ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN -----------------------------------------
NGUYỄN THỊ HIỀN
ĐẢNG LÃNH ĐẠO CÔNG ĐOÀN VIỆT NAM
TỪ NĂM 2003 ĐẾN NĂM 2013
LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ
Hà Nội - 2015
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN -----------------------------------------
NGUYỄN THỊ HIỀN
ĐẢNG LÃNH ĐẠO CÔNG ĐOÀN VIỆT NAM
TỪ NĂM 2003 ĐẾN NĂM 2013
Chuyên ngành: Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam
Mã số: 60 22 03 15
LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS. Lê Văn Yên
Hà Nội - 2015
LỜI CẢM ƠN
Trong suốt quá trình học tập và hoàn thành luận văn này, tôi đã nhận được
sự hướng dẫn, giúp đỡ quý báu của các thầy cô, các anh chị và bạn bè. Với lòng
kính trọng và biết ơn sâu sắc, tôi xin được bày tỏ lời cảm ơn chân thành tới:
Ban giám hiệu, phòng Đào tạo Sau đại học, Khoa Lịch sử và Bộ môn
Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam đã tạo mọi điều kiện thuận lợi giúp đỡ tôi
trong suốt quá trình học tập và hoàn thành luận văn.
PGS.TS. Lê Văn Yên – người thầy kính mến đã tận tình chỉ bảo, định
hướng cho tôi để tôi có thể hoàn thành luận văn.
Xin chân thành cảm ơn các thầy cô trong hội đồng chấm luận văn đã cho
tôi những đóng góp quý báu để hoàn chỉnh luận văn này.
Cuối cùng, xin gửi lời cảm ơn đến gia đình, bạn bè, những người đã luôn
bên tôi, động viên và khuyến khích tôi trong quá trình học tập và thực hiện đề
tài nghiên cứu của mình.
Xin chân thành cám ơn.
Hà Nội, ngày 17 tháng 8 năm 2015
Tác giả luận văn
Nguyễn Thị Hiền
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực và có xuất xứ rõ ràng.
Tác giả luận văn
Nguyễn Thị Hiền
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Đảng Cộng sản Việt Nam ĐCSVN
Công đoàn CĐ
Công đoàn cơ sở CĐCS
Công đoàn Việt Nam CĐVN
Công nhân CN
Công nhân, viên chức, lao động CNVCLĐ
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa CNH,HĐH
Kinh tế thị trường KTTT
Người lao động NLĐ
Nhà xuất bản Nxb
Giai cấp công nhân GCCN
Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam TLĐLĐVN
Xã hội chủ nghĩa XHCN
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1
Chƣơng 1. ĐẢNG LÃNH ĐẠO CÔNG ĐOÀN VIỆT NAM TỪ
NĂM 2003 ĐẾN NĂM 2007 .......................................................................... 14
1.1. Những yếu tố tác động và chủ trƣơng của Đảng lãnh đạo Công
đoàn Việt Nam ................................................................................................ 14
1.1.1. Những yếu tố tác động đến hoạt động của Công đoàn Việt Nam ................. 14
1.1.2. Chủ trương của Đảng đối với hoạt động của Công đoàn Việt Nam ..... 22
1.2. Kết quả thực hiện chủ trƣơng của Đảng lãnh đạo Công đoàn
Việt Nam (2003 - 2007) .................................................................................. 29
1.2.1. Tuyên truyền, vận động, giáo dục công nhân viên chức lao động ........ 29
1.2.2. Bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của công nhân viên
chức lao động ................................................................................................... 36
1.2.3. Phát triển đoàn viên, thành lập Công đoàn cơ sở, đổi mới nội dung
và phương thức hoạt động của Công đoàn Việt Nam ...................................... 42
Chƣơng 2. ĐẢNG LÃNH ĐẠO CÔNG ĐOÀN VIỆT NAM TỪ NĂM
2008 ĐẾN NĂM 2013 ..................................................................................... 50
2.1. Những chuyển biến mới của tình hình thế giới, trong nƣớc và
chủ trƣơng của Đảng đối với hoạt động của Công đoàn Việt Nam........... 50
2.1.1. Những chuyển biến mới của tình hình thế giới và trong nước .............. 50
2.1.2. Chủ trương của Đảng đối với hoạt động của Công đoàn Việt Nam
trong giai đoạn mới .......................................................................................... 54
2.2. Kết quả thực hiện sự chỉ đạo của Đảng đối với Công đoàn Việt
Nam (2008 - 2013) ........................................................................................... 61
2.2.1. Phát triển hơn nữa hoạt động tuyên truyền, vận động, giáo dục
công nhân, viên chức, lao động ....................................................................... 61
2.2.2. Chủ động, tích cực trong việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp chính
đáng của công nhân, viên chức, lao động ........................................................ 67
2.2.3. Tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức, nâng cao chất lượng hoạt
động của tổ chức Công đoàn Việt Nam ........................................................... 75
Chƣơng 3. NHẬN XÉT VÀ KINH NGHIỆM LỊCH SỬ ........................... 83
3.1. Một số nhận xét ....................................................................................... 83
3.1.1. Ưu điểm và nguyên nhân ........................................................................ 83
3.1.2. Hạn chế và nguyên nhân ........................................................................ 93
3.2. Kinh nghiệm lịch sử .............................................................................. 100
3.2.1. Đảng lãnh đạo Công đoàn phải trực tiếp, toàn diện trong việc
quán triệt sâu sắc đường lối, quan điểm, nghị quyết của Đảng, chính
sách pháp luật của Nhà nước ......................................................................... 100
3.2.2. Đảng lãnh đạo Công đoàn cần phải tăng cường thực hiện đổi mới nội
dung và phương thức hoạt động của tổ chức Công đoàn trong tình hình mới ...... 101
3.2.3. Đảng cần thường xuyên quan tâm lãnh đạo công tác đào tạo, bồi
dưỡng xây dựng đội ngũ cán bộ Công đoàn có phẩm chất, năng lực đáp
ứng yêu cầu nhiệm vụ ..................................................................................... 102
3.2.4. Đảng đề ra đường lối lãnh đạo Công đoàn Việt Nam phải không
tách rời với việc thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội của đất nước, của
từng địa phương, cơ sở .................................................................................. 104
3.2.5. Đảng lãnh đạo Công đoàn Việt Nam cần chú trọng công tác
nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn về nội dung và phương thức hoạt
động ................................................................................................................ 105
KẾT LUẬN ................................................................................................... 108
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................... 110
PHỤ LỤC ...................................................................................................... 122
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
CĐVN là tổ chức quần chúng rộng lớn của GCCN và NLĐ, là cơ sở xã
hội quan trọng của Đảng, thành viên trong hệ thống chính trị - xã hội Việt
Nam. CĐ có vai trò đại diện cho NLĐ, có trách nhiệm bảo vệ quyền, lợi ích
hợp pháp chính đáng cho NLĐ; tham gia trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế,
xã hội. Sự lớn mạnh của CĐ là một đảm bảo quan trọng cho vận động, tập
hợp, đoàn kết và giáo dục CNVCLĐ, thực hiện thắng lợi đường lối, chủ
trương của Đảng, đồng thời là cơ sở xã hội chủ yếu để xây dựng Đảng, Nhà
nước và hệ thống chính trị vững mạnh.
Trong điều kiện phát triển nền KTTT định hướng XHCN, đẩy mạnh
CNH,HĐH đất nước và hội nhập quốc tế ngày nay, tổ chức CĐ đang đứng
trước những thời cơ lớn và thách thức không nhỏ. Số lượng CN và NLĐ ngày
một tăng, cơ cấu CNVCLĐ cũng rất đa dạng. CN có mặt ở trong tất cả các
thành phần kinh tế, các ngành nghề và có cả một bộ phận CN ở nước ngoài.
CNVCLĐ có cơ hội học tập, làm việc, tiếp cận với khoa học và công nghệ, do
đó, trình độ được cải thiện, nhiều người có học vấn cao, xu hướng trí thức hóa
trong CN ngày một rõ. CNVCLĐ có môi trường để phát huy tài năng và vai
trò của mình trong thời kỳ mới.
Tuy nhiên, trong xu thế toàn cầu hóa, nền kinh tế ngày càng mở cửa, hội
nhập sâu vào nền kinh tế thế giới, tạo ra sự cạnh tranh gay gắt trong lao động,
việc làm và thu nhập, dẫn đến sự phân hóa gay gắt trong GCCN và NLĐ, ảnh
hưởng không tốt đến việc củng cố khối đoàn kết CNVCLĐ. Thực hành nền
KTTT định hướng XHCN, nhiều hình thức sở hữu khác nhau, gắn với tiến trình
này đội ngũ CNVCLĐ có mặt ở tất cả các thành phần kinh tế dẫn đến sự biến
đổi cơ cấu GCCN, đa dạng hóa quan hệ chủ - thợ, khiến cho công tác vận động,
1
tập hợp và tổ chức quần chúng CNVCLĐ gặp nhiều khó khăn.
Yêu cầu của sự nghiệp đẩy mạnh CNH,HĐH đất nước, tổ chức CĐ và
GCCN Việt Nam đã bộc lộ những bất cập trên nhiều phương diện như: hình
thức tổ chức hoạt động, công tác tuyên truyền giáo dục chậm được đổi mới,
trình độ, lý tưởng và tình yêu nghề nghiệp, ý thức tổ chức kỷ luật tác phong
của người CN còn yếu, thậm chí ở một bộ phận, CNVCLĐ phai nhạt lý
tưởng, chạy theo lối sống hưởng thụ, thờ ơ với cộng đồng. CĐ chưa thực sự
ngang tầm với vai trò, vị trí của mình trong việc tham gia, góp phần vào việc
giải quyết những vấn đề mang tính chiến lược. Còn không ít chính sách, pháp
luật của Nhà nước liên quan đến quyền lợi và nghĩa vụ của NLĐ bị vi phạm
nghiêm trọng. Âm mưu “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch đối với
nước ta vẫn còn hiện hữu. Các thế lực thù địch câu kết với bọn phản động ra
sức xuyên tạc bản chất GCCN, phủ nhận sứ mệnh lịch sử và vai trò của
GCCN cũng như của CĐVN. Điều này gây tâm lý hoài nghi ở một số người
về vai trò và năng lực lãnh đạo của GCCN trong sự nghiệp xây dựng xã hội
mới. Trong hoạt động thực tiễn, tổ chức CĐ ở nhiều nơi, nhiều lúc chưa được
tạo điều kiện phát huy vai trò, chức năng của mình nên chất lượng, hiệu quả
hoạt động của CĐ chưa cao.
Trong điều kiện đó, đòi hỏi phải phát huy mạnh mẽ vai trò của CĐVN
trong đại diện chăm lo, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của
CNVCLĐ, trong tuyên truyền giáo dục nâng cao ý thức tổ chức kỷ luật, tác
phong công nghiệp, đấu tranh với các tệ nạn xã hội và xây dựng nền văn hóa
tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Đặc biệt là trong vận động, tập hợp và tổ
chức quần chúng CNVCLĐ nỗ lực vươn lên trong học tập, lao động và tham
gia quản lý kinh tế, xã hội nhằm đẩy mạnh phát triển kinh tế, xã hội, giữ vững
an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, sớm đưa nước ta thoát ra khỏi nước
2
chậm phát triển.
Để phát huy mạnh mẽ vai trò của CĐVN trong giai đoạn mới, vấn đề
hết sức quan trọng là cần tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với CĐ, thông
qua hoạt động của tổ chức CĐ, Đảng định hướng về mục đích chính trị, tập
hợp đông đảo CNVCLĐ trong mặt trận thống nhất rộng rãi nhằm phát huy
mạnh mẽ vai trò tiên phong cách mạng của GCCN, thực hiện thắng lợi sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN.
Như vậy, nghiên cứu vai trò lãnh đạo của Đảng đối với CĐVN có ý
nghĩa lý luận và thực tiễn cấp thiết. Với mong muốn tìm hiểu và làm sáng tỏ
vai trò lãnh đạo của ĐCSVN với hoạt động của tổ chức CĐVN, từ đó đánh
giá những ưu điểm, hạn chế trong hoạt động của tổ chức CĐ, tiến tới lý giải
nguyên nhân và rút ra một số bài học kinh nghiệm, tác giả quyết định lựa
chọn đề tài: “Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo Công đoàn Việt Nam từ
năm 2003 đến năm 2013” làm Luận văn Thạc sĩ Lịch sử, chuyên ngành Lịch
sử ĐCSVN.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Cho đến nay, đã có nhiều công trình khoa học, nhiều cuộc hội thảo của
các cơ quan Đảng về GCCN, tổ chức CĐ; về vai trò lãnh đạo của Đảng đối
với CĐ. Tiêu biểu là các nhóm sau:
2.1. Nhóm sách tham khảo
- PGS.TS. Nguyễn Phú Trọng (1986),“Tìm hiểu sự lãnh đạo của Đảng
đối với tổ chức CĐ”, Nxb. Lao động, Hà Nội. Cuốn sách đã phân tích, lý giải,
làm sáng tỏ những quan điểm cơ bản của Đảng ta xung quanh vấn đề Đảng
lãnh đạo CĐ, đi sâu phân tích và chứng minh sự cần thiết phải tăng cường sự
lãnh đạo của Đảng đối với CĐ; chỉ ra những nguyên tắc cơ bản, những nội
dung chủ yếu trong sự lãnh đạo của Đảng đối với CĐ; làm rõ trách nhiệm của
3
CĐ trong việc tham gia xây dựng Đảng.
- TLĐLĐVN (2003), “Lịch sử phong trào CN và CĐVN” (3 tập), Nxb.
Lao động, Hà Nội. Đây là cuốn sách được được Đoàn Chủ tịch TLĐLĐVN
chỉ đạo biên soạn chào mừng Đại hội lần thứ IX CĐVN, nhằm ôn lại chặng
đường lịch sử của phong trào CN, CĐVN. Bộ sách đã tổng kết một cách khái
quát về phong trào CN, tổ chức CĐ và hoạt động của phong trào CN và
CĐVN từ cuối thế kỷ XIX đến năm 2000.
- Đan Tâm (2003),“Về đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với
CĐ trong nền KTTT”, Nxb. Lao động, Hà Nội. Cuốn sách không đề cập toàn
bộ nội dung, phương thức lãnh đạo của Đảng cần đổi mới và cách đổi mới,
mà chủ yếu đề cập một số vấn đề cơ bản của phong trào CN và hoạt động CĐ
đang và sẽ diễn ra, nhằm gợi mở cách nhìn, cách suy nghĩ cần lãnh đạo và đổi
mới. Đây là một cách tiếp cận rất cần thiết làm cơ sở thực tiễn và lý luận cho
việc đổi mới nội dung hoạt động CĐ đúng chủ trương đổi mới của Đảng.
- PGS.TSKH. Nguyễn Viết Vượng (2005),“Lý luận Mác - Lênin về CĐ
và vận dụng vào hoạt động CĐVN trong nền KTTT”, Nxb. Lao động, Hà Nội.
Nội dung cuốn sách trình bày hệ thống quan điểm lý luận Mác - Lênin về
Công đoàn, góp phần nâng cao nhận thức khoa học cho cán bộ CĐ về vị trí,
vai trò của tổ chức mình trong hệ thống chính trị XHCN, biết vận dụng sáng
tạo những nguyên lý, lý luận vào thực tiễn công tác, nâng cao hiệu quả hoạt
động CĐ trong điều kiện Đảng và Nhà nước ta chủ trương thực hiện nhất
quán, lâu dài nền KTTT định hướng XHCN.
- TS. Lê Thanh Hà (2006),“ĐCSVN lãnh đạo xây dựng GCCN trong
thời kỳ đổi mới (1986 - 2006)”, Nxb. Lao động, Hà Nội. Cuốn sách đã phần
nào khắc họa bức tranh chân thực về sự hoạch định, bổ sung, phát triển đường
lối xây dựng GCCN của Đảng cũng như về sự chuyển biến của GCCN Việt
Nam trong quá trình đổi mới đất nước; đúc rút những bài học kinh nghiệm
trong việc lãnh đạo xây dựng GCCN; nêu các giải pháp tăng cường sự lãnh
4
đạo của Đảng trong xây dựng GCCN ngày càng lớn mạnh.
- PGS.TSKH. Nguyễn Viết Vượng (2006), “Hoạt động CĐ trong các
doanh nghiệp ngoài quốc doanh”, Nxb. Lao động, Hà Nội. Cuốn sách giúp cho
cán bộ CĐ các cấp, nhất là cán bộ CĐ trong các doanh nghiệp khu vực kinh tế
ngoài quốc doanh thấy được bức tranh tổng quát về sự phát triển, về tổ chức,
hoạt động của CĐ trong các doanh nghiệp khu vực kinh tế ngoài quốc doanh.
- TS. Lê Thanh Hà (2009), “Phát triển nguồn nhân lực công nghiệp
Việt Nam trong quá trình CNH,HĐH đất nước và vai trò của CĐ”, Nxb. Lao
động, Hà Nội. Cuốn sách đã góp phần làm sáng tỏ nhận thức về nguồn nhân
lực công nghiệp và các chính sách của Nhà nước, vai trò của CĐ trong việc
phát huy tiềm năng nhân lực công nghiệp Việt Nam trong bối cảnh phát triển
chung của kinh tế - xã hội hiện nay, từ đó nêu các giải pháp, biện pháp nhằm
khai thác, phát huy tiềm năng của đội ngũ CNVCLĐ trong điều kiện mới.
- TLĐLĐVN (2009), “Một số vấn đề phong trào CĐVN - lịch sử và
hiện tại”, Nxb. Lao động, Hà Nội. Cuốn sách trình bày một số vấn đề cơ bản
về lịch sử, hệ thống tổ chức và phong trào CĐVN từ năm 1929 đến năm 2009;
nêu các vấn đề đặt ra đối với tổ chức CĐ như thời cơ, thách thức và nhiệm vụ
của GCCN, CĐ trong tình hình mới.
- TLĐLĐVN (2013), “Phong trào CN và CĐVN 2001 - 2010”, Nxb.
Lao động, Hà Nội. Cuốn sách đã khái quát lại những mốc son của phong trào
CN và hoạt động của CĐVN 10 năm đầu thế kỷ XXI; bước đầu rút ra một số
bài học kinh nghiệm trong hoạt động CĐ ở thời kỳ mới.
- TLĐLĐVN (2014), “CĐVN - 85 năm xây dựng và phát triển”, Nxb.
Lao động, Hà Nội. Nội dung cuốn sách phản ánh các sự kiện nổi bật của tổ
chức CĐ gắn với các giai đoạn lịch sử của đất nước kể từ khi ra đời cho đến
năm 2014.
2.2. Nhóm tài liệu hội thảo khoa học
- Nhân dịp kỷ niệm 70 năm ngày thành lập ĐCSVN, đầu năm 2000,
5
TLĐLĐVN tổ chức hội thảo với chủ đề: “ĐCSVN với GCCN và CĐVN”. Nội
dung gồm các bài tham luận đề cập đến những khía cạnh khác nhau về sự
lãnh đạo của Đảng đối với tổ chức CĐ.
- Năm 2007, nhân dịp kỷ niệm 77 năm ngày thành lập ĐCSVN,
TLĐLĐVN tổ chức Hội thảo khoa học với chủ đề: “Tăng cường sự lãnh đạo
của Đảng đối với CĐVN thời kỳ CNH,HĐH và hội nhập kinh tế quốc tế”. Nội
dung hội thảo làm rõ bốn vấn đề cơ bản về sự lãnh đạo của Đảng đối với
GCCN và CĐVN: Thứ nhất, về vị trí, vai trò của tổ chức CĐVN trong xã hội
hiện đại và hội nhập quốc tế. Thứ hai, đổi mới mạnh mẽ về nội dung và
phương pháp lãnh đạo của Đảng đối với GCCN và CĐ có hiệu quả, phù hợp
với tiến trình đổi mới đất nước và xu thế hội nhập. Thứ ba, xây dựng GCCN
và tổ chức CĐ vững mạnh vì sự nghiệp CNH,HĐH đất nước. Thứ tư, tiếp tục
xây dựng và củng cố mối quan hệ giữa tổ chức CĐVN và các tổ chức khác
trong hệ thống chính trị.
- Năm 2010, nhân dịp kỷ niệm 81 năm ngày thành lập tổ chức CĐVN
và hướng tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng, TLĐLĐVN đã
tổ chức Hội thảo khoa học với chủ đề “Vai trò lãnh đạo của ĐCSVN đối với
GCCN và tổ chức CĐVN”. Hội thảo đề cập đến vai trò lãnh đạo của Đảng, sự
cần thiết phải tăng cường sự lãnh đạo của ĐCSVN đối với CĐ trong điều kiện
phát triển KTTT định hướng XHCN và hội nhập kinh tế quốc tế; nhiệm vụ
xây dựng GCCN Việt Nam lớn mạnh về số lượng và chất lượng; về phát triển
đảng viên, xây dựng tổ chức cơ sở Đảng trong các doanh nghiệp.
2.3. Nhóm đề tài nghiên cứu khoa học, luận văn, luận án
- Đề tài nghiên cứu khoa học cấp TLĐLĐVN “Nâng cao hiệu của hoạt
động CĐ trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài” do TS. Dương
Văn Sao - Viện trưởng Viện CN và CĐ làm chủ nhiệm. Đề tài được thực hiện
từ năm 2001 đến năm 2002. Kết quả của công trình nghiên cứu đã được biên
6
soạn thành sách và được Nxb. Lao động ấn hành năm 2003. Đề tài nghiên cứu
đã đề xuất những giải pháp thiết thực, hiệu quả cho hoạt động của tổ chức
CĐVN trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
- Đề tài cấp nhà nước “Xây dựng GCCN Việt Nam giai đoạn 2011 -
2020”, mã số KX04.15/06-10, do TS. Đặng Ngọc Tùng, Uỷ viên Ban Chấp
hành Trung ương Đảng, Chủ tịch TLĐLĐVN làm chủ nhiệm. Kết quả của đề
tài nghiên cứu khoa học trên đã được biên soạn thành sách và được Nxb. Lao
động ấn hành năm 2010. Công trình nghiên cứu góp phần làm rõ quan điểm,
đường lối của Đảng, cung cấp cơ sở khoa học cho việc hoạch đính chính sách,
xác định nội dung xây dựng GCCN Việt Nam giai đoạn 2011 - 2020 của Đảng
và Nhà nước ta; nêu được hệ thống giải pháp cho việc xây dựng GCCN trong
thập niên tới.
- Lê Tố Anh (2001), “Đảng lãnh đạo CĐVN giai đoạn 1986 - 2001”,
Luận văn Thạc sĩ Lịch sử Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn.
Luận văn tập trung vào việc làm sáng tỏ chủ trương, đường lối của Đảng đối
với CĐVN giai đoạn từ năm 1986 đến năm 2001 và từ đó rút ra các nhận xét,
bài học kinh nghiệm về sự lãnh đạo của Đảng đối với tổ chức CĐVN.
- Võ Châu Thảo (2005): “Công tác phát triển đảng viên trong CN các
doanh nghiệp ngoài quốc doanh ở các tỉnh Bình Dương, Đồng Nai giai đoạn
hiện nay”, Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Xây dựng Đảng. Trong luận văn,
tác giả chủ yếu khảo sát công tác phát triển đảng viên trong CN ở các doanh
nghiệp ngoài quốc doanh tại các khu công nghiệp của hai tỉnh Bình Dương và
Đồng Nai giai đoạn từ năm 1995 đến năm 2005 và đề xuất giải pháp cho các
giai đoạn tiếp theo.
2.4. Nhóm báo và tạp chí
- Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh (Phát biểu tại Đại hội lần thứ IX
CĐVN ngày 13/10/2003), “Xây dựng GCCN, tổ chức CĐ vững mạnh là trách
7
nhiệm của Đảng và Nhà nước”. Tổng Bí thư nêu một số vấn đề về cơ hội lớn
và cả những thách thức đối với GCCN hiện nay. Đảng, Nhà nước, các tổ chức
chính trị - xã hội, đặc biệt là tổ chức CĐ có trách nhiệm tạo điều kiện thuận
lợi về vật chất và tinh thần, xây dựng, hoàn thiện cơ chế, chính sách, tạo động
lực khuyến khích CN, lao động khắc phục khó khăn, tự giác rèn luyện, tích cực
tham gia các chương trình đào tạo để từng bước trí thức hóa CN và hình thành
xã hội học tập.
- GS. Văn Tạo (2006), “Quan điểm mới về GCCN Việt Nam của Văn
kiện Đại hội X của Đảng”, Tạp chí Cộng sản số 10, tháng 5/2006. Tác giả cho
rằng từ đầu những năm 1980 đến nay, GCCN nước ta đã có những đổi mới
như sau: đã được trí thức hóa, một bộ phận lớn GCCN đã là trí thức; người
CN không còn thuần túy là người làm thuê mà đã có phần nào làm chủ trong
cả sản xuất lẫn phân phối sản phẩm lao động; GCCN vẫn đóng vai trò tiên
phong, đang trên đà đưa “khoa học và kỹ thuật trở thành lực lượng sản xuất
trực tiếp”, đang đi đầu trong sự nghiệp CNH,HĐH; GCCN Việt Nam đã có
một vị thế quốc tế, sánh vai được với các nước trong khu vực và thế giới.
- TS. Đặng Ngọc Tùng (2013),“Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng,
nâng cao tính chủ động, sáng tạo của hoạt động CĐ”, Tạp chí Cộng sản điện
tử, ngày 5/9/2013. Tác giả nêu rõ vị trí, vai trò của tổ chức CĐVN trong sự
nghiệp đổi mới đất nước do ĐCSVN khởi xướng và lãnh đạo. Đề ra sáu giải
pháp cơ bản để tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, nâng cao tính năng động,
sáng tạo của tổ chức CĐ: 1. Đổi mới công tác tuyên truyền, giáo dục để nâng
cao nhận thức của cán bộ, đảng viên và nhân dân về GCCN và tổ chức CĐ. 2.
Giải quyết có hiệu quả những vấn đề bức xúc, cấp thiết của GCCN, mà Nghị
quyết số 20-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương khóa X đã đề ra. 3. Xây
dựng, củng cố bộ máy, nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ CĐ các cấp, nhất là
đội ngũ cán bộ tham mưu chiến lược; 4. Đổi mới, hoàn thiện quan hệ giữa
8
Đảng, Nhà nước với TLĐLĐVN và các tổ chức chính trị - xã hội; 5. Đẩy
mạnh phong trào thi đua yêu nước trong đoàn viên CĐ; 6. Xây dựng tổ
chức CĐ vững mạnh, thực hiện tốt việc bảo vệ lợi ích hợp pháp, chính
đáng của NLĐ.
- PGS.TS. Phạm Công Nhất (2014), “Để GCCN Việt Nam thực sự là
lực lượng tiên phong trong sự nghiệp CNH,HĐH đất nước”, Tạp chí Cộng
sản điện tử, ngày 26/4/2014. Tác giả nêu thực trạng GCCN Việt Nam trong
giai đoạn hiện nay, từ đó đề ra sáu giải pháp để GCCN Việt Nam là lực lượng
tiên phong trong sự nghiệp CNH,HĐH đất nước: 1. Cần phải cụ thể hóa
những quan điểm, chủ trương lớn của Đảng về GCCN vào cuộc sống. 2. Nhà
nước sớm thể chế hóa những quan điểm, chủ trương lớn của Đảng thành cơ
chế, chính sách cụ thể, nhằm giải quyết có hiệu quả những vấn đề bức xúc,
cấp bách của GCCN. 3. Quan tâm lãnh đạo sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện pháp
luật có liên quan trực tiếp tới NLĐ và tổ chức CĐ. 4. Chỉ đạo kiểm tra các
doanh nghiệp trong việc xây dựng và tổ chức thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ
sở. 5. Quan tâm bồi dưỡng nâng cao trình độ lý luận chính trị, ý thức giai cấp,
tinh thần dân tộc cho CN, lao động, để họ luôn gắn bó với sự nghiệp cách
mạng của Đảng, của dân tộc. 6. Phải xem công tác xây dựng Đảng, củng cố
các đoàn thể quần chúng là nhiệm vụ có ý nghĩa sống còn đối với phong trào
CN hiện nay.
- Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng (Phát biểu tại Đại hội CĐVN lần thứ
XI ngày 28/7/2014), “Nâng tầm cao trí tuệ và vai trò chính trị to lớn của
GCCN Việt Nam”, Tổng Bí thư đã chỉ ra năm nhiệm vụ cơ bản của CĐVN
trong tình hình mới: 1. Nắm vững và quán triệt thật sâu sắc những quan điểm,
tư tưởng chỉ đạo của Nghị quyết Đại hội XI của Đảng, Cương lĩnh chính trị,
Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội trong thời kỳ mới và Nghị quyết Hội
nghị Trung ương 6 khóa X về tiếp tục xây dựng GCCN; đồng thời tham mưu
9
cho Đảng, Nhà nước có những chính sách, biện pháp cụ thể, đưa quan điểm,
chủ trương của Đảng và Nhà nước vào cuộc sống. 2. Chăm lo làm tốt hơn
nhiệm vụ xây dựng GCCN, xứng đáng là lực lượng nòng cốt, đi đầu trong sự
nghiệp đổi mới, CNH,HĐH đất nước. 3. Chủ động phối hợp với chính quyền
tổ chức tốt các phong trào hành động cách mạng trong CN, đi đầu trong các
phong trào thi đua phát triển kinh tế - xã hội. 4. Cần đẩy mạnh việc xây dựng
tổ chức, kiện toàn đội ngũ cán bộ và cải tiến phương thức hoạt động của CĐ
phù hợp với yêu cầu mới. 5. Làm tốt công tác xây dựng Đảng tại các cơ quan,
tổ chức của mình, đồng thời tích cực tham gia xây dựng Đảng cả về chính trị,
tư tưởng và tổ chức.
Nhìn chung, đã có nhiều công trình nghiên cứu về phong trào CN và
hoạt động của tổ chức CĐ, về sự lãnh đạo của Đảng với CĐ, nhưng chưa có
một công trình nghiên cứu đi sâu và mang tính hệ thống về sự lãnh đạo của
Đảng đối với CĐVN từ năm 2003 đến năm 2013 - giai đoạn lịch sử rất quan
trọng, đánh dấu bước phát triển về “chất” trong hoạt động của tổ chức CĐVN
trong thời kỳ đẩy mạnh CNH,HĐH và hội nhập quốc tế. Tuy nhiên, kết quả
của các công trình trên là nguồn tài liệu quý giá, gợi mở để tác giả kế thừa
trong thực hiện đề tài.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Luận văn làm sáng tỏ chủ trương lãnh đạo của Đảng đối với CĐVN từ
năm 2003 đến năm 2013 và những kết quả đạt được, bước đầu rút ra một số
nhận xét và kinh nghiệm.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Hệ thống hóa và trình bày các tư liệu theo các giai đoạn lịch sử có liên
10
quan đến đề tài, làm rõ những yếu tố tác động đến hoạt động của CĐVN.
- Trình bày một cách có hệ thống sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng đối với
hoạt động của tổ chức CĐVN và những kết quả đạt được từ năm 2003 đến
năm 2013.
- Bước đầu tổng kết những ưu điểm, cũng như những mặt còn hạn chế
trong công tác chỉ đạo của Đảng đối với tổ chức CĐVN và rút ra bài học kinh
nghiệm.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu về chủ trương, đường lối và quá trình thực hiện sự
lãnh đạo của Đảng đối với tổ chức CĐVN từ năm 2003 đến năm 2013.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Về nội dung: Nghiên cứu chủ trương, đường lối lãnh đạo của Đảng đối
với CĐVN và kết quả thực hiện, trong đó tập trung làm rõ ba nội dung cơ
bản: tuyên truyền, vận động, giáo dục CNVCLĐ; bảo vệ quyền, lợi ích hợp
pháp, chính đáng CNVCLĐ; phát triển đoàn viên và xây dựng tổ chức CĐ
vững mạnh.
Về thời gian: Nghiên cứu từ năm 2003 đến năm 2013, trong đó được
phân ra hai thời kỳ: từ năm 2003 đến năm 2007, thực hiện Nghị quyết Đại hội
IX, X của Đảng, Đại hội lần thứ IX của CĐVN và từ năm 2008 đến năm
2013, thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ XI của Đảng và Đại hội X, XI
CĐVN.
5. Cơ sở lý luận, nguồn tài liệu và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn dựa trên cơ sở lý luận, phương pháp luận của chủ nghĩa Mác
- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương, đường lối, quan điểm của Đảng
11
và Nhà nước ta về GCCN và tổ chức CĐ. Đồng thời sử dụng có chọn lọc kết
quả nghiên cứu của một số công trình nghiên cứu khoa học đã được công bố
liên quan đến đề tài.
5.2. Nguồn tài liệu
- Văn kiện của Đảng, Nhà nước có liên quan đến chủ trương, đường lối
lãnh đạo CĐVN.
- Văn kiện Đại hội CĐ các năm từ năm 1998 đế năm 2013.
- Các công trình nghiên cứu liên quan đến nội dung của đề tài.
- Các bài viết, bài nghiên cứu trên các tạp chí khoa học.
5.3. Phương pháp nghiên cứu
- Luận văn sử dụng phương pháp lịch sử và phương pháp lôgic là hai
phương pháp chủ yếu, nhằm trình bày một cách khách quan, khoa học sự lãnh
đạo của Đảng cũng như hiệu quả thực hiện của sự lãnh đạo đó trong hoạt
động của tổ chức CĐVN theo các bước phát triển gắn với các giai đoạn lịch
sử cụ thể.
- Ngoài ra, luận văn còn sử dụng một số các phương pháp khác như phân
tích, tổng hợp, thống kê, so sánh, đối chiếu, nhằm đánh giá, nhận xét và rút ra
những kinh nghiệm lịch sử cần thiết.
6. Đóng góp của luận văn
- Luận văn trình bày một cách hệ thống sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng đối
với hoạt động CĐVN và quá trình CĐVN cụ thể hóa chủ trương của Đảng thành
những phương hướng, nhiệm vụ trong những năm 2003 - 2007 và những năm
2008 - 2013.
- Luận văn giúp người đọc có cái nhìn đầy đủ về những hoạt động cơ
bản, thành tựu và hạn chế của tổ chức CĐVN ngày một đổi mới dưới sự lãnh
đạo của Đảng những năm 2003 - 2013.
- Những bài học kinh nghiệm mà luận văn đưa ra có giá trị tham khảo
12
đối với TLĐLĐVN trong việc đề ra mục tiêu, phương hướng, nhiệm vụ và
phương pháp hoạt động của tổ chức CĐVN trong sự nghiệp CNH,HĐH đất
nước và hội nhập quốc tế.
7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo và Phụ lục,
luận văn được kết cấu thành ba chương:
Chương 1: Đảng lãnh đạo Công đoàn Việt Nam từ năm 2003 đến năm 2007.
Chương 2: Đảng lãnh đạo Công đoàn Việt Nam từ năm 2008 đến năm 2013.
13
Chương 3: Nhận xét và kinh nghiệm lịch sử.
Chƣơng 1
ĐẢNG LÃNH ĐẠO CÔNG ĐOÀN VIỆT NAM
TỪ NĂM 2003 ĐẾN NĂM 2007
1.1. Những yếu tố tác động và chủ trƣơng của Đảng lãnh đạo Công
đoàn Việt Nam
1.1.1. Những yếu tố tác động đến hoạt động của Công đoàn Việt Nam
1.1.1.1. Tác động của tình hình thế giới
Bước sang thế kỷ XXI, tình hình thế giới có những biến chuyển nhanh
chóng và sâu sắc. Khoa học và công nghệ có bước tiến nhảy vọt. Kinh tế tri
thức có vai trò ngày càng nổi bật trong quá trình phát triển lực lượng sản xuất.
Toàn cầu hóa kinh tế là một xu thế khách quan, lôi cuốn ngày càng nhiều
nước tham gia và đang bị một số nước phát triển và các tập đoàn kinh tế tư
bản xuyên quốc gia chi phối, chứa đựng nhiều mâu thuẫn, vừa có mặt tích cực
vừa có mặt tiêu cực, vừa có hợp tác vừa có đấu tranh. Các mâu thuẫn cơ bản
trên thế giới biểu hiện dưới những hình thức và mức độ khác nhau vẫn tồn tại
và phát triển, có mặt sâu sắc hơn. Đấu tranh dân tộc và đấu tranh giai cấp tiếp
tục diễn ra gay gắt. Thế giới đứng trước nhiều vấn đề toàn cầu cấp bách mà
không một quốc gia riêng lẻ nào có thể tự giải quyết nếu không có sự hợp tác
đa phương như: bảo vệ môi trường, hạn chế sự bùng nổ về dân số, đẩy lùi
những dịch bệnh hiểm nghèo, chống tội phạm quốc tế… Chủ nghĩa tư bản
hiện đại đang nắm ưu thế về vốn, khoa học và công nghệ, thị trường, song
không thể khắc phục nổi những mâu thuẫn vốn có, đặc biệt là mâu thuẫn giữa
tính chất xã hội hóa ngày càng cao của lực lượng sản xuất với chế độ chiếm
hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất, mâu thuẫn giữa các nước tư
bản phát triển và các nước đang phát triển. Các quốc gia độc lập ngày càng
tăng cường cuộc đấu tranh để tự lựa chọn và quyết định con đường phát triển
14
của mình. CNXH trên thế giới, từ những bài học thành công và thất bại cũng
như từ khát vọng và sự thức tỉnh của các dân tộc, có điều kiện và khả năng
tạo ra bước phát triển mới. Theo quy luật tiến hóa của lịch sử, loài người
nhất định sẽ tiến tới CNXH.
Tình hình chính trị trên thế giới thập niên đầu thế kỷ XXI khá phức tạp,
tuy không xảy ra những cuộc chiến tranh lớn, nhưng chiến tranh cục bộ, xung
đột vũ trang, xung đột sắc tộc, tôn giáo, chạy đua vũ trang, hoạt động can
thiệp, lật đổ, hoạt động khủng bố xảy ra ở nhiều nơi, với tính chất ngày càng
phức tạp. Tuy nhiên, hòa bình, hợp tác vẫn là xu thế chủ đạo trong giai đoạn
hiện nay, những cuộc đấu tranh vì hòa bình, độc lập, dân chủ có những bước
tiến mới. Khu vực Đông Nam Á, châu Á - Thái Bình Dương sau khủng hoảng
tài chính - kinh tế có khả năng phát triển năng động nhưng vấn tiềm ẩn những
nhân tố gây mất ổn định.
1.1.1.2. Tác động của hội nhập kinh tế quốc tế đối với hoạt động của tổ
chức Công đoàn Việt Nam
Ngày 11/1/2007, Việt Nam trở thành thành viên chính thức thứ 150 của
Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), đã mở ra một thời kỳ hội nhập sâu
rộng, tạo điều kiện giao lưu thương mại và đầu tư quốc tế tăng vọt, một lượng
lớn về vốn và kỹ thuật của nước ngoài đầu tư vào Việt Nam.
Hội nhập kinh tế quốc tế đưa đến sự tăng nhanh số lượng lao động trong
các đơn vị sản xuất, kinh doanh, trong các thành phần kinh tế, tạo tiền đề
thuận lợi để tổ chức CĐ vận động, kết nạp đoàn viên, thành lập CĐCS, tuyên
truyền, phổ biến kiến thức, giao lưu văn hóa, giữa các thành viên trong doanh
nghiệp với đoàn viên CĐ các doanh nghiệp khác.
Nhờ hệ thống thông tin phát triển rộng khắp và tiện lợi, nên CNVCLĐ
CĐVN ngày càng nhận thức đầy đủ hơn về tổ chức CĐ các nước trên thế giới
và ngày càng có nhu cầu được tổ chức CĐ quan tâm đến đời sống, việc làm,
đại diện, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng. Đây là một trong những
15
điều kiện thuận lợi để tập hợp, vận động CN, lao động tham gia tổ chức CĐ.
Hội nhập kinh tế quốc tế tạo sự phát triển mạnh mẽ các quan hệ hợp tác
quốc tế trong lĩnh vực lao động và CĐ. Điều này tạo cơ hội thuận lợi để
CĐVN đẩy mạnh hơn nữa các hoạt động đối ngoại góp phần tăng cường hợp
tác, trao đổi kinh nghiệm hoạt động giữa CĐ các nước, các tổ chức quốc tế và
CĐ quốc tế, CĐ ngành quốc tế, CĐ khu vực, tiếp thu tinh hoa văn hóa của CN
trong khu vực và trên thế giới. Đồng thời cần quảng bá hình ảnh của đất nước,
của CĐVN với bạn bè trên thế giới.
Tuy nhiên, sự chuyển dịch mạnh cơ cấu kinh tế, trong điều kiện hội nhập
kinh tế quốc tế dẫn đến tình trạng lao động trong các thành phần kinh tế tăng
nhanh về số lượng, đa dạng về cơ cấu và quan hệ lao động cũng có xu hướng
phức tạp hơn. Do vậy, có những ảnh hưởng không nhỏ tới tổ chức và hoạt
động của CĐVN.
Do chịu ảnh hưởng của những luồng thông tin sai lệch về GCCN, CĐ
quốc tế, tư tưởng đa nguyên, đấu tranh kinh tế thuần túy, nên hoạt động của
CĐVN đã gặp phải những cản trở không nhỏ trong việc thực hiện công tác
tuyên truyền, giáo dục CNVCLĐ trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Sự gia tăng nguồn vốn đầu tư phát triển kinh tế thúc đẩy sự tăng lên
nhanh chóng của lực lượng lao động khu vực doanh nghiệp ngoài quốc doanh,
khu vực có vốn đầu tư nước ngoài về số lượng và tỷ trọng, đòi hỏi CĐ cơ sở
phải đổi mới nội dung, phương thức tổ chức hoạt động cho phù hợp với thực
tế, đáp ứng yêu cầu, nguyện vọng của NLĐ và đoàn viên CĐ; làm cho CN,
lao động thích ứng với tư duy mới, tác phong lao động công nghiệp; làm cho
chủ doanh nghiệp là người nước ngoài hiểu tập quán, phong tục của NLĐ, giá
trị truyền thống, văn hóa Việt Nam.
Hội nhập kinh tế quốc tế cũng làm xuất hiện những trở lực từ bên ngoài
tác động xấu tới ý thức chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận NLĐ, kể
16
cả âm mưu “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch hòng gây mất ổn
định xã hội nước ta nói chung và với CN, CĐ nói riêng. Điều này đòi hỏi
CĐVN phải cùng với Đảng, Nhà nước và các tổ chức đoàn thể khác tập hợp,
giáo dục, nâng cao nhận thức, nâng cao ý thức chính trị của CNVCLĐ và
đoàn viên CĐ, đồng thời góp phần giảm bớt khó khăn về đời sống vật chất và
tinh thần của NLĐ.
1.1.1.3. Tác động của thực hiện đường lối đổi mới của Đảng
Ở Việt Nam, tính đến năm 2001 đã trải qua 15 năm thực hiện đường lối
đổi mới của Đảng với các kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của Nhà nước.
Trong 15 năm đó (1986 - 2001), dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân Việt
Nam đã phát huy cao độ nội lực, kiên trì mục tiêu XHCN, vì độc lập dân tộc,
dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh và giành được những
thành tựu to lớn. Một trong số những thành tựu phải kể đến là: Đất nước đã
thoát ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội. Tích lũy nội bộ của nền kinh tế từ
mức không đáng kể, đến năm 2000 đã đạt 27% GDP. Kết cấu hạ tầng kinh tế
- xã hội phát triển nhanh. Cơ cấu kinh tế có bước chuyển dịch tích cực. Trong
GDP, tỷ trọng nông nghiệp và xây dựng từ 22,7% tăng lên 36,6%, dịch vụ từ
38,6% tăng lên 39,1%. Quan hệ sản xuất đã có bước đổi mới phù hợp hơn với
trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và thúc đẩy sự hình thành nền
KTTT định hướng XHCN. Tạo được một số chuyển biến tích cực về mặt xã
hội, giữ vững ổn định chính trị, củng cố quốc phòng, an ninh, thực hiện có kết
quả một số đổi mới quan trọng về hệ thống chính trị. Phát triển quan hệ đối
ngoại rộng mở đã phá thế bị bao vây, cấm vận của các thế lực thù địch và Việt
Nam đã hội nhập với khu vực và thế giới. Ngày 11/1/2007, Việt Nam trở
thành thành viên chính thức của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), đã mở
ra một thời kỳ hội nhập sâu rộng, tạo ra điều kiện giao lưu thương mại và đầu
tư quốc tế tăng vọt, một lượng lớn về vốn và kỹ thuật của nước ngoài đầu tư
17
vào Việt Nam.
Tại Đại hội lần thứ IX (2001) của ĐCSVN đã khẳng định, tiếp tục nắm
vững hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam
XHCN, đẩy mạnh CNH,HĐH đất nước. Đại hội đề ra đường lối kinh tế là:
“Đẩy mạnh CNH,HĐH, xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, đưa nước ta trở
thành một nước công nghiệp; ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất, đồng thời
xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp theo định hướng XHCN; phát huy cao độ
nội lực, đồng thời tranh thủ nguồn lực bên ngoài và chủ động hội nhập kinh tế
quốc tế để phát triển nhanh, có hiệu quả và bền vững; tăng trưởng kinh tế đi liền
với phát triển văn hóa, từng bước cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của
nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ môi trường; kết hợp với
phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường quốc phòng - an ninh” [3, tr.89].
Trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm (2001 - 2010), Đảng
xác định rõ mục tiêu: “Đưa nước ta thoát ra khỏi tình trạng kém phát triển;
nâng cao rõ rệt đời sống vật chất, văn hóa, tinh thần của nhân dân, tạo nền
tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo
hướng hiện đại. Nguồn lực con người, năng lực khoa học và công nghệ, kết
cấu hạ tầng, tiềm lực kinh tế, quốc phòng, an ninh được tăng cường; thể chế
KTTT định hướng XHCN được hình thành về cơ bản; vị thế của nước ta trên
trường quốc tế được nâng cao”[3, tr.89].
Cũng tại Đại hội lần thứ IX, Đảng ta khẳng định: Đảng và nhân dân ta
quyết tâm xây dựng đất nước Việt Nam theo con đường XHCN dựa trên nền
tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh nhằm mục tiêu là độc
lập dân tộc gắn liền với CNXH, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân
chủ, văn minh. Xác định phát triển kinh tế, CNH,HĐH hóa là nhiệm vụ trung
tâm; thực hiện nhất quán chính sách phát triển nền KTTT theo định hướng
XHCN; phát triển giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, xây dựng nền
18
văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Tháng 4/2006, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của ĐCSVN đề ra
chủ trương tiếp tục đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới theo con đường
XHCN; đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế, đẩy mạnh
CNH,HĐH, phát triển nhanh, bền vững; hoàn thiện thể chế KTTT định hướng
XHCN; phát triển giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, kinh tế tri
thức; bảo vệ môi trường; phát triển văn hóa; thực hiện tiến bộ và công bằng
xã hội; tăng cường quốc phòng và an ninh; mở rộng quan hệ đối ngoại; chủ
động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế; giữ vững ổn định chính trị - xã hội;
sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển; tạo nền tảng để đến năm
2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
Những chủ trương trên đây của Đảng tác động mạnh đến hoạt động của
tổ chức CĐ. Nước ta bước vào thời kỳ đẩy mạnh CNH,HĐH trong điều kiện
cuộc cách mạng khoa học và công nghệ phát triển nhanh với trình độ ngày
càng cao, thúc đẩy quá trình quốc tế hóa nền kinh tế. Điều kiện đó cho phép
chúng ta đi thẳng vào khoa học và công nghệ hiện đại, tranh thủ những công
nghệ tiên tiến của thế giới, đẩy mạnh CNH,HĐH đất nước. Sự hình thành các
khu công nghiệp, khu chế xuất đã và đang đặt ra những đòi hỏi mới về số
lượng, chất lượng nguồn nhân lực có thể đáp ứng được yêu cầu phát triển của
khoa học và công nghệ hiện đại. Trong công cuộc đổi mới, Đảng và Nhà nước
ta từng bước đổi mới chính sách phát triển giáo dục và đào tạo, khoa học và
công nghệ hướng tới mục tiêu nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng
nhân tài. Chất lượng đội ngũ CNVCLĐ ở nước ta được nâng lên nhiều mặt.
Đại đa số CNVCLĐ có bản lĩnh chính trị vững vàng, phẩm chất tốt luôn tin
tưởng ủng hộ và quyết tâm thực hiện đường lối đổi mới do Đảng khởi xướng
và lãnh đạo; có tinh thần yêu nước, đoàn kết, tương thân tương ái; có ý thức
tự lực tự cường, năng động sáng tạo, vươn lên khắc phục khó khăn, thử thách;
19
chủ động trong tìm kiếm việc làm và lựa chọn nơi làm việc; cố gắng học tập
nâng cao trình độ học vấn, chuyên môn, nghiệp vụ, nhận thức rõ hơn về nền
KTTT định hướng XHCN, xu thế cạnh tranh và hội nhập quốc tế, tích cực đấu
tranh chống âm mưu “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch, góp phần
củng cố an ninh, quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc; tích cực chống tham nhũng,
tiêu cực và các tệ nạn xã hội; thực sự là lực lượng đi đầu trong CNH,HĐH đất
nước, giữ vai trò nòng cốt trong khối liên minh công, nông và trí thức.
Bên cạnh những thuận lợi đó, hoạt động của tổ chức CĐVN vẫn còn gặp
phải một số khó khăn như:
Phát triển nền KTTT định hướng XHCN vừa đặt ra yêu cầu phát triển
khoa học và công nghệ, vừa tạo tiền đề vật chất và cơ chế để khoa học và
công nghệ nhanh chóng được ứng dụng vào sản xuất, đem lại lợi nhuận cao
cho các hoạt động kinh doanh. Chính điều đó vừa đòi hỏi, vừa khuyến khích
CN tích cực học tập, nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ để thích ứng
với sự đổi mới nhanh của công nghệ, ổn định được việc làm và tăng thu nhập.
Đây chính là cơ hội và điều kiện để thực hiện “trí thức hóa GCCN”. Song,
chất lượng đội ngũ CNVCLĐ chưa đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao của
sự nghiệp CNH,HĐH và hội nhập quốc tế. Các chuyên gia kỹ thuật, cán bộ
quản lý giỏi, CN có tay nghề cao thiếu nghiêm trọng. Số đông CN, LĐ xuất
thân từ nông dân chưa được đào tạo cơ bản và có hệ thống, chưa có tác phong
công nghiệp, ý thức kỷ luật lao động, sự hiểu biết và thực thi pháp luật còn
hạn chế. Một bộ phận CNVCLĐ còn chậm thích nghi với cơ chế thị trường,
sự giác ngộ giai cấp và hiểu biết chính trị không đồng đều, chưa thiết tha phấn
đấu vào Đảng và tham gia các hoạt động trong các tổ chức chính trị xã hội, kể
cả tổ chức CĐ.
Việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế và sự phát triển mạnh mẽ của các thành
phần kinh tế, nhất là thành phần kinh tế ngoài nhà nước, doanh nghiệp có vốn
20
đầu tư nước ngoài đang phát triển mạnh mẽ, đã xuất hiện quan hệ chủ - thợ,
tình trạng bóc lột, ức hiếp NLĐ diễn ra hàng ngày và có xu hướng phát triển.
Vì vậy, hoạt động bảo vệ quyền và lợi ích cho CNVCLĐ của CĐ gặp nhiều
khó khăn. Các doanh nghiệp ngoài nhà nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài với mục tiêu lợi nhuận là trên hết nên tìm mọi cách khai thác sức
lao động của CN. Vì vậy, NLĐ không còn thời gian để học tập nâng cao trình
độ cũng như tham gia vào các hoạt động xã hội. Do thời gian làm việc căng
thẳng, người lao động thường phải làm tăng ca, tăng giờ và ở không tập trung
nên rất khó khăn cho công tác tuyên truyền, vận động giáo dục CN, NLĐ tham
gia tổ chức CĐ.
Việc cổ phần hóa, sắp xếp lại các doanh nghiệp làm cho một bộ phận
không nhỏ lao động dôi dư, mất việc làm. Đây là một thách thức lớn cho CĐ
khi thực hiện chức năng bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của NLĐ.
Quá trình sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp nhà nước đã hình thành nhiều loại
hình doanh nghiệp mới như công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn,
công ty mẹ - công ty con, tập đoàn kinh tế, v.v. đã tác động không ít tới tổ
chức và hoạt động CĐ trong các doanh nghiệp.
Vấn đề tiền lương - nguồn thu nhập chính của NLĐ vẫn còn mang nặng
tính bình quân, chưa phù hợp với cơ chế thị trường, chưa đảm bảo được đời
sống của người hưởng lương, chưa khuyến khích, thu hút được người có tay
nghề cao và người có tài. Đặc biệt, sự phân hóa ngày càng tăng về thu nhập
của CNVCLĐ có cùng trình độ, kỹ năng nghề nghiệp, giữa các ngành nghề,
vùng, miền, các thành phần kinh tế và giữa cán bộ quản lý với NLĐ trực tiếp
sản xuất trong cùng một doanh nghiệp. Vì vậy, cải cách cơ bản chính sách
tiền lương đang là đòi hỏi cấp bách trong tình hình hiện nay.
Vấn đề nhà ở đang hết sức bức xúc và còn nhiều bất bình đẳng. Tai nạn
lao động và bệnh nghề nghiệp còn nghiêm trọng. Tình trạng vi phạm pháp
21
luật về lao động trong các doanh nghiệp còn diễn ra khá phổ biến, nhất là vi
phạm những quy định về thời gian làm việc, nghỉ ngơi, trả lương chậm không
được đền bù, vi phạm những quy định về giao kết hợp đồng lao động và việc
ký kết thỏa ước lao động tập thể, không thực hiện nghiêm các chính sách về
bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế… Tranh chấp lao động tập thể và đình công
diễn ra phức tạp và có xu hướng tăng lên, tập trung nhiều ở các tỉnh, thành
phố lớn và các khu công nghiệp tập trung, ở các doanh nghiệp tư nhân và
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Tất cả những điều này là một thách thức không nhỏ đối với hoạt động
của tổ chức CĐVN, đòi hỏi phải đổi mới nội dung, phương thức hoạt động và
có những định hướng cụ thể và rõ ràng cho từng giai đoạn.
1.1.2. Chủ trương của Đảng đối với hoạt động của Công đoàn Việt
Nam
1.1.2.1. Chủ trương của Đảng lãnh đạo Công đoàn Việt Nam
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng (1996) nhận định,
những thành tựu của công cuộc đổi mới đã và đang tạo ra thế và lực mới để
nước ta bước vào một thời kỳ mới - thời kỳ đẩy mạnh CNH,HĐH đất nước,
phấn đấu đưa Việt Nam cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng
hiện đại vào năm 2020. Để thực hiện thắng lợi những nhiệm vụ trên, cần phải
động viên mọi lực lượng và mọi tiềm năng sáng tạo, phát huy vai trò làm chủ
của nhân dân. Đại hội còn đề ra các chính sách cụ thể đối với các giai cấp, các
tầng lớp, các dân tộc trong nước, tạo ra những động lực mới thúc đẩy phong
trào hành động cách mạng của nhân dân. Đối với GCCN và tổ chức CĐVN,
Đảng xác định: “Xây dựng GCCN lớn mạnh về mọi mặt, phát triển về số
lượng, giác ngộ về giai cấp, nâng cao trình độ học vấn, tay nghề, có năng lực
ứng dụng và sáng tạo công nghệ mới, có tác phong công nghiệp và ý thức tổ
chức, kỷ luật, lao động đạt năng suất, chất lượng và hiệu quả ngày càng cao,
22
làm nòng cốt trong việc xây dựng khối liên minh công nhân, nông dân, trí
thức và tăng cường khối đại đoàn kết dân tộc. Tạo thêm việc làm, cải thiện
điều kiện lao động, thực hiện an toàn lao động và vệ sinh công nghiệp, hạn
chế đến mức thấp nhất tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp. Tổ chức tốt việc
đào tạo và đào tạo lại nghề nghiệp. Tiếp tục nghiên cứu, bổ sung, hoàn chỉnh
chính sách tiền công lao động và các chính sách bảo đảm về mặt xã hội. Tạo
điều kiện cho CN có cổ phần trong các doanh nghiệp. Đẩy mạnh việc phát
triển Đảng trong CN; quan tâm bồi dưỡng, đào tạo cán bộ xuất thân từ CN”
[3, tr.123].
Trên cơ sở nhận định tình thế thế giới, khu vực và trong nước, Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng (4/2001) quyết định mục tiêu sớm đưa
nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, nâng cao rõ rệt đời sống vật chất và
tinh thần của nhân dân, tạo nền tảng đến năm 2020 đưa nước ta cơ bản trở
thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại hóa. Đại hội đề ra quan
điểm, chủ trương đối với GCCN và tổ chức CĐVN trong giai đoạn mới: “Đối
với GCCN, coi trọng việc phát triển về số lượng và chất lượng, nâng cao giác
ngộ và bản lĩnh chính trị, trình độ học vấn và nghề nghiệp, thực hiện “trí thức
hoá CN”, nâng cao năng lực ứng dụng và sáng tạo công nghệ mới, lao động
đạt năng suất, chất lượng và hiệu quả ngày càng cao, xứng đáng là một lực
lượng đi đầu trong sự nghiệp CNH,HĐH đất nước và vai trò lãnh đạo cách
mạng trong thời kỳ mới. Bảo vệ quyền lợi, nâng cao đời sống vật chất và
tinh thần của GCCN trong điều kiện thực hiện cơ chế thị trường. Tăng
cường đào tạo cán bộ lãnh đạo, quản lý và kết nạp đảng viên từ những CN
ưu tú; tăng nhanh thành phần CN trong đội ngũ cán bộ lãnh đạo các cấp,
các ngành”[4, tr.124-125].
Có thể thấy, chủ trương lãnh đạo CĐVN được đề cập tại Đại hội lần
thứ IX của Đảng có một số điểm mới so với Đại hội lần thứ VIII: Đảng đã
23
quán triệt quan điểm “trí thức hóa CN”, đó là quá trình nâng cao trình độ tri
thức và năng lực hoạt động thực tiễn để GCCN xứng đáng với vai trò tiên
phong của mình trong sự nghiệp CNH,HĐH đất nước theo định hướng
XHCN; quán triệt chức năng “bảo vệ quyền lợi, nâng cao đời sống vật chất và
tinh thần của GCCN trong điều kiện thực hiện cơ chế thị trường” của tổ chức
CĐ; nhấn mạnh việc phải tăng nhanh thành phần CN trong đội ngũ cán bộ
lãnh đạo các cấp, các ngành.
Đến Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX
(3/2003) tiếp tục quán triệt chủ trương, đường lối lãnh đạo CĐ của Đảng đã
được đề ra từ Đại hội IX, Hội nghị nhấn mạnh: “Nâng cao giác ngộ và bản
lĩnh chính trị, trình độ học vấn và nghề nghiệp, bồi dưỡng tác phong công
nghiệp, thực hiện “trí thức hóa CN”. Giải quyết việc làm, giảm tối đa tỷ lệ CN
thiếu việc làm và thất nghiệp. Thực hiện tốt pháp luật lao động, bảo hộ lao
động và việc chăm sóc, phục hồi sức khỏe cho CN. Sớm tổ chức thực hiện
Quỹ trợ cấp thất nghiệp. Xây dựng hoàn thiện và tổ chức thực hiện tốt các
chính sách bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế đối với CNVCLĐ; chính sách ưu
đãi nhà ở đối với CN bậc cao. Tăng cường đào tạo cán bộ lãnh đạo, cán bộ
quản lý và phát triển Đảng trong CN. Nghiên cứu việc giao cho tổ chức CĐ
giới thiệu những CN ưu tú để kết nạp vào Đảng” [8, tr.15].
Quan điểm “trí thức hóa CN” tiếp tục được nhắc tới tại Hội nghị lần
thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX cho thấy, Đảng ta xác định
rất rõ vai trò, vị trí tiên phong của GCCN trong sự nghiệp CNH,HĐH đất
nước. Bên cạnh đó, chức năng bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của
NLĐ tiếp tục được nhấn mạnh trong điều kiện mới.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng (4/2006) đã bổ sung,
phát triển đường lối xây dựng GCCN và tổ chức CĐVN trong điều kiện đẩy
mạnh toàn diện công cuộc đổi mới đất nước, phát triển nền KTTT định hướng
24
XHCN, đẩy mạnh CNH,HĐH đất nước, hội nhập quốc tế, sớm đưa nước ta
thoát khỏi tình trạng kém phát triển. Quan điểm của Đại hội là: “Đối với
GCCN, phát triển về số lượng, chất lượng và tổ chức; nâng cao giác ngộ và
bản lĩnh chính trị, trình độ học vấn và nghề nghiệp, xứng đáng là lực lượng đi
đầu trong sự nghiệp CNH,HĐH đất nước. Giải quyết việc làm, giảm tối đa số
CN thiếu việc làm và thất nghiệp. Thực hiện tốt chính sách và pháp luật về
lao động, tiền lương, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp,
bảo hộ lao động, chăm sóc, phục hồi sức khỏe đối với CN; chính sách ưu đãi
nhà ở đối với CN bậc cao. Xây dựng tổ chức, phát triển đoàn viên CĐ, nghiệp
đoàn đều khắp ở các cơ sở sản xuất kinh doanh thuộc các thành phần kinh tế.
Thường xuyên chăm lo đời sống vật chất và tinh thần, bảo vệ quyền lợi chính
đáng, hợp pháp của CN và những NLĐ, chú trọng CN làm việc ở các khu
công nghiệp và đô thị lớn. Chăm lo đào tạo cán bộ và kết nạp đảng viên từ
CN ưu tú” [6, tr.118].
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng đã phát triển, bổ sung
đường lối xây dựng tổ chức CĐ trên các vấn đề: xây dựng tổ chức, phát triển
đoàn viên CĐ, nghiệp đoàn đều khắp ở các cơ sở sản xuất kinh doanh thuộc
các thành phần kinh tế; chăm lo đời sống vật chất và tinh thần, bảo vệ quyền,
lợi ích chính đáng của CN, chú trọng CN làm việc ở các khu công nghiệp và
đô thị lớn là một hoạt động thường xuyên của tổ chức CĐVN.
Có thể thấy, đường lối, quan điểm chỉ đạo của Đảng tại Đại hội IX, X về
tổ chức CĐVN như đã trình bày ở trên thể hiện quá trình nhận thức, phát triển
tư duy lý luận và là quá trình hoàn thiện dần hệ thống, quan điểm, chủ trương
của Đảng về xây dựng GCCN và tổ chức CĐVN vững mạnh, phát huy được
vai trò của GCCN và tổ chức CĐ trong việc góp phần vào thực hiện thắng lợi
những mục tiêu kinh tế - xã hội mà Đảng và Nhà nước đã đề ra. Đồng thời,
cũng khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng đối với tổ chức CĐ trong tiến
trình lịch sử đất nước, nhằm đảm bảo cho hoạt động của CĐVN thực hiện
25
đúng theo đường lối mà Đảng đã đề ra.
1.1.2.2. Công đoàn Việt Nam cụ thể hóa chủ trương, đường lối của
Đảng
Tiếp thu những chủ trương của Đảng, CĐVN đã cụ thể hóa đường lối
của Đảng thành các mục tiêu và chương trình hành động. Ngay sau Đại hội
lần thứ IX của Đảng, ngày 24/7/2001, TLĐLĐVN đã ra Chương trình hành
động số 1192/TLĐ thực hiện Nghị quyết Đại hội IX ĐCSVN với mục tiêu là:
Xây dựng GCCN và tổ chức CĐ vững mạnh, kiên định mục tiêu độc lập dân
tộc và CNXH; thực hiện thắng lợi sự nghiệp CNH,HĐH đất nước vì dân giàu
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh; tổ chức tốt phong trào hành
động cách mạng trong CNVCLĐ nhằm thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội
IX của Đảng, góp phần phát triển kinh tế - xã hội, giải quyết việc làm và chăm
lo đời sống cho NLĐ.
Từ mục tiêu tổng quát, Chương trình hành động đã đề ra 4 nội dung,
nhiệm vụ cụ thể: Một là, tăng cường giáo dục chính trị tư tưởng cho
CNVCLĐ, ra sức xây dựng GCCN vững mạnh, kiên định con đường XHCN,
vững bước tiến vào thời kỳ CNH,HĐH đất nước. Hai là, tổ chức tuyên truyền
kết quả của Đại hội Đảng, tổ chức học tập, phổ biến, quán triệt những nội
dung cơ bản Nghị quyết Đại hội IX của Đảng đến đoàn viên CĐ và
CNVCLĐ. Ba là, tổ chức phong trào hành động cách mạng trong CNVCLĐ,
thực hiện thắng lợi các mục tiêu kinh tế - xã hội do Đại hội IX của Đảng đề
ra; tham gia với Nhà nước sắp xếp và củng cố các doanh nghiệp nhà nước để
hoạt động có hiệu quả, phát huy được vai trò chủ đạo của doanh nghiệp nhà
nước trong nền kinh tế quốc dân. Bốn là, chăm lo bảo vệ lợi ích hợp pháp,
chính đáng của CNVCLĐ. Phối hợp với chính quyền và cơ quan quản lý các
cấp chăm lo giải quyết việc làm, tăng thu nhập, xóa đói giảm nghèo, đảm bảo
đời sống và thực hiện quyền dân chủ của CNVCLĐ. Đẩy mạnh các hoạt động
26
xã hội, nhân đạo, tình nghĩa, khơi dậy tình tương thân, tương ái trong
CNVCLĐ để giúp nhau vượt qua khó khăn, ổn định cuộc sống. Các cấp CĐ
phối hợp chặt chẽ để bảo vệ lợi ích chính đáng của người lao động bị xâm
phạm.
Quán triệt quan điểm của Đảng, Đại hội lần thứ IX CĐVN (2003) với
tinh thần “Đoàn kết, Trí tuệ, Dân chủ, Đổi mới” đã đưa ra khẩu hiệu hành
động của CĐVN trong thời kỳ mới là: “Xây dựng GCCN và tổ chức CĐ vững
mạnh, chăm lo bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của CNVCLĐ,
góp phần tăng cường đại đoàn kết toàn dân tộc, thực hiện thắng lợi sự nghiệp
CNH,HĐH đất nước” [44, tr.600].
Từ việc xác định khẩu hiệu hành động, CĐVN đã nêu mục tiêu phấn đấu
từ năm 2003 đến năm 2008 là: “Xây dựng GCCN vững mạnh, xứng đáng là
lực lượng nòng cốt, đi đầu trong sự nghiệp CNH,HĐH đất nước và vai trò
lãnh đạo cách mạng trong thời kỳ đổi mới; củng cố và phát triển sâu rộng khối
đại đoàn kết toàn dân tộc trong Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, trên cơ sở liên
minh vững chắc giữa GCCN với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức; tổ
chức các phong trào thi đua yêu nước sôi nổi, rộng khắp, thiết thực và có
hiệu quả trong CNVCLĐ; đẩy mạnh phát triển đoàn viên và tổ chức CĐ
trong các thành phần kinh tế; nâng cao năng lực và trình độ cán bộ CĐ; đổi
mới nội dung và phương thức hoạt động, xây dựng tổ chức CĐ vững mạnh;
tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước trong sạch, vững mạnh; mở rộng và
tăng cường hợp tác quốc tế, góp phần thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ
phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt
Nam XHCN” [44, tr. 600].
Năm nhiệm vụ chủ yếu của CĐVN từ năm 2003 đến năm 2008 được xác
định cụ thể là: Một là, tuyên truyền giáo dục, góp phần xây dựng GCCN vững
mạnh, xứng đáng là lực lượng đi đầu trong sự nghiệp CNH,HĐH đất nước và
27
vai trò lãnh đạo cách mạng trong thời kỳ mới. Tích cực tham gia xây dựng
Đảng, xây dựng Nhà nước. Hai là, chủ động tham gia xây dựng, tổ chức thực
hiện việc kiểm tra, giám sát có hiệu quả việc thực hiện pháp luật, chế độ,
chính sách có liên quan trực tiếp đến CNVCLĐ và Quy chế dân chủ ở cơ sở;
đẩy mạnh công tác chăm lo đời sống, làm tốt chức năng đại diện và bảo vệ
quyền, lợi ích, hợp pháp chính đáng của CNVCLĐ. Ba là, tổ chức sâu rộng các
phong trào thi đua yêu nước, trọng tâm là phong trào lao động giỏi, lao động
sáng tạo trong CNVCLĐ, góp phần hoàn thành thắng lợi các mục tiêu kinh tế -
xã hội của đất nước. Bốn là, phát triển đoàn viên và xây dựng tổ chức CĐ
vững mạnh; đổi mới nội dung và phương pháp hoạt động của tổ chức CĐ cho
phù hợp với từng loại hình cơ sở, từng cấp CĐ; nâng cao năng lực và trình độ
cán bộ CĐ. Phấn đấu trong 5 năm (2003 - 2008) kết nạp thêm ít nhất được 1
triệu đoàn viên; đến năm 2008, thu hút hầu hết công chức, viên chức cơ quan
hành chính sự nghiệp vào tổ chức CĐ; ít nhất có 95% CNVCLĐ trong doanh
nghiệp nhà nước và 60% CNVCLĐ các doanh nghiệp thuộc các thành phần
kinh tế khác có đủ điều kiện thành lập CĐ và gia nhập CĐ. Năm là, mở rộng
hoạt động đối ngoại của CĐVN.
Để thực hiện được những mục tiêu nêu trên, CĐVN đề ra các biện pháp
thực hiện: Duy trì thường xuyên công tác tuyên truyền, phổ biến các nghị
quyết, đường lối, chính sách và chiến lược, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã
hội, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế của Đảng, Nhà nước và về CĐVN
trong CNVCLĐ. Phát động và tổ chức sâu rộng trong CNVCLĐ phong trào
học tập, nâng cao trình độ học vấn, chuyên môn, nghiệp vụ, kỹ năng nghề
nghiệp. Từng bước hiện đại hóa, nâng cao chất lượng hoạt động của các
phương tiện thông tin đại chúng của CĐ. Tập trung tham gia xây dựng các
chính sách phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng pháp luật và tăng cường công
tác kiểm tra, giám sát việc thi hành pháp luật. Đẩy mạnh các phong trào thi
28
đua yêu nước, phát huy nội lực trong CNVCLĐ. Thường xuyên quan tâm
công tác phát triển đoàn viên và thành lập các CĐCS, xây dựng CĐCS vững
mạnh trong các thành phần kinh tế, đặc biệt chú trọng đối với khu vực kinh tế
ngoài quốc doanh, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Có thể thấy, Đại hội lần thứ IX của CĐVN đã có bước tiến mới trong nhận
thức ở một số vấn đề như: nhấn mạnh vị trí, vai trò của việc xây dựng GCCN và
tổ chức CĐ vững mạnh, xứng đáng là lực lượng nòng cốt đi đầu trong sự nghiệp
CNH,HĐH đất nước; đổi mới nội dung và phương thức hoạt động của tổ chức
CĐ cho phù hợp với từng loại hình cơ sở, từng cấp CĐ; nâng cao năng lực và
trình độ cán bộ CĐ trong tình hình mới để mở rộng, tập hợp đông đảo người lao
động tham gia vào tổ chức CĐ, xây dựng tổ chức CĐ vững mạnh, góp phần thực
hiện thắng lợi các mục tiêu kinh tế - xã hội của đất nước.
Việc đề ra mục tiêu, nhiệm vụ và các giải pháp cụ thể cho hoạt động của
CĐVN trong tình hình mới, chính là cơ sở cho các hoạt động của CĐVN và là
tiền đề để CĐVN có những điều chỉnh phù hợp vào những năm sau.
1.2. Kết quả thực hiện chủ trƣơng của Đảng lãnh đạo Công đoàn
Việt Nam (2003 - 2007)
Những năm đầu thế kỷ XXI, cách mạng nước ta bước vào một thời kỳ
mới, đẩy mạnh CNH,HĐH đất nước, hơn lúc nào hết GCCN và tổ chức
CĐVN cần tiếp tục phát huy vai trò tiên phong của mình trong giai đoạn mới.
Quán triệt đường lối lãnh đạo CĐ của Đảng, từ năm 2003 đến năm 2007 hoạt
động của tổ chức CĐVN đã được đổi mới, chủ động, tích cực, đem lại kết quả
tốt.
1.2.1. Tuyên truyền, vận động, giáo dục công nhân viên chức lao động
Để cụ thể hóa chủ trương của Đảng về hoạt động của CĐ, CĐVN tiến
hành thường xuyên công tác tuyên truyền, giáo dục với nhiều nội dung, hình
thức đa dạng, góp phần nâng cao nhận thức chính trị, trình độ văn hóa,
29
chuyên môn nghiệp vụ, tay nghề cho CNVCLĐ, góp phần xây dựng GCCN
ngày càng vững mạnh, giữ vai trò nòng cốt trong khối liên minh CN, nông
dân, trí thức và khối đại đoàn kết toàn dân tộc, xứng đáng là giai cấp lãnh đạo
cách mạng. Từ năm 2003 đến năm 2007, các cấp CĐ đã bám sát nhiệm vụ và
các sự kiện chính trị trọng đại của đất nước, chủ động phối hợp với các ngành,
đoàn thể hữu quan, đẩy mạnh công tác tuyên truyền trong CNVCLĐ về
đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và Nghị quyết của
CĐ với nhiều hình thức đa dạng, phong phú, cụ thể. Công tác tuyên truyền,
giáo dục chính trị, tư tưởng từng bước được đổi mới. Điển hình là các cuộc thi
do TLĐLĐVN phát động như: tìm hiểu CN, CĐVN; tìm hiểu đường lối đổi
mới và thành tựu đổi mới của ĐCSVN; sáng tác ca khúc về CN, CĐVN; tổ
chức sân chơi Giờ thứ 9, v.v. đã thu hút hàng triệu lượt cán bộ, CNVCLĐ và
đoàn viên CĐ tham gia. Đội ngũ báo cáo viên của CĐ với 6.318 người, đã
thực hiện tốt nhiệm vụ tuyên truyền đến CNVCLĐ ở cơ sở.
Để đưa nghị quyết của Đảng vào cuộc sống, tạo thành phong trào cách
mạng trong CNVCLĐ, ngay sau Đại hội lần thứ IX của Đảng, 100% các cấp
CĐ từ Trung ương đến cơ sở đã tổ chức tuyên truyền, học tập Nghị quyết và
xây dựng, triển khai Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết đến 80%
cán bộ CĐ và 30% CNVCLĐ [69, tr.43].
Công tác tuyên truyền, phổ biến nội dung Nghị quyết Đại hội lần thứ IX
CĐVN cũng được triển khai sâu rộng. Đoàn Chủ tịch Tổng Liên đoàn đã chỉ
đạo nghiên cứu biên soạn bẩy chuyên đề lớn, tổ chức các lớp quán triệt Nghị
quyết Đại hội cho gần 800 cán bộ chủ chốt trong toàn bộ hệ thống CĐ.
Trường Đại học CĐ đã tổ chức 1 lớp tập huấn cho cán bộ chủ chốt mới
chuyển sang làm công tác CĐ; 16 lớp bồi dưỡng nghiệp vụ CĐ cho 1.468 cán
bộ [71, tr.68]. Nhiều Liên đoàn Lao động tỉnh, thành phố, CĐ ngành Trung
ương tổ chức học tập, triển khai thực hiện Nghị quyết tới cán bộ CĐ các cấp,
30
biên soạn tài liệu phù hợp với đặc điểm của địa phương, ngành để phổ biến
đến cơ sở. Điển hình như Liên đoàn Lao động thành phố Hồ Chí Minh, Hải
Phòng, Liên đoàn Lao động các tỉnh Bình Dương, Đồng Nai, Thái Bình, đã
tích cực đổi mới, đa dạng hình thức tuyên truyền như phát tờ gấp sau giờ tan
ca tại cổng nhà máy, tuyên truyền bằng loa phóng thanh trong giờ ăn, tổ chức
sinh hoạt văn hóa văn nghệ kết hợp với nội dung tuyên truyền tại khu nhà trọ
của CN, v.v..
Thực hiện Chỉ thị 32-CT/TW ngày 9/12/2003 của Ban Bí thư Trung
ương Đảng về “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong công tác phổ biến,
giáo dục pháp luật, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của cán bộ, nhân
dân”, việc tuyên truyền, phổ biến chính sách, pháp luật trong CNVCLĐ được
các cấp CĐ quan tâm, giúp CNVCLĐ và người sử dụng lao động nhận thức
rõ hơn về chính sách, pháp luật của Nhà nước. Ngày 27/5/2004, TLĐLĐVN
đã ban hành Quyết định số 786-QĐ/TLĐ về việc “Tổ chức hoạt động tư vấn
pháp luật của CĐ” và ngày 28/5/2004, ban hành Chỉ thị 02-CT/TLĐ “Đẩy
mạnh công tác tư vấn pháp luật của CĐ”, trong đó xác định rõ: Hoạt động tư
vấn pháp luật là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của CĐ các cấp nhằm
góp phần thực hiện tốt chức năng bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp chính đáng
của đoàn viên CĐ và NLĐ. Tiếp đó, ngày 3/4/2006, TLĐLĐVN ra Nghị
quyết số 04-NQ/ĐCT về việc “Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục của
tổ chức CĐ trong tình hình mới”. Nghị quyết chỉ rõ: Để đáp ứng yêu cầu của
nền kinh tế thị trường và thời kỳ chủ động hội nhập quốc tế với những thời
cơ, thách thức đan xen, việc đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục cho
CNVCLĐ là nhiệm vụ quan trọng và bức thiết của tổ chức CĐ. Các hình thức
phổ biến, tuyên truyền, giáo dục được sử dụng rất phong phú, đa dạng như:
mít tinh, tọa đàm, hội thảo chuyên đề, tổ chức cuộc thi tuyên truyền viên giỏi
về tư tưởng Hồ Chí Minh, tìm hiểu về GCCN và tổ chức CĐ; phối hợp với
31
các phương tiện thông tin đại chúng đăng tin, bài phản ánh về phong trào thi
đua của CNVCLĐ, về vai trò của tổ chức CĐVN trong thời kỳ đổi mới; trao
Huy chương "Vì sự nghiệp xây dựng tổ chức CĐ” cho cán bộ Đảng, chính
quyền, các cá nhân có nhiều đóng góp vào sự nghiệp xây dựng và phát triển tổ
chức CĐVN. Tính đến năm 2007, công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục
pháp luật cho CNVCLĐ đã đạt được những kết quả đáng khích lệ. Có 75,6%
CĐCS thực hiện và 78,4% CN, lao động được học 5 bài chính trị cơ bản; in và
phát hành hơn 2,2 triệu ấn phẩm, tổ chức trên 260 ngàn cuộc học tập, tuyên
truyền, tư vấn cho hơn 100 triệu lượt CNVCLĐ về pháp luật [39, tr.9].
Thực hiện chủ trương của Đảng về việc nâng cao chất lượng GCCN đáp
ứng yêu cầu của sự nghiệp cách mạng trong giai đoạn mới, công tác tuyên
truyền, giáo dục nâng cao trình độ về chuyên môn, nghiệp vụ, quản lý, về lý
luận chính trị, tin học, ngoại ngữ cho CNVCLĐ được các cấp CĐ chú trọng
quan tâm. Ngày 6/1/2005, Ban Chấp hành TLĐLĐVN đã ban hành Nghị
quyết số 4b-NQ/BCH về “CĐ với nhiệm vụ nâng cao trình độ học vấn, nghề
nghiệp của CNVCLĐ đáp ứng yêu cầu sự nghiệp CNH,HĐH đất nước". Để
triển khai Nghị quyết, ngày 27/5/2005 TLĐLĐVN đã ký Nghị quyết liên tịch
số 02/2005/NQLT-TLĐLĐVN-BGD&ĐT với Bộ Giáo dục và đào tạo “Về
việc phối hợp hoạt động nâng cao trình độ học vấn, kỹ năng nghề nghiệp
trong CNVCLĐ giai đoạn 2005 - 2010”. Mục đích của Nghị quyết liên tịch là
triển khai các hoạt động đẩy mạnh phong trào học tập, nâng cao trình độ học
vấn, kỹ năng nghề nghiệp của CNVCLĐ; trong đó chú trọng nhất là chương
trình phổ cập trung học cơ sở trong CN, lao động, phấn đấu đến năm 2010 về
cơ bản, đội ngũ CNVCLĐ đạt trình độ học vấn từ trung học cơ sở trở lên.
Hàng năm, CĐ nhiều ngành, địa phương, cơ sở đã tiến hành khảo sát trình độ
của CNVCLĐ; phối hợp với các ngành chức năng, người sử dụng lao động tổ
chức phong trào tự học, mở lớp học bổ túc văn hóa, học nghề, học ngoại ngữ,
32
tin học, thi nâng bậc, thi thợ giỏi cho hàng trăm ngàn CN, lao động. Tính đến
năm 2007, tổ chức CĐVN đã có hệ thống gồm 13 trường dạy nghề và 38
trung tâm giới thiệu việc làm và 01 trung tâm dạy nghề cao đẳng đã tư vấn,
giới thiệu việc làm, dạy nghề cho hơn 76.000 lao động [42, tr.648]. Kết quả
tuy chưa cao nhưng thể hiện được trách nhiệm của tổ chức CĐ trước yêu cầu
nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đáp ứng yêu cầu CNH,HĐH đất nước và
hội nhập quốc tế.
Thực hiện Chỉ thị 42-CT/TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng về
“Nâng cao chất lượng toàn diện của hoạt động xuất bản”, TLĐLĐVN đã triển
khai thực hiện nâng cao chất lượng toàn diện cho gần 100 cán bộ CĐ làm
công tác báo chí, xuất bản. Trang thông tin điện tử CĐ trên Internet của
TLĐLĐVN và một số địa phương, ngành đã phát huy tác dụng trong việc
tuyên truyền đưa đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và
của tổ chức CĐ đến với đoàn viên, NLĐ. Công tác tuyên truyền phát triển
đoàn viên CĐCS trong khu vực ngoài nhà nước và doanh nghiệp có vốn đầu
tư nước ngoài được các cấp CĐ tập trung chỉ đạo thực hiện có kết quả bước
đầu. Hầu hết các Liên đoàn Lao động tỉnh, thành phố đã xây dựng Chuyên
mục Công đoàn trên đài phát thanh, truyền hình, trên báo của địa phương,
trong đó có nhiều đơn vị đã đổi mới nội dung chuyên mục theo hướng tuyên
truyền chuyên sâu từng chủ đề và tổ chức các cuộc thi về CNVCLĐ, CĐ…,
đã thu hút được sự quan tâm chú ý của NLĐ. Điển hình như Liên đoàn Lao
động các tỉnh Quảng Ninh, Bình Dương, các thành phố Hà Nội, Hồ Chí Minh.
Hoạt động của các báo, tạp chí, bản tin, nhà xuất bản của CĐ, chương trình
truyền hình và phát thanh “Lao động và CĐ”, đảm bảo đúng tôn chỉ, mục
đích, định hướng chính trị, thực sự là diễn đàn của NLĐ, là công cụ hữu hiệu
truyền tải đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, chủ
trương công tác của CĐ đến CNVCLĐ và xã hội, góp phần định hướng dư
33
luận xã hội tạo sự đồng thuận về chính trị trong CNVCLĐ và nhân dân. Báo
chí của CĐ đã có nhiều cố gắng trong việc tổ chức, trao đổi kinh nghiệm hoạt
động, giải đáp pháp luật, kinh nghiệm giải quyết tranh chấp lao động, bảo vệ
NLĐ, đồng thời phát hiện, đưa ra công luận nhiều vụ việc tham nhũng, lãng
phí, tiêu cực; khởi xướng và thực hiện có hiệu quả các hoạt động tình nghĩa,
nhân đạo, từ thiện, biểu dương cán bộ CNVCLĐ và doanh nhân điển hình tiên
tiến được Đảng, Nhà nước, các doanh nghiệp, CNVCLĐ, đoàn viên CĐ và dư
luận xã hội đánh giá cao.
Thực hiện Chỉ thị số 22-CT/TW ngày 24/2/2003 của Ban Bí thư Trung
ương Đảng về “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác bảo đảm
trật tự an toàn giao thông”, ngày 10/4/2003, TLĐLĐVN đã ký Nghị quyết
Liên tịch số 01/2003/NQLT/TLĐ-UBATGTQG về “Vận động CNVCLĐ cả
nước tham gia giữ gìn trật tự an toàn giao thông”, tổ chức tuyên truyền “Tuần
lễ an toàn giao thông đường bộ toàn cầu” và “Hội thi tuyên truyền viên giỏi”
ở các ngành, địa phương. Ngày 1/8/2007, TLĐLĐVN đã ban hành Chỉ thị số
03/CT-TLĐ chỉ đạo các cấp CĐ đẩy mạnh các biện pháp tuyên truyền phổ
biến, giáo dục Luật Giao thông đường bộ trong CNVCLĐ. Những hoạt động
tuyên truyền trên của CĐ đã giúp cho đông đảo cán bộ, CNVCLĐ hiểu rõ hơn
về Luật Giao thông đường bộ và các văn bản liên quan, góp phần kiềm chế tai
nạn và ùn tắc giao thông, giảm thiểu tai nạn giao thông trong cả nước.
Thấu suốt chủ trương của Đảng về việc nâng cao hơn nữa chất lượng
hoạt động của tổ chức CĐ, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ mới của đất nước, công
tác nghiên cứu khoa học trong hệ thống CĐ được quan tâm chỉ đạo, nhất là
nghiên cứu tổ chức và nội dung, phương pháp hoạt động của CĐ trong cơ chế
thị trường định hướng XHCN; tổ chức và hoạt động CĐ khu vực kinh tế
ngoài quốc doanh, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài; các chính sách,
chế độ liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của CNVCLĐ; về môi trường an
34
toàn vệ sinh lao động; tổ chức các cuộc hội thảo khoa học, tọa đàm, báo cáo
chuyên đề, kinh nghiệm lao động giỏi, sáng tạo v.v.. Ngày 5/10/2004, Đoàn
Chủ tịch TLĐLĐVN đã ban hành Nghị quyết số 02-NQ/TLĐ về “Đẩy mạnh
nghiên cứu lý luận và hoạt động khoa học trong tổ chức CĐ”. Đây là Nghị
quyết quan trọng nhằm cụ thể hóa chủ trương của Đảng, Nghị quyết Đại hội
lần thứ IX CĐVN về công tác nghiên cứu lý luận và hoạt động khoa học trong
tổ chức CĐ thời kỳ CNH,HĐH đất nước. Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và
hoạt động khoa học, tổ chức CĐ đã tham mưu, đề xuất nhiều ý kiến xác đáng
với Đảng và Nhà nước để có chủ trương, chính sách phù hợp xây dựng GCCN
và tổ chức CĐ. Đặc biệt, thực hiện chủ trương của Ban Bí thư Trung ương
Đảng về xây dựng GCCN trong thời kỳ đẩy mạnh CNH,HĐH đất nước,
TLĐLĐVN đã tổ chức điều tra, khảo sát tình hình CNVCLĐ để tham gia vào
việc xây dựng Đề án về xây dựng GCCN trong thời kỳ đẩy mạnh CNH,HĐH
đất nước trình Hội nghị Trung ương 6 (khóa X) của Đảng.
Công tác tham gia xây dựng Đảng và hệ thống chính trị tập trung vào
việc vận động CNVCLĐ, đoàn viên CĐ tham gia đóng góp ý kiến xây dựng
văn kiện Đại hội Đảng các cấp và Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ
X, tham gia cải cách hành chính, đấu tranh chống tham nhũng, quan liêu, lãng
phí, gây phiền hà, sách nhiễu trong nhân dân. Công tác phát triển Đảng trong
các doanh nghiệp được đẩy mạnh. Trong 5 năm (2003 - 2007) đã có hàng vạn
CNVCLĐ ưu tú do CĐ giới thiệu được kết nạp vào Đảng. Nhiều cán bộ được
tổ chức CĐ giới thiệu tham gia vào cấp ủy Đảng và bộ máy lãnh đạo chính
quyền các cấp.
Công tác tuyên truyền, vận động CN, NLĐ tích cực tham gia các phong
trào thi đua yêu nước góp phần phát triển kinh tế - xã hội và xây dựng GCCN
lớn mạnh luôn gắn với nhiệm vụ chính trị với nhiều hình thức đa dạng phong
phú, được nhiều CNVCLĐ ở các ngành nghề, địa phương, cơ sở trong mọi
thành phần kinh tế tham gia tạo thành các phong trào hành động cách mạng
35
sôi nổi, rộng khắp như các phong trào “Lao động giỏi”, “Lao động sáng tạo”,
“Giỏi việc nước, đảm việc nhà”, “Thi đua liên kết phục vụ CNH,HĐH nông
nghiệp và phát triển nông thôn”, “Xanh, sạch, đẹp, đảm bảo an toàn, vệ sinh
lao động”… Chương trình “Trí tuệ Việt Nam”, “Vinh quang Việt Nam” nhằm
tôn vinh thành tích của các tập thể, cá nhân điển hình tiên tiến xuất sắc, được
các ngành, địa phương và dư luận xã hội đánh giá cao. Phong trào thi đua
“Giỏi việc nước, đảm việc nhà” gắn liền với phong trào “Phụ nữ tích cực học
tập, lao động sáng tạo, xây dựng gia đình hành phúc” trong CNVCLĐ nữ đã
được các cấp CĐ cụ thể hóa cho phù hợp với từng loại hình, thu hút đông đảo
lao động nữ tham gia. Các phong trào thi đua yêu nước đã phát huy được các
nguồn lực, sức sáng tạo và ý chí tự lực, tự cường của đông đào CNVCLĐ. Đó
là một trong những yếu tố quan trọng giúp NLĐ, doanh nghiệp vượt qua được
khó khăn trong cơ chế thị trường và phát huy được tính năng động, sáng tạo,
trình độ, năng lực, trí tuệ của mỗi người lao động để rèn luyện, cống hiến, làm
giàu cho quê hương, đất nước và cho bản thân.
1.2.2. Bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của công nhân viên
chức lao động
Quán triệt chủ trương của Đảng về xây dựng GCCN và CĐVN vững
mạnh trong thời kỳ đẩy mạnh CNH,HĐH và hội nhập quốc tế, công tác bảo
vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng CNVCLĐ của các cấp CĐ được quan
tâm thực hiện và có nhiều chuyển biến tích cực.
1.2.2.1. Công đoàn tham gia quản lý kinh tế - xã hội, xây dựng dự án
luật, và các chính sách
Từ năm 2003 đến năm 2007, bằng nhiều hình thức như hội nghị, hội
thảo, lấy ý kiến trực tiếp của NLĐ từ cơ sở, tổ chức CĐ đã phát huy được trí
tuệ của đông đảo cán bộ, CNVCLĐ tích cực, chủ động và có trách nhiệm
trong việc tham gia với Chính phủ, các bộ, ngành liên quan trong việc xây
dựng, bổ sung, sửa đổi hàng trăm dự án pháp luật, chính sách liên quan đến
36
CNVCLĐ và CĐ, đảm bảo hài hòa lợi ích của Nhà nước, doanh nghiệp và
NLĐ như Luật Phá sản doanh nghiệp, Bộ Luật dân sự, Luật Phòng chống
tham nhũng, Luật Thực hành tiết kiệm chống lãng phí, Luật Bảo hiểm xã hội,
Luật Doanh nghiệp mới, Luật Đầu tư mới, Pháp lệnh về đình công và giải
quyết đình công, các văn bản hướng dẫn thi hành chính sách tiền lương mới…
Đặc biệt là kiến nghị của Đoàn Chủ tịch TLĐLĐVN không ban hành Pháp
lệnh về đình công và giải quyết đình công mà sửa đổi, bổ sung chương XIV
của Bộ Luật lao động về đình công đã được chấp thuận.
Để phát huy vai trò của tổ chức CĐ tham gia xây dựng nhà nước pháp
quyền XHCN theo đường lối đổi mới của ĐCSVN, ngày 7/7/2005, Ban Chấp
hành TLĐLĐVN đã ra Nghị quyết số 5a-NQ/BCH về “Đẩy mạnh công tác
pháp luật của CĐ trong tình hình mới”. Nghị quyết đã đề ra mục tiêu: “Phải
nâng cao nhận thức, hiểu biết pháp luật cho CNVCLĐ, cán bộ đoàn viên CĐ,
giúp họ thực hiện đúng các quyền và nghĩa vụ theo quy định của pháp luật;
biết tự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình khi bị xâm hại; nâng cao
năng lực và hiệu quả hoạt động pháp luật của CĐ trong việc tham gia xây
dựng pháp luật, chính sách đối với Nhà nước, trong kiểm tra, giám sát việc
thực hiện pháp luật, chính sách của người sử dụng lao động và các cơ quan
nhà nước. Tăng cường vai trò đại diện, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp
chính đáng của CNVCLĐ. Góp phần xây dựng quan hệ lao động hài hòa, ổn
định, phát triển”[33, tr.1]. Nghị quyết còn nêu rõ: Trên cơ sở góp phần tăng
trưởng kinh tế - xã hội, CĐ cần nâng cao vị thế của mình trong nền KTTT
định hướng XHCN; tăng cường biện pháp chỉ đạo việc ký kết thỏa ước lao
động tập thể và thành lập Hội đồng hòa giải lao động cơ sở ở các doanh
nghiệp có tổ chức CĐ hoặc Ban Chấp hành CĐ lâm thời. Ngoài ra, cần thực
hiện tốt Quy chế dân chủ ở cơ sở; đẩy mạnh công tác kiểm tra giám sát việc
thi hành pháp luật, chế độ chính sách với NLĐ; đồng thời chủ động thực hiện
37
quyền kiểm tra theo quy định của pháp luật.
Thực hiện chủ trương của Đảng, CĐ các cấp đã tích cực, chủ động trong
quá trình sắp xếp, đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp
nhà nước; tham gia sắp xếp giải quyết chế độ cho lao động dôi dư, đảm bảo
việc làm và các quyền, lợi ích khác cho hàng trăm ngàn lao động trong quá
trình sắp xếp, cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước thông qua hình thức cử đại
diện tham gia Ban Đổi mới doanh nghiệp ở cấp mình, đồng thời tuyên truyền
cho CNVCLĐ hiểu rõ mục đích, yêu cầu về chủ trương, chính sách của Đảng
và Nhà nước, giải quyết những vướng mắc, tạo sự đồng thuận của NLĐ ở cơ
sở. Năm 2003, CĐ đã tham gia vào quá trình đổi mới và sắp xếp 615 doanh
nghiệp nhà nước, giải quyết chế độ cho 14.794 lao động dôi dư, bình quân
mỗi lao động dôi dư được nhận trợ cấp 27 triệu đồng [24, tr.8]. Năm 2004 là
615 doanh nghiệp, xét trợ cấp cho hơn 30.000 nghìn lao động dôi dư với số
tiền 892,4 tỉ đồng [26, tr.8]. Năm 2005 là 754 doanh nghiệp và giải quyết
đúng chế độ, chính sách, đảm bảo các quyền lợi cho gần 121.000 lao động dôi
dư [35, tr.6].
Ngày 26/6/2007, Chính phủ ban hành Nghị định số 110/2007/NĐ-CP về
“Chính sách đối với người lao động dôi dư do sắp xếp công ty nhà nước”.
Thực hiện Nghị định trên, căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ của CĐ được quy
định tại Luật CĐ và Điều lệ CĐVN, ngày 25/10/2007 TLĐLĐVN đã ban
hành Hướng dẫn số 1860/LTĐ về “CĐ với việc thực hiện Nghị định số
110/2007/NĐ-CP ngày 26/6/2007 của Chính phủ về chính sách đối với người
lao động dôi dư do sắp xếp công ty nhà nước”. Văn bản Hướng dẫn còn đề ra
nhiệm vụ của các cấp CĐ trong việc thực hiện Nghị định số 110/2007/NĐ-
CP, trong đó tập trung vào một số nội dung trọng điểm như: phối hợp với
Giám đốc công ty tổ chức tuyên truyền, phổ biến chính sách đến NLĐ; tham
gia xây dựng phương án sắp xếp lao động; giám sát việc xây dựng phương án
38
sắp xếp lao động và thực hiện chính sách đối với lao động dôi dư.
1.2.2.2. Công đoàn kiểm tra, giám sát thực hiện pháp luật, chế độ,
chính sách và Quy chế dân chủ ở cơ sở
Công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện Luật CĐ, Luật Lao động và
chính sách, chế độ được các cấp CĐ phối hợp với các cơ quan liên quan thực
hiện thường xuyên hàng năm. Qua kiểm tra cho thấy, tình trạng vi phạm tập
trung chủ yếu vào một số vấn đề như: về thời gian làm việc, trả lương chậm,
không xây dựng thang bảng lương, không thực hiện đầy đủ chế độ bảo hiểm y
tế, bảo hiểm xã hội, không ký hợp đồng lao động, không ký thỏa ước lao động
tập thể, không trích nộp phí CĐ, không thực hiện đầy đủ chính sách, chế độ đối
với lao động nữ. Tình trạng vi phạm này phổ biến diễn ra vẫn là ở khu vực
doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Cụ thể như năm 2003, CĐVN đã tiến hành
kiểm tra ở 3.138 doanh nghiệp ngoài quốc doanh, với 166.532 lao động, ký hợp
đồng lao động chỉ đạt 74% trong số hợp đồng không xác định thời hạn là
23,9%, từ 12 đến 36 tháng là 35,5%, dưới 12 tháng 40,2% và ký thỏa ước lao
động tập thể chỉ đạt khoảng 10%. Trong khi đó ở doanh nghiệp nhà nước ký
hợp đồng lao động đạt 99%, ký thỏa ước lao động tập thể đạt 84%; doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ký hợp đồng lao động đạt 79%, ký thỏa ước
lao động tập thể đạt 26% [26, tr.8]. Năm 2005, tỷ lệ doanh nghiệp có thỏa ước
lao động tập thể ở doanh nghiệp nhà nước là 96%, doanh nghiệp tư nhân là
25%, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài 40%. Tỷ lệ NLĐ có hợp đồng ở
doanh nghiệp nhà nước là 96%, doanh nghiệp tư nhân là 45%, doanh nghiệp
có vốn đầu tư nước ngoài là 65% [33, tr.6,7]. Qua thực hiện kiểm tra, giám
sát, ngày 31/12/2007 TLĐLĐVN đã ra Quyết định số 1693-QĐ/TLĐ về “Việc
thực hiện quyền kiểm tra, giám sát của CĐ”, tạo cơ sở để cho cán bộ CĐ thực
hiện quyền của mình tại các đơn vị, doanh nghiệp.
Việc thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở theo Chỉ thị số 30-CT/TW ngày
39
18/2/1998 của Bộ Chính trị và Nghị quyết số 4a-NQ/BCH ngày 6/1/2005 của
Ban Chấp hành TLĐLĐVN được các cấp CĐ tổ chức triển khai thực hiện tốt.
CĐ các cấp đã chủ động phối hợp với chính quyền và chuyên môn cùng cấp
để chỉ đạo việc xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở, tổ chức Đại
hội CN, viên chức trong doanh nghiệp nhà nước và Hội nghị cán bộ, công
chức trong cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp. Nội dung Đại hội, Hội nghị
đã đề cập đến những vấn đề thiết thực có liên quan trực tiếp đến NLĐ và đóng
góp cho hoạt động của đơn vị, tạo không khí dân chủ và cởi mở trong quan hệ
lao động. Nhiều doanh nghiệp nhà nước đã chuyển thành công ty cổ phần vẫn
duy trì việc xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở, sửa đổi, bổ sung
một số điểm trong quy chế cho phù hợp với mô hình quản lý mới. Năm 2003,
tỷ lệ mở Đại hội CN, viên chức ở các đơn vị thuộc ngành Trung ương quản lý
khoảng 93%, các đơn vị thuộc địa phương quản lý khoảng 86%; tỷ lệ mở Hội
nghị cán bộ, công chức ở các đơn vị thuộc ngành Trung ương quản lý khoảng
83%, các đơn vị thuộc địa phương quản lý đạt 72% [26, tr.9]. Năm 2004, tỷ lệ
mở Đại hội CN, viên chức ở doanh nghiệp nhà nước đạt 91% và Hội nghị cán
bộ, công chức ở các cơ quan, đơn vị hành chính sự nghiệp đạt 92% [27, tr.8].
Năm 2005, đã có trên 93% doanh nghiệp nhà nước mở Đại hội CN, viên
chức, trên 95% cơ quan mở Hội nghị cán bộ, công chức [35, tr.8 ]. Năm 2007,
tình hình thực hiện mở Hội nghị cán bộ, công chức và Đại hội CN, viên chức
có những tiến bộ đáng kể. Hội nghị công chức đạt gần 98%, có những tỉnh,
thành phố đạt 100%. Đại hội CN, viên chức trong doanh nghiệp nhà nước
cũng có những chuyển biến tốt hơn, tỷ lệ đạt trên 94% [ 41, tr.7].
Các cấp CĐ đã có nhiều hoạt động thiết thực nhằm phát huy quyền dân
chủ của NLĐ như: tuyên truyền, vận động cán bộ CNVCLĐ, người sử dụng
lao động trong các thành phần kinh tế nhận thức đúng đắn chủ trương của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và Nghị quyết của Ban Chấp hành
40
TLĐLĐVN về thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở. CĐ thực sự là thủ lĩnh,
người đại diện của NLĐ trong việc thực hiện dân chủ ở cơ quan, đơn vị,
doanh nghiệp; chủ động nghiên cứu tham gia với các cấp chính quyền xây
dựng mới hoặc hoàn thiện quy chế thực hiện dân chủ đã có; từng bước kiện
toàn Ban Thanh tra nhân dân ở các đơn vị, Hội đồng hòa giải lao động cơ sở ở
doanh nghiệp, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, kiến nghị giải quyết
kịp thời những vấn đề liên quan đến NLĐ; chủ động xây dựng quy chế phối
hợp giữa Hội đồng quản trị, người sử dụng lao động và tổ chức CĐ.
Việc giải quyết và tham gia giải quyết các đơn thư khiếu nại, tố cáo của
CNVCLĐ đạt kết quả tốt. Mỗi năm, các cấp CĐ đã tiếp hơn 5.000 lượt người
đến khiếu nại, tố cáo, tiếp nhận hơn 4.000 đơn thư khiếu nại, tố cáo[44,
tr.648]. Đặc biệt, CĐ đã tham gia giải quyết có hiệu quả nhiều tranh chấp lao
động dẫn đến ngừng việc tập thể và đình công tự phát, góp phần bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của NLĐ và xây dựng quan hệ lao động
hài hòa, lành mạnh tại doanh nghiệp, đảm bảo an ninh chính trị và trật tự an
toàn xã hội.
TLĐLĐVN đã phối hợp với Bộ Lao động Thương binh và Xã hội tổ
chức tập huấn cho đội ngũ báo cáo viên các cấp Liên đoàn Lao động tỉnh, CĐ
ngành Trung ương về xây dựng hệ thống thang bảng lương, quy chế trả
lương, trả thưởng trong các doanh nghiệp khu vực ngoài nhà nước và doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài; bàn biện pháp phối hợp triển khai thực hiện
Thông báo số 134-TB/VPCP của Văn phòng Chính phủ về tăng cường công
tác quản lý nhà nước về lao động và ngăn ngừa các cuộc đình công xảy ra.
1.2.2.3. Công đoàn tham gia các hoạt động xã hội chăm lo đời sống
cho công nhân viên chức lao động
Các hoạt động xã hội của CĐ từ năm 2003 đến năm 2007 được triển khai
thường xuyên và sâu rộng trong mọi đối tượng CNVCLĐ với nhiều nội dung,
41
hình thức, đa dạng, phong phú, nhất là các cuộc vận động xã hội, nhân đạo, từ
thiện. Điển hình là hoạt động của “Quỹ tấm lòng vàng lao động”, “Mái ấm
CĐ”, “Vì nữ CN lao động nghèo”, “Bảo trợ trẻ em CĐVN”, “Chương trình
góp Tết với người nghèo” và “Giúp đỡ các trường hợp tại nạn lao động và
bệnh nghề nghiệp có nhiều khó khăn”. Cụ thể như năm 2003, các hoạt động
xã hội của CĐ phát động đã thu được 420 triệu đồng, giúp 3.310 người nghèo
vui tết và 150 trường hợp bị tai nạn lao động [26, tr.9]. Năm 2004, các cấp
CĐ tích cực vận động lấy hàng triệu chữ ký ủng hộ và quyên góp được hơn 2
tỉ đồng giúp nạn nhân bị nhiễm chất độc màu da cam [27, tr.9]. Năm 2005,
riêng “Quỹ tấm lòng vàng lao động” đã vận động và đóng góp được hàng tỉ
đồng, Quỹ “Vì nữ CN lao động nghèo” của các cấp CĐ đã lên tới 251 tỉ đồng,
giải quyết cho 5,5 vạn lượt nữ lao động vay [35, tr.8].
Hoạt động của “Quỹ quốc gia giải quyết việc làm” và các loại quỹ trợ
giúp khác ở các ngành, địa phương và cơ sở đã góp phần giải quyết việc làm,
tăng thu nhập, xóa đói, giảm nghèo cho hàng vạn NLĐ. Riêng vốn vay giải
quyết việc làm qua Tổng Liên đoàn, bình quân mỗi năm có hơn 300 dự án
được vay với số tiền hơn 20 tỉ đồng và hơn 8.000 người tham gia dự án được
giải quyết việc làm [71, tr.648]. Năm 2006, TLĐLĐVN đã ban hành Chương
trình và Quy chế quản lý “Quỹ nhà ở mái ấm CĐ” nhằm hỗ trợ, chăm lo cho
CNVCLĐ gặp khó khăn về nhà ở, phấn đấu đến năm 2015 xóa bỏ 100% nhà
tạm, hư hỏng trong CNVCLĐ.
Sự hưởng ứng, đóng góp của CNVCLĐ mang ý nghĩa chính trị, xã hội,
nhân văn sâu sắc, góp phần thực hiện có hiệu quả chủ trương xóa đói, giảm
nghèo của Đảng, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc, khơi dậy tinh thần
yêu nước, truyền thống tương thân, tương ái của dân tộc Việt Nam, qua đó
nâng cao vị thế, uy tín của tổ chức CĐVN trong toàn xã hội.
42
1.2.3. Phát triển đoàn viên, thành lập Công đoàn cơ sở, đổi mới nội
dung và phương thức hoạt động của Công đoàn Việt Nam
1.2.3.1. Phát triển đoàn viên, thành lập Công đoàn cơ sở
Thực hiện chủ trương của Đảng về xây dựng tổ chức CĐVN lớn mạnh,
đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp CNH,HĐH đất nước, từ năm 2003 đến năm
2007, CĐVN triển khai công tác phát triển đoàn viên, xây dựng tổ chức CĐ
vững mạnh có bước phát triển mới. Nghị quyết Đại hội lần thứ IX CĐVN đã
xác định nhiệm vụ phát triển đoàn viên, thành lập CĐCS là nhiệm vụ trọng
tâm và mang tính quyết định sự tồn tại và phát triển của tổ chức CĐ. Sau Đại
hội lần thứ IX, Ban Chấp hành TLĐLĐVN đã có Nghị quyết chuyên đề về
Chương trình phát triển 1 triệu đoàn viên, trong đó xác định rõ trong giai
đoạn 2003 - 2008 kết nạp được ít nhất 1 triệu đoàn viên, gắn công tác phát
triển đoàn viên với việc củng cố và nâng cao hiệu quả hoạt động của CĐCS.
Ngay sau khi có Nghị quyết, Đoàn Chủ tịch TLĐLĐVN đã thành lập Ban Chỉ
đạo, giao chỉ tiêu phát triển đoàn viên đối với từng Liên đoàn Lao động tỉnh,
thành phố, CĐ ngành Trung ương, CĐ Tổng công ty trực thuộc TLĐLĐVN,
trên cơ sở đó các cấp CĐ triển khai giao chỉ tiêu cụ thể đến các cấp trực tiếp
quản lý. Đồng thời, ban hành các văn bản chỉ đạo, hướng dẫn để thực hiện
Chương trình.
Đoàn Chủ tịch TLĐLĐVN đã từng bước hoàn thiện hệ thống các quy
định liên quan đến tổ chức và hoạt động của CĐCS và công tác phát triển
đoàn viên như: Quyết định số 974-QĐ/TLĐ ngày 29/6/2014 về việc ban hành
Quy định tạm thời về tổ chức và hoạt động của CĐCS xã, phường, thị trấn.
Phối hợp với Bộ Tài chính ban hành Thông tư liên tịch số 119/2004/ TTLT-
BTC/TLĐLĐVN, ngày 8/12/2004 về Trích nộp kinh phí CĐ; Thông tri số 58-
TTr/TLĐ ngày 10/5/2004, Hướng dẫn thu, nộp đoàn phí; Quyết định số 1375-
QĐ/TLĐ ngày 16/10/2007 quy định về nội dung, phạm vi thu chi ngân sách
43
CĐCS. Chủ trì phối hợp với các Bộ Lao động Thương binh và Xã hội, Bộ Tư
pháp xây dựng Nghị định 96-NĐ/CP ngày 14/9/2006 về Ban Chấp hành CĐ
lâm thời tại doanh nghiệp, đồng thời phối hợp với Bộ Lao động Thương binh
và Xã hội ban hành Thông tư liên tịch số 01-TTLT/TLĐLĐVN-BLĐTBXH
về Hướng dẫn thi hành Nghị định số 96-NĐ/CP; tổ chức hội nghị liên tịch với
Phòng Thương mại - Công nghiệp Việt Nam ra Thông báo chung về đẩy
mạnh tuyên truyền Chương trình phát triển 1 triệu đoàn viên trong cộng đồng
doanh nghiệp và các hợp tác xã…, tạo điều kiện thuận lợi về pháp lý cho
CĐCS hoạt động.
Hầu hết Liên đoàn Lao động tỉnh, thành phố và CĐ ngành Trung ương
đã xây dựng chương trình, kế hoạch phát triển đoàn viên, thành lập CĐCS của
cấp mình và thành lập Ban Chỉ đạo với cơ cấu hợp lý, tranh thủ được sự lãnh
đạo của cấp ủy Đảng và sự phối hợp, tạo điều kiện của các cấp chính quyền.
Ban Chỉ đạo phát triển đoàn viên của CĐ các cấp đã bám sát nội dung chỉ đạo
của TLĐLĐVN, ban hành các văn bản chỉ đạo, hướng dẫn thực hiện cụ thể và
phù hợp với điều kiện thực tế của từng cấp, ngành. Qua công tác điều tra,
khảo sát tình hình CN, lao động và doanh nghiệp trên địa bàn, tổ chức CĐ đã
nắm tình hình hoạt động của các doanh nghiệp trên địa bàn, một số đơn vị đã
kịp thời điều chỉnh kế hoạch phát triển đoàn viên, thành lập CĐCS sát với
tình hình thực tế hơn.
Công tác tuyên truyền phát triển đoàn viên và vận động thành lập CĐCS
tại doanh nghiệp, nhất là là khu vực doanh nghiệp ngoài nhà nước và doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài diễn ra sôi nổi, đa dạng, phong phú về nội
dung và hình thức. Hầu hết các cấp CĐ đã xây dựng “Chuyên mục CĐ” trên
đài phát thanh, truyền hình, trên báo chí, trong đó có nhiều đơn vị đã đổi mới
nội dung chuyên mục theo hướng tuyên truyền sâu từng chủ đề và tổ chức các
cuộc thi về CN, lao động. CĐ còn tổ chức tôn vinh NLĐ giỏi trên sóng truyền
44
hình. Nhiều nơi còn chủ động in tờ gấp, sách, tài liệu tuyên truyền về lợi ích
khi gia nhập CĐ và tổ chức các hoạt động tuyên truyền phát triển đoàn viên.
Hình thức tuyên truyền phát triển đoàn viên CĐ đã được đổi mới, đa dạng
hơn như phát tờ gấp sau giờ tan ca tại cổng nhà máy, kết hợp với tuyên truyền
bằng loa phóng thanh trong giờ ăn ca, tổ chức sinh hoạt văn hóa, văn nghệ kết
hợp nội dung tuyên truyền tại khu nhà trọ của CN.
Bên cạnh đó, để mở rộng hơn các hình thức tuyên truyền thu hút NLĐ
tham gia tổ chức CĐ, các cấp CĐ đã thành lập các tổ chức tư vấn pháp luật
như trung tâm, văn phòng, tổ tư vấn pháp luật làm nhiệm vụ tư vấn, hỗ trợ
pháp lý, phổ biến, hướng dẫn và giải đáp pháp luật cho NLĐ. Theo thống kê
của Ban Pháp luật TLĐLĐVN, tính đến cuối năm 2007, đã có 47 trung tâm,
văn phòng tư vấn, gần 400 tổ tư vấn pháp luật được thành lập và hoạt động
[71, tr.134]. Từ năm 2003 đến năm 2007, các cấp CĐ đã thực hiện tư vấn
được 42.000 vụ việc, hướng dẫn trên 1000 tổ chức CĐCS xây dựng, thương
lượng, ký kết thỏa ước lao động tập thể, soạn thảo nội quy lao động; đã thực
hiện trên 200 cuộc tư vấn pháp luật lưu động tại các doanh nghiệp, khu công
nghiệp, khu chế xuất có đông CN lao động với các hình thức phong phú như
kết hợp thi tìm hiểu pháp luật với các trò chơi có thưởng, văn nghệ, v.v..
Mặt khác, phương pháp tiếp cận với người sử dụng lao động để vận động
thành lập CĐ tại doanh nghiệp cũng được các cấp CĐ chú trọng đổi mới. Cán
bộ CĐ đã trực tiếp bám sát cơ sở, kiên trì vận động, thuyết phục người sử
dụng lao động từ chỗ từ chối tiếp xúc, né tránh thành lập CĐCS đến chỗ hiểu,
đồng ý thành lập CĐ và tạo điều kiện để CĐ tại doanh nghiệp hoạt động có
hiệu quả. Công tác tuyên truyền, vận động phát triển đoàn viên, thành lập CĐ
tại doanh nghiệp không còn bó hẹp trong nội bộ tổ chức CĐ, không còn là
vấn đề riêng của tổ chức CĐ mà đã thu hút được sự quan tâm của các cấp, các
ngành liên quan trên địa bàn. Có thể nói rằng, Chương trình phát triển 1 triệu
45
đoàn viên, xây dựng CĐCS vững mạnh đã trở thành cuộc vận động sâu rộng
trong các cấp CĐ và đạt được kết quả tốt. Từ năm 2003 đến năm 2007, đã kết
nạp thêm 2.195.545 đoàn viên vượt hơn 153% chỉ tiêu kế hoạch và thành lập
mới 28.140 CĐCS vượt 199,21% chỉ tiêu kế hoạch [42, tr.6] (Xem thêm Phụ
lục 1.1, tr.122 và Phụ lục 1.2, tr.123).
1.2.3.2. Đổi mới nội dung và phương thức hoạt động của tổ chức
Công đoàn
Quán triệt quan điểm Đại hội lần thứ VIII và lần thứ IX của Đảng về
nâng cao năng lực hoạt động của tổ chức CĐ, công tác phát triển đoàn viên và
thành lập CĐCS sở phải gắn liền với việc củng cố và nâng cao chất lượng
hoạt động của CĐCS. Đây là yêu cầu quan trọng mà mục tiêu “Chương trình
phát triển 1 triệu đoàn viên” đặt ra ngay từ đầu. Vì thế, việc củng cố tổ chức
CĐ được thực hiện bắt đầu từ đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của
CĐCS và được coi là vấn đề quan trọng hàng đầu đối với các cấp CĐ nói
chung và CĐCS nói riêng. Yêu cầu thực tế đặt ra cho phong trào CN và CĐ
cần thiết phải đổi mới thực sự nội dung, phương pháp và cách thức tập hợp
lực lượng phù hợp với điều kiện thực hiện nền KTTT định hướng XHCN và
hội nhập quốc tế. Nhận thức được tính cấp thiết đó, TLĐLĐVN đã ban hành
Thông tri số 01-TTr/TLĐ ngày 27/10/2006 về “Xây dựng CĐCS và nghiệp
đoàn vững mạnh”, thay thế Thông tri số 02-TTr/TLĐ ngày 27/01/2000, trong
đó lấy việc bảo vệ lợi ích CNVCLĐ là nhiệm vụ trọng tâm, xuyên suốt đối
với hoạt động của CĐCS, từng bước khắc phục tình trạng dàn trải nhiều nội
dung đối với CĐCS. Phối hợp với một số bộ, ban, ngành liên quan nghiên cứu
và trình Chính phủ ban hành Nghị định hướng dẫn thi hành Điều 153 Bộ Luật
Lao động về Ban Chấp hành CĐ lâm thời tại doanh nghiệp; ban hành Quy
định về việc phối hợp hoạt động giữa CĐ ngành Trung ương và CĐ Tổng
46
công ty trực thuộc TLĐLĐVN trong cùng một bộ.
Tổ chức bộ máy của CĐ quận, huyện, ngành địa phương, một số CĐ
ngành Trung ương, CĐ Tổng công ty được nghiên cứu, sắp xếp lại cho phù
hợp với mô hình quản lý mới. Nội dung và phương thức hoạt động có bước
đổi mới, phù hợp với từng loại hình cơ sở. Hoạt động của CĐCS đã hướng
mạnh vào công tác phát triển đoàn viên, chăm lo đời sống, đại diện, bảo vệ
quyền lợi hợp pháp, chính đáng của cán bộ, CNVCLĐ thông qua các hình
thức hướng dẫn, giúp đỡ, đại diện xây dựng, thương lượng, ký kết và tổ chức
thực hiện Thỏa ước lao động tập thể, Quy chế dân chủ ở cơ sở, nội quy, quy
chế phối hợp. Tỷ lệ CĐCS đạt tiêu chuẩn vững mạnh, bình quân từ năm 2003
đến năm 2007 đạt từ 76,5% đến 79,8%. Tỷ lệ CĐCS yếu kém các năm dao
động trong khoảng từ 3,3% đến 6,3% và có diễn biến theo xu hướng giảm đi
[42, tr.8] (Xem thêm Phụ lục 1.3, tr.124).
Thực hiện chủ trương của Đảng về nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ
làm công tác CĐ, ngày 22/10/2004, TLĐLĐVN đã ra Nghị quyết 03-
NQ/TLĐ về “Đẩy mạnh công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ CĐ trong tình
hình mới” với mục tiêu và nhiệm vụ là đẩy mạnh và nâng cao chất lượng
công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ CĐ. Quán triệt Nghị quyết, các cấp CĐ
quan tâm chỉ đạo thực hiện và có sự chuyển biến rõ rệt. Nội dung và phương
pháp đào tạo, bồi dưỡng đa dạng, từng bước được điều chỉnh, bổ sung cho
phù hợp với thực tiễn tổ chức và hoạt động ở cơ sở; các cơ sở đào tạo được
củng cố, nâng cao về chất lượng. TLĐLĐVN và các cấp CĐ đã tổ chức các
lớp bồi dưỡng, tập huấn cho hơn 1,8 triệu lượt cán bộ CĐ các cấp được bồi
dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ công tác CĐ. Đến hết năm 2007, đội ngũ cán
bộ CĐ chuyên trách cấp trên cơ sở có 245 người có trình độ Thạc sĩ, Tiến sĩ;
5.661 người có trình độ Đại học, Cao đẳng và 1.183 người có trình độ Trung
47
cấp [42, tr.10] (Xem thêm Phụ lục 1.4, tr.124).
Trên thực tế, việc phát triển đoàn viên và thành lập CĐCS còn chưa
được như mong muốn, nguyên nhân chủ yếu là do các chủ doanh nghiệp né
tránh thành lập tổ chức CĐ. Phần lớn doanh nghiệp có quy mô nhỏ, vốn ít, lực
lượng lao động thường xuyên biến động, hầu hết là hợp đồng thời vụ, chưa
tha thiết tham gia tổ chức CĐ. Việc tiếp cận với chủ doanh nghiệp để thuyết
phục, vận động họ cho thành lập tổ chức CĐ còn gặp rất nhiều khó khăn. Việc
triển khai của các cấp CĐ còn chậm và thiếu đồng bộ. Công tác truyên truyền
chưa được đầu tư đúng mức; năng lực trình độ của cán bộ CĐCS còn nhiều
hạn chế, bị phụ thuộc giới chủ nên còn dè dặt, ngại va chạm với giới chủ khi
quyền lợi của NLĐ bị vi phạm. Mặt khác, do thiếu kinh phí và biên chế cán
bộ nên nhiều địa phương phát triển đoàn viên, thành lập tổ chức CĐ càng gặp
khó khăn. Việc theo dõi, nằm bắt số lượng đoàn viên di chuyển và thôi không
48
tham gia tổ chức CĐ chưa được tổng hợp kịp thời.
Tiểu kết chƣơng 1
Nhận thức được vai trò rất quan trọng của CĐVN, tổ chức chính trị - xã
hội rộng lớn của GCCN và người lao động, lực lượng chính, then chốt đóng
vai trò quan trọng quyết định sự thành công của sự nghiệp đẩy mạnh
CNH,HĐH đất nước và hội nhập kinh tế quốc tế, từ Đại hội IX của Đảng,
Đảng đã có nhiều chủ trương, đường lối lãnh đạo tổ chức CĐVN phát triển,
trong đó Đảng đặc biệt chú ý đến việc “trí thức hóa công nhân” và bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng cho CNVCLĐ trong điều kiện thực hành
nền KTTT định hướng XHCN.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng trong thời gian từ năm 2003 đến năm 2007,
hoạt động của tổ chức CĐVN đã từng bước được đổi mới cả về nội dung lẫn
phương thức hoạt động. Công tác tuyên truyền, vận động, giáo dục CNVCLĐ
được chú trọng quan tâm, góp phần nâng cao nhận thức chính trị, trình độ văn
hóa, chuyên môn nghiệp vụ, tay nghề cho CNVCLĐ, đáp ứng được yêu cầu
của sự nghiệp cách mạng mới. Hoạt động bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp
chính đáng CNVCLĐ trong điều kiện thực hành nền KTTT định hướng
XHCN được các cấp CĐ quan tâm thực hiện và có nhiều chuyển biến tích
cực, hoạt động xã hội được tiến hành thường xuyên, bước đầu đã mang lại
những hiệu quả thiết thực cho CNVCLĐ. Công tác phát triển đoàn viên, xây
dựng tổ chức CĐVN vững mạnh có bước phát triển mới. Nội dung và phương
thức hoạt động của tổ chức CĐVN từng bước được đổi mới, phù hợp với từng
loại hình cơ sở. Vị thế, vai trò của tổ chức CĐVN trong xã hội được nâng cao.
Mặc dù, hoạt động của tổ chức CĐVN trong thời gian này đã có nhiều
chuyển biến tích cực, nhưng trên thực tế, tổ chức và phương thức hoạt động
của CĐ vẫn chưa chuyển kịp với những biến đổi của tình hình đất nước và đòi
hỏi của đoàn viên, CNVCLĐ. Trước tình hình đó, yêu cầu Đảng tiếp tục phải
đổi mới quan điểm, chủ trương lãnh đạo CĐVN, tạo điều kiện thuận lợi cho tổ
49
chức CĐVN tiếp tục phát triển.
Chƣơng 2
ĐẢNG LÃNH ĐẠO CÔNG ĐOÀN VIỆT NAM
TỪ NĂM 2008 ĐẾN NĂM 2013
2.1. Những chuyển biến mới của tình hình thế giới, trong nƣớc và
chủ trƣơng của Đảng đối với hoạt động của Công đoàn Việt Nam
2.1.1. Những chuyển biến mới của tình hình thế giới và trong nước
2.1.1.1. Về tình hình thế giới
Từ năm 2008 đến năm 2013, tình hình thế giới tiếp tục có những chuyển
biến nhanh chóng, phức tạp và khó lường. Toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế
trở thành xu thế không đảo ngược; quy mô, tốc độ, nội dung hội nhập ngày
càng mạnh mẽ, sâu sắc. Kinh tế tri thức phát triển nhanh trở thành phổ biến,
tất yếu mà không một quốc gia nào không phải hướng tới. Cách mạng khoa
học và công nghệ, sự bùng nổ thông tin toàn cầu, sự phát triển nhanh chóng
của công nghệ thông tin và sự hình thành xã hội thông tin, xã hội học tập, xã
hội tri thức, vừa thúc đẩy mạnh mẽ sự phát triển kinh tế, vừa làm thay đổi sâu
sắc phong tục, tập quán, lối sống, tâm lý của xã hội truyền thống, chuyển sang
xã hội hiện đại. Hòa bình, hợp tác, cạnh tranh để tồn tại và phát triển ngày
càng định hình là một xu hướng lớn, phổ biến.
Thời cơ lớn tiếp tục xuất hiện, thách thức lớn cũng liên tiếp đặt ra, buộc
các chủ thể phải đối mặt. Từ mô hình phát triển chuyển sang mô hình phát
triển bền vững. Suy thoái, phản phát triển luôn là nguy cơ rình rập trên con
đường phát triển, không quốc gia nào có thể xem thường, lảng tránh. Quan
hệ giữa các nước là quan hệ phụ thuộc và tùy thuộc lẫn nhau trong một thế
giới biến đổi mau lẹ, nhiều bắt trắc và đột biến khó lường. Môi trường sinh
thái và biến đổi khí hậu toàn cầu cũng đang diễn biến phức tạp và biến đổi
dữ dội, trở thành nỗi lo toan, ám ảnh của tất cả các nước như động đất, sóng
50
thần, núi lửa, cạn kiệt tài nguyên, khủng hoảng năng lượng, lương thực, gia
tăng dân số, dịch bệnh đi kèm với những biến động, đảo lộn về chính trị và
thể chế quyền lực, v.v..
Đúng như Văn kiện Đại hội lần thứ X của Đảng (2006) đã nhận định:
“Trên thế giới, hòa bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn. Kinh tế thế
giới và khu vực tiếp tục phục hồi và phát triển nhưng vẫn tiềm ẩn những yếu
tố bất trắc khó lường. Toàn cầu hóa kinh tế tạo ra cơ hội nhưng cũng chứa
đựng nhiều yếu tố bất bình dẳng, gây khó khăn, thách thức cho các quốc gia,
nhất là các nước đang phát triển. Khoa học và công nghệ sẽ có những bước
đột phá mới. Mặt khác, những cuộc chiến tranh cục bộ, xung đột vũ trang,
xung đột dân tộc, tôn giáo, chạy đua vũ trang, hoạt động can thiệp, lật đổ,
tranh chấp về lãnh thổ và tài nguyên thiên nhiên tiếp tục diễn ra ở nhiều nơi
với tính chất ngày càng phức tạp. Ở khu vực Châu Á - Thái Bình Dương nói
chung và khu vực Đông Nam Á nói riêng, xu thế hòa bình, hợp tác và phát
triển tiếp tục gia tăng, nhưng luôn tiềm ẩn những nhân tố gây mất ổn định” [6,
tr.20-21]. Tình hình thế giới cho đến năm 2011 vẫn “Diễn biến phức tạp, khó
lường. Tuy hòa bình, hợp tác và phát triển là xu thế lớn, nhưng chiến tranh
cục bộ, xung đột vũ trang, tranh chấp chủ quyền, lãnh thổ vẫn diễn ra ở nhiều
nơi, diễn biến phức tạp. Thiên tai, dịch bệnh, khủng hoảng năng lượng, ô
nhiễm môi trường, biến đổi khí hậu trở thành những vấn đề nghiêm trọng trên
quy mô toàn thế giới. Cuộc khủng hoảng tài chính từ Mỹ lan rộng, trở thành
cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu” [9, tr.149-150].
2.1.1.2. Về tình hình trong nước
Những thành tựu của 20 năm đổi mới (1986 - 2006) tạo thêm nhiều
thuận lợi cho đất nước đổi mới, phát triển kinh tế - xã hội với nhịp độ nhanh
hơn, chất lượng cao hơn. Tuy nhiên, nước ta đang đúng trước nhiều thách
thức lớn đan xen nhau, tác động tổng hợp và diễn biến phức tạp, không thể
51
xem thường bất cứ thách thức nào. “Tình trạng suy thoái về chính trị, tư
tưởng, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên gắn
liền với tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí đang diễn ra nghiêm trọng chưa
được ngăn chặn có hiệu quả. Những biểu hiện xa rời mục tiêu, lý lưởng của
CNXH chưa được khắc phục. Các thế lực thù địch vẫn đang ráo riết thực hiện
âm mưu “diễn biến hòa bình”, gây bạo loạn lật đổ, sử dụng các chiêu bài “dân
chủ”, “nhân quyền”, “dân tộc”, “tôn giáo” hòng làm thay đổi chế độ chính trị
ở nước ta” [6, tr.22].
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng (2011), đã chỉ ra
những thuận lợi và thách thức cho cách mạng Việt Nam trên cơ sở kiểm điểm
5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ X (2006 - 2011); nhìn lại 10 năm
thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội (2001 - 2010); 20 năm thực
hiện Cương lĩnh (1991 - 2011). Những thuận lợi cơ bản là: Sau hơn 20 năm
đổi mới, những thành tựu đạt được đã làm cho thế và lực của Việt Nam lớn
mạnh lên nhiều. Nền kinh tế đã vượt ra khỏi tình trạng kém phát triển, đạt tốc
độ tăng trưởng khá cao và phát triển tương đối toàn diện. Tổng sản phẩm
trong nước (GDP) năm sau cao hơn năm trước, bình quân trong 5 năm 2006 -
2011 là 7%. Cơ cấu kinh tế tiếp tục được chuyển dịch theo hướng CNH,HĐH.
Đến năm 2010, tỉ trọng khu vực công nghiệp trong cơ cấu GDP tăng lên
41,1%, khu vực dịch vụ tăng lên 38.3% và nông nghiệp giảm còn 20,6%. Cơ
cấu lao động cũng có sự chuyển dịch tích cực. Cơ cấu lao động trong nông
nghiệp giảm xuống còn 48,2%, trong công nghiệp và xây dựng tăng lên
22,4%, dịch vụ tăng lên 29,4% [9, tr.152], các thành phần kinh tế đều phát
triển. Việt Nam đã gia nhập WTO, ký kết hiệp định thương mại tự do song
phương và đa phương với một số đối tác quan trọng; mở rộng và tăng cường
quan hệ hợp tác với các đối tác, góp phần quan trọng vào việc tạo dựng và mở
rộng thị trường hàng hóa, dịch vụ đầu tư của Việt Nam, thu hút đầu tư trực
52
tiếp từ nước ngoài. Giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, văn hóa và
các lĩnh vực xã hội có tiến bộ; bảo vệ tài nguyên môi trường được chú trọng
hơn; đời sống các tầng lớp nhân dân được cải thiện; quốc phòng, an ninh, đối
ngoại được tăng cường. Dân chủ XHCN có tiến bộ, sức mạnh đại đoàn kết
toàn dân tộc được củng cố. Việc xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN được
đẩy mạnh, hiệu lực và hiệu quả hoạt động được nâng lên. Công tác xây dựng,
chỉnh đốn Đảng được tăng cường, đạt một số kết quả tích cực.
Những thuận lợi trên chính là thế mạnh của Việt Nam trên con đường
hội nhập, từ hội nhập kinh tế quốc tế đến chủ động, tích cực hội nhập quốc tế
trong một thế giới toàn cầu hóa, trong thời đại cách mạng khoa học và công
nghệ và sự bùng nổ thông tin, công nghệ thông tin và kinh tế tri thức.
Tuy nhiên, đất nước cũng đứng trước nhiều thách thức lớn, đan xen
nhau, tác động tổng hợp và diễn biến phức tạp. Cuộc khủng hoảng tài chính
năm 2008, suy thoái kinh tế toàn cầu từ năm 2011 đến nay đã tác động và gây
khó khăn lớn đến sự phát triển của nước ta, làm cho tốc độ tăng trưởng kinh tế
bị chậm lại, kinh tế phát triển chưa bền vững; thiên tai, dịch bệnh liên tiếp xảy
ra gây thiệt hại không nhỏ về người, tài sản của Nhà nước và nhân dân. Các
lĩnh vực giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, văn hóa xã hội, môi
trường còn nhiều hạn chế, yếu kém, gây bức xúc trong xã hội. Quốc phòng,
an ninh, đối ngoại còn một số mặt hạn chế; dân chủ và sức mạnh đại đoàn kết
toàn dân tộc chưa được phát huy đầy đủ. Công tác xây dựng Nhà nước pháp
quyền XHCN chưa theo kịp yêu cầu phát triển kinh tế và quản lý đất nước.
Công tác xây dựng Đảng còn nhiều hạn chế; tình trạng suy thoái về chính trị,
tư tưởng, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, tệ
quan liêu, tham nhũng, lãng phí còn nghiêm trọng. Những biểu hiện xa rời
mục tiêu của CNXH, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” có diễn biến phức tạp.
Văn kiện Đại hội lần thứ XI của Đảng (2011) đã tổng kết: “Thời gian sau
53
Đại hội X, đất nước phát triển thuận lợi. Việt Nam trở thành thành viên của
Tổ chức Thương mại thế giới (WTO). Nhưng từ cuối năm 2007, đầu năm
2008, kinh tế và đời sống gặp nhiều khó khăn. Các thế lực thù địch tiếp tục
chống phá, kích động bạo loạn, đẩy mạnh hoạt động “diễn biến hòa bình”.
Trong bối cảnh đó, toàn Đảng, toàn dân ta nỗ lực phấn đầu vượt qua khó
khăn, thách thức, đạt được những thành tựu quan trọng trong việc thực hiện
các mục tiêu, nhiệm vụ Đại hội X đề ra, nhưng cũng còn nhiều hạn chế,
khuyết điểm cần đươc khắc phục” [9, tr.150].
Những chuyển biến mới của tình hình thế giới và trong nước tác động
mạnh mẽ, tạo ra cả cơ hội lớn và thách thức lớn đối với cách mạng nước ta
nói chung và hoạt động của tổ chức CĐVN nói riêng.
2.1.2. Chủ trương của Đảng đối với hoạt động của Công đoàn Việt
Nam trong giai đoạn mới
2.1.2.1. Chủ trương của Đảng và những vấn đề đặt ra cho Công đoàn
Việt Nam trong giai đoạn mới
Trong bối cảnh mới, đất nước ta đã chuyển mình mạnh mẽ trong quá
trình CNH,HĐH, trong thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc, đồng thời cũng có những yêu cầu mới, vấn đề mới đặt ra, đòi hỏi tổ
chức CĐ phải nâng mình lên một tầm cao mới không chỉ về trí tuệ mà cả về
nhận thức, vai trò, vị trí chính trị to lớn của GCCN - giai cấp làm chủ vận
mệnh của đất nước theo hướng ngày càng trí thức hóa.
Để xây dựng GCCN và tổ chức CĐVN vững mạnh, đáp ứng được yêu
cầu của sự nghiệp đẩy mạnh CNH,HĐH đất nước và hội nhập quốc tế, ngày
28/1/2008, Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X đã
ban hành Nghị quyết số 20-NQ/TW về “Tiếp tục xây dựng GCCN Việt Nam
thời kỳ đẩy mạnh CNH,HĐH đất nước”. Nghị quyết xác định: “GCCN Việt
Nam là một lực lượng xã hội to lớn, đang phát triển, bao gồm những NLĐ chân
54
tay và trí óc, làm công hưởng lương trong các loại hình sản xuất kinh doanh và
dịch vụ công nghiệp, hoặc sản xuất kinh doanh và dịch vụ có tính chất công
nghiệp” [7, tr. 43].
Nghị quyết còn nêu rõ 5 nhóm nhiệm vụ và giải pháp để xây dựng
GCCN thời kỳ đẩy mạnh CNH,HĐH: Một là, tiếp tục nghiên cứu, tổng kết
thực tiễn, phát triển lý luận về GCCN trong điều kiện KTTT định hướng
XHCN, đẩy mạnh CNH,HĐH đất nước và hội nhập kinh tế quốc tế. Hai là,
đẩy mạnh và nâng cao chất lượng đào tạo nghề, từng bước trí thức hoá
GCCN. Ba là, quan tâm bồi dưỡng, nâng cao trình độ chính trị, ý thức giai
cấp, tinh thần độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường của dân tộc cho GCCN. Bốn
là, bổ sung, sửa đổi, xây dựng và thực hiện nghiêm túc hệ thống chính sách,
pháp luật để đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của CN, chăm lo
đời sống vật chất, tinh thần cho CN. Năm là, tăng cường sự lãnh đạo của
Đảng, phát huy vai trò của tổ chức CĐ và các tổ chức chính trị - xã hội khác
trong xây dựng GCCN [7, tr.45 ]. Đây là Nghị quyết chuyên đề của Đảng đi
sâu vào việc phát triển GCCN, tổ chức CĐVN thời kỳ đổi mới, nó có ý nghĩa
quyết định đến sự lớn mạnh của GCCN, khẳng định sự quan tâm của Đảng ta
đến GCCN và CĐVN.
Năm 2011, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng đã đánh giá,
tổng kết 20 năm thực hiện “Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá
độ lên CNXH”, đề ra những chủ trương phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn
dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, tạo nền tảng đến năm 2020
đưa đất nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại,
thực hiện thắng lợi mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh, vững bước đi lên CNXH. Đại hội nhấn mạnh phát triển kinh tế là nhiệm
vụ trọng tâm; thực hiện CNH,HĐH đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức
và bảo vệ tài nguyên môi trường; coi trọng phát triển các ngành công nghiệp
55
nặng, công nghiệp chế tạo có tính nền tảng và các ngành công nghiệp có lợi
thế. “Cương lĩnh bổ sung, phát triển năm 2011” của Đảng khẳng định:
“Đảng, Nhà nước có cơ chế, chính sách, tạo điều kiện để Mặt trận và các đoàn
thể nhân dân hoạt động có hiệu quả, thực hiện vai trò giám sát và phản biện
xã hội”[9, tr.87]. “Các đoàn thể nhân dân tùy theo tính chất, tôn chỉ và mục
đích đã được xác định, vận động, giáo dục đoàn viên, hội viên chấp hành luật
pháp, chính sách; chăm lo bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng
của đoàn viên, hội viên; giúp đoàn viên, hội viên nâng cao trình độ về mọi
mặt và xây dựng cuộc sống mới; tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội”
[9, tr.87].
Quán triệt quan điểm trên của Cương lĩnh đối với tổ chức CĐ, Đại hội
lần thứ XI của Đảng đã xác định: “Quan tâm giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng,
phát triển GCCN cả về số lượng và chất lượng; nâng cao bản lĩnh chính trị,
trình độ học vấn, chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp, tác phong công nghiệp,
kỷ luật lao động, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp CNH,HĐH và hội nhập quốc
tế. Phát huy vai trò của GCCN là giai cấp lãnh đạo cách mạng, thông qua đội
tiên phong là ĐCSVN; sửa đổi, bổ sung các chính sách, pháp luật về tiền
lương, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp, cải thiện nhà ở,
làm việc… để bảo vệ quyền lợi, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của
CN”[9, tr.241].
Quan điểm chỉ đạo của Đảng đối với tổ chức CĐ tại Đại hội lần thứ XI là
sự kế thừa, phát triển quan điểm chỉ đạo của Đại hội lần thứ X và Nghị quyết
20-NQ/TW của Đảng. Đây là quan điểm có tính chất định hướng, xuyên suốt
trong việc xây dựng và phát triển GCCN và tổ chức CĐVN trong các thập
niên tới.
Từ những chủ trương trên đây của Đảng, đặt ra những yêu cầu cho hoạt
động của tổ chức CĐVN trong giai đoạn mới. Đó là, CĐ cần chăm lo làm tốt
56
hơn nữa nhiệm vụ xây dựng GCCN xứng đáng là lực lượng nòng cốt, đi đầu
trong sự nghiệp đổi mới, CNH,HĐH đất nước. CĐ không chỉ nâng cao cả về
tầm trí tuệ, sự sáng tạo mà còn phải nâng cao cả về sự nhận thức vai trò, vị trí
chính trị to lớn của GCCN - giai cấp làm chủ vận mệnh đất nước. Chú trọng
công tác tuyên truyền, giáo dục, giúp CNVCLĐ nâng cao nhận thức về giai
cấp, về Đảng, về tổ chức CĐ. CĐ cần phải làm tốt hơn vai trò là người đại
diện và bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp chính đáng của GCCN và NLĐ như:
chủ động tham gia thương lượng với người sử dụng lao động và tổ chức tốt
việc ký kết, thực hiện thỏa ước lao động tập thể, giải quyết tốt các tranh chấp
lao động… Chú trọng tham gia xây dựng và tổ chức thực hiện tốt Quy chế
dân chủ ở cơ sở. Đẩy mạnh các hoạt động xã hội, tạo điều kiện để CNVCLĐ
thực hiện quyền làm chủ của mình. Phải liên tục đổi mới nội dung và hình
thức tổ chức các phong trào thi đua phù hợp với các đặc điểm của ngành, địa
phương và cơ sở, tạo thêm việc làm và tăng thu nhập, cải thiện đời sống
CNVCLĐ, góp phần tăng trưởng kinh tế, hoàn thành nhiệm vụ chính trị của
ngành và địa phương.
CĐ cần đẩy mạnh việc xây dựng tổ chức, kiện toàn đội ngũ cán bộ và
cải tiến phương thức hoạt động phù hợp với yêu cầu mới như: đa dạng hóa
các hình thức tập hợp quần chúng, đổi mới nội dung và phương thức hoạt
động của các cấp CĐ, hướng về cơ sở, đẩy mạnh việc thành lập CĐ ở khu vực
kinh tế ngoài nhà nước và có vốn đầu tư nước ngoài. Đổi mới công tác vận
động, thuyết phục, hình thức và phương pháp công tác của tổ chức CĐ cho
phong phú hơn, sinh động hơn, hấp dẫn hơn, phù hợp và thiết thực với từng
đối tượng, tránh máy móc, đơn giản, tẻ nhạt. Cần đặc biệt coi trọng công tác
đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao năng lực và trình độ đội ngũ cán bộ CĐ các cấp,
giúp họ chẳng những có lập trường chính trị vững vàng, có nhiệt tình công tác
mà phải có chuyên môn, có tác phong quần chúng, có kiến thức và phương
57
pháp vận động quần chúng, đáp ứng yêu cầu hoạt động của CĐ trong nền
KTTT định hướng XHCN.
CĐ cần làm tốt công tác xây dựng Đảng tại các cơ quan. Cụ thể là: Cần
chú trọng phối hợp với các cơ quan nghiên cứu của Đảng và Nhà nước, đẩy
mạnh nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn về hoạt động CĐ trong điều kiện
phát triển KTTT định hướng XHCN, đẩy mạnh CNH,HĐH đất nước và hội
nhập quốc tế, giúp cho Đảng và Nhà nước có đủ căn cứ khoa học trong việc
đề ra chủ trương, đường lối, chính sách đúng đắn, phù hợp. Quan tâm hơn nữa
công tác đấu tranh phòng chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí, giữ gìn sự
trong sạch và bản chất cách mạng trong sáng của GCCN mà đội tiên phong là
ĐCSVN. Đẩy mạnh việc bồi dưỡng, phát triển Đảng trong CN, lao động; giới
thiệu cho Đảng xem xét, kết nạp đảng viên từ những đoàn viên CĐ ưu tú và
bổ sung cho Đảng những cán bộ xuất sắc, trưởng thành từ phong trào CĐ.
2.1.2.2. Công đoàn Việt Nam cụ thể hóa chủ trương, đường lối của
Đảng trong giai đoạn mới
Tiếp thu chủ trương, đường lối lãnh đạo CĐ của Đảng và trước những
yêu cầu đặt ra đối với CĐVN trong giai đoạn mới, tổ chức CĐVN đã có
những thay đổi trong phương hướng, mục tiêu hoạt động so với những năm
2003 - 2007. Ngay sau Nghị quyết 20-NQ/TW của Đảng được ban hành, ngày
7/3/2008, Đoàn Chủ tịch TLĐLĐVN đã ban hành “Chương trình hành động
số 399-Ctr/TLĐ về thực hiện Nghị quyết số 20-NQ/TW” của Đảng với những
mục tiêu: Nâng cao nhận thức của cán bộ, đoàn viên, CNVCLĐ cả nước về vị
trí, vai trò to lớn của GCCN Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh CNH,HĐH đất
nước; góp phần cải thiện và nâng cao giác ngộ giai cấp, bản lĩnh chính trị, ý
thức tổ chức kỷ luật, tác phong công nghiệp, trình độ học vấn, chuyên môn
nghề nghiệp cho CN, xây dựng GCCN lớn mạnh; tiếp tục đổi mới nội dung và
58
phương thức hoạt động, xây dựng tổ chức CĐ vững mạnh đáp ứng yêu cầu,
nhiệm vụ mới; nâng cao tinh thần trách nhiệm, chất lượng và hiệu quả thực
hiện nhiệm vụ xây dựng GCCN và tổ chức CĐ.
“Chương trình hành động” đã đề ra chỉ tiêu phấn đấu đến năm 2013 là:
Tham gia cùng với cơ quan quản lý nhà nước có 70% trở lên CN qua đào tạo
chuyên môn, nghề nghiệp; giảm 80% số vụ tai nạn lao động và bệnh nghề
nghiệp; 65% trở lên số CN được tham gia bảo hiểm xã hội. Hàng năm có
100% số cơ quan hành chính, đơn vị doanh nghiệp nhà nước tổ chức Hội nghị
cán bộ công chức, viên chức, trên 50% số công ty cổ phần, công ty trách
nhiệm hữu hạn tổ chức Hội nghị NLĐ. Trong 5 năm (2008 - 2013), kết nạp
mới ít nhất 1,5 triệu đoàn viên. Đến năm 2013, có 70% trở lên số doanh
nghiệp đủ điều kiện theo quy định của Điều lệ CĐVN thành lập được CĐCS
và tập hợp được từ 60% trở lên CNVCLĐ trong doanh nghiệp gia nhập CĐ.
Đến năm 2013, có 70% trở lên số CĐCS doanh nghiệp ký kết thỏa ước lao
động tập thể, 100% cán bộ CĐ các cấp được bồi dưỡng, tập huấn về lý luận
nghiệp vụ CĐ. Hàng năm, có trên 80% CĐCS ở các cơ quan hành chính, đơn
vị sự nghiệp và doanh nghiệp thuộc khu vực nhà nước và 40% CĐCS ở khu
vực ngoài nhà nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đạt tiêu chuẩn
“CĐCS vững mạnh”, có 10% đạt tiêu chuẩn “CĐCS vững mạnh xuất sắc”.
Giới thiệu mỗi năm ít nhất 30.000 CN ưu tú để cấp ủy Đảng bồi dưỡng, xem
xét, kết nạp vào Đảng (sau này điều chỉnh thành 90.000 người)[71, tr.144].
“Chương trình hành động” cũng đề ra các nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu để
thực hiện được các mục tiêu trên: Làm tốt công tác tuyên truyền, giáo dục, góp
phần nâng cao chất lượng GCCN đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh CNH,HĐH đất
nước. Rà soát, nắm chắc tình hình doanh nghiệp và CN trong các loại hình
doanh nghiệp, tăng cường công tác vận động thành lập CĐCS, phát triển đoàn
viên ở các doanh nghiệp khu vực ngoài nhà nước và doanh nghiệp có vốn đầu
59
tư nước ngoài. Xác định phát triển đoàn viên mới là trách nhiệm của mỗi cán
bộ đoàn viên và các cấp CĐ. Đẩy mạnh công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết
thực tiễn về GCCN và hoạt động CĐ.
Thực hiện Nghị quyết số 20-NQ/TW của Đảng, Tổng Liên đoàn đã ban
hành nhiều văn bản chỉ đạo, quán triệt và tổ chức thực hiện. Cụ thể là: “Kế
hoạch số 378-KH/TLĐ ngày 6/3/2008 về tuyên truyền và tổ chức thực hiện
các Nghị quyết”; “Chỉ thị số 02-CT/TLĐ ngày 30/9/2008 về việc tiếp tục triển
khai thực hiện Nghị quyết”. Năm 2013 đã tiến hành tổng kết 5 năm thực hiện
“Chương trình hành động số 399-Ctr/TLĐ”.
Đại hội CĐVN lần thứ X (2008) đề ra mục tiêu hoạt động của CĐ đã có
bước chuyển lớn so với Đại hội lần thứ IX. Lần đầu tiên, TLĐLĐVN đã xác
định mục tiêu hoạt động của CĐ các cấp là: “Hướng về cơ sở, lấy địa phương
cơ sở làm địa bàn hoạt động chủ yếu, lấy đoàn viên, CNVCLĐ làm đối tượng
vận động”; nhấn mạnh “chuyển mạnh hoạt động CĐ vào việc tổ chức thực
hiện chức năng đại diện, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của
đoàn viên, CNVCLĐ”; “xây dựng quan hệ lao động hài hòa, ổn định, tiến
bộ; góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của đất nước”. Khẩu hiệu
hành động được Đại hội lần thứ X đề ra là: “Đổi mới, sáng tạo, bảo vệ
quyền, lợi hợp pháp của đoàn viên, CNVCLĐ vì sự phát triển ổn định bền
vững của đất nước” [39, tr.658]. Qua đó có thể thấy, mục tiêu hoạt động của
CĐVN ngày càng rõ ràng hơn, đi vào chiều sâu, hiệu quả, phù hợp với thực
tiễn hoạt động của phong trào CĐVN trong giai đoạn mới.
Đại hội CĐVN lần thứ XI (2013) tiếp tục phát triển quan điểm của Đại
hội lần thứ X CĐVN với mục tiêu, phương hướng tổng quát cho hoạt động
của tổ chức CĐ trong những năm 2013 - 2018 là: “Tiếp tục đổi mới nội dung
và phương thức hoạt động CĐ theo hướng vì đoàn viên và NLĐ, vì sự phát
triển bền vững của đất nước; hướng mạnh về cơ sở, thực hiện tốt chức năng
60
chăm lo đời sống, đại diện, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của
đoàn viên và NLĐ; tham gia có hiệu quả vào công tác quản lý nhà nước, quản
lý kinh tế - xã hội; nâng cao chất lượng công tác tuyên truyền, vận động, giáo
dục và tổ chức thi đua yêu nước trong đoàn viên và NLĐ; đẩy mạnh phát triển
đoàn viên, thành lập CĐCS, chăm lo đào tạo, bồi dưỡng cán bộ CĐ, xây dựng
tổ chức CĐ vững mạnh, góp phần xây dựng GCCN ngày càng lớn mạnh,
xứng đáng là lực lượng nòng cốt, đi đầu trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc Việt Nam XHCN”. Phương châm hành động cho các cấp CĐ là: “Vì
quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của đoàn viên và NLĐ, vì sự phát triển
bền vững của đất nước, tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức hoạt động
CĐ” [76, tr.86].
Có thể thấy, Đại hội X, XI CĐVN đã có bước phát triển mới trong việc
đề ra đường lối hoạt động của tổ chức CĐ. Từ việc chỉ xác định nội dung hoạt
động chung chung ở các kỳ Đại hội trước, thì đến Đại hội X, XI đã chỉ rõ
được nội dung hoạt động trọng của tổ chức CĐVN đó là hướng về CĐCS, lấy
địa phương cơ sở làm địa bàn hoạt động chủ yếu, lấy CNVCLĐ là đối tượng
vận động chính. Đẩy mạnh, đi vào chiều sâu, hoạt động chăm sóc, bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp chính đáng cho CNVCLĐ. Trên cơ sở mục tiêu đề ra,
TLĐLĐVN đã cụ thể hóa thành các chương trình hành động, lãnh đạo triển
khai thực hiện sâu rộng tới CNVCLĐ.
2.2. Kết quả thực hiện sự chỉ đạo của Đảng đối với Công đoàn Việt
Nam (2008 – 2013)
2.2.1. Phát triển hơn nữa hoạt động tuyên truyền, vận động, giáo dục
công nhân viên chức lao động
Để đưa chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của
Nhà nước, Nghị quyết của CĐ tới sâu rộng CNVCLĐ, công tác tuyên
truyền, giáo dục của CĐ từ năm 2008 đến năm 2013 tiếp tục được đẩy
61
mạnh và có nhiều đổi mới về nội dung và hình thức tuyên truyền, từng
bước phù hợp với thực tiễn của cơ sở, bám sát nhu cầu đoàn viên, NLĐ
(Xem thêm Phụ lục 2.1, tr.125).
Ngày 22/9/2009, Đoàn Chủ tịch TLĐLĐVN đã ban hành Chỉ thị số 01-
CT/TLĐ tiếp tục thực hiện Nghị quyết 03-NQ/ĐCT ngày 3/4/2006 về “Đẩy
mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục của tổ chức CĐ trong tình hình mới”.
Việc triển khai thực hiện Nghị quyết gắn liền với việc triển khai thực hiện
Nghị quyết Đại hội lần thứ X CĐVN, Chương trình hành động của
TLĐLĐVN thực hiện Nghị quyết số 20-NQ/TW về “Tiếp tục xây dựng
GCCN Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh CNH,HĐH đất nước” và Cuộc vận động
“Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”.
Các cấp CĐ đã cụ thể hóa và tập trung triển khai thực hiện Nghị quyết số
20-NQ/TW của Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa
X về “Tiếp tục xây dựng GCCN Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh CNH,HĐH đất
nước” và Chương trình hành động số 399-Ctr/TLĐ của TLĐLĐVN về thực
hiện Nghị quyết gắn với việc tổ chức triển khai Chỉ thị số 03-CT/TW của Bộ
Chính trị về việc “Tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo
đức Hồ Chí Minh” trong cán bộ, đoàn viên và NLĐ. Sau 5 năm thực hiện
Nghị quyết, hệ thống CĐ đã tổ chức hơn 180.000 cuộc truyên truyền quan
điểm, mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp về xây dựng GCCN thời kỳ đẩy mạnh
CNH,HĐH đất nước theo tinh thần Nghị quyết 20-NQ/TW cho hơn 7 triệu
lượt CNVCLĐ; biên soạn và phát hành 222.000 tài liệu tuyên truyền dưới
dạng tờ gấp, sổ tay bỏ túi, đĩa CD tới 63 tỉnh, thành phố và 20 CĐ ngành
Trung ương; xét và trao “Giải thưởng Nguyễn Đức Cảnh” cho 239 CNVCLĐ
tiêu biểu trong cả nước [64, tr.6]. Việc tổ chức cho cán bộ, đoàn viên và NLĐ
học tập, quán triệt Nghị quyết đã trở thành đợt sinh hoạt chính trị sâu rộng,
62
bước đầu làm chuyển biến nhận thức của cán bộ, đoàn viên và NLĐ, các cấp
ủy Đảng, chính quyền về vị trí, vai trò, của GCCN trong sự nghiệp
CNH,HĐH đất nước.
Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”
gắn liền với thực hiện nhiệm vụ chính trị và xây dựng nếp sống văn hóa trong
cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp được các cấp CĐ triển khai với nhiều nội dung
cụ thể, thiết thực và hàng năm đều có đánh giá, tổng kết. Năm 2008, các cấp
CĐ đã tổ chức Hội thi “Kể chuyện về tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”
trong CNVCLĐ, thu hút gần 23 vạn thí sinh tham gia. Tính đến năm 2012, có
trên 50.000 lớp học, hơn 4,5 triệu lượt người tham gia học tập các chuyên đề
về tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, góp phần tạo được sự chuyển biến trong
nhận thức và hành động, phát huy tính năng động, sáng tạo của mỗi đoàn
viên, CNVCLĐ, củng cố thêm niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng, điều hành
của Nhà nước [76, tr.52].
Công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật theo Quyết định số
31/2009/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về “Tuyên truyền, phổ biến pháp
luật lao động, pháp luật CĐ và các quy định pháp luật có liên quan đến CN,
lao động tại các doanh nghiệp dân doanh và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài” được các cấp CĐ quan tâm chỉ đạo thực hiện, trong đó tập trung vào
CN, lao động trong các doanh nghiệp ngoài nhà nước và doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngoài đã góp phần tích cực nâng cao nhận thức, kiến thức pháp
luật cho đoàn viên và NLĐ. Ngày 3/3/2010, TLĐLĐVN đã ban hành văn bản
số 313/TLĐ về việc “Đẩy mạnh công tác tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp
luật trong CN, lao động” và triển khai thực hiện Quyết định số 06/2010/QĐ-
TTg ngày 25/1/2010 của Thủ tướng Chính phủ về “Xây dựng, quản lý, khai
thác tủ sách pháp luật”. TLĐLĐVN đã biên soạn và xuất bản trên 53.000 tài
liệu về lao động và CĐ, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế; xây dựng được
63
14.581 tủ sách pháp luật với hàng trăm đầu sách để chuyển tới CNVCLĐ [76,
tr.52]. Nhiều Liên đoàn Lao động tỉnh, thành phố lập Hội đồng phối hợp công
tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật, hoặc cử thành viên tham gia
Hội đồng do bộ, ngành, địa phương thành lập. TLĐLĐVN đã phối hợp với
Đài Truyền hình Việt Nam xây dựng và phát sóng 05 chương trình truyền
hình “Phổ biến giáo dục pháp luật”, cùng với Thông tấn xã Việt Nam tổ chức
chương trình phối hợp tuyên truyền về phong trào CNVCLĐ và hoạt động
CĐ giai đoạn 2012 - 2017, trong đó phối hợp xây dựng chương trình “Truyền
hình CĐVN” nhằm tiếp tục đẩy mạnh các hoạt động tuyên truyền về CN, CĐ,
pháp luật lao động, Luật CĐ trong CN và người sử dụng lao động.
Hoạt động “Tháng CN” chính thức được CĐ phát động trong cả nước
năm 2011 gắn với kỷ niệm ngày Quốc tế lao động đã thu hút hàng triệu lượt
người tham gia, mang lại những kết quả cụ thể, thiết thực, đánh dấu bước phát
triển trong đổi mới hình thức tập hợp đoàn viên, NLĐ. Từ kết quả bước đầu,
đã được Ban Bí thư Trung ương có kết luận triển khai “Tháng CN” vào tháng
5 hàng năm theo Thông báo số 77-TB/TW ngày 24/2/2012 của Ban Bí thư với
mục tiêu hướng về cơ sở, bảo đảm thiết thực, hiệu quả, tiết kiệm, phù hợp với
điều kiện sống, làm việc của CNVCLĐ. Trong đó, tập trung cho hoạt động
tuyên truyền đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, giải
quyết những khó khăn, bức xúc của CNVCLĐ, thực hiện tốt việc chăm lo bảo
vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của CNVCLĐ; xây dựng quan hệ hài
hòa, ổn định, tiến bộ trong doanh nghiệp, thực sự là chỗ dựa vững chắc của
NLĐ. Theo thống kê, trong “Tháng CN” năm 2012, các cấp CĐ đã tổ chức
hơn 3.000 cuộc hội thao, hội diễn văn nghệ, thu hút gần 400.000 lượt người
tham dự; trên 8.500 cuộc tuyên truyền cho trên 500.000 lượt CNVCLĐ và
trên 100.000 tài liệu tuyên truyền, panô, áp phích, tờ gấp về chính sách, pháp
luật liên quan; tổ chức gần 600 cuộc tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp
64
luật thu hút gần 200.000 lượt CNVCLĐ tham gia; trên 1.100 cuộc đối thoại
giao lưu, tọa đàm, gặp gỡ được tổ chức, thu hút trên 98.000 lượt CNVCLĐ
tham gia [62, tr.9]. Nhiều ngành, địa phương đã tổ chức các hoạt động như
“Cùng CN vượt khó”, “Chăm lo đời sống CN”, “Tuần lễ thanh niên CN”,
“Hát cho CN nghe, nghe CN hát”, hiến kế tháo gỡ khó khăn trong sản xuất
kinh doanh, chia sẻ khó khăn với đoàn viên, NLĐ bị tai nạn lao động, có hoàn
cảnh đặc biệt khó khăn, đưa các hoạt động văn hóa, thể thao đến cơ sở đã thể
hiện tinh thần trách nhiệm, tính chủ động, sáng tạo của CĐ, góp phần nâng
cao đời sống vật chất và tinh thần cho đoàn viên, NLĐ, tạo cao trào mới trong
CNVCLĐ và hoạt động CĐ, đồng thời khẳng định vai trò, vị trí của tổ chức
CĐVN, góp phần xây dựng quan hệ lao động hài hòa, ổn định, tiến bộ trong
doanh nghiệp.
Công tác tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức cho CNVCLĐ về sự
cần thiết của việc học tập nâng cao trình độ học vấn, nghề nghiệp trong đông
đảo CNVCLĐ, đồng thời khuyến khích, động viên và thường xuyên phối hợp
với chính quyền, doanh nghiệp tạo điều kiện về thời gian và hỗ trợ về tài
chính để CNVCLĐ được tham gia các chương trình học tập nhằm nâng cao
trình độ học vấn, nghề nghiệp, bồi dưỡng kiến thức chuyên môn, nghiệp vụ.
Theo số liệu khảo sát và báo cáo của 60/83 CĐ ngành, địa phương, từ năm
2005 đến năm 2010 đã tổ chức gần 16.408 lớp học, đã có hơn 4 triệu lượt
CNVCLĐ được học tập nâng cao trình độ học vấn, tay nghề, kỹ năng chuyên
môn, nghiệp vụ, 525.260 CN, lao động được học lý thuyết, thi tay nghề hàng
năm [62, tr.9].
Công tác vận động đoàn viên, NLĐ tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước
và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, tham gia cải cách hành chính,
đấu tranh chống tham nhũng, tiêu cực được các cấp CĐ tiến hành thường
xuyên. Công tác phát triển Đảng trong CN, lao động nhất là ở các doanh
65
nghiệp ngoài nhà nước và doanh nghiêp có vốn đầu tư nước ngoài được tổ
chức CĐ quan tâm, đã có hàng ngàn CN, lao động được kết nạp vào Đảng.
Thực hiện nhiệm vụ tham gia xây dựng Đảng, trong 5 năm (2008 - 2013), tổ
chức CĐ đã giới thiệu hơn 462.000 đoàn viên CĐ ưu tú cho Đảng và đã có
hơn 360.000 người được kết nạp vào Đảng, trong đó CN, lao động trực tiếp
sản xuất, cán bộ CĐ cơ sở chiếm từ 8% - 10%. Cụ thể là năm 2009 có 32.997
người, năm 2010 có 15.221 người, năm 2011 có 47.633 [76, tr.56].
Công tác nghiên cứu lý luận và hoạt động khoa học trong tổ chức CĐ,
đặc biệt là nghiên cứu về GCCN và CĐ, về môi trường, vệ sinh an toàn lao
động được đẩy mạnh. Ngày 26/10/2009, CĐVN đã tiếp tục ra Chỉ thị số 02-
CT/TLĐ về việc “Tiếp tục đẩy mạnh công tác nghiên cứu lý luận và hoạt
động khoa học trong tổ chức CĐ”. Nghị quyết chỉ rõ, CĐ cần tập trung
nghiên cứu các vấn đề cấp bách, bức xúc từ thực tiễn đặt ra như: nghiên cứu
về vị trí, vai trò và sứ mệnh lịch sử của GCCN và tổ chức CĐ trong thời kỳ
đẩy mạnh CNH,HĐH đất nước và hội nhập quốc tế; những thay đổi về số
lượng, chất lượng, thành phần, cơ cấu CNVCLĐ; tình hình việc làm, tiền
lương, điều kiện lao động và quan hệ lao động; sự phân tầng xã hội trong
GCCN, nghiên cứu về liên minh công, nông và trí thức, phát huy sức mạnh
của khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong tình hình mới. Tiếp đó, ngày
26/11/2009, TLĐLĐVN ban hành Chỉ thị 03-CT/TLĐ về “Tiếp tục đẩy mạnh
công tác nghiên cứu lý luận và hoạt động khoa học trong tổ chức CĐ”. Ngày
26/2/2009, TLĐLĐVN tiến hành hội thảo khoa học “Chiến lược xây dựng
GCCN Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh CNH,HĐH đất nước”. Tại hội thảo có 31
tham luận đề cập đến những vấn đề có liên quan đến vai trò, vị trí và sứ mệnh
lịch sử của GCCN trong thời kỳ đẩy mạnh CNH,HĐH đất nước.
Công tác tuyên truyền, vận động CN và NLĐ tích cực tham gia các
phong trào thi đua yêu nước, góp phần phát triển kinh tế - xã hội và xây dựng
66
CĐVN tiếp tục được phát triển và nâng cao về chất. Ở giai đoạn này, trọng
tâm của phong trào thi đua vẫn tiếp tục được xác định là “Lao động giỏi”,
“Lao động sáng tạo”. Công tác kiểm tra, sơ kết, tổng kết thi đua, xây dựng và
học tập điển hình tiên tiến được coi trọng. Việc bình bầu các danh hiệu thi đua
đi vào thực chất hơn. Công tác khen thưởng tiếp tục có những chuyển biến
tốt, chính xác, kịp thời hơn, góp phần khắc phục bệnh thành tích và bệnh hình
thức trong thi đua; chú ý đối tượng khen thưởng là NLĐ trực tiếp, cán bộ CĐ
cấp cơ sở.
Tuy nhiên, công tác tuyên truyền, vận động, giáo dục CNVCLĐ từ năm
2008 đến năm 2013 vẫn còn có những hạn chế. Việc tuyên truyền chính sách,
pháp luật, phối hợp tổ chức học tập nâng cao trình độ học vấn, nghề nghiệp
cho NLĐ ở khu vực ngoài nhà nước còn chưa kịp thời. Chưa có biện pháp
thích hợp để nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền pháp luật và nắm bắt dư
luận, xử lý kịp thời diễn biến tư tưởng trong đoàn viên, NLĐ. Công tác giới
thiệu đoàn viên ưu tú cho Đảng ở các doanh nghiệp, nhất là khu vực ngoài
nhà nước còn những hạn chế. Việc tổ chức chỉ đạo, phong trào thi đua chưa
đồng đều ở các loại hình cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp các thành phần kinh
tế. Công tác khen thưởng có nơi chưa quan tâm đúng mức đến đối tượng trực
tiếp lao động sản xuất, công tác. Việc phát huy và nhân rộng các điển hình
tiên tiến còn chưa thường xuyên. Công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực
tiễn chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển của GCCN và tổ chức CĐ trong
thời kỳ đẩy mạnh CNH,HĐH đất nước. Kết quả một số công trình nghiên cứu
chậm được ứng dụng trong thực tiễn.
2.2.2. Chủ động, tích cực trong việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp
chính đáng của công nhân viên chức lao động
Quán triệt đường lối, chủ trương của Đảng, từ năm 2008 đến năm 2013,
các cấp CĐ đã tích cực chủ động tổ chức các hoạt động nhằm thực hiện chức
67
năng đại diện, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp chính đáng của CNVCLĐ trong
điều kiện thực hành nền KTTT định hướng XHCN, đẩy mạnh CNH,HĐH đất
nước và hội nhập quốc tế.
2.2.2.1. Công đoàn tích cực tham gia quản lý kinh tế - xã hội, xây
dựng dự án luật và các chính sách
Công tác tham gia quản lý kinh tế - xã hội, nghiên cứu xây dựng dự án
luật, nghị định và nhiều chính sách, chế độ liên quan trực tiếp đến CNVCLĐ
tiếp tục được đẩy mạnh. CĐ đã tập hợp ý kiến của đông đảo đoàn viên,
CNVCLĐ tham gia xây dựng và hoàn thiện hàng trăm văn bản pháp luật,
chính sách, chế độ có liên quan trực tiếp đến quyền, lợi ích hợp pháp của đoàn
viên và người lao động như Luật Bảo hiểm y tế, Luật Thuế thu nhập cá nhân,
các văn bản hướng dẫn Luật Bảo hiểm xã hội, Luật Dạy nghề, các chính sách
về tiền lương và phụ cấp lương, cơ chế ưu đãi khuyến khích đầu tư xây dựng
nhà ở tại khu công nghiệp, khu chế xuất, chương trình quốc gia về bảo hộ lao
động giai đoạn 2011 - 2015, xây dựng Quy chế dân chủ cơ sở trong các doanh
nghiệp ngoài nhà nước và thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở trong các doanh
nghiệp. Nổi bật là việc các cấp CĐ đã tập trung nghiên cứu, xây dựng dự thảo
Luật CĐ (sửa đổi), tham gia xây dựng dựng dự thảo Bộ luật Lao động (sửa
đổi). Hai luật trên đã được Quốc hội khóa XIII thông qua năm 2012. Lần đầu
tiên, việc thu phí CĐ bằng 2% trên tổng quỹ tiền lương được đưa vào Bộ luật
CĐ. Tất cả các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp, dù đã thành lập hoặc chưa
thành lập CĐCS đều phải có nghĩa vụ đóng phí CĐ. Những nội dung sửa đổi,
bổ sung trong Luật CĐ và Bộ luật Lao động năm 2012 cơ bản đáp ứng được
nguyện vọng của NLĐ và cán bộ, đoàn viên CĐ, tạo cơ sở pháp lý quan trọng
cho hoạt động và sự phát triển của tổ chức CĐVN.
CĐVN còn tham gia nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992.
TLĐLĐVN và CĐ ngành, địa phương đã tổ chức nhiều hội thảo, hội nghị lấy
68
ý kiến cho Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992. Thông qua các hội thảo, hội nghị
và các cuộc tiếp xúc với cơ sở của CĐ các cấp đã thu hút đông đảo cán bộ,
đoàn viên và NLĐ tham gia ý kiến đóng góp vào dự thảo Hiến pháp, trong đó
làm rõ những cơ sở pháp lý, những căn cứ lịch sử, căn cứ lý luận, tính thực
tiễn của việc cần thiết phải có điều quy định riêng về tổ chức CĐ trong Hiến
pháp năm 1992 sửa đổi. Tại kỳ hợp thứ 6, Quốc hội khóa XIII (2012) đã
thông qua Hiến pháp nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, trong đó Điều 10 của
Hiến pháp, quy định về tổ chức CĐ khẳng định: “CĐVN là tổ chức chính trị -
xã hội của GCCN và của NLĐ được thành lập trên cơ sở tự nguyện, đại diện
cho NLĐ, chăm lo và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của NLĐ;
tham gia quản lý nhà nước, quản lý kinh tế - xã hội; tham gia kiểm tra, thanh
tra, giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước, tổ chức, đơn vị, doanh nghiệp
về những vấn đề liên quan đến quyền, nghĩa vụ của NLĐ; tuyên truyền, vận
động NLĐ học tập, nâng cao trình độ, kỹ năng nghề nghiệp, chấp hành pháp
luật, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” [17, tr.3].
Thực hiện Nghị định số 109/2007/NĐ-CP ngày 26/6/2007 của Chính
phủ về “Chuyển doanh nghiệp 100% vốn nhà nước thành công ty cổ phần”,
ngày 25/1/2008, TLĐLĐVN đã ra bản Hướng dẫn số 170/TLĐ về “Nhiệm vụ
CĐ trong và sau khi chuyển doanh nghiệp 100% vốn nhà nước thành công ty
cổ phần theo Nghị định số 109/2007/NĐ-CP”. Bản hướng dẫn chỉ rõ nhiệm
vụ của CĐCS trước và trong quá trình cổ phần hóa, trong đó tập trung vào
một số nội dung chính là: tuyên truyền, phổ biến chính sách cổ phần hóa đến
NLĐ; tham gia xây dựng và tổ chức thực hiện phương án cổ phần hóa; giám
sát quá trình xây dựng và thực hiện phương án cổ phần hóa. Các cấp CĐ cử
đại diện tham gia Ban Đổi mới doanh nghiệp ở cấp mình, đề xuất nhiều giải
pháp tháo gỡ khó khăn, tăng cường giám sát quá trình thực hiện, đồng thời
tuyên truyền, giải thích cho CNVCLĐ hiểu rõ về mục đích, yêu cầu về chính
69
sách của Đảng, Nhà nước, tham gia giải quyết những vướng mắc, tạo sự đồng
thuận ở cơ sở, đảm bảo hài hòa lợi ích nhà nước, doanh nghiệp và NLĐ.
“Năm 2013, CĐ đã tham gia cổ phần hóa 41 doanh nghiệp nhà nước” [77,
tr.5].
2.2.2.2. Công đoàn tăng cường kiểm tra, giám sát thực hiện pháp luật,
chế độ, chính sách và Quy chế dân chủ ở cơ sở
Cùng với việc tham gia xây dựng pháp luật, công tác kiểm tra, giám sát
việc thi hành cũng được các cấp CĐ chú trọng. Tính trung bình, mỗi năm các
cấp CĐ đã tham gia trên 1.000 cuộc kiểm tra, giám sát thực hiện pháp luật về
lao động, qua đó phát hiện, hướng dẫn cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp thực
hiên đúng pháp luật và kiến nghị cơ quan nhà nước xử lý các vi phạm nhằm
bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của NLĐ. Riêng việc CĐ các cấp
giải quyết, tham gia giải quyết khiếu nại, tố cáo đã góp phần bảo vệ quyền lợi
hợp pháp cho hơn 85.000 người.
Việc thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở theo Chỉ thị số 30-CT/TW ngày
18/2/1998 của Bộ Chính trị và Nghị quyết số 4a-NQ/BCH ngày 6/1/2005 của
Ban Chấp hành TLĐLĐVN tiếp tục được nhiều ngành, địa phương, cơ sở
thực hiện thông qua tổ chức Hội nghị cán bộ, công chức, Hội nghị NLĐ, Đại
hội CN, viên chức. Hàng năm, có hơn 95,6% cơ quan, đơn vị mở Hội nghị
cán bộ CN, viên chức và 87% doanh nghiệp nhà nước mở Đại hội CN, viên
chức, hơn 51,2% công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn có tổ chức
CĐ mở Hội nghị NLĐ. Hoạt động của Ban Thanh tra nhân dân ở cơ sở đã có
bước tiến bộ mới với 58% được đánh giá là tốt và khá, 20% trung bình, 22%
yếu [78, tr.216, 217].
Trong cơ chế thị trường định hướng XHCN cùng với xu thế hội nhập và
toàn cầu hóa, quan hệ lao động ngày càng phức tạp đòi hỏi sự hài hòa về lợi
ích trên cơ sở thỏa thuận giữa NLĐ và sử dụng lao động và NLĐ về quyền lợi
70
và nghĩa vụ nhưng không trái với quy định của pháp luật. 100% Liên đoàn
Lao động tỉnh, thành phố, CĐ ngành Trung ương, CĐ Tổng công ty trực
thuộc TLĐLĐVN đã chỉ đạo, hướng dẫn, tổ chức thực hiện Nghị quyết 01-
NQ/ĐCT ngày 18/6/2009 của Đoàn Chủ tịch TLĐLĐVN về “Đổi mới, nâng
cao chất lượng thương lượng, ký kết và tổ chức thực hiện thỏa ước lao động
tập thể” theo tinh thần của Chỉ thị 22-CT/TW ngày 5/6/2008 của Ban Bí thư
Trung ương Đảng về “Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng mối quan hệ
lao động hài hòa, ổn định, tiến bộ trong doanh nghiệp”. CĐ nhiều nơi đã tăng
cường hình thức đối thoại trực tuyến, nhân rộng mô hình “tổ tự quản của CN,
lao động trong các khu nhà trọ khu công nghiệp”, nhằm cung cấp thông tin
nhiều hơn cho CN, lao động. Năm 2010, TLĐLĐVN đã phối hợp với các cơ
quan liên quan tổ chức một số cuộc đối thoại với người sử dụng lao động,
phối hợp với Ủy ban các vấn đề xã hội của Quốc hội tổ chức Hội thảo “Hoàn
thiện Luật CĐ và pháp luật lao động, góp phần xây dựng quan hệ lao động hài
hòa, ổn định” với mục đích nâng cao vai trò của tổ chức CĐ trong thực hiện
đề án của Quốc Hội về “Nghiên cứu sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện chính sách
pháp luật về quan hệ lao động và hoàn thiện cơ chế phối hợp giữa Nhà nước,
chủ doanh nghiệp, CĐ để giải quyết tranh chấp lao động, vấn đề bảo hiểm,
lương tối thiểu”, qua đó số đơn vị có tổ chức CĐ thực hiện ký kết thỏa ước
lao động tập thể đạt 65,22%, năm 2012 là 68%. TLĐLĐVN đã phối hợp
chặt chẽ với Bộ Lao động Thương binh và Xã hội nghiên cứu, hướng dẫn,
chỉ đạo thực hiện thành công việc ký thỏa ước lao động tập thể ngành Dệt -
may Việt Nam.
Quán triệt quan điểm của Đảng, ngày 27/12/2010, TLĐLĐVN đã ra
Nghị quyết số 04-NQ/TLĐ về “Đổi mới và nâng cao chất lượng hoạt động tư
vấn pháp luật của tổ chức CĐ trong tình hình mới”, các cấp CĐ đã có nhiều
hình thức, biện pháp chỉ đạo và tổ chức thực hiện công tác tư vấn pháp luật
71
cho đoàn viên, NLĐ. Ngày 19/5/2011, TLĐLĐVN đã ban hành Kế hoạch số
768-KH/TLĐ triển khai thực hiện Nghị quyết số 04a-NQ/TLĐ. Mục đích yêu
cầu của Kế hoạch là: Quán triệt sâu sắc quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ và giải
pháp về đổi mới và nâng cao chất lượng hoạt động tư vấn pháp luật của tổ
chức CĐ trong tình hình mới. Đến năm 2013, hệ thống tư vấn pháp luật của
CĐ có 14 trung tâm, 36 văn phòng, 19 tổ tư vấn pháp luật thuộc các Liên
đoàn Lao động tỉnh, thành phố, CĐ ngành Trung ương và 572 tổ tư vấn pháp
luật trực thuộc các Liên đoàn Lao động huyện, khu vực công nghiệp được
thành lập [78, tr.217]. Hoạt động của các trung tâm, văn phòng và tổ tư vấn
pháp luật đã đạt nhiều kết quả thiết thực, hướng về cơ sở với nhiều hình thức
phong phú. Từ năm 2008 đến năm 2012, “các cấp CĐ đã tham gia giải quyết
74.717 vụ thông qua tư vấn pháp luật và trợ giúp pháp lý (tăng 13.500 vụ/năm
so với trung bình của 5 năm 2005 - 2010), với 178.103 người được tư vấn
pháp luật (tăng 53.870 người/năm), tổng số tiền đòi bồi thường là
21.081.208.523 đồng; giải quyết 19.352 đơn khiếu nại tố cáo theo quy định của
pháp luật và của TLĐLĐVN; giải quyết 93.619 vụ có liên quan đến NLĐ và 450
vụ về các lĩnh vực pháp luật khác; tham gia giải quyết, đại diện bảo vệ NLĐ tại
Tòa án cho 2.551 vụ, việc, góp phần bảo vệ quyền lợi của NLĐ [77, tr.6].
Từ yêu cầu của thực tế, nhiều CĐ cấp trên cơ sở đã cử cán bộ hỗ trợ,
hướng dẫn, giúp đỡ CĐ cơ sở tham gia với người sử dụng lao động xây dựng
thang bảng lương, định mức lao động của doanh nghiệp theo quy định của
pháp luật. CĐ một số địa phương đã chủ động tham gia với chính quyền có
biện pháp xử lý tình trạng chủ doanh nghiệp nước ngoài bỏ trốn nhằm bảo vệ
quyền lợi của đoàn viên và NLĐ. TLĐLĐVN đã kịp thời kiến nghị Chính phủ
ban hành chế độ trợ giúp khó khăn cho hàng chục ngàn lao động Việt Nam ở
Libi và các nước khác phải về nước trước thời hạn, trợ cấp cho hàng vạn lao
động có thu nhập thấp trước tình trạng lạm phát tăng cao. Ở nhiều địa
72
phương, CĐ đã chủ động vận động chủ doanh nghiệp tăng tiền lương, tiền
làm thêm giờ, tiền ăn giữa ca, các loại phụ cấp. Một số ngành, địa phương CĐ
đã tổ chức thực hiện việc thông tin, đối thoại giữa NLĐ với người sử dụng lao
động hoặc chính quyền đồng cấp nhằm kịp thời giải quyết những khó khăn,
vướng mắc của NLĐ, của CĐCS. Ví như năm 2012, “các cấp CĐ Thành phố
Hồ Chí Minh đã phối hợp vận động 59.071 chủ nhà trọ cam kết không tăng
giá cho thuê nhà đến cuối năm 2012; vận động 2.738 doanh nghiệp tăng tiền
lương từ 100.000 đồng đến 250.000 đồng/tháng; hỗ trợ trượt giá từ 100.000
đồng đến 500.000 đồng/tháng; tăng chi phí bữa ăn trưa thêm từ 3.000 đồng
đến 8.000 đồng/ phần” [64, tr.5].
2.2.2.3. Công đoàn tích cực tham gia các hoạt động xã hội, chăm lo
đời sống công nhân, viên chức, lao động
Các hoạt động xã hội của CĐ tiếp tục được phát huy có hiệu quả trong
việc chăm lo NLĐ có hoàn cảnh khó khăn, bệnh hiểm nghèo, gia đình chính
sách. “Quỹ tấm lòng vàng lao động”, “Chương trình mái ấm CĐ” và hoạt
động xã hội, “Đền ơn, đáp nghĩa” của CĐ được triển khai thường xuyên và
sâu rộng trong mọi đối tượng đoàn viên và NLĐ với nhiều nội dung, hình
thức đa dạng, phong phú.
Thực hiện chủ trương của Đảng về việc giữ vững chủ quyền biển, đảo,
biên giới, vùng trời, các cấp CĐ đã có nhiều hoạt động hướng tới ngư dân và
biển đảo, hỗ trợ các nghiệp đoàn nghề cá, động viên lao động trong ngành
ngư nghiệp đoàn kết, yên tâm bám biển sản xuất, góp phần bảo vệ chủ quyền
biển đảo của Tổ quốc. Thông qua Chương trình “Tấm lưới nghĩa tình” vì ngư
dân Hoàng Sa, Trường Sa do CĐ phát động đã thu hút được sự tham gia
hưởng ứng của hàng triệu lượt đoàn viên, NLĐ, tổ chức, doanh nghiệp trong
cả nước với số tiền hỗ trợ hàng trăm tỉ đồng, giúp hàng trăm trường hợp gia
đình ngư dân gặp khó khăn khi hành nghề trên biển, góp phần bảo vệ chủ
73
quyền biển đảo thiêng liêng của Tổ quốc. “Riêng năm 2013, CĐ các ngành,
địa phương đã trao tặng nhiều phần quà với số tiền ủng hộ 21 tỉ đồng cho các
ngư dân địa phương” [77, tr.7].
Các chương trình hỗ trợ NLĐ về quê, vui xuân đón Tết trong điều kiện
khó khăn đã tạo được nhiều dấu ấn tốt đẹp trong CN, lao động và cộng đồng
doanh nghiệp. “Trong dịp tết Canh Dần năm 2010, các cấp CĐ đã tặng
225.903 xuất quà với số tiền là 85.283 tỉ đồng” [56, tr.5]. “Trong dịp Tết
Nguyên Đán năm 2013, thông qua các chương trình “Góp Tết với CN, lao
động nghèo”, “Quỹ tấm lòng vàng Lao động” CĐ ở các tỉnh, ngành đã vận
động, phối hợp với chính quyền, doanh nghiệp trao hàng chục ngàn phần quà
Tết với tổng số tiền hơn 1.100 tỉ đồng. [77, tr.7].
Các hoạt động trên của tổ chức CĐ mang ý nghĩa rất sâu sắc, góp phần
thực hiện chủ trương xóa đói, giảm nghèo, đảm bảo an sinh xã hội của Đảng
và Nhà nước, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc, khơi dậy tinh thần yêu
nước, truyền thống tương thân, tương ái, qua đó nâng cao vị thế, uy tín của tổ
chức CĐVN trong đoàn viên, NLĐ và trong xã hội.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đã đạt được trong 5 năm từ năm
2008 đến năm 2013, hoạt động bảo vệ quyền, lợi ích CNVCLĐ của tổ chức
CĐ vẫn còn tồn tại một số hạn chế. Chất lượng tham gia xây dựng, hoàn thiện
một số chính sách, pháp luật liên quan đến đoàn viên, NLĐ và CĐ chưa cao.
Vai trò tham gia quản lý, đại diện, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng
của NLĐ ở một số ngành, địa phương, cơ sở hiệu quả còn thấp. Công tác
kiểm tra, tham gia kiểm tra giám sát thực hiện chế độ, chính sách còn chưa
đồng đều, có nơi còn hình thức. CĐCS chưa lãnh đạo được đình công theo
quy định của pháp luật, tham gia giải quyết tranh chấp lao động, ngừng việc
tập thể, đình công còn bị động, lúng túng. Hoạt động tư vấn pháp luật, tư vấn
nghề, đào tạo nghề, giới thiệu việc làm chất lượng, hiệu quả chưa đáp ứng yêu
74
cầu của đoàn viên và NLĐ.
2.2.3. Tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức, nâng cao chất lượng
hoạt động của tổ chức Công đoàn Việt Nam
Từ năm 2008 đến năm 2013, để cụ thể hóa chủ trương của Đảng về xây
dựng GCCN và tổ chức CĐVN vững mạnh trong thời kỳ đẩy mạnh
CNH,HĐH đất nước và hội nhập quốc tế, các cấp CĐ đã tập trung cho công
tác phát triển đoàn viên và thành lập CĐCS, đổi mới nội dung, phương thức,
nâng cao chất lượng hoạt động của tổ chức CĐ và nâng cao năng lực của đội
ngũ cán bộ CĐ.
2.2.3.1. Đẩy mạnh phát triển đoàn viên, thành lập Công đoàn cơ sở
Để tập trung đẩy mạnh các hoạt động nhằm phát triển tổ chức, tập hợp
đông đảo CNVCLĐ trong các thành phần kinh tế gia nhập tổ chức CĐ, gắn
với việc củng cố, duy trì và nâng cao chất lượng hoạt động của các CĐCS,
Ban Chấp hành TLĐLĐVN đã xây dựng Chương trình số 2295-CT/TLĐ ngày
31/12/2008 về “Phát triển đoàn viên CĐ giai đoạn 2008 - 2013”, trọng tâm là
ở các doanh nghiệp ngoài nhà nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài. Mục tiêu cụ thể của Chương trình đề ra là: “Kết nạp mới ít nhất 1,5
triệu đoàn viên CĐ, đến hết năm 2013 có 70% số doanh nghiệp đủ điều kiện
theo quy định của Điều lệ CĐVN thành lập được CĐCS, có 60% số lao động
trong doanh nghiệp gia nhập CĐ. Củng cố, nâng cao chất lượng hoạt động
của CĐCS, thực hiện xây dựng CĐCS vững mạnh. Đổi mới nội dung, hình
thức tuyên truyền phát triển đoàn viên, vận động thành lập CĐCS tại doanh
nghiệp. Tăng cường tập huấn, bồi dưỡng cán bộ CĐCS khu vực doanh nghiệp
có vốn đầu tư nước ngoài và doanh nghiệp ngoài nhà nước. Đẩy mạnh tuyên
truyền phổ biến, hướng dẫn pháp luật lao động và CĐ đến CNVCLĐ” [45,
tr.6].
Để thực hiện được các mục tiêu đã đề ra, Ban Chấp hành TLĐLĐVN đã
xây dựng và chỉ đạo một số giải pháp trọng tâm và hướng dẫn thực hiện. Cụ
75
thể:
Đối với TLĐLĐVN, chỉ đạo các cấp CĐ tổ chức khảo sát, nắm tình hình
doanh nghiệp, lao động, đăng ký phát triển đoàn viên, thành lập CĐCS trong
cả nhiệm kỳ. Giao chỉ tiêu cho các đơn vị trong nhiệm kỳ kết nạp 1,87 triệu
đoàn viên, thành lập 13.691 CĐCS. Phối hợp với Đài Truyền hình Việt Nam,
Đài Tiếng nói Việt Nam phát sóng Chương trình “Lao động và CĐ”; trang tin
CĐ trên báo Lao động, Báo Nhân dân và Báo Nhân dân điện tử, Tạp chí Lao
động và CĐ, đăng tải trên trang Web của TLĐLĐVN đưa thông tin về các
hoạt động phát triển đoàn viên, thành lập CĐCS; phát hành 20.000 cuốn Điều
lệ CĐVN bằng ba thứ tiếng Việt - Anh - Trung, 20.000 bộ Điều lệ và hướng
dẫn thi hành, 9.000 sổ tay “Một số nghiệp vụ hoạt động CĐCS trong doanh
nghiệp”, hỗ trợ công tác tuyên truyền phát triển đoàn viên, CĐCS khu vực
kinh tế ngoài nhà nước. Tổ chức nghiên cứu, biên soạn và phát hành bộ tài
liệu đào tạo, bồi dưỡng cán bộ CĐCS về kỹ năng, phương pháp hoạt động
CĐ, thương lượng tập thể và xây dựng quan hệ lao động hài hòa, ổn định, tiến
bộ. Ban hành Nghị quyết 6a-NQ/TLĐ ngày 6/1/2011 về tiếp tục đổi mới nội
dung, phương thức và nâng cao chất lượng hoạt động của CĐCS, Hướng dẫn
số 187-HD/TLĐ về xây dựng CĐCS vững mạnh và đánh giá chất lượng hoạt
động của CĐCS.
Đối với Liên đoàn Lao động tỉnh, thành phố, CĐ ngành Trung ương,
Tổng công ty trực thuộc TLĐLĐVN, chủ động xây dựng chương trình, kế
hoạch phát triển đoàn viên, thành lập CĐCS, tổ chức khảo sát doanh nghiệp
và CNVCLĐ, đăng ký với Tổng Liên đoàn để kết nạp mới tổng số 1.857.289
đoàn viên, thành lập 13.691 CĐCS. Tổ chức triển khai Chương trình hành
động số 399-CTr/TLĐ ngày 7/3/2008 về thực hiện Nghị quyết số 20-NQ/TW
của Ban Chấp hành Trung ương khóa X về “Tiếp tục xây dựng GCCN Việt
Nam thời kỳ đẩy mạnh CNH,HĐH đất nước”, Kế hoạch số 1233-KH/TLĐ
76
ngày 17/7/2008 thực hiện Chỉ thị 22-CT/TW của Ban Bí thư về “Tăng cường
công tác lãnh đạo, chỉ đạo việc xây dựng quan hệ lao động hài hòa, ổn định và
tiến bộ trong doanh nghiệp”. Một số Liên đoàn Lao động tỉnh, thành phố xây
dựng chương trình phối hợp công tác với các sở, ngành chức năng ở địa
phương như Sở Kế hoạch đầu tư, Sở Công thương, Sở Lao động Thương binh
và Xã hội, Cục thuế…, nhằm huy động sự tham gia tích cực của các cơ quan
quản lý nhà nước trong việc kiểm tra, khảo sát doanh nghiệp.
Có nhiều hình thức tuyên truyền phát triển đoàn viên như: tờ gấp, panô,
tạp chí, Bản tin Lao động và CĐ, Sổ tay CĐ; phối hợp phát sóng Chương
trình “Lao động và CĐ” trên đài phát thanh truyền hình của tỉnh, huyện,
của doanh nghiệp; tổ chức các tổ tư vấn lưu động về pháp luật lao động,
Luật CĐ, Điều lệ CĐVN tại các cụm công nghiệp, khu công nghiệp và
trong doanh nghiệp.
Bên cạnh đó, để mở rộng đối tượng tập hợp và đổi mới hoạt động, lần
đầu tiên TLĐLĐVN đã triển khai một số hoạt động thí điểm về thành lập CĐ
ngành Dệt - may địa phương tại Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Bình
Dương, làm cơ sở cho việc thương lượng, ký kết thỏa ước lao động tập thể
ngành, địa phương. Đổi mới cách thức tổ chức đoàn viên, thành lập tổ chức
CĐ và tăng cường mối liên kết giữa CĐ cấp trên với CĐCS và NLĐ, nhằm
tìm ra những giải pháp, kinh nghiệm trong việc đổi mới, đa dạng hóa cách
thức phát triển đoàn viên, thành lập CĐCS; nâng cao trách nhiệm của CĐ cấp
trên trong việc hướng dẫn, giúp đỡ CĐCS được thực hiện tại Liên đoàn Lao
động Thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Bình Dương, Đồng Nai và Đà
Nẵng. Thí điểm phát triển đoàn viên, thành lập nghiệp đoàn nghề cá nhằm tổ
chức cho lao động làm nghề đánh bắt hải sản các hoạt động đoàn kết, giúp đỡ,
bảo vệ nhau trong quá trình hành nghề trên biển. Sau 5 năm thực hiện, các mô
hình thí điểm trên đã đạt được một số kết quả nổi bật. Thí điểm đổi mới công
77
tác phát triển đoàn viên tại Liên đoàn Lao động Hải Phòng, Thành phố Hồ
Chí Minh, Bình Dương, Đồng Nai và Đà Nẵng, mở ra triển vọng mới về đa
dạng hóa cách thức phát triển đoàn viên, vận động thành lập CĐCS. Ngoài
phương pháp vẫn đang thực hiện phổ biến, CĐ cấp trên cơ sở còn tuyên
truyền, vận động, kết nạp CN, lao động vào CĐ ở ngoài doanh nghiệp, trong các
khu nhà trọ. Xây dựng và bồi dưỡng họ trở thành đoàn viên nòng cốt để vận
động số lao động khác trong doanh nghiệp gia nhập tổ chức CĐ. Khi doanh
nghiệp nào có số đoàn viên đông và đủ điều kiện sẽ tiến hành thành lập CĐCS.
Thí điểm thành lập nghiệp đoàn nghề cá ở một số địa phương thu được
kết quả quan trọng. “Tính đến cuối năm 2012, cả nước đã thành lập được 32
nghiệp đoàn nghề cá và kết nạp 5.080 lao động trên 1.085 tàu, thuyền đánh
bắt hải sản vào tổ chức CĐVN” [64, tr.13].
Với những cố gắng nỗ lực của các cấp CĐ trong công tác chỉ đạo thực
hiện, tuyên truyền, vận động, phát triển đoàn viên, thành lập CĐCS, sau 5
năm thực hiện cả nước đã kết nạp mới 3.849.874 đoàn viên, thành lập mới
34.144 CĐCS [61, tr.5] (Xem thêm Phụ lục 2.2, tr.126).
2.2.3.2. Tiếp tục đổi mới nội dung và phương thức hoạt động của tổ
chức Công đoàn
Quán triệt Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư, Ban Chấp hành Trung ương
Đảng khóa X về “Đổi mới, kiện toàn tổ chức bộ máy các cơ quan Đảng, định
hướng về đổi mới tổ chức bộ máy nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn
thể chính trị - xã hội”, ngày 25/3/2009 TLĐLĐVN ban hành Quyết định số
403-QĐ/TLĐ của Đoàn Chủ tịch về “Quy định chức năng, nhiệm vụ, cơ cấu
tổ chức cơ quan Tổng Liên đoàn”, Quyết định số 881-QĐ/TLĐ ngày
16/7/2009 của Đoàn Chủ tịch về “Quy định chức năng, nhiệm vụ, cơ cấu tổ
chức các phòng trực thuộc các ban cơ quan Tổng Liên đoàn” và Quyết định
số 883-QĐ/TLĐ ngày 16/7/2009 của Đoàn Chủ tịch về “Quy định cơ cấu tổ
78
chức bộ máy, biên chế, chức năng, nhiệm vụ cơ quan Liên đoàn Lao động
tỉnh, thành phố, CĐ ngành Trung ương, CĐ Tổng công ty trực thuộc Tổng
Liên đoàn”. Tổ chức CĐ hướng dẫn, chỉ đạo thực hiện việc sắp xếp lại tổ
chức bộ máy, biên chế cán bộ; xác định rõ chức năng, nhiệm vụ các ban
nghiệp vụ của cơ quan Tổng Liên đoàn, Liên đoàn Lao động tỉnh, thành phố,
CĐ ngành Trung ương, CĐ Tổng công ty trực thuộc Tổng Liên đoàn theo
hướng giảm đầu mối các ban nghiệp vụ, tập trung thực hiện chức năng đại
diện, chăm lo, bảo vệ đoàn viên và NLĐ, xây dựng quan hệ lao động hài hòa,
ổn định, tiến bộ, phù hợp với chủ trương đẩy mạnh cải cách hành chính và
nâng cao chất lượng hoạt động của cả hệ thống tổ chức CĐ. Đến năm 2013,
hầu hết các ngành, địa phương đã xây dựng đề án và triển khai thực hiện, tại
cơ quan CĐ tỉnh, thành phố, ngành Trung ương, Tổng công ty trực thuộc
TLĐLĐVN đã giảm một số ban nghiệp vụ.
Trên cơ sở đó, nội dung và phương thức hoạt động CĐ có bước đổi mới,
đã làm rõ hơn về mô hình tổ chức, nội dung, nhiệm vụ từng cấp CĐ, từng
loại hình CĐCS. TLĐLĐVN đã ban hành những văn bản hướng dẫn về tổ
chức, cán bộ, nội dung hoạt động của CĐCS phù hợp với các thành phần
kinh tế và đề cao trách nhiệm của CĐ cấp trên cơ sở, làm rõ nội dung hoạt
động của CĐCS phù hợp với các thành phần kinh tế và đề cao trách nhiệm
của CĐ cấp trên cơ sở trong việc hỗ trợ cho CĐCS, nhất là ở nơi gặp khó
khăn trong hoạt động.
Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ CĐ đã có những chuyển biến tích
cực trong việc đa dạng hóa hình thức, đổi mới nội dung, chương trình,
phương pháp đào tạo; đã tổ chức nhiều lớp tập huấn ngắn ngày theo chuyên
đề; chú trọng bồi dưỡng cán bộ CĐ cấp cơ sở ở doanh nghiệp khu vực ngoài
nhà nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, cán bộ xuất thân từ CN,
79
cán bộ nữ, cán bộ mới tham gia công tác CĐ lần đầu. Hình thành đội ngũ
giảng viên kiêm chức, tăng cường bồi dưỡng tại cơ sở, chú trọng các nội dung
về chính sách, pháp luật lao động, kỹ năng hoạt động CĐ và năng lực, bản
lĩnh đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của NLĐ; gắn
công tác đào tạo với công tác nghiên cứu khoa học về CN và hoạt động CĐ.
Nguồn kinh phí dành cho công tác đào tạo, bồi dưỡng ngày càng tăng.
TLĐLĐVN đã ban hành nhiều văn bản liên quan đến công tác đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ CĐ như Quy chế đào tạo, bồi dưỡng cán bộ CĐ; Xây dựng Đề
án đào tạo, bồi dưỡng cán bộ CĐ giai đoạn 2011 - 2020; Quy định về chương
trình đào tạo lý luận và nghiệp vụ công tác CĐ. Từ năm 2008 đến năm 2013,
đã có hàng trăm ngàn lượt cán bộ được đào tạo, bồi dưỡng, tập huấn về
nghiệp vụ công tác CĐ và nhiều nội dung chương trình khác; có hàng trăm
lượt cán bộ CĐ được bồi dưỡng, tập huấn ở nước ngoài (Xem thêm Phụ lục
2.3, tr.126).
80
TLĐLĐVN đã sửa đổi, bổ sung, ban hành nhiều văn bản về công tác cán bộ phù hợp với các quy định của Đảng, Nhà nước. Chất lượng cán bộ CĐ nhìn chung được nâng lên cả về trình độ chuyên môn, nghiệp vụ công tác, về lý luận chính trị và năng lực thực hiện nhiệm vụ. Cán bộ trẻ, cán bộ nữ, cán bộ CĐ chuyên trách ở các doanh nghiệp ngoài nhà nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài có đông đoàn viên được quan tâm hơn. Phần lớn cán bộ CĐ giữ gìn được phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống, trung thành với sự nghiệp cách mạng của Đảng, nhiệt tình, tận tụy, có trách nhiệm với công tác CĐ. Hầu hết cán bộ CĐ chủ chốt của các ngành, địa phương đều tham gia cấp ủy Đảng, Hội đồng nhân dân cùng cấp, một số đồng chí tham gia Thường vụ cấp ủy, là đại biểu Quốc hội, một số cán bộ CĐ đã được Đảng, Nhà nước điều động, bổ nhiệm, phân công nhiệm vụ mới. Việc đánh giá hàng năm, việc bổ nhiệm, điều động, luân chuyển, khen thưởng, kỷ luật, thực hiện chính sách đối với cán bộ được Tổng Liên đoàn và các cấp CĐ thực hiện nghiêm túc theo đúng quy định của Đảng, Nhà nước và TLĐLĐVN. Công tác cán bộ đã từng bước đi vào nền nếp.
Thực hiện Nghị quyết của Ban Chấp hành TLĐLĐVN (khóa X) về “Tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức và nâng cao chất lượng hoạt động của CĐCS”, các cấp CĐ đã tập trung chỉ đạo thực hiện việc đổi mới nội dung, nâng cao chất lượng hoạt động của CĐCS theo tiêu chuẩn “CĐCS vững mạnh”. Định kỳ hàng năm, tiến hành kiểm tra, đánh giá, phân loại hoạt động của CĐCS. “Tỷ lệ CĐCS đạt tiêu chuẩn vững mạnh bình quân hàng năm đạt gần 77%; riêng cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp và doanh nghiệp nhà nước đạt hơn 84%; trong đó có gần 40% đạt vững mạnh xuất sắc, vượt chỉ tiêu Đại hội X đề ra” [76, tr.65].
Với những cố gắng, nỗ lực của các cấp CĐVN, có thể nói công tác phát triển đoàn viên, thành lập CĐCS giai đoạn 2008 - 2013 đã đạt được những thành tựu nổi bật so với các chỉ tiêu của Nghị quyết Đại hội X CĐVN với tỷ lệ hoàn thành: 219% chỉ tiêu kết nạp đoàn viên, 218,5% chỉ tiêu thành lập CĐCS mà TLĐLĐVN giao cho các đơn vị [61, tr.6] (Xem thêm Phụ lục 2.4, tr.127).
81
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được, công tác phát triển đoàn viên, thành lập CĐCS giai đoạn này vẫn còn tồn tại một số hạn chế. Tốc độ phát triển đoàn viên, thành lập CĐCS chưa theo kịp tốc độ phát triển doanh nghiệp và NLĐ. Công tác tập hợp, kết nạp lao động tự do hợp pháp trong các ngành giao thông vận tải, tiểu thủ công nghiệp, thương mại, dịch vụ, đánh bắt hải sản…vào tổ chức CĐ đến nay còn rất khiêm tốn. Công tác cấp phát, quản lý và sử dụng thẻ đoàn viên ở một số nơi chưa được quan tâm đúng mức. Chất lượng hoạt động ở một số CĐCS còn yếu, hoạt động còn hình thức, chưa tổ chức được những hoạt động thiết thực đối với đoàn viên và NLĐ, chưa lôi cuốn được đông đảo NLĐ tham gia các hoạt động do CĐ tổ chức. Đối với khu vực ngoài nhà nước, việc thực hiện dân chủ còn gặp nhiều khó khăn, bất cập, vai trò của CĐCS ở một số nơi chưa tương xứng với yêu cầu đặt ra. Tỷ lệ doanh nghiệp có thỏa ước lao động tập thể tăng chậm, chất lượng thỏa ước tập thể ở nhiều nơi còn thấp, mang tính hình thức, đối phó.
Tiểu kết chƣơng 2
Từ năm 2008 đến năm 2013, chủ trương, đường lối của Đảng lãnh đạo tổ chức CĐVN ngày càng đi vào chiều sâu. Quán triệt quan điểm lãnh đạo của Đảng, nội dung, phương thức hoạt động của CĐ hướng mạnh về cơ sở phù hợp với các thành phần kinh tế, lấy CNVCLĐ làm đối tượng vận động chính. Công tác tuyên truyền, vận động, giáo dục của CĐ có nhiều đổi mới về nội dung và hình thức, từng bước phù hợp với thực tiễn của cơ sở, bám sát nhu cầu đoàn viên, NLĐ nhất là các hoạt động trong “Tháng CN” mang lại hiệu quả cao. Vai trò của CĐ trong việc đồng hành cùng doanh nghiệp, tháo gỡ khó khăn trong sản xuất kinh doanh, chăm lo đời sống, đại diện, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của CNVCLĐ, xây dựng quan hệ lao động hài hòa, ổn định, tiến bộ tại doanh nghiệp trong điều kiện thực hành nền KTTT định hướng XHCN, đẩy mạnh CNH,HĐH đất nước và hội nhập quốc tế đạt được nhiều kết quả cụ thể, thiết thực. Việc đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động, nâng cao chất lượng hoạt động của tổ chức CĐ và đội ngũ cán bộ CĐ được các cấp CĐ thường xuyên thực hiện. Trong 5 năm (2008 - 2013) đã kết nạp thêm hơn 1,5 triệu đoàn viên CĐ và thành lập mới được 34.144 CĐCS [61, tr.6]. Việc CĐ chủ động, tích cực trong việc vận động, thành lập thí điểm mô hình CĐ ngành Dệt - may và vận động thành lập Nghiệp đoàn nghề cá ở những tỉnh thành phố ven biển đã mở ra phương thức tuyên truyền, vận động, kết nạp đoàn viên CĐ mới hiệu quả hơn. Những thành tích đạt được như trên là một minh chứng khẳng định vị trí, vai trò và trách nhiệm của GCCN và tổ chức CĐ dưới sự lãnh đạo của Đảng trong sự nghiệp CNH,HĐH đất nước.
82
Bên cạnh những kết quả đạt được, hoạt động của CĐVN dưới sự lãnh đạo của Đảng cũng còn tồn tại một số hạn chế. Công tác kiểm tra, thanh gia kiểm tra giám sát thực hiện chế độ, chính sách chưa đồng đều, có nơi còn hình thức. Công tác quản lý đoàn viên CĐ còn chưa thật chặt chẽ. Công tác vận động lao động nữ còn dàn trải. Công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển của GCCN và tổ chức CĐ trong thời kỳ đẩy mạnh CNH,HĐH đất nước.
Chƣơng 3 NHẬN XÉT VÀ KINH NGHIỆM LỊCH SỬ
3.1. Một số nhận xét
Qua quá trình tìm hiểu về sự lãnh đạo của Đảng với hoạt động của
CĐVN từ năm 2003 đến năm 2013, có thể rút ra một số nhận xét sau:
3.1.1. Ưu điểm và nguyên nhân
3.1.1.1. Ưu điểm
Một là, chủ trương lãnh đạo của Đảng đối với tổ chức CĐVN là đúng
đắn, phù hợp, ngày càng được đổi mới và đi vào chiều sâu.
Từ năm 2003 đến năm 2007, trên cơ sở phân tích tình hình thế giới với
xu thế toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc tế là một xu thế khách quan, sự
phát triển mạnh mẽ của khoa học và công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông
tin và công nghệ sinh học có những bước phát triển nhảy vọt, ngày càng trở
thành lực lượng sản xuất trực tiếp, thúc đẩy sự phát triển kinh tế tri thức, làm
chuyển dịch nhanh cơ cấu kinh tế, làm biến đổi sâu sắc các lĩnh vực của đời
sống xã hội. Ở trong nước, sau hơn 20 năm thực hiện đường lối đổi mới,
Đảng tiếp tục lãnh đạo công cuộc đổi mới, phát triển nền KTTT định hướng
XHCN, đẩy mạnh CNH,HĐH đất nước và hội nhập kinh tế quốc tế. Trước
những thời cơ và thách thức lớn của tình hình thế giới và trong nước, để
GCCN Việt Nam xứng đáng là lực lượng đi đầu trong sự nghiệp CNH,HĐH
đất nước và để tổ chức CĐVN có thể thực hiện tốt chức năng bảo vệ quyền,
lợi ích hợp pháp chính đáng của CNVCLĐ, Đảng ta đã xác định nhiệm vụ cơ
bản cho GCCN và tổ chức CĐ. Tại Đại hội lần thứ IX của Đảng (2001) xác
định nhiệm vụ của tổ chức CĐ trong giai đoạn mới là: “Đối với GCCN, coi
trọng việc phát triển số lượng và chất lượng, nâng cao giác ngộ và bản lĩnh
chính trị, trình độ học vấn và nghề nghiệp, thực hiện “trí thức hóa CN”, nâng
83
cao năng lực ứng dụng và sáng tạo công nghệ mới, lao động đạt năng suất,
chất lượng và hiệu quả ngày càng cao, xứng đáng là một lực lượng đi đầu
trong sự nghiệp CNH,HĐH đất nước và vai trò lãnh đạo cách mạng trong thời
kỳ mới. Bảo vệ quyền lợi, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của GCCN
trong điều kiện thực hiện cơ chế thị trường” [4, tr.124-125]. Quan điểm “trí
thức hóa CN” và “bảo vệ quyền lợi, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần
của GCCN trong điều kiện thực hiện cơ chế thị trường” là những nội dung rất
mới trong chủ trương, đường lối lãnh đạo tổ chức CĐVN của ĐCSVN.
Có thể nói, Đảng rất coi trọng vai trò lãnh đạo của mình đối với tổ chức
CĐ, đồng thời Đảng cũng nhận thức rõ được vai trò, vị trí rất quan trọng của
GCCN và tổ chức CĐ đối với việc thực hiện thắng lợi sự nghiệp CNH,HĐH
đất nước. Vì thế, tại Hội nghị lần thứ bẩy Ban Chấp hành Trung ương khóa IX
(2003), một lần nữa quan điểm trên được Đảng ta khẳng định: “Nâng cao giác
ngộ và bản lĩnh chính trị, trình độ học vấn và nghề nghiệp, bồi dưỡng tác phong
công nghiệp, thực hiện “trí thức hóa CN”. Giải quyết việc làm, giảm tối đa tỷ lệ
CN thiếu việc làm và thất nghiệp. Thực hiện tốt pháp luật lao động, bảo hộ lao
động và việc chăm sóc, phục hội sức khỏe cho CN…”[5, tr.15].
Đại hội lần thứ X của Đảng (2006) diễn ra trong bối cảnh Việt Nam trở
thành thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) đánh dấu bước
tiến vượt bậc trong quá trình hội nhập kinh tế của nước ta, tạo ra thời cơ mới
trên con đường phát triển đất nước, nhưng cũng đặt ra những thách thức to
lớn. Trong hội nhập kinh tế quốc tế, Đảng, Nhà nước, CNVCLĐ ngày càng
nhận thức rõ vai trò to lớn của tổ chức CĐ, ủng hộ cho việc thành lập và phát
triển tổ chức CĐ, đặc biệt trong khu vực ngoài nhà nước để CĐ bảo vệ tốt
hơn quyền, lợi ích cho CNVCLĐ. Trên cơ sở nhận thức đó, Đại hội lần thứ X
của Đảng đã đề ra chủ trương mới cho tổ chức CĐ đó là “Xây dựng tổ chức,
phát triển đoàn viên CĐ, nghiệp đoàn đều khắp ở các cơ sở sản xuất kinh
84
doanh thuộc các thành phần kinh tế” [6, tr.118].
Từ năm 2008 đến năm 2013, với sự chuyển biến nhanh chóng của tình
hình thế giới và trong nước, để xây dựng GCCN Việt Nam lớn mạnh, tiếp tục
thực hiện sứ mệnh lịch sử của mình thông qua đội tiên phong là ĐCSVN
trong việc lãnh đạo thực hiện hai nhiệm vụ quan trọng là xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc Việt Nam XHCN, tại Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung
ương Đảng khóa X (2008), Đảng ta đã ra Nghị quyết “Tiếp tục xây dựng
GCCN Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh CNH,HĐH đất nước”. Nghị quyết đã
đánh giá thực trạng tình hình GCCN Việt Nam trong những năm đổi mới, đưa
ra định nghĩa về GCCN Việt Nam, đồng thời xác định rõ vai trò, vị trí của
GCCN và đề ra các quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp để tiếp tục
xây dựng GCCN Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh CNH,HĐH đất nước và hội
nhập quốc tế. Nghị quyết ra đời có ý nghĩa hết sức quan trọng bởi Nghị quyết
này có ý nghĩa quyết định đến sự lớn mạnh của GCCN, khẳng định sự quan
tâm của Đảng đến GCCN và CĐVN trong giai đoạn cách mạng mới của đất
nước. Đồng thời, Nghị quyết đánh dấu bước phát triển quan trọng về lý luận
và thực tiễn của Đảng, khẳng định rõ quan điểm của Đảng về GCCN, là giai
cấp lãnh đạo cách mạng thông qua đội tiên phong là ĐCSVN, là giai cấp tiên
phong đi đầu trong sự nghiệp CNH,HĐH đất nước và hội nhập quốc tế, có sứ
mệnh lịch sử là xây dựng thành công CNXH trên đất nước Việt Nam.
Nghị quyết Đại hội lần thứ XI (2011) của Đảng tiếp tục nhấn mạnh
nhiệm vụ đào tạo, bồi dưỡng, phát triển GCCN Việt Nam lớn mạnh hơn cả về
số lượng, chất lượng, bản lĩnh chính trị, tác phong công nghiệp, kỷ luật lao
động, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp CNH,HĐH và hội nhập quốc tế. Đồng
thời phát huy vai trò lãnh đạo cách mạng của GCCN và vai trò của tổ chức
CĐ trong việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của NLĐ, nâng cao
85
cả đời sống vật chất và tinh thần của CN.
Như vậy, quá trình từ năm 2003 đến năm 2013 đánh dấu những thay đổi
mới mẻ, đúng đắn, hợp lý, theo kịp những chuyển biến nhanh chóng tình hình
thế giới, khu vực và đất nước cũng như hoạt động thực tiễn của phong trào
CN và tổ chức CĐVN. Điều đó thể hiện năng lực tư duy lãnh đạo của Đảng
rất kịp thời.
Hai là, CĐVN đã cụ thể hóa chủ trương của Đảng, kịp thời đề ra được
mục tiêu, phương hướng hoạt động phù hợp.
Là một tổ chức chính trị - xã hội do Đảng trực tiếp lãnh đạo, mục tiêu,
phương hướng hoạt động mà TLĐLĐVN đặt ra chính là việc cụ thể hóa chủ
trương của Đảng, là sự phản ánh chân thực và khách quan những nội dung,
chủ trương, đường lối của Đảng lãnh đạo CĐVN.
Từ năm 2003 đến năm 2007, tại Đại hội CĐVN lần thứ IX (2003) đã xác
định mục tiêu và phương hướng tổng quát của tổ chức CĐVN từ năm 2003
đến năm 2008 là: “Xây dựng GCCN vững mạnh, xứng đáng là lực lượng
nòng cốt, đi đầu trong sự nghiệp CNH,HĐH đất nước và vai trò lãnh đạo cách
mạng trong thời kỳ đổi mới; củng cố và phát triển sâu rộng khối đại đoàn kết
toàn dân tộc trong Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, trên cơ sở liên minh vững
chắc giữa GCCN với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức; tổ chức các phong
trào thi đua yêu nước sôi nổi, rộng khắp, thiết thực và có hiệu quả trong
CNVCLĐ; đẩy mạnh phát triển đoàn viên và tổ chức CĐ trong các thành
phần kinh tế; nâng cao năng lực và trình độ cán bộ CĐ, đổi mới nội dung và
phương thức hoạt động, xây dựng tổ chức CĐ vững mạnh; tham gia xây dựng
Đảng, Nhà nước trong sạch, vững mạnh; mở rộng và tăng cường hợp tác quốc
tế, góp phần thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, xây
dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN”. Khẩu hiệu hành động
được xác định là: “Xây dựng GCCN và tổ chức CĐ vững mạnh, chăm lo bảo
86
vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của CNVCLĐ, góp phần tăng
cường đại đoàn kết toàn dân tộc, thực hiện thắng lợi sự nghiệp CNH,HĐH đất
nước”[44, tr.600].
Trên tinh thần nắm bắt chủ trương, đường lối của Đảng, CĐVN đã chủ
động, kịp thời phân tích đặc điểm tình hình thế giới, khu vực, trong nước,
thực tiễn hoạt động của phong trào CN và CĐVN, từ đó đưa ra mục tiêu,
phương hướng phù hợp với quan quan điểm của Đảng tại Đại hội lần thứ IX
(2001). Tuy nhiên, cũng có thể thấy mục tiêu, phương hướng hoạt động của
CĐ những năm 2003 - 2008 vẫn dừng lại ở việc đề ra mục tiêu, phương
hướng hoạt động chung chung, dàn trải, chưa xác định được nội dung hoạt
động trọng tâm của tổ chức mình trong trong điều kiện thực hiện cơ thế thị
trường định hướng XHCN và hội nhập kinh tế quốc tế.
Từ năm 2008 đến năm 2013, CĐVN đã có bước phát triển căn bản trong
tư duy, nhận thức về nội dung hoạt động của tổ chức CĐ trong tình hình mới.
Từ việc xác định mục tiêu còn tương đối chung chung, đến Đại hội CĐ lần
thứ X (2008), lần thứ XI (2013), TLĐLĐVN đã xác định rõ ràng mục tiêu,
nhiệm vụ của tổ chức CĐ, đó là tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức hoạt
động của tổ chức CĐ, hướng về cơ sở, lấy đoàn viên, CNVCLĐ làm trọng
tâm, thực hiện tốt chức năng đại diện, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính
đáng cho đoàn viên, CNVCLĐ vì sự phát triển bền vững của đất nước.
Đại hội lần thứ X CĐVN mới chỉ xác định khẩu hiệu hành động là “Đổi
mới, sáng tạo; bảo vệ quyền lợi hợp pháp của đoàn viên, CNVCLĐ; vì sự
phát triển ổn định bền vững của đất nước” thì đến Đại hội lần thứ XI CĐVN
đã phát triển thành phương châm hành động là: “Vì quyền, lợi ích hợp pháp,
chính đáng của đoàn viên và NLĐ, vì sự phát triển bền vững của đất nước,
tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của CĐ” [76, tr.85, 86].
Sự chuyển hướng trong việc xác định mục tiêu, phương hướng hoạt động
87
trọng tâm của tổ chức CĐ vừa phù hợp với chủ trương chung của Đảng, vừa
phù hợp với tình hình thực tiễn của tổ chức CĐVN trong điều kiện thế giới,
khu vực và trong nước biến chuyển nhanh chóng. Mục tiêu, phương hướng
hoạt động cho tổ chức CĐ mà TLĐLĐVN đề ra thể hiện rõ sự vận dụng đúng
đắn, linh hoạt chủ trương, đường lối lãnh đạo của ĐCSVN đối với CĐVN.
Ba là, CĐVN có những biện pháp chủ động, sáng tạo và khoa học thực
hiện hiệu quả chủ trương lãnh đạo của Đảng.
Trên cơ sở những mục tiêu, phương hướng đã đề ra trong từng giai đoạn,
tổ chức CĐVN đã đưa ra những biện pháp thực hiện cụ thể qua các kỳ Đại hội
CĐ lần thứ IX, X, XI. Các biện pháp thực hiện được bổ sung, hoàn thiện hơn
thông qua các kỳ Đại hội cho phù hợp với tình hình thực tiễn của thế giới, khu
vực, trong nước và hoạt động của phong trào CN, của tổ chức CĐ. Một số
biện pháp cơ bản được tổ chức CĐVN đề ra là:
- Xây dựng chiến lược hoạt động của tổ chức CĐVN phù hợp với từng giai
đoạn cách mạng, với đặc điểm cụ thể của mỗi ngành, mỗi địa phương và cơ sở.
Xác định rõ nhiệm vụ trọng tâm cần tập trung chỉ đạo thực hiện trong từng thời
gian, tránh dàn trải. Tập trung tham gia giải quyết có hiệu quả những vấn đề bức
xúc của CNVCLĐ. Khắc phục bệnh quan liêu, hành chính trong hoạt động CĐ.
- Đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác, tập trung hướng về
cơ sở, sâu sát với thực tế lao động sản xuất, công tác của đoàn viên, NLĐ.
Tăng cường công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn hoạt động CĐ
nhằm rút ra những kinh nghiệm về nội dung, phương thức hoạt động trong
điều kiện thực hiện nền KTTT định hướng XHCN và hội nhập quốc tế.
- Phát huy trí tuệ, tính tích cực, sáng tạo của đội ngũ cán bộ CĐ, của
đông đảo đoàn viên, CNVCLĐ trong hoạt động CĐ. Tranh thủ sự chỉ đạo
của các cơ quan Đảng, sự phối hợp, hợp tác giúp đỡ của các cơ quan nhà
nước. Tập trung chỉ đạo và đầu tư kinh phí thích hợp cho các hoạt động của
88
CĐVN. Nâng cao chất lượng và đề cao trách nhiệm trong việc thực hiện chế độ
thông tin, báo cáo của lãnh đạo CĐ các cấp. Tiếp tục đẩy mạnh ứng dụng công
nghệ thông tin trong hoạt động CĐ.
Bốn là, quán triệt chủ trương của Đảng, hoạt động của tổ chức CĐVN
ngày càng đi vào chiều sâu.
Công tác tuyên truyền, giáo dục, đoàn viên và NLĐ có nhiều đổi mới về
nội dung và hình thức. Nội dung tuyên truyền cụ thể, sát thực, hiệu quả, đi
vào chiều sâu. Cụ thể là: tập trung vào tuyên truyền, triển khai có hiệu quả các
nghị quyết của Đảng, nhất là Nghị quyết Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành
Trung ương khóa X về “Tiếp tục xây dựng GCCN Việt Nam thời kỳ đẩy
mạnh CNH,HĐH đất nước”. Tổ chức sâu rộng Cuộc vận động “Học tập và
làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền,
phổ biến giáo dục pháp luật trong CNVCLĐ, đặc biệt là CN, lao động ở các
khu vực doanh nghiệp ngoài nhà nước, có vốn đầu tư nước ngoài; tuyên
truyền vận động ngư dân tham gia thành lập Nghiệp đoàn nghề cá và tuyên
truyền, triển khai thực hiện Chương trình phát triển đoàn viên CĐ, v.v..
Hình thức và biện pháp tuyên truyền đa dạng hóa, có nhiều đổi mới phù
hợp với thực tiễn cơ sở, bám sát nhu cầu đoàn viên, NLĐ. Các phương tiện
truyền thông của CĐ và các chương trình phối hợp với các cơ quan báo, đài,
thông tấn xã của Trung ương và địa phương thường xuyên tuyên truyền biên
soạn tờ gấp, sổ tay bỏ túi dành cho CN, lao động, cán bộ CĐCS. Phát triển hệ
thống truyền thanh nội bộ với nội dung hỏi đáp ngắn gọn, dễ hiểu. Tổ chức
các chương trình “Giao lưu - đối thoại” với sự tham gia của các ngành chức
năng nhằm giải đáp những vướng mắc của CNVCLĐ. Cử cán bộ CĐ đến
tuyên truyền cho CN lao động tại khu nhà trọ. Xây dựng các tủ sách pháp luật
với hàng trăm đầu sách. Thành lập hệ thống các Nhà văn hóa Lao động,
“Điểm sinh hoạt văn hóa CN”. Các phương tiện khoa học và công nghệ hiện
89
đại cũng được đưa vào hỗ trợ tuyên truyền như sử dụng máy chiếu, chương
trình phần mềm ứng dụng, thông tin cập nhật thường xuyên, hình ảnh minh
họa cụ thể, sinh động, nội dung tuyên truyền đạt hiệu quả rõ rệt.
Trong các giai đoạn, CĐVN tiếp tục sử dụng thường xuyên và nâng cao
chất lượng các phương tiện truyền thông của CĐ, các chương trình phối hợp
với các cơ quan báo, đài, thông tấn xã của Trung ương và địa phương làm
công tác tuyên truyền mang lại hiệu quả cao. Từ năm 2011, chuyên mục “Lao
động và việc làm” trên Đài Truyền hình Việt Nam đã được đổi tên thành “Lao
động và CĐ”. Cũng từ năm 2011, “Tháng CN” chính thức được CĐ phát
động thực hiện hàng năm gắn liền với kỷ niệm ngày Quốc tế lao động, thu hút
hàng triệu lượt người tham gia, đánh dấu bước phát triển trong đổi mới hình
thức phổ biến, tuyên truyền, giáo dục và tập hợp đoàn viên, NLĐ.
CĐ tích cực, chủ động trong việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính
đáng của CNVCLĐ. Từ năm 2003 đến năm 2013, các cấp CĐ đã tích cực,
chủ động tổ chức các hoạt động nhằm thực hiện chức năng đại diện, bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp chính đáng của đoàn viên, NLĐ. Nổi bật là tổ chức
CĐ đã tập trung nghiên cứu, xây dựng dự thảo Luật CĐ (sửa đổi) và tham gia
xây dựng dự thảo Bộ luật Lao động (sửa đổi). Hai luật trên đã được Quốc hội
thông qua tại kỳ họp thứ ba, khóa XIII, tạo cơ sở pháp lý cho hoạt động và sự
phát triển của tổ chức CĐ trong giai đoạn tới.
Việc thực hiện Quy chế dân chủ, số lượng và chất lượng ký kết thỏa ước
lao động tập thể và triển khai thực hiện thỏa ước lao động tập thể ở cơ sở tăng
lên, nhất là ở các doanh nghiệp ngoài nhà nước. Đặc biệt, TLĐLĐVN đã phối
hợp với Bộ Lao động Thương binh và Xã hội thực hiện thí điểm thành công
việc ký kết thỏa ước lao động tập thể ngành Dệt - may Việt Nam, ngành Dệt -
may Bình Dương. Hoạt động tư vấn pháp luật cho CNVCLĐ được đổi mới,
nâng cao chất lượng, phù hợp với tình hình mới. Hoạt động của Ban Thanh
90
tra nhân dân ở cơ sở đã có bước tiến bộ mới.
Từ yêu cầu của thực tế, nhiều CĐ các cấp trên cơ sở đã cử cán bộ hỗ trợ,
hướng dẫn, giúp đỡ CĐCS tham gia với người sử dụng lao động xây dựng
thang bảng lương, định mức lao động của doanh nghiệp theo đúng quy định
của pháp luật. CĐ một số địa phương đã chủ động tham gia với chính quyền
có biện pháp xử lý tình trạng chủ doanh nghiệp nước ngoài bỏ trốn, nhằm bảo
vệ quyền lợi cho đoàn viên, NLĐ. Nhiều địa phương, CĐ còn vận động chủ
doanh nghiệp tăng tiền lương, tiền làm thêm giờ, tiền ăn ca, các loại phụ cấp.
Năm là, đổi mới nội dung, phương thức và nâng cao chất lượng hoạt động
của tổ chức CĐ và đội ngũ cán bộ CĐ, phát triển mạnh đoàn viên.
Từ năm 2003 đến năm 2013, các cấp CĐ đã có nhiều đổi mới nội dung,
phương thức và nâng cao chất lượng hoạt động của tổ chức CĐ, hướng mạnh
về cơ sở và lấy CNVCLĐ làm đối tượng vận động chính. Chất lượng của đội
ngũ cán bộ CĐ ngày một nâng cao, ngày càng đáp ứng được yêu cầu của
nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn mới. Để mở rộng đối tượng tập hợp và
đổi mới hoạt động, Đoàn Chủ tịch TLĐLĐVN đã thí điểm thành lập CĐ
ngành Dệt - may địa phương, thành lập Nghiệp đoàn nghề cá, làm cơ sở cho
việc thương lượng, ký kết thỏa ước lao động tập thể ngành, địa phương, tăng
cường mối liên kết giữa CĐ cấp trên với CĐCS và NLĐ, nâng cao trách
nhiệm của CĐ cấp trên trong việc hướng dẫn, giúp đỡ CĐCS thực hiện. Mô
hình đổi mới phát triển đoàn viên sau 5 năm thực hiện thí điểm đã mở ra triển
vọng mới về da dạng hóa cách thức phát triển đoàn viên, vận động thành lập
CĐCS. Ngoài phương pháp phổ biến vẫn đang dùng thì CĐ cấp trên cơ sở có
thể tuyên truyền, vận động, kết nạp CN, lao động vào CĐ ở ngoài doanh
nghiệp, trong các khu nhà trọ. Xây dựng bồi dưỡng họ trở thành đoàn viên
nòng cốt để vận động số đông lao động khác trong doanh nghiệp gia nhập tổ
91
chức CĐ.
Nội dung và phương thức hoạt động CĐ có bước đổi mới, đã làm rõ hơn
về mô hình tổ chức, nội dung hoạt động, nhiệm vụ từng cấp CĐ, từng loại
hình CĐCS. Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ CĐ đã có chuyển biến tích
cực theo hướng đa dạng hóa hình thức, đổi mới nội dung, chương trình,
phương pháp đào tạo. Tổ chức nhiều lớp tập huấn ngắn ngày theo chuyên đề,
chú trọng đào tạo bồi dưỡng cán bộ CĐ ở cấp cơ sở, nhất là những khu vực
doanh nghiệp ngoài nhà nước, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Tóm lại, dưới sự lãnh đạo của Đảng từ năm 2003 đến năm 2013, hoạt
động của tổ chức CĐVN ngày một đổi mới về nội dung và phương thức hoạt
động, đem lại hiệu quả ngày càng cao và thiết thực cho CNVCLĐ nói riêng
và sự nghiệp CNH,HĐH đất nước nói chung. Từ đó, khẳng định sự đúng đắn
trong đường lối của Đảng trong lãnh đạo tổ chức CĐVN.
3.1.1.2. Nguyên nhân
Tình hình thế giới, khu vực có nhiều chuyển biến, đem đến cho hoạt
động của tổ chức CĐ những thời cơ lớn. Mặc dù còn những xung đột, tranh
chấp khu vực, nhiều diễn biến phức tạp, song trong hoàn cảnh đó, hoạt động
của GCCN và tổ chức CĐVN có nhiều điều kiện thuận lợi lớn trong việc tiếp
cận khoa học và công nghệ, cơ hội học tập nâng cao trình độ chuyên môn, cơ
hội tiếp cận việc làm và nâng cao thu nhập.
Những thành công trong hoạt động của tổ chức CĐVN có được một
phần không nhỏ là do có sự lãnh đạo của Đảng, sự quan tâm phối hợp của
Nhà nước, các bộ, ngành, các cấp ủy đảng và chính quyền, Mặt trận, các tổ
chức chính trị - xã hội và các cấp ngành. Đảng và Nhà nước đã đề ra đường
lối, chính sách đúng đắn và lãnh đạo CĐ thực hiện có hiệu quả đường lối,
chính sách đó.
Tổ chức CĐVN đã tích cực triển khai những định hướng lớn theo Nghị
92
quyết của Đảng trong các kỳ đại hội. Tổ chức đã nắm bắt nhanh nhạy, chủ
động về tình hình hoạt động thực tiễn của GCCN và CĐ trong nước, quán
triệt sâu sắc những chủ trương, đường lối lãnh đạo của Đảng đối với CĐVN.
CĐVN đã phát huy được tinh thần năng động, sáng tạo của các cấp CĐ
và tinh thần lao động cần cù, sáng tạo, nỗ lực phấn đấu của đông đảo
CNVCLĐ trong cả nước.
3.1.2. Hạn chế và nguyên nhân
3.1.2.1. Hạn chế
Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, trước yêu cầu của sự nghiệp phát
triển nền KTTT định hướng XHCN, đẩy mạnh CNH,HĐH đất nước và hội
nhập quốc tế, hoạt động của tổ chức CĐVN vẫn còn có những hạn chế nhất
định.
Một là, sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước đối với hoạt động
của CĐVN chưa ngang tầm với vị trí, vai trò của tổ chức CĐ.
Ngay từ khi ra đời cho đến nay, ĐCSVN luôn quan tâm, đề ra chủ
trương, đường lối xây dựng và phát triển tổ chức CĐVN ngày một vững
mạnh, xứng đáng là lực lượng nòng cốt, đi đầu trong sự nghiệp CNH,HĐH,
hội nhập quốc tế. Song, sự quan tâm của Đảng đối với GCCN và tổ chức
CĐVN chưa ngang tầm với vị trí, vai trò của CĐ. Đảng chưa có chiến lược
xây dựng, phát triển GCCN hiện đại và tổ chức CĐ như là một bộ phận của
chiến lược phát triển kinh tế - xã hội để thực hiện CNH,HĐH đất nước và hội
nhập quốc tế. Các nghị quyết của Đảng về xây dựng GCCN và tổ chức
CĐVN chưa được triển khai sâu rộng trong toàn bộ hệ thống tổ chức Đảng và
trong hệ thống chính trị nước ta. Do tập trung cho nhiệm vụ phát triển kinh tế
- xã hội hoặc nhiệm vụ chuyên môn mà đa số các tổ chức cơ sở Đảng và các
tổ chức trong hệ thống chính trị chưa quan tâm triển khai chủ trương, nghị
quyết về GCCN và tổ chức CĐ đến tất cả các đảng viên, các ngành, các cấp.
93
Công tác phát triển Đảng, đào tạo cán bộ xuất thân từ CN chưa được chú ý
đúng mức, tỷ lệ đảng viên trong CN, tỷ lệ cán bộ Đảng, Nhà nước, các đoàn
thể chính trị - xã hội từ CN còn thấp. Đảng chưa tập trung lãnh đạo để tạo
được sự phối hợp đồng bộ, thống nhất giữa sự lãnh đạo của Đảng, vai trò
quản lý của Nhà nước và phát huy sức mạnh của các tổ chức chính trị - xã hội
trong triển khai thực hiện xây dựng GCCN và tổ chức CĐ nên hiệu quả chưa
cao.
Công tác quản lý của Nhà nước còn hạn chế, yếu kém, đặc biệt là trong
lĩnh vực ban hành và giám sát việc thực thi chính sách, pháp luật về lao động.
Việc xây dựng và hoàn thiện chế độ, chính sách, pháp luật lao động còn
chậm. Hệ thống chính sách, pháp luật của nước ta còn thiếu đồng bộ. Cụ thể
như Bộ luật Lao động và những văn bản pháp luật về lao động nói chung về
giải quyết tranh chấp lao động, đình công, mặc dù đã được sửa đổi, bổ sung
và từng bước được thực hiện, song đã và đang bộc lộ nhiều hạn chế, chưa
theo kịp với thực tiễn. Nhiều quy định về trình tự, thủ tục đình công, chủ thể
lãnh đạo đình công tỏ ra khó thực thi. Còn thiếu đồng bộ, nhất quán trong tổ
chức thực hiện cơ chế, chính sách của Nhà nước đối với việc chăm lo đến lợi
ích của NLĐ. Trong quá trình chuyển sang phát triển nền KTTT định hướng
XHCN, Nhà nước chú trọng nhiều đến phát triển kinh tế, có lúc, có nơi Nhà
nước coi trọng lợi ích chung, lợi ích người sử dụng lao động, còn e ngại, ảnh
hưởng đến môi trường đầu tư, nên chưa thực sự quan tâm đến lợi ích của CN,
dẫn đến chủ trương, chính sách đối với NLĐ chậm đổi mới và chứa đựng
những bất cập.
Công tác đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ học vấn, chuyên môn
nghề nghiệp, công tác giáo dục pháp luật, giáo dục truyền thống cách mạng,
đạo đức nghề nghiệp cho CN, lao động, nhất là CN, lao động ở các doanh
nghiệp ngoài nhà nước, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chưa được
94
chú trọng, còn nhiều hạn chế, chưa tạo được sự phối hợp đồng bộ giữa các
ngành, các cấp nên hiệu quả chưa cao. Công tác kiểm tra, giám sát thực hiện
các chủ trương, chính sách đối với CN, lao động chưa được quan tâm thường
xuyên, đúng mức. Một số cơ chế, chính sách đối với CN, CĐ đề ra khá tốt,
nhưng trong tổ chức thực hiện còn chậm, sai lệch, làm trở ngại cho thực hiện
vai trò, chức năng của CĐ. Điển hình như đã có cơ chế bảo đảm quyền dân
chủ trực tiếp, dân chủ đại diện cho CN thông qua tổ chức CĐ ở cơ sở, Đại hội
CN, viên chức, Hội nghị CN, lao động, Ban Thanh tra nhân dân, thương
lượng ký kết thỏa ước lao động tập thể, nhưng trong thực tế thì điều kiện để
CĐ thực hiện quyền, nghĩa vụ của mình trong các lĩnh vực trên chưa được
quan tâm đúng mức.
Hai là, hoạt động của CĐVN còn tồn tại những bất cập trong quá
trình triển khai cụ thể chủ trương của Đảng, phương hướng, nhiệm vụ của
tổ chức CĐ.
Hoạt động tuyên truyền, giáo dục, vận động CNVCLĐ về chủ trương
của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và các nghị quyết của CĐ mặc
dù đã được triển khai, sử dụng nhiều kênh thông tin, tuy nhiên thông tin còn ít
hấp dẫn. Nội dung tuyên truyền, giáo dục còn nặng về lý luận, chưa sát với
thực tiễn và yêu cầu cụ thể, đa dạng của từng loại hình cơ sở, mới chỉ tập
trung nhiều ở khu vực cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp nhà nước. Việc tuyên
truyền, giáo dục chủ yếu mới chỉ đến được với cán bộ CĐCS, chưa đến được
với số đông CN, lao động sản xuất trực tiếp. Chưa có biện pháp thích hợp để
nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền pháp luật, nhất là ở các doanh nghiệp
ngoài nhà nước, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, nên kết quả đạt được
chưa cao. Việc nắm bắt dư luận, xử lý kịp thời diễn biến tư tưởng trong đoàn
viên, NLĐ còn hạn chế. Công tác nghiên cứu lý luận và đội ngũ làm công tác
95
nghiên cứu lý luận về CN, CĐ còn hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu thực
tiễn của phong trào CN, tổ chức và hoạt động CĐ trong tình hình mới. Chất
lượng các đề tài nghiên cứu chậm được ứng dụng trong thực tiễn.
Hoạt động bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng CNVCLĐ của tổ
chức CĐVN trong những năm vừa qua đã được thực hiện. CĐ ngày càng phát
huy được vị trí, vai trò của mình là tổ chức đại diện cho cán bộ, CNVCLĐ.
Tuy nhiên, trong hoạt động thực tiễn, các hoạt động bảo vệ quyền, lợi ích hợp
pháp, chính đáng CNVCLĐ của tổ chức CĐ vẫn còn một số mặt chưa thực
hiện tốt. Chất lượng tham gia xây dựng, hoàn thiện một số chính sách, pháp
luật liên quan đến đoàn viên, NLĐ và CĐ chưa cao. Vai trò tham gia quản lý,
đại diện, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của NLĐ ở một số
ngành, địa phương, cơ sơ hiệu quả còn thấp. Công tác kiểm tra, tham gia kiểm
tra, giám sát thực hiện chế độ, chính sách chưa đồng đều, có nơi còn hình
thức. CĐCS chưa lãnh đạo được đình công theo quy định của pháp luật, tham
gia giải quyết tranh chấp lao động, ngừng việc tập thể, đình công còn bị động,
lúng túng. Hoạt động tư vấn pháp luật, tư vấn đào tạo nghề, giới thiệu việc
làm chất lượng, hiệu quả chưa đáp ứng được yêu cầu của NLĐ.
Công tác phát triển đoàn viên và thành lập CĐCS tuy phát triển nhanh,
nhưng chất lượng đoàn viên, chất lượng CĐCS ở một số nơi chưa đáp ứng
được yêu cầu đề ra. Tốc độ phát triển đoàn viên, thành lập CĐCS khu vực
doanh nghiệp ngoài nhà nước, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chưa
theo kịp tốc độ phát triển của doanh nghiệp. Công tác khảo sát, dự báo tình
hình phát triển doanh nghiệp và CN, lao động chưa được thực hiện nghiêm
túc và khoa học, vì vậy xây dựng kế hoạch phát triển đoàn viên chưa sát với
tình hình thực tế, còn mang tính ước lệ, thiếu tính dự báo, nên một số đơn vị
có tỷ lệ phát triển đoàn viên ồ ạt vượt nhiều lần so với chỉ tiêu được giao hoặc
cũng có những đơn vị chưa hoàn thành kế hoạch đề ra. Công tác quản lý đoàn
96
viên CĐ còn yếu kém, chưa nắm chắc sự tăng giảm đoàn viên trong từng địa
bàn, khu vực. Việc thành lập Ban Chỉ đạo phát triển đoàn viên của các cấp
CĐ nhiều nơi còn mang tính hình thức, hiệu quả chỉ đạo và tổ chức thực hiện
thấp. Một số đơn vị có Ban Chỉ đạo phát triển đoàn viên nhưng mọi việc lại
“khoán trắng” cho ban tổ chức.
Chất lượng hoạt động ở một số CĐCS còn yếu, hoạt động còn hình thức,
chưa tổ chức được những hoạt động thiết thực đối với đoàn viên và NLĐ,
chưa lôi cuốn được đông đảo người lao động tham gia các hoạt động do CĐ
tổ chức. Đối với khu vực doanh nghiệp ngoài nhà nước, việc thực hiện Quy
chế dân chủ còn gặp nhiều khó khăn, bất cập, vai trò của CĐCS ở một số nơi
chưa tương xứng với yêu cầu đề ra. Tỷ lệ doanh nghiệp có thỏa ước lao động
tập thể tăng chậm, chất lượng thỏa ước lao động tập thể ở nhiều nơi còn thấp,
mang tính hình thức, đối phó. Hàng năm, vẫn còn xảy ra hàng trăm vụ đình
công, dừng việc tập thể của CN, lao động không do CĐ tổ chức, mà hầu hết
những yêu sách của CN, lao động đều xuất phát từ quyền và lợi ích hợp pháp,
chính đáng của NLĐ, đang bị chủ doanh nghiệp từ chối, không thực hiện theo
quy định của pháp luật. Khu vực ngoài nhà nước còn nhiều CĐCS không thu
được kinh phí CĐ, thiếu kinh phí để tổ chức hoạt động. Các hoạt động của
CĐCS đều phải xin phép chủ doanh nghiệp mới được triển khai. Việc phân
loại CĐCS hàng năm ở một số ngành, địa phương, CĐ cấp trên trực tiếp cơ sở
mang tính hình thức, chạy theo chỉ tiêu thi đua, chưa sát với thực tiễn hoạt
động của CĐCS.
Đội ngũ cán bộ CĐCS còn nhiều hạn chế về phẩm chất và năng lực cũng
như bản lĩnh chính trị để đấu tranh bảo vệ quyền, lợi ích của NLĐ. Nội dung,
phương pháp đào tạo, bồi dưỡng cán bộ CĐ chưa gắn với tiêu chuẩn, quy
hoạch, sử dụng cán bộ. Công tác quản lý cán bộ ở một số ngành, địa phương
97
chưa tốt; việc luân chuyển cán bộ của CĐ cấp trên cơ sở và cử cán bộ CĐ đi
thực tế cơ sở còn ít. Tỷ lệ cán bộ nữ chủ chốt trong các cấp CĐ còn thấp, chưa
tương xứng với tiềm năng và tỷ lệ nữ CNVCLĐ.
Ba là, sự phối hợp hoạt động giữa tổ chức CĐ với các tổ chức chính trị -
xã hội và các cơ quan chức năng còn thiếu chặt chẽ.
Trên thực tế, trong quá trình triển khai thực hiện các nghị quyết và
Chương trình hành động của CĐ ngành, địa phương, của Tỉnh ủy, Thành ủy
còn chậm, thiếu đồng bộ; công tác thanh tra, kiểm tra, đôn đốc chưa thường
xuyên. Sự chỉ đạo phối hợp của một số cấp ủy Đảng, một số bộ, ngành với tổ
chức CĐ còn thiếu đồng bộ. Nhiều cấp ủy Đảng chưa quan tâm đầy đủ việc
triển khai thực hiện, chưa cụ thể hóa thành kế hoạch và chương trình hành
động. Chưa có sự phân công rõ về vị trí, chức năng, nhiệm vụ của các chủ thể
tham gia hoạt động của tổ chức CĐ. Các hoạt động của CĐVN đã có sự liên
hệ với các tổ chức chính trị - xã hội, tuy nhiên sự liên hệ còn ít và thiếu chặt
chẽ. Một số tổ chức chính trị - xã hội coi nhiệm vụ xây dựng GCCN và tổ
chức CĐ là việc riêng của tổ chức CĐ.
Bốn là, hoạt động của CĐVN đôi lúc còn thụ động, thiếu linh hoạt.
Đại hội lần thứ XI CĐVN đã đề ra phương châm hành động cho tổ chức
CĐ là: “Vì quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của đoàn viên và NLĐ, vì sự
phát triển bền vững của đất nước; tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức hoạt
động của CĐ”. Mặc dù, CĐVN đã xác định được vấn đề trọng tâm, song
trong quá trình thực hiện vẫn chưa thực hiện tốt nội dung phương châm hành
động đã được đề ra. Các chức năng của CĐ còn chậm được thể chế hóa; chưa
vận dụng linh hoạt cho phù hợp với tổ chức và hoạt động của CĐ trong từng
thành phần kinh tế. Trên thực tế, việc triển khai chức năng bảo vệ quyền, lợi
ích hợp pháp, chính đáng của CNVCLĐ mới chỉ được thực hiện tốt ở các đơn
vị, doanh nghiệp khu vực nhà nước, còn ở khu vực doanh nghiệp ngoài nhà
98
nước, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chức năng trên thực hiện chỉ ở
một mức độ nhất định, hiệu quả chưa cao. Các phương pháp tuyên truyền có
được bổ sung nhưng chưa được thường xuyên. Việc xác định nhiệm vụ, phân
công, phân cấp chỉ đạo đối với CĐ cấp trên cơ sở, CĐ ngành Trung ương và
Liên đoàn Lao động địa phương còn một số vướng mắc chậm được giải
quyết. Tình trạng hành chính, quan liêu, chưa được khắc phục triệt để trong
cán bộ CĐ. Tài chính của CĐ còn gặp nhiều khó khăn, không đủ kinh phí cho
hoạt động, trong khi đó lại vẫn còn có tư tưởng trông chờ, thiếu chủ động
trong việc đặt mối quan hệ với các nhà tài trợ bên ngoài.
Năm là, đội ngũ cán bộ làm công tác CĐ còn bộc lộ một số hạn chế, chưa
đáp ứng được yêu cầu và nhiệm vụ mới.
CĐVN đã chú ý quan tâm đào tạo đội ngũ cán bộ làm công tác CĐ và có
những chuyển biến, nhưng nhìn chung chất lượng cán bộ chuyên trách về hoạt
động của CĐ còn hạn chế, về số lượng chưa đảm bảo yêu cầu, nhất là trong
giai đoạn đẩy mạnh CNH,HĐH đất nước và hội nhập quốc tế. Nội dung đào
tạo, bồi dưỡng cán bộ CĐ từ đào tạo chính quy đến tập huấn ngắn ngày chưa
thực sự phù hợp với những yêu cầu thực tế phong trào CNVCLĐ và hoạt
động của CĐ. Đội ngũ cán bộ CĐCS chủ yếu là không chuyên trách, lại phải
kiêm nhiệm nhiều công việc, do đó có ít thời gian dành cho hoạt động CĐ và
còn phụ thuộc vào người sử dụng lao động. Việc tuyên truyền nâng cao trình
độ, nhận thức cho đội ngũ cán bộ CĐ về chủ trương, đường lối của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước, nghị quyết của CĐ chưa được tiến hành
thường xuyên, liên tục.
3.1.2.2. Nguyên nhân
Vấn đề xây dựng GCCN và tổ chức CĐ tuy đã được Đảng và Nhà nước
quan tâm nhưng chưa đồng bộ và thiếu cụ thể. Chẳng hạn như, đã 5 năm thực
hiện Nghị quyết số 20 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X về “Xây
99
dựng GCCN Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh CNH,HĐH đất nước”, nhưng những
vấn đề bức xúc đã nêu trong Nghị quyết đến nay vẫn chưa được giải quyết
thỏa đáng, nhiều cơ chế, chính sách chưa được ban hành.
Việc thể chế hóa các quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà
nước đối với tổ chức CĐVN còn chưa đầy đủ, thiếu đồng bộ. Mặt trái của
KTTT và những tiêu cực trong xã hội đã tác động trực tiếp đến đội ngũ người
lao động và hoạt động CĐ. Hệ thống pháp luật, chính sách chưa đồng bộ; một
số văn bản quy định được ban hành nhưng còn chồng chéo và không nhất
quán, gây khó khăn cho việc tổ chức thực hiện. Hiệu lực quản lý nhà nước về
lao động trên một số mặt còn hạn chế. Một số quy định của pháp luật không
được thực thi nghiêm túc.
Một số cấp ủy Đảng, chính quyền chưa nhận thức đúng về vai trò, chức
năng, nhiệm vụ của CĐ, có lúc còn coi nhẹ hoặc can thiệp quá sâu vào hoạt
động của CĐ; có những chính sách, chế độ liên quan đến CNVCLĐ, cán bộ
CĐ không phù hợp, CĐ đã kiến nghị nhiều lần nhưng chưa được nghiên cứu
bổ sung, sửa đổi. Kinh phí dành cho sự phát triển tổ chức và hoạt động của
CĐCS ngoài nhà nước còn hạn chế.
Nhận thức của một bộ phận đoàn viên, NLĐ, cán bộ CĐ về GCCN, về
vai trò, vị trí, chức năng, nhiệm vụ của CĐ trong cơ chế thị trường định
hướng XHCN chưa đầy đủ và sâu sắc.
3.2. Kinh nghiệm lịch sử
Từ những ưu điểm và hạn chế trong hoạt động của tổ chức CĐ dưới sự
lãnh đạo của Đảng từ năm 2003 đến năm 2013, có thể rút ra một số kinh
nghiệm sau đây:
3.2.1. Đảng lãnh đạo Công đoàn phải trực tiếp, toàn diện trong việc
quán triệt sâu sắc đường lối, quan điểm, nghị quyết của Đảng, chính sách
100
pháp luật của Nhà nước
ĐCSVN là đội tiên phong của GCCN, đồng thời là đội tiên phong của
nhân dân lao động và của cả dân tộc Việt Nam; đại biểu trung thành lợi ích
của GCCN, nhân dân lao động và của cả dân tộc. Sự lãnh đạo sâu sát, trực
tiếp, toàn diện của Đảng đối với CĐ thể hiện ở việc thể chế hóa chủ trương
của Đảng thành luật pháp, chính sách của Nhà nước, sự chủ động, sáng tạo,
hiệu quả trong hoạt động của các cấp CĐ, tinh thần tự chủ đoàn kết vượt khó
vươn lên của đoàn viên, CNVCLĐ là những nhân tố cơ bản quyết định thành
công trong hoạt động của tổ chức CĐVN, mà trong đó, nhân tố lãnh đạo của
Đảng là nhân tố quan trọng nhất. Những chủ trương, đường lối của Đảng lãnh
đạo CĐ mỗi thời kỳ có sự thay đổi cho phù hợp với hoàn cảnh lịch sử cụ thể.
Vấn đề quan trọng hàng đầu trong lãnh đạo hoạt động của CĐ là tổ chức,
động viên CNVCLĐ phát huy tinh thần làm chủ, tính sáng tạo, ý chí phấn đấu
cao để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị của mình trong từng thời kỳ
cách mạng. Đảng lãnh đạo tổ chức CĐ phải thường xuyên đổi mới nội dung
và phương thức hoạt động, luôn phối hợp chặt chẽ với chính quyền và các
đoàn thể chính trị - xã hội để động viên CNVCLĐ phấn đấu hoàn thành tốt
các nhiệm vụ chính trị của mỗi cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp trong từng thời
kỳ. Bên cạnh đó, CĐVN cũng phải coi trọng và chủ động phối hợp công tác
với chính quyền, cơ quan hữu quan, các tổ chức chính trị - xã hội, người quản
lý để tạo thành sức mạnh tổng hợp, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của
CĐ.
3.2.2. Đảng lãnh đạo Công đoàn cần phải tăng cường thực hiện đổi
mới nội dung và phương thức hoạt động của tổ chức Công đoàn trong tình
hình mới
Qua hoạt động thực tiễn của CĐ, có thể thấy Đảng cần tăng cường lãnh
đạo việc đổi mới nội dung và phương thức hoạt động của CĐ theo hướng tăng
cường và nâng cao chất lượng của công tác tuyên truyền, vận động, giáo dục
101
CNVCLĐ cả về nội dung, hình thức để tập hợp, giáo dục CNVCLĐ, thuyết
phục người sử dụng lao động ủng hộ công tác phát triển đoàn viên và xây
dựng tổ chức CĐ ở doanh nghiệp, nhất là ở khu vực kinh tế ngoài nhà nước,
có vốn đầu tư nước ngoài. Đảng lãnh đạo CĐ cần chỉ đạo các cấp CĐ phải
đặc biệt coi trọng chức năng đại diện và bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp,
chính đáng của CNVCLĐ, coi đây là một trong những nhiệm vụ trung tâm
trong suốt quá trình hoạt động của tổ chức CĐ. Hoạt động CĐ luôn quan tâm
đến những vấn đề có liên quan trực tiếp đến NLĐ như việc làm, đời sống, thu
nhập, tâm tư, tình cảm, nguyện vọng của CNVCLĐ, thông qua đó để tập hợp,
vận động NLĐ gia nhập tổ chức CĐ. Đảng lãnh đạo CĐ làm tốt được điều
này sẽ là yếu tố quyết định, gắn kết giữa đoàn viên và NLĐ với tổ chức CĐ.
Đảng lãnh đạo, chỉ đạo sao cho mọi hoạt động của CĐ phải hướng về cơ
sở, tập trung củng cố, xây dựng CĐCS vững mạnh, nâng cao vai trò, chất
lượng hoạt động của CĐ cấp trên trực tiếp cơ sở để giúp đỡ, hỗ trợ, giải quyết
vướng mắc cho CĐCS và những doanh nghiệp chưa có tổ chức CĐ.
Ngoài ra, Đảng chỉ đạo các tổ chức CĐ luôn luôn cải tiến lề lối, phương
thức làm việc, giữ vững kỷ luật công tác, chống bệnh hành chính, hình thức
đơn thuần trong hoạt động CĐ; xác định rõ những việc trọng tâm, trọng điểm
để tập trung chỉ đạo thực hiện; nâng cao chất lượng tham mưu cho Đảng,
tham gia với Nhà nước xây dựng, bổ sung, sửa đổi các chính sách, pháp luật
có liên quan trực tiếp đến đoàn viên, NLĐ, tổ chức CĐ.
3.2.3. Đảng cần thường xuyên quan tâm lãnh đạo công tác đào tạo,
bồi dưỡng xây dựng đội ngũ cán bộ Công đoàn có phẩm chất, năng lực đáp
ứng yêu cầu, nhiệm vụ
Cán bộ luôn là cái gốc của phong trào. Ở đâu cán bộ hoạt động tốt thì ở
đó phong trào hoạt động sôi nổi, hiệu quả. Bởi vậy, muốn nâng cao hiệu quả
hoạt động của tổ chức CĐ, việc quan trọng nhất là Đảng cần thường xuyên
quan tâm lãnh đạo công tác đào tạo đội ngũ cán bộ CĐ chuyên trách, đặc biệt
102
là cán bộ CĐCS chuyên trách. Đào tạo đội ngũ cán bộ CĐ chuyên trách cũng
là một việc không hề dễ dàng. Người cán bộ CĐ chuyên trách hiện nay cần
được đào tạo có hệ thống những kiến thức về quản lý, kinh tế, am hiểu về
pháp luật, có kiến thức về lý luận và nghiệp vụ công tác CĐ; nắm vững vai
trò, vị trí, chức năng của tổ chức CĐ; rèn luyện phương pháp hoạt động của
người cán bộ CĐ, đồng thời phải là người có khả năng tập hợp và tổ chức các
phong trào hành động trong đoàn viên, NLĐ và tổ chức CĐ. Các kỹ năng
trong hoạt động CĐ như kỹ năng giao tiếp, kỹ năng đàm phán, kỹ năng thuyết
trình, kỹ năng thương lượng, kỹ năng lắng nghe, kỹ năng soạn thảo, lưu trữ
văn bản, kỹ năng vận động, thuyết phục người lao động, kỹ năng giải quyết
các tranh chấp lao động một cách hài hòa, ổn định cần được hoàn thiện. Bên
cạnh đó, đào tạo ngoại ngữ, nắm bắt công nghệ mới cũng là một việc làm vô
cùng cần thiết trong thời đại hội nhập quốc tế hiện nay. Không chỉ cần kiến
thức chuyên môn tốt, cán bộ CĐ cần được đào tạo để có bản lĩnh chính trị
vững vàng, có đạo đức và phẩm chất tốt, có ý thức tổ chức kỷ luật và có kinh
nghiệm hoạt động.
Đảng lãnh đạo CĐ chủ động xây dựng và thực hiện quy hoạch đội ngũ
cán bộ CĐ, chú ý bồi dưỡng cán bộ xuất thân, trưởng thành từ CN và hoạt
động từ cơ sở. TLĐLĐVN cần đào tạo, bồi dưỡng cho cả thành phần cán bộ
không chuyên trách. TLĐLĐVN, CĐ ngành Trung ương, CĐ Tổng công ty,
Liên đoàn Lao động tỉnh, thành phố tổ chức các lớp bồi dưỡng kiến thức, kinh
nghiệm về công tác CĐ cho cán bộ chủ chốt của các cấp CĐ. Đảng cần chỉ
đạo Nhà nước, cấp Trung ương và tỉnh, thành CĐ đầu tư huấn luyện cán bộ,
cung cấp kinh phí cho hoạt động nghiên cứu khoa học và tài liệu về hoạt động
CĐ cho cán bộ CĐ theo đối tượng, vùng miền, theo chuyên đề. CĐ trong
Tổng công ty, cấp quận, huyện và cơ sở tổ chức các buổi sinh hoạt chuyên đề,
sinh hoạt tổ CĐ, sinh hoạt câu lạc bộ. Tăng cường chỉ đạo các cơ quan thông
tin truyền thông của Đảng, Nhà nước tăng đầu sách, báo, chuyên mục về hoạt
103
động CĐ…Thông qua các hoạt động phong phú đó, CĐVN sẽ tạo sự hiểu biết
thống nhất về vai trò của hoạt động CĐ tới từng cá nhân, mỗi cán bộ, đoàn
viên của CĐVN từ đó sẽ có ý tức tham gia và góp phần vào hoạt động của
CĐVN.
Thực tế đang đặt ra nhiều vấn đề về công tác cán bộ CĐ trong tình hình
mới, điều quan trọng là Đảng cần định hướng cho tổ chức CĐVN đặt ra được
những tiêu chuẩn cụ thể để đào tạo, tuyển chọn, đánh giá cán bộ CĐ về năng
lực chuyên môn, trình độ ngoại ngữ, phẩm chất chính trị, đạo đức, tác phong
của người làm công tác CĐ.
3.2.4. Đảng đề ra đường lối lãnh đạo Công đoàn Việt Nam phải không
tách rời với việc thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội của đất nước, của
từng địa phương, cơ sở
CĐ là tổ chức rộng lớn của GCCN và của NLĐ, là cơ sở xã hội quan
trọng của ĐCSVN, dưới sự lãnh đạo của Đảng, là thành viên của hệ thống
chính trị - xã hội nước ta. Sự vững mạnh của CĐVN không tách rời với sự
lãnh đạo của Đảng và sự phát triển, trưởng thành của hệ thống chính trị ở
nước ta. Vì thế, mục tiêu hoạt động của tổ chức CĐ phải gắn với các mục tiêu
kinh tế - xã hội của đất nước trong thời kỳ mới, xứng đáng là tổ chức của
GCCN Việt Nam, giai cấp tiên phong, đi đầu trong sự nghiệp đẩy mạnh
CNH,HĐH đất nước.
Thực hiện xã hội hóa hoạt động của CĐ trên cơ sở liên kết, phối hợp
rộng rãi với các ngành, các đoàn thể, mở rộng hợp tác quốc tế, đồng thời coi
trọng phát huy truyền thống sức mạnh đoàn kết và tiềm năng to lớn của tất cả
cán bộ, đoàn viên, CNVCLĐ tạo thành sức mạnh tổng hợp giải quyết có hiệu
quả các vấn đề hoạt động của tổ chức CĐVN.
Sự hưởng ứng, đóng góp to lớn của cán bộ, CNVCLĐ vào các hoạt động
xã hội, nhân đạo, từ thiện như "Quỹ tấm lòng vàng lao động”, “Mái ấm CĐ”,
104
“Vì nữ CN, lao động nghèo”, “Bảo trợ trẻ em CĐVN”, “Đền ơn đáp nghĩa”,
mang ý nghĩa chính trị, xã hội, nhân văn sâu sắc, góp phần thực hiện có hiệu
quả chủ trương xóa đói, giảm nghèo của Đảng, củng cố khối đại đoàn kết toàn
dân tộc, khơi dậy truyền thống tương thân, tương ái của dân tộc Việt Nam,
qua đó, góp phần nâng cao vị thế của CĐVN.
3.2.5. Đảng lãnh đạo Công đoàn Việt Nam cần chú trọng công tác
nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn về nội dung và phương thức hoạt
động
CĐVN cần thường xuyên kiểm tra, đánh giá hoạt động của tổ chức mình,
có như vậy mới thấy được những mặt đã làm được, những mặt chưa làm được
trong hoạt động thực tiễn của tổ chức mình, tình hiểu rõ nguyên nhân chủ
quan, khách quan dẫn tới hệ quả trên, đồng thời rút ra bài học kinh nghiệm,
xây dựng được phương thức hoạt động tiếp theo của tổ chức mình. CĐVN
cần đầu tư cho công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn về nội dung,
phương thức hoạt động CĐ để từ đó có cơ sở khoa học đề xuất, tham gia xây
dựng luật pháp, chính sách và xây dựng chủ trương công tác của tổ chức mình
sao cho đúng, phù hợp với yêu cầu thực tiễn của hoạt động CĐ trong tình
hình mới. Công tác này có ý nghĩa rất quan trọng trong việc nâng cao vai trò
và hiệu quả hoạt động của CĐ.
Tình hình thế giới, khu vực và đất nước luôn chuyển biến nhanh chóng
và sâu sắc trong từng giai đoạn khác nhau, CĐ cần phải đổi mới thường
xuyên để đảm bảo linh hoạt cả về phương thức lẫn nội dung hoạt động nhằm
đem lại hiệu quả cao nhất. Nếu như trước đây, nội dung hoạt động của CĐ
còn chung chung, thì hiện nay hoạt động của CĐ đã chỉ rõ phải tập trung vào
những nhiệm vụ trọng tâm, hướng tới cơ sở, vì đoàn viên và NLĐ, vì sự phát
105
triển bền vững của đất nước.
Tiểu kết chƣơng 3
Trong thời gian từ năm 2003 đến năm 2013, vận dụng chủ trương, đường
lối đúng đắn của Đảng lãnh đạo CĐVN, tổ chức CĐ đã đề ra phương hướng
hoạt động phù hợp với tình hình hoạt động của tổ chức mình với những biện
pháp chủ động, tích cực, linh hoạt, đem lại hiệu quả ngày càng cao và thiết
thực cho tổ chức CĐVN nói riêng, góp phần vào thành tựu của sự nghiệp
CNH,HĐH, hội nhập quốc tế của đất nước nói chung. CĐVN đã tập trung
thực hiện tốt các chức năng, nhiệm vụ tuyên truyền, vận động, giáo dục chủ
trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, Nghị quyết
của CĐ đến đông đảo CNVCLĐ; bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng
của CNVCLĐ trong điều kiện thực hiện nền KTTT định hướng XHCN, đẩy
mạnh CNH,HĐH đất nước và hội nhập quốc tế; phát triển đoàn viên, đổi mới
nội dung, phương thức và chất lượng hoạt động của tổ chức CĐ và đội ngũ
cán bộ CĐ.
Tuy nhiên, hoạt động của CĐ vẫn còn có những hạn chế: Sự lãnh đạo
của Đảng, quản lý của Nhà nước đối với hoạt động của CĐVN chưa ngang
tầm với vị trí, vai trò của tổ chức CĐ. Hoạt động của CĐVN còn tồn tại
những bất cập trong quá trình triển khai cụ thể chủ trương của Đảng, phương
hướng, nhiệm vụ của tổ chức CĐ. Sự phối hợp hoạt động giữa tổ chức CĐ với
các tổ chức chính trị - xã hội và các cơ quan chức năng còn thiếu chặt chẽ.
Phương thức hoạt động của CĐVN đôi lúc còn thụ động, thiếu linh hoạt. Đội
ngũ cán bộ làm công tác CĐ của tổ chức CĐVN còn bộc lộ một số hạn chế,
chưa đáp ứng được yêu cầu và nhiệm vụ trong giai đoạn mới.
Để khắc phục những hạn chế này, CĐVN cần thực hiện tốt các kinh
nghiệm lịch sử. Cụ thể là: Đảng lãnh đạo CĐ phải trực tiếp, toàn diện trong
việc quan triệt sâu sắc đường lối, quan điểm, nghị quyết của Đảng, chính
106
sách, pháp luật của Nhà nước; Đảng lãnh đạo CĐ cần phải tăng cường thực
hiện đổi mới nội dung và phương thức hoạt động của tổ chức CĐ trong tình
hình mới đồng thời Đảng cần thường xuyên quan tâm lãnh đạo công tác đào
tạo, bồi dưỡng xây dựng đội ngũ cán bộ CĐ có phẩm chất, năng lực đáp ứng
yêu cầu nhiệm vụ. Đảng đề ra đường lối lãnh đạo Công đoàn Việt Nam phải
không tách rời với việc thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội của đất nước,
của từng địa phương, cơ sở. Đảng lãnh đạo Công đoàn Việt Nam cần chú
trọng công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn về nội dung và phương
107
thức hoạt động.
KẾT LUẬN
Nghiên cứu sự lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động của CĐVN từ năm
2003 đến năm 2013 có thể thấy, CĐVN đã năng động, sáng tạo vượt qua mọi
khó khăn, thử thách đạt được những thành tựu rất đáng ghi nhận.
Thực hiện đường lối đổi mới do ĐCSVN khởi xướng và lãnh đạo, phát
triển nền KTTT định hướng XHCN và hội nhập quốc tế trong bối cảnh muôn
vàn khó khăn, thử thách, do tác động của tình hình kinh tế, chính trị thế giới
và mặt trái của KTTT, của hội nhập quốc tế, từ năm 2003 đến năm 2013, trên
cơ sở những chủ trương lãnh đạo đúng đắn, phù hợp của Đảng, CĐVN đã cụ
thể hóa chủ trương của Đảng, kịp thời đề ra những phương hướng hoạt động
phù hợp với tình hình của tổ chức và ngày một hoàn chỉnh với những biện
pháp chủ động, sáng tạo, khoa học. Nội dung hoạt động của CĐ ngày càng
phong phú, được tăng cường về chất; đã chú trọng công tác tuyên truyền, vận
động, giáo dục CNVCLĐ thực hiện chủ trương của Đảng, chính sách, pháp
luật của Nhà nước; đã tăng cường thực hiện có hiệu quả chức năng đại diện,
bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng CNVCLĐ trong điều kiện thực
hiện nền KTTT định hướng XHCN; đã ra sức phát triển đoàn viên CĐ, thành
lập CĐCS, đổi mới nội dung và phương thức, nâng cao chất lượng hoạt động
của tổ chức CĐ và đội ngũ cán bộ CĐ. Hoạt động của CĐVN góp phần quan
trọng vào sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Tuy nhiên, hoạt động của CĐVN còn tồn tại một số hạn chế: Sự lãnh đạo
của Đảng, quản lý của Nhà nước đối với hoạt động của CĐVN chưa ngang
tầm với vị trí, vai trò của tổ chức CĐ. Hoạt động của CĐVN còn tồn tại
những bất cập trong quá trình triển khai cụ thể chủ trương của Đảng, phương
hướng, nhiệm vụ của tổ chức CĐ. Sự phối hợp hoạt động giữa tổ chức CĐ với
các tổ chức chính trị - xã hội và các cơ quan chức năng còn thiếu chặt chẽ.
108
Phương thức hoạt động của CĐVN đôi lúc còn thụ động, thiếu linh hoạt. Đội ngũ
cán bộ làm công tác CĐ của tổ chức CĐVN còn bộc lộ một số hạn chế, chưa đáp
ứng được yêu cầu và nhiệm vụ trong giai đoạn mới của cách mạng nước ta.
Trên cơ sở tìm hiểu sự lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động của tổ chức
CĐVN từ năm 2003 đến năm 2013, có thể rút ra một số kinh nghiệm: Một là,
Đảng lãnh đạo CĐ phải trực tiếp, toàn diện trong việc quán triệt sâu sắc
đường lối, quan điểm, nghị quyết của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà
nước. Hai là, Đảng lãnh đạo CĐ cần phải tăng cường thực hiện đổi mới nội
dung và phương thức hoạt động của tổ chức CĐ trong tình hình mới. Ba là,
Đảng cần thường xuyên quan tâm lãnh đạo công tác đào tạo, bồi dưỡng xây
dựng đội ngũ cán bộ CĐ có phẩm chất, năng lực đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ
trong giai đoạn mới. Bốn là, Đảng đề ra đường lối lãnh đạo CĐVN phải
không tách rời với việc thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội của đất nước,
của từng địa phương, cơ sở. Năm là, Đảng lãnh đạo CĐVN cần chú trọng
công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn về nội dung và phương thức
hoạt động.
Cùng với quá trình đẩy mạnh CNH,HĐH đất nước và hội nhập quốc tế,
tổ chức CĐVN ngày càng có vị trí, vai trò quan trọng trong sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN. Trong bối cảnh mới, CĐVN vừa
có những thuận lợi vừa gặp nhiều khó khăn, thách thức lớn. Từ đó, đặt ra yêu
cầu CĐVN cần phải vận dụng những bài học kinh nghiệm, chủ động, linh
hoạt, sáng tạo đề ra những phương hướng, nhiệm vụ hoạt động kịp thời và
đúng đắn, phát huy hơn nữa thành công và lợi thế để giảm thiểu tối đa những
khó khăn, thách thức. Với truyền thống cách mạng vẻ vang của GCCN và tổ
chức CĐVN, cán bộ, đoàn viên, NLĐ cả nước sẽ tiếp tục nêu cao ý chí tự lực,
tự cường, đoàn kết, năng động, sáng tạo, quyết tâm vượt qua mọi khó khăn,
thách thức, thực hiện thắng lợi các mục tiêu kinh tế - xã hội, đi tiên phong
trong sự nghiệp đẩy mạnh CNH,HĐH đất nước, phấn đấu vì mục tiêu “dân
109
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. PGS.TS. Bùi Đình Bôn (2013), Vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân
Việt Nam thông qua đội tiền phong là Đảng Cộng sản Việt Nam trong
thời kỳ mới, Nxb. Lao động, Hà Nội.
2. Mai Đức Chính (2013), Phát huy phong trào thi đua yêu nước trong đội
ngũ CN, lao động, góp phần đẩy nhanh tiến trình công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước, Tạp chí Cộng sản điện tử ngày 7/6/2013.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ VIII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ IX, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
5. Đảng Cộng sản Việt Nam (2003), Văn kiện Hội nghị lần thứ bẩy Ban
Chấp hành Trung ương khóa IX, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
6. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ X, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
7. Đảng Cộng sản Việt Nam (2008), Văn kiện Hội nghị lần thứ sáu Ban
Chấp hành Trung ương khóa X, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
8. Đảng Cộng sản Việt Nam (2008), Văn kiện Hội nghị lần thứ bẩy Ban
Chấp hành Trung ương khóa X, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
9. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
10. Đảng Cộng sản Việt Nam (2013), Văn kiện Hội nghị lần thứ bẩy Ban
Chấp hành Trung ương khóa XI, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
11. Đảng Cộng sản Việt Nam (2013), Kết luận số 79-KL/TW ngày
25/12/2013 của Bộ Chính trị về đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết số 20 -
NQ/TW ngày 28/1/2008 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X
110
về Tiếp tục xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Tài liệu lưu trữ tại Trung tâm
Thông tin tư liệu Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam.
12. TS. Lê Thanh Hà (2007), Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo xây dựng
giai cấp công nhân trong thời kỳ đổi mới (1986 - 2006), Nxb. Lao động,
Hà Nội.
13. TS. Lê Thanh Hà (2009), Phát triển nguồn nhân lực công nghiệp Việt
Nam trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và vai trò
của Công đoàn, Nxb. Lao động, Hà Nội.
14. TS. Lê Thanh Hà (2012), Trí thức hóa công nhân và nhiệm vụ của Công
đoàn, Nxb. Lao động, Hà Nội.
15. Trương Giang Long (2007), giai cấp công nhân Việt Nam - thực trạng và
suy ngẫm, Tạp chí Cộng sản số 23(143).
16. PGS.TS. Phạm Công Nhất (2012), Xây dựng và phát triển giai cấp công
nhân Việt Nam theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XI của Đảng, Báo Điện
tử Đảng Cộng sản Việt Nam ngày 7/5/2012.
17. Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2013), Hiến pháp
nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam (có hiệu lực từ ngày
1/1/2014), Nxb. Tư pháp, Hà Nội.
18. PGS.TS. Dương Văn Sao (2012), Tổ chức và hoạt động của Công đoàn
cơ sở trong tình hình hiện nay, Nxb. Lao động, Hà Nội.
19. GS. Văn Tạo (2006), Quan điểm mới về giai cấp công nhân Việt Nam
của Văn kiện Đại hội X của Đảng, Tạp chí Cộng sản, số 10 tháng 5/2006.
20. Đan Tâm (2003), Về đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với
Công đoàn trong nền kinh tế thị trường, Nxb. Lao động, Hà Nội.
21. Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam (1999), Giáo trình Lý luận và
111
nghiệp vụ Công đoàn tập 1,2 Nxb. Lao động, Hà Nội.
22. Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam (2001), Chương trình hành động
của Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam thực hiện Nghị quyết Đại hội IX
Đảng Cộng sản Việt Nam, Tài liệu lưu trữ tại Trung tâm Thông tin tư
liệu Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam.
23. Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam (2003), Báo cáo tổng kết công tác
Công đoàn năm 2002, nhiệm vụ năm 2003, Tài liệu lưu trữ tại Trung tâm
Thông tin tư liệu Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam.
24. Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam (2003), Nâng cao hiệu quả hoạt
động Công đoàn trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, Nxb.
Lao động, Hà Nội.
25. Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam (2003), Văn kiện Đại hội Công đoàn
lần thứ IX, Nxb. Lao động, Hà Nội.
26. Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam (2004), Báo cáo tổng kết công tác
Công đoàn năm 2003, nhiệm vụ năm 2004, Tài liệu lưu trữ tại Trung tâm
Thông tin tư liệu Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam.
27. Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam (2005), Báo cáo tổng kết công tác
Công đoàn năm 2004, nhiệm vụ năm 2005, Tài liệu lưu trữ tại Trung
tâm Thông tin tư liệu Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam.
28. Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam (2005), Báo cáo kết quả công tác
phổ biến giáo dục pháp luật năm 2004, phương hướng nhiệm vụ năm
2005 và 2006, Tài liệu lưu trữ tại Trung tâm Thông tin tư liệu Tổng Liên
đoàn Lao động Việt Nam.
29. Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam (2005), Chỉ thị số 02-CT/TLĐ ngày
23/4/2005 của Đoàn Chủ tịch Tổng Liên đoàn về tuyển cử cán bộ Công
đoàn đi công tác cơ sở. Tài liệu lưu trữ tại Trung tâm Thông tin tư liệu
112
Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam.
30. Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam (2005), Hướng dẫn triển khai phong
trào thi đua “Giỏi việc nước, đảm việc nhà” trong nữ công nhân, viên
chức, lao động giai đoạn 2006 - 2010, Tài liệu lưu trữ tại Trung tâm
Thông tin tư liệu Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam.
31. Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam (2005), Nghị quyết số 46-NQ/BCH
ngày 6/1/2005 “Công đoàn với nhiệm vụ nâng cao trình độ học vấn,
nghề nghiệp của công nhân, viên chức, lao động đáp ứng yêu cầu sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”, Tài liệu lưu trữ tại
Trung tâm Thông tin tư liệu Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam.
32. Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam - Bộ Giáo dục và Đào tạo (2005),
“Nghị quyết liên tịch số 02/2005/NQLT - LĐLĐVN-BGD&ĐT ngày
27/7/2005 về việc phối hợp hoạt động nâng cao trình độ học vấn, kỹ
năng nghề nghiệp trong công nhân, viên chức, lao động giai đoạn 2005 -
2010”, Tài liệu lưu trữ tại Trung tâm Thông tin tư liệu Tổng Liên đoàn
Lao động Việt Nam.
33. Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam (2005), Nghị quyết 5a-NQ/BCH
ngày 7/7/2005 về “Đẩy mạnh công tác pháp luật của Công đoàn trong
tình hình mới”, Tài liệu lưu trữ tại Trung tâm Thông tin tư liệu Tổng
Liên đoàn Lao động Việt Nam.
34. Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam - Tổng cục Chính trị Quân đội nhân
dân Việt Nam, (2005), Nghị quyết Liên tịch về “Phối hợp tuyên truyền
vận động công nhân, viên chức, lao động, cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ
trang đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước, phát triển kinh tế - xã hội,
tăng cường quốc phòng - an ninh trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước giai đoạn 2005 - 2010, ngày 12/1/2005”, Tài liệu lưu trữ
113
tại Trung tâm Thông tin tư liệu Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam.
35. Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam (2006), Báo cáo tổng kết công tác
Công đoàn năm 2005, nhiệm vụ năm 2006, Tài liệu lưu trữ tại Trung
tâm thông tin tư liệu Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam.
36. Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam (2006), Công văn số 1245/TLĐ
ngày 01/08/2006 của Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam về Chương
trình hành động của Công đoàn Việt Nam thực hiện Nghị quyết Đại hội
X Đảng Cộng sản Việt Nam, Tài liệu lưu trữ tại Trung tâm Thông tin tư
liệu Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam.
37. Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam (2006), Nghị Quyết số 04-NQ/ĐCT
ngày 3/4/2006 của Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam về việc “Đẩy
mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục của tổ chức Công đoàn trong tình
hình mới”, Tài liệu lưu trữ tại Trung tâm Thông tin tư liệu Tổng Liên
đoàn Lao động Việt Nam.
38. Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam (2007), Báo cáo tổng kết công tác
Công đoàn năm 2006, nhiệm vụ năm 2007, Tài liệu lưu trữ tại Trung tâm
thông tin tư liệu Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam.
39. Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam (2007), Văn kiện Đại hội Công đoàn
lần thứ X, Nxb. Lao động, Hà Nội.
40. Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam (2007), Tăng cường sự lãnh đạo
của Đảng đối với giai cấp công nhân và Công đoàn Việt Nam thời kỳ
công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế, Nxb. Lao
động, Hà Nội.
41. Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam (2008), Báo cáo tổng kết công tác
Công đoàn năm 2007, nhiệm vụ năm 2008, Tài liệu lưu trữ tại Trung tâm
114
Thông tin tư liệu Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam.
42. Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam (2008), Báo cáo tổng kết chương
trình phát triển 1 triệu đoàn viên giai đoạn 2003 - 2008, Tài liệu lưu trữ
tại Trung tâm Thông tin tư liệu Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam.
43. Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam (2008), Chỉ thị số 02/CT-TLĐ ngày
30/9/2008 của Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam về việc tiếp tục triển
khai thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung
ương Đảng khóa X về “Tiếp tục xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam
thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”, Tài liệu lưu
trữ tại Trung tâm thông tin tư liệu Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam.
44. Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam (2008), Công đoàn Việt Nam từ Đại
hội I đến Đại hội X, Nxb. Lao động, Hà Nội.
45. Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam (2008), Công văn số 399-Ctr/TLĐ
ngày 7/3/2008 về Chương trình hành động của Tổng Liên đoàn Lao động
Việt Nam thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành
Trung ương Đảng khóa X về “Tiếp tục xây dựng giai cấp công nhân Việt
Nam thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”, Tài liệu
lưu trữ tại Trung tâm thông tin tư liệu Tổng Liên đoàn Lao động Việt
Nam.
46. Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam (2008), Kế hoạch số 378-KH/TLĐ
ngày 6/3/2008 về Tuyên truyền và tổ chức thực hiện các Nghị quyết Hội
nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X. Tài liệu lưu
trữ tại Trung tâm Thông tin tư liệu Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam.
47. Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam (2008), Kế hoạch tổ chức Hội thi kể
chuyện về tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh trong công nhân, viên chức,
lao động, Tài liệu lưu trữ tại Trung tâm Thông tin tư liệu Tổng Liên đoàn
115
Lao động Việt Nam.
48. Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam (2008), Kế hoạch số 1233-KH/TLĐ
ngày 17/7/2008 Thực hiện Chỉ thị 22-CT/TW ngày 5/6/2008 của Ban Bí
thư về tăng cường công tác lãnh đạo, chỉ đạo việc xây dựng quan hệ lao
động hài hòa, ổn định và tiến bộ trong doanh nghiệp, Tài liệu lưu trữ tại
Trung tâm Thông tin tư liệu Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam.
49. Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam (2009), Báo cáo tổng kết công tác
Công đoàn năm 2008, nhiệm vụ năm 2009, Tài liệu lưu trữ tại Trung
tâm thông tin tư liệu Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam.
50. Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam (2009), Báo cáo kết quả thực hiện
chương trình phối hợp tuyên truyền giữa Tổng Liên đoàn Lao động Việt
Nam với Đài Truyền hình Việt Nam (2007 - 2009), Tài liệu lưu trữ tại
Trung tâm thông tin tư liệu Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam.
51. Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam (2009), Báo cáo tổng kết 6 năm
thực hiện Chỉ thị số 32-CT/TW ngày 9/12/2003 của Ban Bí thư Trung
ương Đảng về “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong công tác phổ
biến, giáo dục pháp luật, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của cán
bộ, nhân dân”, Tài liệu lưu trữ tại Trung tâm Thông tin tư liệu Tổng
Liên đoàn Lao động Việt Nam.
52. Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam (2009), Chỉ thị về việc tiếp tục đẩy
mạnh công tác nghiên cứu lý luận và hoạt động khoa học trong tổ chức
Công đoàn, Tài liệu lưu trữ tại Trung tâm Thông tin tư liệu Tổng Liên
đoàn Lao động Việt Nam.
53. Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam (2009), Một số phong trào Công
đoàn Việt Nam, lịch sử và hiện tại, Nxb. Lao động, Hà Nội.
54. Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam (2010), Báo cáo tổng kết công tác
CĐ năm 2009, nhiệm vụ năm 2010, Tài liệu lưu trữ tại Trung tâm Thông
116
tin tư liệu Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam.
55. Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam (2010), Vai trò lãnh đạo của Đảng
đối với giai cấp công nhân và Công đoàn Việt Nam, Nxb. Lao động, Hà
Nội.
56. Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam (2010), Văn kiện Hội nghị lần thứ
tư Ban Chấp hành Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam khóa X, Nxb.
Lao động, Hà Nội.
57. Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam (2010), Vai trò lãnh đạo của Đảng
đối với giai cấp công nhân, Công đoàn Việt Nam, Nxb. Lao động, Hà Nội.
58. Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam (2010), Xây dựng giai cấp công
nhân Việt Nam giai đoạn 2011 - 2020, Nxb. Lao động, Hà Nội.
59. Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam (2011), Báo cáo tổng kết công tác
Công đoàn năm 2010, nhiệm vụ năm 2011, Tài liệu lưu trữ tại Trung
tâm Thông tin tư liệu Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam.
60. Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam (2011), Nghị quyết về công tác vận
động nữ công nhân, viên chức, lao động thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước, Tài liệu lưu trữ tại Trung tâm Thông tin tư
liệu Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam.
61. Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam (2012), Báo cáo kết quả thực hiện
chỉ tiêu thành lập Công đoàn cơ sở và phát triển đoàn viên Công đoàn từ
năm 2008 - 2012, Tài liệu lưu trữ tại Trung tâm Thông tin tư liệu Tổng
Liên đoàn Lao động Việt Nam.
62. Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam (2012), Báo cáo tổng kết công tác
Công đoàn năm 2011, nhiệm vụ năm 2012, Tài liệu lưu trữ tại Trung tâm
Thông tin tư liệu Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam.
63. Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam (2012), Luật Công đoàn đã được
117
sửa đổi năm 2012, Nxb. Lao động, Hà Nội.
64. Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam (2013), Báo cáo tổng kết công tác
Công đoàn năm 2012, nhiệm vụ năm 2013, Tài liệu lưu trữ tại Trung tâm
Thông tin tư liệu Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam.
65. Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam (2013), Báo cáo sơ kết 5 năm thực
hiện Nghị quyết 20-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa
X, Tài liệu lưu trữ tại Trung tâm Thông tin tư liệu Tổng Liên đoàn Lao
động Việt Nam.
66. Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam (2013), Báo cáo tổng kết chương
trình phát triển đoàn viên Công đoàn giai đoạn 2008 - 2013, Tài liệu lưu
trữ tại Trung tâm Thông tin tư liệu Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam.
67. Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam (2013), Kế hoạch số 23-KH/TLĐ về
việc triển khai thực hiện Kết luận số 79-KL/TW ngày 25/12/2013 của Bộ
Chính trị về đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết số 20-NQ/TW ngày
28/1/2008 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X về “Tiếp tục
xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước”, Tài liệu lưu trữ tại Trung tâm Thông tin tư
liệu Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam.
68. Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam (2013), Tài liệu đào tạo, bồi dưỡng
cán bộ Công đoàn cơ sở tập 1,2, Nxb. Lao động, Hà Nội.
69. Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam (2013), Tài liệu truyên truyền kết
quả Đại hội XI Công đoàn Việt Nam, Nxb. Lao động, Hà Nội.
70. Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam (2013), Thống kê số liệu tổ chức
Công đoàn và xây dựng Công đoàn cơ sở vững mạnh từ năm 2008 -
2013, Tài liệu lưu trữ tại Trung tâm Thông tin tư liệu Tổng Liên đoàn
Lao động Việt Nam.
71. Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam (2013), Phong trào công nhân và
118
Công đoàn Việt Nam (2001 - 2010), Nxb. Lao động, Hà Nội
72. Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam (2013), Thống kê số lượng đoàn
viên Công đoàn từ năm 2009 - 2013, Tài liệu lưu trữ tại Trung tâm
Thông tin tư liệu TLĐLĐVN.
73. Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam (2013), Thống kê số lượng đơn vị
doanh nghiệp có tổ chức Công đoàn từ năm 2009 - 2013, Tài liệu lưu trữ
tại Trung tâm Thông tin tư liệu Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam.
74. Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam (2013), Thống kê số lượng công
nhân, viên chức, lao động từ năm 2009 - 2013, Tài liệu lưu trữ tại Trung
tâm thông tin tư liệu Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam.
75. Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam (2013), Tài liệu tuyên truyền kết
quả Đại hội XI Công đoàn Việt Nam, Nxb. Lao động, Hà Nội.
76. Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam (2013), Văn kiện Đại hội Công đoàn
lần thứ XI, Nxb. Lao động, Hà Nội.
77. Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam (2014), Báo cáo tổng kết công tác
Công đoàn năm 2013, nhiệm vụ năm 2014, Tài liệu lưu trữ tại Trung tâm
Thông tin tư liệu TLĐLĐVN.
78. Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam (2014): Công đoàn Việt Nam 85
năm xây dựng và phát triển, Nxb. Lao động, Hà Nội.
79. TS. Đặng Ngọc Tùng (2014), Xây dựng đội ngũ cán bộ Công đoàn vững
mạnh, đáp ứng yêu cầu trong thời kỳ mới, Tạp chí Cộng sản điện tử ngày
18/7/2013.
80. TS. Đặng Ngọc Tùng (2014), Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, nâng
cao tính chủ động sáng tạo của hoạt động Công đoàn, Tạp chí Cộng sản
điện tử ngày 5/9/2014.
81. TS. Đặng Ngọc Tùng (2014), Đổi mới hoạt động của CĐVN đáp ứng yêu
cầu đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, Tạp
119
chí Cộng sản ngày 28/7/2014.
82. PGS.TS. Nguyễn Phú Trọng (2001), Tìm hiểu sự lãnh đạo của Đảng với
Công đoàn, Nxb. Lao động, Hà Nội.
83. Trường Đại học Công đoàn (2004), Pháp luật về Lao động và Công
đoàn, Nxb. Lao động, Hà Nội.
84. PSG.TSKH. Nguyễn Viết Vượng (2003), Vận dụng tư tưởng Hồ Chí
Minh về dân chủ trong sự nghiệp xây dựng tổ chức Công đoàn Việt Nam
hiện nay, Nxb. Lao động, Hà Nội.
85. PGS.TSKH. Nguyễn Viết Vượng (2005), Lý luận Mác - Lênin về Công
đoàn và vận dụng vào hoạt động Công đoàn Việt Nam trong kinh tế thị
trường, Nxb. Lao động, Hà Nội.
86. Viện Công nhân và Công đoàn (2001), Xu hướng biến động của GCCN
Việt Nam trong những năm đầu thế kỷ XXI, Nxb. Lao động, Hà Nội.
87. Viện công nhân và Công đoàn (2002), Giải pháp xây dựng giai cấp công
nhân Việt Nam trong những năm đầu thế kỷ XXI, Nxb. Lao động, Hà
Nội.
88. Viện công nhân và Công đoàn (2004), Đảng Cộng sản Việt Nam với Đại
hội IX Công đoàn Việt Nam, Nxb. Lao động, Hà Nội.
89. Viện công nhân và Công đoàn (2004), Một số vấn đề cơ bản xây dựng và
phát huy vai trò của giai cấp công nhân trong thời kỳ công nghiệp hóa,
hiện đại hóa, Nxb. Lao động, Hà Nội.
90. Viện công nhân và Công đoàn (2005), Công đoàn với phong trào thi đua
trong công nhân, viên chức, lao động thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước, Nxb. Lao động, Hà Nội.
91. Viện công nhân và Công đoàn (2007), Báo cáo kết quả khảo sát điều tra
thực trạng giai cấp công nhân Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, Tài
liệu lưu trữ tại Trung tâm Thông tin tư liệu Tổng liên đoàn Lao động
120
Việt Nam.
92. Viện công nhân và Công đoàn (2007), Đề tài cấp Tổng Liên đoàn “Một
số vấn đề cấp bách xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam trong điều
kiện đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”, Tài liệu lưu trữ
tại Trung tâm Thông tin tư liệu Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam.
93. Viện công nhân và Công đoàn (2007), Tác động tới việc làm, đời sống của
người lao động khi Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO)
và các giải pháp hoạt động của Công đoàn, Nxb. Lao động, Hà Nội.
94. Viện công nhân và Công đoàn (2007), Công đoàn với việc xây dựng
quan hệ lao động hài hòa trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
121
ngoài ở Việt Nam hiện nay, Nxb. Lao động, Hà Nội.
PHỤ LỤC
Phụ lục 1.1: PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH PHÁT TRIỂN ĐOÀN VIÊN
TỪ 31/12/2003 ĐẾN HẾT NGÀY 31/12/2007
Nội dung
Số lƣợng hiện nay
Số lƣợng thời điểm 31/12/2003
Số lƣợng tăng thêm so với 2003
Tổng số CNVCLĐ Trong đó, CNVCLĐ ngoài quốc doanh Tổng số đoàn viên Trong đó nữ *Chia ra theo khu vực 1. Khu vực Nhà nước Hành chính sự nghiệp Doanh nghiệp nhà nước 2. Khu vực kinh tế ngoài quốc doanh Sự nghiệp ngoài công lập Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài Khu vực có vốn đầu tư trong nước *Chia ra theo CĐ ngành, địa phương Liên đoàn Lao động tỉnh, thành phố CĐ ngành Trung ương, CĐ Tổng công ty
4.680.784 1.538.436 3.582.961 1.714.957 1.868.004 1.097.823 55.187 412.889 629.747 3.382.925 1.297.859
8.876.890 4.369.994 6.094.024 2.711.571 3.825.351 2.263.800 1.561.551 2.268.673 84.056 967.668 1216.949 4.655.340 1.438.684
1.413.240 1.173.135 242.390 548.843 (-306.453) 1.170.850 28.869 554.779 587.202 1.272.415 140.825
Nguồn: Ban Chính sách pháp luật, TLĐLĐVN.
122
Phụ lục 1.2: PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH THÀNH LẬP CĐCS TỪ 31/12/2003
ĐẾN HẾT NGÀY 31/12/2007
Nội dung
Số lƣợng hiện nay
Tổng số doanh nghiệp Trong đó:+ Số DN có vốn đầu tư NN + Số DN đủ điều kiện thành lập CĐ Tổng số công đoàn cơ sở *Chia ra theo loại hình CĐCS:
1. Khu vực Nhà nước
Hành chính sự nghiệp Xã, phường Doanh nghiệp nhà nước
2. Khu vực kinh tế ngoài quốc doanh
Sự nghiệp ngoài công lập Liên doanh nước ngoài 100% vốn nước ngoài Công ty cổ phần Công ty trách nhiệm hữu hạn Doanh nghiệp tư nhân Hợp tác xã Nghiệp đoàn Loại hình khác *Chia ra theo CĐ ngành, địa phương Liên đoàn Lao động tỉnh, thành phố CĐ ngành trung ương, CĐ Tổng công ty
Số lƣợng thời điểm 31/12/2003 67.555 55.465 47.559 924 7.162 11.910 2.223 539 940 1.884 3.054 1.048 787 828 607 62.323 5.232
189.014 7.516 40.724 93.054 71.921 56.085 10.512 5.324 21.133 3.533 535 2.158 5.171 5.734 1.767 980 804 451 86.572 6.482
Số lƣợng tăng thêm so với 2003 25.499 16.276 8.526 9.588 (-1.838) 9.223 1.310 (-4) 1.218 3.287 2.680 719 193 (-24) (-156) 24.249 1.250 Nguồn: Ban Chính sách pháp luật, TLĐLĐVN.
123
Phụ lục 1.3: KẾT QUẢ XÂY DỰNG CĐCS MẠNH
TỪ NĂM 2003 ĐẾN HẾT NGÀY 31/12/2007
(Đơn vị tính: %)
TT
Nội dung
1 2 3 4
Tỷ lệ CĐCS vững mạnh Tỷ lệ CĐCS khá Tỷ lệ CĐCS trung bình Tỷ lệ CĐCS yếu kém
Năm 2003 76,49 12,7 4,51 6,3
Năm 2004 78,47 13,5 3,68 4,35
Năm 2006 79,54 14,14 2,74 3,3
Năm 2007 77,25 13,1 3,91 5,74
Năm 2005 79,79 13,6 3,34 3,27 Nguồn: Ban Chính sách pháp luật, TLĐLĐVN.
Phụ lục 1. 4: TRÌNH ĐỘ CÁN BỘ CHUYÊN TRÁCH CĐ VÀ KẾT QUẢ
BỒI DƢỠNG TẬP HUẤN CÁN BỘ CĐCS TỪ NĂM 2003
ĐẾN HẾT NGÀY 31/12/2007
Nội dung
Số lƣợng
TT 1 Trình độ chuyên môn nghiệp vụ (chuyên trách)
Thạc sỹ trở lên (Sau đại học) Đại học, Cao đẳng Trung cấp
2 Trình độ chính trị (chuyên trách)
Cao cấp Trung cấp Sơ cấp
3 Trình độ ngoại ngữ (cán bộ chuyên trách)
Trình độ A Trình độ B Trình độ C
4 Trình độ tin học (cán bộ chuyên trách)
Đại học Trình độ A Trình độ B
5 Số lượt cán bộ được bồi dưỡng chuyên môn nghiệp
Đơn vị tính Người Người Người Người Người Người Người Người Người Người Người Người Người Người Người Lượt người
245 5.661 1.183 1.904 1.959 1.695 2.401 605 163 2.330 1.635 906.000
vụ
Nguồn: Ban Tổ chức, TLĐLĐVN.
124
Phụ lục 2.1: CÔNG TÁC TUYÊN GIÁO TỪ NĂM 2008 ĐẾN NĂM 2013
TT
Nội dung
ĐVT
Năm 2008
Năm 2009
Năm 2010
Năm 2011
Năm 2012
Năm 2013
18.199.720 23.850.240 25.622.936 24.691.987 25.477.854 26.555.650
1
Cuốn, bản
Lượt người
2
2.117.242
2.448.638
2.264.654
3.199.412
3.339.178
3.429.180
3
Cuộc, lần
42.998
52.631
55.761
58.150
66.681
67.870
Điểm
4
1.123
1.938
2.150
2.230
5
Lượt người
91.555
92.488
91.998
92.787
93.328
94.320
Người
6
57.852
73.952
69.941
79.113
86.256
87.456
7
Lượt người
3.082.010
3.751.963
3.901.088
4.051.952
4.995.676
5.095.650
8
577.858
638.946
831.536
839.326
857.226
867.326
Số tài liệu truyên truyền, phổ biến pháp luật Số CNVCLĐ được truyên truyền, phổ biến pháp luật Số cuộc hội thao, hội diễn trong CNVCLĐ Số điểm sinh hoạt văn hóa CN Số CNVCLĐ được bồi dưỡng, học tập về Đảng Số CNVCLĐ được kết nạp vào Đảng Hoạt động báo cáo viên, tuyên truyền viên Phát hành sách, báo, tạp chí, bản tin, chương trình truyền hình CĐ
Tờ, cuốn, chương trình
125
Nguồn: Ban Tuyên giáo, TLĐLĐVN.
Phụ lục 2.2: CÔNG TÁC PHÁT TRIỂN ĐOÀN VIÊN VÀ CĐCS TỪ NĂM 2008 ĐẾN NĂM 2013
TT
Nội dung
Tổng số
Năm 2008
Năm 2009
Năm 2010
Năm 2011
Năm 2012
Năm 2013
562.921 580.715 638.908 813.376 689.454 564.500
3.849.874
1 Số lượng đoàn viên kết nạp mới 2 Số lượng đoàn
293.076 296.211 298.334 387.119 278.421 252.250 1.805.411
viên giảm
269.845 284.504 340.564 426.257 411.033 312.250 2.044.453
5.453
6.331
6.230
6.677
5.219
4.234
34.144
3 Số lượng đoàn viên tăng thực tế 4 Số lượng CĐCS thành lập mới 5 Số lượng CĐCS
1.149
1.713
2.084
1.550
2.185
1.811
10.492
giảm
4.287
4.618
4.146
5.127
2.877
2.423
23.478
6 Số lượng CĐCS tăng thực tế
Nguồn: Ban Tổ chức, TLĐLĐVN.
Phụ lục 2.3: CÔNG TÁC ĐÀO TẠO, BỒI DƢỠNG, TẬP HUẤN CÁN
BỘ CĐ TỪ NĂM 2008 ĐẾN NĂM 2013
Đào tạo chung (ngƣời)
Bồi dƣỡng, tập huấn
Đào tạo về CĐ (ngƣời)
Lý luận chính trị
Cán bộ CĐ không chuyên trách
Cán bộ CĐ chuyên trách
Năm
Đại học
Lý luận và nghiệp vụ CĐ
Sau đại học
Số lớp
Đại học các chuyên ngành
Trung cấp
Số lớp
Tổng số lượt người
226 177 299 221 240 250
216 163 178 245 270 275
Cử nhân, Cao cấp 215 256 338 334 295 299
Tổng số lượt người 2.877 44 758 599 173 10.385 969 167 11.634 728 158 10.234 820 175 11.650 850 180 11.750
1.642 4.376 5.199 6.545 6.730 6.840
52 2008 2009 73 2010 111 2011 134 2012 138 2013 140 Tổng 648
266 259 317 269 286 290 1.413 1.737 1.347 1.687
114.893 325.721 357.559 316.524 325.125 350.520 4.724 897 58.530 31.332 1790.342 Nguồn: Ban Tổ chức, TLĐLĐVN.
126
Phụ lục 2.4: KẾT QUẢ XẾP LOẠI CĐCS TỪ NĂM 2008 ĐẾN NĂM 2013
Đơn vị tính: %
Kết quả xếp loại CĐCS, nghiệp đoàn
TT
Nội dung
Khá
Yếu
Bình quân năm 2008 Khu vực HCSN nhà nước Khu vực DN nhà nước Khu vực SN ngoài công lập Khu vực DN ngoài nhà nước Khu vực DN có vốn FDI
Khu vực HCSN nhà nước Khu vực DN nhà nước Khu vực SN ngoài công lập Khu vực DN ngoài nhà nước Khu vực DN có vốn FDI
Khu vực HCSN nhà nước Khu vực DN nhà nước Khu vực SN ngoài công lập Khu vực DN ngoài nhà nước Khu vực DN có vốn FDI
Khu vực HCNN, tổ chức CT-XH Khu vực sự nghiệp công lập Khu vực DN nhà nước Khu vực sự nghiệp ngoài công lập Khu vực DN ngoài nhà nước Khu vực DN có vốn FDI
Khu vực HCNN, tổ chức CT-XH Khu vực sự nghiệp công lập Khu vực DN nhà nước Khu vực sự nghiệp ngoài công lập Khu vực DN ngoài nhà nước Khu vực DN có vốn FDI
Vững mạnh 41,51 13,2 43,36 11,44 34,14 10,13 43,89 17,04 31,42 17,22 28,21 20,77 38,36 11,66 41,51 8,75 7,18 35,74 41,16 19,76 29,51 19,20 29,22 21,35 36,86 11,95 39,61 8,81 8,85 34,66 43,40 16,66 29,00 20,06 30,47 19,82 35,01 11,20 7,83 39,3 6,65 34,81 30,81 5,89 40,07 14,83 27,43 20,59 30,58 19,47 7,47 36,75 8,41 37,82 5,75 35,74 31,14 7,12 37,84 17,54 29,19 20,70 33,28 19,44 6,47 34,71 7,41 36,82
Trung bình 1,15 3,68 0,08 1,83 0,15 1,90 0,22 3,66 9,55 3,57 10,59 13,85 1,02 3,68 0,21 1,55 0,17 1,32 0,15 3,77 2,79 10,11 8,42 10,34 0,63 3,64 0,08 1,52 0,32 1.,8 0,41 3,48 2,08 9,38 2,31 10,57 0,86 3,58 0,12 1,26 0,01 1,19 0,56 1,67 0,62 3,6 2,70 9,52 2,96 8,50 0,18 0,88 0,20 1,01 0,04 0,53 0,63 1,46 0,85 3,47 3,68 9,08 2,74 8,36 0,15 0,68 0,10 1,00
Không xếp loại 4,42 1,88 4,25 12,56 21,58 15,38 6,83 2,13 4,69 0,73 22,56 14,54 7,09 1,77 2,62 3,77 23,87 11,14 7,82 1,68 0,75 2,82 8,96 23,99 21,25 1,18 1,48 0,50 2,04 10,00 21,50 16,87 2,45 1,59
I 1 2 3 4 5 II Bình quân năm 2009 1 2 3 4 5 III Bình quân năm 2010 1 2 3 4 5 IV Bình quân năm 2011 1 2 3 4 5 6 V Bình quân năm 2012 1 2 3 4 5 6 VI Bình quân năm 2013 1
Khu vực HCNN, tổ chức CT-XH
V.mạnh xuất sắc 36,00 41,42 49,44 22,63 16,67 11,20 38,44 45,85 50,90 34,44 15,83 16,14 39,84 48,19 52,36 32,29 15,62 25,68 41,53 49,58 56,59 58,26 31,88 15,76 17,25 53,54 51,08 57,44 57,61 30,30 15,85 19,31 55,54 53,08
127
Kết quả xếp loại CĐCS, nghiệp đoàn
TT
Nội dung
Yếu
Khá
Khu vực sự nghiệp công lập Khu vực DN nhà nước Khu vực sự nghiệp ngoài công lập Khu vực DN ngoài nhà nước Khu vực DN có vốn FDI
2 3 4 5 6
V.mạnh xuất sắc 56,44 57,60 29,30 14,85 20,31
Vững mạnh 5,70 36,74 6,12 31,15 38,84 16,54 28,19 19,70 34,28 19,40
Trung bình 0,58 2,46 4,47 10,08 9,00
0,03 0,61 1,85 3,65 2,72
Không xếp loại 0,51 2,06 9,00 21,53 16,89 Nguồn: Ban Tổ chức, TLĐLĐVN.
128