, đồng
thời thu hẹp khoảng cách chênh lệch về trình độ giữa các vùng, miền trong nước cũng
như giữa Việt Nam và các nước trên thế giới.
Bên cạnh những kết quả rất đáng khích lệ trên, hoạt động nghiên cứu khoa học
và phát triển công nghệ của trí thức thuộc Liên hiệp Hội còn tồn tại một số hạn chế nhất
định: Về phạm vi, quy mô hoạt động còn tản mạn chưa tương xứng với tiềm năng của
Liên hiệp Hội. Nhìn chung các đề tài mà Liên hiệp Hội và các Hội ngành triển khai chưa
tập trung nhiều vào khoa học cơ bản, chưa thu hút và phát huy tối đa số lượng hội viên
tham gia và còn ít đề tài nghiên cứu mang tầm chiến lược, quy mô lớn, chủ yếu mới chỉ
tập trung ở một số vấn đề trước mắt, trong phạm vi hẹp. Trước những yêu cầu của công
cuộc đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước hiện nay, việc nghiên cứu khoa học và phát triển
công nghệ của trí thức thuộc Liên hiệp Hội cần phải có chiến lược lâu dài, đặt trọng tâm
vào một số lĩnh vực cơ bản và quan trọng như các ngành công nghệ cao. Bên cạnh việc
nghiên cứu ứng dụng, Liên hiệp Hội cần phải chú trọng đến nghiên cứu lý thuyết mang
tính chuyên sâu.
Trong số các Hội ngành Trung ương, còn có đơn vị hoạt động kém hiệu quả, tổ
chức lỏng lẻo nên chất lượng của hoạt động nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ
chưa cao. Có Hội chỉ tổ chức được từ một đến bốn cuộc Hội thảo khoa học/1 năm. Bên
cạnh đó còn tồn tại tâm lý thụ động, trông chờ cơ quan Liên hiệp Hội Trung ương giao đề
tài, ít chủ động tìm kiếm trong khi thực tiễn còn rất nhiều vấn đề đang cần được các nhà
khoa học nghiên cứu giải đáp.
Khó khăn về kinh phí là một yếu tố tác động chính đến công tác nghiên cứu khoa
học và phát triển công nghệ cũng như các hoạt động khác của đội ngũ này. Mặc dù Đảng
ta đã khẳng định vai trò của KH&CN cùng với GD&ĐT là quốc sách hàng đầu, nhiều
văn bản, chỉ thị của Đảng và Nhà nước khẳng định Liên hiệp các Hội khoa học và Kỹ
thuật Việt Nam cùng với các đoàn thể chính trị khác tạo thành lực lượng nòng cốt trong
công cuộc CNH, HĐH đất nước, nhưng trong thực tế việc thực hiện và đầu tư cho đội
ngũ này chưa tương xứng với vai trò mà Đảng và Nhà nước giao cho. Ngoài Tổng hội Y -
Dược học Việt Nam, Hội Đông y Việt Nam và Hội Luật gia Việt Nam được Nhà nước hỗ
trợ kinh phí, còn lại các Hội đều phải tự lo kinh phí hoạt động. Đó cũng là một trong
những nguyên nhân dẫn đến hạn chế hiệu quả hoạt động nghiên cứu khoa học và phát
triển công nghệ của nhiều Hội ngành Trung ương.
Những thành quả lao động của đội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp Hội đã ngày càng
khẳng định vai trò, tiềm năng của đội ngũ này. Để phát huy tối đa tiềm lực "chất xám"
quý báu này, Liên hiệp Hội và các Hội ngành Trung ương cần khắc phục những hạn chế,
yếu kém, chủ động và xây dựng chiến lược lâu dài về nghiên cứu khoa học và phát triển
công nghệ, trước hết cần tập trung nguồn nhân lực phục vụ, đáp ứng những yêu cầu đang
đặt ra về KH&CN trong quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước.
2.2.2. Hoạt động chính trị - xã hội
Đội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp Hội có vai trò tích cực trong đời sống chính trị -
xã hội của đất nước. Những đóng góp của đội ngũ này trước hết thể hiện ở việc trực tiếp
tham gia soạn thảo hoặc đóng góp ý kiến cho các văn kiện quan trọng của Đảng và Nhà
nước, các dự luật và chiến lược phát triển, các dự án lớn về kinh tế - xã hội, KH&CN,
GD&ĐT. Nhiều ý kiến của các nhà khoa học thông qua Liên hiệp Hội đã được lắng nghe
và đánh giá cao. Trong số các văn kiện quan trọng mà các nhà khoa học thuộc Liên hiệp
Hội đã đóng góp ý kiến, tiêu biểu như Dự thảo Báo cáo chính trị trình Đại hội IX, Hiến
pháp 1992 (sửa đổi), chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001 - 2010, các văn kiện Hội
nghị Trung ương Đảng (khóa IX); đóng góp ý kiến với dự thảo văn kiện Hội nghị Trung
ương 7 (khóa IX) về vai trò của trí thức trong liên minh giữa giai cấp công nhân với giai
cấp nông dân và đội ngũ trí thức và các văn kiện quan trọng khác.
Không chỉ tham gia đóng góp ý kiến trong những văn kiện quan trọng trên, ở lĩnh
vực ngành, đội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp Hội thông qua hoạt động tư vấn, phản biện và
giám định xã hội cũng có những đóng góp nhất định, làm cho quy trình ban hành quyết
định của Nhà nước đúng đắn, chính xác hơn. Đội ngũ trí thức thuộc Hội Luật gia Việt
Nam đã tham gia góp ý về Dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật ban hành
văn bản quy phạm pháp luật, Dự án Tổng quan về vấn đề phòng chống tai nạn, thương
tích cho trẻ em trong pháp luật Việt Nam, trí thức thuộc Hội Khoa học kỹ thuật xây dựng
Việt Nam góp ý kiến cho Luật xây dựng, Luật khoa học công nghệ, Nghị định và Điều lệ
đầu tư xây dựng, đấu thầu xây dựng, v.v...
Những hoạt động chính trị - xã hội của đội ngũ này còn thể hiện rõ nét trong việc
tham gia các hoạt động chuẩn bị và tổ chức bầu cử Quốc hội khóa IX, X, XI. Trong số
những người ra ứng cử và được đề cử thông qua Liên hiệp Hội, hầu hết đều được bầu vào
Quốc hội. Với vai trò là đại biểu Quốc hội, các nhà khoa học đã có những đóng góp trực
tiếp vào các quyết sách quan trọng của đất nước cũng như các địa phương khác trong sự
nghiệp phát triển kinh tế - xã hội.
Đồng thời việc nghiên cứu quán triệt và triển khai thực hiện các Nghị quyết của
Đảng được tổ chức thực hiện kịp thời và có sự tham gia tích cực của đội ngũ trí thức
thuộc Liên hiệp Hội, đặc biệt là những văn kiện liên quan đến KH&CN, GD&ĐT. Bên
cạnh đó, Câu lạc bộ Thời sự - Khoa học được tổ chức thường xuyên với chương trình, nội
dung phong phú giúp cho hội viên nắm bắt kịp thời những thông tin quan trọng về chính
trị - xã hội của đất nước cũng như trong khu vực và trên thế giới. Những hoạt động này
đã có ý nghĩa tích cực góp phần giáo dục tư tưởng chính trị cho đội ngũ trí thức.
Thông qua Đảng đoàn của Liên hiệp Hội, với tinh thần và trách nhiệm thực hiện
đường lối đổi mới của Đảng, trí thức thuộc Liên hiệp Hội đã phát huy tinh thần dân chủ,
thẳng thắn phát biểu ý kiến về những vấn đề hệ trọng liên quan đến quốc kế, dân sinh,
cũng như mạnh dạn đề đạt ý kiến của mình trong việc xây dựng và thực hiện đường lối,
chính sách của Đảng, Nhà nước. Điều đó không chỉ thể hiện trách nhiệm của nhà khoa
học với đất nước mà đó còn là tình yêu, sự gắn bó sâu sắc với dân tộc - một yếu tố rất
quan trọng và cần được phát huy tốt trong giai đoạn hiện nay, không chỉ với trí thức ở
trong nước mà cả những trí thức là người Việt Nam ở nước ngoài.
Là thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, đội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp
Hội đã hưởng ứng các hoạt động do Mặt trận phát động như đóng góp xây dựng "Quỹ Vì
người nghèo", "Quỹ Phòng chống thiên tai", các hoạt động "Đền ơn đáp nghĩa", "Xây
dựng nhà tình nghĩa"; khám chữa bệnh và cấp thuốc miễn phí cho người thuộc diện chính
sách, ở vùng sâu, vùng xa; tư vấn pháp lý miễn phí cho người nghèo... Những đóng góp
này đã góp phần không nhỏ trong thực hiện các mục tiêu chính trị - xã hội của Đảng và
Nhà nước, củng cố vững chắc hơn khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Bên cạnh những kết quả trên, việc thực hiện nhiệm vụ này còn gặp một số khó
khăn và bộc lộ một số yếu kém cần khắc phục. Việc bồi dưỡng, giáo dục tư tưởng chính
trị cho đội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp Hội chưa thực sự được coi trọng đúng mức. Hội
viên được kết nạp vào Đảng Cộng sản Việt Nam là hình thức biểu hiện kết quả trưởng
thành về ý thức chính trị, nhưng số này không nhiều, chỉ có 213 đảng viên trong tổng số
hơn 40 vạn trí thức.
Những hạn chế trên là do nhiều nguyên nhân cả chủ quan và khách quan. Trước
hết do nhận thức về tính chất chính trị - xã hội của tổ chức này thiếu sự thống nhất cần
thiết, nhiều cơ quan, đơn vị còn coi Liên hiệp Hội như một tổ chức xã hội - nghề nghiệp
chưa thực sự đối xử ngang bằng với các tổ chức như Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam,
Hội nông dân Việt Nam, Hội Cựu chiến binh Việt Nam, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam,
Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh. Mặt khác, bản thân đội ngũ này cũng chưa ý
thức rõ nhiệm vụ của mình khi tham gia vào một tổ chức chính trị - xã hội, thậm chí còn
có tâm lý coi đây giống như các tổ chức phi chính phủ của nước ngoài.
Hạn chế của công tác này một phần còn do Đảng Đoàn của cơ quan Trung ương
Liên hiệp Hội hoạt động kém hiệu quả nhất là công tác phát triển đảng. Việc nghiên cứu,
tìm hiểu các môn khoa học Mác-Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh còn chưa được chú
trọng trong Liên hiệp Hội.
2.2.3. Hoạt động tư vấn, phản biện và giám định xã hội
Để đảm bảo mục tiêu phát triển bền vững, điều kiện quan trọng và tiên quyết là
mọi chủ trương, chính sách, kế hoạch, dự án phát triển đều phải được xây dựng và thực
hiện trên cơ sở khoa học. Do vậy, việc tư vấn, phản biện và giám định xã hội là vô cùng
quan trọng và cần thiết, đặc biệt trong giai đoạn hiện nay khi mà chúng ta không chỉ đưa
đất nước phát triển một cách bền vững mà phải đảm bảo đúng định hướng xã hội chủ
nghĩa :
Tư vấn là hoạt động trợ giúp về tri thức, kinh nghiệm, cung cấp các thông tin tư
liệu cùng các ý kiến phân tích, đánh giá và kiến nghị trong việc đề xuất, xây dựng hoặc
thẩm định, phê duyệt đề án.
Phản biện là hoạt động cung cấp các thông tin, tư liệu cùng các ý kiến phân tích,
đánh giá tính khả thi và các kiến nghị về sự phù hợp của nội dung đề án đối với mục tiêu
và các điều kiện ràng buộc ban đầu hoặc thực trạng đặt ra.
Giám định là hoạt động theo dõi việc thực hiện đề án, đưa ra các ý kiến phân
tích, đánh giá và kiến nghị kịp thời về việc tổ chức thực hiện, mục tiêu, nội dung hoặc
chất lượng đề án.
Tư vấn, phản biện và giám định xã hội là cách diễn đạt vắn tắt của tư vấn xã hội,
phản biện xã hội và giám định xã hội, tức là tư vấn, phản biện và giám định của các lực
lượng xã hội, từ phía xã hội và mang tính chất độc lập. Các hoạt động đó nhằm mục đích
cung cấp cho các cơ quan đặt yêu cầu tư vấn, phản biện và giám định xã hội có thêm cơ
sở, luận cứ khoa học độc lập, khách quan trong việc đề xuất, xây dựng, thẩm định, phê
duyệt hoặc thực hiện đề án.
Nhận thức rõ tầm quan trọng của việc tư vấn, phản biện và giám định xã hội, với
niềm tin sâu sắc vào đội ngũ trí thức, Đảng và Nhà nước ta đã trao nhiệm vụ quan trọng này
lên vai đội ngũ này, trong đó có trí thức thuộc Liên hiệp Hội. Đó vừa là vinh dự vừa là
trách nhiệm nặng nề, đòi hỏi sự nỗ lực lớn cả về trí tuệ và tâm sức của các nhà khoa học.
Chỉ thị số 35-CT/TƯ (ngày 11-4-1988), Ban Bí thư Trung ương Đảng (khóa VI) đã xác
định một trong những nhiệm vụ chủ yếu của Liên hiệp Hội là "tư vấn về chính sách khoa
học - kỹ thuật và kinh tế - xã hội cho Đảng và Nhà nước".
Trên cơ sở sơ kết bốn năm thực hiện Chỉ thị số 35-CT/TƯ, ngày
20-11-1992, Ban Bí thư Trung ương Đảng (khóa VII) ra thông báo số 37-TB/TƯ về
tổ chức và hoạt động của Liên hiệp Hội, trong đó chỉ rõ: "Trước mắt cần thể chế hóa
chức năng tư vấn, phản biện và giám định xã hội về khoa học và kỹ thuật của các hội".
Thông báo cùng đề ra yêu cầu "Nơi chưa có tổ chức thì xúc tiến việc thành lập hội; nơi
đã có tổ chức cần chỉ đạo việc củng cố và hoạt động để phát huy vai trò của hội, trong đó
có vai trò tư vấn, phản biện và giám định xã hội về KH&CN ở địa phương".
Bước vào thời kỳ mới, thời kỳ đẩy mạnh sự nghiệp CNH, HĐH đất nước,
KH&CN có vị trí ngày càng quan trọng và được khẳng định là "quốc sách hàng đầu".
Các luận cứ khoa học trở thành một trong những điều kiện và tiền đề không thể thiếu
trong việc hoạch định đúng đắn các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. Các
dự án đầu tư, các công trình xây dựng ngày càng đòi hỏi trình độ công nghệ, kỹ thuật tiên
tiến để giải quyết thỏa đáng mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội thì
không thể không dựa trên những cơ sở của khoa học xã hội và nhân văn. Trong hoàn
cảnh đó, vị trí, vai trò của trí thức thuộc Liên hiệp Hội ngày càng được khẳng định trong
hoạt động tư vấn, phản biện và giám định xã hội.
Chính vì vậy, ngày 11-11-1998, Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa VIII) ra
Chỉ thị số 45-CT/TƯ trong đó nêu rõ:
Liên hiệp Hội là một tổ chức chính trị - xã hội của trí thức khoa học và
công nghệ Việt Nam, cùng với các đoàn thể chính trị - xã hội khác tạo thành
lực lượng nòng cốt trong công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước".
Bản Chỉ thị cũng yêu cầu Liên hiệp Hội cần đẩy mạnh "Tư vấn, phản biện và
giám định xã hội trong hoạt động khoa học, công nghệ nhằm góp phần thiết
thực của Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật vào công cuộc công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước [24].
Sau Chỉ thị số 14/2000/CT-TTg ngày 01-8-2002 về việc triển khai thực hiện các
biện pháp nhằm đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả hoạt động của Liên hiệp các Hội Khoa
học và Kỹ thuật Việt Nam, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định 22/2002/QĐ-
TTg ngày 30-01-2002 về hoạt động tư vấn, phản biện và giám định xã hội của Liên hiệp
Hội. Những văn bản tiêu biểu trên đã khẳng định quan điểm nhất quán, trước sau như
một của Đảng và Chính phủ về hoạt động tư vấn, phản biện và giám định xã hội của Liên
hiệp Hội và các hội thành viên.
Theo tinh thần các văn kiện nêu trên thì đối tượng tư vấn, phản biện và giám định
xã hội của Liên hiệp Hội và các Hội thành viên là các chính sách, các chương trình dự án,
đề án phát triển kinh tế - xã hội, giáo dục - đào tạo, khoa học, công nghệ và môi trường
(gọi chung là đề án) có tính chất phức tạp, ưu tiên, trọng điểm hoặc đa ngành, do các cơ
quan xây dựng, thực hiện hoặc trình cấp trên phê duyệt.
Tư vấn, phản biện và giám định xã hội là chức năng đặc biệt quan trọng và ưu
thế của Liên hiệp Hội. Mặc dù đây là nhiệm vụ mới mẻ và chưa có tiền lệ, còn gặp nhiều
khó khăn trong bước đầu triển khai thực hiện, nhưng với trách nhiệm, tình yêu đối với đất
nước, đội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp Hội đã đạt được một số thành tựu bước đầu góp
phần đem lại nhiều lợi ích cho sự nghiệp CNH, HĐH đất nước.
Ngay từ đầu những năm 90, khi đất nước đứng trước hoàn cảnh rất khó khăn, đội
ngũ trí thức thuộc Liên hiệp Hội đã tổ chức đóng góp ý kiến cho một số dự thảo văn kiện
của Đảng và Nhà nước. Tại cuộc gặp gỡ với các đồng chí lãnh đạo cấp cao do Liên hiệp
Hội tham gia tổ chức (11-1991), các nhà khoa học đã nhất trí cao trong việc đánh giá tình
hình đất nước trước những diễn biến phức tạp của tình hình thế giới, khẳng định những
thành quả về chính trị, kinh tế, xã hội của công cuộc đổi mới do Đảng Cộng sản Việt
Nam khởi xướng và lãnh đạo. Nhiều đại biểu của các hội thành viên đã đề xuất những ý
kiến quý báu về việc khắc phục những khó khăn trước mắt và tiếp tục vững bước đưa đất
nước phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Trong những năm tiếp theo, việc đóng góp ý kiến của trí thức thuộc Liên hiệp
Hội tập trung vào dự thảo các văn kiện quan trọng của Đảng và Nhà nước, như Pháp lệnh
Kiểm soát phóng xạ (12-1993), Luật về hội (4-1995), Bộ luật Dân sự (4-1995), Báo cáo
chính trị trình Đại hội VIII của Đảng (9-1995), Luật KH&CN (9-1996), Nghị quyết Hội
nghị Trung ương hai (10-1996), Báo cáo chính trị trình Đại hội IX (10-2000), chiến lược
phát triển kinh tế - xã hội 2001-2010 (10-2000).
Trong năm 1997, đội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp Hội đã tổ chức thẩm định và
phản biện 09 bản quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội các vùng thời kỳ 1996-
2010: Vùng đồng bằng sông Hồng; vùng Tây Bắc; vùng Bắc Trung Bộ; vùng Đông Nam
Bộ; vùng đồng bằng sông Cửu Long; vùng phát triển kinh tế trọng điểm miền Trung;
vùng phát triển kinh tế trọng điểm miền Nam; vùng duyên hải Nam Trung Bộ, vùng Tây
Nguyên.
Trong năm 1999, đã có 9 trong số 11 dự thảo quy hoạch tổng thể phát triển kinh
tế - xã hội các vùng đến năm 2010 nhận được ý kiến thẩm định và phản biện của trí thức
thuộc Liên hiệp Hội. Đặc biệt, Liên hiệp Hội đã tổ chức tư vấn, phản biện và thẩm định
hồ sơ của 15 dự án đầu tư phát triển quan trọng, trong đó lớn nhất là thủy điện Sơn La
trên sông Đà, với những đóng góp quan trọng cho công trình này, ngày 02 tháng 01
năm 2004, Chủ tịch Hội đồng thẩm định Nhà nước Dự án thủy điện Sơn La đã ra quyết
định số 04/QĐ/HĐTĐSL khen thưởng Liên hiệp Hội "đã có nhiều thành tích tham gia trong
công tác thẩm định dự án thủy điện Sơn La từ năm 1998 đến năm 2003". Đó là sự ghi nhận
và khẳng định vai trò, năng lực của trí thức thuộc Liên hiệp Hội trong công tác tư vấn,
phản biện và giám định xã hội.
Để từng bước đưa các văn kiện của Đảng và Nhà nước vào cuộc sống, trong năm
2001, 19 Hội đồng tư vấn chuyên ngành và Ban công tác tư vấn, phản biện và giám định
xã hội thuộc Liên hiệp Hội đã được thành lập. Cũng trong năm 2001, trí thức thuộc Liên
hiệp Hội đã tích cực tham gia góp ý kiến cho nhiều văn kiện quan trọng của Đảng và Nhà
nước, trong đó phải kể đến các văn kiện và nhân sự Đại hội IX của Đảng, Hiến pháp sửa
đổi (5-2001), "Chiến lược phát triển KH&CN năm 2001-2010", "Chiến lược phát triển
giáo dục 2001-2010", thẩm định Dự án "Đường Hồ Chí Minh đoạn đi qua vườn Quốc gia
Cúc Phương... Đặc biệt, đội ngũ trí thức thuộc Hội Xây dựng Việt Nam cùng với các nhà
khoa học thuộc Liên hiệp Hội đã tổ chức nhiều hội thảo góp ý kiến đối với biện pháp
nâng cao chất lượng nước Hồ Tây thuộc Dự án "Xây dựng hạ tầng kỹ thuật xung quanh
Hồ Tây", mà kết quả của nó đã giúp ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội ra quyết định
đình chỉ kịp thời tiểu dự án "Nâng cao chất lượng nước Hồ Tây" - một dự án không có cơ
sở chắc chắn và tốn kém nhiều tiền của.
Từ năm 2002 đến nay, nhiều dự án, văn kiện quan trọng của Đảng và Nhà nước
tiếp tục nhận được những ý kiến đóng góp từ phía các nhà khoa học thuộc Liên hiệp Hội.
Tính riêng trong năm 2003 và hai tháng đầu năm 2004, đã có 12 cuộc hội thảo đóng góp
ý kiến về các vấn đề giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt, bảo tồn và phát huy di sản lịch
sử, di chỉ Hoàng thành Thăng Long, quy chế giám sát đầu tư của công cộng, bảo vệ nguồn
thực vật quý hiếm, bảo vệ động vật hoang dã, các biện pháp cứu chữa các giống gà gốc
Việt Nam, công nghệ sinh học, phòng thí nghiệm trọng điểm quốc gia, chống sạt lở bờ
sông, môi trường biển Hải Phòng, địa hóa với môi trường và đời sống.
Trong số các công trình khoa học mà trí thức thuộc Liên hiệp Hội đã tổ chức để
đóng góp ý kiến gần đây, đặc biệt phải kể đến việc bảo tồn di chỉ Hoàng thành Thăng
Long. Theo dự kiến, Chính phủ sẽ xây dựng Bảo tàng Quân đội nhân dân Việt Nam hiện
nay thành Bảo tàng lịch sử quân sự Việt Nam bên cạnh Cột cờ Hà Nội, trong khu vực
thành Hà Nội. Để bảo tồn các công trình kiến trúc trên mặt đất và di chỉ dưới mặt đất - nơi
có bề dày các tầng văn hóa trải qua mười ba thế kỷ, là duy nhất độc đáo trên thế giới, nơi
còn chứa đựng nhiều di tích, di vật của Hoàng thành thời Lý, Trần, Lê - các nhà khoa học
thuộc Hội Khoa học lịch sử Việt Nam, Viện Khoa học khảo cổ, Hội dân tộc học Việt Nam,
Hội Luật gia Việt Nam, Hội kiến trúc sư Việt Nam, Hội Quy hoạch đô thị Việt Nam, Hội
Khoa học lịch sử Hà Nội, Hội các ngành sinh học Việt Nam và Viện nghiên cứu và phát
triển phương Đông đã nghiên cứu và kiến nghị không xây Bảo tàng lịch sử quân sự Việt
Nam phía sau Cột cờ và trước Đoan môn, gấp rút xây dựng quy hoạch tổng thể bảo tồn di
tích Hoàng thành Thăng Long, thành Hà Nội kéo dài cho đến các di tích cách mạng và
kháng chiến thời đại Hồ Chí Minh. Sự kiện này không phải các nhà khoa học thực hiện
theo đề nghị từ phía Chính phủ, mà do các nhà khoa học chủ động kiến nghị. Điều này thể
hiện sự tâm huyết, trách nhiệm đối với dân tộc, trách nhiệm của thế hệ này đối với thế hệ
mai sau của các nhà khoa học trong Liên hiệp Hội. Những cổ vật còn nằm dưới mặt đất là
tư liệu vô cùng quý giá đối với nhiều ngành khoa học, là cơ sở để khẳng định bề dầy, giá trị
lịch sử và văn hóa của Thành Thăng Long nói riêng, của dân tộc ta nói chung. Những kiến
nghị trên là cơ sở khoa học, là căn cứ khách quan đã có tác động đến việc xây dựng Bảo
tàng lịch sử quân sự Việt Nam, hiện nay dự án đó tạm thời ngừng triển khai.
Mới đây nhất là những ý kiến đóng góp về "Một số biện pháp nhằm tiến tới cải
cách triệt để và toàn diện nền giáo dục Việt Nam" (ngày 09 tháng 5 năm 2005) của trí
thức thuộc Liên hiệp Hội. Trên cơ sở đánh giá khái quát về thực trạng ngành giáo dục của
nước ta hiện nay và chỉ ra những nguyên nhân của những tồn tại trong ngành giáo dục,
các nhà khoa học đã kiến nghị sáu giải pháp trước mắt với mong muốn đưa sự nghiệp
giáo dục đào tạo của nước ta phát triển.
Ngoài các hoạt động tư vấn, phản biện và giám định xã hội mang tính liên
ngành, thì hoạt động mang tính chuyên ngành của trí thức thuộc Liên hiệp Hội cũng
có những đóng góp quan trọng. Tiêu biểu là trí thức của một số Hội ngành như: Hội
Vô tuyến - Điện tử với dự án phóng vệ tinh nhân tạo VINASAT của Việt Nam; Hội
Khoa học - Kỹ thuật nhiệt đới với các nhà máy nhiệt điện Hải Phòng, Cẩm Phả,Quảng
Ninh; Hội Đúc - Luyện kim đối với chương trình nghiên cứu vật liệu luyện kim đen,
sản xuất gang trong lò cao nhỏ; Hội Hóa học đối với đề án xây dựng nhà máy lọc dầu
và phương hướng phát triển công nghiệp hóa dầu; Tổng hội y - Dược học đối với đề
án về hành nghề y, dược tư nhân; Hội Luật gia đối với công tác xây dựng pháp luật và
hoạt động tư pháp; Hội Khoa học lịch sử đối với việc đánh giá một số sự kiện và nhân
vật lịch sử; Hội Quy hoạch và phát triển đô thị Việt Nam đã tham gia tư vấn, nghiên
cứu thiết kế đề án quy hoạch chi tiết cho thành phố Hà Nội và các địa phương khác,
03 đề án nghiên cứu quy hoạch tổng thể hệ thống đô thị các tỉnh Bắc Giang, Bắc
Ninh, Quảng Ninh 2001 - 2020; Hội khoa học kỹ thuật xây dựng Việt Nam những
năm gần đây đã tham gia phản biện các vấn đề như: Dự án xa lộ Bắc - Nam; Dự án
đường hầm qua đèo Hải Vân; Chiến lược phát triển giao thông của cả nước; Luật xây
dựng...
Những kết quả tiêu biểu trên của Liên hiệp Hội đã mang lại những lợi ích to lớn
trong quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước, khẳng định việc tư vấn, phản biện và
giám định xã hội ngày càng trở thành hoạt động quan trọng. Một mặt, nó đã góp phần vào
việc nâng cao chất lượng soạn thảo và thực hiện các chính sách, các chương trình, dự án,
đề án về phát triển kinh tế - xã hội, GD&ĐT, khoa học, công nghệ và môi trường. Mặt
khác, hoạt động này càng khẳng định rõ hơn vai trò của lý luận khoa học trong hoạt động
thực tiễn, khẳng định vị trí quan trọng của tầng lớp trí thức trong CNH, HĐH đất nước
nói riêng, xây dựng CNXH nói chung.
Tuy vậy, những thành tựu trên mới chỉ là bước đầu, trước những yêu cầu của
việc phát triển đất nước trong giai đoạn mới, đội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp Hội cần
phải nỗ lực hơn nữa trong hoạt động tư vấn, phản biện và giám định xã hội. Quá trình
thực hiện nhiệm vụ này trong những năm qua của Liên hiệp Hội cũng đã bộc lộ một số
hạn chế và khó khăn nhất định.
Hạn chế trước hết là sự lúng túng của một số thành viên thuộc Liên hiệp Hội, do
đây là hoạt động mới, chưa có tiền lệ ở nước ta. Bên cạnh đó, năng lực, kỹ năng thực tiễn
của các chuyên gia thuộc Liên hiệp Hội nói chung còn hạn chế, thiếu năng động, chủ
động và quyết tâm, chưa tạo được niềm tin lớn đối với các cơ quan sử dụng tư vấn. Nhìn
chung, Liên hiệp Hội còn thiếu một đội ngũ chuyên gia có kỹ năng và trình độ chuyên
môn tương ứng.
Mặc dù có nhiều văn kiện của Đảng và Nhà nước đã khẳng định vai trò và
khuyến khích hoạt động tư vấn, phản biện và giám định xã hội của đội ngũ trí thức thuộc
Liên hiệp Hội, nhưng việc thực hiện nhiệm vụ này còn gặp nhiều khó khăn. Nhiều Bộ,
Ban, ngành ở Trung ương và ủy ban nhân dân các địa phương chưa thực sự vào cuộc,
chưa nhận thức đầy đủ tầm quan trọng của hoạt động tư vấn độc lập trong việc xây dựng
và thực hiện các dự án phát triển, nên chưa chủ động giao cho Liên hiệp Hội thực hiện
các nhiệm vụ tư vấn, phản biện và giám định xã hội về các đề án xây dựng cơ chế, chính
sách và phát triển kinh tế - xã hội của bộ, ngành, địa phương.
Việc ban hành các văn bản pháp lý liên quan đến hoạt động này của Liên hiệp
Hội còn chưa đồng bộ, thiếu sự thống nhất cần thiết. Cụ thể, Chính phủ đã ban hành Quyết
định số 22/2002/QĐ-TTg (ngày 30 tháng 01 năm 2002) về hoạt động tư vấn, phản biện và
giám định xã hội nhưng lại chưa có quy định cụ thể về những loại công trình, đề án thuộc
cấp cao nhất định phải qua tư vấn, phản biện và giám định xã hội. Do vậy, hoạt động này
chủ yếu được thực hiện trên cơ sở các quan hệ trực tiếp, phần lớn các dự án là do các cơ
quan có quen biết đề nghị Liên hiệp Hội nghiên cứu, đóng góp ý kiến, đa số nội dung các
dự án mới chỉ giới hạn trong một số lĩnh vực nhất định.
Do vậy, Nghị định số 88/2003/NĐ-CP (ngày 30/7/2003) của Chính phủ quy
định về tổ chức, hoạt động và quản lý Hội, theo đó các Hội có phạm vi hoạt động trong
cả nước hoặc liên tỉnh sẽ chịu sự quản lý của Bộ Nội vụ là rất cần thiết, nó tạo ra hành
lang pháp lý quan trọng để các thành viên trong Liên hiệp Hội hoạt động. Tuy nhiên,
một số nội dung trong Nghị định, xét ở góc độ nào đó có thể hạn chế hoạt động của các
Hội ngành Trung ương, đặc biệt là hoạt động tư vấn, phản biện và giám định xã hội.
Nếu các đơn vị thành viên của Liên hiệp Hội thuộc sự quản lý của các Bộ ngành Trung
ương thì không những làm cho bộ máy hành chính cồng kềnh, mà hoạt động của đội
ngũ trí thức lại phụ thuộc vào cơ chế "xin - cho", điều này rất dễ tạo ra kẽ hở cho tiêu
cực, bất hợp tác nảy sinh khi Hội do cơ quan quản lý lại thực hiện tư vấn, phản biện và
giám định xã hội đối với các đề án, công trình của chính cơ quan này. Điều này thiếu
thống nhất với tinh thần của Quyết định số 22/2002/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ
quy định về hoạt động này của Liên hiệp Hội. Nghị định có thể sẽ làm giảm tính độc
lập, khách quan trong việc thực hiện nhiệm vụ này của đội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp
Hội, nhất là hiện nay còn tồn tại tâm lý "ngại", "sợ" bị tư vấn, phản biện và giám định
xã hội, bởi họ lo sợ để lộ ra những điểm yếu, bất cập trong các đền án của mình.
Đảng và Nhà nước ta luôn thể hiện quan điểm nhất quán và niềm tin sâu sắc đối
với đội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp Hội, nhưng cũng cần phải tạo những điều kiện thuận
lợi cần thiết cả về mặt pháp lý và cơ chế, chính sách đối với đội ngũ này. Mặt khác, bản
thân trí thức thuộc Liên hiệp Hội phải tự ý thức về vai trò, trách nhiệm cũng như những
yêu cầu của nhiệm vụ mà Đảng và Nhà nước giao cho, phấn đấu thực hiện tốt vai trò của
mình để xứng đáng với niềm tin của Đảng và nhân dân, tiếp nối truyền thống tốt đẹp của
dân tộc đem trí tuệ, tâm sức cống hiến cho sự nghiệp phát triển đất nước.
2.2.4. Hoạt động phổ biến kiến thức khoa học và kỹ thuật và hoạt động xã
hội hóa công tác giáo dục - đào tạo
Nước ta tiến hành CNH, HĐH từ một nước nông nghiệp lạc hậu, trình độ dân trí
thấp, do vậy gặp không ít những khó khăn, thách thức. Cho nên nhiệm vụ cơ bản và lâu
dài trước hết là phải nâng cao dân trí, đào tạo nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. Nhận
thức của người dân được nâng cao sẽ là điều kiện thuận lợi để đưa các tiến bộ khoa học
và kỹ thuật vào sản xuất và đời sống đạt hiệu quả.
Việc phổ biến kiến thức khoa học và kỹ thuật là một trong những nhiệm vụ của
trí thức thuộc Liên hiệp Hội, đồng thời cũng là chức năng của người trí thức nói chung.
Nhằm góp phần nâng cao trình độ về khoa học và kỹ thuật cho quần chúng, đồng thời
đưa nhanh những tiến bộ khoa học vào sản xuất và đời sống, những năm qua đội ngũ trí
thức thuộc Liên hiệp Hội đã có nhiều cống hiến quan trọng với nhiều hình thức khác
nhau trong việc tuyên truyền, phổ biến kiến thức khoa học và kỹ thuật, góp phần quan
trọng vào thành quả bước đầu của sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. Do Liên hiệp Hội là
nơi tập hợp đội ngũ trí thức với nhiều chuyên ngành khác nhau, nên nội dung kiến thức
mà đội ngũ này truyền tải đến quần chúng là rất phong phú, đáp ứng được nhu cầu đa
dạng của nhân dân.
Thông qua hình thức mở các lớp đào tạo, bồi dưỡng, tập huấn cho hội viên và
quần chúng nhân dân, đội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp Hội, phổ biến kiến thức khoa học,
kỹ thuật và nghiệp vụ cho hàng trăm nghìn người. Tại cơ quan thường trực Liên hiệp
Hội, năm 1999 đã mở các lớp bồi dưỡng nghiệp vụ báo chí, tập huấn nghiệp vụ công tác
Đảng, bồi dưỡng nghiệp vụ quản lý các tổ chức KH&CN... cho 665 học viên; năm 2000
mở 10 lớp về công tác Đảng và phổ biến các văn kiện Đảng, công tác quản lý các đề tài khoa
học... cho 685 học viên; năm 2001 mở 10 lớp bồi dưỡng cho nhiều người về Luật KH&CN, bảo
hộ quyền sở hữu công nghiệp ở Việt Nam, sử dụng mạng Internet...; năm 2002, mở các
lớp về xây dựng khung lôgíc cho một dự án, nghiệp vụ văn phòng... cho 480 học
viên; năm 2003 mở các lớp về bồi dưỡng tư tưởng Hồ Chí Minh, tập huấn nâng
cao năng lực tư vấn... cho 630 học viên (xem phụ lục 4).
Hình thức đào tạo ngắn hạn cũng được tổ chức các Hội ngành Trung ương và
Liên hiệp Hội địa phương áp dụng rộng rãi nhằm đáp ứng những nhu cầu khác nhau của
hội viên và người lao động. Chỉ tính riêng kết quả đào tạo, tập huấn và bồi dưỡng nghiệp
vụ về các lĩnh vực chuyên môn khác nhau trong năm 2001 của 12 Hội ngành Trung ương
và một số Liên hiệp Hội địa phương đã tổ chức được 50 lớp và hơn 6.000 người tham
gia. Nhờ đó, trong những năm gần đây, hội viên và quần chúng nhân dân đã có thêm
nhiều kiến thức khoa học và kỹ thuật cần thiết cho sản xuất và đời sống. Kết quả đó là
công sức, trí tuệ của đội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp Hội, đặc biệt là trí thức thuộc các
hội ngành Trung ương - những người có tri thức chuyên ngành mang tính chuyên sâu.
Trong số đó, các Hội ngành có đóng góp tích cực tiêu biểu như Hội Kế toán Việt Nam,
mở 230 khóa bồi dưỡng, phổ biến kiến thức về tài chính, kế toán, kiểm toán cho 21312
học viên; Hội Cơ khí mở các khóa đào tạo, tập huấn về máy tính, CAD, CAm,... cho
3590 học viên; Hội Vô tuyến điện tử Việt Nam đã tổ chức các lớp viễn thám, y tế viễn
thông, công nghệ thông tin... cho 1250 học viên, v.v... (xem phụ lục 5).
Hoạt động phổ biến kiến thức khoa học và kỹ thuật của đội ngũ trí thức thuộc
Liên hiệp Hội còn thể hiện thông qua các ấn phẩm, sách báo, các kênh thông tin đại
chúng với nhiều hình thức, nội dung đa dạng đáp ứng nhu cầu tìm hiểu của mọi tầng lớp
nhân dân, phục vụ đến mọi miền của đất nước. Lực lượng nòng cốt trong công tác này là
hệ thống gần 150 tờ báo, tạp chí và các ấn phẩm định kỳ khác nhau chiếm trên 1/3 tổng
số báo chí khoa học của cả nước, trong đó số ấn phẩm định kỳ của Liên hiệp Hội là 6,
chiếm 4,15%, của các Hội ngành Trung ương là 82, chiếm 56,16%, của các liên hiệp hội
tỉnh, thành phố là 43, chiếm 29,45%, và của các đơn vị trực thuộc là 15%, chiếm 10,27%.
Ngoài ra, sự xuất hiện các trang Web của Liên hiệp Hội www.vusta.org.vn, của Thời báo
kinh tế Việt Nam www.vneconomy.com.vn và của một số Hội thành viên là một nét mới
trong công tác phổ biến kiến thức, tạo điều kiện cho các thông tin có thể lan tỏa rộng hơn,
xa hơn ở trong nước và trên thế giới.
Bên cạnh các ấn phẩm định kỳ nêu trên, các tổ chức hội khoa học và kỹ thuật đã
xuất bản được hàng trăm đầu sách có giá trị. Tiêu biểu như "Khoa học - công nghệ Việt
Nam: Những sắc mầu tiềm năng" và "Khoa học và Công nghệ Việt Nam: các công trình
và sản phẩm được giải thưởng khoa học - công nghệ Việt Nam". Hầu hết các Hội ngành
Trung ương đều có các sách chuyên khảo, kỷ yếu hội nghị, từ điển chuyên ngành, tài liệu
hướng dẫn, tờ rơi phục vụ công tác nghiên cứu, tham khảo, tuyên truyền và phổ biến kiến
thức.
Câu lạc bộ là hình thức quan trọng và hữu hiệu để phổ biến kiến thức khoa học
và kỹ thuật cho quần chúng. Mạng lưới rộng khắp bao gồm hơn 40 câu lạc bộ của Liên
hiệp Hội và các hội thành viên thu hút khoảng 11 nghìn hội viên. Câu lạc bộ Thời sự -
Khoa học tại cơ quan thường trực Liên hiệp Hội sinh hoạt đều đặn hàng tháng với
chương trình và nội dung phong phú, có buổi thu hút hơn 100 người dự. Nhiều hội thành
viên cũng duy trì được hoạt động thường xuyên của các câu lạc bộ như Câu lạc bộ
Chuyên gia xây dựng lão thành, Câu lạc bộ Kế toán trưởng, Câu lạc bộ Người tiêu dùng.
Một kênh quan trọng khác được Liên hiệp Hội và các hội thành viên sử dụng có
hiệu quả là các phương tiện thông tin đại chúng. Liên hiệp Hội đã phối hợp với Đài
Truyền hình Việt Nam và Đài Tiếng nói Việt Nam mở các chuyên mục hỏi đáp về khoa
học - kỹ thuật, khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư. Đáng chú ý là các chuyên mục
"Cùng nông dân bàn cách làm giàu", "Bạn của nhà nông", phát đều kỳ trên sóng truyền
hình.
Mặt khác, cùng với các hoạt động phổ biến kiến thức khoa học và kỹ thuật, đội
ngũ trí thức thuộc Liên hiệp Hội cũng đặc biệt quan tâm và tích cực tham gia xã hội hóa
giáo dục, nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân tài. Điều này được phản
ánh cụ thể ở các mặt sau:
- Bảo trợ cho các trường cao đẳng, đại học và các trường phổ thông dân lập. Đến
nay đã có ba trường đại học, một trường cao đẳng và nhiều trường phổ thông dân lập các
cấp ra đời dưới sự bảo trợ hoặc quản lý của các hội thành viên của Liên hiệp Hội.
- Phối hợp với các trường cao đẳng, đại học công lập tổ chức nhiều khóa đào tạo
ở bậc cao đẳng và đại học về luật, công nghệ thông tin, ngoại ngữ và y tế. Đến nay trên
4,5 vạn sinh viên đã và đang được đào tạo tại các trường đại học dân lập và các khóa đào
tạo dài hạn.
- Hỗ trợ và khuyến khích học sinh, sinh viên nghèo vượt khó, học giỏi và học
sinh, sinh viên là con em thương binh liệt sĩ và đồng bào dân tộc thiểu số. Từ năm học
1998 - 1999 đến (6/2003), bằng nguồn vốn huy động từ các tổ chức trong và ngoài nước,
hơn 1.300 suất học bổng trị giá trên 1,25 tỷ đồng đã được cấp cho học sinh, sinh viên
nghèo vượt khó, học giỏi thuộc 24 tỉnh, thành phố và 20 trường đại học và cao đẳng. Bên
cạnh đó, trí thức thuộc Liên hiệp Hội thông qua Liên hiệp Hội để trao nhiều phần thưởng
cho các tập thể và cá nhân đạt giải tại các kỳ thi quốc tế về toán học, tin học, hóa học, vật
lý và cho các học sinh, sinh viên học giỏi là con thương binh, liệt sĩ.
- Phát hiện và bồi dưỡng nhân tài. Liên tục trong nhiều năm qua, Liên hiệp Hội
phối hợp với Bộ Giáo dục và Đào tạo, Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh tổ chức
giải thưởng sinh viên nghiên cứu khoa học, tuyển chọn và tặng thưởng cho các đồ án tốt
nghiệp xuất sắc. Nhiều Hội ngành Trung ương và Liên hiệp Hội địa phương đã giới thiệu
các tài năng trẻ đi dự các Hội nghị quốc tế và đi du học ở nước ngoài. Chỉ tính riêng Giải
thưởng sáng tạo khoa học công nghệ Việt Nam dành cho sinh viên xuất sắc trong các
trường đại học từ năm 1998 đến năm 2003, gần 500 tài năng trẻ đã được trao giải thưởng
với số tiền trên 900 triệu đồng.
Những đóng góp của đội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp Hội trong lĩnh vực này đã
góp phần nâng cao trình độ khoa học kỹ thuật cho các giai cấp, tầng lớp nhân dân lao
động trong xã hội, càng củng cố vững chắc hơn khối liên minh giữa giai cấp công nhân,
giai cấp nông dân và trí thức. Song, trước những yêu cầu của sự nghiệp đẩy mạnh CNH,
HĐH đất nước, việc phổ biến kiến thức khoa học, công nghệ, phát triển giáo dục, đào tạo
cần phải được triển khai sâu rộng đến khắp các vùng, miền trong nước, đặc biệt là những
vùng khó khăn, vùng sâu, vùng xa - nơi rất cần thông tin, tri thức KH&CN.
Ngoài ra, nội dung của hoạt động thông tin, phổ biến kiến thức, Liên hiệp Hội
chưa quan tâm đúng mức đến lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn, nhất là khoa học
quản lý nhà nước, quản lý doanh nghiệp, mới chỉ tập trung chủ yếu vào lĩnh vực khoa học
công nghệ. Mặt khác, hiện còn thiếu cơ chế, chính sách động viên trí thức làm công tác
phổ biến kiến thức, chuyển giao công nghệ, do vậy, chưa tạo ra được động lực mạnh mẽ
thúc đẩy các nhà khoa học say mê thực hiện công việc này.
Phổ biến kiến thức khoa học và kỹ thuật cho quần chúng và xã hội hóa giáo dục
là yêu cầu khách quan của sự nghiệp CNH, HĐH đất nước, là quá trình biến tri thức khoa
học thành sức mạnh vật chất để tạo tiền đề cho sự phát triển của xã hội. Do vậy, hoạt
động này cần phải được đội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp Hội chú trọng cả về nội dung,
hình thức truyền đạt thông tin và tham gia tích cực hơn nữa trong việc xây dựng xã hội
học tập. Bên cạnh đó, Nhà nước cũng cần phải có cơ chế hỗ trợ, động viên, tạo điều kiện
thuận lợi để công tác này đạt hiệu quả cao hơn.
2.2.5. Hoạt động phát triển cộng đồng và xóa đói giảm nghèo
Mục đích cuối cùng của quá trình CNH, HĐH đất nước chính là nhằm đem lại
đời sống ấm no, hạnh phúc cho nhân dân, tạo những điều kiện tốt nhất để mọi người dân
đều được chăm sóc, phát triển toàn diện. Do đó, trong khi đẩy mạnh CNH, HĐH đất
nước, Đảng và Nhà nước ta luôn luôn coi trọng việc phát triển kinh tế - xã hội tại các
vùng cao, vùng sâu, vùng xa nhằm cải thiện đời sống của đồng bào, đặc biệt là đồng bào
các dân tộc ít người, từng bước nâng cao trình độ các vùng, miền đặc biệt khó khăn.
Xóa đói giảm nghèo là một trong những chính sách xã hội cơ bản và ưu tiên của
Đảng và Nhà nước ta, Nghị quyết Đại hội IX của Đảng chỉ rõ mục tiêu "phấn đấu đến
năm 2010, về cơ bản không còn hộ nghèo". Tuy nhiên, để nhanh chóng đưa kinh tế - xã
hội phát triển, tiến tới xóa hết đói nghèo, không chỉ là công việc của Đảng, Nhà nước hay
của riêng những người nghèo phải phấn đấu, mà là trách nhiệm chung của cả cộng đồng,
của mỗi tổ chức xã hội, cá nhân và quốc tế.
Để góp phần thực hiện nhiệm vụ quan trọng này, đội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp
Hội đã tổ chức thực hiện xúc tiến rất mạnh mẽ trên nhiều lĩnh vực. Khoảng 30% số đơn
vị khoa học - công nghệ trực thuộc Liên hiệp Hội đã triển khai các hoạt động phát triển
cộng đồng và xóa đói giảm nghèo.
Nội dung chủ yếu trong hoạt động này của đội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp Hội
là tham gia xây dựng cơ sở hạ tầng, chuyển giao tiến bộ kỹ thuật, chăm sóc sức khỏe
cộng đồng, phòng chống HIV/AIDS và các tệ nạn xã hội, giáo dục pháp luật, giữ gìn bản
sắc văn hóa dân tộc, vấn đề giới và bình đẳng giới, xây dựng quy chế cộng đồng, phát
huy dân chủ cơ sở, xây dựng các mô hình phát triển bền vững gắn với xóa đói giảm
nghèo, sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường, đào tạo, bồi dưỡng
nông dân tiêu biểu, nòng cốt...
Với sự ủng hộ của nhiều đơn vị, tổ chức trong và ngoài nước cả về vật chất và
tinh thần, những năm qua đội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp Hội đã đạt được nhiều thành
tựu trong hoạt động phát triển cộng đồng, xóa đói giảm nghèo. Theo các số liệu thống kê
chưa đầy đủ của hơn 20 đơn vị KH&CN thuộc Liên hiệp Hội, có 35 dự án đã được triển
khai, trong đó có 16 dự án dành cho công tác y tế và chăm sóc sức khỏe ban đầu, 5 dự án
cho công tác giáo dục và văn hóa, 4 dự án cho vấn đề giới và bình đẳng giới, 4 dự án cho
việc sử dụng hợp lý tài nguyên và bảo vệ môi trường, 6 dự án cho việc xây dựng các mô
hình phát triển cộng đồng và xóa đói giảm nghèo (phụ lục 6). Các dự án được triển khai
tại nhiều địa phương, 15 tỉnh, thành phố như Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng, Lai Châu,
Sơn La, Lào Cai, Lạng Sơn, Thái Nguyên, Quảng Ninh, Thái Bình, Hà Tây, Nghệ An,
Quảng Bình, Cần Thơ, An Giang.
Trải qua 5 năm hoạt động, Liên hiệp Hội với các dự án đã thu hút được đông đảo
nhân dân tham gia, đặc biệt là chị em phụ nữ, già làng, trưởng bản, nông dân nòng cốt
trong các vùng dân tộc ít người. Thông qua việc triển khai các dự án, đội ngũ trí thức
thộc Liên hiệp Hội đã góp phần thay đổi nhận thức, nâng cao năng lực của cán bộ và
nhân dân nhiều địa phương, tạo điều kiện cho họ tiếp thu những yếu tố văn hóa lành
mạnh, những kiến thức khoa học - công nghệ và kỹ năng lao động mới, thay đổi phương
thức canh tác, hăng hái lao động sản xuất, tăng mức thu nhập. Các dự án đã có tác dụng
rõ rệt đối với việc cải thiện đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội của nhân dân, giúp đồng bào
giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc.
Lợi ích thông qua các hoạt động phát triển cộng đồng và xóa đói giảm nghèo của
trí thức thuộc Liên hiệp Hội không chỉ dừng lại ở hiệu quả kinh tế, nâng cao nhận thức về
văn hóa, khoa học, kỹ thuật, mà quan trọng hơn là tạo cho họ ý thức làm chủ, tinh thần
chủ động trong việc thay đổi đời sống của chính bản thân họ, tránh việc ỷ lại, trông chờ
từ nhà nước và các tổ chức xã hội khác. Với phương châm đưa cho người nghèo không
chỉ "cần câu", "con cá", mà phải hướng dẫn cách câu đã giúp họ học cách tự mình vươn
lên làm giàu, thoát khỏi đói nghèo.
Mặt khác, kết quả mà các hoạt động này đem lại cho người nghèo còn mang tính
bền vững bởi: (1) đã huy động được trí tuệ của các nhà khoa học thuộc nhiều lĩnh vực
khác nhau tham gia dự án, (2) tôn trọng sự tham gia trực tiếp của người dân, thực hiện
quy chế dân chủ ở cơ sở, (3) đã chú trọng nâng cao năng lực và tính tự chủ sáng tạo của
người dân, (4) có sự kết hợp hài hòa giữa kiến thức bản địa, văn hóa truyền thống với
kiến thức khoa học kỹ thuật tiên tiến.
Nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động này, Liên hiệp Hội phối hợp với lãnh đạo các
tỉnh thuộc khu vực Bắc Trung Bộ và khu vực miền núi Bắc Bộ tổ chức các cuộc tọa
đàm nhằm đúc rút và trao đổi kinh nghiệm về phát triển cộng đồng và xóa đói giảm
nghèo. Hội thảo về "xóa đói, giảm nghèo vùng dân tộc thiểu số: phương pháp tiếp
cận" được tổ chức năm 2001 tại Hà Nội đã cung cấp cơ sở lý luận và căn cứ thực tiễn
để giúp các nhà khoa học tổng kết những bài học về phương pháp tiếp cận để phát
triển cộng đồng và xóa đói giảm nghèo tại các vùng dân cư, đặc biệt là các vùng dân
tộc ít người, vùng cao, vùng sâu, vùng xa. Bằng phương pháp tiếp cận từ dưới lên, tức
là xuất phát từ nhu cầu thực tế của người dân và chuyển giao tiến bộ kỹ thuật theo
phương pháp "cầm tay chỉ việc", nhờ vậy hoạt động xóa đói giảm nghèo đã đạt được
nhiều kết quả tốt, phương pháp tiếp cận này đã được nhân rộng trong các địa phương.
Những cuộc tọa đàm về chia sẻ kinh nghiệm tổ chức thực hiện các dự án phát
triển cộng đồng và xóa đói giảm nghèo tại các khu vực được tổ chức sau đó cùng
mang lại hiệu quả lớn. Trong đó, các nhà khoa học cùng trao đổi tìm ra các nguyên
nhân cơ bản của thực trạng đói nghèo (trình độ dân trí thấp, thiếu vốn, cơ sở hạ tầng
yếu kém, điều kiện thiên nhiên khắc nghiệt…), tìm ra phương pháp phù hợp để giúp
người dân thoát khỏi nghèo đói, quy trình đó còn áp dụng có hiệu quả là phân nhóm,
(theo nguyên nhân, trình độ, năng lực của từng hộ dân), để có giải pháp ưu tiên tương
ứng. Tùy thuộc vào điều kiện tự nhiên của vùng đó mà các nhà khoa học lựa chọn
giống cây, con và phương thức canh tác phù hợp với trình độ, khả năng của người
dân…
Thông qua chương trình liên kết "bốn nhà": nhà nông, nhà khoa học, nhà quản
lý (bao gồm các bộ, ngành quản lý nhà nước), nhà doanh nghiệp bao gồm cả các nhà
ngân hàng thực hiện liên kết để phục vụ cho sản xuất, chế biến và tiêu thụ nông sản
hàng hóa, đội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp Hội đã chuyển giao những tiến bộ của khoa
học và kỹ thuật đến nông dân, thực hiện tốt vai trò của nhà khoa học trong khối liên
minh giữa công nhân, nông dân và trí thức.
Những đóng góp trên đối với công tác xóa đói giảm nghèo không chỉ là về mặt
KH&CN, mà thông qua phương pháp tiếp cận để có các giải pháp phù hợp, các nhà khoa
học đã phát huy được nội lực của người dân. Sự hỗ trợ những tiến bộ khoa học, công
nghệ là rất cần thiết, quyết định việc thúc đẩy và mang lại hiệu quả của hoạt động này,
tuy nhiên đó là sự hỗ trợ từ bên ngoài, để sự hỗ trợ bên ngoài này đạt hiệu quả cao và có
tính bền vững thì cần phải được kết hợp với các yếu tố nội sinh. Không ai khác, chính
những người nghèo phải tự nỗ lực, chủ động vươn lên thoát khỏi cảnh đói nghèo.
Với nguồn kinh phí còn ít nhưng các nhà khoa học thuộc Liên hiệp Hội đã phát
huy có hiệu quả trong hoạt động xóa đói giảm nghèo. Tuy vậy, việc thực hiện công tác
này vẫn còn một số hạn chế, khó khăn. Về nguồn lực, chưa huy động được đông đảo trí
thức KH&CN tham gia. Trong số hơn 200 đơn vị KH&CN trực thuộc Liên hiệp Hội, mới
có khoảng 30% đơn vị có những hoạt động phát triển cộng đồng, xóa đói giảm nghèo,
còn một lực lượng lớn chưa tham gia. Một trong những nguyên nhân của tình trạng này là
thiếu kinh phí hoạt động. Những đơn vị đã tham gia công tác này chủ yếu tự lo kinh phí
thông qua các dịch vụ, sản xuất và sự hỗ trợ từ các tổ chức phi chính phủ. Do đó, tính chủ
động, tích cực của đội ngũ trí thức của một số Hội ngành bị hạn chế, khó có điều kiện
tham gia công tác này.
Địa bàn hoạt động chưa rộng, mới tập trung vào một số vùng, miền, chỉ có 15/62
tỉnh thành trong cả nước. Còn nhiều khu vực khó khăn hiện đang rất cần có sự trợ giúp,
hướng dẫn của KH&CN để vươn lên thoát nghèo. Bên cạnh đó, công tác tổng kết, đánh
giá, rút kinh nghiệm tiến hành chưa được kịp thời để làm cơ sở cho việc nhân rộng các
mô hình tốt; nguồn kinh phí ít và không đều, không ổn định.
Trong các nhiệm vụ của đội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp Hội, hoạt động phát
triển cộng đồng và xóa đói giảm nghèo luôn luôn được quan tâm, coi trọng. Có thể
thấy, đây là một trong những thành công của đội ngũ này. Về mặt xã hội, nó có tác
động to lớn, góp phần giảm tỷ lệ hộ nghèo trong dân cư, đồng thời tạo ra những điều
kiện thuận lợi để nhân dân được tiếp cận với những kiến thức khoa học, công nghệ
tiến bộ. Mặt khác, nhận thức của người dân có sự phát triển, dân trí được nâng lên
việc chăm sóc sức khỏe cho nhân dân đã bước đầu đạt hiệu quả tốt. Đó là những cố
gắng và đóng góp lớn của đội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp Hội góp phần thúc đẩy sự
phát triển đất nước.
2.2.6. Hoạt động hợp tác quốc tế
Thực hiện chính sách mở cửa của Đảng và Nhà nước ta, Liên hiệp các Hội Khoa
học và Kỹ thuật Việt Nam đã không ngừng tăng cường mở rộng hợp tác, giao lưu, trao đổi
với nhiều tổ chức liên quan đến KH&CN trên thế giới. Hoạt động hợp tác quốc tế của đội
ngũ này hầu hết là thông qua các cơ quan Trung ương và các đơn vị thành viên của Liên
hiệp Hội, rất ít có sự hợp tác mang tính cá nhân. Do vậy, đánh giá việc thực hiện nhiệm
vụ này chủ yếu dựa trên các kết quả mà Liên hiệp Hội, các Hội ngành đã đạt được.
Nội dung chủ yếu trong hoạt động của Liên hiệp Hội trên lĩnh vực này là trao đổi
thông tin khoa học - công nghệ và kinh nghiệm hoạt động với các tổ chức khoa học - kỹ
thuật quốc gia và quốc tế, các tổ chức phi chính phủ; đào tạo và bồi dưỡng cán bộ; liên
kết thực hiện các đề tài nghiên cứu khoa học và các dự án phát triển công nghệ, các đề án
phát triển cộng đồng và xóa đói giảm nghèo.
Hiện nay Liên hiệp Hội đã ra nhập một số tổ chức quốc tế như Liên đoàn thế giới
các nhà khoa học (WFSW), Liên đoàn thế giới các tổ chức kỹ sư (WFEO), Liên đoàn các
hội kỹ thuật quốc tế (UITA), Hội đồng quốc tế các hiệp hội giáo dục khoa học (ICASE),
Hiệp hội giáo dục kỹ thuật Đông Nam á - Thái Bình Dương (AEESEAP)... Trong khu
vực, Liên hiệp Hội là thành viên của Liên đoàn các tổ chức kỹ sư các nước ASEAN
(AFEO) từ sau khi Việt Nam gia nhập ASEAN. Cho đến nay, Liên hiệp Hội liên tục cử
các đại biểu tham dự các hội nghị hằng năm của các tổ chức này. Tại các Hội nghị đó,
đoàn đại biểu Liên hiệp Hội đã giới thiệu những thành tựu KH&CN nước ta; đóng góp ý
kiến vào sự phát triển của AFEO, đồng thời tiếp thu kinh nghiệm của các hội kỹ sư trong
vùng, trong đó có vấn đề đăng bạ kỹ sư. Bên cạnh việc tiếp tục duy trì các quan hệ thành
viên và quan hệ hợp tác đã có từ trước với các tổ chức quốc gia và quốc tế, Liên hiệp Hội
đã mở rộng quan hệ song phương với Hội kỹ sư các nước Bruney (PUJA), Malaysia
(IEM), Nhật Bản (JFES), Ôxtrâylia (IE Aust), Singapore (IES), Thái Lan (EIT),
Indonesia (PII), Campuchia (EIC), Myanmar (MES), Philippines (PTC), Liên hiệp các
hội khoa học và kỹ sư Lào (LUSEA), ủy ban khoa học Mỹ hợp tác với Việt Nam.
Trong những năm qua, Liên hiệp Hội đã nhiều lần trao đổi các đoàn đại biểu với
Hiệp hội khoa học - kỹ thuật Trung Quốc, Hội kỹ sư Ôxtrâylia, Hội kỹ sư Indonesia, Hội
đồng toàn quốc các kỹ sư và các nhà khoa học Pháp và các tổ chức khác. Cùng với những
hoạt động hợp tác của Liên hiệp Hội, quan hệ các Hội thành viên với các tổ chức quốc tế
và nước ngoài cũng tiếp tục được củng cố và phát triển với những nội dung và phương
thức mới. Hội Luật gia cử năm đại biểu tham dự lớp tập huấn về Luật Thương mại tại
Băng Cốc (Thái Lan) và Bắc Kinh (Trung Quốc). Mười kỹ sư xây dựng được Tổng hội
xây dựng giới thiệu đi dự khoa học quốc tế về xây dựng cầu đường và giám sát thi công
tại Malaysia...
Một hình thức hợp tác quốc tế quan trọng là việc tổ chức các hội nghị quốc tế tại
Việt Nam. Trong đó tiêu biểu là Hội nghị Luật gia châu á - Thái Bình Dương lần thứ III do
Hội Luật gia Việt Nam tổ chức. Đặc biệt năm 2003, Hội Hóa học Việt Nam đã tổ chức
thành công Hội nghị Hóa học á - Âu lần thứ VIII, Hội nghị Hóa học châu á lần thứ X và Hội
nghị Hóa học toàn quốc lần thứ IV với sự tham dự của 400 nhà khoa học nước ngoài, trong
đó có ba nhà khoa học được nhận giải thưởng Nobel và một số hội nghị khác (xem phụ lục
7).
Ngoài việc tăng cường hợp tác về mặt trao đổi thông tin, kinh nghiệm, Liên hiệp
Hội và các Hội thành viên đã triển khai thực hiện một số dự án với sự tài trợ của nước
ngoài. Ví dụ, tổ chức ICCO (Hà Lan) đã tài trợ cho việc thực hiện dự án nâng cao năng
lực của Liên hiệp Hội, trong đó có các nội dung xóa đói giảm nghèo, cấp học bổng cho
học sinh nghèo vượt khó, học giỏi. Được sự giúp đỡ của Quỹ Môi trường toàn cầu
(UNDP - GEF/SGP), Hội khoa học - kỹ thuật Việt Nam tham gia triển khai dự án
VIE/00/004 "xây dựng mô hình trình diễn lò gạch liên tục kiểu đứng"...
Những kết quả trên đã tạo tiền đề quan trọng cho việc phát triển KH&CN Việt
Nam. Tuy nhiên, hoạt động của đội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp Hội ở lĩnh vực này còn
tồn tại một số vấn đề cần được khắc phục: Phần lớn mới chỉ dừng lại ở việc giao lưu, liên
kết và trao đổi kinh nghiệm trong thực hiện một số dự án, chưa tập trung trao đổi học thuật
mang tính chuyên sâu, phạm vi hợp tác còn hẹp, chủ yếu tập trung ở khu vực châu á -
Thái Bình Dương, chưa mở rộng hoạt động của mình sang châu Âu, châu Mỹ. Một hạn
chế khác của Liên hiệp Hội là chưa thu hút đông đảo trí thức là người Việt Nam ở nước
ngoài, hầu hết họ tham gia thông qua hình thức là hội viên tán trợ.
Nguyên nhân của những hạn chế trước hết là sự chênh lệch về trình độ KH&CN
của nước ta với các nước trong khu vực và trên thế giới, nên việc trao đổi chuyên môn
ngang tầm với các nhà khoa nước ngoài, nhất là những nước có trình độ cao là rất khó
thực hiện. Bên cạnh đó còn do chưa có cơ chế hợp lý về hành chính, pháp lý để động
viên, thu hút trí thức Việt kiều đóng góp xây dựng quê hương.
Ngoài ra, khi tham gia các hoạt động khoa học ở nước ngoài, bên cạnh việc phải
tự lo kinh phí các nhà khoa học thuộc Liên hiệp Hội còn gặp phải khó khăn về các thủ tục
xuất cảnh. Điều này cũng gây cản trở không ít cho việc trao đổi cán bộ KH&CN với các
nước và tổ chức trên thế giới.
Trong thời đại hiện nay, mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế đã trở thành xu thế tất
yếu. Đây chính là cơ hội để nước ta thực hiện "rút ngắn" quá trình CNH, HĐH đất nước.
Muốn nâng cao trình độ lực lượng sản xuất trong nước, thì một trong những nhiệm vụ
cần được ưu tiên hàng đầu là tạo ra những điều kiện thuận lợi nhất về thủ tục pháp lý, cơ
chế hành chính đối với các hoạt động hợp tác quốc tế về KH&CN. Trên cơ sở đó giúp
cho đội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp Hội thực hiện nhiệm vụ đạt hiệu quả hơn. Còn về
phía các nhà khoa học chính họ cũng phải chủ động, tự bổ sung tri thức cho mình, nhất là
trình độ ngoại ngữ thì mới có thể khắc phục được những hạn chế trên.
Qua đánh giá khái quát việc thực hiện nhiệm vụ của độ ngũ trí thức thuộc Liên
hiệp Hội cho thấy, tuy là lực lượng có tuổi đời tương đối cao song sức sáng tạo và tiềm
năng trí tuệ rất dồi dào. Những thành tựu đạt được trong công tác nghiên cứu khoa học và
phát triển công nghệ đã góp phần nâng cao hơn trình độ KH&CN trong nước. Thông qua
việc tham gia chuẩn bị các văn kiện quan trọng, triển khai thực hiện các Nghị quyết của
Đảng và Nhà nước, các đại biểu của Liên hiệp Hội hoạt động chính trị - xã hội, đội ngũ
này không những Với vai trò đại diện cho trí thức nước ta Kết quả thực hiện nhiệm vụ
của đội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp Hội đã góp phần phát triển KH&CN trong nước,
nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho một bộ phận đông đảo quần chúng nhân dân.
Nhiều ý kiến đóng góp, kết quả nghiên cứu của đội ngũ này đã làm cơ sở cho việc xây
dựng đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, trong đó có những công trình khoa
học được ứng dụng mang lại hiệu quả kinh tế - xã hội cao, ngày càng khẳng định vai trò
của mình trong quá trình CNH, HĐH đất nước.
Tuy vậy, những thành tựu trên chưa tương xứng với tiềm năng của đội ngũ trí
thức thuộc Liên hiệp Hội. Việc tập hợp, xây dựng, phát huy vai trò của đội ngũ này còn
tồn tại nhiều hạn chế, yếu kém cần khắc phục, tránh lãng phí "chất xám", muốn vậy giải
pháp đưa ra đòi hỏi phải mang tính toàn diện, thực tiễn.
2.3. xu hướng phát triển của đội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp các hội khoa
học và kỹ thuật Việt Nam trong tiến trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước
Sự vận động của đội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp Hội chịu sự quy định và tác
động của nhiều yếu tố, với nhiều mức độ và theo nhiều chiều hướng khác nhau. Trong
các yếu tố tác động đến xu hướng phát triển của đội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp Hội, có
một số yếu tố cơ bản sau:
Một là, cuộc cách mạng KH&CN hiện đại.
Vào những năm 70 của thế kỷ XX, thế giới đã chứng kiến sự phát triển như vũ
bão của khoa học - kỹ thuật, nó đã và đang tác động, chi phối đến tất cả các lĩnh vực của
đời sống xã hội. Trước hết, nó thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển nhanh chóng, làm
cho năng suất lao động tăng cao không ngừng, do đó làm cho đời sống vật chất và tinh
thần xã hội biến đổi theo. Mặt khác, nó còn tạo ra tiền đề để con người tiếp tục cải tạo thế
giới. Những thành tựu mà nó mang lại đã làm biến đổi quá trình nhận thức cũng như tư
duy của con người, trong đó có đội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp Hội.
Đối với phân công lao động xã hội, cuộc cách mạng này làm cho tính chuyên
môn hóa ngày càng sâu sắc, sự khác biệt giữa lao động trí óc với lao động chân tay dần
thu hẹp lại. Nó đòi hỏi người lao động trong lĩnh vực sản xuất vật chất phải không ngừng
nâng cao trình độ khoa học - kỹ thuật, biết kết hợp cả tri thức khoa học hiện đại với kỹ
năng trong hoạt động của mình. Đối với những người lao động trong lĩnh vực sản xuất
tinh thần thì ngày càng gắn liền hoạt động của mình với thực tiễn sản xuất và đời sống xã
hội. Quá trình vận động, phát triển của đội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp Hội cũng không
nằm ngoài tác động chung đó.
Về mặt cơ cấu xã hội - giai cấp, sự tác động này được nhiều nhà khoa học nhận
định là xu hướng xuất hiện bộ phận trí thức được "công nhân hóa", công nhân được "trí
thức hóa" hay còn gọi là "công nhân tri thức". Đây chính yếu tố khách quan làm cho mối
liên hệ tự nhiên giữa trí thức với các giai cấp, tầng lớp nhân dân lao động của nước ta
thêm gắn bó, tạo tiền đề để củng cố vững chắc hơn khối liên minh giữa giai cấp công
nhân, giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức trong qua trình xây dựng CNXH.
Hai là, sự tác động của quá trình hình thành nền kinh tế tri thức.
Đúng như C.Mác đã từng dự báo, ngày nay khoa học đã trở thành lực lượng sản
xuất trực tiếp. Nếu như trước đây, việc ứng dụng những tri thức, kết quả nghiên cứu của
các nhà khoa học phải trải qua một thời gian dài và nhiều công đoạn phức tạp, thì ngày
nay, từ phát minh cho đến ứng dụng thời gian được thu hẹp lại chỉ còn vài ba năm, thậm
chí là vài tuần. Nhiều nơi phòng thí nghiệm cũng đồng thời là nơi sản xuất. Việc ứng
dụng nhanh chóng những thành tựu KH&CN đã đem lại một bước tiến mới trong nền sản
xuất xã hội, làm thay đổi cơ bản và sâu sắc trong cơ cấu và cách thức hoạt động kinh tế.
Nền kinh tế từ chỗ dựa chủ yếu vào tài nguyên chuyển sang dựa nhiều hơn vào tri thức và
thông tin, sự thay đổi này dẫn đến hình thành một nền kinh tế mới - "kinh tế tri thức".
Theo quan niệm của một số tổ chức quốc tế (DECD và APEC) thì kinh tế tri
thức "là nền kinh tế trong đó sự sản sinh ra, truyền bá và sử dụng tri thức là động lực
chủ yếu nhất của sự tăng trưởng, tạo ra của cải, tạo việc làm trong tất cả các ngành kinh
tế [44, tr. 11]. Nền kinh tế này chính là hệ quả của cuộc cách mạng KH&CN hiện đại, là
con đường phát triển khách quan của lịch sử xã hội hiện nay. Nó làm cho lợi thế cạnh
tranh không chỉ là nguồn tài nguyên thiên nhiên, vốn, hay vị trí địa lý, mà chủ yếu là tri
thức khoa học. Chìa khóa cho sự thành công của mỗi nước là việc sở hữu, ứng dụng
những thành tựu KH&CN hiện đại. Đối với nước ta, đây vừa là cơ hội vừa là thách thức
to lớn, đòi hỏi sự nghiệp CNH, HĐH nước ta vừa phải vượt qua nền kinh tế nông
nghiệp lạc hậu, vừa phải vượt qua nền kinh tế công nghiệp cổ điển, hướng tới xây dựng
nền kinh tế hiện đại - kinh tế tri thức.
Để bước vào kinh tế tri thức, tất yếu chúng ta phải chuẩn bị những tiền đề cơ bản,
đặc biệt là về nguồn lực con người với trình độ và năng lực đủ đáp ứng những yêu cầu
của nền kinh tế đó. Việc đào tạo đội ngũ những chuyên gia, nhà khoa học trong lĩnh vực
công nghệ hiện đại phải được coi là điều kiện tiên quyết bảo đảm sự thắng lợi của sự
nghiệp CNH, HĐH hiện nay. Do đó, chiến lược phát triển nguồn nhân lực, KH&CN,
GD&ĐT sẽ được ưu tiên hàng đầu, điều này sẽ tác động mạnh mẽ đến sự phát triển của
đội ngũ trí thuộc Liên hiệp Hội.
Ba là, sự tác động của thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN.
Quá trình xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN ở
nước ta đã và đang tác động mạnh mẽ đến mọi mặt của đời sống xã hội. Một mặt, nó khơi
dậy và thúc đẩy khả năng sáng tạo của con người, tạo ra động lực cho sự phát triển của
kinh tế - xã hội. Mặt khác, nó cũng có những tác động tiêu cực đến những giá trị văn hóa,
chuẩn mực đạo đức, lối sống. Hình thành nên trong xã hội lớp người chạy theo lợi ích vật
chất tầm thường, coi nhẹ các giá trị đạo đức, ưa sống hưởng thụ, ích kỷ, lý tưởng bị phai
nhạt... Tất cả những tác động đó ít nhiều đều ảnh hưởng đến đội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp
Hội.
Với sự đa dạng về cơ cấu ngành nghề trong nền kinh tế thị trường, một mặt nó đem
lại nhiều cơ hội để người lao động lựa chọn, phát huy năng lực của mình, mặt khác, nó cũng
tạo ra xu hướng chạy theo những ngành nghề mang lại nhiều lợi ích kinh tế. Đặc biệt trong
giai đoạn hiện nay, khi thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN chưa được xác lập hoàn
chỉnh, nhà khoa học chưa thể sống bằng nghề của mình thì việc lựa chọn những hoạt động
đem lại cho họ nhiều cơ hội thăng tiến và thu nhập cao vẫn là hiện tượng phổ biến. Điều này
cũng tác động không nhỏ đến tâm lý của đội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp Hội. Ngoài ra, sự
đa dạng trong cơ cấu kinh tế đã làm biến đổi cơ cấu xã hội - giai cấp, dẫn đến thành phần
xuất thân của đội ngũ này cũng ngày càng phong phú hơn.
Việc xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta hiện nay là
nhằm hướng tới tạo tiền đề cho kinh tế tri thức. Cho nên việc bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ,
tạo ra thị trường khoa học công nghệ là đòi hỏi khách quan của sự phát triển và nó có tác
động nhất định đến sự sáng tạo trong lao động của đội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp Hội.
Ngoài việc theo đuổi những ước mơ, hoài bão trong trong khoa học các nhà nghiên cứu
còn phải lưu ý đến nhu cầu mà xã hội đang đặt ra, chỉ những công trình có tính ứng dụng
cao mới được thị trường chấp nhận và nhà khoa học mới có thể sống bằng lao động sáng
tạo của mình. Sản phẩm trí tuệ được bảo vệ bản quyền, định đúng giá trị sẽ kích thích sự
tìm tòi, sáng tạo say mê trong khoa học đồng thời còn giảm bớt tính không trung thực
trong các phát minh, sáng chế.
Bốn là, cơ chế, nội dung hoạt động của Liên hiệp Hội và các Hội thành viên
Được tổ chức giống như một mặt trận, Liên hiệp Hội làm đầu mối giữa trí thức
với Đảng; điều hòa, phối hợp hoạt động của các đơn vị thành viên. Các Hội ngành Trung
ương hoạt động độc lập, có điều lệ, cơ chế hoạt động riêng và đều mang tính tự nguyện.
Do vậy, khi tham gia trí thức không bị ràng buộc bởi những cơ chế hành chính, ai có đủ
điều kiện đều có thể gia nhập và ngược lại cũng được tự nguyện xin ra khỏi Hội. Đây
chính là ưu thế để thu hút những người say mê nghiên cứu khoa học tham gia.
Đảm bảo tính dân chủ trong nghiên cứu khoa học cũng như trong sinh hoạt của hội
viên là một điều kiện không thể thiếu, bởi làm khoa học là tìm tòi, sáng tạo ra cái mới, nó đòi
hỏi một môi trường tự do để người ta có thể tìm hiểu, đánh giá và đưa ra quan điểm của
mình. Thiếu dân chủ trong hoạt động khoa học chính là triệt tiêu động lực của sự sáng tạo.
Việc tạo điều kiện để trí thức thuộc Liên hiệp Hội tham gia, bày tỏ quan điểm, nói lên
nguyện vọng của mình sẽ có tác động mạnh mẽ đến sự phát triển của đội ngũ này cả về số
lượng và chất lượng. Ngược lại, việc thu hút, nâng cao trình độ cho hội viên sẽ bị hạn chế.
Nội dung hoạt động chính là yếu tố tác động trực tiếp đến chất lượng hội viên.
Bởi các Hội ngành trước hết là nơi sinh hoạt khoa học, đồng thời cũng là nơi tập hợp và
đoàn kết trí thức cùng chuyên ngành để phát huy tiềm năng của họ. Khi gia nhập các Hội
này, ngoài mục đích chính là trao đổi học thuật, nâng cao trình độ chuyên môn, mở rộng
kiến thức, họ còn mong muốn được đem trí tuệ của mình để cống hiến cho khoa học và
góp phần phát triển xã hội. Cho nên nội dung hoạt động phong phú, gắn liền với thực tiễn
và phù hợp những yêu cầu, nguyện vọng, khả năng của hội viên sẽ không chỉ tạo nên sức
hút mạnh mẽ mà còn là tiền đề để nâng cao chất lượng đội ngũ này.
Tóm lại, các yếu tố trên không chỉ tạo ra những thuận lợi, mà nó cũng đặt ra một
số khó khăn nhất định đối với Liên hiệp Hội khi thực hiện nhiệm vụ của mình. Để giải
quyết những vấn đề trên trước hết cần chỉ ra sự vận động của đội ngũ này trong thời gian
tới.Việc dự báo đúng các xu hướng phát triển có ý nghĩa quan trọng trong việc hoạch
định chính sách, xác định chiến lược để xây dựng và phát huy có hiệu quả nguồn lực trí
tuệ quan trọng này.
Trên cơ sở thực trạng của đội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp Hội và các nhân tố tác
động đến xu hướng phát triển của đội ngũ này cũng như những yêu cầu của sự nghiệp
đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước, đội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp Hội có thể phát triển
theo các xu hướng chủ yếu sau:
Một là, đội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp Hội sẽ tiếp tục phát triển cả về số lượng
và chất lượng.
Về số lượng, trong những năm tiếp theo hội viên gia nhập Liên hiệp Hội sẽ có xu
hướng tăng nhanh bởi các lý do sau đây:
Để thực hiện CNH, HĐH "rút ngắn" theo tinh thần Nghị quyết Đại hội IX của
Đảng thì tất yếu chúng ta phải xây dựng được đội ngũ chuyên gia, các nhà khoa học đủ
để đảm nhiệm vai trò là người đi đầu trong việc tạo dựng nền tảng cho sự nghiệp trên. Do
đó, trong những năm tới, trí thức KH&CN Việt Nam sẽ không ngừng gia tăng. Theo như
Dự thảo các văn kiện trình Đại hội X của Đảng, mục tiêu dự kiến đến năm 2020 là đạt
200 sinh viên/10.000 dân, nếu Đại hội lần này thông qua thì đây chính là nguồn dồi dào
bổ sung cho Liên hiệp Hội.
Không chỉ do yêu cầu khách quan của công cuộc xây dựng đất nước, mà ngay
bản thân đội ngũ trí thức cũng có nhu cầu trao đổi thông tin, phối hợp hoạt động đối với
những người cùng chuyên môn, nghề nghiệp hoặc cùng lĩnh vực công tác. Thực tế sự gia
tăng về số lượng hội viên của Liên hiệp Hội những năm qua đã chứng minh điều đó. Với
xu thế hội nhập hiện nay, việc giao lưu, hợp tác để phát triển đã trở thành tất yếu khách
quan và ngày càng phổ biến trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.
Ngoài ra, sự quan tâm, chỉ đạo của Đảng và Nhà nước vừa là nguồn cổ vũ động
viên lớn vừa tạo ra những thuận lợi về mặt pháp lý để Liên hiệp Hội thực hiện tốt vai trò
của mình. Nhằm hoàn thành nhiệm vụ chính trị - xã hội mà Đảng và Nhà nước giao cho,
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ V của Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt
Nam đã đề ra phương hướng, nhiệm vụ cụ thể cho nhiệm kỳ tới, trong đó ghi rõ: "Tích
cực tập hợp nhiều hơn nữa lực lượng trí thức KH&CN", "Đóng vai trò nòng cốt trong
việc tập hợp, đoàn kết rộng rãi đội ngũ trí thức KH&CN trong nước và thu hút trí thức
KH&CN là người Việt Nam ở nước ngoài, kể cả người nước ngoài ủng hộ sự nghiệp
KH&CN Việt Nam" [55, tr. 25-26].
Bên cạnh đó, chính những thành tựu mà đội ngũ này đã đạt được trong thời gian
qua chính là sức hút mạnh nhất đối với đội ngũ trí thức. Với những thuận lợi về môi
trường hoạt động, thủ tục tham gia, đảm bảo lợi ích cho hội viên và nhiều ưu điểm khác,
trong những năm tới Liên hiệp Hội sẽ tiếp tục là nơi mà những người say mê KH&CN,
mong muốn được cống hiến cho khoa học và cho đất nước hướng tới.
Cùng với sự tăng nhanh về số lượng, trong thời gian tới chất lượng của đội ngũ
trí thức thuộc Liên hiệp Hội cũng sẽ được nâng cao. Do những yêu cầu của kinh tế tri
thức, để đảm bảo điều kiện cần - đó là nguồn nhân lực trình độ cao - chúng ta phải xây
dựng một nền giáo dục hoàn chỉnh, trong đó những đòi hỏi về chất lượng của giáo dục
đại học và sau đại học phải được nâng cao phù hợp với trình độ KH&CN hiện nay. Chính
vì vậy cải cách giáo dục để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực là một tất yếu.
Mặt khác, những hoạt động của Liên hiệp Hội như nghiên cứu khoa học, phát
triển công nghệ, trao đổi, hợp tác KH&CN với các tổ chức của trí thức trong khu vực
và quốc tế là một nhân tố quan trọng trong việc nâng cao trình độ, chất lượng cho hội
viên. Hàng năm, Liên hiệp Hội và các hội thành viên tổ chức hàng trăm cuộc hội thảo
khoa học, cử những đoàn đại biểu đi học tập, dự các hội nghị khoa học quốc tế, liên
kết với các trung tâm KH&CN của các nước phát triển, giúp cho đội ngũ này ngày càng
phát triển về chất lượng. Với xu thế hợp tác, toàn cầu hóa hiện nay, chắc chắn cơ hội để giao
lưu, học hỏi của đội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp Hội ngày càng lớn, và do đó góp phần
trong thời gian tới, đội ngũ này sẽ tiếp tục phát triển hơn nữa.
Chất lượng của đội ngũ này sẽ tăng một phần còn do sự tham gia ngày càng
nhiều của các nhà khoa học có chuyên môn cao. Sở dĩ thu hút được lực lượng này vì
chính Liên hiệp Hội và các Hội ngành không chỉ là nơi sinh hoạt học thuật, mà còn là nơi
nghiên cứu ứng dụng có hiệu quả những sản phẩm trí tuệ mà lực lượng này sáng tạo ra.
Trong khi thực tế còn nhiều công trình nghiên cứu sau khi nghiệm thu lại bị bỏ quên
trong "ngăn kéo", gây lãng phí chất xám, triệt tiêu động lực sáng tạo của trí thức, thì Liên
hiệp Hội không những đã đem lại lợi ích cho xã hội mà còn đảm bảo quyền lợi cho tác
giả của các công trình đó. Việc trân trọng và sử dụng có hiệu quả trí tuệ của các nhà khoa
học là một động lực lớn thôi thúc trí thức tiếp tục nghiên cứu, sáng tạo thông qua đó lại
tiếp tục nâng cao trình độ của mình.
Hai là, cơ cấu đội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp Hội sẽ phát triển theo hướng đa
dạng.
Do khoa học càng phát triển thì tính chuyên môn hóa trong phân công lao động xã
hội càng sâu sắc, kéo theo một số ngành nghề mới xuất hiện. Tương ứng với nó là sự ra đời
một bộ phận trí thức hoạt động trong các lĩnh vực đó, lực lượng này bổ sung làm phong
phú hơn cơ cấu ngành nghề của trí thức thuộc Liên hiệp Hội.
Sự đa dạng trong cơ cấu của đội ngũ trí thức Liên hiệp Hội còn bởi việc mở rộng
sự tham gia của trí thức thuộc các thành phần kinh tế. Trong điều kiện phát triển nền kinh
tế thị trường ở nước ta hiện nay, để đảm bảo thắng lợi trong quá trình cạnh tranh, phát
triển mỗi cơ quan, đơn vị đều cần có sự tham gia của các chuyên gia, nhà khoa học. Nhất
là khi khoa học đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp thì sự gắn bó giữa khoa học và
sản xuất là một tất yếu khách quan. Một mặt do nhu cầu mong muốn tiếp cận nhanh
chóng với KH&CN hiện đại mà trí thức các thành phần này tự nguyện tham gia, mặt
khác là việc chủ động thu hút trí thức của Liên hiệp Hội nhằm đưa nhanh tiến bộ khoa
học - kỹ thuật vào sản xuất.
Về độ tuổi, xu hướng trẻ hóa sẽ diễn ra trong thời gian tới, nhưng tốc độ có thể
rất chậm. Mặc dù hiện nay Hội trí thức KH&CN trẻ đã được thành lập, song cũng cần
thêm một thời gian nữa Hội mới hoàn thiện tổ chức, cơ chế quản lý để thực hiện tốt vai
trò của mình. Khó khăn khác nữa là do một số Hội còn yêu cầu khá cao so với khả năng
đội ngũ này (như quy định về kinh nghiệm, tuổi khi kết nạp hội viên). Tuy vậy, để đảm
bảo lực lượng kế cận thì việc thu hút trí thức trẻ tham gia là một yêu cầu khách quan.
Quá trình vận động của đội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp Hội chịu sự tác động của
rất nhiều yếu tố, việc dự báo những xu hướng trên chỉ mang tính khái quát. Tùy thuộc
vào từng điều kiện cụ thể của từng thời kỳ mà lực lượng này có những biến đổi khác
nhau. Tuy nhiên sự phát triển của đội ngũ này sẽ theo hướng ngày càng mang tính hiện
đại và toàn diện, phù hợp với quy luật phát triển khách quan của lực lượng sản xuất.
Kết luận chương 2
Qua khảo sát thực trạng đội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp các Hội Khoa học và
Kỹ thuật Việt Nam cho thấy, đây là lực lượng giàu tiềm năng trí tuệ về KH&CN, quy
mô hoạt động rộng khắp trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Trong 9 năm trở lại đây
(1996 - 2005), nhất là từ khi có Chỉ thị số 45 - CT/TW số lượng, chất lượng của đội ngũ
này không ngừng tăng lên nhanh chóng, cơ cấu ngành nghề ngày càng đa dạng, phong
phú.
Những thành tựu mà đội ngũ này đạt được thể hiện qua một số nội dung hoạt
động như: Nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ, Công tác chính trị - xã hội, Tư
vấn, phản biện và giám định xã hội, Phổ biến kiến thức khoa học và kỹ thuật cho quần
chúng, xã hội hóa giáo dục, Phát triển cộng đồng và xóa đói giảm nghèo, Hợp tác quốc
tế…đã góp phần thúc đẩy KH&CN trong nước phát triển, thực hiện các mục tiêu kinh
tế - xã hội, tạo tiền đề quan trọng để đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước. Đồng thời nó
khẳng định năng lực, vai trò của đội ngũ này sự nghiệp xây dựng CNXH của nhân dân
ta.
Bên cạnh những kết quả đã đạt được rất đáng khích lệ trên, trong tổ chức, hoạt
động của đội ngũ này cũng tồn tại nhiều vấn đề đang đặt ra cần được giải quyết. Chất
lượng, số lượng chưa thực sự đáp ứng những yêu cầu của quá trình CNH, HĐH đất
nước. Tổ chức của một số Hội ngành thiếu chặt chẽ, mất cân đối trong cơ cấu ngành
nghề, giới tính, lứa tuổi. Nội dung hoạt động tuy khá phong phú nhưng chưa tập trung
đúng mức cho nghiên cứu chuyên sâu về khoa học cơ bản, phạm vi, quy mô hoạt động
còn tản mạn… chưa phát huy hết tiềm năng, vai trò của đội ngũ này.
Nguyên nhân chủ yếu của những hạn chế trên trước hết là do chưa có Luật có về
Hội để điều chỉnh thống nhất các hoạt động của Liên hiệp Hội và các Hội ngành Trung
ương. Ngoài ta những khó khăn về tài chính, thủ tục hành chính cũng tác động không nhỏ
đến kết quả hoạt động của đội ngũ này.
Việc tìm ra phương hướng và những giải pháp hợp lý để xây dựng và phát huy
vai trò của đội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp Hội là một yêu cầu khách quan. Những giải
pháp đưa ra không những nhằm khai thác tối đa nguồn lực chất xám quý báu này mà
còn nhằm củng cố vững chắc hơn khối liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông
dân và tầng lớp trí thức trong quá trình xây dựng CNXH.
Chương 3
Quan điểm và giải pháp nhằm xây dựng và phát huy vai trò của đội ngũ trí thức
thuộc Liên hiệp các
Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa
ở nước ta hiện nay
3.1. Những quan điểm cơ bản nhằm xây dựng và phát huy vai trò của đội
ngũ trí thức thuộc Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam
3.1.1. Xây dựng và phát huy vai trò của đội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp các
Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam phải được coi là một trong những nhân tố quyết
định thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
Việt Nam quá độ lên CNXH từ một nước có nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu,
chậm phát triển, trình độ dân trí thấp với nhiều tàn tích do các chế độ trước để lại, trong
bối cảnh quốc tế hóa, toàn cầu hóa mọi mặt của đời sống xã hội, nước ta vừa phải vượt
qua nền kinh tế tiểu nông chậm phát triển, vừa phải tiếp thu những thành tựu khoa học và
công nghệ hiện đại của thế giới để tiến hành CNH, HĐH. Bước "nhảy vọt" này đòi hỏi
phải huy động mọi nguồn lực trí tuệ trong nhân dân, đặc biệt là cần tiếp thu những thành
tựu khoa học và công nghệ của thế giới nhằm phát triển lực lượng sản xuất. Vì vậy, mỗi
bước tiến của KH&CN chính là một động lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp xây dựng
CNXH ở nước ta đi đến thắng lợi.
Cho nên, bước vào thời kỳ CNH, HĐH đất nước, Đảng ta đã khẳng định: "Công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước phải bằng và dựa vào khoa học" [21, tr. 59], "Khoa học
và công nghệ phải trở thành nền tảng và động lực cho CNH, HĐH" [21, tr. 48].
Trong giai đoạn hiện nay, muốn tạo dựng nền tảng vững chắc cho quá trình
CNH, HĐH đất nước, trước hết cần nâng cao năng lực nội sinh về KH&CN "đủ khả năng
ứng dụng công nghệ hiện đại, tiếp cận trình độ thế giới và tự phát triển trên một số lĩnh
vực, nhất là công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới, công
nghệ tự động hóa" [25, tr. 160-161]. Lực lượng chính đảm đương nhiệm vụ này là đội
ngũ trí thức KH&CN, bởi họ là người trực tiếp nghiên cứu sáng tạo, ứng dụng, truyền
bá những trí thức khoa học tiến bộ vào thực tiễn sản xuất và đời sống xã hội. Vì vậy,
thiếu sự tham gia của đội ngũ trí thức khoa học không thể xây dựng nền tảng, tạo ra
động lực cho sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. Do đó, việc xây dựng và phát huy vai trò
của đội ngũ trí thức, nhất là trí thức KH&CN là một trong những nhân tố quyết định
thắng lợi của sự nghiệp xây dựng CNXH ở nước ta hiện nay.
Đội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp Hội chính là lực lượng nòng cốt của đội ngũ trí
thức KH&CN Việt Nam. Những kết quả thực hiện nhiệm vụ mà đội ngũ này đạt được
trong những năm qua, từ khi thành lập Liên hiệp Hội cho đến nay, đặc biệt là từ khi thực
hiện Chỉ thị số 45-CT/TW của Ban chấp hành Trung ương Đảng đã cho thấy tiềm năng
trí tuệ cũng như khẳng định vai trò của đội ngũ này trong khối liên minh công nhân -
nông dân - trí thức. Chính đội ngũ trí thức trong Liên hiệp Hội đã góp phần to lớn vào
việc nghiên cứu, ứng dụng những thành tựu của KH&CN vào thực tiễn cuộc sống của
nhân dân và phát triển kinh tế - xã hội ở đất nước ta trong những năm qua. Đồng thời
cùng với sự phát triển của KH&CN, số lượng và chất lượng của đội ngũ trí thức trong
Liên hiệp Hội không ngừng được nâng cao, ngày càng trở thành lực lượng giữ vai trò
quan trọng đối với sự nghiệp CNH, HĐH và xây dựng CNXH ở Việt Nam.
Vì vậy, trong thời kỳ đổi mới hiện nay ở nước ta, để đạt được các mục tiêu mà
Đảng và Nhà nước ta đã đề ra, bên cạnh việc đào tạo, nâng cao trình độ cho đội ngũ trí
thức Việt Nam, cần phải khai thác tối đa tiềm năng trí tuệ sẵn có của đội ngũ trí thức
trong Liên hiệp Hội. Với tư cách là lực lượng nòng cốt của đội ngũ trí thức KH&CN Việt
Nam, việc xây dựng và phát huy vai trò của đội ngũ này phải được coi là một trong
những nhân tố quyết định thắng lợi của sự nghiệp đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước hiện
nay.
3.1.2. Xây dựng và phát huy vai trò của đội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp các
Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam phải trên cơ sở kế thừa có chọn lọc truyền
thống dân tộc và kinh nghiệm của các nước trong việc trọng dụng nhân tài
Trong lịch sử hình thành và phát triển của dân tộc, ông cha ta đã sớm biết trọng
dụng những người tài năng của đất nước, coi "hiền tài là nguyên khí quốc gia", có vai trò
quyết định đến sự thịnh, suy của đất nước. Do đó, những bậc minh quân trong lịch sử của
dân tộc, khi cai trị đất nước đều lấy việc chọn hiền tài làm kế lâu bền của sự nghiệp dựng
nước và giữ nước. Tuy mỗi triều đại đều có những tiêu chuẩn riêng để tuyển chọn hiền
tại, nhưng đều dựa trên tài năng, trí tuệ và đức độ.
Chủ tịch Hồ Chí Minh - một nhà lãnh đạo thiên tài của dân tộc ta - đã hiểu rất rõ
tầm quan trọng của đội ngũ trí thức đối với tiến trình phát triển của xã hội, đặc biệt đối
với sự nghiệp cách mạng và giải phóng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Do
đó, trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, chủ tịch Hồ Chí Minh luôn rất coi
trọng trí thức yêu nước. Người khẳng định: "Trí thức là vốn liếng quý báu của dân tộc".
Vì vậy, ngay sau khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, Người đã kêu gọi tìm
người tài đức ra giúp kiến thiết đất nước. Trong bài "Nhân tài và kiến quốc" (viết năm
1945), Người đã nhấn mạnh: Vậy chúng tôi mong rằng đồng bào ai có tài năng và sáng
kiến về những công việc đó, lại sẵn lòng hăng hái giúp ích nước nhà thì xin gửi kế hoạch
rõ ràng cho Chính phủ. Tiếp đến, năm 1946, Người lại một lần nữa khẳng định trong bài
"Tìm người tài đức": Nước nhà cần phải kiến thiết. Kiến thiết cần phải có nhân tài. Trong
số 20 triệu đồng bào chắc không thiếu người có tài có đức", "E vì Chính phủ nghe không
đến, thấy không khắp, đến nỗi những bực tài đức không thể xuất thân. Khuyết điểm đó
tôi xin thừa nhận".
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh phát hiện
và sử dụng nhân tài bằng lòng kính trọng và sự phát huy chứ không phải bằng danh lợi.
Nghệ thuật thu hút nhân tài của Người chính là luôn biết động viên, khơi dậy tình yêu
quê hương đất nước và tin dùng họ, trao cho họ những nhiệm vụ quan trọng.
Cách trọng dụng hiền tài của Chủ tịch Hồ Chí Minh là khách quan, khoa học, căn
cứ vào năng lực, sở trường để giao nhiệm vụ. Người cho rằng, việc dùng nhân tài không
nên căn cứ vào những điều quá khắt khe, miễn là không phản lại quyền lợi của dân
chúng... có lòng trung thành với Tổ quốc là có thể dùng được. Chính vì vậy, Người đã
chủ động thu hút trí thức xuất thân từ nhiều nguồn gốc khác nhau, có cả trí thức thuộc
chế độ cũ…
Không chỉ phát huy tài năng của những trí thức hiện có, với tầm nhìn chiến lược
của một nhà lãnh đạo thiên tài, Chủ tịch Hồ Chí Minh còn chủ trương xây dựng đội ngũ
trí thức mới thông qua việc "Đào tạo trí thức mới. Cải tạo trí thức cũ. Công nông trí thức
hóa. Trí thức công nông hóa".
Có thể nói, tư tưởng và phương pháp xây dựng, trọng dụng trí thức của Hồ Chí
Minh là tài sản tinh thần, bài học quý báu cho việc vận dụng để xây dựng, sử dụng đội
ngũ trí thức thuộc Liên hiệp Hội ở nước ta hiện nay.
Ngoài kế thừa những giá trị truyền thống quý báu của dân tộc, trong điều kiện
hiện nay, kinh nghiệm về đào tạo, sử dụng, đãi ngộ trí thức của các nước trong khu vực
và trên thế giới cũng cần phải được Đảng và Nhà nước ta nghiên cứu, tiếp thu những yếu
tố tiến bộ và hợp lý. Một số nước phát triển trên thế giới như Mỹ, Nhật Bản, Singapo... đã
rất thành công trong việc khai thác, thu hút nguồn lực "chất xám" trong nước và của các
nước khác trên thế giới. Phương thức phổ biến của các nước này là thực hiện chế độ đãi
ngộ xứng đáng cùng với những điều kiện làm việc hết sức thuận lợi cho lao động của
người trí thức.
Với điều kiện kinh tế - xã hội còn chậm phát triển như nước ta, chúng ta không
thể rập khuôn máy móc mô hình thu hút đội ngũ trí thức mà các nước này đã thực hiện.
Tuy nhiên, cũng cần phải thừa nhận rằng, trong bối cảnh hiện nay, nếu không xây dựng
cho mình một đội ngũ những chuyên gia, nhà khoa học có trình độ cao, tương đương với
trình độ phát triển KH&CN của thế giới thì rất khó có thể đạt được mục tiêu mà Đảng ta
đã đề ra trong sự nghiệp đổi mới đất nước. Do vậy, để xây dựng và phát huy vai trò của
đội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp Hội đạt hiệu quả, Đảng và Nhà nước cần nghiên cứu và
kế thừa có chọn lọc những kinh nghiệm đào tạo, thu hút và sử dụng đội ngũ trí thức của
các nước trên thế giới và vận dụng sáng tạo vào hoàn cảnh cụ thể của nước ta hiện nay.
Nhìn chung, đội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp Hội đều có tinh thần yêu nước,
mong muốn đóng góp sức lực và trí tuệ của mình cho sự nghiệp CNH, HĐH đất nước, đó
là "vốn liếng" quý báu của dân tộc ta hiện nay. Vì vậy, để xây dựng và phát huy nguồn
lực trí tuệ này đạt hiệu quả cao thì những chính sách liên quan đến đội ngũ trí thức ở
nước ta cần phải được thực hiện dựa trên việc học tập kinh nghiệm về "chiêu hiền, đãi
sĩ", sử dụng nhân tài trong lịch sử dân tộc và của các nước khác trên thế giới.
3.1.3. Xây dựng và phát huy vai trò của đội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp các Hội
Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam phải mang tính toàn diện
Xã hội càng phát triển càng đòi hỏi ở đội ngũ trí thức nền tảng tri thức khoa học
phong phú. Ngày nay, ngoài trình độ sâu sắc về một chuyên ngành hay một lĩnh vực cụ
thể, trí thức cần phải có sự am hiểu về các lĩnh vực khoa học khác. Sự đan xen, kết hợp
liên ngành trong hoạt động của đội ngũ này đã trở thành xu thế khách quan, phổ biến của
sự phát triển kinh tế - xã hội trong thời đại ngày nay.
Đối với sự nghiệp xây dựng CNXH ở Việt Nam, việc phát triển KH&CN không thể
không tính đến vấn đề phát triển con người toàn diện để phục vụ cho sự nghiệp CNH, HĐH
đất nước. Do vậy, việc xây dựng đội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp Hội ngay từ đầu cần quan
tâm đến chất lượng mang tính toàn diện. Điều này không chỉ nhằm đáp ứng những yêu cầu
khách quan của sự phát triển đất nước mà nó còn phù hợp với những mục tiêu phát triển bền
vững mà Đảng và Nhà nước ta đã đề ra. Đối với mỗi Hội ngành, ngoài việc đào tạo chuyên
môn cần phải trang bị những kiến thức văn hóa, pháp luật, chính trị... Đặc biệt là trang bị thế
giới quan khoa học và phương pháp luận biện chứng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh. Điều này vừa giúp cho đội ngũ này có kiến thức tổng hợp, vừa giúp họ có
định hướng đúng đắn cho các hoạt động nghiên cứu của mình trong sự nghiệp xây dựng
CNXH ở Việt Nam hiện nay.
Chính vì vậy, để phát huy được vai trò của đội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp Hội
đạt hiệu quả cao phải cần có một chiến lược phát triển toàn diện và lâu dài. Từ việc phát
hiện, đào tạo, bồi dưỡng đến việc sử dụng, đãi ngộ và tạo mọi điều kiện phát triển tài
năng của đội ngũ trí thức đều phải được Đảng và Nhà nước quan tâm ngay từ đầu, nếu
không sẽ dẫn đến hiện tượng "bạc chất xám", "lãng phí chất xám", "chảy máu chất xám"
ngay tại chỗ và không tạo ra động lực cho lao động sáng tạo và kích thích sự phát triển
của đội ngũ này.
Do đó, việc xây dựng và phát huy vai trò của đội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp
Hội cũng phải nằm trong chiến lược phát triển GD&ĐT và KH&CN của đất nước. Đảng
và Nhà nước cần phải coi đó là một trong những yếu tố cốt lõi của việc đào tạo, phát triển
và sử dụng nguồn nhân lực ở nước ta hiện nay.
3.1.4. Xây dựng và phát huy vai trò của đội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp các
Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam phải trên cơ sở nắm vững thực trạng và những
yêu cầu thực tiễn đặt ra đối với đội ngũ này
Sự vận động, phát triển của đội ngũ trí thuộc Liên hiệp Hội Khoa học và Kỹ
thuật Việt Nam chịu sự quy định của các điều kiện kinh tế - xã hội nhất định. Do vậy,
việc nắm vững thực trạng như: số lượng, chất lượng, đặc điểm, xu hướng, nhu cầu, tâm
tư nguyện vọng... có ý nghĩa rất quan trọng, giúp cho việc đưa ra chủ trương, chính
sách và các giải pháp nhằm xây dựng, phát huy vai trò của đội ngũ này được chính xác,
hiệu quả, tránh rơi vào chủ quan, duy ý chí, giáo điều dẫn đến hiện tượng vừa lãng phí
chất xám, vừa không đáp ứng được yêu cầu của sự nghiệp CNH, HĐH đất nước trong
xu thế hội nhập quốc tế.
Một trong những bất cập hiện nay là: khi chúng ta đang rất cần những chuyên gia,
nhà khoa học đầu ngành để phát triển KH&CN và tiến hành CNH, HĐH đất nước, song lại
lúng túng, lãng phí trong việc sử dụng nguồn lực trí thức hiện có tại chỗ. Nguyên nhân chủ
yếu là do chưa nắm vững thực trạng đội ngũ trí thức và nhu cầu của xã hội đối với đội ngũ
này. Để khắc phục tình trạng trên, việc đào tạo, sử dụng đội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp
Hội cần phải gắn với thực tiễn, quán triệt quan điểm biện chứng mác xít trong việc đưa ra
các giải pháp liên quan đến đội ngũ trí thức.
Phát huy vai trò của đội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp Hội trong giai đoạn hiện nay
chính là khơi dậy và làm cho tiềm năng về KH&CN trở thành động lực thúc đẩy sự phát
triển kinh tế - xã hội, góp phần thực hiện các mục tiêu CNH, HĐH đất nước. Công việc đó
trước hết phải xuất phát từ nhu cầu của thực tiễn của việc phát triển KH&CN, những vấn
đề đang đặt ra cho khoa học, đồng thời xem xét khả năng, những ưu điểm, thế mạnh của
đội ngũ trí thức trên cơ sở đó có kế hoạch thực hiện.
Hoạt động nổi bật nhất hiện nay là tư vấn, phản biện và giám định xã hội, Liên
hiệp Hội có thuận lợi lớn là tập hợp trí thức thuộc nhiều chuyên ngành khác nhau, có thể
liên kết các nhà khoa học của những Hội liên quan đến đề án để cùng thực hiện. Nhưng
để hoạt động này đạt hiệu quả cao, mỗi Hội cùng với cơ quan trung ương Liên hiệp Hội
cần nắm vững số lượng, trình độ, sở trường, dự báo khả năng đáp ứng các yêu cầu của
đội ngũ này, khi cần có thể thực hiện được ngay. Việc khai thác tiềm năng trí tuệ của đội
ngũ trí thức cần phải căn cứ vào năng lực, trình độ thực để phát huy.
Xuất phát từ thực trạng và những yêu cầu thực tiễn đặt ra đối với đội ngũ trí thức
thuộc Liên hiệp Hội, vấn đề xây dựng và phát huy vai trò của đội ngũ này phải xuất phát từ
thực trạng của họ trong hoạt động thực tiễn, không được chủ quan, duy ý chí, áp đặt và
phải coi đây là một nguyên tắc trong sự nghiệp xây dựng CNXH ở nước ta. Do vậy, việc
nghiên cứu, đánh giá, dự báo xu hướng phát triển của đội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp Hội
cần được Đảng và Nhà nước thực hiện một cách thường xuyên, kịp thời.
3.2. Một số giải pháp chủ yếu nhằm xây dựng và phát huy vai trò của đội ngũ
trí thức thuộc liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam trong sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
3.2.1. Nhóm giải pháp về giáo dục và đào tạo
Giáo dục - đào tạo có vai trò đặc biệt quan trọng, quyết định đến chất lượng nguồn
nhân lực, trong đó giáo dục đại học là bậc trực tiếp đào tạo ra những trí thức mới. Do vậy,
để nâng cao trình độ, năng lực của đội ngũ trí thức KH&CN - nguồn bổ sung cho đội ngũ
trí thức thuộc Liên hiệp Hội - cần phải đổi mới công tác giáo dục đại học và sau đại học.
Trước hết, đảng và Nhà nước cần tập trung ở những vấn đề cơ bản sau:
Một là, đổi mới nội dung và phương pháp giáo dục đại học và sau đại học.
ở mỗi thời kỳ, những tiêu chí về nguồn nhân lực lại có những biến đổi phù hợp
với trình độ phát triển, nên nội dung giáo dục - đào tạo cũng cần biến đổi để thích ứng kịp
với sự phát triển của thời đại ngày nay. Để có nội dung phù hợp, trước hết phải căn cứ
trên những nhu cầu mà xã hội đang đặt ra đối với việc xây dựng đội ngũ trí thức, xác định
rõ tiêu chí của từng ngành, từng vùng để trên cơ sở đó có chương trình đào tạo hợp lý.
Nội dung giáo dục từ bậc đại học trở lên ở nước ta hiện nay còn nặng về lý
thuyết, thời gian cho thực hành rất ít, chương trình đào tạo nhìn chung còn lạc hậu, xa rời
thực tiễn, không thích ứng kịp với sự phát triển của KH&CN thế giới, nên phần lớn
những sinh viên sau khi tốt nghiệp rất khó thích ứng với công việc thực tế. Chúng ta đã
quen nếp dạy những gì mình có, chưa quen với việc dạy những gì mà xã hội đang cần.
Do đó, đổi mới nội dung giáo dục đại học và sau đại học là yêu cầu bức thiết hiện nay.
Việc đổi mới hệ thống giáo dục và đào tạo ở nước ta cần theo hướng hiện đại và toàn
diện.
Phương pháp giáo dục - đào tạo có ảnh hưởng rất lớn đến việc tiếp thu tri thức
của người học. Mỗi cấp bậc, với trình độ nhận thức và đối tượng khác nhau phải có sự
lựa chọn phương pháp riêng, phù hợp với từng điều kiện cụ thể. Hiện nay, việc giảng dạy
trong các trường đại học và cả sau đại học chủ yếu là truyền thụ tri thức một chiều, giáo
viên thuyết trình là chủ yếu, ít có sự trao đổi giữa người dạy và người học. Điều này ảnh
hưởng đến sự phát triển tính chủ động, sáng tạo của người học, không kích thích được tư
duy, sáng tạo cũng như sự hứng thú tìm hiểu, nghiên cứu khoa học của người học, phần
lớn là nghe một cách thụ động rồi học thuộc, ít được học tập bằng thực tiễn. Việc truyền
đạt tri thức ở các cơ sở đào tạo dường như mang nhiều tính áp đặt.
Cho nên, đổi mới phương pháp đào tạo là một trong những khâu quan trọng nhất
của việc cải cách giáo dục - đào tạo ở nước ta hiện nay. Đối với giáo dục đại học và sau
đại học, đòi hỏi phải có sự đổi mới về phương pháp giảng dạy và nghiên cứu. Đối tượng
giảng dạy ở bậc này đã có nền tảng kiến thức cơ bản cho nên nhiệm vụ đào tạo chủ yếu
nhằm xây dựng phương pháp tiếp cận và tiếp nhận thông tin một cách khoa học và hiệu
quả. Hình thành cho người học năng lực nghiên cứu độc lập, tư duy sáng tạo sát với thực
tiễn cuộc sống. Đối với các ngành đào tạo thuộc lĩnh vực khoa học - kỹ thuật cần chú
trọng hơn đến phương pháp trực quan và các hoạt động thực hành nhằm giúp người học
gắn lý thuyết với thực tiễn.
Bên cạnh đó, cần phải đầu tư trang thiết bị cho dạy và học, với một lượng kiến
thức lớn và không ngừng gia tăng nhanh chóng như hiện nay, để đạt hiệu quả cao thì việc
đổi mới phương pháp giảng dạy phải gắn với hiện đại hóa trang thiết bị giáo dục. Đối với
đào tạo thuộc ngành khoa học công nghệ, khoa học kỹ thuật, yếu tố này là rất cần thiết để
theo kịp sự phát triển của thế giới trong sự nghiệp CNH, HĐH đất nước.
Để có phương pháp giáo dục - đào tạo hiệu quả, cần phải căn cứ vào nhiều yếu tố
như nội dung, đối tượng..., không thể có một phương pháp chung cho mọi đối tượng. Tuy
nhiên, việc đổi mới trong hệ thống giáo dục và đào tạo cần phải theo hướng mở rộng dân
chủ cho người học, học đi đôi với hành.
Hai là, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ giảng dạy đại học và sau đại học, cụ
thể cần phải chú trọng những khâu cơ bản sau:
Trước hết, việc tuyển chọn cán bộ giảng dạy đại học và sau đại học phải là những
người xuất sắc, có đạo đức trong sáng, trình độ chuyên môn vững vàng, phương pháp
giảng dạy tốt và có năng lực nghiên cứu khoa học.
Hàng năm, Đảng và Nhà nước cần có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng, bổ sung
những kiến thức mới để nâng cao trình độ cho giảng viên. Bản thân cán bộ giảng dạy
cũng phải tự học, học suốt đời và tự cập nhật những kiến thức mới để đáp ứng kịp sự phát
triển của thực tiễn. Mặt khác, ngoài việc nắm vững chuyên môn, giảng viên cần phải bổ
sung các kiến thức khoa học khác có liên quan. Bên cạnh đó, việc giao lưu, hợp tác, trao
đổi kinh nghiệm với trí thức của các nước trong khu vực và trên thế giới là cơ hội tốt để
nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ giảng dạy đại học và sau đại học.
Ba là, xây dựng chiến lược lâu dài về đào tạo nguồn lực trí thức KH&CN.
Trong thời gian tới, nhu cầu về các chuyên gia có trình độ KH&CN cao tiếp tục
tăng nhằm đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. Tính đến cuối năm
2003, nước ta có khoảng trên 1,8 triệu người có trình độ cao đẳng, đại học trở lên. Như
vậy, so với tổng số dân Việt Nam (năm 2003) là 79 triệu người (lấy tròn số), mới đạt 227
người/ 1 vạn dân (chỉ chiếm 2,27% dân số). Chính vì vậy, Đảng và Nhà nước ta cần có
chiến lược và kế hoạch đào tạo và phát triển dài hạn đội ngũ trí thức KH&CN ở nước ta
hiện nay. Do vậy, việc đào tạo bổ sung cho đội ngũ này là rất cần thiết, trước hết cần thực
hiện một số nhiệm vụ cơ bản sau:
- Tăng chỉ tiêu tuyển sinh đại học và sau đại học ở những ngành khoa học kỹ
thuật, khoa học tự nhiên, khoa học xã hội và nhân văn. Bên cạnh đó, cần mở rộng các loại
hình đào tạo như đào tạo theo tín chỉ, đào tạo từ xa... nhằm tạo ra những cơ hội tốt nhất
để thu hút người học.
- Cần có kế hoạch phát hiện và bồi dưỡng những tài năng trẻ trong lĩnh vực khoa
học tự nhiên, tạo điều kiện để họ phát huy năng khiếu, sở trường của mình, từ đó có
hướng phát triển nâng cao.
- Có chế độ ưu đãi đặc biệt đối với những sinh viên giỏi, khuyến khích họ trong
việc nghiên cứu khoa học, góp phần tạo nguồn cho trí thức KH&CN của đất nước.
- Có chính sách và chế độ đãi ngộ xứng đáng đối với đội ngũ cán bộ làm công tác
nghiên cứu khoa học và đào tạo để họ yên tâm, tập trung vào nghiên cứu và giảng dạy,
cùng như cống hiến trí tuệ cho sự phát triển của đất nước. Phát huy quyền dân chủ của họ
trong nghiên cứu và trao đổi khoa học ở trong nước và quốc tế.
Bốn là, tăng cường bồi dưỡng kiến thức các môn khoa học Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh trong đào tạo đội ngũ trí thức KH&CN.
Muốn xây dựng CNXH trước hết phải có "con người xã hội chủ nghĩa". Do vậy,
giáo dục - đào tạo không chỉ có nhiệm vụ đào tạo chuyên môn, nghề nghiệp mà còn có
nhiệm vụ hình thành cho thế hệ trẻ lý tưởng CSCN.
Đội ngũ trí thức khoa học công nghệ nói chung, trí thức thuộc Liên hiệp Hội nói
riêng là lực lượng đi đầu trong việc xây dựng nền tảng KH&CN cho CNH, HĐH. Chính
vì vậy, họ phải là những người thấm nhuần lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh, sống có lý tưởng và trung thành với CNXH. Trên cơ sở được trang bị thế
giới quan khoa học, phương pháp luận biện chứng của Chủ nghĩa Mác - Lênin sẽ giúp họ
có định hướng đúng đắn trong mọi hoạt động nghiên cứu của mình, góp phần xây dựng
những nhân tố XHCN trong việc phát triển KH&CN Việt Nam.
Năm là, thường xuyên mở các lớp đào tạo, bồi dưỡng và hội thảo khoa học cho
đội ngũ trí thức.
Lượng tri thức mà con người sản sinh ra hiện nay tăng theo cấp số nhân, nếu
không nhanh chóng tiếp thu những tri thức mới chúng ta sẽ ngày càng bị lạc hậu. Để
nâng cao trình độ, bản thân đội ngũ thí thức thuộc Liên hiệp Hội cần không ngừng tự bổ
sung kiến thức. Ngoài ra, việc mở các lớp tập huấn, bồi dưỡng là rất cần thiết và nó cần
nhân rộng ở các Hội ngành với nhiều hình thức, nội dung phong phú.
Các cuộc hội thảo khoa học là dịp tốt nhất để đội ngũ trí thức nâng cao trình độ
của mình. Để đạt hiệu quả cao, ngoài tăng số lượng hội thảo riêng, mỗi Hội ngành cần
mở rộng hình thức liên kết trao đổi khoa học giữa các ngành trong một số lĩnh vực. Trí
thức Liên hiệp Hội có lợi thế là tập trung nhiều ngành khoa học khác nhau, do đó rất
thuận lợi cho việc trao đổi, hội thảo khoa học mang tính liên ngành. Hoạt động này vừa
nhằm bổ sung, hoàn thiện trí thức, hiểu biết của đội ngũ trí thức, đồng thời nó cũng phù
hợp với xu thế khách quan hiện nay, đó là, để giải quyết những vấn đề lớn, đòi hỏi phải
có sự tham gia của nhiều nhà khoa học thuộc nhiều lĩnh vực.
Một trong những hoạt động cần được tăng cường hơn nữa là cử các đại biểu
tham gia các hội thảo khoa học của các tổ chức, các nước khác trên thế giới, và mời
các chuyên gia, các nhà khoa học có trình độ cao ở các nước đến tham dự các hội
thảo trong nước. Sự trao đổi đó không chỉ có ý nghĩa về ngoại giao, hợp tác hữu
nghị, mà đó còn là cơ hội tốt để tiếp nhận những kinh nghiệm, tri thức KH&CN tiên
tiến trên thế giới để nâng cao trình độ của đội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp Hội hiện
nay.
3.2.2. Nhóm giải pháp về thu hút, sử dụng và đãi ngộ đối với đội ngũ trí thức
thuộc Liên hiệp Hội
Một là, về công tác phát triển hội viên.
Hiện còn khá nhiều trí thức khoa học và kỹ thuật trong và ngoài nước (Việt Kiều)
chưa được tập hợp vào Liên hiệp Hội. Để thu hút lực lượng này cần tập trung giải quyết
một số vấn đề cơ bản sau:
- Tiêu chí kết nạp hội viên nên theo hướng mở rộng, tạo điều kiện thuận lợi để trí
thức có thể gia nhập.
+ Yêu cầu về trình độ, là một tiêu chí quan trọng đảm bảo yêu cầu trong lao động
sáng tạo của trí thức. Tùy thuộc vào mục tiêu, nội dung hoạt động của mỗi Hội ngành và
căn cứ vào thực trạng của đội ngũ trí thức thuộc ngành đó mà có những tiêu chí sao cho
hợp lý, không nên quy định trình độ quá cao so với mặt bằng và khả năng đáp ứng của trí
thức.
+ Yêu cầu về độ tuổi,. không nên giới hạn tuổi của các thành viên trong Liên
hiệp Hội. Mặc dù trí thức trẻ còn hạn chế về kinh nghiệm thực tiễn, song ở họ có ưu thế
là sức trẻ, năng động, khả năng thích ứng với cái mới nhanh, bản thân họ được tiếp thu
những tri thức hiện đại, có tâm huyết và mong muốn đóng góp cho sự nghiệp phát triển
đất nước. Nếu tập hợp được, đội ngũ này không những sẽ là nguồn kế cận cần thiết mà
còn khắc phục được những hạn chế do tuổi cao mang lại.
Mặt khác, cần từng bước thu hút sinh viên tham gia từng bước vào các hoạt động
của Liên hiệp Hội. Sinh viên chưa phải là trí thức nhưng nếu biết khơi dậy sự sáng tạo
của lực lượng này sớm, sẽ kích thích sự say mê đi vào nghiên cứu khoa học - công việc
mà hiện nay thế hệ trẻ đang ngại đi theo.
Vì vậy, để phục vụ cho chiến lược phát triển đội ngũ trí thức lâu dài, Liên hiệp
Hội cần liên kết với một số trường đại học tổ chức những phong trào sinh viên nghiên
cứu khoa học gắn liền với hoạt động nghiên cứu của Liên hiệp Hội. Thông qua đó giới
thiệu cho thế hệ trẻ một môi trường khoa học mở rộng, hướng những sinh viên yêu thích
nghiên cứu khoa học sau khi tốt nghiệp tham gia vào Liên hiệp Hội.
- Đổi mới nội dung và phương thức hoạt động của Hội ngành Trung ương.
Điều lệ không khắt khe, điều kiện làm việc thuận lợi, nhưng nếu hoạt động không
hấp dẫn, không tạo được môi trường khoa học thực sự thì cũng không thể thu hút được trí
thức tham gia, nhất là với một tổ chức mang tính tự nguyện như Liên hiệp Hội và các Hội
ngành Trung ương.
Hiện nay có một số Hội hoạt động còn mờ nhạt, mang tính hình thức, ít có tác
dụng thiết thực, tổ chức lỏng lẻo, nội dung hoạt động không phong phú… là nguyên nhân
khiến hội viên thiếu gắn bó và không tạo được sức hút đối với trí thức KH&CN ngoài
Hội. Để khắc phục tình trạng này, cần thực hiện một số nhiệm vụ cơ bản sau:
+ Đổi mới nội dung hoạt động theo hướng đa dạng, phong phú, phù hợp với đòi
hỏi của sự phát kinh tế - xã hội và nhu cầu của hội viên. Đặc biệt là công tác nghiên cứu,
ứng dụng khoa học - kỹ thuật cần bám sát thực tiễn, không ngừng mở rộng quy mô
nghiên cứu, kích thích sự say mê khám phá ra những chân lý mới trong khoa học. Hàng
năm, thường xuyên tổ chức các buổi trao đổi chuyên đề, thông tin khoa học mới và chọn
một số vấn đề mà thực tiễn đang đặt ra làm nội dung cho các hội thảo khoa học.
+ Bên cạnh đó, cũng cần phát huy lợi thế về đa ngành trong việc liên kết với các
Hội ngành khác để trao đổi học thuật. Việc duy trì sinh hoạt đều đặn và theo nhiều chủ đề
thiết thực sẽ có tác dụng gắn kết các thành viên và thu hút được nhiều hội viên mới tham
gia.
+ Để có thể thu hút trí thức tham gia đông đảo vào các hoạt động của Liên hiệp
Hội, cần mở rộng phạm vi hoạt động đến khắp các vùng miền, lĩnh vực của đời sống xã
hội với nhiều nội dung mới, đáp ứng những yêu cầu ngày càng cao của sự nghiệp CNH,
HĐH đất nước.
+ Dân chủ hóa mọi hoạt động của các Hội ngành cũng như của cơ quan trung
ương Liên hiệp Hội nhằm thu hút được sự tham gia góp ý kiến của nhiều hội viên, nhất là
trong việc tổ chức, xây dựng chương trình, kế hoạch hoạt động của Hội. Điều này sẽ tạo
ra sức hút mạnh mẽ đối với trí thức.
+ Xây dựng cơ chế quản lý các thông tin liên quan đến hội viên đảm bảo tính
chính xác và luôn cập nhật. Nếu tổ chức quá lỏng lẻo không chỉ tạo ra tâm lý thiếu sự gắn
kết giữa hội viên với Trung ương Hội, giữa các hội viên với nhau mà nó còn hạn chế việc
huy động nguồn lực trí tuệ khi cần thiết. Hiện nay, Liên hiệp Hội đã có mạng nội bộ
(LAN) nhưng việc cập nhật thông tin của các Hội còn chưa đầy đủ và thiếu tính thống
nhất. Theo chúng tôi, Liên hiệp Hội không quản lý về mặt hành chính đối với các Hội
thành viên, nhưng cũng cần có quy chế bắt buộc báo cáo những thông tin cần thiết về số
lượng, trình độ, tuổi, sở trường…và một số hoạt động tiêu biểu của hội viên theo những
mẫu thống nhất, định kỳ hàng năm.
- Nhà nước cần tạo điều kiện thuận lợi về mặt thủ tục hành chính để trí thức là
người Việt Nam ở nước ngoài có thể dễ dàng về nước và đóng góp xây dựng quê hương.
Trong điều kiện hội nhập quốc tế hiện nay, nước ta cần phải dỡ bỏ những hàng
rào hành chính để thu hút đầu tư của nước ngoài. Trí thức Việt kiều, trước hết họ cũng
như những đối tác nước ngoài mà chúng ta đang thu hút. Mặt khác, họ là những người
mong muốn đóng góp sức mình cho dân tộc, tính hướng về cội nguồn tích cực này rất cần
được sự ưu tiên, khuyến khích đặc biệt của Nhà nước.
Sự nghiệp CNH, HĐH ở nước ta hiện nay rất cần những chuyên gia giỏi trong
các lĩnh vực KH&CN. Chính vì vậy, hơn 30 vạn trí thức Việt kiều là lực lượng có tiềm
năng trí tuệ lớn có khả năng đóng góp tích cực cho sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. Việc
hướng hoạt động của đội ngũ này về quê hương vừa phù hợp với chính sách đại đoàn kết
toàn dân tộc, vừa phù hợp với chủ trương, chính sách tranh thủ mọi nguồn lực từ bên
ngoài để phát triển đất nước của Đảng và Nhà nước ta. Do vậy, đơn giản hóa thủ tục hành
chính đối với trí thức Việt kiều khi tham gia Liên hiệp Hội là rất cần thiết.
Hai là, về sử dụng đội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp Hội.
Đây là lực lượng giàu tiềm năng trí tuệ, nhưng trong thực tế việc khai thác và sử
dụng còn đạt hiệu quả thấp. Một mặt, do chưa có sự nghiên cứu đánh giá đúng trình độ,
năng lực của đội ngũ này. Mặt khác, xã hội nói chung và lãnh đạo các cấp nói riêng còn
chưa nhận thức đúng đắn về vị trí, vai trò của đội ngũ trí thức trong sự nghiệp CNH, HĐH
đất nước. Để nguồn lực "chất xám" này không bị lãng phí, trước tiên cần phải thực hiện
những giải pháp sau:
- Quán triệt quan điểm của Đảng và Nhà nước về vai trò của đội ngũ trí thức
thuộc Liên hiệp Hội đến các cấp lãnh đạo, cơ quan, ban, ngành và đoàn thể từ Trung
ương đến địa phương. Coi Liên hiệp Hội thực sự là một tổ chức chính trị - xã hội, đội ngũ
trí thức thuộc Liên hiệp Hội có vị trí, vai trò rất quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc.
- Tổ chức nghiên cứu đánh giá đúng năng lực, trình độ, chất lượng của trí thức
thuộc Liên hiệp Hội, lắng nghe tâm tư, nguyện vọng của họ để từ đó có cơ sở cho việc
đào tạo và sử dụng. Việc đánh giá chất lượng của đội ngũ này phải hết sức khách quan,
khoa học.
- Khi đã đánh giá đúng chất lượng của đội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp Hội thì
việc sử dụng phải trên cơ sở tôn trọng, coi trọng năng lực chuyên môn, sử dụng đúng
người, đúng việc. Giao nhiệm vụ phù hợp, tương xứng với khả năng, trình độ. Đồng thời,
Đảng và Nhà nước cần tạo môi trường làm việc thuận lợi và có chế độ ưu đãi về vật chất
và tinh thần xứng đáng.
- Việc sử dụng đội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp Hội cần vận dụng bài học dùng
trí thức của chủ tịch Hồ Chí Minh, đó là phải tin tưởng và trọng dụng trí thức. Không nên
quá khắt khe về nguồn gốc xuất thân, quá khứ... để bỏ lỡ nhân tài. Hiện nay việc giao
nhiệm vụ cho đội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp Hội còn dè dặt, chưa tương xứng với tiềm
năng của Liên hiệp Hội. Đảng và Nhà nước ta cần phải có chính sách mạnh dạn tin dùng,
giao nhiệm vụ ngang tầm với vị trí, vai trò cũng như khả năng đáp ứng của đội ngũ trí
thức thuộc Liên hiệp Hội.
Ba là, về chế độ và chính sách đãi ngộ đối với đội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp
Hội.
Việc đãi ngộ xứng đáng đối với trí thức là một trong những động lực quan trọng
thúc đẩy tinh thần tích cực trong lao động sáng tạo. Mặc dù Điều lệ của Liên hiệp Hội đã
khẳng định: Mục tiêu hoạt động của đội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp Hội không vì lợi
nhuận. Song cũng cần phải có một khoản kinh phí nhất định - điều kiện cần để các hoạt
động nhằm phát triển KH&CN, phục vụ đất nước được thực hiện.
Những năm qua, cùng với ngân sách Nhà nước chi cho các đề tài, dự án mà đội
ngũ trí thức thuộc Liên hiệp Hội tham gia, nguồn kinh phí hoạt động chủ yếu huy động
sự đóng góp, tài trợ của hội viên và các tổ chức nước ngoài. Trong điều kiện nền kinh tế
nước ta hiện nay, chế độ đãi ngộ đối với trí thức thuộc Liên hiệp Hội phải cân đối với các
chính sách xã hội khác, trên cơ sở phù hợp khả năng đáp ứng của đất nước. Chúng ta
không thể thực hiện ngang bằng với các nước phát triển, nhưng đối với từng lĩnh vực,
công trình, cá nhân cụ thể rất cần phải có chế độ đãi ngộ thỏa đáng về vật chất, tinh thần
tương xứng với giá trị và đóng góp mà họ đã cống hiến. Tuyệt đối tránh sự cào bằng, chia
đều giữa thành viên. Để có chính sách đúng đắn đối với đội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp
Hội, Đảng và Nhà nước cần phải thực hiện tốt một số nhiệm vụ cơ bản sau đây:
- Khuyến khích thu nhập chính đáng bằng chất xám
Một thực tế hiện nay, nhiều nhà khoa học không thể sống bằng khoa học, số những
người suốt đời giành hết tâm huyết, công sức cho khoa học phần lớn rất nghèo, số còn lại
phải làm thêm công việc khác để đảm bảo cuộc sống. Nhiều công trình khoa học sau khi
nghiệm thu bị "bỏ quên" trong "ngăn kéo", điều này không những gây lãng phí chất xám mà
nguy hại hơn nó làm giảm bớt sự hứng thú, say mê sáng tạo của các nhà khoa học. Không
phải là những công trình này không có tính ứng dụng, mà chủ yếu do không có kinh phí đầu
tư, xã hội có nhu cầu nhưng chưa được đầu tư để ứng dụng vào thực tế cuộc sống. Do vậy
xuất hiện nhiều bất cập, một mặt kết quả nghiên cứu khoa học cất vào "ngăn kéo", mặt khác
nước ta phải nhập khẩu công nghệ từ nước ngoài với giá rất cao.
Để khắc phục tình trạng này, Nhà nước cần thực hiện nghiêm quyền sở hữu trí
tuệ, quyền sở hữu công nghiệp và tác giả, cần nhanh chóng xây dựng thị trường
KH&CN. Thông qua thị trường này, các kết quả nghiên cứu khoa học, những phát minh,
sáng chế được thực hiện trao đổi ngang giá, giúp cho các nhà khoa học thuộc Liên hiệp
Hội có thêm thu nhập chính đáng từ lao động của mình.
Mặt khác, khuyến khích sự liên kết giữa nhà khoa học với nhà sản xuất cũng là
một phương pháp tăng thêm thu nhập cho đội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp Hội. Trên cơ
sở những yêu cầu của nhà sản xuất, nhà khoa học thực hiện việc nghiên cứu theo đơn đặt
hàng. Thực hiện tốt công tác này, Nhà nước vừa bớt được gánh nặng về kinh phí, đồng
thời nguồn thu nhập của đội ngũ trí thức cũng được đảm bảo, giúp họ yên tâm tập trung
cho nghiên cứu khoa học.
- Đảm bảo chế độ khen thưởng hợp lý.
Đối với trí thức, ngoài những lợi ích vật chất, họ rất cần có những khích lệ về
tinh thần. Họ coi trọng sự tôn vinh của xã hội và Nhà nước cho những giá trị khoa học
mà họ cống hiến.
Chế độ khen thưởng ở đây không nhất thiết là sự bù đắp lượng giá trị ngang với
giá trị kinh tế mà công trình đó mang lại, mà chủ yếu nhằm khuyến khích, ghi nhận
những công trình có đóng góp lớn cho sự phát triển chung của đất nước. Thưởng (bằng
hiện vật hay tiền) còn có ý nghĩa đem lại điều kiện vật chất, kinh tế cho các nhà khoa
học. Mặt khác, chế độ khen thưởng, tôn vinh còn có tác dụng khơi dậy mọi nguồn lực
sáng tạo trong nhân dân, đối với trí thức càng có thêm động lực để lao động sáng tạo
khoa học.
Đối với những trí thức tài năng và những nhà khoa học đầu ngành của Liên hiệp
Hội, Nhà nước cần phải có chế độ ưu đãi, khen thưởng đặc biệt. Sự ưu đãi đó phải căn cứ
vào hiệu quả, chất lượng các công trình, những giá trị khoa học mà họ mang lại, tùy theo
mức độ hiệu quả của công trình nghiên cứu, mà có chế độ thưởng hay ưu đãi thỏa đáng.
- Nhà nước cần đặc biệt quan tâm đến lợi ích tinh thần của đội ngũ trí thức thuộc
Liên hiệp Hội.
Đối với người trí thức nói chung, đôi khi nhu cầu tinh thần lại lớn hơn nhu cầu về
vật chất, họ cần được xã hội, Đảng và Nhà nước tôn vinh, coi trọng những thành quả làm
ra. Nhất là đội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp Hội, họ nghiên cứu khoa học và lao động
sáng tạo không vì động cơ vật chất, kinh tế cá nhân đơn thuần, mà vì mục tiêu cao hơn là
lợi ích của cộng đồng, xã hội và của dân tộc, là trách nhiệm của nhà khoa học đối với đất
nước, công cuộc xây dựng CNXH, xuất phát từ lòng say mê khoa học và tinh thần yêu
nước.
Quan tâm đến lợi ích tinh thần, trước hết phải đánh giá đúng, công bằng kết quả
lao động và sự đóng góp của đội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp Hội trong công cuộc xây
dựng và đổi mới đất nước. Họ là những nhà khoa học có tâm huyết lớn đối với đất nước,
song họ cần đất nước đánh giá khách quan, trung thực về mình. Bên cạnh những đãi ngộ
vật chất, Nhà nước cần phải có chế độ tôn vinh các nhà khoa học, các tổ chức, tập thể
thuộc Liên hiệp Hội có đóng góp lớn thông qua việc trao tặng các giải thưởng, phong
tặng các danh hiệu cao quý như: giải thưởng Hồ Chí Minh, giải thưởng Nhà nước về
KH&CN; giải thưởng sáng tạo KH&CN Việt Nam..., danh hiệu Anh hùng lao động,... Đó
vừa là sự ghi nhận của xã hội đối với những thành tựu và cống hiến của các nhà khoa
học, vừa thể hiện sự quan tâm của Đảng và Nhà nước đối với đội ngũ trí thức thuộc Liên
hiệp Hội.
3.2.3. Nhóm giải pháp về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và đổi mới sự
quản lý của Nhà nước đối với đội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp các Hội Khoa học và
Kỹ thuật Việt Nam
Sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước có tác động chi phối hoạt
động của đội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp Hội. Những năm qua, Liên hiệp Hội và các hội
thành viên đã nhận được sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo sâu sát của Đảng và Nhà nước.
Tuy nhiên, trước tình hình và nhiệm vụ trong giai đoạn mới, cần phải tăng cường hơn
nữa vai trò lãnh đạo của Đảng và đổi mới sự quản lý của Nhà nước đối với đội ngũ này,
góp phần định hướng và tạo điều kiện để họ hoạt động có hiệu quả phục vụ nhiều hơn
cho sự nghiệp CNH, HĐH đất nước.
Một là, tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng.
Sự lãnh đạo của Đảng thể hiện ở việc thông qua những quan điểm, chủ trương,
đường lối, Đảng định hướng cho hoạt động của đội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp Hội.
Trên cơ sở những Nghị quyết, đường lối trên, Đảng đoàn của Liên hiệp Hội triển khai
quán triệt đến các chi bộ, đảng viên, từ đó xác định phương hướng, kế hoạch hành động
cụ thể của từng đơn vị thành viên và của cả Liên hiệp Hội. Những năm qua, Đảng Đoàn
của Liên hiệp Hội đã bước đầu thực hiện tốt nhiệm vụ của mình. Trong giai đoạn hiện
nay, các thế lực thù địch đang ra sức tìm cách phá hoại sự nghiệp cách mạng của nhân
dân ta, với những thành quả và tác động của cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện
đại, chúng lợi dụng tuyên truyền tư tưởng phản động, đi ngược lại đường lối, chủ trương
của Đảng. Mặt khác, sự tác động của toàn cầu hóa dẫn đến nguy cơ chệch hướng đối với
sự phát triển của đất nước. Do đó, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với trí thức là
nhiệm vụ cấp thiết. Điều này không có nghĩa là Đảng sẽ quản lý, can thiệp trực tiếp vào
các hoạt động của Liên hiệp Hội, mà nhằm bồi dưỡng, tuyên truyền chủ trương, đường
lối của Đảng sâu rộng đối với đội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp Hội, từ đó triển khai có
hiệu quả.
Để tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, trước hết Đảng Đoàn của Liên hiệp Hội
phải tổ chức quán triệt sâu rộng và triển khai thực hiện các Nghị quyết của Đảng, đặc biệt
là về KH&CN. Việc nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ và những hoạt động khác
của đội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp Hội đều nhằm cụ thể hóa những chủ trương của
Đảng, thực hiện những mục tiêu của Đảng đã đề ra. Bên cạnh đó, Đảng Đoàn cần nâng
cao công tác phát triển Đảng trong Liên hiệp Hội. Mở rộng hoạt động đến các hội ngành
Trung ương, Liên hiệp Hội địa phương. Thông qua các chi bộ, đảng viên, thực hiện sự
lãnh đạo đối với đội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp Hội.
Hai là, đổi mới sự quản lý của Nhà nước đối với đội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp
Hội.
Để đội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp Hội được độc lập, khách quan trong hoạt
động, đặc biệt là thực hiện nhiệm vụ tư vấn, phản biện và giám định xã hội, Nhà nước
không nên thực hiện quản lý theo hình thức giao các Hội ngành về các Bộ liên quan quản
lý, mà chỉ nên quản lý bằng pháp luật, sớm ban hành Luật về Hội để các Liên hiệp Hội và
các Hội thành viên thống nhất hoạt động. Nếu giao các Hội ngành cho các Bộ quản lý sẽ
có nhiều bất cập :
Thứ nhất, hoạt động tư vấn, phản biện và giám định xã hội sẽ ít tính khách quan,
hoạt động nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ không còn độc lập, mà phụ thuộc
vào cơ chế "xin - cho" giữa Bộ quản lý và Hội ngành.
Thứ hai, các bộ hiện nay đang có chủ trương cải cách hành chính, tránh tập trung
quan liêu, tinh giản gọn nhẹ bộ máy hoạt động, nếu quản lý thêm hội ngành và với số
lượng hội viên đông thì khó quản lý hết và không thể sát sao được. Do vậy, các hội này
nên giao cho Liên hiệp Hội quản lý, thông qua Liên hiệp Hội và pháp luật, Nhà nước
thực hiện quản lý, giám sát đối với hoạt động của đội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp Hội.
Trên đây là những giải pháp cơ bản cần thực hiện trong quá trình xây dựng và
phát huy vai trò của đội ngũ này. Việc thực hiện các giải pháp trên đòi hỏi phải thực hiện
thống nhất, đồng bộ và có sự quan tâm của Đảng và Nhà nước cũng như những nỗ lực
của cơ quan trung ương Liên hiệp Hội và đội ngũ trí thức. Đặc biệt, Đảng và Nhà nước
cần đề ra chủ trương, chính sách đúng đắn, phù hợp với thực tiễn ở trong nước và quốc
tế, có sự đãi ngộ và tôn trọng xứng đáng để phát huy được nguồn lực trí tuệ to lớn của đội
ngũ trí thức trong Liên hiệp Hội vào sự nghiệp CNH, HĐH ở nước ta hiện nay.
Kết luận chương 3
Xây dựng và phát huy vai trò của đội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp Hội là yêu cầu
cấp thiết của việc phát huy nguồn lực trí tuệ trong tiến trình đẩy mạnh CNH, HĐH đất
nước hiện nay. Để thực hiện, trước hết Đảng và Nhà nước phải nhận thức đúng đắn về vị
trí, vai trò của đội ngũ này, coi đây là lực lượng quan trọng góp phần đem lại thắng lợi
cho sự nghiệp phát triển đất nước hiện nay. Các giải pháp đưa ra phải trên cơ sở lập
trường của giai cấp công nhân, học tập những kinh nghiệm về việc đào tạo và sử dụng
nhân tài trong lịch sử dân tộc và một số nước phát triển ở khu vực và trên thế giới. Đặc
biệt cần nắm vững thực trạng về đội ngũ này.
Để góp phần khai thác tối đa nguồn lực trí tuệ của Liên hiệp Hội, Đảng và Nhà
nước cần phải thực hiện nhiều biện pháp khác nhau, trong đó cơ bản là ba nhóm giải
pháp chính: Nhóm giải pháp về GD&ĐT, nhóm giải pháp về thu hút, sử dụng và chế độ
đãi ngộ, và nhóm giải pháp về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và đổi mới sự quản lý
của Nhà nước đối với đội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp Hội.
Đồng thời, để xây dựng và phát huy vai trò của đội ngũ trí thức thuộc Liên
hiệp Hội đạt hiệu quả cao, ngoài việc thực hiện đồng bộ các giải pháp, trong mỗi giai
đoạn cụ thể cần có những nghiên cứu, đánh giá thực trạng và những yêu cầu đặt ra đối
với đội ngũ này, từ đó có những giải pháp cụ thể.
Kết luận
Ngày nay, trong xu thế quốc tế hóa và toàn cầu hóa mọi mặt của đời sống xã hội,
khoa học đã và đang trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Vì vậy, việc sản sinh, truyền
bá và ứng dụng những tri thức khoa học vào thực tiễn giữ một vai trò rất quan trọng trong
sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội. Đối với nước ta, điều đó có ý nghĩa quyết định đến
thắng lợi của quá trình CNH, HĐH và sự nghiệp xây dựng CNXH.
Cùng với những tiến bộ của KH&CN, đội ngũ trí thức Việt Nam có những bước
phát triển nhất định: số lượng, chất lượng không ngừng tăng cao, cơ cấu đa dạng và
phong phú. Trong sự nghiệp CNH, HĐH đất nước, trí thức không chỉ cung cấp những
luận cứ khoa học cho việc xây dựng những chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng
và Nhà nước, tuyên truyền, đưa những nội dung này vào cuộc sống, với vai trò chủ thể,
họ chính là lực lượng trực tiếp, đi đầu thực hiện các nội dung của sự nghiệp đó. Thông
qua chức năng truyền bá, phổ biến kiến thức, đội ngũ trí thức đã góp phần chủ yếu đào
tạo nguồn lực con người đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp CNH, HĐH. Những đóng góp
thiết thực trên đã ngày càng khẳng định vị trí và vai trò của đội ngũ này trong khối liên
minh công nhân - nông dân - trí thức.
Đội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam là
một bộ phận của đội ngũ trí thức Việt Nam. Ngoài những đặc điểm chung, đội ngũ này
còn có đặc điểm riêng là hoạt động trong một tổ chức chính trị - xã hội của trí thức
KH&CN Việt Nam và là lực lượng trí thức chuyên ngành lớn nhất nước ta hiện nay.
Với một số lượng khá đông đảo gồm hơn 40 vạn hội viên (chiếm 22% tổng số trí thức
Việt Nam), trong đó riêng các Hội ngành Trung ương thu hút được khoảng hơn 20 vạn
hội viên, cơ cấu ngành nghề đa dạng, phong phú với 56 Hội ngành Trung ương, thuộc
ba lĩnh vực chủ yếu là khoa học xã hội và nhân văn, khoa học tự nhiên, khoa học công
nghệ. Lực lượng này thực sự là một nguồn lực trí tuệ quý báu của đất nước.
Những thành quả trong nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ, hoạt động
hợp tác quốc tế về khoa học của đội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp Hội trong những năm
qua không chỉ góp phần nâng cao trình độ của lực lượng sản xuất, mà còn tạo ra những
tiền đề quan trọng cho việc tiếp thu những tiến bộ KH&CN trên thế giới vào nước ta.
Ngoài ra, thông qua việc thực hiện nhiệm vụ tư vấn, phản biện, giám định xã hội và các
hoạt động chính trị xã hội khác, các nhà khoa học trong Liên hiệp Hội đã tham mưu, góp
ý kiến cho Đảng và Nhà nước những vấn đề quan trọng liên quan đến quốc kế dân sinh,
cung cấp thêm những luận cứ khoa học cho việc xây dựng đường lối, chiến lược, chính
sách và nhiều đề án lớn để phát triển kinh tế - xã hội trong quá trình thực hiện CNH,
HĐH đất nước.
Thực hiện chức năng cơ bản là truyền bá, phổ biến kiến thức khoa học và công
nghệ, đội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp Hội đã góp phần quan trọng vào sự nghiệp xã hội
hóa giáo dục, phát triển cộng đồng và xóa đói giảm nghèo, đưa những tiến bộ khoa học -
kỹ thuật vào phục vụ sản xuất, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu trên, trong quá trình hoạt động, đội ngũ này
vẫn còn bộc lộ một số hạn chế nhất định: Số lượng, chất lượng chưa đáp ứng được yêu
cầu của sự nghiệp đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước; việc thu hút trí thức là Việt kiều còn
gặp nhiều khó khăn; không cân đối trong cơ cấu ngành nghề, giới tính, lứa tuổi và chưa
phát huy hết vai trò, tiềm năng sẵn có của đội ngũ trí thức trong Liên hiệp Hội.
Trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về trí thức,
kế thừa truyền thống trọng dụng "hiền tài" của dân tộc ta và tiếp thu kinh nghiệm của một
số nước trên thế giới về đào tạo và sử dụng đội ngũ trí thức, đồng thời căn cứ vào thực
trạng và những yêu cầu đặt ra đối với đội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp Hội, luận văn đã đề
xuất một số giải pháp nhằm xây dựng và phát huy vai trò của đội ngũ trí thức thuộc Liên
hiệp Hội trong quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước.
Để những giải pháp này thực hiện có hiệu quả và đi vào thực tiễn cuộc sống, cần
phải có sự phối hợp thực hiện đồng bộ từ nhiều ngành, nhiều địa phương trên quan điểm
coi việc đầu tư cho phát triển con người là đầu tư cho chiến lược phát triển nguồn nhân
lực lâu dài, bền vững của đất nước. Đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước liên
quan đến phát triển KH&CN nói chung, trí thức KH&CN nói riêng phải thực sự tương
xứng với vị trí là "quốc sách hàng đầu" trong sự nghiệp xây dựng CNXH ở nước ta hiện
nay.
Danh mục tài liệu tham khảo
1. Ban Khoa giáo Trung ương (2001), Triển khai Nghị quyết Đại hội IX trong lĩnh vực
khoa giáo, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
2. Nguyễn Quốc Bảo - Đoàn Thị Lịch (1998), Trí thức trong công cuộc đổi mới đất
nước, Nxb Lao động, Hà Nội.
3. Bộ Khoa học và Công nghệ, Trung tâm Khoa học và Công nghệ quốc gia (2004),
Giáo dục và Đào tạo trong phát triển nguồn nhân lực cho quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam hiện nay, Tổng luận, (4).
4. Bộ Nội vụ (2003), Công văn số 1980/BNV- TCPCP của Bộ trưởng Bộ Nội vụ ngày 25/8
về việc tạo cơ chế chính sách để Liên hiệp Hội Trung ương và Liên hiệp Hội tỉnh
hoạt động có hiệu quả, Hà Nội.
5. Bộ Tài chính (2003), Thông tư số 27/2003/TT-BTC hướng dẫn cơ chế tài chính cho
hoạt động tư vấn, phản biện và giám định xã hội của Liên hiệp các Hội Khoa
học và Kỹ thuật Việt Nam, Hà Nội.
6. Chính phủ (2000), Chỉ thị số 14/2000/CT-TTg ngày 01/8 của Thủ tướng Chính phủ
về việc triển khai thực hiện các biện pháp nhằm đẩy mạnh và nâng cao hiệu
quả hoạt động của Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam, Hà Nội.
7. Chính phủ (2002), Quyết định số 22/2002/QĐ-TTg ngày 30/01 của Thủ tướng Chính
phủ về hoạt động tư vấn, phản biện và giám định xã hội của Liên hiệp các Hội
khoa học và Kỹ thuật Việt Nam, Hà Nội.
8. Chính phủ (2003), Nghị định số 88/2003/NĐ-CP ngày 30/7 của Chính phủ quy định
về tổ chức, hoạt động và quản lý Hội, Hà Nội.
9. Chủ nghĩa Cộng sản Khoa học - Từ điển (1986), Nxb Tiến bộ, Mátxcơva - Nxb Sự
thật, Hà Nội.
10. Nguyễn Trọng Chuẩn (1991), "Để cho Khoa học và Công nghệ trở thành sức thúc
đẩy sự phát triển của đất nước ta", Triết học, (2). tr. 3-6.
11. Nguyễn Trọng Chuẩn, Nguyễn Thế Nghĩa, Đặng Hữu Toàn (đồng Chủ biên) (2002),
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
12. Phạm Tất Dong (Chủ biên) (1995), Trí thức Việt Nam, thực tiễn và triển vọng, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
13. Phạm Tất Dong (Chủ biên) (2001), Định hướng phát triển đội ngũ trí thức Việt Nam
trong công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
14. Phạm Tất Dong (2003), "Tác động của kinh tế tri thức và sự phát triển đội ngũ trí
thức Việt Nam", Tin hoạt động các Hội Khoa học và Kỹ thuật, (8), tr. 10-12.
15. Đại học Quốc gia Hà Nội, Trường Đại học khoa học Xã hội và Nhân văn, Khoa
Triết học (2003), Học thuyết Mác với sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
16. "Đại hội Đại biểu lần thứ VI - Đảng Bộ cơ quan Liên hiệp Hội", http://www.
vusta.org.vn, (ngày 01/09/2005).
17. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII,
Nxb Sự thật, Hà Nội.
18. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội, Nxb Sự thật, Hà Nội.
19. Đảng Cộng sản Việt Nam (1994), Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy Ban chấp hành
Trung ương khóa VII, Hà Nội.
20. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
21. Đảng Cộng sản Việt Nam (1997), Văn kiện Hội nghị lần thứ hai Ban chấp hành
Trung ương khóa VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
22. Đảng Cộng sản Việt Nam (1997), Văn kiện Hội nghị lần thứ ba Ban chấp hành
Trung ương khóa VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
23. Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban chấp hành
Trung ương khóa VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
24. Đảng cộng sản Việt Nam (1998), Chỉ thị số 45 - CT/TW ngày 11/11 về đẩy mạnh
hoạt động của Ban Chấp hành Trung ương Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ
thuật Việt Nam, Hà Nội.
25. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
26. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Văn kiện Hội nghị lần thứ sáu Ban chấp hành
Trung ương khóa IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
27. Đảng Cộng sản Việt Nam (2003), Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy Ban chấp hành
Trung ương khóa IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
28. Đảng Cộng sản Việt Nam (2004), Thông báo Kết luận số 145-TB/TW ngày 09/7 của
Ban Bí thư về việc tiếp tục đẩy mạnh thực hiện chỉ thị 45-CT/TW đối với Liên
hiệp các Hội khoa học và Kỹ thuật Việt Nam trong giai đoạn từ nay đến năm
2010, Hà Nội.
29. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Dự thảo đề cương các Văn kiện trình Đại hội X,
Hà Nội.
30. Phạm Minh Hạc (Chủ biên) (1996), Vấn đề con người trong sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
31. Trần Ngọc Hiên (2003), "Tác động của toàn cầu hóa đối với sự phát triển đội ngũ trí
thức và Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam", Tin hoạt động
các Hội Khoa học và Kỹ thuật, (4), tr. 15-17.
32. Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh (2000), Những quan điểm cơ bản của
các nhà kinh điển về tầng lớp trí thức và yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa nước ta đối với đội ngũ trí thức Việt Nam hiện nay, Kỷ yếu
Đề tài cấp bộ 1999-2000, Hà Nội.
33. Đặng Hữu (2000), "Phát huy đội ngũ trí thức trẻ để đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa", Xây dựng Đảng, (11), tr. 17-19.
34. Phan Thanh Khôi (1992), Động lực của trí thức trong lao động sáng tạo ở nước ta
hiện nay, Luận án phó tiến sĩ Triết học, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí
Minh, Hà Nội.
35. Phan Thanh Khôi (1996), "Những bài học từ quan điểm của V.I.Lênin về trí thức",
Thông tin khoa học xã hội, (4), tr. 3-8.
36. Phan Thanh Khôi (1998), Đội ngũ trí thức, chuyên gia và cán bộ quản lý khoa học
cho việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đề tài KX05. 03, Hà Nội.
37. Phan Thanh Khôi (1998), "Luận điểm về trí thức trong "Tuyên ngôn của Đảng
Cộng sản" và người trí thức hôm nay", Quốc phòng toàn dân, (2), tr.26-28.
38. Phan Thanh Khôi (1999), "Trí thức trong khối liên minh công-nông-trí vì sự
nghiệp xây dựng đất nước hiện nay", Tạp chí cộng sản (22), tr.34-38.
39. Phan Thanh Khôi (2000), "Tổng quan về đội ngũ trí thức nước ta hiện nay", Thông
tin lý luận, (4), tr.17-19.
40. Phan Thanh Khôi (2000), "Quan điểm đối với trí thức trong thời kỳ cải cách, mở
cửa ở Trung Quốc", Nghiên cứu lý luận, (10), tr.52-56.
41. Phan Thanh Khôi (2001), "Bài học từ những quan điểm của Hồ Chí Minh về trí
thức", Lịch sử Đảng, (2), tr 4-8.
42. Phan Thanh Khôi (2002), "Nhà khoa học và sự sáng tạo trong khoa học xã hội",
Khoa học Chính trị (1), tr.33-38, 62.
43. Phan Thanh Khôi (2005), "Trí thức hóa công nhân"- Một số vấn đề lý luận và thực
tiễn", Lao động và công đoàn, (323 + 324), tr.17-19,51.
44. Kinh tế tri thức và công nghiệp hóa, hiện đại hóa "rút ngắn" ở Việt Nam (2003),
Hội thảo khoa học, Hà Nội.
45. Bùi Thị Ngọc Lan (2002), Nguồn lực trí thức trong sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
46. V.I.Lênin (1977), Toàn tập, tập 36, Nxb Tiến bộ Mátxcơva.
47. Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (1993), Mười năm xây dựng và
hoạt động, Hà Nội.
48. Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam nhiệm kỳ 1993 - 1998, Hà Nội.
49. Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (2002), Hội thảo: "Đổi mới nội
dung và phương thức hoạt động của các Hội khoa học và kỹ thuật Trung
ương", Hà Nội.
50. Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (2002), Tài liệu Hội thảo khoa
học triển khai Quyết định 22/2002/QĐ-TTg về tư vấn, phản biện và giám định
xã hội, Hà Nội.
51. Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (2002), Văn kiện Hội nghị Hội
đồng Trung ương lần thứ tư, nhiệm kỳ I V, Hà Nội.
52. Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (2003), Văn kiện Hội nghị Hội
đồng trung ương lần thứ năm, nhiệm kỳ I V, Hà Nội.
53. Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (2004), Tọa đàm Đổi mới nội
dung và phương thức hoạt động của cơ quan thường trực Liên hiệp Hội, Hà
Nội.
54. Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (2004), Báo cáo của Hội đồng
Trung ương tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ năm Liên hiệp các Hội
Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam, Hà Nội.
55. Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (2004), Văn kiện Đại hội Đại
biểu toàn quốc lần thứ năm nhiệm kỳ 2004-2009, Hà Nội.
56. Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (2005), Công văn số 516/CV-
LHH ngày 09 tháng 05 về việc "Góp ý bổ sung và hoàn thiện Nghị định 88/CP
về hoạt động tổ chức và quản lý Hội".
57. C.Mác và Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
58. C.Mác và Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
59. C.Mác và Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 22, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
60. Đặng Thị Mai (2003), Đội ngũ trí thức Hải Dương trong sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa - Thực trạng và giải pháp, Luận văn Thạc sĩ Triết học, Học
viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
61. Hồ Chí Minh (1981), Toàn tập, Tập 2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
62. Hồ Chí Minh (1981), Toàn tập, Tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
63. Nguyễn Đình Minh (2003), Phát huy vai trò nguồn lực trí thức Khoa học xã hội và
nhân văn trong Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay, Luận án Tiến sĩ Triết
học, Học viện Chính trị Quân sự, Hà Nội.
64. Đỗ Mười (1995), Trí thức Việt Nam trong sự nghiệp đổi mới xây dựng đất nước,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
65. Chu Tuấn Nhạ (2001), "Để khoa học và công nghệ thực sự trở thành nền tảng và
động lực của sự phát triển", Tạp chí Cộng sản, (13) tr.17-22.
66. Nguyễn Xuân Phương (2004), Vai trò của trí thức thủ đô Hà Nội trong sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Luận án tiến sĩ Triết học, Học viện
Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
67. Lê Quang Quý (2005), Xây dựng đội ngũ trí thức ngành kiến trúc trong công cuộc
đổi mới ở nước ta hiện nay, Luận án tiến sĩ Triết học, Học viện Chính trị quốc
gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
68. Nguyễn Văn Sơn (2001), Cơ cấu và chất lượng trí thức giáo dục đại học ở nước ta
hiện nay, Luận án tiến sĩ Triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh,
Hà Nội.
69. Đỗ Thị Thạch (1999), Trí thức nữ Việt Nam trong công cuộc đổi mới hiện nay -
Tiềm năng và phương hướng xây dựng, Luận án tiến sĩ Triết học, Học viện
Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
70. Vũ Bá Thể (2005), Phát huy nguồn lực con người để công nghiệp hóa, hiện đại
hóa, Nxb Lao động - Xã hội.
71. Nguyễn Duy Thông (chủ biên) (1984), Chủ nghĩa xã hội và trí thức, Nxb Sự thật,
Hà Nội.
72. Phạm Thị Ngọc Trầm (2003), Khoa học, công nghệ với nhận thức, biến đổi thế giới
và con người: mấy vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
73. "Trí thức kiều bào bàn việc xây dựng quê hương",Http: //www.vusta.org.vn, (17/8/2005)
74. Nguyễn Thanh Tuấn (1991), "Về nội dung phạm trù trí thức", Triết học, (2), tr.62-
64.
75. Nguyễn Thanh Tuấn (1998), Một số vấn đề về trí thức Việt Nam, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
76. Trịnh Quốc Tuấn (1995), "Quan điểm của V.I. Lênin đối với trí thức trong cách
mạng xã hội chủ nghĩa", Nghiên cứu lý luận, (4), tr.7-11.
phụ lục
Phụ lục 1
Danh mục các đề tài, chương trình cấp nhà nước
Thời
T gian Tên dự án Đơn vị thực hiện Ghi chú T thực
hiện
1 Đề tài KHCN 09.02 Liên hiệp hội 1996-98 Nghiệm thu
10/1999
Định hướng chiến lược phát
triển năng lượng đến 2020
2 Đề tài KHCN 07.07 nghiên Liên hiệp hội 1996-98 Nghiệm thu
cứu diễn biến môi trường 3/1999
liên quan đến công trình Sơn
La
3 Đề tài KHCN 09.10 Liên hiệp hội 1996-98 Nghiệm thu
1999
Tổng hợp chiến lược và
chính sách phát triển năng
lượng bền vững quốc gia
4 Đề tài KHCN.09.11 Liên hiệp hội 1996-98 Nghiệm thu
1999
5 Nghiên cứu đánh giá tính an Viên nghiên cứu dược 2002-074 Đề tài độc
toàn và hiệu lực thuốc liệu và các bện hiểm lập cấp Nhà
CEDEMEX trong hỗ trợ cắt nghèo nước
cơn nghiện ma túy nhóm
opiates
6 Nghiên cứu chế tạo và lắp Liên hiệp KHKT công 2002-04 Chương
ráp hệ thống tự động hóa giám trình SEEN trình trọng
sát, xử lý, cảnh báo môi điểm cấp
trường tại các khu công Nhà nước
nghiệp và đô thị lớn
7 Cơ sở khoa học cho vấn đề thị trường Tư vấn, 2001-03 Báo cáo
quản lý bền vững môi chuyển giao công nghệ chuyên đề
trường và nguồn lợi thủy sản nguồn lợi thủy sinh và
vùng biển ven bờ Việt Nam môi trường ACTARE
8 Hoàn thiện công nghệ thiết Hội Sở hữu Công 2002-04 Chương
kế, chế tạo và thi công kè nghiệp Việt Nam trình KC08
thảm bê tông tự chèn lưới
thép P.D.TAC-M bảo vệ bờ
sông khỏi sạt lở.
9 Nghiên cứu đề xuất các giải Hội KHCN Mỏ Việt 2004-05 Chương
pháp sử dụng hợp lý tài Nam trình KC08
nguyên khoáng sản năng
lượng và bảo vệ môi trường
Nguồn: [54, tr. 67-68].
Phụ lục 3
tổng hợp số liệu về các hội thảo khoa học
(Thống kê chưa đầy đủ)
ST Nội dung hội thảo Thời điểm
T
liên hiệp hội
1 Hoạt động của các tổ chức phi Chính phủ nước ngoài và các tổ 16-17/1999
chức đoàn thể xã hội của Việt Nam trong phát triển cộng đồng
2 Huy động các lực lượng khoa học và công nghệ thực hiện 28/11/1999
chương trình mục tiêu quôc gia
3 Tầm nhìn2020 18/1/2000
4 Tâm lý học với sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất 9/3/2000
nước
5 Các cơ thể sinh vật được biến đổi di truyền 26/5/2000
ST Nội dung hội thảo Thời điểm
T
6 Mã số, mã vạch 28/6/2000
7 Bảo vệ môi trường và phát triển bền vững 6-7/11/2001
8 Phát huy vai trò của Liên minh công - nông - trí trong sự 23/1/2002
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
9 Các giải pháp hỗ trợ cộng đồng dân tộc H'Mông ở Tây Bắc 15/3/2002
phát triển bền vững
10 Đổi mới nội dung và phương thức hoạt động của các hội khoa 4/4/2002
học và kỹ thuật ngành Trung ương
11 Đổi mới nội dung và phương thức hoạt động của các hội khoa 6/5/2002
học và kỹ thuật ngành Trung ương
12 Bảo vệ môi trường và sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên 4-5/8/2002
13 Phối hợp phát triển cộng động và xóa đói, giảm nghèo khu vực 20-
Bắc Trung bộ 21/02/2003
14 Tri thức Việt Nam với sự nghiệp phát triển đất nước 24/3/2003
ST Nội dung hội thảo Thời điểm
T
15 Bảo vệ môi trường và phát triển bền vững ở Việt Nam 29-30/7/2003
16 Tổ chức thương mại thế giới: các tác động đối với an ninh 27-28/8/2003
lương thực và giảm nghèo ở Việt Nam
17 Giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt 2/10/2003
18 Báo cáo kết qủa khai quật khu vực xây dựng nhà Quốc hội và 13/10/2003
Hội trường Ba Đình
19 Hội thảo-Tập huấn nghị định 88/2003/NĐ-CP của Chính phủ 30/7/2003
20 Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với liên hiệp hội và 23-
nâng cao năng lực tư vấn trong xây dựng, thẩm định và quản 24/10/2003
lý Dự án
21 Hội thảo quốc thế ASEAN 28/12/2000
22 Góp ý kiến vào dự thảo báo cáo chính trị trình đại hội IX của 20/2/2001
Đảng
23 Hệ thống công nhân kỹ sư hành nghề 15/2/2001
ST Nội dung hội thảo Thời điểm
T
24 Nghiên cứu các tổ chức KHCN hoạt động theo NĐ 35/HĐBT 21/2/2001
không thuộc Chính phủ khu vực Phía Nam
25 Hội thảo sinh học quốc tế 02-05/7/2001
26 Xây dựng mô hình nông nghiệp, nông thôn theo hướng Công 15-15/6/2001
nghiệp hóa, hiện đại hóa
Các hội ngành trung ương
1 Giao lưu văn hóa pháp lý 10-12/7/1999
2 Xử lý xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp và thực hiện Nghi 3/9/1999
định12/CP/1999 của Chính Phủ
3 Cấu trúc quần xã sinh vật đất và phát triển bền vững hệ sinh thái 23-24/1999
đất
4 Vì an ninh lương thực, thực phẩm cho người tiêu dùng 14/12/1999
5 Thành tố văn hóa trong dạy-học ngoại ngữ 22/1/2000
ST Nội dung hội thảo Thời điểm
T
6 Những thành tựu mới trong lĩnh vực cơ - điên từ 20-21/1/2000
7 Hội thảo khoa học về sách giáo khoa vật lý ở bậc đại học và sau 5/5/2000
đại học
8 Danh pháp và thuật ngữ hóa học hữu cơ 27/5/2000
9 Công nghệ xử lý rác thải và bảo vệ môi trường 27/5/2000
10 Bếp đun tiết kiệm chất đốt 12/9/2001
11 Kiểm tra không phá hủy trong xây dựng 18//10/2001
12 Góp ý về Dự án Luật sửa đổi. bổ sung một số điều của Luật 17/1/2002
ban hành văn bản quy phạm pháp luật
13 Góp ý kiền cho Dự án Tổng quan về vấn đề phòng, chống tai 4/2/2002
nạn, thương tích cho trẻ em trong pháp luật Việt Nam
14 Góp ý cho sách giáo khoa mới 2-3/7/2002
15 Khai thác, chế biền và sử dụng tài nguyên Boxit ở Việt Nam 22/6/2002
ST Nội dung hội thảo Thời điểm
T
16 Hội thảo Ngữ học Trẻ 2003- Lần đầu tiên tổ chức tại Miền 15/4/2003
trung
17 Chất lượng và Công nghệ xây dựng Nhà cao tầng 21-22/5/2003
18 Hóa học phục vụ nông nghiệp 12/6/2003
19 Một số vấn đề trong viễn thám và GIS - Triểnvọng ở Việt 10/6/2003
Nam
20 Đo lường Việt Nam hội nhập quốc tế và khu vực 30/5/2003
21 Mô hình làng lấp hướng tới phát triển bền vững 14-15/8/2003
22 Chống thất thoát trong đầu tư xây dựng - nhìn từ nhiều phía 27/11/2003
Nguồn: [54, tr. 81-85].
Phụ lục 4
Hình hình đào tạo - bồi dưỡng
tại cơ quan thường trực liên hiệp hội
Số lượng học STT NộI dung viên
Năm 1999
1 Tập huấn nghiệp vụ về công tác Đảng 30
2 Lớp Quán triệt Nghị quyết TW 6 100
3 Đào tạo ngoại ngữ Anh văn 20
4 Cử cán bộ học lớp quản lý và thẩm định DA 5
5 Lớp thẩm định Dự án 90
6 Quán triệt Nghị quyết TW 6 lần 2 và phát động xây dựng, 110
chỉnh đống Đảng
7 Lớp bồi dưỡng nghiệp vụ báo chí 80
8 Lớp bồi dưỡng nghiệp vụ quản lý các tổ chức KH-CN 100
9 Lớp NQ TW 7 & 8 110
Số lượng học STT NộI dung viên
20 10 Lớp tiếng Anh giao tiếp
Năm 2000
1 Lớp bối dưỡng công tác Thi đua khen thưởng 70
2 Lớp bồi dưỡng công tác Đảng và phổ biến các văn kiện 100
Đảng
3 Lớp tập huấn công tác quản lý các đề tài khoa học 80
4 Lớp bồi dưỡng các kỹ năng và nghiệp vụ văn phòng 75
5 Lớp tư vấn về xây dựng, thẩm định và quản lý dự án tại 80
Bình Định
6 Lớp tư vấn về xây dựng, thẩm định và quản lý dự án tại 50
Phú Yên
7 Lớp tư vấn về xây dựng, thẩm định và quản lý dự án tại 70
Thái Bình
Số lượng học STT NộI dung viên
8 Lớp tư vấn về xây dựng, thẩm định và quản lý dự án tại 60
Yên Bái
9 Tập huấn khai thác sử dụng mạng Line, và thư điện tử 20
10 Lớp bồi dưỡng nghiệp vụ Thuế 80
Năm 2001
1 Lớp bối dưỡng nghiệp vu công tác Hội 80
2 Lớp Nghiệp vụ báo chí 100
3 Lớp bảo hoọ quyển sở hữu công nghiệp ở Việt Nam 85
4 Lớp tiếng anh 25
5 Đào tạo tin học: Sử dụng mạng Internet 20
6 Bỗi dưỡng nghiệp vụ công tác Đảng 100
7 Lớp Nghị Quyết 9 của Đảng 100
Số lượng học STT NộI dung viên
90 8 Lớp bồi dưỡng Luật KHCN
60 9 Lớp tư vấn về Ninh Bình
10 Lớp tư vấn về xây dựng, thẩm định và quản lý dự án tại 55
Lào Cai
Năm 2002
1 Lớp bồi dưỡng công tác tổ chức và kiểm tra Đảng ủy 90
100 2 Lớp bồi dưỡng Nghị quyết TW 5
40 3 Lớp xây dựng khung logic cho 1 dự án
4 Lớp tư vấn về xây dựng, thẩm định và quản lý dự án tại 60
Lâm Đồng
5 Lớp nghiệp vụ Văn phòng: Tổng hợp và phân tích báo cáo 70
6 Lớp tập huấn về các bước xây dựng dự án và Khung logic 40
dự án
Số lượng học STT NộI dung viên
7 Đào tạo tiếng Anh 25
8 Lớp Tin học văn phòng 20
9 Lớp tin học; Khai thác mạng Internet và sử dụng E-mail 35
Năm 2003
1 Lớp bồi dưỡng tư tưởng Hồ Chí Minh 90
2 Năng lực tư vấn tại Bắc Giang 80
3 Lớp bồi dưỡng Nghị định 88 80
4 Tập huấn nghiệp vụ công tác Đảng 40
5 Tập huấn Nghị quyết 9 của Đảng 100
6 Bồi dưỡng kỹ năng lắng nghe 60
7 Tập huấn nâng cao năng lực tư vấn tại Kiên Giang 100
Nguồn: [54, tr. 44-45].
Phụ lục 5
tình hình đào tạo - Bối dưỡng của các hội ngành trung ương
số ST Hội ngành trung Nội dung và số lớp T ương học viên
1 Hội Đông y 10 lớp đào tạo, tập huấn 400
2 Hội vật lý VN
3 Hội Cơ khí 55 khóa đào tạo, tập huấn 1100
Đào tạo về lái xe ô tô du lịch và ô tô tải, lái 2000
xe máy, sửa chữa ô tô và xe máy, đào tạo thợ
nguội, thợ hàn..dạy cắt may công nghiệp
(làm việc theo dây truyền của xí nghiệp
may)
Bồi dưỡng kiễn thức về máy tính, CAD, 50
CAm, máy công cụ điều khiển chương trình
CNC
Đào tạo công nhân hàn bậc cao tại nhà may 50
điện Phả Lại II, phục vụ công trình lắp máy
Bồi dưỡng quy phạm và tiêu chuẩn chế tạo 50
các loại hình, bể chịu áp lực của nhà máy
nhiệt điện và thuỷ điện cho các van bộ kỹ
thuật và công nhân có liên quan
Tổ chức tập huấn về công nghệ chế biến chè 240
xanh, sắn. dong riềng theo quy mô hộ gia
đình cho một số tỉnh miền núi như Hòa
Bình, Bắc Cạn...
Tham gia biên soạn, xây dựng và phổ biến 100
tiêu chuẩn về Thiết bị Nông LâmNghiệp
theo tiêu chuẩn ISO, tư vấn cho một số đơn
vị thuộc Đắc Lắc, Gia Lai về chế biến cà phê
4 Hội vô tuyến điện Gia công nhiệt bằng SCT 100
tử VN
Viễn thám 100
Y tế viễn thông 100
Xử lý mù tin hiệu 100
ứng dụng trường điện từ nâng cao 100
Xử lý tín hiệu số nâng cao 100
Công nghệ nén ảnh 100
Truyền tải đa sóng mạng 100
Mạng Phôtôn-Thông tin Quang nâng cao 100
Toán tin 130
Vật lý điện tư 70
Công nghệ thông tin 75
Điện tử viễn thông 75
5 Hội điện lực Đào tạo chuyên đề về quản lý nhu cầu phụ tải 50
điện
Tập huấn về báo chí cho các biên tập viên 25
tạp chí "Điện và đời sống"
Tập huấn và góp ý luật Điện lự cho cán bộ 50
đầu ngành điện phía Nam
Tập huẫn về luật khoa học và công nghệ cho 25
các chi hội trưởng
7 Hội Thú Y Việt Phòng chống bệnh Lở mồm Long móng 125
Nam
Đại học thú y tại chức 56
Trung học thú y tại chức khóa 1 43
Trung học thú y tại chức khóa 2 49
Dinh dưỡng và thức ăn gia cầm 100
Thú y trong chăn nuôi lợn 80
Quản lý và sử dụng thuốc thú y 100
Dịch tễ học thú y 90
Thú y trong chăn nuôi bò sữa 150
Những bệnh viêm đường sinh dục của bò cái 150
Bệnh viêm vú và bệnh về chân của bò sữa 120
Sử dụng vacxin phòng chống bệnh chó dại 800
và bệnh Lở mồm long móng trâu bò
8 Hội kế toán Việt Mở 230 khóa bối dưỡng, phổ biến kiến thức 21312
Nam về tài chính, kế toán, kiếm toán
9 Hội tự động hóa 50 khóa đào tạo 1000
10 Hội KHKT cầu Đào tạo tư vấn giám sát cho Hội Cầu đường 65
đường Quảng Bình
Lớp đào tạo nâng cao chuyên ngành CĐ của 70
DA nâng cấp QL1
Đào tạo TVGS chuyên ngành XDCT tại Quảng 65
Bình
11 Hội Mã số Mã Gần 100 khóa đào tạo 2000
vạch
12 Hội thử nghiệm 20 khóa đào tạo 300
không phá hủy
13 Hội thông tin tư liệu 2 khóa phục vụ thông tin cho doanh nghiệp 30
Nguồn: [54, tr. 46-48].
Phụ lục 6
Các dự án phát triển cộng đồng và xóa đói giảm nghèo
STT Nôi dung dự án địa điểm Thời gian
Phát triển cộng đồng, xóa đói giảm
nghèo
1 Dự án "Phát triển cộng đồng huyện Hợp Tại 3 xã thuộc
tỉnh Nghệ An" huyện Quỳ Hợp,
Nghệ An
2 Dự án "Nâng cao năng lực quản lý các dự
án phát triển của cộng đồng và tổ chức
đoàn thể địa phương"
3 Dự án "Chương trình phát triển cộng H'Mông xã Quan
động H'Mông xã Quan Thần Sán, huyện Thần Sán, huyện
Bắc Hà, tỉnh Lào Cai" Bắc Hà, tỉnh Lào
Cai
4 Dự án "Nâng cao nhận thức, hiểu biết và 13 xã thuộc 3
những kỹ năng về phát triển sản xuất, huyện: Minh hóa,
chăn nuôi, quản lý nguồn tài nguyên thiên Tuyên Hóa và Bố
STT Nôi dung dự án địa điểm Thời gian
nhiên, Vệ sinh môi trường và chăm sóc Trạch, tỉnh Quảng
sức khỏe cho cộng động 13 xã thuộc Bình
huyện: Minh Hóa, Tuyên Hóa và Bố
Trạch, tỉnh Quảng Bình"
5 Dự án "Chương trình xây dựng cơ sở hạ Công ty xây dựng
tầng" tổng hợp miền núi
Quảng Bình thực
hiện
6 Các dự án nhỏ đã được triển khai có hiệu
quả trong lĩnh vực giáo dục nhận thức về
thiên nhiên và môi trường của EVN...
Chăm sóc sức khỏe cộng đồng
1 Dự án nghiên cứu "Tìm hiểu về sự kỳ thị Hải phòng, Cần 8/2002-
và phân biệt đối xử với người nhiễm Thơ 6/2003
HIV/AIDS ở Việt Nam"
2 Dự án nghiên cứu cơ bản về "Hành vi sức Thái Bình 6-10/2002
khỏe sinh sản tại Thái Bình"
3 Dự án nghiên cứu "Gánh nặng của phụ nữ Hải Phòng 10-12/2002
có người thân nghiện ma túy và nhiễm
STT Nôi dung dự án địa điểm Thời gian
HIV/AIDS
4 Dự án nghiên cứu "Tìm hiểu phong tục Nghệ An 11/2002
tập quán và thực hành chăm sóc thai nghén
và sinh đẻ của phụ nữ dân tộc thiểu số tại 1/2003
Nghệ An"
5 Dự án " Nghiên cứu cơ ản và biên soạn sổ 11-12/2002
tay về chăm sóc và hỗ trợ người nhiễm
HIV/AIDS
6 Dự án "Củng cố năng lực nghiên cứu về 7/2002
tình dục và sức khỏe tình dục ở Việt Nam
12/2003
7 Dự án "Đánh giá chương trình quốc gia 1996-2001
phòng chống HIV/AIDS ở Việt Nam giai
đoạn 1996-2001"
8 Dự án "Tư vấn giám sát cho việc triển 2002-2003
khai các môt hình cung cấp dịch vụ sức
khỏe cho các khu vực nông thôn, vùng
sâu, vùng xa"
9 Dự án nghiên cứu về "Những người Đà Nẵng, Hải
STT Nôi dung dự án địa điểm Thời gian
nhiễm HIV ở Đà Nẵng, Hải Phòng, Thái Phòng, Thái
Nguyên" Nguyên
10 Dự án nghiên cứu về "Kỳ thị và phân biệt Hà Nội
đối xử gắn với tình trạng nhiễm HIV ở Hà
Nội"
11 Dự án nghiên cứu về "Giới và giới tính Quảng Ninh, An 1999-2002
với nhiễm HIV ở Quảng Ninh và An Giang
Giang"; các dự án nghiên cứu về "Lập kế
hoạch dự phòng và nghiên cứu về
HIV/AIDS", "Chăm sóc và tư vấn
HIV/AIDS"
12 Dự án nghiên cứu "Đánh giá tư liệu 1995-1998
truyền thông phòng chống AIDS" của
một số tỉnh thành trong cả nước
13 Dự án nghiên cứu "Đánh giá công tác Hà Nội, Thái
giáo dục đồng đẳng" Nguyên, Lạng Sơn,
Hải Phòng và
Nghệ An
14 Dự án "Cải thiện tiếp cận thông tin và Tại 2 xã Quỳ
dịch vụ về chăm sóc sức khỏe cộng đồng" Châu, Nghệ An
STT Nôi dung dự án địa điểm Thời gian
15 Dự án "Phòng chống HIV/AIDS vùng Tại 5 xã, trong đó
Tây Bắc Nghệ An" có 3 xã thuộc
huyện Nghĩa Đàn,
2 xã thuộc huyện
Quỳ Hợp Nghệ An
16 Dự án" Sức khỏe gia đình và An ninh Tại 6 xã thuộc
huyện Quỳ Hợp, lương thực"
Nghệ An
Giáo dục và văn hóa
1 Dự án "Chương trình xây dựng mô hình
đào tạo, phát triển năng lực cộng đồng"
2 Dự án "Mô hình điểm về nghiên cứu bản Cộng đồng dân tộc
sắc văn hóa cộng đồng dân tộc Mã Liềng bản Mã Liềng bản Kè,
Kè, xã Lâm Hóa, huyện Tuyên Hóa, tỉnh xã Lâm Hóa, huyện
Quảng Bình" Tuyên Hóa, tỉnh
Quảng Bình"
3 Dự án "Đào tạo cán bộ y tế thôn bản"
4 Dự án "Góp phần nâng cao năng lực hoạt Nông dân nòng cốt
động của nông dân nòng cốt dân tộc dân tộc H'Mông,
STT Nôi dung dự án địa điểm Thời gian
H'Mông, Dao, Xinh Mun, Thái tại huyện Dao, Xinh Mun,
Yên Châu, tỉnh Sơn La, Tỉnh Lai Châu, Thái tại huyện Yên
huyện Bắc Hà và Huyện Sa Pa, tỉnh Lào Châu, tỉnh Sơn La,
Cai và huyện Ba vì, tỉnh Hà Tây tỉnh Lai Châu,
huyện Bắc Hà và
huyện Sa Pa, tỉnh
Lào Cai và huyện
Ba Vì, tỉnh Hà Tây
5 Dự án "Hỗ trợ học bổng cho học sinh dân
tộc thiểu số"
Vấn đề giới tính và bình đẳng giới
1 Dự án nghiên cứu "Vấn đề sử dụng đất và 12/2002
quyền lợi của phụ nữ Việt Nam
12/2004
2 Dự án nghiên cứu "Tình trạng bạo lực 2001
trong gia đình đối với phụ nữ'
3 Dự án "Nâng cao năng lực của người dân,
đặc biệt là phụ nữ trong quản lý kinh tế
hộ gia đình, quản láy tiết kiêm-tín dụng,
quản lý cộng động, góp phần nâng cao vai
trò, vị trí của người phụ nữ trong các hoạt
STT Nôi dung dự án địa điểm Thời gian
động phát triển "
4 Dự án nghiên cứu "Các vấn đề giới và Nghệ An 5-8/2002
văn hóa xã hội tại Nghệ An
Sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên
và môi trường
1 Dự án "Nghiên cứu các khía cạnh, xã hội Cửa sông Ba Lạt
của việc sử dụng tài nguyên thiên nhiên ở vùng đồng bằng
cửa sông Ba Lạt vùng đồng bằng Sông Sông Hồng
Hồng"
2 Dự án nghiên cứu "Tính nhạy cảm của xã
hội và sự bền vững của tài nguyên thiên
nhiên ở Việt Nam
3 Dự án "Nâng cao năn lực quản lý kinh tế
hộ gia đình, cộng đồng và tài nguyên
thiên nhiên cho các nông dân nòng cốt và
điều phối viên trên địa bàn 13 xã"
4 Dự án "Tạo quyền cho các cộng đòng
thông qua chương trình đất, giao rừng và
sử dụng hợp lý nguồn tài nguyên thiên
STT Nôi dung dự án địa điểm Thời gian
nhiên"
Nguồn: [54. tr. 90-95].
Phụ lục 7
một số hội nghị và hội thảo quốc tế
STT Nội dung đơn vị tổ chức thời điểm
1 Hội thảo quốc tế về kỹ thuật xử lý nền Liên hiệp hội 4/10/1999
trong vung đất yếu
2 Hội nghị lần thứ 18 Liên đoàn các tổ Liên hiệp hội 23-
chức kỹ sư các nươc ASEAN 25/11/2000
3 Hội thảo quốc tế về sinh học Liên hiệp hội 2-5/7/2001
4 Hội thảo quốc tế về những vấn đề giáo Liên hiệp hội 9-10/12/2002
dục và tâm lý của học sinh và sinh
viên
5 Hội nghị Hóa học á - âu lần thứ VIII Hội hóa học 21-
23/10/2003
Hội nghị Hóa học á - âu lần thư X
6 Hội thảo quốc tế về giao lưu văn hóa Hội Luật gia 10-12/7/1999
pháp lý
7 Hội thảo khoa học Việt - Nhập về Hội cơ học 20-21/1/2000
những thành tựu mới trong lĩnh vực
cơ- điện tử
8 Hội thảo về điều hòa trung tâm và tích Trung tâm nghiên 29/3/2000
nhiệt năng cứu năng lượng
và môi trường
9 Hội thảo về dự báo EL Nino và La Trung tâm nghiên 21/1/2002
Nina ở Đông Dương cứu, giáo dục môi
trường và phát
triển
Nguồn: [54, tr. 99].
Phụ lục 8
Danh mục các ấn phẩm định ký
của liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật việt nam
Tên cơ quan báo chí Tên cơ quan chủ quản trực tiếp T
T
I. Báo
Cơ quan thường trực liên hiệp các hội KH&KT Việt Nam
1. Báo Khoa học và Đời sống Liên hiệp các hội KH & KT Việt
Nam
2. Báo Khoa học và Đời sống - Số cuối tuần Liên hiệp các hội KH & KT Việt
Nam
3. Báo Khoa học và Đời sống - Chuyên đề Liên hiệp các hội KH & KT Việt
Dân tộc thiểu số và Miền núi Nam
Hội ngành trung ương
Tên cơ quan báo chí Tên cơ quan chủ quản trực tiếp T
T
4. Thời báo Kinh tế Việt Nam Hội Khoa học Kinh tế Việt Nam
5. Thời báo Kinh tế Việt Nam - Số cuối tuần Hội Khoa học Kinh tế Việt Nam
6. Vienam Economic Times Hội Khoa học Kinh tế Việt Nam
7. The Guide (Tiếng Anh) Hội Khoa học Kinh tế Việt Nam
8. The Guide (Tiếng nhật) Hội Khoa học Kinh tế Việt Nam
9. The Guide (Tiếng Trung Quốc) Hội Khoa học Kinh tế Việt Nam
10 Thời báo Kinh tế Việt Nam -Tư vấn tiêu Hội Khoa học Kinh tế Việt Nam
. dùng
11 Thời báo Kinh tế Việt Nam - Báo Điện tử Hội Khoa học Kinh tế Việt Nam
. (www.Vneconomy.com.Vn)
12 Báo Kinh tế Nông thôn Hội làm vườn Việt Nam
.
Tên cơ quan báo chí Tên cơ quan chủ quản trực tiếp T
T
13 Báo Kinh tế Nông thôn - Số cuối tuần Hội làm vườn Việt Nam
.
14 Báo kinh tế Nông thôn - Chuyên đề Dân Hội làm vườn Việt Nam
. tộc thiểu số và miền núi
15 Báo Đời sống và Pháp luật Hội Luật gia Việt Nam
.
II. Tạp chí
Cơ quan thường trực Liên hiệp các hội KH & KT Việt Nam
20 Tạp chí Khoa học và Tổ quốc - Diễn đàn trí Liên hiệp các hội KH&KT Việt
. thức Nam
21 Tạp chí Khoa học và Tổ quốc-Tri thức- Liên hiệp các hội KH&KT Việt
. Tuổi trẻ & Sáng tạo Nam
Hội ngành trung ương
22 Tạp chí Y học Việt Nam Tổng Hội Y Dược học Việt Nam
.
Tên cơ quan báo chí Tên cơ quan chủ quản trực tiếp T
T
23 Tạp chí Y học dự phòng Tổng Hội Y Dược học Việt Nam
.
24 Tạp chí Revue Medicale Tổng Hội Y Dược học Việt Nam
.
25 Tạp chí Revue Pharmacentique Tổng Hội Y Dược học Việt Nam
.
26 Tạp chí Nội khoa Tổng Hội Y Dược học Việt Nam
.
27 Tạp chí Ngoại khoa Tổng Hội Y Dược học Việt Nam
.
28 Tạp chí Thuốc và sức khỏe Tổng Hội Y Dược học Việt Nam-
. Hội Dược học Việt Nam
29 Tạp chí Tim mạch học Tổng Hội Y Dược học Việt Nam
.
30 Tạp chí Sinh lý học Tổng Hội Y Dược học Việt Nam
.
Tên cơ quan báo chí Tên cơ quan chủ quản trực tiếp T
T
31 Tạp chí Phụ sản Tổng Hội Y Dược học Việt Nam
.
32 Tạp chí Đông y Việt Nam Hội Đông y Việt Nam
.
33 Tạp chí ứng dụng toán học Hội Toán học Việt Nam
.
34 Tạp chí Tin học và Đời sống Hội Tin học Việt Nam
.
35 Tạp chí Điện tử Hội Vô tuyến Điện tử Việt Nam
.
36 Tạp chí Điện tử - Coputer Fan Hội Vô tuyến Điện tử Việt Nam
.
37 Tạp chí Điện và Đời sống Hội Điện lực Việt Nam
.
38 Tạp chí kế toán Hội Kế toán Việt Nam
.
Tên cơ quan báo chí Tên cơ quan chủ quản trực tiếp T
T
39 Tạp chí Vật lý Ngày nay Hội Vật lý Việt Nam
.
40 Tạp chí Hóa học và ứng dụng Hội Hóa học Việt Nam
.
41 Tạp chí Pháp lý Hội Luật gia Việt Nam
.
42 Tạp chí Pháp luật (Tiếng Anh và tiếng Hội Luật gia Việt Nam
. Pháp)
43 Tạp chí Ngôn ngữ và Đời ssóng Hội Ngôn ngữ học Việt Nam
.
44 Tạp chí Dân tộc và Thời đại Hội Dân tộc Việt Nam
.
45 Tạp chí Xưa và nay Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam
.
46 Tạp chí Cổ vật tinh hoa Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam
.
Tên cơ quan báo chí Tên cơ quan chủ quản trực tiếp T
T
47 Tạp chí Thế giới tiêu dùng Hội KH Tâm lý Giáo dục Việt
. Nam
48 Tạp chí Người tiêu dùng Hội Tiêu chuẩn và bảo vệ người
. tiêu dùng Việt Nam
49 Tạp chí Con đường xanh Hội Bảo vệ Thiên nhiên & Môi
. trường Việt Nam
50 Tạp chí Di truyền học và ứng dung Hội các ngành Sinh học Việt Nam
.
51 Tạp chí Phân tích Hóa, Lý và Sinh học Hội Phân tích Hóa, Lý và Sinh Học
. Việt Nam
52 Tạp chí Chăn nuôi Hội Chăn nuôi Việt Nam
.
53 Tạp chí KHKT Thú y Hội Thú y Việt Nam
.
54 Tạp chí Cơ khí Việt Nam Hội KHKT Cơ khí Việt Nam
.
Tên cơ quan báo chí Tên cơ quan chủ quản trực tiếp T
T
55 Tạp chí Công nghệ Mỏ Hội KH&CN Mỏ Việt Nam
.
56 Tạp chí Khoa học Đất Hội Khoa học Đất Việt Nam
.
57 Tạp chí Biển Việt Nam Hội KHKT Biển Việt Nam
.
58 Tạp chí Khoa học và Công nghệ Nhiệt Hội KHKT Nhiệt Việt Nam
.
59 Tạp chí Trắc địa bản đồ Hội Trắc địa Bản đồ Viễn thám
. Việt Nam
60 Tạp chí Khoa học địa chất công trình và Hội Địa chất Việt Nam
. môi trường
61 Tạp chí Cầu đường Việt Nam Hội KHKT Cầu đường Việt Nam
.
62 Tạp chí Tự động hóa ngày nay Hội KHCN Tự động Việt Nam
.
Tên cơ quan báo chí Tên cơ quan chủ quản trực tiếp T
T
63 Tạp chí Tri thức và Công nghệ Hội KHKT Đúc-Luyện Kim Việt
. Nam
64 Tạp chí Người Xây dựng Hội KHKT Xây dựng Việt Nam
.
65 Tạp chí Xây dựng Điện Việt Nam Hội KHKT Xây dựng Việt Nam
.
66 Tạp chí Môi trường Đô thị Hội KHKT Xây dựng Việt Nam
.
III. Bản tin và các loại ấn phẩm định ký khác
Cơ quan thường trực Liên hiệp các Hội KH&KINH Tế Việt Nam
67. Tin hoạt động các Hội Khoa học và Kỹ Liên hiệp các hội KH&KT Việt
thuật Nam
Hội ngành trung ương
68 Bản tin Hội KHKT Xây dựng Việt Nam Hội KHKT Xây dựng Việt Nam
.
Tên cơ quan báo chí Tên cơ quan chủ quản trực tiếp T
T
69 Bản tin Môi trường Đô thị Hội KHKT Xây dựng Việt Nam
.
70 Công nghiệp Bê tông Việt Nam Hội KHKT Xây dựng Việt Nam
.
71 Địa kỹ thuật Hội KHKT Xây dựng Việt Nam
.
72 Trái đất xanh Hội Bảo vệ thực vật Việt Nam
.
73 Địa cầu Hội KHKT Địa lý Việt Nam
.
74 Ngữ học trẻ - Diễn đàn học tập và nghiên Hội Ngôn ngữ học Việt Nam
. cứu
75 Thông tin Những vấn đề sinh học ngày Hội các ngành Sinh học Việt Nam
. nay
76 Tin hoạt động Sở hữu công nghiệp Hội Sở hữu Công nghiệp Việt Nam
.
Tên cơ quan báo chí Tên cơ quan chủ quản trực tiếp T
T
77 Tin học - chỉ dẫn và tìm kiếm Hội Tin học Việt Nam
.
78 Tin học và Nhà trường Hội Tin học Việt Nam
.
79 Thông tin Kinh doanh và Tiếp thị Hội Khoa học Kinh tế Việt Nam
.
80 Bản tin Lâm nghiệp Hộ KHKT Lâm nghiệp Việt Nam
.
81 VACVINA Hội làm vườn Việt Nam
.
82 Bản tin Trang trại VAC Hội làm vườn Việt Nam
.
83 Đặc san Đo lường Hội KHKT Đo lường Việt Nam
.
84 Toán học & Tuổi trẻ Hội Toán học Việt Nam +Bộ GD
. &ĐT
Tên cơ quan báo chí Tên cơ quan chủ quản trực tiếp T
T
85 Thông tin toán học Hội Toán học Việt Nam
.
86 Vật lý tuổi trẻ Hội Vật lý Việt Nam
.
87 Vật lý Phổ thông Hội vật lý Việt Nam
.
88 Kỷ yếu Olimpic Cơ học toàn quốc Hội Cơ học Việt Nam
.
89 Thông tin Công nghệ đồng phát nhiệt điện Hội KHKT Nhiệt Việt Nam
.
90 Phụ san Tri thức và Công nghệ Hội KHKT Đúc-Luyện kim VNam
.
91 Bản tin Hội Thông tin tư liệu KH&CN Hội Thông tin Tư liệu Khoa học và
. Việt Nam Công nghệ Việt Nam
92 Chuyên san Chất lượng và Hội nhập Hội Tiêu chuẩn và bảo vệ người
. tiêu dùng Việt Nam
Nguồn: [54, tr. 29-38].
Phụ lục 10
danh mục các dự án đầu tư có sự đóng góp ý kiến
của các liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam
Số hội Số người ST Tên dự án Thời gian T tham gia tham gia
1 Công trình thủy điện Sơn La 5-1999 9 34
(Dự án khả thi)
2 Quy hoạch lũ đồng bằng Sông 5-1999 4 29
Cửu Long
3 Đường Hồ Chí Minh (đoạn qua 10-2000 10 30
Vườn Quốc gia cúc Phương)
4 Thủy điện Lai Châu + thủy 1-2001 10 30
điện Sơn La nhỏ
5 Thay nước Hồ Tây 5-2001 4 30
6 Quy hoạch bậc thang thủy điện 1-2002 10 37
trên sông Đà
7 Công trình thủy điện Sơn La 1-2002 10 37
(Hồ sơ bổ sung)
8 Thủy điện thác Đầu Đẳng - Bắc 7-2002 8 20
Cạn
9 Hồ sơ nghiên cứu khả thi (cuối 5-2003 4 9
cùng) công trình thủy điện Sơn
La
Nguồn: [54, tr. 80].