ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN -----------------------------------------

NGUYỄN THỊ HIỀN

ĐẢNG LÃNH ĐẠO CÔNG ĐOÀN VIỆT NAM

TỪ NĂM 2003 ĐẾN NĂM 2013

LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ

Hà Nội - 2015

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN -----------------------------------------

NGUYỄN THỊ HIỀN

ĐẢNG LÃNH ĐẠO CÔNG ĐOÀN VIỆT NAM

TỪ NĂM 2003 ĐẾN NĂM 2013

Chuyên ngành: Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam

Mã số: 60 22 03 15

LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS. Lê Văn Yên

Hà Nội - 2015

LỜI CẢM ƠN

Trong suốt quá trình học tập và hoàn thành luận văn này, tôi đã nhận được

sự hướng dẫn, giúp đỡ quý báu của các thầy cô, các anh chị và bạn bè. Với lòng

kính trọng và biết ơn sâu sắc, tôi xin được bày tỏ lời cảm ơn chân thành tới:

Ban giám hiệu, phòng Đào tạo Sau đại học, Khoa Lịch sử và Bộ môn

Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam đã tạo mọi điều kiện thuận lợi giúp đỡ tôi

trong suốt quá trình học tập và hoàn thành luận văn.

PGS.TS. Lê Văn Yên – người thầy kính mến đã tận tình chỉ bảo, định

hướng cho tôi để tôi có thể hoàn thành luận văn.

Xin chân thành cảm ơn các thầy cô trong hội đồng chấm luận văn đã cho

tôi những đóng góp quý báu để hoàn chỉnh luận văn này.

Cuối cùng, xin gửi lời cảm ơn đến gia đình, bạn bè, những người đã luôn

bên tôi, động viên và khuyến khích tôi trong quá trình học tập và thực hiện đề

tài nghiên cứu của mình.

Xin chân thành cám ơn.

Hà Nội, ngày 17 tháng 8 năm 2015

Tác giả luận văn

Nguyễn Thị Hiền

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số

liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực và có xuất xứ rõ ràng.

Tác giả luận văn

Nguyễn Thị Hiền

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

Đảng Cộng sản Việt Nam ĐCSVN

Công đoàn CĐ

Công đoàn cơ sở CĐCS

Công đoàn Việt Nam CĐVN

Công nhân CN

Công nhân, viên chức, lao động CNVCLĐ

Công nghiệp hóa, hiện đại hóa CNH,HĐH

Kinh tế thị trường KTTT

Người lao động NLĐ

Nhà xuất bản Nxb

Giai cấp công nhân GCCN

Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam TLĐLĐVN

Xã hội chủ nghĩa XHCN

MỤC LỤC

Trang

MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1

Chƣơng 1. ĐẢNG LÃNH ĐẠO CÔNG ĐOÀN VIỆT NAM TỪ

NĂM 2003 ĐẾN NĂM 2007 .......................................................................... 14

1.1. Những yếu tố tác động và chủ trƣơng của Đảng lãnh đạo Công

đoàn Việt Nam ................................................................................................ 14

1.1.1. Những yếu tố tác động đến hoạt động của Công đoàn Việt Nam ................. 14

1.1.2. Chủ trương của Đảng đối với hoạt động của Công đoàn Việt Nam ..... 22

1.2. Kết quả thực hiện chủ trƣơng của Đảng lãnh đạo Công đoàn

Việt Nam (2003 - 2007) .................................................................................. 29

1.2.1. Tuyên truyền, vận động, giáo dục công nhân viên chức lao động ........ 29

1.2.2. Bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của công nhân viên

chức lao động ................................................................................................... 36

1.2.3. Phát triển đoàn viên, thành lập Công đoàn cơ sở, đổi mới nội dung

và phương thức hoạt động của Công đoàn Việt Nam ...................................... 42

Chƣơng 2. ĐẢNG LÃNH ĐẠO CÔNG ĐOÀN VIỆT NAM TỪ NĂM

2008 ĐẾN NĂM 2013 ..................................................................................... 50

2.1. Những chuyển biến mới của tình hình thế giới, trong nƣớc và

chủ trƣơng của Đảng đối với hoạt động của Công đoàn Việt Nam........... 50

2.1.1. Những chuyển biến mới của tình hình thế giới và trong nước .............. 50

2.1.2. Chủ trương của Đảng đối với hoạt động của Công đoàn Việt Nam

trong giai đoạn mới .......................................................................................... 54

2.2. Kết quả thực hiện sự chỉ đạo của Đảng đối với Công đoàn Việt

Nam (2008 - 2013) ........................................................................................... 61

2.2.1. Phát triển hơn nữa hoạt động tuyên truyền, vận động, giáo dục

công nhân, viên chức, lao động ....................................................................... 61

2.2.2. Chủ động, tích cực trong việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp chính

đáng của công nhân, viên chức, lao động ........................................................ 67

2.2.3. Tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức, nâng cao chất lượng hoạt

động của tổ chức Công đoàn Việt Nam ........................................................... 75

Chƣơng 3. NHẬN XÉT VÀ KINH NGHIỆM LỊCH SỬ ........................... 83

3.1. Một số nhận xét ....................................................................................... 83

3.1.1. Ưu điểm và nguyên nhân ........................................................................ 83

3.1.2. Hạn chế và nguyên nhân ........................................................................ 93

3.2. Kinh nghiệm lịch sử .............................................................................. 100

3.2.1. Đảng lãnh đạo Công đoàn phải trực tiếp, toàn diện trong việc

quán triệt sâu sắc đường lối, quan điểm, nghị quyết của Đảng, chính

sách pháp luật của Nhà nước ......................................................................... 100

3.2.2. Đảng lãnh đạo Công đoàn cần phải tăng cường thực hiện đổi mới nội

dung và phương thức hoạt động của tổ chức Công đoàn trong tình hình mới ...... 101

3.2.3. Đảng cần thường xuyên quan tâm lãnh đạo công tác đào tạo, bồi

dưỡng xây dựng đội ngũ cán bộ Công đoàn có phẩm chất, năng lực đáp

ứng yêu cầu nhiệm vụ ..................................................................................... 102

3.2.4. Đảng đề ra đường lối lãnh đạo Công đoàn Việt Nam phải không

tách rời với việc thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội của đất nước, của

từng địa phương, cơ sở .................................................................................. 104

3.2.5. Đảng lãnh đạo Công đoàn Việt Nam cần chú trọng công tác

nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn về nội dung và phương thức hoạt

động ................................................................................................................ 105

KẾT LUẬN ................................................................................................... 108

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................... 110

PHỤ LỤC ...................................................................................................... 122

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

CĐVN là tổ chức quần chúng rộng lớn của GCCN và NLĐ, là cơ sở xã

hội quan trọng của Đảng, thành viên trong hệ thống chính trị - xã hội Việt

Nam. CĐ có vai trò đại diện cho NLĐ, có trách nhiệm bảo vệ quyền, lợi ích

hợp pháp chính đáng cho NLĐ; tham gia trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế,

xã hội. Sự lớn mạnh của CĐ là một đảm bảo quan trọng cho vận động, tập

hợp, đoàn kết và giáo dục CNVCLĐ, thực hiện thắng lợi đường lối, chủ

trương của Đảng, đồng thời là cơ sở xã hội chủ yếu để xây dựng Đảng, Nhà

nước và hệ thống chính trị vững mạnh.

Trong điều kiện phát triển nền KTTT định hướng XHCN, đẩy mạnh

CNH,HĐH đất nước và hội nhập quốc tế ngày nay, tổ chức CĐ đang đứng

trước những thời cơ lớn và thách thức không nhỏ. Số lượng CN và NLĐ ngày

một tăng, cơ cấu CNVCLĐ cũng rất đa dạng. CN có mặt ở trong tất cả các

thành phần kinh tế, các ngành nghề và có cả một bộ phận CN ở nước ngoài.

CNVCLĐ có cơ hội học tập, làm việc, tiếp cận với khoa học và công nghệ, do

đó, trình độ được cải thiện, nhiều người có học vấn cao, xu hướng trí thức hóa

trong CN ngày một rõ. CNVCLĐ có môi trường để phát huy tài năng và vai

trò của mình trong thời kỳ mới.

Tuy nhiên, trong xu thế toàn cầu hóa, nền kinh tế ngày càng mở cửa, hội

nhập sâu vào nền kinh tế thế giới, tạo ra sự cạnh tranh gay gắt trong lao động,

việc làm và thu nhập, dẫn đến sự phân hóa gay gắt trong GCCN và NLĐ, ảnh

hưởng không tốt đến việc củng cố khối đoàn kết CNVCLĐ. Thực hành nền

KTTT định hướng XHCN, nhiều hình thức sở hữu khác nhau, gắn với tiến trình

này đội ngũ CNVCLĐ có mặt ở tất cả các thành phần kinh tế dẫn đến sự biến

đổi cơ cấu GCCN, đa dạng hóa quan hệ chủ - thợ, khiến cho công tác vận động,

1

tập hợp và tổ chức quần chúng CNVCLĐ gặp nhiều khó khăn.

Yêu cầu của sự nghiệp đẩy mạnh CNH,HĐH đất nước, tổ chức CĐ và

GCCN Việt Nam đã bộc lộ những bất cập trên nhiều phương diện như: hình

thức tổ chức hoạt động, công tác tuyên truyền giáo dục chậm được đổi mới,

trình độ, lý tưởng và tình yêu nghề nghiệp, ý thức tổ chức kỷ luật tác phong

của người CN còn yếu, thậm chí ở một bộ phận, CNVCLĐ phai nhạt lý

tưởng, chạy theo lối sống hưởng thụ, thờ ơ với cộng đồng. CĐ chưa thực sự

ngang tầm với vai trò, vị trí của mình trong việc tham gia, góp phần vào việc

giải quyết những vấn đề mang tính chiến lược. Còn không ít chính sách, pháp

luật của Nhà nước liên quan đến quyền lợi và nghĩa vụ của NLĐ bị vi phạm

nghiêm trọng. Âm mưu “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch đối với

nước ta vẫn còn hiện hữu. Các thế lực thù địch câu kết với bọn phản động ra

sức xuyên tạc bản chất GCCN, phủ nhận sứ mệnh lịch sử và vai trò của

GCCN cũng như của CĐVN. Điều này gây tâm lý hoài nghi ở một số người

về vai trò và năng lực lãnh đạo của GCCN trong sự nghiệp xây dựng xã hội

mới. Trong hoạt động thực tiễn, tổ chức CĐ ở nhiều nơi, nhiều lúc chưa được

tạo điều kiện phát huy vai trò, chức năng của mình nên chất lượng, hiệu quả

hoạt động của CĐ chưa cao.

Trong điều kiện đó, đòi hỏi phải phát huy mạnh mẽ vai trò của CĐVN

trong đại diện chăm lo, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của

CNVCLĐ, trong tuyên truyền giáo dục nâng cao ý thức tổ chức kỷ luật, tác

phong công nghiệp, đấu tranh với các tệ nạn xã hội và xây dựng nền văn hóa

tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Đặc biệt là trong vận động, tập hợp và tổ

chức quần chúng CNVCLĐ nỗ lực vươn lên trong học tập, lao động và tham

gia quản lý kinh tế, xã hội nhằm đẩy mạnh phát triển kinh tế, xã hội, giữ vững

an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, sớm đưa nước ta thoát ra khỏi nước

2

chậm phát triển.

Để phát huy mạnh mẽ vai trò của CĐVN trong giai đoạn mới, vấn đề

hết sức quan trọng là cần tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với CĐ, thông

qua hoạt động của tổ chức CĐ, Đảng định hướng về mục đích chính trị, tập

hợp đông đảo CNVCLĐ trong mặt trận thống nhất rộng rãi nhằm phát huy

mạnh mẽ vai trò tiên phong cách mạng của GCCN, thực hiện thắng lợi sự

nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN.

Như vậy, nghiên cứu vai trò lãnh đạo của Đảng đối với CĐVN có ý

nghĩa lý luận và thực tiễn cấp thiết. Với mong muốn tìm hiểu và làm sáng tỏ

vai trò lãnh đạo của ĐCSVN với hoạt động của tổ chức CĐVN, từ đó đánh

giá những ưu điểm, hạn chế trong hoạt động của tổ chức CĐ, tiến tới lý giải

nguyên nhân và rút ra một số bài học kinh nghiệm, tác giả quyết định lựa

chọn đề tài: “Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo Công đoàn Việt Nam từ

năm 2003 đến năm 2013” làm Luận văn Thạc sĩ Lịch sử, chuyên ngành Lịch

sử ĐCSVN.

2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề

Cho đến nay, đã có nhiều công trình khoa học, nhiều cuộc hội thảo của

các cơ quan Đảng về GCCN, tổ chức CĐ; về vai trò lãnh đạo của Đảng đối

với CĐ. Tiêu biểu là các nhóm sau:

2.1. Nhóm sách tham khảo

- PGS.TS. Nguyễn Phú Trọng (1986),“Tìm hiểu sự lãnh đạo của Đảng

đối với tổ chức CĐ”, Nxb. Lao động, Hà Nội. Cuốn sách đã phân tích, lý giải,

làm sáng tỏ những quan điểm cơ bản của Đảng ta xung quanh vấn đề Đảng

lãnh đạo CĐ, đi sâu phân tích và chứng minh sự cần thiết phải tăng cường sự

lãnh đạo của Đảng đối với CĐ; chỉ ra những nguyên tắc cơ bản, những nội

dung chủ yếu trong sự lãnh đạo của Đảng đối với CĐ; làm rõ trách nhiệm của

3

CĐ trong việc tham gia xây dựng Đảng.

- TLĐLĐVN (2003), “Lịch sử phong trào CN và CĐVN” (3 tập), Nxb.

Lao động, Hà Nội. Đây là cuốn sách được được Đoàn Chủ tịch TLĐLĐVN

chỉ đạo biên soạn chào mừng Đại hội lần thứ IX CĐVN, nhằm ôn lại chặng

đường lịch sử của phong trào CN, CĐVN. Bộ sách đã tổng kết một cách khái

quát về phong trào CN, tổ chức CĐ và hoạt động của phong trào CN và

CĐVN từ cuối thế kỷ XIX đến năm 2000.

- Đan Tâm (2003),“Về đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với

CĐ trong nền KTTT”, Nxb. Lao động, Hà Nội. Cuốn sách không đề cập toàn

bộ nội dung, phương thức lãnh đạo của Đảng cần đổi mới và cách đổi mới,

mà chủ yếu đề cập một số vấn đề cơ bản của phong trào CN và hoạt động CĐ

đang và sẽ diễn ra, nhằm gợi mở cách nhìn, cách suy nghĩ cần lãnh đạo và đổi

mới. Đây là một cách tiếp cận rất cần thiết làm cơ sở thực tiễn và lý luận cho

việc đổi mới nội dung hoạt động CĐ đúng chủ trương đổi mới của Đảng.

- PGS.TSKH. Nguyễn Viết Vượng (2005),“Lý luận Mác - Lênin về CĐ

và vận dụng vào hoạt động CĐVN trong nền KTTT”, Nxb. Lao động, Hà Nội.

Nội dung cuốn sách trình bày hệ thống quan điểm lý luận Mác - Lênin về

Công đoàn, góp phần nâng cao nhận thức khoa học cho cán bộ CĐ về vị trí,

vai trò của tổ chức mình trong hệ thống chính trị XHCN, biết vận dụng sáng

tạo những nguyên lý, lý luận vào thực tiễn công tác, nâng cao hiệu quả hoạt

động CĐ trong điều kiện Đảng và Nhà nước ta chủ trương thực hiện nhất

quán, lâu dài nền KTTT định hướng XHCN.

- TS. Lê Thanh Hà (2006),“ĐCSVN lãnh đạo xây dựng GCCN trong

thời kỳ đổi mới (1986 - 2006)”, Nxb. Lao động, Hà Nội. Cuốn sách đã phần

nào khắc họa bức tranh chân thực về sự hoạch định, bổ sung, phát triển đường

lối xây dựng GCCN của Đảng cũng như về sự chuyển biến của GCCN Việt

Nam trong quá trình đổi mới đất nước; đúc rút những bài học kinh nghiệm

trong việc lãnh đạo xây dựng GCCN; nêu các giải pháp tăng cường sự lãnh

4

đạo của Đảng trong xây dựng GCCN ngày càng lớn mạnh.

- PGS.TSKH. Nguyễn Viết Vượng (2006), “Hoạt động CĐ trong các

doanh nghiệp ngoài quốc doanh”, Nxb. Lao động, Hà Nội. Cuốn sách giúp cho

cán bộ CĐ các cấp, nhất là cán bộ CĐ trong các doanh nghiệp khu vực kinh tế

ngoài quốc doanh thấy được bức tranh tổng quát về sự phát triển, về tổ chức,

hoạt động của CĐ trong các doanh nghiệp khu vực kinh tế ngoài quốc doanh.

- TS. Lê Thanh Hà (2009), “Phát triển nguồn nhân lực công nghiệp

Việt Nam trong quá trình CNH,HĐH đất nước và vai trò của CĐ”, Nxb. Lao

động, Hà Nội. Cuốn sách đã góp phần làm sáng tỏ nhận thức về nguồn nhân

lực công nghiệp và các chính sách của Nhà nước, vai trò của CĐ trong việc

phát huy tiềm năng nhân lực công nghiệp Việt Nam trong bối cảnh phát triển

chung của kinh tế - xã hội hiện nay, từ đó nêu các giải pháp, biện pháp nhằm

khai thác, phát huy tiềm năng của đội ngũ CNVCLĐ trong điều kiện mới.

- TLĐLĐVN (2009), “Một số vấn đề phong trào CĐVN - lịch sử và

hiện tại”, Nxb. Lao động, Hà Nội. Cuốn sách trình bày một số vấn đề cơ bản

về lịch sử, hệ thống tổ chức và phong trào CĐVN từ năm 1929 đến năm 2009;

nêu các vấn đề đặt ra đối với tổ chức CĐ như thời cơ, thách thức và nhiệm vụ

của GCCN, CĐ trong tình hình mới.

- TLĐLĐVN (2013), “Phong trào CN và CĐVN 2001 - 2010”, Nxb.

Lao động, Hà Nội. Cuốn sách đã khái quát lại những mốc son của phong trào

CN và hoạt động của CĐVN 10 năm đầu thế kỷ XXI; bước đầu rút ra một số

bài học kinh nghiệm trong hoạt động CĐ ở thời kỳ mới.

- TLĐLĐVN (2014), “CĐVN - 85 năm xây dựng và phát triển”, Nxb.

Lao động, Hà Nội. Nội dung cuốn sách phản ánh các sự kiện nổi bật của tổ

chức CĐ gắn với các giai đoạn lịch sử của đất nước kể từ khi ra đời cho đến

năm 2014.

2.2. Nhóm tài liệu hội thảo khoa học

- Nhân dịp kỷ niệm 70 năm ngày thành lập ĐCSVN, đầu năm 2000,

5

TLĐLĐVN tổ chức hội thảo với chủ đề: “ĐCSVN với GCCN và CĐVN”. Nội

dung gồm các bài tham luận đề cập đến những khía cạnh khác nhau về sự

lãnh đạo của Đảng đối với tổ chức CĐ.

- Năm 2007, nhân dịp kỷ niệm 77 năm ngày thành lập ĐCSVN,

TLĐLĐVN tổ chức Hội thảo khoa học với chủ đề: “Tăng cường sự lãnh đạo

của Đảng đối với CĐVN thời kỳ CNH,HĐH và hội nhập kinh tế quốc tế”. Nội

dung hội thảo làm rõ bốn vấn đề cơ bản về sự lãnh đạo của Đảng đối với

GCCN và CĐVN: Thứ nhất, về vị trí, vai trò của tổ chức CĐVN trong xã hội

hiện đại và hội nhập quốc tế. Thứ hai, đổi mới mạnh mẽ về nội dung và

phương pháp lãnh đạo của Đảng đối với GCCN và CĐ có hiệu quả, phù hợp

với tiến trình đổi mới đất nước và xu thế hội nhập. Thứ ba, xây dựng GCCN

và tổ chức CĐ vững mạnh vì sự nghiệp CNH,HĐH đất nước. Thứ tư, tiếp tục

xây dựng và củng cố mối quan hệ giữa tổ chức CĐVN và các tổ chức khác

trong hệ thống chính trị.

- Năm 2010, nhân dịp kỷ niệm 81 năm ngày thành lập tổ chức CĐVN

và hướng tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng, TLĐLĐVN đã

tổ chức Hội thảo khoa học với chủ đề “Vai trò lãnh đạo của ĐCSVN đối với

GCCN và tổ chức CĐVN”. Hội thảo đề cập đến vai trò lãnh đạo của Đảng, sự

cần thiết phải tăng cường sự lãnh đạo của ĐCSVN đối với CĐ trong điều kiện

phát triển KTTT định hướng XHCN và hội nhập kinh tế quốc tế; nhiệm vụ

xây dựng GCCN Việt Nam lớn mạnh về số lượng và chất lượng; về phát triển

đảng viên, xây dựng tổ chức cơ sở Đảng trong các doanh nghiệp.

2.3. Nhóm đề tài nghiên cứu khoa học, luận văn, luận án

- Đề tài nghiên cứu khoa học cấp TLĐLĐVN “Nâng cao hiệu của hoạt

động CĐ trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài” do TS. Dương

Văn Sao - Viện trưởng Viện CN và CĐ làm chủ nhiệm. Đề tài được thực hiện

từ năm 2001 đến năm 2002. Kết quả của công trình nghiên cứu đã được biên

6

soạn thành sách và được Nxb. Lao động ấn hành năm 2003. Đề tài nghiên cứu

đã đề xuất những giải pháp thiết thực, hiệu quả cho hoạt động của tổ chức

CĐVN trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.

- Đề tài cấp nhà nước “Xây dựng GCCN Việt Nam giai đoạn 2011 -

2020”, mã số KX04.15/06-10, do TS. Đặng Ngọc Tùng, Uỷ viên Ban Chấp

hành Trung ương Đảng, Chủ tịch TLĐLĐVN làm chủ nhiệm. Kết quả của đề

tài nghiên cứu khoa học trên đã được biên soạn thành sách và được Nxb. Lao

động ấn hành năm 2010. Công trình nghiên cứu góp phần làm rõ quan điểm,

đường lối của Đảng, cung cấp cơ sở khoa học cho việc hoạch đính chính sách,

xác định nội dung xây dựng GCCN Việt Nam giai đoạn 2011 - 2020 của Đảng

và Nhà nước ta; nêu được hệ thống giải pháp cho việc xây dựng GCCN trong

thập niên tới.

- Lê Tố Anh (2001), “Đảng lãnh đạo CĐVN giai đoạn 1986 - 2001”,

Luận văn Thạc sĩ Lịch sử Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn.

Luận văn tập trung vào việc làm sáng tỏ chủ trương, đường lối của Đảng đối

với CĐVN giai đoạn từ năm 1986 đến năm 2001 và từ đó rút ra các nhận xét,

bài học kinh nghiệm về sự lãnh đạo của Đảng đối với tổ chức CĐVN.

- Võ Châu Thảo (2005): “Công tác phát triển đảng viên trong CN các

doanh nghiệp ngoài quốc doanh ở các tỉnh Bình Dương, Đồng Nai giai đoạn

hiện nay”, Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Xây dựng Đảng. Trong luận văn,

tác giả chủ yếu khảo sát công tác phát triển đảng viên trong CN ở các doanh

nghiệp ngoài quốc doanh tại các khu công nghiệp của hai tỉnh Bình Dương và

Đồng Nai giai đoạn từ năm 1995 đến năm 2005 và đề xuất giải pháp cho các

giai đoạn tiếp theo.

2.4. Nhóm báo và tạp chí

- Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh (Phát biểu tại Đại hội lần thứ IX

CĐVN ngày 13/10/2003), “Xây dựng GCCN, tổ chức CĐ vững mạnh là trách

7

nhiệm của Đảng và Nhà nước”. Tổng Bí thư nêu một số vấn đề về cơ hội lớn

và cả những thách thức đối với GCCN hiện nay. Đảng, Nhà nước, các tổ chức

chính trị - xã hội, đặc biệt là tổ chức CĐ có trách nhiệm tạo điều kiện thuận

lợi về vật chất và tinh thần, xây dựng, hoàn thiện cơ chế, chính sách, tạo động

lực khuyến khích CN, lao động khắc phục khó khăn, tự giác rèn luyện, tích cực

tham gia các chương trình đào tạo để từng bước trí thức hóa CN và hình thành

xã hội học tập.

- GS. Văn Tạo (2006), “Quan điểm mới về GCCN Việt Nam của Văn

kiện Đại hội X của Đảng”, Tạp chí Cộng sản số 10, tháng 5/2006. Tác giả cho

rằng từ đầu những năm 1980 đến nay, GCCN nước ta đã có những đổi mới

như sau: đã được trí thức hóa, một bộ phận lớn GCCN đã là trí thức; người

CN không còn thuần túy là người làm thuê mà đã có phần nào làm chủ trong

cả sản xuất lẫn phân phối sản phẩm lao động; GCCN vẫn đóng vai trò tiên

phong, đang trên đà đưa “khoa học và kỹ thuật trở thành lực lượng sản xuất

trực tiếp”, đang đi đầu trong sự nghiệp CNH,HĐH; GCCN Việt Nam đã có

một vị thế quốc tế, sánh vai được với các nước trong khu vực và thế giới.

- TS. Đặng Ngọc Tùng (2013),“Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng,

nâng cao tính chủ động, sáng tạo của hoạt động CĐ”, Tạp chí Cộng sản điện

tử, ngày 5/9/2013. Tác giả nêu rõ vị trí, vai trò của tổ chức CĐVN trong sự

nghiệp đổi mới đất nước do ĐCSVN khởi xướng và lãnh đạo. Đề ra sáu giải

pháp cơ bản để tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, nâng cao tính năng động,

sáng tạo của tổ chức CĐ: 1. Đổi mới công tác tuyên truyền, giáo dục để nâng

cao nhận thức của cán bộ, đảng viên và nhân dân về GCCN và tổ chức CĐ. 2.

Giải quyết có hiệu quả những vấn đề bức xúc, cấp thiết của GCCN, mà Nghị

quyết số 20-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương khóa X đã đề ra. 3. Xây

dựng, củng cố bộ máy, nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ CĐ các cấp, nhất là

đội ngũ cán bộ tham mưu chiến lược; 4. Đổi mới, hoàn thiện quan hệ giữa

8

Đảng, Nhà nước với TLĐLĐVN và các tổ chức chính trị - xã hội; 5. Đẩy

mạnh phong trào thi đua yêu nước trong đoàn viên CĐ; 6. Xây dựng tổ

chức CĐ vững mạnh, thực hiện tốt việc bảo vệ lợi ích hợp pháp, chính

đáng của NLĐ.

- PGS.TS. Phạm Công Nhất (2014), “Để GCCN Việt Nam thực sự là

lực lượng tiên phong trong sự nghiệp CNH,HĐH đất nước”, Tạp chí Cộng

sản điện tử, ngày 26/4/2014. Tác giả nêu thực trạng GCCN Việt Nam trong

giai đoạn hiện nay, từ đó đề ra sáu giải pháp để GCCN Việt Nam là lực lượng

tiên phong trong sự nghiệp CNH,HĐH đất nước: 1. Cần phải cụ thể hóa

những quan điểm, chủ trương lớn của Đảng về GCCN vào cuộc sống. 2. Nhà

nước sớm thể chế hóa những quan điểm, chủ trương lớn của Đảng thành cơ

chế, chính sách cụ thể, nhằm giải quyết có hiệu quả những vấn đề bức xúc,

cấp bách của GCCN. 3. Quan tâm lãnh đạo sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện pháp

luật có liên quan trực tiếp tới NLĐ và tổ chức CĐ. 4. Chỉ đạo kiểm tra các

doanh nghiệp trong việc xây dựng và tổ chức thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ

sở. 5. Quan tâm bồi dưỡng nâng cao trình độ lý luận chính trị, ý thức giai cấp,

tinh thần dân tộc cho CN, lao động, để họ luôn gắn bó với sự nghiệp cách

mạng của Đảng, của dân tộc. 6. Phải xem công tác xây dựng Đảng, củng cố

các đoàn thể quần chúng là nhiệm vụ có ý nghĩa sống còn đối với phong trào

CN hiện nay.

- Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng (Phát biểu tại Đại hội CĐVN lần thứ

XI ngày 28/7/2014), “Nâng tầm cao trí tuệ và vai trò chính trị to lớn của

GCCN Việt Nam”, Tổng Bí thư đã chỉ ra năm nhiệm vụ cơ bản của CĐVN

trong tình hình mới: 1. Nắm vững và quán triệt thật sâu sắc những quan điểm,

tư tưởng chỉ đạo của Nghị quyết Đại hội XI của Đảng, Cương lĩnh chính trị,

Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội trong thời kỳ mới và Nghị quyết Hội

nghị Trung ương 6 khóa X về tiếp tục xây dựng GCCN; đồng thời tham mưu

9

cho Đảng, Nhà nước có những chính sách, biện pháp cụ thể, đưa quan điểm,

chủ trương của Đảng và Nhà nước vào cuộc sống. 2. Chăm lo làm tốt hơn

nhiệm vụ xây dựng GCCN, xứng đáng là lực lượng nòng cốt, đi đầu trong sự

nghiệp đổi mới, CNH,HĐH đất nước. 3. Chủ động phối hợp với chính quyền

tổ chức tốt các phong trào hành động cách mạng trong CN, đi đầu trong các

phong trào thi đua phát triển kinh tế - xã hội. 4. Cần đẩy mạnh việc xây dựng

tổ chức, kiện toàn đội ngũ cán bộ và cải tiến phương thức hoạt động của CĐ

phù hợp với yêu cầu mới. 5. Làm tốt công tác xây dựng Đảng tại các cơ quan,

tổ chức của mình, đồng thời tích cực tham gia xây dựng Đảng cả về chính trị,

tư tưởng và tổ chức.

Nhìn chung, đã có nhiều công trình nghiên cứu về phong trào CN và

hoạt động của tổ chức CĐ, về sự lãnh đạo của Đảng với CĐ, nhưng chưa có

một công trình nghiên cứu đi sâu và mang tính hệ thống về sự lãnh đạo của

Đảng đối với CĐVN từ năm 2003 đến năm 2013 - giai đoạn lịch sử rất quan

trọng, đánh dấu bước phát triển về “chất” trong hoạt động của tổ chức CĐVN

trong thời kỳ đẩy mạnh CNH,HĐH và hội nhập quốc tế. Tuy nhiên, kết quả

của các công trình trên là nguồn tài liệu quý giá, gợi mở để tác giả kế thừa

trong thực hiện đề tài.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu

Luận văn làm sáng tỏ chủ trương lãnh đạo của Đảng đối với CĐVN từ

năm 2003 đến năm 2013 và những kết quả đạt được, bước đầu rút ra một số

nhận xét và kinh nghiệm.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

- Hệ thống hóa và trình bày các tư liệu theo các giai đoạn lịch sử có liên

10

quan đến đề tài, làm rõ những yếu tố tác động đến hoạt động của CĐVN.

- Trình bày một cách có hệ thống sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng đối với

hoạt động của tổ chức CĐVN và những kết quả đạt được từ năm 2003 đến

năm 2013.

- Bước đầu tổng kết những ưu điểm, cũng như những mặt còn hạn chế

trong công tác chỉ đạo của Đảng đối với tổ chức CĐVN và rút ra bài học kinh

nghiệm.

4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Luận văn nghiên cứu về chủ trương, đường lối và quá trình thực hiện sự

lãnh đạo của Đảng đối với tổ chức CĐVN từ năm 2003 đến năm 2013.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

Về nội dung: Nghiên cứu chủ trương, đường lối lãnh đạo của Đảng đối

với CĐVN và kết quả thực hiện, trong đó tập trung làm rõ ba nội dung cơ

bản: tuyên truyền, vận động, giáo dục CNVCLĐ; bảo vệ quyền, lợi ích hợp

pháp, chính đáng CNVCLĐ; phát triển đoàn viên và xây dựng tổ chức CĐ

vững mạnh.

Về thời gian: Nghiên cứu từ năm 2003 đến năm 2013, trong đó được

phân ra hai thời kỳ: từ năm 2003 đến năm 2007, thực hiện Nghị quyết Đại hội

IX, X của Đảng, Đại hội lần thứ IX của CĐVN và từ năm 2008 đến năm

2013, thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ XI của Đảng và Đại hội X, XI

CĐVN.

5. Cơ sở lý luận, nguồn tài liệu và phƣơng pháp nghiên cứu

5.1. Cơ sở lý luận

Luận văn dựa trên cơ sở lý luận, phương pháp luận của chủ nghĩa Mác

- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương, đường lối, quan điểm của Đảng

11

và Nhà nước ta về GCCN và tổ chức CĐ. Đồng thời sử dụng có chọn lọc kết

quả nghiên cứu của một số công trình nghiên cứu khoa học đã được công bố

liên quan đến đề tài.

5.2. Nguồn tài liệu

- Văn kiện của Đảng, Nhà nước có liên quan đến chủ trương, đường lối

lãnh đạo CĐVN.

- Văn kiện Đại hội CĐ các năm từ năm 1998 đế năm 2013.

- Các công trình nghiên cứu liên quan đến nội dung của đề tài.

- Các bài viết, bài nghiên cứu trên các tạp chí khoa học.

5.3. Phương pháp nghiên cứu

- Luận văn sử dụng phương pháp lịch sử và phương pháp lôgic là hai

phương pháp chủ yếu, nhằm trình bày một cách khách quan, khoa học sự lãnh

đạo của Đảng cũng như hiệu quả thực hiện của sự lãnh đạo đó trong hoạt

động của tổ chức CĐVN theo các bước phát triển gắn với các giai đoạn lịch

sử cụ thể.

- Ngoài ra, luận văn còn sử dụng một số các phương pháp khác như phân

tích, tổng hợp, thống kê, so sánh, đối chiếu, nhằm đánh giá, nhận xét và rút ra

những kinh nghiệm lịch sử cần thiết.

6. Đóng góp của luận văn

- Luận văn trình bày một cách hệ thống sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng đối

với hoạt động CĐVN và quá trình CĐVN cụ thể hóa chủ trương của Đảng thành

những phương hướng, nhiệm vụ trong những năm 2003 - 2007 và những năm

2008 - 2013.

- Luận văn giúp người đọc có cái nhìn đầy đủ về những hoạt động cơ

bản, thành tựu và hạn chế của tổ chức CĐVN ngày một đổi mới dưới sự lãnh

đạo của Đảng những năm 2003 - 2013.

- Những bài học kinh nghiệm mà luận văn đưa ra có giá trị tham khảo

12

đối với TLĐLĐVN trong việc đề ra mục tiêu, phương hướng, nhiệm vụ và

phương pháp hoạt động của tổ chức CĐVN trong sự nghiệp CNH,HĐH đất

nước và hội nhập quốc tế.

7. Bố cục của luận văn

Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo và Phụ lục,

luận văn được kết cấu thành ba chương:

Chương 1: Đảng lãnh đạo Công đoàn Việt Nam từ năm 2003 đến năm 2007.

Chương 2: Đảng lãnh đạo Công đoàn Việt Nam từ năm 2008 đến năm 2013.

13

Chương 3: Nhận xét và kinh nghiệm lịch sử.

Chƣơng 1

ĐẢNG LÃNH ĐẠO CÔNG ĐOÀN VIỆT NAM

TỪ NĂM 2003 ĐẾN NĂM 2007

1.1. Những yếu tố tác động và chủ trƣơng của Đảng lãnh đạo Công

đoàn Việt Nam

1.1.1. Những yếu tố tác động đến hoạt động của Công đoàn Việt Nam

1.1.1.1. Tác động của tình hình thế giới

Bước sang thế kỷ XXI, tình hình thế giới có những biến chuyển nhanh

chóng và sâu sắc. Khoa học và công nghệ có bước tiến nhảy vọt. Kinh tế tri

thức có vai trò ngày càng nổi bật trong quá trình phát triển lực lượng sản xuất.

Toàn cầu hóa kinh tế là một xu thế khách quan, lôi cuốn ngày càng nhiều

nước tham gia và đang bị một số nước phát triển và các tập đoàn kinh tế tư

bản xuyên quốc gia chi phối, chứa đựng nhiều mâu thuẫn, vừa có mặt tích cực

vừa có mặt tiêu cực, vừa có hợp tác vừa có đấu tranh. Các mâu thuẫn cơ bản

trên thế giới biểu hiện dưới những hình thức và mức độ khác nhau vẫn tồn tại

và phát triển, có mặt sâu sắc hơn. Đấu tranh dân tộc và đấu tranh giai cấp tiếp

tục diễn ra gay gắt. Thế giới đứng trước nhiều vấn đề toàn cầu cấp bách mà

không một quốc gia riêng lẻ nào có thể tự giải quyết nếu không có sự hợp tác

đa phương như: bảo vệ môi trường, hạn chế sự bùng nổ về dân số, đẩy lùi

những dịch bệnh hiểm nghèo, chống tội phạm quốc tế… Chủ nghĩa tư bản

hiện đại đang nắm ưu thế về vốn, khoa học và công nghệ, thị trường, song

không thể khắc phục nổi những mâu thuẫn vốn có, đặc biệt là mâu thuẫn giữa

tính chất xã hội hóa ngày càng cao của lực lượng sản xuất với chế độ chiếm

hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất, mâu thuẫn giữa các nước tư

bản phát triển và các nước đang phát triển. Các quốc gia độc lập ngày càng

tăng cường cuộc đấu tranh để tự lựa chọn và quyết định con đường phát triển

14

của mình. CNXH trên thế giới, từ những bài học thành công và thất bại cũng

như từ khát vọng và sự thức tỉnh của các dân tộc, có điều kiện và khả năng

tạo ra bước phát triển mới. Theo quy luật tiến hóa của lịch sử, loài người

nhất định sẽ tiến tới CNXH.

Tình hình chính trị trên thế giới thập niên đầu thế kỷ XXI khá phức tạp,

tuy không xảy ra những cuộc chiến tranh lớn, nhưng chiến tranh cục bộ, xung

đột vũ trang, xung đột sắc tộc, tôn giáo, chạy đua vũ trang, hoạt động can

thiệp, lật đổ, hoạt động khủng bố xảy ra ở nhiều nơi, với tính chất ngày càng

phức tạp. Tuy nhiên, hòa bình, hợp tác vẫn là xu thế chủ đạo trong giai đoạn

hiện nay, những cuộc đấu tranh vì hòa bình, độc lập, dân chủ có những bước

tiến mới. Khu vực Đông Nam Á, châu Á - Thái Bình Dương sau khủng hoảng

tài chính - kinh tế có khả năng phát triển năng động nhưng vấn tiềm ẩn những

nhân tố gây mất ổn định.

1.1.1.2. Tác động của hội nhập kinh tế quốc tế đối với hoạt động của tổ

chức Công đoàn Việt Nam

Ngày 11/1/2007, Việt Nam trở thành thành viên chính thức thứ 150 của

Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), đã mở ra một thời kỳ hội nhập sâu

rộng, tạo điều kiện giao lưu thương mại và đầu tư quốc tế tăng vọt, một lượng

lớn về vốn và kỹ thuật của nước ngoài đầu tư vào Việt Nam.

Hội nhập kinh tế quốc tế đưa đến sự tăng nhanh số lượng lao động trong

các đơn vị sản xuất, kinh doanh, trong các thành phần kinh tế, tạo tiền đề

thuận lợi để tổ chức CĐ vận động, kết nạp đoàn viên, thành lập CĐCS, tuyên

truyền, phổ biến kiến thức, giao lưu văn hóa, giữa các thành viên trong doanh

nghiệp với đoàn viên CĐ các doanh nghiệp khác.

Nhờ hệ thống thông tin phát triển rộng khắp và tiện lợi, nên CNVCLĐ

CĐVN ngày càng nhận thức đầy đủ hơn về tổ chức CĐ các nước trên thế giới

và ngày càng có nhu cầu được tổ chức CĐ quan tâm đến đời sống, việc làm,

đại diện, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng. Đây là một trong những

15

điều kiện thuận lợi để tập hợp, vận động CN, lao động tham gia tổ chức CĐ.

Hội nhập kinh tế quốc tế tạo sự phát triển mạnh mẽ các quan hệ hợp tác

quốc tế trong lĩnh vực lao động và CĐ. Điều này tạo cơ hội thuận lợi để

CĐVN đẩy mạnh hơn nữa các hoạt động đối ngoại góp phần tăng cường hợp

tác, trao đổi kinh nghiệm hoạt động giữa CĐ các nước, các tổ chức quốc tế và

CĐ quốc tế, CĐ ngành quốc tế, CĐ khu vực, tiếp thu tinh hoa văn hóa của CN

trong khu vực và trên thế giới. Đồng thời cần quảng bá hình ảnh của đất nước,

của CĐVN với bạn bè trên thế giới.

Tuy nhiên, sự chuyển dịch mạnh cơ cấu kinh tế, trong điều kiện hội nhập

kinh tế quốc tế dẫn đến tình trạng lao động trong các thành phần kinh tế tăng

nhanh về số lượng, đa dạng về cơ cấu và quan hệ lao động cũng có xu hướng

phức tạp hơn. Do vậy, có những ảnh hưởng không nhỏ tới tổ chức và hoạt

động của CĐVN.

Do chịu ảnh hưởng của những luồng thông tin sai lệch về GCCN, CĐ

quốc tế, tư tưởng đa nguyên, đấu tranh kinh tế thuần túy, nên hoạt động của

CĐVN đã gặp phải những cản trở không nhỏ trong việc thực hiện công tác

tuyên truyền, giáo dục CNVCLĐ trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.

Sự gia tăng nguồn vốn đầu tư phát triển kinh tế thúc đẩy sự tăng lên

nhanh chóng của lực lượng lao động khu vực doanh nghiệp ngoài quốc doanh,

khu vực có vốn đầu tư nước ngoài về số lượng và tỷ trọng, đòi hỏi CĐ cơ sở

phải đổi mới nội dung, phương thức tổ chức hoạt động cho phù hợp với thực

tế, đáp ứng yêu cầu, nguyện vọng của NLĐ và đoàn viên CĐ; làm cho CN,

lao động thích ứng với tư duy mới, tác phong lao động công nghiệp; làm cho

chủ doanh nghiệp là người nước ngoài hiểu tập quán, phong tục của NLĐ, giá

trị truyền thống, văn hóa Việt Nam.

Hội nhập kinh tế quốc tế cũng làm xuất hiện những trở lực từ bên ngoài

tác động xấu tới ý thức chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận NLĐ, kể

16

cả âm mưu “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch hòng gây mất ổn

định xã hội nước ta nói chung và với CN, CĐ nói riêng. Điều này đòi hỏi

CĐVN phải cùng với Đảng, Nhà nước và các tổ chức đoàn thể khác tập hợp,

giáo dục, nâng cao nhận thức, nâng cao ý thức chính trị của CNVCLĐ và

đoàn viên CĐ, đồng thời góp phần giảm bớt khó khăn về đời sống vật chất và

tinh thần của NLĐ.

1.1.1.3. Tác động của thực hiện đường lối đổi mới của Đảng

Ở Việt Nam, tính đến năm 2001 đã trải qua 15 năm thực hiện đường lối

đổi mới của Đảng với các kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của Nhà nước.

Trong 15 năm đó (1986 - 2001), dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân Việt

Nam đã phát huy cao độ nội lực, kiên trì mục tiêu XHCN, vì độc lập dân tộc,

dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh và giành được những

thành tựu to lớn. Một trong số những thành tựu phải kể đến là: Đất nước đã

thoát ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội. Tích lũy nội bộ của nền kinh tế từ

mức không đáng kể, đến năm 2000 đã đạt 27% GDP. Kết cấu hạ tầng kinh tế

- xã hội phát triển nhanh. Cơ cấu kinh tế có bước chuyển dịch tích cực. Trong

GDP, tỷ trọng nông nghiệp và xây dựng từ 22,7% tăng lên 36,6%, dịch vụ từ

38,6% tăng lên 39,1%. Quan hệ sản xuất đã có bước đổi mới phù hợp hơn với

trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và thúc đẩy sự hình thành nền

KTTT định hướng XHCN. Tạo được một số chuyển biến tích cực về mặt xã

hội, giữ vững ổn định chính trị, củng cố quốc phòng, an ninh, thực hiện có kết

quả một số đổi mới quan trọng về hệ thống chính trị. Phát triển quan hệ đối

ngoại rộng mở đã phá thế bị bao vây, cấm vận của các thế lực thù địch và Việt

Nam đã hội nhập với khu vực và thế giới. Ngày 11/1/2007, Việt Nam trở

thành thành viên chính thức của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), đã mở

ra một thời kỳ hội nhập sâu rộng, tạo ra điều kiện giao lưu thương mại và đầu

tư quốc tế tăng vọt, một lượng lớn về vốn và kỹ thuật của nước ngoài đầu tư

17

vào Việt Nam.

Tại Đại hội lần thứ IX (2001) của ĐCSVN đã khẳng định, tiếp tục nắm

vững hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam

XHCN, đẩy mạnh CNH,HĐH đất nước. Đại hội đề ra đường lối kinh tế là:

“Đẩy mạnh CNH,HĐH, xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, đưa nước ta trở

thành một nước công nghiệp; ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất, đồng thời

xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp theo định hướng XHCN; phát huy cao độ

nội lực, đồng thời tranh thủ nguồn lực bên ngoài và chủ động hội nhập kinh tế

quốc tế để phát triển nhanh, có hiệu quả và bền vững; tăng trưởng kinh tế đi liền

với phát triển văn hóa, từng bước cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của

nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ môi trường; kết hợp với

phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường quốc phòng - an ninh” [3, tr.89].

Trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm (2001 - 2010), Đảng

xác định rõ mục tiêu: “Đưa nước ta thoát ra khỏi tình trạng kém phát triển;

nâng cao rõ rệt đời sống vật chất, văn hóa, tinh thần của nhân dân, tạo nền

tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo

hướng hiện đại. Nguồn lực con người, năng lực khoa học và công nghệ, kết

cấu hạ tầng, tiềm lực kinh tế, quốc phòng, an ninh được tăng cường; thể chế

KTTT định hướng XHCN được hình thành về cơ bản; vị thế của nước ta trên

trường quốc tế được nâng cao”[3, tr.89].

Cũng tại Đại hội lần thứ IX, Đảng ta khẳng định: Đảng và nhân dân ta

quyết tâm xây dựng đất nước Việt Nam theo con đường XHCN dựa trên nền

tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh nhằm mục tiêu là độc

lập dân tộc gắn liền với CNXH, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân

chủ, văn minh. Xác định phát triển kinh tế, CNH,HĐH hóa là nhiệm vụ trung

tâm; thực hiện nhất quán chính sách phát triển nền KTTT theo định hướng

XHCN; phát triển giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, xây dựng nền

18

văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.

Tháng 4/2006, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của ĐCSVN đề ra

chủ trương tiếp tục đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới theo con đường

XHCN; đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế, đẩy mạnh

CNH,HĐH, phát triển nhanh, bền vững; hoàn thiện thể chế KTTT định hướng

XHCN; phát triển giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, kinh tế tri

thức; bảo vệ môi trường; phát triển văn hóa; thực hiện tiến bộ và công bằng

xã hội; tăng cường quốc phòng và an ninh; mở rộng quan hệ đối ngoại; chủ

động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế; giữ vững ổn định chính trị - xã hội;

sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển; tạo nền tảng để đến năm

2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại.

Những chủ trương trên đây của Đảng tác động mạnh đến hoạt động của

tổ chức CĐ. Nước ta bước vào thời kỳ đẩy mạnh CNH,HĐH trong điều kiện

cuộc cách mạng khoa học và công nghệ phát triển nhanh với trình độ ngày

càng cao, thúc đẩy quá trình quốc tế hóa nền kinh tế. Điều kiện đó cho phép

chúng ta đi thẳng vào khoa học và công nghệ hiện đại, tranh thủ những công

nghệ tiên tiến của thế giới, đẩy mạnh CNH,HĐH đất nước. Sự hình thành các

khu công nghiệp, khu chế xuất đã và đang đặt ra những đòi hỏi mới về số

lượng, chất lượng nguồn nhân lực có thể đáp ứng được yêu cầu phát triển của

khoa học và công nghệ hiện đại. Trong công cuộc đổi mới, Đảng và Nhà nước

ta từng bước đổi mới chính sách phát triển giáo dục và đào tạo, khoa học và

công nghệ hướng tới mục tiêu nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng

nhân tài. Chất lượng đội ngũ CNVCLĐ ở nước ta được nâng lên nhiều mặt.

Đại đa số CNVCLĐ có bản lĩnh chính trị vững vàng, phẩm chất tốt luôn tin

tưởng ủng hộ và quyết tâm thực hiện đường lối đổi mới do Đảng khởi xướng

và lãnh đạo; có tinh thần yêu nước, đoàn kết, tương thân tương ái; có ý thức

tự lực tự cường, năng động sáng tạo, vươn lên khắc phục khó khăn, thử thách;

19

chủ động trong tìm kiếm việc làm và lựa chọn nơi làm việc; cố gắng học tập

nâng cao trình độ học vấn, chuyên môn, nghiệp vụ, nhận thức rõ hơn về nền

KTTT định hướng XHCN, xu thế cạnh tranh và hội nhập quốc tế, tích cực đấu

tranh chống âm mưu “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch, góp phần

củng cố an ninh, quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc; tích cực chống tham nhũng,

tiêu cực và các tệ nạn xã hội; thực sự là lực lượng đi đầu trong CNH,HĐH đất

nước, giữ vai trò nòng cốt trong khối liên minh công, nông và trí thức.

Bên cạnh những thuận lợi đó, hoạt động của tổ chức CĐVN vẫn còn gặp

phải một số khó khăn như:

Phát triển nền KTTT định hướng XHCN vừa đặt ra yêu cầu phát triển

khoa học và công nghệ, vừa tạo tiền đề vật chất và cơ chế để khoa học và

công nghệ nhanh chóng được ứng dụng vào sản xuất, đem lại lợi nhuận cao

cho các hoạt động kinh doanh. Chính điều đó vừa đòi hỏi, vừa khuyến khích

CN tích cực học tập, nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ để thích ứng

với sự đổi mới nhanh của công nghệ, ổn định được việc làm và tăng thu nhập.

Đây chính là cơ hội và điều kiện để thực hiện “trí thức hóa GCCN”. Song,

chất lượng đội ngũ CNVCLĐ chưa đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao của

sự nghiệp CNH,HĐH và hội nhập quốc tế. Các chuyên gia kỹ thuật, cán bộ

quản lý giỏi, CN có tay nghề cao thiếu nghiêm trọng. Số đông CN, LĐ xuất

thân từ nông dân chưa được đào tạo cơ bản và có hệ thống, chưa có tác phong

công nghiệp, ý thức kỷ luật lao động, sự hiểu biết và thực thi pháp luật còn

hạn chế. Một bộ phận CNVCLĐ còn chậm thích nghi với cơ chế thị trường,

sự giác ngộ giai cấp và hiểu biết chính trị không đồng đều, chưa thiết tha phấn

đấu vào Đảng và tham gia các hoạt động trong các tổ chức chính trị xã hội, kể

cả tổ chức CĐ.

Việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế và sự phát triển mạnh mẽ của các thành

phần kinh tế, nhất là thành phần kinh tế ngoài nhà nước, doanh nghiệp có vốn

20

đầu tư nước ngoài đang phát triển mạnh mẽ, đã xuất hiện quan hệ chủ - thợ,

tình trạng bóc lột, ức hiếp NLĐ diễn ra hàng ngày và có xu hướng phát triển.

Vì vậy, hoạt động bảo vệ quyền và lợi ích cho CNVCLĐ của CĐ gặp nhiều

khó khăn. Các doanh nghiệp ngoài nhà nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư

nước ngoài với mục tiêu lợi nhuận là trên hết nên tìm mọi cách khai thác sức

lao động của CN. Vì vậy, NLĐ không còn thời gian để học tập nâng cao trình

độ cũng như tham gia vào các hoạt động xã hội. Do thời gian làm việc căng

thẳng, người lao động thường phải làm tăng ca, tăng giờ và ở không tập trung

nên rất khó khăn cho công tác tuyên truyền, vận động giáo dục CN, NLĐ tham

gia tổ chức CĐ.

Việc cổ phần hóa, sắp xếp lại các doanh nghiệp làm cho một bộ phận

không nhỏ lao động dôi dư, mất việc làm. Đây là một thách thức lớn cho CĐ

khi thực hiện chức năng bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của NLĐ.

Quá trình sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp nhà nước đã hình thành nhiều loại

hình doanh nghiệp mới như công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn,

công ty mẹ - công ty con, tập đoàn kinh tế, v.v. đã tác động không ít tới tổ

chức và hoạt động CĐ trong các doanh nghiệp.

Vấn đề tiền lương - nguồn thu nhập chính của NLĐ vẫn còn mang nặng

tính bình quân, chưa phù hợp với cơ chế thị trường, chưa đảm bảo được đời

sống của người hưởng lương, chưa khuyến khích, thu hút được người có tay

nghề cao và người có tài. Đặc biệt, sự phân hóa ngày càng tăng về thu nhập

của CNVCLĐ có cùng trình độ, kỹ năng nghề nghiệp, giữa các ngành nghề,

vùng, miền, các thành phần kinh tế và giữa cán bộ quản lý với NLĐ trực tiếp

sản xuất trong cùng một doanh nghiệp. Vì vậy, cải cách cơ bản chính sách

tiền lương đang là đòi hỏi cấp bách trong tình hình hiện nay.

Vấn đề nhà ở đang hết sức bức xúc và còn nhiều bất bình đẳng. Tai nạn

lao động và bệnh nghề nghiệp còn nghiêm trọng. Tình trạng vi phạm pháp

21

luật về lao động trong các doanh nghiệp còn diễn ra khá phổ biến, nhất là vi

phạm những quy định về thời gian làm việc, nghỉ ngơi, trả lương chậm không

được đền bù, vi phạm những quy định về giao kết hợp đồng lao động và việc

ký kết thỏa ước lao động tập thể, không thực hiện nghiêm các chính sách về

bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế… Tranh chấp lao động tập thể và đình công

diễn ra phức tạp và có xu hướng tăng lên, tập trung nhiều ở các tỉnh, thành

phố lớn và các khu công nghiệp tập trung, ở các doanh nghiệp tư nhân và

doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.

Tất cả những điều này là một thách thức không nhỏ đối với hoạt động

của tổ chức CĐVN, đòi hỏi phải đổi mới nội dung, phương thức hoạt động và

có những định hướng cụ thể và rõ ràng cho từng giai đoạn.

1.1.2. Chủ trương của Đảng đối với hoạt động của Công đoàn Việt

Nam

1.1.2.1. Chủ trương của Đảng lãnh đạo Công đoàn Việt Nam

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng (1996) nhận định,

những thành tựu của công cuộc đổi mới đã và đang tạo ra thế và lực mới để

nước ta bước vào một thời kỳ mới - thời kỳ đẩy mạnh CNH,HĐH đất nước,

phấn đấu đưa Việt Nam cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng

hiện đại vào năm 2020. Để thực hiện thắng lợi những nhiệm vụ trên, cần phải

động viên mọi lực lượng và mọi tiềm năng sáng tạo, phát huy vai trò làm chủ

của nhân dân. Đại hội còn đề ra các chính sách cụ thể đối với các giai cấp, các

tầng lớp, các dân tộc trong nước, tạo ra những động lực mới thúc đẩy phong

trào hành động cách mạng của nhân dân. Đối với GCCN và tổ chức CĐVN,

Đảng xác định: “Xây dựng GCCN lớn mạnh về mọi mặt, phát triển về số

lượng, giác ngộ về giai cấp, nâng cao trình độ học vấn, tay nghề, có năng lực

ứng dụng và sáng tạo công nghệ mới, có tác phong công nghiệp và ý thức tổ

chức, kỷ luật, lao động đạt năng suất, chất lượng và hiệu quả ngày càng cao,

22

làm nòng cốt trong việc xây dựng khối liên minh công nhân, nông dân, trí

thức và tăng cường khối đại đoàn kết dân tộc. Tạo thêm việc làm, cải thiện

điều kiện lao động, thực hiện an toàn lao động và vệ sinh công nghiệp, hạn

chế đến mức thấp nhất tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp. Tổ chức tốt việc

đào tạo và đào tạo lại nghề nghiệp. Tiếp tục nghiên cứu, bổ sung, hoàn chỉnh

chính sách tiền công lao động và các chính sách bảo đảm về mặt xã hội. Tạo

điều kiện cho CN có cổ phần trong các doanh nghiệp. Đẩy mạnh việc phát

triển Đảng trong CN; quan tâm bồi dưỡng, đào tạo cán bộ xuất thân từ CN”

[3, tr.123].

Trên cơ sở nhận định tình thế thế giới, khu vực và trong nước, Đại hội

đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng (4/2001) quyết định mục tiêu sớm đưa

nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, nâng cao rõ rệt đời sống vật chất và

tinh thần của nhân dân, tạo nền tảng đến năm 2020 đưa nước ta cơ bản trở

thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại hóa. Đại hội đề ra quan

điểm, chủ trương đối với GCCN và tổ chức CĐVN trong giai đoạn mới: “Đối

với GCCN, coi trọng việc phát triển về số lượng và chất lượng, nâng cao giác

ngộ và bản lĩnh chính trị, trình độ học vấn và nghề nghiệp, thực hiện “trí thức

hoá CN”, nâng cao năng lực ứng dụng và sáng tạo công nghệ mới, lao động

đạt năng suất, chất lượng và hiệu quả ngày càng cao, xứng đáng là một lực

lượng đi đầu trong sự nghiệp CNH,HĐH đất nước và vai trò lãnh đạo cách

mạng trong thời kỳ mới. Bảo vệ quyền lợi, nâng cao đời sống vật chất và

tinh thần của GCCN trong điều kiện thực hiện cơ chế thị trường. Tăng

cường đào tạo cán bộ lãnh đạo, quản lý và kết nạp đảng viên từ những CN

ưu tú; tăng nhanh thành phần CN trong đội ngũ cán bộ lãnh đạo các cấp,

các ngành”[4, tr.124-125].

Có thể thấy, chủ trương lãnh đạo CĐVN được đề cập tại Đại hội lần

thứ IX của Đảng có một số điểm mới so với Đại hội lần thứ VIII: Đảng đã

23

quán triệt quan điểm “trí thức hóa CN”, đó là quá trình nâng cao trình độ tri

thức và năng lực hoạt động thực tiễn để GCCN xứng đáng với vai trò tiên

phong của mình trong sự nghiệp CNH,HĐH đất nước theo định hướng

XHCN; quán triệt chức năng “bảo vệ quyền lợi, nâng cao đời sống vật chất và

tinh thần của GCCN trong điều kiện thực hiện cơ chế thị trường” của tổ chức

CĐ; nhấn mạnh việc phải tăng nhanh thành phần CN trong đội ngũ cán bộ

lãnh đạo các cấp, các ngành.

Đến Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX

(3/2003) tiếp tục quán triệt chủ trương, đường lối lãnh đạo CĐ của Đảng đã

được đề ra từ Đại hội IX, Hội nghị nhấn mạnh: “Nâng cao giác ngộ và bản

lĩnh chính trị, trình độ học vấn và nghề nghiệp, bồi dưỡng tác phong công

nghiệp, thực hiện “trí thức hóa CN”. Giải quyết việc làm, giảm tối đa tỷ lệ CN

thiếu việc làm và thất nghiệp. Thực hiện tốt pháp luật lao động, bảo hộ lao

động và việc chăm sóc, phục hồi sức khỏe cho CN. Sớm tổ chức thực hiện

Quỹ trợ cấp thất nghiệp. Xây dựng hoàn thiện và tổ chức thực hiện tốt các

chính sách bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế đối với CNVCLĐ; chính sách ưu

đãi nhà ở đối với CN bậc cao. Tăng cường đào tạo cán bộ lãnh đạo, cán bộ

quản lý và phát triển Đảng trong CN. Nghiên cứu việc giao cho tổ chức CĐ

giới thiệu những CN ưu tú để kết nạp vào Đảng” [8, tr.15].

Quan điểm “trí thức hóa CN” tiếp tục được nhắc tới tại Hội nghị lần

thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX cho thấy, Đảng ta xác định

rất rõ vai trò, vị trí tiên phong của GCCN trong sự nghiệp CNH,HĐH đất

nước. Bên cạnh đó, chức năng bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của

NLĐ tiếp tục được nhấn mạnh trong điều kiện mới.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng (4/2006) đã bổ sung,

phát triển đường lối xây dựng GCCN và tổ chức CĐVN trong điều kiện đẩy

mạnh toàn diện công cuộc đổi mới đất nước, phát triển nền KTTT định hướng

24

XHCN, đẩy mạnh CNH,HĐH đất nước, hội nhập quốc tế, sớm đưa nước ta

thoát khỏi tình trạng kém phát triển. Quan điểm của Đại hội là: “Đối với

GCCN, phát triển về số lượng, chất lượng và tổ chức; nâng cao giác ngộ và

bản lĩnh chính trị, trình độ học vấn và nghề nghiệp, xứng đáng là lực lượng đi

đầu trong sự nghiệp CNH,HĐH đất nước. Giải quyết việc làm, giảm tối đa số

CN thiếu việc làm và thất nghiệp. Thực hiện tốt chính sách và pháp luật về

lao động, tiền lương, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp,

bảo hộ lao động, chăm sóc, phục hồi sức khỏe đối với CN; chính sách ưu đãi

nhà ở đối với CN bậc cao. Xây dựng tổ chức, phát triển đoàn viên CĐ, nghiệp

đoàn đều khắp ở các cơ sở sản xuất kinh doanh thuộc các thành phần kinh tế.

Thường xuyên chăm lo đời sống vật chất và tinh thần, bảo vệ quyền lợi chính

đáng, hợp pháp của CN và những NLĐ, chú trọng CN làm việc ở các khu

công nghiệp và đô thị lớn. Chăm lo đào tạo cán bộ và kết nạp đảng viên từ

CN ưu tú” [6, tr.118].

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng đã phát triển, bổ sung

đường lối xây dựng tổ chức CĐ trên các vấn đề: xây dựng tổ chức, phát triển

đoàn viên CĐ, nghiệp đoàn đều khắp ở các cơ sở sản xuất kinh doanh thuộc

các thành phần kinh tế; chăm lo đời sống vật chất và tinh thần, bảo vệ quyền,

lợi ích chính đáng của CN, chú trọng CN làm việc ở các khu công nghiệp và

đô thị lớn là một hoạt động thường xuyên của tổ chức CĐVN.

Có thể thấy, đường lối, quan điểm chỉ đạo của Đảng tại Đại hội IX, X về

tổ chức CĐVN như đã trình bày ở trên thể hiện quá trình nhận thức, phát triển

tư duy lý luận và là quá trình hoàn thiện dần hệ thống, quan điểm, chủ trương

của Đảng về xây dựng GCCN và tổ chức CĐVN vững mạnh, phát huy được

vai trò của GCCN và tổ chức CĐ trong việc góp phần vào thực hiện thắng lợi

những mục tiêu kinh tế - xã hội mà Đảng và Nhà nước đã đề ra. Đồng thời,

cũng khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng đối với tổ chức CĐ trong tiến

trình lịch sử đất nước, nhằm đảm bảo cho hoạt động của CĐVN thực hiện

25

đúng theo đường lối mà Đảng đã đề ra.

1.1.2.2. Công đoàn Việt Nam cụ thể hóa chủ trương, đường lối của

Đảng

Tiếp thu những chủ trương của Đảng, CĐVN đã cụ thể hóa đường lối

của Đảng thành các mục tiêu và chương trình hành động. Ngay sau Đại hội

lần thứ IX của Đảng, ngày 24/7/2001, TLĐLĐVN đã ra Chương trình hành

động số 1192/TLĐ thực hiện Nghị quyết Đại hội IX ĐCSVN với mục tiêu là:

Xây dựng GCCN và tổ chức CĐ vững mạnh, kiên định mục tiêu độc lập dân

tộc và CNXH; thực hiện thắng lợi sự nghiệp CNH,HĐH đất nước vì dân giàu

nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh; tổ chức tốt phong trào hành

động cách mạng trong CNVCLĐ nhằm thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội

IX của Đảng, góp phần phát triển kinh tế - xã hội, giải quyết việc làm và chăm

lo đời sống cho NLĐ.

Từ mục tiêu tổng quát, Chương trình hành động đã đề ra 4 nội dung,

nhiệm vụ cụ thể: Một là, tăng cường giáo dục chính trị tư tưởng cho

CNVCLĐ, ra sức xây dựng GCCN vững mạnh, kiên định con đường XHCN,

vững bước tiến vào thời kỳ CNH,HĐH đất nước. Hai là, tổ chức tuyên truyền

kết quả của Đại hội Đảng, tổ chức học tập, phổ biến, quán triệt những nội

dung cơ bản Nghị quyết Đại hội IX của Đảng đến đoàn viên CĐ và

CNVCLĐ. Ba là, tổ chức phong trào hành động cách mạng trong CNVCLĐ,

thực hiện thắng lợi các mục tiêu kinh tế - xã hội do Đại hội IX của Đảng đề

ra; tham gia với Nhà nước sắp xếp và củng cố các doanh nghiệp nhà nước để

hoạt động có hiệu quả, phát huy được vai trò chủ đạo của doanh nghiệp nhà

nước trong nền kinh tế quốc dân. Bốn là, chăm lo bảo vệ lợi ích hợp pháp,

chính đáng của CNVCLĐ. Phối hợp với chính quyền và cơ quan quản lý các

cấp chăm lo giải quyết việc làm, tăng thu nhập, xóa đói giảm nghèo, đảm bảo

đời sống và thực hiện quyền dân chủ của CNVCLĐ. Đẩy mạnh các hoạt động

26

xã hội, nhân đạo, tình nghĩa, khơi dậy tình tương thân, tương ái trong

CNVCLĐ để giúp nhau vượt qua khó khăn, ổn định cuộc sống. Các cấp CĐ

phối hợp chặt chẽ để bảo vệ lợi ích chính đáng của người lao động bị xâm

phạm.

Quán triệt quan điểm của Đảng, Đại hội lần thứ IX CĐVN (2003) với

tinh thần “Đoàn kết, Trí tuệ, Dân chủ, Đổi mới” đã đưa ra khẩu hiệu hành

động của CĐVN trong thời kỳ mới là: “Xây dựng GCCN và tổ chức CĐ vững

mạnh, chăm lo bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của CNVCLĐ,

góp phần tăng cường đại đoàn kết toàn dân tộc, thực hiện thắng lợi sự nghiệp

CNH,HĐH đất nước” [44, tr.600].

Từ việc xác định khẩu hiệu hành động, CĐVN đã nêu mục tiêu phấn đấu

từ năm 2003 đến năm 2008 là: “Xây dựng GCCN vững mạnh, xứng đáng là

lực lượng nòng cốt, đi đầu trong sự nghiệp CNH,HĐH đất nước và vai trò

lãnh đạo cách mạng trong thời kỳ đổi mới; củng cố và phát triển sâu rộng khối

đại đoàn kết toàn dân tộc trong Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, trên cơ sở liên

minh vững chắc giữa GCCN với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức; tổ

chức các phong trào thi đua yêu nước sôi nổi, rộng khắp, thiết thực và có

hiệu quả trong CNVCLĐ; đẩy mạnh phát triển đoàn viên và tổ chức CĐ

trong các thành phần kinh tế; nâng cao năng lực và trình độ cán bộ CĐ; đổi

mới nội dung và phương thức hoạt động, xây dựng tổ chức CĐ vững mạnh;

tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước trong sạch, vững mạnh; mở rộng và

tăng cường hợp tác quốc tế, góp phần thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ

phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt

Nam XHCN” [44, tr. 600].

Năm nhiệm vụ chủ yếu của CĐVN từ năm 2003 đến năm 2008 được xác

định cụ thể là: Một là, tuyên truyền giáo dục, góp phần xây dựng GCCN vững

mạnh, xứng đáng là lực lượng đi đầu trong sự nghiệp CNH,HĐH đất nước và

27

vai trò lãnh đạo cách mạng trong thời kỳ mới. Tích cực tham gia xây dựng

Đảng, xây dựng Nhà nước. Hai là, chủ động tham gia xây dựng, tổ chức thực

hiện việc kiểm tra, giám sát có hiệu quả việc thực hiện pháp luật, chế độ,

chính sách có liên quan trực tiếp đến CNVCLĐ và Quy chế dân chủ ở cơ sở;

đẩy mạnh công tác chăm lo đời sống, làm tốt chức năng đại diện và bảo vệ

quyền, lợi ích, hợp pháp chính đáng của CNVCLĐ. Ba là, tổ chức sâu rộng các

phong trào thi đua yêu nước, trọng tâm là phong trào lao động giỏi, lao động

sáng tạo trong CNVCLĐ, góp phần hoàn thành thắng lợi các mục tiêu kinh tế -

xã hội của đất nước. Bốn là, phát triển đoàn viên và xây dựng tổ chức CĐ

vững mạnh; đổi mới nội dung và phương pháp hoạt động của tổ chức CĐ cho

phù hợp với từng loại hình cơ sở, từng cấp CĐ; nâng cao năng lực và trình độ

cán bộ CĐ. Phấn đấu trong 5 năm (2003 - 2008) kết nạp thêm ít nhất được 1

triệu đoàn viên; đến năm 2008, thu hút hầu hết công chức, viên chức cơ quan

hành chính sự nghiệp vào tổ chức CĐ; ít nhất có 95% CNVCLĐ trong doanh

nghiệp nhà nước và 60% CNVCLĐ các doanh nghiệp thuộc các thành phần

kinh tế khác có đủ điều kiện thành lập CĐ và gia nhập CĐ. Năm là, mở rộng

hoạt động đối ngoại của CĐVN.

Để thực hiện được những mục tiêu nêu trên, CĐVN đề ra các biện pháp

thực hiện: Duy trì thường xuyên công tác tuyên truyền, phổ biến các nghị

quyết, đường lối, chính sách và chiến lược, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã

hội, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế của Đảng, Nhà nước và về CĐVN

trong CNVCLĐ. Phát động và tổ chức sâu rộng trong CNVCLĐ phong trào

học tập, nâng cao trình độ học vấn, chuyên môn, nghiệp vụ, kỹ năng nghề

nghiệp. Từng bước hiện đại hóa, nâng cao chất lượng hoạt động của các

phương tiện thông tin đại chúng của CĐ. Tập trung tham gia xây dựng các

chính sách phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng pháp luật và tăng cường công

tác kiểm tra, giám sát việc thi hành pháp luật. Đẩy mạnh các phong trào thi

28

đua yêu nước, phát huy nội lực trong CNVCLĐ. Thường xuyên quan tâm

công tác phát triển đoàn viên và thành lập các CĐCS, xây dựng CĐCS vững

mạnh trong các thành phần kinh tế, đặc biệt chú trọng đối với khu vực kinh tế

ngoài quốc doanh, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.

Có thể thấy, Đại hội lần thứ IX của CĐVN đã có bước tiến mới trong nhận

thức ở một số vấn đề như: nhấn mạnh vị trí, vai trò của việc xây dựng GCCN và

tổ chức CĐ vững mạnh, xứng đáng là lực lượng nòng cốt đi đầu trong sự nghiệp

CNH,HĐH đất nước; đổi mới nội dung và phương thức hoạt động của tổ chức

CĐ cho phù hợp với từng loại hình cơ sở, từng cấp CĐ; nâng cao năng lực và

trình độ cán bộ CĐ trong tình hình mới để mở rộng, tập hợp đông đảo người lao

động tham gia vào tổ chức CĐ, xây dựng tổ chức CĐ vững mạnh, góp phần thực

hiện thắng lợi các mục tiêu kinh tế - xã hội của đất nước.

Việc đề ra mục tiêu, nhiệm vụ và các giải pháp cụ thể cho hoạt động của

CĐVN trong tình hình mới, chính là cơ sở cho các hoạt động của CĐVN và là

tiền đề để CĐVN có những điều chỉnh phù hợp vào những năm sau.

1.2. Kết quả thực hiện chủ trƣơng của Đảng lãnh đạo Công đoàn

Việt Nam (2003 - 2007)

Những năm đầu thế kỷ XXI, cách mạng nước ta bước vào một thời kỳ

mới, đẩy mạnh CNH,HĐH đất nước, hơn lúc nào hết GCCN và tổ chức

CĐVN cần tiếp tục phát huy vai trò tiên phong của mình trong giai đoạn mới.

Quán triệt đường lối lãnh đạo CĐ của Đảng, từ năm 2003 đến năm 2007 hoạt

động của tổ chức CĐVN đã được đổi mới, chủ động, tích cực, đem lại kết quả

tốt.

1.2.1. Tuyên truyền, vận động, giáo dục công nhân viên chức lao động

Để cụ thể hóa chủ trương của Đảng về hoạt động của CĐ, CĐVN tiến

hành thường xuyên công tác tuyên truyền, giáo dục với nhiều nội dung, hình

thức đa dạng, góp phần nâng cao nhận thức chính trị, trình độ văn hóa,

29

chuyên môn nghiệp vụ, tay nghề cho CNVCLĐ, góp phần xây dựng GCCN

ngày càng vững mạnh, giữ vai trò nòng cốt trong khối liên minh CN, nông

dân, trí thức và khối đại đoàn kết toàn dân tộc, xứng đáng là giai cấp lãnh đạo

cách mạng. Từ năm 2003 đến năm 2007, các cấp CĐ đã bám sát nhiệm vụ và

các sự kiện chính trị trọng đại của đất nước, chủ động phối hợp với các ngành,

đoàn thể hữu quan, đẩy mạnh công tác tuyên truyền trong CNVCLĐ về

đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và Nghị quyết của

CĐ với nhiều hình thức đa dạng, phong phú, cụ thể. Công tác tuyên truyền,

giáo dục chính trị, tư tưởng từng bước được đổi mới. Điển hình là các cuộc thi

do TLĐLĐVN phát động như: tìm hiểu CN, CĐVN; tìm hiểu đường lối đổi

mới và thành tựu đổi mới của ĐCSVN; sáng tác ca khúc về CN, CĐVN; tổ

chức sân chơi Giờ thứ 9, v.v. đã thu hút hàng triệu lượt cán bộ, CNVCLĐ và

đoàn viên CĐ tham gia. Đội ngũ báo cáo viên của CĐ với 6.318 người, đã

thực hiện tốt nhiệm vụ tuyên truyền đến CNVCLĐ ở cơ sở.

Để đưa nghị quyết của Đảng vào cuộc sống, tạo thành phong trào cách

mạng trong CNVCLĐ, ngay sau Đại hội lần thứ IX của Đảng, 100% các cấp

CĐ từ Trung ương đến cơ sở đã tổ chức tuyên truyền, học tập Nghị quyết và

xây dựng, triển khai Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết đến 80%

cán bộ CĐ và 30% CNVCLĐ [69, tr.43].

Công tác tuyên truyền, phổ biến nội dung Nghị quyết Đại hội lần thứ IX

CĐVN cũng được triển khai sâu rộng. Đoàn Chủ tịch Tổng Liên đoàn đã chỉ

đạo nghiên cứu biên soạn bẩy chuyên đề lớn, tổ chức các lớp quán triệt Nghị

quyết Đại hội cho gần 800 cán bộ chủ chốt trong toàn bộ hệ thống CĐ.

Trường Đại học CĐ đã tổ chức 1 lớp tập huấn cho cán bộ chủ chốt mới

chuyển sang làm công tác CĐ; 16 lớp bồi dưỡng nghiệp vụ CĐ cho 1.468 cán

bộ [71, tr.68]. Nhiều Liên đoàn Lao động tỉnh, thành phố, CĐ ngành Trung

ương tổ chức học tập, triển khai thực hiện Nghị quyết tới cán bộ CĐ các cấp,

30

biên soạn tài liệu phù hợp với đặc điểm của địa phương, ngành để phổ biến

đến cơ sở. Điển hình như Liên đoàn Lao động thành phố Hồ Chí Minh, Hải

Phòng, Liên đoàn Lao động các tỉnh Bình Dương, Đồng Nai, Thái Bình, đã

tích cực đổi mới, đa dạng hình thức tuyên truyền như phát tờ gấp sau giờ tan

ca tại cổng nhà máy, tuyên truyền bằng loa phóng thanh trong giờ ăn, tổ chức

sinh hoạt văn hóa văn nghệ kết hợp với nội dung tuyên truyền tại khu nhà trọ

của CN, v.v..

Thực hiện Chỉ thị 32-CT/TW ngày 9/12/2003 của Ban Bí thư Trung

ương Đảng về “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong công tác phổ biến,

giáo dục pháp luật, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của cán bộ, nhân

dân”, việc tuyên truyền, phổ biến chính sách, pháp luật trong CNVCLĐ được

các cấp CĐ quan tâm, giúp CNVCLĐ và người sử dụng lao động nhận thức

rõ hơn về chính sách, pháp luật của Nhà nước. Ngày 27/5/2004, TLĐLĐVN

đã ban hành Quyết định số 786-QĐ/TLĐ về việc “Tổ chức hoạt động tư vấn

pháp luật của CĐ” và ngày 28/5/2004, ban hành Chỉ thị 02-CT/TLĐ “Đẩy

mạnh công tác tư vấn pháp luật của CĐ”, trong đó xác định rõ: Hoạt động tư

vấn pháp luật là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của CĐ các cấp nhằm

góp phần thực hiện tốt chức năng bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp chính đáng

của đoàn viên CĐ và NLĐ. Tiếp đó, ngày 3/4/2006, TLĐLĐVN ra Nghị

quyết số 04-NQ/ĐCT về việc “Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục của

tổ chức CĐ trong tình hình mới”. Nghị quyết chỉ rõ: Để đáp ứng yêu cầu của

nền kinh tế thị trường và thời kỳ chủ động hội nhập quốc tế với những thời

cơ, thách thức đan xen, việc đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục cho

CNVCLĐ là nhiệm vụ quan trọng và bức thiết của tổ chức CĐ. Các hình thức

phổ biến, tuyên truyền, giáo dục được sử dụng rất phong phú, đa dạng như:

mít tinh, tọa đàm, hội thảo chuyên đề, tổ chức cuộc thi tuyên truyền viên giỏi

về tư tưởng Hồ Chí Minh, tìm hiểu về GCCN và tổ chức CĐ; phối hợp với

31

các phương tiện thông tin đại chúng đăng tin, bài phản ánh về phong trào thi

đua của CNVCLĐ, về vai trò của tổ chức CĐVN trong thời kỳ đổi mới; trao

Huy chương "Vì sự nghiệp xây dựng tổ chức CĐ” cho cán bộ Đảng, chính

quyền, các cá nhân có nhiều đóng góp vào sự nghiệp xây dựng và phát triển tổ

chức CĐVN. Tính đến năm 2007, công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục

pháp luật cho CNVCLĐ đã đạt được những kết quả đáng khích lệ. Có 75,6%

CĐCS thực hiện và 78,4% CN, lao động được học 5 bài chính trị cơ bản; in và

phát hành hơn 2,2 triệu ấn phẩm, tổ chức trên 260 ngàn cuộc học tập, tuyên

truyền, tư vấn cho hơn 100 triệu lượt CNVCLĐ về pháp luật [39, tr.9].

Thực hiện chủ trương của Đảng về việc nâng cao chất lượng GCCN đáp

ứng yêu cầu của sự nghiệp cách mạng trong giai đoạn mới, công tác tuyên

truyền, giáo dục nâng cao trình độ về chuyên môn, nghiệp vụ, quản lý, về lý

luận chính trị, tin học, ngoại ngữ cho CNVCLĐ được các cấp CĐ chú trọng

quan tâm. Ngày 6/1/2005, Ban Chấp hành TLĐLĐVN đã ban hành Nghị

quyết số 4b-NQ/BCH về “CĐ với nhiệm vụ nâng cao trình độ học vấn, nghề

nghiệp của CNVCLĐ đáp ứng yêu cầu sự nghiệp CNH,HĐH đất nước". Để

triển khai Nghị quyết, ngày 27/5/2005 TLĐLĐVN đã ký Nghị quyết liên tịch

số 02/2005/NQLT-TLĐLĐVN-BGD&ĐT với Bộ Giáo dục và đào tạo “Về

việc phối hợp hoạt động nâng cao trình độ học vấn, kỹ năng nghề nghiệp

trong CNVCLĐ giai đoạn 2005 - 2010”. Mục đích của Nghị quyết liên tịch là

triển khai các hoạt động đẩy mạnh phong trào học tập, nâng cao trình độ học

vấn, kỹ năng nghề nghiệp của CNVCLĐ; trong đó chú trọng nhất là chương

trình phổ cập trung học cơ sở trong CN, lao động, phấn đấu đến năm 2010 về

cơ bản, đội ngũ CNVCLĐ đạt trình độ học vấn từ trung học cơ sở trở lên.

Hàng năm, CĐ nhiều ngành, địa phương, cơ sở đã tiến hành khảo sát trình độ

của CNVCLĐ; phối hợp với các ngành chức năng, người sử dụng lao động tổ

chức phong trào tự học, mở lớp học bổ túc văn hóa, học nghề, học ngoại ngữ,

32

tin học, thi nâng bậc, thi thợ giỏi cho hàng trăm ngàn CN, lao động. Tính đến

năm 2007, tổ chức CĐVN đã có hệ thống gồm 13 trường dạy nghề và 38

trung tâm giới thiệu việc làm và 01 trung tâm dạy nghề cao đẳng đã tư vấn,

giới thiệu việc làm, dạy nghề cho hơn 76.000 lao động [42, tr.648]. Kết quả

tuy chưa cao nhưng thể hiện được trách nhiệm của tổ chức CĐ trước yêu cầu

nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đáp ứng yêu cầu CNH,HĐH đất nước và

hội nhập quốc tế.

Thực hiện Chỉ thị 42-CT/TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng về

“Nâng cao chất lượng toàn diện của hoạt động xuất bản”, TLĐLĐVN đã triển

khai thực hiện nâng cao chất lượng toàn diện cho gần 100 cán bộ CĐ làm

công tác báo chí, xuất bản. Trang thông tin điện tử CĐ trên Internet của

TLĐLĐVN và một số địa phương, ngành đã phát huy tác dụng trong việc

tuyên truyền đưa đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và

của tổ chức CĐ đến với đoàn viên, NLĐ. Công tác tuyên truyền phát triển

đoàn viên CĐCS trong khu vực ngoài nhà nước và doanh nghiệp có vốn đầu

tư nước ngoài được các cấp CĐ tập trung chỉ đạo thực hiện có kết quả bước

đầu. Hầu hết các Liên đoàn Lao động tỉnh, thành phố đã xây dựng Chuyên

mục Công đoàn trên đài phát thanh, truyền hình, trên báo của địa phương,

trong đó có nhiều đơn vị đã đổi mới nội dung chuyên mục theo hướng tuyên

truyền chuyên sâu từng chủ đề và tổ chức các cuộc thi về CNVCLĐ, CĐ…,

đã thu hút được sự quan tâm chú ý của NLĐ. Điển hình như Liên đoàn Lao

động các tỉnh Quảng Ninh, Bình Dương, các thành phố Hà Nội, Hồ Chí Minh.

Hoạt động của các báo, tạp chí, bản tin, nhà xuất bản của CĐ, chương trình

truyền hình và phát thanh “Lao động và CĐ”, đảm bảo đúng tôn chỉ, mục

đích, định hướng chính trị, thực sự là diễn đàn của NLĐ, là công cụ hữu hiệu

truyền tải đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, chủ

trương công tác của CĐ đến CNVCLĐ và xã hội, góp phần định hướng dư

33

luận xã hội tạo sự đồng thuận về chính trị trong CNVCLĐ và nhân dân. Báo

chí của CĐ đã có nhiều cố gắng trong việc tổ chức, trao đổi kinh nghiệm hoạt

động, giải đáp pháp luật, kinh nghiệm giải quyết tranh chấp lao động, bảo vệ

NLĐ, đồng thời phát hiện, đưa ra công luận nhiều vụ việc tham nhũng, lãng

phí, tiêu cực; khởi xướng và thực hiện có hiệu quả các hoạt động tình nghĩa,

nhân đạo, từ thiện, biểu dương cán bộ CNVCLĐ và doanh nhân điển hình tiên

tiến được Đảng, Nhà nước, các doanh nghiệp, CNVCLĐ, đoàn viên CĐ và dư

luận xã hội đánh giá cao.

Thực hiện Chỉ thị số 22-CT/TW ngày 24/2/2003 của Ban Bí thư Trung

ương Đảng về “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác bảo đảm

trật tự an toàn giao thông”, ngày 10/4/2003, TLĐLĐVN đã ký Nghị quyết

Liên tịch số 01/2003/NQLT/TLĐ-UBATGTQG về “Vận động CNVCLĐ cả

nước tham gia giữ gìn trật tự an toàn giao thông”, tổ chức tuyên truyền “Tuần

lễ an toàn giao thông đường bộ toàn cầu” và “Hội thi tuyên truyền viên giỏi”

ở các ngành, địa phương. Ngày 1/8/2007, TLĐLĐVN đã ban hành Chỉ thị số

03/CT-TLĐ chỉ đạo các cấp CĐ đẩy mạnh các biện pháp tuyên truyền phổ

biến, giáo dục Luật Giao thông đường bộ trong CNVCLĐ. Những hoạt động

tuyên truyền trên của CĐ đã giúp cho đông đảo cán bộ, CNVCLĐ hiểu rõ hơn

về Luật Giao thông đường bộ và các văn bản liên quan, góp phần kiềm chế tai

nạn và ùn tắc giao thông, giảm thiểu tai nạn giao thông trong cả nước.

Thấu suốt chủ trương của Đảng về việc nâng cao hơn nữa chất lượng

hoạt động của tổ chức CĐ, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ mới của đất nước, công

tác nghiên cứu khoa học trong hệ thống CĐ được quan tâm chỉ đạo, nhất là

nghiên cứu tổ chức và nội dung, phương pháp hoạt động của CĐ trong cơ chế

thị trường định hướng XHCN; tổ chức và hoạt động CĐ khu vực kinh tế

ngoài quốc doanh, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài; các chính sách,

chế độ liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của CNVCLĐ; về môi trường an

34

toàn vệ sinh lao động; tổ chức các cuộc hội thảo khoa học, tọa đàm, báo cáo

chuyên đề, kinh nghiệm lao động giỏi, sáng tạo v.v.. Ngày 5/10/2004, Đoàn

Chủ tịch TLĐLĐVN đã ban hành Nghị quyết số 02-NQ/TLĐ về “Đẩy mạnh

nghiên cứu lý luận và hoạt động khoa học trong tổ chức CĐ”. Đây là Nghị

quyết quan trọng nhằm cụ thể hóa chủ trương của Đảng, Nghị quyết Đại hội

lần thứ IX CĐVN về công tác nghiên cứu lý luận và hoạt động khoa học trong

tổ chức CĐ thời kỳ CNH,HĐH đất nước. Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và

hoạt động khoa học, tổ chức CĐ đã tham mưu, đề xuất nhiều ý kiến xác đáng

với Đảng và Nhà nước để có chủ trương, chính sách phù hợp xây dựng GCCN

và tổ chức CĐ. Đặc biệt, thực hiện chủ trương của Ban Bí thư Trung ương

Đảng về xây dựng GCCN trong thời kỳ đẩy mạnh CNH,HĐH đất nước,

TLĐLĐVN đã tổ chức điều tra, khảo sát tình hình CNVCLĐ để tham gia vào

việc xây dựng Đề án về xây dựng GCCN trong thời kỳ đẩy mạnh CNH,HĐH

đất nước trình Hội nghị Trung ương 6 (khóa X) của Đảng.

Công tác tham gia xây dựng Đảng và hệ thống chính trị tập trung vào

việc vận động CNVCLĐ, đoàn viên CĐ tham gia đóng góp ý kiến xây dựng

văn kiện Đại hội Đảng các cấp và Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ

X, tham gia cải cách hành chính, đấu tranh chống tham nhũng, quan liêu, lãng

phí, gây phiền hà, sách nhiễu trong nhân dân. Công tác phát triển Đảng trong

các doanh nghiệp được đẩy mạnh. Trong 5 năm (2003 - 2007) đã có hàng vạn

CNVCLĐ ưu tú do CĐ giới thiệu được kết nạp vào Đảng. Nhiều cán bộ được

tổ chức CĐ giới thiệu tham gia vào cấp ủy Đảng và bộ máy lãnh đạo chính

quyền các cấp.

Công tác tuyên truyền, vận động CN, NLĐ tích cực tham gia các phong

trào thi đua yêu nước góp phần phát triển kinh tế - xã hội và xây dựng GCCN

lớn mạnh luôn gắn với nhiệm vụ chính trị với nhiều hình thức đa dạng phong

phú, được nhiều CNVCLĐ ở các ngành nghề, địa phương, cơ sở trong mọi

thành phần kinh tế tham gia tạo thành các phong trào hành động cách mạng

35

sôi nổi, rộng khắp như các phong trào “Lao động giỏi”, “Lao động sáng tạo”,

“Giỏi việc nước, đảm việc nhà”, “Thi đua liên kết phục vụ CNH,HĐH nông

nghiệp và phát triển nông thôn”, “Xanh, sạch, đẹp, đảm bảo an toàn, vệ sinh

lao động”… Chương trình “Trí tuệ Việt Nam”, “Vinh quang Việt Nam” nhằm

tôn vinh thành tích của các tập thể, cá nhân điển hình tiên tiến xuất sắc, được

các ngành, địa phương và dư luận xã hội đánh giá cao. Phong trào thi đua

“Giỏi việc nước, đảm việc nhà” gắn liền với phong trào “Phụ nữ tích cực học

tập, lao động sáng tạo, xây dựng gia đình hành phúc” trong CNVCLĐ nữ đã

được các cấp CĐ cụ thể hóa cho phù hợp với từng loại hình, thu hút đông đảo

lao động nữ tham gia. Các phong trào thi đua yêu nước đã phát huy được các

nguồn lực, sức sáng tạo và ý chí tự lực, tự cường của đông đào CNVCLĐ. Đó

là một trong những yếu tố quan trọng giúp NLĐ, doanh nghiệp vượt qua được

khó khăn trong cơ chế thị trường và phát huy được tính năng động, sáng tạo,

trình độ, năng lực, trí tuệ của mỗi người lao động để rèn luyện, cống hiến, làm

giàu cho quê hương, đất nước và cho bản thân.

1.2.2. Bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của công nhân viên

chức lao động

Quán triệt chủ trương của Đảng về xây dựng GCCN và CĐVN vững

mạnh trong thời kỳ đẩy mạnh CNH,HĐH và hội nhập quốc tế, công tác bảo

vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng CNVCLĐ của các cấp CĐ được quan

tâm thực hiện và có nhiều chuyển biến tích cực.

1.2.2.1. Công đoàn tham gia quản lý kinh tế - xã hội, xây dựng dự án

luật, và các chính sách

Từ năm 2003 đến năm 2007, bằng nhiều hình thức như hội nghị, hội

thảo, lấy ý kiến trực tiếp của NLĐ từ cơ sở, tổ chức CĐ đã phát huy được trí

tuệ của đông đảo cán bộ, CNVCLĐ tích cực, chủ động và có trách nhiệm

trong việc tham gia với Chính phủ, các bộ, ngành liên quan trong việc xây

dựng, bổ sung, sửa đổi hàng trăm dự án pháp luật, chính sách liên quan đến

36

CNVCLĐ và CĐ, đảm bảo hài hòa lợi ích của Nhà nước, doanh nghiệp và

NLĐ như Luật Phá sản doanh nghiệp, Bộ Luật dân sự, Luật Phòng chống

tham nhũng, Luật Thực hành tiết kiệm chống lãng phí, Luật Bảo hiểm xã hội,

Luật Doanh nghiệp mới, Luật Đầu tư mới, Pháp lệnh về đình công và giải

quyết đình công, các văn bản hướng dẫn thi hành chính sách tiền lương mới…

Đặc biệt là kiến nghị của Đoàn Chủ tịch TLĐLĐVN không ban hành Pháp

lệnh về đình công và giải quyết đình công mà sửa đổi, bổ sung chương XIV

của Bộ Luật lao động về đình công đã được chấp thuận.

Để phát huy vai trò của tổ chức CĐ tham gia xây dựng nhà nước pháp

quyền XHCN theo đường lối đổi mới của ĐCSVN, ngày 7/7/2005, Ban Chấp

hành TLĐLĐVN đã ra Nghị quyết số 5a-NQ/BCH về “Đẩy mạnh công tác

pháp luật của CĐ trong tình hình mới”. Nghị quyết đã đề ra mục tiêu: “Phải

nâng cao nhận thức, hiểu biết pháp luật cho CNVCLĐ, cán bộ đoàn viên CĐ,

giúp họ thực hiện đúng các quyền và nghĩa vụ theo quy định của pháp luật;

biết tự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình khi bị xâm hại; nâng cao

năng lực và hiệu quả hoạt động pháp luật của CĐ trong việc tham gia xây

dựng pháp luật, chính sách đối với Nhà nước, trong kiểm tra, giám sát việc

thực hiện pháp luật, chính sách của người sử dụng lao động và các cơ quan

nhà nước. Tăng cường vai trò đại diện, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp

chính đáng của CNVCLĐ. Góp phần xây dựng quan hệ lao động hài hòa, ổn

định, phát triển”[33, tr.1]. Nghị quyết còn nêu rõ: Trên cơ sở góp phần tăng

trưởng kinh tế - xã hội, CĐ cần nâng cao vị thế của mình trong nền KTTT

định hướng XHCN; tăng cường biện pháp chỉ đạo việc ký kết thỏa ước lao

động tập thể và thành lập Hội đồng hòa giải lao động cơ sở ở các doanh

nghiệp có tổ chức CĐ hoặc Ban Chấp hành CĐ lâm thời. Ngoài ra, cần thực

hiện tốt Quy chế dân chủ ở cơ sở; đẩy mạnh công tác kiểm tra giám sát việc

thi hành pháp luật, chế độ chính sách với NLĐ; đồng thời chủ động thực hiện

37

quyền kiểm tra theo quy định của pháp luật.

Thực hiện chủ trương của Đảng, CĐ các cấp đã tích cực, chủ động trong

quá trình sắp xếp, đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp

nhà nước; tham gia sắp xếp giải quyết chế độ cho lao động dôi dư, đảm bảo

việc làm và các quyền, lợi ích khác cho hàng trăm ngàn lao động trong quá

trình sắp xếp, cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước thông qua hình thức cử đại

diện tham gia Ban Đổi mới doanh nghiệp ở cấp mình, đồng thời tuyên truyền

cho CNVCLĐ hiểu rõ mục đích, yêu cầu về chủ trương, chính sách của Đảng

và Nhà nước, giải quyết những vướng mắc, tạo sự đồng thuận của NLĐ ở cơ

sở. Năm 2003, CĐ đã tham gia vào quá trình đổi mới và sắp xếp 615 doanh

nghiệp nhà nước, giải quyết chế độ cho 14.794 lao động dôi dư, bình quân

mỗi lao động dôi dư được nhận trợ cấp 27 triệu đồng [24, tr.8]. Năm 2004 là

615 doanh nghiệp, xét trợ cấp cho hơn 30.000 nghìn lao động dôi dư với số

tiền 892,4 tỉ đồng [26, tr.8]. Năm 2005 là 754 doanh nghiệp và giải quyết

đúng chế độ, chính sách, đảm bảo các quyền lợi cho gần 121.000 lao động dôi

dư [35, tr.6].

Ngày 26/6/2007, Chính phủ ban hành Nghị định số 110/2007/NĐ-CP về

“Chính sách đối với người lao động dôi dư do sắp xếp công ty nhà nước”.

Thực hiện Nghị định trên, căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ của CĐ được quy

định tại Luật CĐ và Điều lệ CĐVN, ngày 25/10/2007 TLĐLĐVN đã ban

hành Hướng dẫn số 1860/LTĐ về “CĐ với việc thực hiện Nghị định số

110/2007/NĐ-CP ngày 26/6/2007 của Chính phủ về chính sách đối với người

lao động dôi dư do sắp xếp công ty nhà nước”. Văn bản Hướng dẫn còn đề ra

nhiệm vụ của các cấp CĐ trong việc thực hiện Nghị định số 110/2007/NĐ-

CP, trong đó tập trung vào một số nội dung trọng điểm như: phối hợp với

Giám đốc công ty tổ chức tuyên truyền, phổ biến chính sách đến NLĐ; tham

gia xây dựng phương án sắp xếp lao động; giám sát việc xây dựng phương án

38

sắp xếp lao động và thực hiện chính sách đối với lao động dôi dư.

1.2.2.2. Công đoàn kiểm tra, giám sát thực hiện pháp luật, chế độ,

chính sách và Quy chế dân chủ ở cơ sở

Công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện Luật CĐ, Luật Lao động và

chính sách, chế độ được các cấp CĐ phối hợp với các cơ quan liên quan thực

hiện thường xuyên hàng năm. Qua kiểm tra cho thấy, tình trạng vi phạm tập

trung chủ yếu vào một số vấn đề như: về thời gian làm việc, trả lương chậm,

không xây dựng thang bảng lương, không thực hiện đầy đủ chế độ bảo hiểm y

tế, bảo hiểm xã hội, không ký hợp đồng lao động, không ký thỏa ước lao động

tập thể, không trích nộp phí CĐ, không thực hiện đầy đủ chính sách, chế độ đối

với lao động nữ. Tình trạng vi phạm này phổ biến diễn ra vẫn là ở khu vực

doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Cụ thể như năm 2003, CĐVN đã tiến hành

kiểm tra ở 3.138 doanh nghiệp ngoài quốc doanh, với 166.532 lao động, ký hợp

đồng lao động chỉ đạt 74% trong số hợp đồng không xác định thời hạn là

23,9%, từ 12 đến 36 tháng là 35,5%, dưới 12 tháng 40,2% và ký thỏa ước lao

động tập thể chỉ đạt khoảng 10%. Trong khi đó ở doanh nghiệp nhà nước ký

hợp đồng lao động đạt 99%, ký thỏa ước lao động tập thể đạt 84%; doanh

nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ký hợp đồng lao động đạt 79%, ký thỏa ước

lao động tập thể đạt 26% [26, tr.8]. Năm 2005, tỷ lệ doanh nghiệp có thỏa ước

lao động tập thể ở doanh nghiệp nhà nước là 96%, doanh nghiệp tư nhân là

25%, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài 40%. Tỷ lệ NLĐ có hợp đồng ở

doanh nghiệp nhà nước là 96%, doanh nghiệp tư nhân là 45%, doanh nghiệp

có vốn đầu tư nước ngoài là 65% [33, tr.6,7]. Qua thực hiện kiểm tra, giám

sát, ngày 31/12/2007 TLĐLĐVN đã ra Quyết định số 1693-QĐ/TLĐ về “Việc

thực hiện quyền kiểm tra, giám sát của CĐ”, tạo cơ sở để cho cán bộ CĐ thực

hiện quyền của mình tại các đơn vị, doanh nghiệp.

Việc thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở theo Chỉ thị số 30-CT/TW ngày

39

18/2/1998 của Bộ Chính trị và Nghị quyết số 4a-NQ/BCH ngày 6/1/2005 của

Ban Chấp hành TLĐLĐVN được các cấp CĐ tổ chức triển khai thực hiện tốt.

CĐ các cấp đã chủ động phối hợp với chính quyền và chuyên môn cùng cấp

để chỉ đạo việc xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở, tổ chức Đại

hội CN, viên chức trong doanh nghiệp nhà nước và Hội nghị cán bộ, công

chức trong cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp. Nội dung Đại hội, Hội nghị

đã đề cập đến những vấn đề thiết thực có liên quan trực tiếp đến NLĐ và đóng

góp cho hoạt động của đơn vị, tạo không khí dân chủ và cởi mở trong quan hệ

lao động. Nhiều doanh nghiệp nhà nước đã chuyển thành công ty cổ phần vẫn

duy trì việc xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở, sửa đổi, bổ sung

một số điểm trong quy chế cho phù hợp với mô hình quản lý mới. Năm 2003,

tỷ lệ mở Đại hội CN, viên chức ở các đơn vị thuộc ngành Trung ương quản lý

khoảng 93%, các đơn vị thuộc địa phương quản lý khoảng 86%; tỷ lệ mở Hội

nghị cán bộ, công chức ở các đơn vị thuộc ngành Trung ương quản lý khoảng

83%, các đơn vị thuộc địa phương quản lý đạt 72% [26, tr.9]. Năm 2004, tỷ lệ

mở Đại hội CN, viên chức ở doanh nghiệp nhà nước đạt 91% và Hội nghị cán

bộ, công chức ở các cơ quan, đơn vị hành chính sự nghiệp đạt 92% [27, tr.8].

Năm 2005, đã có trên 93% doanh nghiệp nhà nước mở Đại hội CN, viên

chức, trên 95% cơ quan mở Hội nghị cán bộ, công chức [35, tr.8 ]. Năm 2007,

tình hình thực hiện mở Hội nghị cán bộ, công chức và Đại hội CN, viên chức

có những tiến bộ đáng kể. Hội nghị công chức đạt gần 98%, có những tỉnh,

thành phố đạt 100%. Đại hội CN, viên chức trong doanh nghiệp nhà nước

cũng có những chuyển biến tốt hơn, tỷ lệ đạt trên 94% [ 41, tr.7].

Các cấp CĐ đã có nhiều hoạt động thiết thực nhằm phát huy quyền dân

chủ của NLĐ như: tuyên truyền, vận động cán bộ CNVCLĐ, người sử dụng

lao động trong các thành phần kinh tế nhận thức đúng đắn chủ trương của

Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và Nghị quyết của Ban Chấp hành

40

TLĐLĐVN về thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở. CĐ thực sự là thủ lĩnh,

người đại diện của NLĐ trong việc thực hiện dân chủ ở cơ quan, đơn vị,

doanh nghiệp; chủ động nghiên cứu tham gia với các cấp chính quyền xây

dựng mới hoặc hoàn thiện quy chế thực hiện dân chủ đã có; từng bước kiện

toàn Ban Thanh tra nhân dân ở các đơn vị, Hội đồng hòa giải lao động cơ sở ở

doanh nghiệp, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, kiến nghị giải quyết

kịp thời những vấn đề liên quan đến NLĐ; chủ động xây dựng quy chế phối

hợp giữa Hội đồng quản trị, người sử dụng lao động và tổ chức CĐ.

Việc giải quyết và tham gia giải quyết các đơn thư khiếu nại, tố cáo của

CNVCLĐ đạt kết quả tốt. Mỗi năm, các cấp CĐ đã tiếp hơn 5.000 lượt người

đến khiếu nại, tố cáo, tiếp nhận hơn 4.000 đơn thư khiếu nại, tố cáo[44,

tr.648]. Đặc biệt, CĐ đã tham gia giải quyết có hiệu quả nhiều tranh chấp lao

động dẫn đến ngừng việc tập thể và đình công tự phát, góp phần bảo vệ

quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của NLĐ và xây dựng quan hệ lao động

hài hòa, lành mạnh tại doanh nghiệp, đảm bảo an ninh chính trị và trật tự an

toàn xã hội.

TLĐLĐVN đã phối hợp với Bộ Lao động Thương binh và Xã hội tổ

chức tập huấn cho đội ngũ báo cáo viên các cấp Liên đoàn Lao động tỉnh, CĐ

ngành Trung ương về xây dựng hệ thống thang bảng lương, quy chế trả

lương, trả thưởng trong các doanh nghiệp khu vực ngoài nhà nước và doanh

nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài; bàn biện pháp phối hợp triển khai thực hiện

Thông báo số 134-TB/VPCP của Văn phòng Chính phủ về tăng cường công

tác quản lý nhà nước về lao động và ngăn ngừa các cuộc đình công xảy ra.

1.2.2.3. Công đoàn tham gia các hoạt động xã hội chăm lo đời sống

cho công nhân viên chức lao động

Các hoạt động xã hội của CĐ từ năm 2003 đến năm 2007 được triển khai

thường xuyên và sâu rộng trong mọi đối tượng CNVCLĐ với nhiều nội dung,

41

hình thức, đa dạng, phong phú, nhất là các cuộc vận động xã hội, nhân đạo, từ

thiện. Điển hình là hoạt động của “Quỹ tấm lòng vàng lao động”, “Mái ấm

CĐ”, “Vì nữ CN lao động nghèo”, “Bảo trợ trẻ em CĐVN”, “Chương trình

góp Tết với người nghèo” và “Giúp đỡ các trường hợp tại nạn lao động và

bệnh nghề nghiệp có nhiều khó khăn”. Cụ thể như năm 2003, các hoạt động

xã hội của CĐ phát động đã thu được 420 triệu đồng, giúp 3.310 người nghèo

vui tết và 150 trường hợp bị tai nạn lao động [26, tr.9]. Năm 2004, các cấp

CĐ tích cực vận động lấy hàng triệu chữ ký ủng hộ và quyên góp được hơn 2

tỉ đồng giúp nạn nhân bị nhiễm chất độc màu da cam [27, tr.9]. Năm 2005,

riêng “Quỹ tấm lòng vàng lao động” đã vận động và đóng góp được hàng tỉ

đồng, Quỹ “Vì nữ CN lao động nghèo” của các cấp CĐ đã lên tới 251 tỉ đồng,

giải quyết cho 5,5 vạn lượt nữ lao động vay [35, tr.8].

Hoạt động của “Quỹ quốc gia giải quyết việc làm” và các loại quỹ trợ

giúp khác ở các ngành, địa phương và cơ sở đã góp phần giải quyết việc làm,

tăng thu nhập, xóa đói, giảm nghèo cho hàng vạn NLĐ. Riêng vốn vay giải

quyết việc làm qua Tổng Liên đoàn, bình quân mỗi năm có hơn 300 dự án

được vay với số tiền hơn 20 tỉ đồng và hơn 8.000 người tham gia dự án được

giải quyết việc làm [71, tr.648]. Năm 2006, TLĐLĐVN đã ban hành Chương

trình và Quy chế quản lý “Quỹ nhà ở mái ấm CĐ” nhằm hỗ trợ, chăm lo cho

CNVCLĐ gặp khó khăn về nhà ở, phấn đấu đến năm 2015 xóa bỏ 100% nhà

tạm, hư hỏng trong CNVCLĐ.

Sự hưởng ứng, đóng góp của CNVCLĐ mang ý nghĩa chính trị, xã hội,

nhân văn sâu sắc, góp phần thực hiện có hiệu quả chủ trương xóa đói, giảm

nghèo của Đảng, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc, khơi dậy tinh thần

yêu nước, truyền thống tương thân, tương ái của dân tộc Việt Nam, qua đó

nâng cao vị thế, uy tín của tổ chức CĐVN trong toàn xã hội.

42

1.2.3. Phát triển đoàn viên, thành lập Công đoàn cơ sở, đổi mới nội

dung và phương thức hoạt động của Công đoàn Việt Nam

1.2.3.1. Phát triển đoàn viên, thành lập Công đoàn cơ sở

Thực hiện chủ trương của Đảng về xây dựng tổ chức CĐVN lớn mạnh,

đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp CNH,HĐH đất nước, từ năm 2003 đến năm

2007, CĐVN triển khai công tác phát triển đoàn viên, xây dựng tổ chức CĐ

vững mạnh có bước phát triển mới. Nghị quyết Đại hội lần thứ IX CĐVN đã

xác định nhiệm vụ phát triển đoàn viên, thành lập CĐCS là nhiệm vụ trọng

tâm và mang tính quyết định sự tồn tại và phát triển của tổ chức CĐ. Sau Đại

hội lần thứ IX, Ban Chấp hành TLĐLĐVN đã có Nghị quyết chuyên đề về

Chương trình phát triển 1 triệu đoàn viên, trong đó xác định rõ trong giai

đoạn 2003 - 2008 kết nạp được ít nhất 1 triệu đoàn viên, gắn công tác phát

triển đoàn viên với việc củng cố và nâng cao hiệu quả hoạt động của CĐCS.

Ngay sau khi có Nghị quyết, Đoàn Chủ tịch TLĐLĐVN đã thành lập Ban Chỉ

đạo, giao chỉ tiêu phát triển đoàn viên đối với từng Liên đoàn Lao động tỉnh,

thành phố, CĐ ngành Trung ương, CĐ Tổng công ty trực thuộc TLĐLĐVN,

trên cơ sở đó các cấp CĐ triển khai giao chỉ tiêu cụ thể đến các cấp trực tiếp

quản lý. Đồng thời, ban hành các văn bản chỉ đạo, hướng dẫn để thực hiện

Chương trình.

Đoàn Chủ tịch TLĐLĐVN đã từng bước hoàn thiện hệ thống các quy

định liên quan đến tổ chức và hoạt động của CĐCS và công tác phát triển

đoàn viên như: Quyết định số 974-QĐ/TLĐ ngày 29/6/2014 về việc ban hành

Quy định tạm thời về tổ chức và hoạt động của CĐCS xã, phường, thị trấn.

Phối hợp với Bộ Tài chính ban hành Thông tư liên tịch số 119/2004/ TTLT-

BTC/TLĐLĐVN, ngày 8/12/2004 về Trích nộp kinh phí CĐ; Thông tri số 58-

TTr/TLĐ ngày 10/5/2004, Hướng dẫn thu, nộp đoàn phí; Quyết định số 1375-

QĐ/TLĐ ngày 16/10/2007 quy định về nội dung, phạm vi thu chi ngân sách

43

CĐCS. Chủ trì phối hợp với các Bộ Lao động Thương binh và Xã hội, Bộ Tư

pháp xây dựng Nghị định 96-NĐ/CP ngày 14/9/2006 về Ban Chấp hành CĐ

lâm thời tại doanh nghiệp, đồng thời phối hợp với Bộ Lao động Thương binh

và Xã hội ban hành Thông tư liên tịch số 01-TTLT/TLĐLĐVN-BLĐTBXH

về Hướng dẫn thi hành Nghị định số 96-NĐ/CP; tổ chức hội nghị liên tịch với

Phòng Thương mại - Công nghiệp Việt Nam ra Thông báo chung về đẩy

mạnh tuyên truyền Chương trình phát triển 1 triệu đoàn viên trong cộng đồng

doanh nghiệp và các hợp tác xã…, tạo điều kiện thuận lợi về pháp lý cho

CĐCS hoạt động.

Hầu hết Liên đoàn Lao động tỉnh, thành phố và CĐ ngành Trung ương

đã xây dựng chương trình, kế hoạch phát triển đoàn viên, thành lập CĐCS của

cấp mình và thành lập Ban Chỉ đạo với cơ cấu hợp lý, tranh thủ được sự lãnh

đạo của cấp ủy Đảng và sự phối hợp, tạo điều kiện của các cấp chính quyền.

Ban Chỉ đạo phát triển đoàn viên của CĐ các cấp đã bám sát nội dung chỉ đạo

của TLĐLĐVN, ban hành các văn bản chỉ đạo, hướng dẫn thực hiện cụ thể và

phù hợp với điều kiện thực tế của từng cấp, ngành. Qua công tác điều tra,

khảo sát tình hình CN, lao động và doanh nghiệp trên địa bàn, tổ chức CĐ đã

nắm tình hình hoạt động của các doanh nghiệp trên địa bàn, một số đơn vị đã

kịp thời điều chỉnh kế hoạch phát triển đoàn viên, thành lập CĐCS sát với

tình hình thực tế hơn.

Công tác tuyên truyền phát triển đoàn viên và vận động thành lập CĐCS

tại doanh nghiệp, nhất là là khu vực doanh nghiệp ngoài nhà nước và doanh

nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài diễn ra sôi nổi, đa dạng, phong phú về nội

dung và hình thức. Hầu hết các cấp CĐ đã xây dựng “Chuyên mục CĐ” trên

đài phát thanh, truyền hình, trên báo chí, trong đó có nhiều đơn vị đã đổi mới

nội dung chuyên mục theo hướng tuyên truyền sâu từng chủ đề và tổ chức các

cuộc thi về CN, lao động. CĐ còn tổ chức tôn vinh NLĐ giỏi trên sóng truyền

44

hình. Nhiều nơi còn chủ động in tờ gấp, sách, tài liệu tuyên truyền về lợi ích

khi gia nhập CĐ và tổ chức các hoạt động tuyên truyền phát triển đoàn viên.

Hình thức tuyên truyền phát triển đoàn viên CĐ đã được đổi mới, đa dạng

hơn như phát tờ gấp sau giờ tan ca tại cổng nhà máy, kết hợp với tuyên truyền

bằng loa phóng thanh trong giờ ăn ca, tổ chức sinh hoạt văn hóa, văn nghệ kết

hợp nội dung tuyên truyền tại khu nhà trọ của CN.

Bên cạnh đó, để mở rộng hơn các hình thức tuyên truyền thu hút NLĐ

tham gia tổ chức CĐ, các cấp CĐ đã thành lập các tổ chức tư vấn pháp luật

như trung tâm, văn phòng, tổ tư vấn pháp luật làm nhiệm vụ tư vấn, hỗ trợ

pháp lý, phổ biến, hướng dẫn và giải đáp pháp luật cho NLĐ. Theo thống kê

của Ban Pháp luật TLĐLĐVN, tính đến cuối năm 2007, đã có 47 trung tâm,

văn phòng tư vấn, gần 400 tổ tư vấn pháp luật được thành lập và hoạt động

[71, tr.134]. Từ năm 2003 đến năm 2007, các cấp CĐ đã thực hiện tư vấn

được 42.000 vụ việc, hướng dẫn trên 1000 tổ chức CĐCS xây dựng, thương

lượng, ký kết thỏa ước lao động tập thể, soạn thảo nội quy lao động; đã thực

hiện trên 200 cuộc tư vấn pháp luật lưu động tại các doanh nghiệp, khu công

nghiệp, khu chế xuất có đông CN lao động với các hình thức phong phú như

kết hợp thi tìm hiểu pháp luật với các trò chơi có thưởng, văn nghệ, v.v..

Mặt khác, phương pháp tiếp cận với người sử dụng lao động để vận động

thành lập CĐ tại doanh nghiệp cũng được các cấp CĐ chú trọng đổi mới. Cán

bộ CĐ đã trực tiếp bám sát cơ sở, kiên trì vận động, thuyết phục người sử

dụng lao động từ chỗ từ chối tiếp xúc, né tránh thành lập CĐCS đến chỗ hiểu,

đồng ý thành lập CĐ và tạo điều kiện để CĐ tại doanh nghiệp hoạt động có

hiệu quả. Công tác tuyên truyền, vận động phát triển đoàn viên, thành lập CĐ

tại doanh nghiệp không còn bó hẹp trong nội bộ tổ chức CĐ, không còn là

vấn đề riêng của tổ chức CĐ mà đã thu hút được sự quan tâm của các cấp, các

ngành liên quan trên địa bàn. Có thể nói rằng, Chương trình phát triển 1 triệu

45

đoàn viên, xây dựng CĐCS vững mạnh đã trở thành cuộc vận động sâu rộng

trong các cấp CĐ và đạt được kết quả tốt. Từ năm 2003 đến năm 2007, đã kết

nạp thêm 2.195.545 đoàn viên vượt hơn 153% chỉ tiêu kế hoạch và thành lập

mới 28.140 CĐCS vượt 199,21% chỉ tiêu kế hoạch [42, tr.6] (Xem thêm Phụ

lục 1.1, tr.122 và Phụ lục 1.2, tr.123).

1.2.3.2. Đổi mới nội dung và phương thức hoạt động của tổ chức

Công đoàn

Quán triệt quan điểm Đại hội lần thứ VIII và lần thứ IX của Đảng về

nâng cao năng lực hoạt động của tổ chức CĐ, công tác phát triển đoàn viên và

thành lập CĐCS sở phải gắn liền với việc củng cố và nâng cao chất lượng

hoạt động của CĐCS. Đây là yêu cầu quan trọng mà mục tiêu “Chương trình

phát triển 1 triệu đoàn viên” đặt ra ngay từ đầu. Vì thế, việc củng cố tổ chức

CĐ được thực hiện bắt đầu từ đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của

CĐCS và được coi là vấn đề quan trọng hàng đầu đối với các cấp CĐ nói

chung và CĐCS nói riêng. Yêu cầu thực tế đặt ra cho phong trào CN và CĐ

cần thiết phải đổi mới thực sự nội dung, phương pháp và cách thức tập hợp

lực lượng phù hợp với điều kiện thực hiện nền KTTT định hướng XHCN và

hội nhập quốc tế. Nhận thức được tính cấp thiết đó, TLĐLĐVN đã ban hành

Thông tri số 01-TTr/TLĐ ngày 27/10/2006 về “Xây dựng CĐCS và nghiệp

đoàn vững mạnh”, thay thế Thông tri số 02-TTr/TLĐ ngày 27/01/2000, trong

đó lấy việc bảo vệ lợi ích CNVCLĐ là nhiệm vụ trọng tâm, xuyên suốt đối

với hoạt động của CĐCS, từng bước khắc phục tình trạng dàn trải nhiều nội

dung đối với CĐCS. Phối hợp với một số bộ, ban, ngành liên quan nghiên cứu

và trình Chính phủ ban hành Nghị định hướng dẫn thi hành Điều 153 Bộ Luật

Lao động về Ban Chấp hành CĐ lâm thời tại doanh nghiệp; ban hành Quy

định về việc phối hợp hoạt động giữa CĐ ngành Trung ương và CĐ Tổng

46

công ty trực thuộc TLĐLĐVN trong cùng một bộ.

Tổ chức bộ máy của CĐ quận, huyện, ngành địa phương, một số CĐ

ngành Trung ương, CĐ Tổng công ty được nghiên cứu, sắp xếp lại cho phù

hợp với mô hình quản lý mới. Nội dung và phương thức hoạt động có bước

đổi mới, phù hợp với từng loại hình cơ sở. Hoạt động của CĐCS đã hướng

mạnh vào công tác phát triển đoàn viên, chăm lo đời sống, đại diện, bảo vệ

quyền lợi hợp pháp, chính đáng của cán bộ, CNVCLĐ thông qua các hình

thức hướng dẫn, giúp đỡ, đại diện xây dựng, thương lượng, ký kết và tổ chức

thực hiện Thỏa ước lao động tập thể, Quy chế dân chủ ở cơ sở, nội quy, quy

chế phối hợp. Tỷ lệ CĐCS đạt tiêu chuẩn vững mạnh, bình quân từ năm 2003

đến năm 2007 đạt từ 76,5% đến 79,8%. Tỷ lệ CĐCS yếu kém các năm dao

động trong khoảng từ 3,3% đến 6,3% và có diễn biến theo xu hướng giảm đi

[42, tr.8] (Xem thêm Phụ lục 1.3, tr.124).

Thực hiện chủ trương của Đảng về nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ

làm công tác CĐ, ngày 22/10/2004, TLĐLĐVN đã ra Nghị quyết 03-

NQ/TLĐ về “Đẩy mạnh công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ CĐ trong tình

hình mới” với mục tiêu và nhiệm vụ là đẩy mạnh và nâng cao chất lượng

công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ CĐ. Quán triệt Nghị quyết, các cấp CĐ

quan tâm chỉ đạo thực hiện và có sự chuyển biến rõ rệt. Nội dung và phương

pháp đào tạo, bồi dưỡng đa dạng, từng bước được điều chỉnh, bổ sung cho

phù hợp với thực tiễn tổ chức và hoạt động ở cơ sở; các cơ sở đào tạo được

củng cố, nâng cao về chất lượng. TLĐLĐVN và các cấp CĐ đã tổ chức các

lớp bồi dưỡng, tập huấn cho hơn 1,8 triệu lượt cán bộ CĐ các cấp được bồi

dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ công tác CĐ. Đến hết năm 2007, đội ngũ cán

bộ CĐ chuyên trách cấp trên cơ sở có 245 người có trình độ Thạc sĩ, Tiến sĩ;

5.661 người có trình độ Đại học, Cao đẳng và 1.183 người có trình độ Trung

47

cấp [42, tr.10] (Xem thêm Phụ lục 1.4, tr.124).

Trên thực tế, việc phát triển đoàn viên và thành lập CĐCS còn chưa

được như mong muốn, nguyên nhân chủ yếu là do các chủ doanh nghiệp né

tránh thành lập tổ chức CĐ. Phần lớn doanh nghiệp có quy mô nhỏ, vốn ít, lực

lượng lao động thường xuyên biến động, hầu hết là hợp đồng thời vụ, chưa

tha thiết tham gia tổ chức CĐ. Việc tiếp cận với chủ doanh nghiệp để thuyết

phục, vận động họ cho thành lập tổ chức CĐ còn gặp rất nhiều khó khăn. Việc

triển khai của các cấp CĐ còn chậm và thiếu đồng bộ. Công tác truyên truyền

chưa được đầu tư đúng mức; năng lực trình độ của cán bộ CĐCS còn nhiều

hạn chế, bị phụ thuộc giới chủ nên còn dè dặt, ngại va chạm với giới chủ khi

quyền lợi của NLĐ bị vi phạm. Mặt khác, do thiếu kinh phí và biên chế cán

bộ nên nhiều địa phương phát triển đoàn viên, thành lập tổ chức CĐ càng gặp

khó khăn. Việc theo dõi, nằm bắt số lượng đoàn viên di chuyển và thôi không

48

tham gia tổ chức CĐ chưa được tổng hợp kịp thời.

Tiểu kết chƣơng 1

Nhận thức được vai trò rất quan trọng của CĐVN, tổ chức chính trị - xã

hội rộng lớn của GCCN và người lao động, lực lượng chính, then chốt đóng

vai trò quan trọng quyết định sự thành công của sự nghiệp đẩy mạnh

CNH,HĐH đất nước và hội nhập kinh tế quốc tế, từ Đại hội IX của Đảng,

Đảng đã có nhiều chủ trương, đường lối lãnh đạo tổ chức CĐVN phát triển,

trong đó Đảng đặc biệt chú ý đến việc “trí thức hóa công nhân” và bảo vệ

quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng cho CNVCLĐ trong điều kiện thực hành

nền KTTT định hướng XHCN.

Dưới sự lãnh đạo của Đảng trong thời gian từ năm 2003 đến năm 2007,

hoạt động của tổ chức CĐVN đã từng bước được đổi mới cả về nội dung lẫn

phương thức hoạt động. Công tác tuyên truyền, vận động, giáo dục CNVCLĐ

được chú trọng quan tâm, góp phần nâng cao nhận thức chính trị, trình độ văn

hóa, chuyên môn nghiệp vụ, tay nghề cho CNVCLĐ, đáp ứng được yêu cầu

của sự nghiệp cách mạng mới. Hoạt động bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp

chính đáng CNVCLĐ trong điều kiện thực hành nền KTTT định hướng

XHCN được các cấp CĐ quan tâm thực hiện và có nhiều chuyển biến tích

cực, hoạt động xã hội được tiến hành thường xuyên, bước đầu đã mang lại

những hiệu quả thiết thực cho CNVCLĐ. Công tác phát triển đoàn viên, xây

dựng tổ chức CĐVN vững mạnh có bước phát triển mới. Nội dung và phương

thức hoạt động của tổ chức CĐVN từng bước được đổi mới, phù hợp với từng

loại hình cơ sở. Vị thế, vai trò của tổ chức CĐVN trong xã hội được nâng cao.

Mặc dù, hoạt động của tổ chức CĐVN trong thời gian này đã có nhiều

chuyển biến tích cực, nhưng trên thực tế, tổ chức và phương thức hoạt động

của CĐ vẫn chưa chuyển kịp với những biến đổi của tình hình đất nước và đòi

hỏi của đoàn viên, CNVCLĐ. Trước tình hình đó, yêu cầu Đảng tiếp tục phải

đổi mới quan điểm, chủ trương lãnh đạo CĐVN, tạo điều kiện thuận lợi cho tổ

49

chức CĐVN tiếp tục phát triển.

Chƣơng 2

ĐẢNG LÃNH ĐẠO CÔNG ĐOÀN VIỆT NAM

TỪ NĂM 2008 ĐẾN NĂM 2013

2.1. Những chuyển biến mới của tình hình thế giới, trong nƣớc và

chủ trƣơng của Đảng đối với hoạt động của Công đoàn Việt Nam

2.1.1. Những chuyển biến mới của tình hình thế giới và trong nước

2.1.1.1. Về tình hình thế giới

Từ năm 2008 đến năm 2013, tình hình thế giới tiếp tục có những chuyển

biến nhanh chóng, phức tạp và khó lường. Toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế

trở thành xu thế không đảo ngược; quy mô, tốc độ, nội dung hội nhập ngày

càng mạnh mẽ, sâu sắc. Kinh tế tri thức phát triển nhanh trở thành phổ biến,

tất yếu mà không một quốc gia nào không phải hướng tới. Cách mạng khoa

học và công nghệ, sự bùng nổ thông tin toàn cầu, sự phát triển nhanh chóng

của công nghệ thông tin và sự hình thành xã hội thông tin, xã hội học tập, xã

hội tri thức, vừa thúc đẩy mạnh mẽ sự phát triển kinh tế, vừa làm thay đổi sâu

sắc phong tục, tập quán, lối sống, tâm lý của xã hội truyền thống, chuyển sang

xã hội hiện đại. Hòa bình, hợp tác, cạnh tranh để tồn tại và phát triển ngày

càng định hình là một xu hướng lớn, phổ biến.

Thời cơ lớn tiếp tục xuất hiện, thách thức lớn cũng liên tiếp đặt ra, buộc

các chủ thể phải đối mặt. Từ mô hình phát triển chuyển sang mô hình phát

triển bền vững. Suy thoái, phản phát triển luôn là nguy cơ rình rập trên con

đường phát triển, không quốc gia nào có thể xem thường, lảng tránh. Quan

hệ giữa các nước là quan hệ phụ thuộc và tùy thuộc lẫn nhau trong một thế

giới biến đổi mau lẹ, nhiều bắt trắc và đột biến khó lường. Môi trường sinh

thái và biến đổi khí hậu toàn cầu cũng đang diễn biến phức tạp và biến đổi

dữ dội, trở thành nỗi lo toan, ám ảnh của tất cả các nước như động đất, sóng

50

thần, núi lửa, cạn kiệt tài nguyên, khủng hoảng năng lượng, lương thực, gia

tăng dân số, dịch bệnh đi kèm với những biến động, đảo lộn về chính trị và

thể chế quyền lực, v.v..

Đúng như Văn kiện Đại hội lần thứ X của Đảng (2006) đã nhận định:

“Trên thế giới, hòa bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn. Kinh tế thế

giới và khu vực tiếp tục phục hồi và phát triển nhưng vẫn tiềm ẩn những yếu

tố bất trắc khó lường. Toàn cầu hóa kinh tế tạo ra cơ hội nhưng cũng chứa

đựng nhiều yếu tố bất bình dẳng, gây khó khăn, thách thức cho các quốc gia,

nhất là các nước đang phát triển. Khoa học và công nghệ sẽ có những bước

đột phá mới. Mặt khác, những cuộc chiến tranh cục bộ, xung đột vũ trang,

xung đột dân tộc, tôn giáo, chạy đua vũ trang, hoạt động can thiệp, lật đổ,

tranh chấp về lãnh thổ và tài nguyên thiên nhiên tiếp tục diễn ra ở nhiều nơi

với tính chất ngày càng phức tạp. Ở khu vực Châu Á - Thái Bình Dương nói

chung và khu vực Đông Nam Á nói riêng, xu thế hòa bình, hợp tác và phát

triển tiếp tục gia tăng, nhưng luôn tiềm ẩn những nhân tố gây mất ổn định” [6,

tr.20-21]. Tình hình thế giới cho đến năm 2011 vẫn “Diễn biến phức tạp, khó

lường. Tuy hòa bình, hợp tác và phát triển là xu thế lớn, nhưng chiến tranh

cục bộ, xung đột vũ trang, tranh chấp chủ quyền, lãnh thổ vẫn diễn ra ở nhiều

nơi, diễn biến phức tạp. Thiên tai, dịch bệnh, khủng hoảng năng lượng, ô

nhiễm môi trường, biến đổi khí hậu trở thành những vấn đề nghiêm trọng trên

quy mô toàn thế giới. Cuộc khủng hoảng tài chính từ Mỹ lan rộng, trở thành

cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu” [9, tr.149-150].

2.1.1.2. Về tình hình trong nước

Những thành tựu của 20 năm đổi mới (1986 - 2006) tạo thêm nhiều

thuận lợi cho đất nước đổi mới, phát triển kinh tế - xã hội với nhịp độ nhanh

hơn, chất lượng cao hơn. Tuy nhiên, nước ta đang đúng trước nhiều thách

thức lớn đan xen nhau, tác động tổng hợp và diễn biến phức tạp, không thể

51

xem thường bất cứ thách thức nào. “Tình trạng suy thoái về chính trị, tư

tưởng, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên gắn

liền với tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí đang diễn ra nghiêm trọng chưa

được ngăn chặn có hiệu quả. Những biểu hiện xa rời mục tiêu, lý lưởng của

CNXH chưa được khắc phục. Các thế lực thù địch vẫn đang ráo riết thực hiện

âm mưu “diễn biến hòa bình”, gây bạo loạn lật đổ, sử dụng các chiêu bài “dân

chủ”, “nhân quyền”, “dân tộc”, “tôn giáo” hòng làm thay đổi chế độ chính trị

ở nước ta” [6, tr.22].

Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng (2011), đã chỉ ra

những thuận lợi và thách thức cho cách mạng Việt Nam trên cơ sở kiểm điểm

5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ X (2006 - 2011); nhìn lại 10 năm

thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội (2001 - 2010); 20 năm thực

hiện Cương lĩnh (1991 - 2011). Những thuận lợi cơ bản là: Sau hơn 20 năm

đổi mới, những thành tựu đạt được đã làm cho thế và lực của Việt Nam lớn

mạnh lên nhiều. Nền kinh tế đã vượt ra khỏi tình trạng kém phát triển, đạt tốc

độ tăng trưởng khá cao và phát triển tương đối toàn diện. Tổng sản phẩm

trong nước (GDP) năm sau cao hơn năm trước, bình quân trong 5 năm 2006 -

2011 là 7%. Cơ cấu kinh tế tiếp tục được chuyển dịch theo hướng CNH,HĐH.

Đến năm 2010, tỉ trọng khu vực công nghiệp trong cơ cấu GDP tăng lên

41,1%, khu vực dịch vụ tăng lên 38.3% và nông nghiệp giảm còn 20,6%. Cơ

cấu lao động cũng có sự chuyển dịch tích cực. Cơ cấu lao động trong nông

nghiệp giảm xuống còn 48,2%, trong công nghiệp và xây dựng tăng lên

22,4%, dịch vụ tăng lên 29,4% [9, tr.152], các thành phần kinh tế đều phát

triển. Việt Nam đã gia nhập WTO, ký kết hiệp định thương mại tự do song

phương và đa phương với một số đối tác quan trọng; mở rộng và tăng cường

quan hệ hợp tác với các đối tác, góp phần quan trọng vào việc tạo dựng và mở

rộng thị trường hàng hóa, dịch vụ đầu tư của Việt Nam, thu hút đầu tư trực

52

tiếp từ nước ngoài. Giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, văn hóa và

các lĩnh vực xã hội có tiến bộ; bảo vệ tài nguyên môi trường được chú trọng

hơn; đời sống các tầng lớp nhân dân được cải thiện; quốc phòng, an ninh, đối

ngoại được tăng cường. Dân chủ XHCN có tiến bộ, sức mạnh đại đoàn kết

toàn dân tộc được củng cố. Việc xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN được

đẩy mạnh, hiệu lực và hiệu quả hoạt động được nâng lên. Công tác xây dựng,

chỉnh đốn Đảng được tăng cường, đạt một số kết quả tích cực.

Những thuận lợi trên chính là thế mạnh của Việt Nam trên con đường

hội nhập, từ hội nhập kinh tế quốc tế đến chủ động, tích cực hội nhập quốc tế

trong một thế giới toàn cầu hóa, trong thời đại cách mạng khoa học và công

nghệ và sự bùng nổ thông tin, công nghệ thông tin và kinh tế tri thức.

Tuy nhiên, đất nước cũng đứng trước nhiều thách thức lớn, đan xen

nhau, tác động tổng hợp và diễn biến phức tạp. Cuộc khủng hoảng tài chính

năm 2008, suy thoái kinh tế toàn cầu từ năm 2011 đến nay đã tác động và gây

khó khăn lớn đến sự phát triển của nước ta, làm cho tốc độ tăng trưởng kinh tế

bị chậm lại, kinh tế phát triển chưa bền vững; thiên tai, dịch bệnh liên tiếp xảy

ra gây thiệt hại không nhỏ về người, tài sản của Nhà nước và nhân dân. Các

lĩnh vực giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, văn hóa xã hội, môi

trường còn nhiều hạn chế, yếu kém, gây bức xúc trong xã hội. Quốc phòng,

an ninh, đối ngoại còn một số mặt hạn chế; dân chủ và sức mạnh đại đoàn kết

toàn dân tộc chưa được phát huy đầy đủ. Công tác xây dựng Nhà nước pháp

quyền XHCN chưa theo kịp yêu cầu phát triển kinh tế và quản lý đất nước.

Công tác xây dựng Đảng còn nhiều hạn chế; tình trạng suy thoái về chính trị,

tư tưởng, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, tệ

quan liêu, tham nhũng, lãng phí còn nghiêm trọng. Những biểu hiện xa rời

mục tiêu của CNXH, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” có diễn biến phức tạp.

Văn kiện Đại hội lần thứ XI của Đảng (2011) đã tổng kết: “Thời gian sau

53

Đại hội X, đất nước phát triển thuận lợi. Việt Nam trở thành thành viên của

Tổ chức Thương mại thế giới (WTO). Nhưng từ cuối năm 2007, đầu năm

2008, kinh tế và đời sống gặp nhiều khó khăn. Các thế lực thù địch tiếp tục

chống phá, kích động bạo loạn, đẩy mạnh hoạt động “diễn biến hòa bình”.

Trong bối cảnh đó, toàn Đảng, toàn dân ta nỗ lực phấn đầu vượt qua khó

khăn, thách thức, đạt được những thành tựu quan trọng trong việc thực hiện

các mục tiêu, nhiệm vụ Đại hội X đề ra, nhưng cũng còn nhiều hạn chế,

khuyết điểm cần đươc khắc phục” [9, tr.150].

Những chuyển biến mới của tình hình thế giới và trong nước tác động

mạnh mẽ, tạo ra cả cơ hội lớn và thách thức lớn đối với cách mạng nước ta

nói chung và hoạt động của tổ chức CĐVN nói riêng.

2.1.2. Chủ trương của Đảng đối với hoạt động của Công đoàn Việt

Nam trong giai đoạn mới

2.1.2.1. Chủ trương của Đảng và những vấn đề đặt ra cho Công đoàn

Việt Nam trong giai đoạn mới

Trong bối cảnh mới, đất nước ta đã chuyển mình mạnh mẽ trong quá

trình CNH,HĐH, trong thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ

Tổ quốc, đồng thời cũng có những yêu cầu mới, vấn đề mới đặt ra, đòi hỏi tổ

chức CĐ phải nâng mình lên một tầm cao mới không chỉ về trí tuệ mà cả về

nhận thức, vai trò, vị trí chính trị to lớn của GCCN - giai cấp làm chủ vận

mệnh của đất nước theo hướng ngày càng trí thức hóa.

Để xây dựng GCCN và tổ chức CĐVN vững mạnh, đáp ứng được yêu

cầu của sự nghiệp đẩy mạnh CNH,HĐH đất nước và hội nhập quốc tế, ngày

28/1/2008, Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X đã

ban hành Nghị quyết số 20-NQ/TW về “Tiếp tục xây dựng GCCN Việt Nam

thời kỳ đẩy mạnh CNH,HĐH đất nước”. Nghị quyết xác định: “GCCN Việt

Nam là một lực lượng xã hội to lớn, đang phát triển, bao gồm những NLĐ chân

54

tay và trí óc, làm công hưởng lương trong các loại hình sản xuất kinh doanh và

dịch vụ công nghiệp, hoặc sản xuất kinh doanh và dịch vụ có tính chất công

nghiệp” [7, tr. 43].

Nghị quyết còn nêu rõ 5 nhóm nhiệm vụ và giải pháp để xây dựng

GCCN thời kỳ đẩy mạnh CNH,HĐH: Một là, tiếp tục nghiên cứu, tổng kết

thực tiễn, phát triển lý luận về GCCN trong điều kiện KTTT định hướng

XHCN, đẩy mạnh CNH,HĐH đất nước và hội nhập kinh tế quốc tế. Hai là,

đẩy mạnh và nâng cao chất lượng đào tạo nghề, từng bước trí thức hoá

GCCN. Ba là, quan tâm bồi dưỡng, nâng cao trình độ chính trị, ý thức giai

cấp, tinh thần độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường của dân tộc cho GCCN. Bốn

là, bổ sung, sửa đổi, xây dựng và thực hiện nghiêm túc hệ thống chính sách,

pháp luật để đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của CN, chăm lo

đời sống vật chất, tinh thần cho CN. Năm là, tăng cường sự lãnh đạo của

Đảng, phát huy vai trò của tổ chức CĐ và các tổ chức chính trị - xã hội khác

trong xây dựng GCCN [7, tr.45 ]. Đây là Nghị quyết chuyên đề của Đảng đi

sâu vào việc phát triển GCCN, tổ chức CĐVN thời kỳ đổi mới, nó có ý nghĩa

quyết định đến sự lớn mạnh của GCCN, khẳng định sự quan tâm của Đảng ta

đến GCCN và CĐVN.

Năm 2011, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng đã đánh giá,

tổng kết 20 năm thực hiện “Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá

độ lên CNXH”, đề ra những chủ trương phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn

dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, tạo nền tảng đến năm 2020

đưa đất nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại,

thực hiện thắng lợi mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn

minh, vững bước đi lên CNXH. Đại hội nhấn mạnh phát triển kinh tế là nhiệm

vụ trọng tâm; thực hiện CNH,HĐH đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức

và bảo vệ tài nguyên môi trường; coi trọng phát triển các ngành công nghiệp

55

nặng, công nghiệp chế tạo có tính nền tảng và các ngành công nghiệp có lợi

thế. “Cương lĩnh bổ sung, phát triển năm 2011” của Đảng khẳng định:

“Đảng, Nhà nước có cơ chế, chính sách, tạo điều kiện để Mặt trận và các đoàn

thể nhân dân hoạt động có hiệu quả, thực hiện vai trò giám sát và phản biện

xã hội”[9, tr.87]. “Các đoàn thể nhân dân tùy theo tính chất, tôn chỉ và mục

đích đã được xác định, vận động, giáo dục đoàn viên, hội viên chấp hành luật

pháp, chính sách; chăm lo bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng

của đoàn viên, hội viên; giúp đoàn viên, hội viên nâng cao trình độ về mọi

mặt và xây dựng cuộc sống mới; tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội”

[9, tr.87].

Quán triệt quan điểm trên của Cương lĩnh đối với tổ chức CĐ, Đại hội

lần thứ XI của Đảng đã xác định: “Quan tâm giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng,

phát triển GCCN cả về số lượng và chất lượng; nâng cao bản lĩnh chính trị,

trình độ học vấn, chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp, tác phong công nghiệp,

kỷ luật lao động, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp CNH,HĐH và hội nhập quốc

tế. Phát huy vai trò của GCCN là giai cấp lãnh đạo cách mạng, thông qua đội

tiên phong là ĐCSVN; sửa đổi, bổ sung các chính sách, pháp luật về tiền

lương, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp, cải thiện nhà ở,

làm việc… để bảo vệ quyền lợi, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của

CN”[9, tr.241].

Quan điểm chỉ đạo của Đảng đối với tổ chức CĐ tại Đại hội lần thứ XI là

sự kế thừa, phát triển quan điểm chỉ đạo của Đại hội lần thứ X và Nghị quyết

20-NQ/TW của Đảng. Đây là quan điểm có tính chất định hướng, xuyên suốt

trong việc xây dựng và phát triển GCCN và tổ chức CĐVN trong các thập

niên tới.

Từ những chủ trương trên đây của Đảng, đặt ra những yêu cầu cho hoạt

động của tổ chức CĐVN trong giai đoạn mới. Đó là, CĐ cần chăm lo làm tốt

56

hơn nữa nhiệm vụ xây dựng GCCN xứng đáng là lực lượng nòng cốt, đi đầu

trong sự nghiệp đổi mới, CNH,HĐH đất nước. CĐ không chỉ nâng cao cả về

tầm trí tuệ, sự sáng tạo mà còn phải nâng cao cả về sự nhận thức vai trò, vị trí

chính trị to lớn của GCCN - giai cấp làm chủ vận mệnh đất nước. Chú trọng

công tác tuyên truyền, giáo dục, giúp CNVCLĐ nâng cao nhận thức về giai

cấp, về Đảng, về tổ chức CĐ. CĐ cần phải làm tốt hơn vai trò là người đại

diện và bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp chính đáng của GCCN và NLĐ như:

chủ động tham gia thương lượng với người sử dụng lao động và tổ chức tốt

việc ký kết, thực hiện thỏa ước lao động tập thể, giải quyết tốt các tranh chấp

lao động… Chú trọng tham gia xây dựng và tổ chức thực hiện tốt Quy chế

dân chủ ở cơ sở. Đẩy mạnh các hoạt động xã hội, tạo điều kiện để CNVCLĐ

thực hiện quyền làm chủ của mình. Phải liên tục đổi mới nội dung và hình

thức tổ chức các phong trào thi đua phù hợp với các đặc điểm của ngành, địa

phương và cơ sở, tạo thêm việc làm và tăng thu nhập, cải thiện đời sống

CNVCLĐ, góp phần tăng trưởng kinh tế, hoàn thành nhiệm vụ chính trị của

ngành và địa phương.

CĐ cần đẩy mạnh việc xây dựng tổ chức, kiện toàn đội ngũ cán bộ và

cải tiến phương thức hoạt động phù hợp với yêu cầu mới như: đa dạng hóa

các hình thức tập hợp quần chúng, đổi mới nội dung và phương thức hoạt

động của các cấp CĐ, hướng về cơ sở, đẩy mạnh việc thành lập CĐ ở khu vực

kinh tế ngoài nhà nước và có vốn đầu tư nước ngoài. Đổi mới công tác vận

động, thuyết phục, hình thức và phương pháp công tác của tổ chức CĐ cho

phong phú hơn, sinh động hơn, hấp dẫn hơn, phù hợp và thiết thực với từng

đối tượng, tránh máy móc, đơn giản, tẻ nhạt. Cần đặc biệt coi trọng công tác

đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao năng lực và trình độ đội ngũ cán bộ CĐ các cấp,

giúp họ chẳng những có lập trường chính trị vững vàng, có nhiệt tình công tác

mà phải có chuyên môn, có tác phong quần chúng, có kiến thức và phương

57

pháp vận động quần chúng, đáp ứng yêu cầu hoạt động của CĐ trong nền

KTTT định hướng XHCN.

CĐ cần làm tốt công tác xây dựng Đảng tại các cơ quan. Cụ thể là: Cần

chú trọng phối hợp với các cơ quan nghiên cứu của Đảng và Nhà nước, đẩy

mạnh nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn về hoạt động CĐ trong điều kiện

phát triển KTTT định hướng XHCN, đẩy mạnh CNH,HĐH đất nước và hội

nhập quốc tế, giúp cho Đảng và Nhà nước có đủ căn cứ khoa học trong việc

đề ra chủ trương, đường lối, chính sách đúng đắn, phù hợp. Quan tâm hơn nữa

công tác đấu tranh phòng chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí, giữ gìn sự

trong sạch và bản chất cách mạng trong sáng của GCCN mà đội tiên phong là

ĐCSVN. Đẩy mạnh việc bồi dưỡng, phát triển Đảng trong CN, lao động; giới

thiệu cho Đảng xem xét, kết nạp đảng viên từ những đoàn viên CĐ ưu tú và

bổ sung cho Đảng những cán bộ xuất sắc, trưởng thành từ phong trào CĐ.

2.1.2.2. Công đoàn Việt Nam cụ thể hóa chủ trương, đường lối của

Đảng trong giai đoạn mới

Tiếp thu chủ trương, đường lối lãnh đạo CĐ của Đảng và trước những

yêu cầu đặt ra đối với CĐVN trong giai đoạn mới, tổ chức CĐVN đã có

những thay đổi trong phương hướng, mục tiêu hoạt động so với những năm

2003 - 2007. Ngay sau Nghị quyết 20-NQ/TW của Đảng được ban hành, ngày

7/3/2008, Đoàn Chủ tịch TLĐLĐVN đã ban hành “Chương trình hành động

số 399-Ctr/TLĐ về thực hiện Nghị quyết số 20-NQ/TW” của Đảng với những

mục tiêu: Nâng cao nhận thức của cán bộ, đoàn viên, CNVCLĐ cả nước về vị

trí, vai trò to lớn của GCCN Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh CNH,HĐH đất

nước; góp phần cải thiện và nâng cao giác ngộ giai cấp, bản lĩnh chính trị, ý

thức tổ chức kỷ luật, tác phong công nghiệp, trình độ học vấn, chuyên môn

nghề nghiệp cho CN, xây dựng GCCN lớn mạnh; tiếp tục đổi mới nội dung và

58

phương thức hoạt động, xây dựng tổ chức CĐ vững mạnh đáp ứng yêu cầu,

nhiệm vụ mới; nâng cao tinh thần trách nhiệm, chất lượng và hiệu quả thực

hiện nhiệm vụ xây dựng GCCN và tổ chức CĐ.

“Chương trình hành động” đã đề ra chỉ tiêu phấn đấu đến năm 2013 là:

Tham gia cùng với cơ quan quản lý nhà nước có 70% trở lên CN qua đào tạo

chuyên môn, nghề nghiệp; giảm 80% số vụ tai nạn lao động và bệnh nghề

nghiệp; 65% trở lên số CN được tham gia bảo hiểm xã hội. Hàng năm có

100% số cơ quan hành chính, đơn vị doanh nghiệp nhà nước tổ chức Hội nghị

cán bộ công chức, viên chức, trên 50% số công ty cổ phần, công ty trách

nhiệm hữu hạn tổ chức Hội nghị NLĐ. Trong 5 năm (2008 - 2013), kết nạp

mới ít nhất 1,5 triệu đoàn viên. Đến năm 2013, có 70% trở lên số doanh

nghiệp đủ điều kiện theo quy định của Điều lệ CĐVN thành lập được CĐCS

và tập hợp được từ 60% trở lên CNVCLĐ trong doanh nghiệp gia nhập CĐ.

Đến năm 2013, có 70% trở lên số CĐCS doanh nghiệp ký kết thỏa ước lao

động tập thể, 100% cán bộ CĐ các cấp được bồi dưỡng, tập huấn về lý luận

nghiệp vụ CĐ. Hàng năm, có trên 80% CĐCS ở các cơ quan hành chính, đơn

vị sự nghiệp và doanh nghiệp thuộc khu vực nhà nước và 40% CĐCS ở khu

vực ngoài nhà nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đạt tiêu chuẩn

“CĐCS vững mạnh”, có 10% đạt tiêu chuẩn “CĐCS vững mạnh xuất sắc”.

Giới thiệu mỗi năm ít nhất 30.000 CN ưu tú để cấp ủy Đảng bồi dưỡng, xem

xét, kết nạp vào Đảng (sau này điều chỉnh thành 90.000 người)[71, tr.144].

“Chương trình hành động” cũng đề ra các nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu để

thực hiện được các mục tiêu trên: Làm tốt công tác tuyên truyền, giáo dục, góp

phần nâng cao chất lượng GCCN đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh CNH,HĐH đất

nước. Rà soát, nắm chắc tình hình doanh nghiệp và CN trong các loại hình

doanh nghiệp, tăng cường công tác vận động thành lập CĐCS, phát triển đoàn

viên ở các doanh nghiệp khu vực ngoài nhà nước và doanh nghiệp có vốn đầu

59

tư nước ngoài. Xác định phát triển đoàn viên mới là trách nhiệm của mỗi cán

bộ đoàn viên và các cấp CĐ. Đẩy mạnh công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết

thực tiễn về GCCN và hoạt động CĐ.

Thực hiện Nghị quyết số 20-NQ/TW của Đảng, Tổng Liên đoàn đã ban

hành nhiều văn bản chỉ đạo, quán triệt và tổ chức thực hiện. Cụ thể là: “Kế

hoạch số 378-KH/TLĐ ngày 6/3/2008 về tuyên truyền và tổ chức thực hiện

các Nghị quyết”; “Chỉ thị số 02-CT/TLĐ ngày 30/9/2008 về việc tiếp tục triển

khai thực hiện Nghị quyết”. Năm 2013 đã tiến hành tổng kết 5 năm thực hiện

“Chương trình hành động số 399-Ctr/TLĐ”.

Đại hội CĐVN lần thứ X (2008) đề ra mục tiêu hoạt động của CĐ đã có

bước chuyển lớn so với Đại hội lần thứ IX. Lần đầu tiên, TLĐLĐVN đã xác

định mục tiêu hoạt động của CĐ các cấp là: “Hướng về cơ sở, lấy địa phương

cơ sở làm địa bàn hoạt động chủ yếu, lấy đoàn viên, CNVCLĐ làm đối tượng

vận động”; nhấn mạnh “chuyển mạnh hoạt động CĐ vào việc tổ chức thực

hiện chức năng đại diện, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của

đoàn viên, CNVCLĐ”; “xây dựng quan hệ lao động hài hòa, ổn định, tiến

bộ; góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của đất nước”. Khẩu hiệu

hành động được Đại hội lần thứ X đề ra là: “Đổi mới, sáng tạo, bảo vệ

quyền, lợi hợp pháp của đoàn viên, CNVCLĐ vì sự phát triển ổn định bền

vững của đất nước” [39, tr.658]. Qua đó có thể thấy, mục tiêu hoạt động của

CĐVN ngày càng rõ ràng hơn, đi vào chiều sâu, hiệu quả, phù hợp với thực

tiễn hoạt động của phong trào CĐVN trong giai đoạn mới.

Đại hội CĐVN lần thứ XI (2013) tiếp tục phát triển quan điểm của Đại

hội lần thứ X CĐVN với mục tiêu, phương hướng tổng quát cho hoạt động

của tổ chức CĐ trong những năm 2013 - 2018 là: “Tiếp tục đổi mới nội dung

và phương thức hoạt động CĐ theo hướng vì đoàn viên và NLĐ, vì sự phát

triển bền vững của đất nước; hướng mạnh về cơ sở, thực hiện tốt chức năng

60

chăm lo đời sống, đại diện, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của

đoàn viên và NLĐ; tham gia có hiệu quả vào công tác quản lý nhà nước, quản

lý kinh tế - xã hội; nâng cao chất lượng công tác tuyên truyền, vận động, giáo

dục và tổ chức thi đua yêu nước trong đoàn viên và NLĐ; đẩy mạnh phát triển

đoàn viên, thành lập CĐCS, chăm lo đào tạo, bồi dưỡng cán bộ CĐ, xây dựng

tổ chức CĐ vững mạnh, góp phần xây dựng GCCN ngày càng lớn mạnh,

xứng đáng là lực lượng nòng cốt, đi đầu trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ

Tổ quốc Việt Nam XHCN”. Phương châm hành động cho các cấp CĐ là: “Vì

quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của đoàn viên và NLĐ, vì sự phát triển

bền vững của đất nước, tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức hoạt động

CĐ” [76, tr.86].

Có thể thấy, Đại hội X, XI CĐVN đã có bước phát triển mới trong việc

đề ra đường lối hoạt động của tổ chức CĐ. Từ việc chỉ xác định nội dung hoạt

động chung chung ở các kỳ Đại hội trước, thì đến Đại hội X, XI đã chỉ rõ

được nội dung hoạt động trọng của tổ chức CĐVN đó là hướng về CĐCS, lấy

địa phương cơ sở làm địa bàn hoạt động chủ yếu, lấy CNVCLĐ là đối tượng

vận động chính. Đẩy mạnh, đi vào chiều sâu, hoạt động chăm sóc, bảo vệ

quyền, lợi ích hợp pháp chính đáng cho CNVCLĐ. Trên cơ sở mục tiêu đề ra,

TLĐLĐVN đã cụ thể hóa thành các chương trình hành động, lãnh đạo triển

khai thực hiện sâu rộng tới CNVCLĐ.

2.2. Kết quả thực hiện sự chỉ đạo của Đảng đối với Công đoàn Việt

Nam (2008 – 2013)

2.2.1. Phát triển hơn nữa hoạt động tuyên truyền, vận động, giáo dục

công nhân viên chức lao động

Để đưa chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của

Nhà nước, Nghị quyết của CĐ tới sâu rộng CNVCLĐ, công tác tuyên

truyền, giáo dục của CĐ từ năm 2008 đến năm 2013 tiếp tục được đẩy

61

mạnh và có nhiều đổi mới về nội dung và hình thức tuyên truyền, từng

bước phù hợp với thực tiễn của cơ sở, bám sát nhu cầu đoàn viên, NLĐ

(Xem thêm Phụ lục 2.1, tr.125).

Ngày 22/9/2009, Đoàn Chủ tịch TLĐLĐVN đã ban hành Chỉ thị số 01-

CT/TLĐ tiếp tục thực hiện Nghị quyết 03-NQ/ĐCT ngày 3/4/2006 về “Đẩy

mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục của tổ chức CĐ trong tình hình mới”.

Việc triển khai thực hiện Nghị quyết gắn liền với việc triển khai thực hiện

Nghị quyết Đại hội lần thứ X CĐVN, Chương trình hành động của

TLĐLĐVN thực hiện Nghị quyết số 20-NQ/TW về “Tiếp tục xây dựng

GCCN Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh CNH,HĐH đất nước” và Cuộc vận động

“Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”.

Các cấp CĐ đã cụ thể hóa và tập trung triển khai thực hiện Nghị quyết số

20-NQ/TW của Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa

X về “Tiếp tục xây dựng GCCN Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh CNH,HĐH đất

nước” và Chương trình hành động số 399-Ctr/TLĐ của TLĐLĐVN về thực

hiện Nghị quyết gắn với việc tổ chức triển khai Chỉ thị số 03-CT/TW của Bộ

Chính trị về việc “Tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo

đức Hồ Chí Minh” trong cán bộ, đoàn viên và NLĐ. Sau 5 năm thực hiện

Nghị quyết, hệ thống CĐ đã tổ chức hơn 180.000 cuộc truyên truyền quan

điểm, mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp về xây dựng GCCN thời kỳ đẩy mạnh

CNH,HĐH đất nước theo tinh thần Nghị quyết 20-NQ/TW cho hơn 7 triệu

lượt CNVCLĐ; biên soạn và phát hành 222.000 tài liệu tuyên truyền dưới

dạng tờ gấp, sổ tay bỏ túi, đĩa CD tới 63 tỉnh, thành phố và 20 CĐ ngành

Trung ương; xét và trao “Giải thưởng Nguyễn Đức Cảnh” cho 239 CNVCLĐ

tiêu biểu trong cả nước [64, tr.6]. Việc tổ chức cho cán bộ, đoàn viên và NLĐ

học tập, quán triệt Nghị quyết đã trở thành đợt sinh hoạt chính trị sâu rộng,

62

bước đầu làm chuyển biến nhận thức của cán bộ, đoàn viên và NLĐ, các cấp

ủy Đảng, chính quyền về vị trí, vai trò, của GCCN trong sự nghiệp

CNH,HĐH đất nước.

Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”

gắn liền với thực hiện nhiệm vụ chính trị và xây dựng nếp sống văn hóa trong

cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp được các cấp CĐ triển khai với nhiều nội dung

cụ thể, thiết thực và hàng năm đều có đánh giá, tổng kết. Năm 2008, các cấp

CĐ đã tổ chức Hội thi “Kể chuyện về tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”

trong CNVCLĐ, thu hút gần 23 vạn thí sinh tham gia. Tính đến năm 2012, có

trên 50.000 lớp học, hơn 4,5 triệu lượt người tham gia học tập các chuyên đề

về tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, góp phần tạo được sự chuyển biến trong

nhận thức và hành động, phát huy tính năng động, sáng tạo của mỗi đoàn

viên, CNVCLĐ, củng cố thêm niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng, điều hành

của Nhà nước [76, tr.52].

Công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật theo Quyết định số

31/2009/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về “Tuyên truyền, phổ biến pháp

luật lao động, pháp luật CĐ và các quy định pháp luật có liên quan đến CN,

lao động tại các doanh nghiệp dân doanh và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước

ngoài” được các cấp CĐ quan tâm chỉ đạo thực hiện, trong đó tập trung vào

CN, lao động trong các doanh nghiệp ngoài nhà nước và doanh nghiệp có vốn

đầu tư nước ngoài đã góp phần tích cực nâng cao nhận thức, kiến thức pháp

luật cho đoàn viên và NLĐ. Ngày 3/3/2010, TLĐLĐVN đã ban hành văn bản

số 313/TLĐ về việc “Đẩy mạnh công tác tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp

luật trong CN, lao động” và triển khai thực hiện Quyết định số 06/2010/QĐ-

TTg ngày 25/1/2010 của Thủ tướng Chính phủ về “Xây dựng, quản lý, khai

thác tủ sách pháp luật”. TLĐLĐVN đã biên soạn và xuất bản trên 53.000 tài

liệu về lao động và CĐ, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế; xây dựng được

63

14.581 tủ sách pháp luật với hàng trăm đầu sách để chuyển tới CNVCLĐ [76,

tr.52]. Nhiều Liên đoàn Lao động tỉnh, thành phố lập Hội đồng phối hợp công

tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật, hoặc cử thành viên tham gia

Hội đồng do bộ, ngành, địa phương thành lập. TLĐLĐVN đã phối hợp với

Đài Truyền hình Việt Nam xây dựng và phát sóng 05 chương trình truyền

hình “Phổ biến giáo dục pháp luật”, cùng với Thông tấn xã Việt Nam tổ chức

chương trình phối hợp tuyên truyền về phong trào CNVCLĐ và hoạt động

CĐ giai đoạn 2012 - 2017, trong đó phối hợp xây dựng chương trình “Truyền

hình CĐVN” nhằm tiếp tục đẩy mạnh các hoạt động tuyên truyền về CN, CĐ,

pháp luật lao động, Luật CĐ trong CN và người sử dụng lao động.

Hoạt động “Tháng CN” chính thức được CĐ phát động trong cả nước

năm 2011 gắn với kỷ niệm ngày Quốc tế lao động đã thu hút hàng triệu lượt

người tham gia, mang lại những kết quả cụ thể, thiết thực, đánh dấu bước phát

triển trong đổi mới hình thức tập hợp đoàn viên, NLĐ. Từ kết quả bước đầu,

đã được Ban Bí thư Trung ương có kết luận triển khai “Tháng CN” vào tháng

5 hàng năm theo Thông báo số 77-TB/TW ngày 24/2/2012 của Ban Bí thư với

mục tiêu hướng về cơ sở, bảo đảm thiết thực, hiệu quả, tiết kiệm, phù hợp với

điều kiện sống, làm việc của CNVCLĐ. Trong đó, tập trung cho hoạt động

tuyên truyền đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, giải

quyết những khó khăn, bức xúc của CNVCLĐ, thực hiện tốt việc chăm lo bảo

vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của CNVCLĐ; xây dựng quan hệ hài

hòa, ổn định, tiến bộ trong doanh nghiệp, thực sự là chỗ dựa vững chắc của

NLĐ. Theo thống kê, trong “Tháng CN” năm 2012, các cấp CĐ đã tổ chức

hơn 3.000 cuộc hội thao, hội diễn văn nghệ, thu hút gần 400.000 lượt người

tham dự; trên 8.500 cuộc tuyên truyền cho trên 500.000 lượt CNVCLĐ và

trên 100.000 tài liệu tuyên truyền, panô, áp phích, tờ gấp về chính sách, pháp

luật liên quan; tổ chức gần 600 cuộc tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp

64

luật thu hút gần 200.000 lượt CNVCLĐ tham gia; trên 1.100 cuộc đối thoại

giao lưu, tọa đàm, gặp gỡ được tổ chức, thu hút trên 98.000 lượt CNVCLĐ

tham gia [62, tr.9]. Nhiều ngành, địa phương đã tổ chức các hoạt động như

“Cùng CN vượt khó”, “Chăm lo đời sống CN”, “Tuần lễ thanh niên CN”,

“Hát cho CN nghe, nghe CN hát”, hiến kế tháo gỡ khó khăn trong sản xuất

kinh doanh, chia sẻ khó khăn với đoàn viên, NLĐ bị tai nạn lao động, có hoàn

cảnh đặc biệt khó khăn, đưa các hoạt động văn hóa, thể thao đến cơ sở đã thể

hiện tinh thần trách nhiệm, tính chủ động, sáng tạo của CĐ, góp phần nâng

cao đời sống vật chất và tinh thần cho đoàn viên, NLĐ, tạo cao trào mới trong

CNVCLĐ và hoạt động CĐ, đồng thời khẳng định vai trò, vị trí của tổ chức

CĐVN, góp phần xây dựng quan hệ lao động hài hòa, ổn định, tiến bộ trong

doanh nghiệp.

Công tác tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức cho CNVCLĐ về sự

cần thiết của việc học tập nâng cao trình độ học vấn, nghề nghiệp trong đông

đảo CNVCLĐ, đồng thời khuyến khích, động viên và thường xuyên phối hợp

với chính quyền, doanh nghiệp tạo điều kiện về thời gian và hỗ trợ về tài

chính để CNVCLĐ được tham gia các chương trình học tập nhằm nâng cao

trình độ học vấn, nghề nghiệp, bồi dưỡng kiến thức chuyên môn, nghiệp vụ.

Theo số liệu khảo sát và báo cáo của 60/83 CĐ ngành, địa phương, từ năm

2005 đến năm 2010 đã tổ chức gần 16.408 lớp học, đã có hơn 4 triệu lượt

CNVCLĐ được học tập nâng cao trình độ học vấn, tay nghề, kỹ năng chuyên

môn, nghiệp vụ, 525.260 CN, lao động được học lý thuyết, thi tay nghề hàng

năm [62, tr.9].

Công tác vận động đoàn viên, NLĐ tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước

và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, tham gia cải cách hành chính,

đấu tranh chống tham nhũng, tiêu cực được các cấp CĐ tiến hành thường

xuyên. Công tác phát triển Đảng trong CN, lao động nhất là ở các doanh

65

nghiệp ngoài nhà nước và doanh nghiêp có vốn đầu tư nước ngoài được tổ

chức CĐ quan tâm, đã có hàng ngàn CN, lao động được kết nạp vào Đảng.

Thực hiện nhiệm vụ tham gia xây dựng Đảng, trong 5 năm (2008 - 2013), tổ

chức CĐ đã giới thiệu hơn 462.000 đoàn viên CĐ ưu tú cho Đảng và đã có

hơn 360.000 người được kết nạp vào Đảng, trong đó CN, lao động trực tiếp

sản xuất, cán bộ CĐ cơ sở chiếm từ 8% - 10%. Cụ thể là năm 2009 có 32.997

người, năm 2010 có 15.221 người, năm 2011 có 47.633 [76, tr.56].

Công tác nghiên cứu lý luận và hoạt động khoa học trong tổ chức CĐ,

đặc biệt là nghiên cứu về GCCN và CĐ, về môi trường, vệ sinh an toàn lao

động được đẩy mạnh. Ngày 26/10/2009, CĐVN đã tiếp tục ra Chỉ thị số 02-

CT/TLĐ về việc “Tiếp tục đẩy mạnh công tác nghiên cứu lý luận và hoạt

động khoa học trong tổ chức CĐ”. Nghị quyết chỉ rõ, CĐ cần tập trung

nghiên cứu các vấn đề cấp bách, bức xúc từ thực tiễn đặt ra như: nghiên cứu

về vị trí, vai trò và sứ mệnh lịch sử của GCCN và tổ chức CĐ trong thời kỳ

đẩy mạnh CNH,HĐH đất nước và hội nhập quốc tế; những thay đổi về số

lượng, chất lượng, thành phần, cơ cấu CNVCLĐ; tình hình việc làm, tiền

lương, điều kiện lao động và quan hệ lao động; sự phân tầng xã hội trong

GCCN, nghiên cứu về liên minh công, nông và trí thức, phát huy sức mạnh

của khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong tình hình mới. Tiếp đó, ngày

26/11/2009, TLĐLĐVN ban hành Chỉ thị 03-CT/TLĐ về “Tiếp tục đẩy mạnh

công tác nghiên cứu lý luận và hoạt động khoa học trong tổ chức CĐ”. Ngày

26/2/2009, TLĐLĐVN tiến hành hội thảo khoa học “Chiến lược xây dựng

GCCN Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh CNH,HĐH đất nước”. Tại hội thảo có 31

tham luận đề cập đến những vấn đề có liên quan đến vai trò, vị trí và sứ mệnh

lịch sử của GCCN trong thời kỳ đẩy mạnh CNH,HĐH đất nước.

Công tác tuyên truyền, vận động CN và NLĐ tích cực tham gia các

phong trào thi đua yêu nước, góp phần phát triển kinh tế - xã hội và xây dựng

66

CĐVN tiếp tục được phát triển và nâng cao về chất. Ở giai đoạn này, trọng

tâm của phong trào thi đua vẫn tiếp tục được xác định là “Lao động giỏi”,

“Lao động sáng tạo”. Công tác kiểm tra, sơ kết, tổng kết thi đua, xây dựng và

học tập điển hình tiên tiến được coi trọng. Việc bình bầu các danh hiệu thi đua

đi vào thực chất hơn. Công tác khen thưởng tiếp tục có những chuyển biến

tốt, chính xác, kịp thời hơn, góp phần khắc phục bệnh thành tích và bệnh hình

thức trong thi đua; chú ý đối tượng khen thưởng là NLĐ trực tiếp, cán bộ CĐ

cấp cơ sở.

Tuy nhiên, công tác tuyên truyền, vận động, giáo dục CNVCLĐ từ năm

2008 đến năm 2013 vẫn còn có những hạn chế. Việc tuyên truyền chính sách,

pháp luật, phối hợp tổ chức học tập nâng cao trình độ học vấn, nghề nghiệp

cho NLĐ ở khu vực ngoài nhà nước còn chưa kịp thời. Chưa có biện pháp

thích hợp để nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền pháp luật và nắm bắt dư

luận, xử lý kịp thời diễn biến tư tưởng trong đoàn viên, NLĐ. Công tác giới

thiệu đoàn viên ưu tú cho Đảng ở các doanh nghiệp, nhất là khu vực ngoài

nhà nước còn những hạn chế. Việc tổ chức chỉ đạo, phong trào thi đua chưa

đồng đều ở các loại hình cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp các thành phần kinh

tế. Công tác khen thưởng có nơi chưa quan tâm đúng mức đến đối tượng trực

tiếp lao động sản xuất, công tác. Việc phát huy và nhân rộng các điển hình

tiên tiến còn chưa thường xuyên. Công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực

tiễn chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển của GCCN và tổ chức CĐ trong

thời kỳ đẩy mạnh CNH,HĐH đất nước. Kết quả một số công trình nghiên cứu

chậm được ứng dụng trong thực tiễn.

2.2.2. Chủ động, tích cực trong việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp

chính đáng của công nhân viên chức lao động

Quán triệt đường lối, chủ trương của Đảng, từ năm 2008 đến năm 2013,

các cấp CĐ đã tích cực chủ động tổ chức các hoạt động nhằm thực hiện chức

67

năng đại diện, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp chính đáng của CNVCLĐ trong

điều kiện thực hành nền KTTT định hướng XHCN, đẩy mạnh CNH,HĐH đất

nước và hội nhập quốc tế.

2.2.2.1. Công đoàn tích cực tham gia quản lý kinh tế - xã hội, xây

dựng dự án luật và các chính sách

Công tác tham gia quản lý kinh tế - xã hội, nghiên cứu xây dựng dự án

luật, nghị định và nhiều chính sách, chế độ liên quan trực tiếp đến CNVCLĐ

tiếp tục được đẩy mạnh. CĐ đã tập hợp ý kiến của đông đảo đoàn viên,

CNVCLĐ tham gia xây dựng và hoàn thiện hàng trăm văn bản pháp luật,

chính sách, chế độ có liên quan trực tiếp đến quyền, lợi ích hợp pháp của đoàn

viên và người lao động như Luật Bảo hiểm y tế, Luật Thuế thu nhập cá nhân,

các văn bản hướng dẫn Luật Bảo hiểm xã hội, Luật Dạy nghề, các chính sách

về tiền lương và phụ cấp lương, cơ chế ưu đãi khuyến khích đầu tư xây dựng

nhà ở tại khu công nghiệp, khu chế xuất, chương trình quốc gia về bảo hộ lao

động giai đoạn 2011 - 2015, xây dựng Quy chế dân chủ cơ sở trong các doanh

nghiệp ngoài nhà nước và thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở trong các doanh

nghiệp. Nổi bật là việc các cấp CĐ đã tập trung nghiên cứu, xây dựng dự thảo

Luật CĐ (sửa đổi), tham gia xây dựng dựng dự thảo Bộ luật Lao động (sửa

đổi). Hai luật trên đã được Quốc hội khóa XIII thông qua năm 2012. Lần đầu

tiên, việc thu phí CĐ bằng 2% trên tổng quỹ tiền lương được đưa vào Bộ luật

CĐ. Tất cả các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp, dù đã thành lập hoặc chưa

thành lập CĐCS đều phải có nghĩa vụ đóng phí CĐ. Những nội dung sửa đổi,

bổ sung trong Luật CĐ và Bộ luật Lao động năm 2012 cơ bản đáp ứng được

nguyện vọng của NLĐ và cán bộ, đoàn viên CĐ, tạo cơ sở pháp lý quan trọng

cho hoạt động và sự phát triển của tổ chức CĐVN.

CĐVN còn tham gia nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992.

TLĐLĐVN và CĐ ngành, địa phương đã tổ chức nhiều hội thảo, hội nghị lấy

68

ý kiến cho Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992. Thông qua các hội thảo, hội nghị

và các cuộc tiếp xúc với cơ sở của CĐ các cấp đã thu hút đông đảo cán bộ,

đoàn viên và NLĐ tham gia ý kiến đóng góp vào dự thảo Hiến pháp, trong đó

làm rõ những cơ sở pháp lý, những căn cứ lịch sử, căn cứ lý luận, tính thực

tiễn của việc cần thiết phải có điều quy định riêng về tổ chức CĐ trong Hiến

pháp năm 1992 sửa đổi. Tại kỳ hợp thứ 6, Quốc hội khóa XIII (2012) đã

thông qua Hiến pháp nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, trong đó Điều 10 của

Hiến pháp, quy định về tổ chức CĐ khẳng định: “CĐVN là tổ chức chính trị -

xã hội của GCCN và của NLĐ được thành lập trên cơ sở tự nguyện, đại diện

cho NLĐ, chăm lo và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của NLĐ;

tham gia quản lý nhà nước, quản lý kinh tế - xã hội; tham gia kiểm tra, thanh

tra, giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước, tổ chức, đơn vị, doanh nghiệp

về những vấn đề liên quan đến quyền, nghĩa vụ của NLĐ; tuyên truyền, vận

động NLĐ học tập, nâng cao trình độ, kỹ năng nghề nghiệp, chấp hành pháp

luật, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” [17, tr.3].

Thực hiện Nghị định số 109/2007/NĐ-CP ngày 26/6/2007 của Chính

phủ về “Chuyển doanh nghiệp 100% vốn nhà nước thành công ty cổ phần”,

ngày 25/1/2008, TLĐLĐVN đã ra bản Hướng dẫn số 170/TLĐ về “Nhiệm vụ

CĐ trong và sau khi chuyển doanh nghiệp 100% vốn nhà nước thành công ty

cổ phần theo Nghị định số 109/2007/NĐ-CP”. Bản hướng dẫn chỉ rõ nhiệm

vụ của CĐCS trước và trong quá trình cổ phần hóa, trong đó tập trung vào

một số nội dung chính là: tuyên truyền, phổ biến chính sách cổ phần hóa đến

NLĐ; tham gia xây dựng và tổ chức thực hiện phương án cổ phần hóa; giám

sát quá trình xây dựng và thực hiện phương án cổ phần hóa. Các cấp CĐ cử

đại diện tham gia Ban Đổi mới doanh nghiệp ở cấp mình, đề xuất nhiều giải

pháp tháo gỡ khó khăn, tăng cường giám sát quá trình thực hiện, đồng thời

tuyên truyền, giải thích cho CNVCLĐ hiểu rõ về mục đích, yêu cầu về chính

69

sách của Đảng, Nhà nước, tham gia giải quyết những vướng mắc, tạo sự đồng

thuận ở cơ sở, đảm bảo hài hòa lợi ích nhà nước, doanh nghiệp và NLĐ.

“Năm 2013, CĐ đã tham gia cổ phần hóa 41 doanh nghiệp nhà nước” [77,

tr.5].

2.2.2.2. Công đoàn tăng cường kiểm tra, giám sát thực hiện pháp luật,

chế độ, chính sách và Quy chế dân chủ ở cơ sở

Cùng với việc tham gia xây dựng pháp luật, công tác kiểm tra, giám sát

việc thi hành cũng được các cấp CĐ chú trọng. Tính trung bình, mỗi năm các

cấp CĐ đã tham gia trên 1.000 cuộc kiểm tra, giám sát thực hiện pháp luật về

lao động, qua đó phát hiện, hướng dẫn cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp thực

hiên đúng pháp luật và kiến nghị cơ quan nhà nước xử lý các vi phạm nhằm

bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của NLĐ. Riêng việc CĐ các cấp

giải quyết, tham gia giải quyết khiếu nại, tố cáo đã góp phần bảo vệ quyền lợi

hợp pháp cho hơn 85.000 người.

Việc thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở theo Chỉ thị số 30-CT/TW ngày

18/2/1998 của Bộ Chính trị và Nghị quyết số 4a-NQ/BCH ngày 6/1/2005 của

Ban Chấp hành TLĐLĐVN tiếp tục được nhiều ngành, địa phương, cơ sở

thực hiện thông qua tổ chức Hội nghị cán bộ, công chức, Hội nghị NLĐ, Đại

hội CN, viên chức. Hàng năm, có hơn 95,6% cơ quan, đơn vị mở Hội nghị

cán bộ CN, viên chức và 87% doanh nghiệp nhà nước mở Đại hội CN, viên

chức, hơn 51,2% công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn có tổ chức

CĐ mở Hội nghị NLĐ. Hoạt động của Ban Thanh tra nhân dân ở cơ sở đã có

bước tiến bộ mới với 58% được đánh giá là tốt và khá, 20% trung bình, 22%

yếu [78, tr.216, 217].

Trong cơ chế thị trường định hướng XHCN cùng với xu thế hội nhập và

toàn cầu hóa, quan hệ lao động ngày càng phức tạp đòi hỏi sự hài hòa về lợi

ích trên cơ sở thỏa thuận giữa NLĐ và sử dụng lao động và NLĐ về quyền lợi

70

và nghĩa vụ nhưng không trái với quy định của pháp luật. 100% Liên đoàn

Lao động tỉnh, thành phố, CĐ ngành Trung ương, CĐ Tổng công ty trực

thuộc TLĐLĐVN đã chỉ đạo, hướng dẫn, tổ chức thực hiện Nghị quyết 01-

NQ/ĐCT ngày 18/6/2009 của Đoàn Chủ tịch TLĐLĐVN về “Đổi mới, nâng

cao chất lượng thương lượng, ký kết và tổ chức thực hiện thỏa ước lao động

tập thể” theo tinh thần của Chỉ thị 22-CT/TW ngày 5/6/2008 của Ban Bí thư

Trung ương Đảng về “Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng mối quan hệ

lao động hài hòa, ổn định, tiến bộ trong doanh nghiệp”. CĐ nhiều nơi đã tăng

cường hình thức đối thoại trực tuyến, nhân rộng mô hình “tổ tự quản của CN,

lao động trong các khu nhà trọ khu công nghiệp”, nhằm cung cấp thông tin

nhiều hơn cho CN, lao động. Năm 2010, TLĐLĐVN đã phối hợp với các cơ

quan liên quan tổ chức một số cuộc đối thoại với người sử dụng lao động,

phối hợp với Ủy ban các vấn đề xã hội của Quốc hội tổ chức Hội thảo “Hoàn

thiện Luật CĐ và pháp luật lao động, góp phần xây dựng quan hệ lao động hài

hòa, ổn định” với mục đích nâng cao vai trò của tổ chức CĐ trong thực hiện

đề án của Quốc Hội về “Nghiên cứu sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện chính sách

pháp luật về quan hệ lao động và hoàn thiện cơ chế phối hợp giữa Nhà nước,

chủ doanh nghiệp, CĐ để giải quyết tranh chấp lao động, vấn đề bảo hiểm,

lương tối thiểu”, qua đó số đơn vị có tổ chức CĐ thực hiện ký kết thỏa ước

lao động tập thể đạt 65,22%, năm 2012 là 68%. TLĐLĐVN đã phối hợp

chặt chẽ với Bộ Lao động Thương binh và Xã hội nghiên cứu, hướng dẫn,

chỉ đạo thực hiện thành công việc ký thỏa ước lao động tập thể ngành Dệt -

may Việt Nam.

Quán triệt quan điểm của Đảng, ngày 27/12/2010, TLĐLĐVN đã ra

Nghị quyết số 04-NQ/TLĐ về “Đổi mới và nâng cao chất lượng hoạt động tư

vấn pháp luật của tổ chức CĐ trong tình hình mới”, các cấp CĐ đã có nhiều

hình thức, biện pháp chỉ đạo và tổ chức thực hiện công tác tư vấn pháp luật

71

cho đoàn viên, NLĐ. Ngày 19/5/2011, TLĐLĐVN đã ban hành Kế hoạch số

768-KH/TLĐ triển khai thực hiện Nghị quyết số 04a-NQ/TLĐ. Mục đích yêu

cầu của Kế hoạch là: Quán triệt sâu sắc quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ và giải

pháp về đổi mới và nâng cao chất lượng hoạt động tư vấn pháp luật của tổ

chức CĐ trong tình hình mới. Đến năm 2013, hệ thống tư vấn pháp luật của

CĐ có 14 trung tâm, 36 văn phòng, 19 tổ tư vấn pháp luật thuộc các Liên

đoàn Lao động tỉnh, thành phố, CĐ ngành Trung ương và 572 tổ tư vấn pháp

luật trực thuộc các Liên đoàn Lao động huyện, khu vực công nghiệp được

thành lập [78, tr.217]. Hoạt động của các trung tâm, văn phòng và tổ tư vấn

pháp luật đã đạt nhiều kết quả thiết thực, hướng về cơ sở với nhiều hình thức

phong phú. Từ năm 2008 đến năm 2012, “các cấp CĐ đã tham gia giải quyết

74.717 vụ thông qua tư vấn pháp luật và trợ giúp pháp lý (tăng 13.500 vụ/năm

so với trung bình của 5 năm 2005 - 2010), với 178.103 người được tư vấn

pháp luật (tăng 53.870 người/năm), tổng số tiền đòi bồi thường là

21.081.208.523 đồng; giải quyết 19.352 đơn khiếu nại tố cáo theo quy định của

pháp luật và của TLĐLĐVN; giải quyết 93.619 vụ có liên quan đến NLĐ và 450

vụ về các lĩnh vực pháp luật khác; tham gia giải quyết, đại diện bảo vệ NLĐ tại

Tòa án cho 2.551 vụ, việc, góp phần bảo vệ quyền lợi của NLĐ [77, tr.6].

Từ yêu cầu của thực tế, nhiều CĐ cấp trên cơ sở đã cử cán bộ hỗ trợ,

hướng dẫn, giúp đỡ CĐ cơ sở tham gia với người sử dụng lao động xây dựng

thang bảng lương, định mức lao động của doanh nghiệp theo quy định của

pháp luật. CĐ một số địa phương đã chủ động tham gia với chính quyền có

biện pháp xử lý tình trạng chủ doanh nghiệp nước ngoài bỏ trốn nhằm bảo vệ

quyền lợi của đoàn viên và NLĐ. TLĐLĐVN đã kịp thời kiến nghị Chính phủ

ban hành chế độ trợ giúp khó khăn cho hàng chục ngàn lao động Việt Nam ở

Libi và các nước khác phải về nước trước thời hạn, trợ cấp cho hàng vạn lao

động có thu nhập thấp trước tình trạng lạm phát tăng cao. Ở nhiều địa

72

phương, CĐ đã chủ động vận động chủ doanh nghiệp tăng tiền lương, tiền

làm thêm giờ, tiền ăn giữa ca, các loại phụ cấp. Một số ngành, địa phương CĐ

đã tổ chức thực hiện việc thông tin, đối thoại giữa NLĐ với người sử dụng lao

động hoặc chính quyền đồng cấp nhằm kịp thời giải quyết những khó khăn,

vướng mắc của NLĐ, của CĐCS. Ví như năm 2012, “các cấp CĐ Thành phố

Hồ Chí Minh đã phối hợp vận động 59.071 chủ nhà trọ cam kết không tăng

giá cho thuê nhà đến cuối năm 2012; vận động 2.738 doanh nghiệp tăng tiền

lương từ 100.000 đồng đến 250.000 đồng/tháng; hỗ trợ trượt giá từ 100.000

đồng đến 500.000 đồng/tháng; tăng chi phí bữa ăn trưa thêm từ 3.000 đồng

đến 8.000 đồng/ phần” [64, tr.5].

2.2.2.3. Công đoàn tích cực tham gia các hoạt động xã hội, chăm lo

đời sống công nhân, viên chức, lao động

Các hoạt động xã hội của CĐ tiếp tục được phát huy có hiệu quả trong

việc chăm lo NLĐ có hoàn cảnh khó khăn, bệnh hiểm nghèo, gia đình chính

sách. “Quỹ tấm lòng vàng lao động”, “Chương trình mái ấm CĐ” và hoạt

động xã hội, “Đền ơn, đáp nghĩa” của CĐ được triển khai thường xuyên và

sâu rộng trong mọi đối tượng đoàn viên và NLĐ với nhiều nội dung, hình

thức đa dạng, phong phú.

Thực hiện chủ trương của Đảng về việc giữ vững chủ quyền biển, đảo,

biên giới, vùng trời, các cấp CĐ đã có nhiều hoạt động hướng tới ngư dân và

biển đảo, hỗ trợ các nghiệp đoàn nghề cá, động viên lao động trong ngành

ngư nghiệp đoàn kết, yên tâm bám biển sản xuất, góp phần bảo vệ chủ quyền

biển đảo của Tổ quốc. Thông qua Chương trình “Tấm lưới nghĩa tình” vì ngư

dân Hoàng Sa, Trường Sa do CĐ phát động đã thu hút được sự tham gia

hưởng ứng của hàng triệu lượt đoàn viên, NLĐ, tổ chức, doanh nghiệp trong

cả nước với số tiền hỗ trợ hàng trăm tỉ đồng, giúp hàng trăm trường hợp gia

đình ngư dân gặp khó khăn khi hành nghề trên biển, góp phần bảo vệ chủ

73

quyền biển đảo thiêng liêng của Tổ quốc. “Riêng năm 2013, CĐ các ngành,

địa phương đã trao tặng nhiều phần quà với số tiền ủng hộ 21 tỉ đồng cho các

ngư dân địa phương” [77, tr.7].

Các chương trình hỗ trợ NLĐ về quê, vui xuân đón Tết trong điều kiện

khó khăn đã tạo được nhiều dấu ấn tốt đẹp trong CN, lao động và cộng đồng

doanh nghiệp. “Trong dịp tết Canh Dần năm 2010, các cấp CĐ đã tặng

225.903 xuất quà với số tiền là 85.283 tỉ đồng” [56, tr.5]. “Trong dịp Tết

Nguyên Đán năm 2013, thông qua các chương trình “Góp Tết với CN, lao

động nghèo”, “Quỹ tấm lòng vàng Lao động” CĐ ở các tỉnh, ngành đã vận

động, phối hợp với chính quyền, doanh nghiệp trao hàng chục ngàn phần quà

Tết với tổng số tiền hơn 1.100 tỉ đồng. [77, tr.7].

Các hoạt động trên của tổ chức CĐ mang ý nghĩa rất sâu sắc, góp phần

thực hiện chủ trương xóa đói, giảm nghèo, đảm bảo an sinh xã hội của Đảng

và Nhà nước, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc, khơi dậy tinh thần yêu

nước, truyền thống tương thân, tương ái, qua đó nâng cao vị thế, uy tín của tổ

chức CĐVN trong đoàn viên, NLĐ và trong xã hội.

Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đã đạt được trong 5 năm từ năm

2008 đến năm 2013, hoạt động bảo vệ quyền, lợi ích CNVCLĐ của tổ chức

CĐ vẫn còn tồn tại một số hạn chế. Chất lượng tham gia xây dựng, hoàn thiện

một số chính sách, pháp luật liên quan đến đoàn viên, NLĐ và CĐ chưa cao.

Vai trò tham gia quản lý, đại diện, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng

của NLĐ ở một số ngành, địa phương, cơ sở hiệu quả còn thấp. Công tác

kiểm tra, tham gia kiểm tra giám sát thực hiện chế độ, chính sách còn chưa

đồng đều, có nơi còn hình thức. CĐCS chưa lãnh đạo được đình công theo

quy định của pháp luật, tham gia giải quyết tranh chấp lao động, ngừng việc

tập thể, đình công còn bị động, lúng túng. Hoạt động tư vấn pháp luật, tư vấn

nghề, đào tạo nghề, giới thiệu việc làm chất lượng, hiệu quả chưa đáp ứng yêu

74

cầu của đoàn viên và NLĐ.

2.2.3. Tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức, nâng cao chất lượng

hoạt động của tổ chức Công đoàn Việt Nam

Từ năm 2008 đến năm 2013, để cụ thể hóa chủ trương của Đảng về xây

dựng GCCN và tổ chức CĐVN vững mạnh trong thời kỳ đẩy mạnh

CNH,HĐH đất nước và hội nhập quốc tế, các cấp CĐ đã tập trung cho công

tác phát triển đoàn viên và thành lập CĐCS, đổi mới nội dung, phương thức,

nâng cao chất lượng hoạt động của tổ chức CĐ và nâng cao năng lực của đội

ngũ cán bộ CĐ.

2.2.3.1. Đẩy mạnh phát triển đoàn viên, thành lập Công đoàn cơ sở

Để tập trung đẩy mạnh các hoạt động nhằm phát triển tổ chức, tập hợp

đông đảo CNVCLĐ trong các thành phần kinh tế gia nhập tổ chức CĐ, gắn

với việc củng cố, duy trì và nâng cao chất lượng hoạt động của các CĐCS,

Ban Chấp hành TLĐLĐVN đã xây dựng Chương trình số 2295-CT/TLĐ ngày

31/12/2008 về “Phát triển đoàn viên CĐ giai đoạn 2008 - 2013”, trọng tâm là

ở các doanh nghiệp ngoài nhà nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước

ngoài. Mục tiêu cụ thể của Chương trình đề ra là: “Kết nạp mới ít nhất 1,5

triệu đoàn viên CĐ, đến hết năm 2013 có 70% số doanh nghiệp đủ điều kiện

theo quy định của Điều lệ CĐVN thành lập được CĐCS, có 60% số lao động

trong doanh nghiệp gia nhập CĐ. Củng cố, nâng cao chất lượng hoạt động

của CĐCS, thực hiện xây dựng CĐCS vững mạnh. Đổi mới nội dung, hình

thức tuyên truyền phát triển đoàn viên, vận động thành lập CĐCS tại doanh

nghiệp. Tăng cường tập huấn, bồi dưỡng cán bộ CĐCS khu vực doanh nghiệp

có vốn đầu tư nước ngoài và doanh nghiệp ngoài nhà nước. Đẩy mạnh tuyên

truyền phổ biến, hướng dẫn pháp luật lao động và CĐ đến CNVCLĐ” [45,

tr.6].

Để thực hiện được các mục tiêu đã đề ra, Ban Chấp hành TLĐLĐVN đã

xây dựng và chỉ đạo một số giải pháp trọng tâm và hướng dẫn thực hiện. Cụ

75

thể:

Đối với TLĐLĐVN, chỉ đạo các cấp CĐ tổ chức khảo sát, nắm tình hình

doanh nghiệp, lao động, đăng ký phát triển đoàn viên, thành lập CĐCS trong

cả nhiệm kỳ. Giao chỉ tiêu cho các đơn vị trong nhiệm kỳ kết nạp 1,87 triệu

đoàn viên, thành lập 13.691 CĐCS. Phối hợp với Đài Truyền hình Việt Nam,

Đài Tiếng nói Việt Nam phát sóng Chương trình “Lao động và CĐ”; trang tin

CĐ trên báo Lao động, Báo Nhân dân và Báo Nhân dân điện tử, Tạp chí Lao

động và CĐ, đăng tải trên trang Web của TLĐLĐVN đưa thông tin về các

hoạt động phát triển đoàn viên, thành lập CĐCS; phát hành 20.000 cuốn Điều

lệ CĐVN bằng ba thứ tiếng Việt - Anh - Trung, 20.000 bộ Điều lệ và hướng

dẫn thi hành, 9.000 sổ tay “Một số nghiệp vụ hoạt động CĐCS trong doanh

nghiệp”, hỗ trợ công tác tuyên truyền phát triển đoàn viên, CĐCS khu vực

kinh tế ngoài nhà nước. Tổ chức nghiên cứu, biên soạn và phát hành bộ tài

liệu đào tạo, bồi dưỡng cán bộ CĐCS về kỹ năng, phương pháp hoạt động

CĐ, thương lượng tập thể và xây dựng quan hệ lao động hài hòa, ổn định, tiến

bộ. Ban hành Nghị quyết 6a-NQ/TLĐ ngày 6/1/2011 về tiếp tục đổi mới nội

dung, phương thức và nâng cao chất lượng hoạt động của CĐCS, Hướng dẫn

số 187-HD/TLĐ về xây dựng CĐCS vững mạnh và đánh giá chất lượng hoạt

động của CĐCS.

Đối với Liên đoàn Lao động tỉnh, thành phố, CĐ ngành Trung ương,

Tổng công ty trực thuộc TLĐLĐVN, chủ động xây dựng chương trình, kế

hoạch phát triển đoàn viên, thành lập CĐCS, tổ chức khảo sát doanh nghiệp

và CNVCLĐ, đăng ký với Tổng Liên đoàn để kết nạp mới tổng số 1.857.289

đoàn viên, thành lập 13.691 CĐCS. Tổ chức triển khai Chương trình hành

động số 399-CTr/TLĐ ngày 7/3/2008 về thực hiện Nghị quyết số 20-NQ/TW

của Ban Chấp hành Trung ương khóa X về “Tiếp tục xây dựng GCCN Việt

Nam thời kỳ đẩy mạnh CNH,HĐH đất nước”, Kế hoạch số 1233-KH/TLĐ

76

ngày 17/7/2008 thực hiện Chỉ thị 22-CT/TW của Ban Bí thư về “Tăng cường

công tác lãnh đạo, chỉ đạo việc xây dựng quan hệ lao động hài hòa, ổn định và

tiến bộ trong doanh nghiệp”. Một số Liên đoàn Lao động tỉnh, thành phố xây

dựng chương trình phối hợp công tác với các sở, ngành chức năng ở địa

phương như Sở Kế hoạch đầu tư, Sở Công thương, Sở Lao động Thương binh

và Xã hội, Cục thuế…, nhằm huy động sự tham gia tích cực của các cơ quan

quản lý nhà nước trong việc kiểm tra, khảo sát doanh nghiệp.

Có nhiều hình thức tuyên truyền phát triển đoàn viên như: tờ gấp, panô,

tạp chí, Bản tin Lao động và CĐ, Sổ tay CĐ; phối hợp phát sóng Chương

trình “Lao động và CĐ” trên đài phát thanh truyền hình của tỉnh, huyện,

của doanh nghiệp; tổ chức các tổ tư vấn lưu động về pháp luật lao động,

Luật CĐ, Điều lệ CĐVN tại các cụm công nghiệp, khu công nghiệp và

trong doanh nghiệp.

Bên cạnh đó, để mở rộng đối tượng tập hợp và đổi mới hoạt động, lần

đầu tiên TLĐLĐVN đã triển khai một số hoạt động thí điểm về thành lập CĐ

ngành Dệt - may địa phương tại Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Bình

Dương, làm cơ sở cho việc thương lượng, ký kết thỏa ước lao động tập thể

ngành, địa phương. Đổi mới cách thức tổ chức đoàn viên, thành lập tổ chức

CĐ và tăng cường mối liên kết giữa CĐ cấp trên với CĐCS và NLĐ, nhằm

tìm ra những giải pháp, kinh nghiệm trong việc đổi mới, đa dạng hóa cách

thức phát triển đoàn viên, thành lập CĐCS; nâng cao trách nhiệm của CĐ cấp

trên trong việc hướng dẫn, giúp đỡ CĐCS được thực hiện tại Liên đoàn Lao

động Thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Bình Dương, Đồng Nai và Đà

Nẵng. Thí điểm phát triển đoàn viên, thành lập nghiệp đoàn nghề cá nhằm tổ

chức cho lao động làm nghề đánh bắt hải sản các hoạt động đoàn kết, giúp đỡ,

bảo vệ nhau trong quá trình hành nghề trên biển. Sau 5 năm thực hiện, các mô

hình thí điểm trên đã đạt được một số kết quả nổi bật. Thí điểm đổi mới công

77

tác phát triển đoàn viên tại Liên đoàn Lao động Hải Phòng, Thành phố Hồ

Chí Minh, Bình Dương, Đồng Nai và Đà Nẵng, mở ra triển vọng mới về đa

dạng hóa cách thức phát triển đoàn viên, vận động thành lập CĐCS. Ngoài

phương pháp vẫn đang thực hiện phổ biến, CĐ cấp trên cơ sở còn tuyên

truyền, vận động, kết nạp CN, lao động vào CĐ ở ngoài doanh nghiệp, trong các

khu nhà trọ. Xây dựng và bồi dưỡng họ trở thành đoàn viên nòng cốt để vận

động số lao động khác trong doanh nghiệp gia nhập tổ chức CĐ. Khi doanh

nghiệp nào có số đoàn viên đông và đủ điều kiện sẽ tiến hành thành lập CĐCS.

Thí điểm thành lập nghiệp đoàn nghề cá ở một số địa phương thu được

kết quả quan trọng. “Tính đến cuối năm 2012, cả nước đã thành lập được 32

nghiệp đoàn nghề cá và kết nạp 5.080 lao động trên 1.085 tàu, thuyền đánh

bắt hải sản vào tổ chức CĐVN” [64, tr.13].

Với những cố gắng nỗ lực của các cấp CĐ trong công tác chỉ đạo thực

hiện, tuyên truyền, vận động, phát triển đoàn viên, thành lập CĐCS, sau 5

năm thực hiện cả nước đã kết nạp mới 3.849.874 đoàn viên, thành lập mới

34.144 CĐCS [61, tr.5] (Xem thêm Phụ lục 2.2, tr.126).

2.2.3.2. Tiếp tục đổi mới nội dung và phương thức hoạt động của tổ

chức Công đoàn

Quán triệt Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư, Ban Chấp hành Trung ương

Đảng khóa X về “Đổi mới, kiện toàn tổ chức bộ máy các cơ quan Đảng, định

hướng về đổi mới tổ chức bộ máy nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn

thể chính trị - xã hội”, ngày 25/3/2009 TLĐLĐVN ban hành Quyết định số

403-QĐ/TLĐ của Đoàn Chủ tịch về “Quy định chức năng, nhiệm vụ, cơ cấu

tổ chức cơ quan Tổng Liên đoàn”, Quyết định số 881-QĐ/TLĐ ngày

16/7/2009 của Đoàn Chủ tịch về “Quy định chức năng, nhiệm vụ, cơ cấu tổ

chức các phòng trực thuộc các ban cơ quan Tổng Liên đoàn” và Quyết định

số 883-QĐ/TLĐ ngày 16/7/2009 của Đoàn Chủ tịch về “Quy định cơ cấu tổ

78

chức bộ máy, biên chế, chức năng, nhiệm vụ cơ quan Liên đoàn Lao động

tỉnh, thành phố, CĐ ngành Trung ương, CĐ Tổng công ty trực thuộc Tổng

Liên đoàn”. Tổ chức CĐ hướng dẫn, chỉ đạo thực hiện việc sắp xếp lại tổ

chức bộ máy, biên chế cán bộ; xác định rõ chức năng, nhiệm vụ các ban

nghiệp vụ của cơ quan Tổng Liên đoàn, Liên đoàn Lao động tỉnh, thành phố,

CĐ ngành Trung ương, CĐ Tổng công ty trực thuộc Tổng Liên đoàn theo

hướng giảm đầu mối các ban nghiệp vụ, tập trung thực hiện chức năng đại

diện, chăm lo, bảo vệ đoàn viên và NLĐ, xây dựng quan hệ lao động hài hòa,

ổn định, tiến bộ, phù hợp với chủ trương đẩy mạnh cải cách hành chính và

nâng cao chất lượng hoạt động của cả hệ thống tổ chức CĐ. Đến năm 2013,

hầu hết các ngành, địa phương đã xây dựng đề án và triển khai thực hiện, tại

cơ quan CĐ tỉnh, thành phố, ngành Trung ương, Tổng công ty trực thuộc

TLĐLĐVN đã giảm một số ban nghiệp vụ.

Trên cơ sở đó, nội dung và phương thức hoạt động CĐ có bước đổi mới,

đã làm rõ hơn về mô hình tổ chức, nội dung, nhiệm vụ từng cấp CĐ, từng

loại hình CĐCS. TLĐLĐVN đã ban hành những văn bản hướng dẫn về tổ

chức, cán bộ, nội dung hoạt động của CĐCS phù hợp với các thành phần

kinh tế và đề cao trách nhiệm của CĐ cấp trên cơ sở, làm rõ nội dung hoạt

động của CĐCS phù hợp với các thành phần kinh tế và đề cao trách nhiệm

của CĐ cấp trên cơ sở trong việc hỗ trợ cho CĐCS, nhất là ở nơi gặp khó

khăn trong hoạt động.

Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ CĐ đã có những chuyển biến tích

cực trong việc đa dạng hóa hình thức, đổi mới nội dung, chương trình,

phương pháp đào tạo; đã tổ chức nhiều lớp tập huấn ngắn ngày theo chuyên

đề; chú trọng bồi dưỡng cán bộ CĐ cấp cơ sở ở doanh nghiệp khu vực ngoài

nhà nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, cán bộ xuất thân từ CN,

79

cán bộ nữ, cán bộ mới tham gia công tác CĐ lần đầu. Hình thành đội ngũ

giảng viên kiêm chức, tăng cường bồi dưỡng tại cơ sở, chú trọng các nội dung

về chính sách, pháp luật lao động, kỹ năng hoạt động CĐ và năng lực, bản

lĩnh đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của NLĐ; gắn

công tác đào tạo với công tác nghiên cứu khoa học về CN và hoạt động CĐ.

Nguồn kinh phí dành cho công tác đào tạo, bồi dưỡng ngày càng tăng.

TLĐLĐVN đã ban hành nhiều văn bản liên quan đến công tác đào tạo, bồi

dưỡng cán bộ CĐ như Quy chế đào tạo, bồi dưỡng cán bộ CĐ; Xây dựng Đề

án đào tạo, bồi dưỡng cán bộ CĐ giai đoạn 2011 - 2020; Quy định về chương

trình đào tạo lý luận và nghiệp vụ công tác CĐ. Từ năm 2008 đến năm 2013,

đã có hàng trăm ngàn lượt cán bộ được đào tạo, bồi dưỡng, tập huấn về

nghiệp vụ công tác CĐ và nhiều nội dung chương trình khác; có hàng trăm

lượt cán bộ CĐ được bồi dưỡng, tập huấn ở nước ngoài (Xem thêm Phụ lục

2.3, tr.126).

80

TLĐLĐVN đã sửa đổi, bổ sung, ban hành nhiều văn bản về công tác cán bộ phù hợp với các quy định của Đảng, Nhà nước. Chất lượng cán bộ CĐ nhìn chung được nâng lên cả về trình độ chuyên môn, nghiệp vụ công tác, về lý luận chính trị và năng lực thực hiện nhiệm vụ. Cán bộ trẻ, cán bộ nữ, cán bộ CĐ chuyên trách ở các doanh nghiệp ngoài nhà nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài có đông đoàn viên được quan tâm hơn. Phần lớn cán bộ CĐ giữ gìn được phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống, trung thành với sự nghiệp cách mạng của Đảng, nhiệt tình, tận tụy, có trách nhiệm với công tác CĐ. Hầu hết cán bộ CĐ chủ chốt của các ngành, địa phương đều tham gia cấp ủy Đảng, Hội đồng nhân dân cùng cấp, một số đồng chí tham gia Thường vụ cấp ủy, là đại biểu Quốc hội, một số cán bộ CĐ đã được Đảng, Nhà nước điều động, bổ nhiệm, phân công nhiệm vụ mới. Việc đánh giá hàng năm, việc bổ nhiệm, điều động, luân chuyển, khen thưởng, kỷ luật, thực hiện chính sách đối với cán bộ được Tổng Liên đoàn và các cấp CĐ thực hiện nghiêm túc theo đúng quy định của Đảng, Nhà nước và TLĐLĐVN. Công tác cán bộ đã từng bước đi vào nền nếp.

Thực hiện Nghị quyết của Ban Chấp hành TLĐLĐVN (khóa X) về “Tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức và nâng cao chất lượng hoạt động của CĐCS”, các cấp CĐ đã tập trung chỉ đạo thực hiện việc đổi mới nội dung, nâng cao chất lượng hoạt động của CĐCS theo tiêu chuẩn “CĐCS vững mạnh”. Định kỳ hàng năm, tiến hành kiểm tra, đánh giá, phân loại hoạt động của CĐCS. “Tỷ lệ CĐCS đạt tiêu chuẩn vững mạnh bình quân hàng năm đạt gần 77%; riêng cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp và doanh nghiệp nhà nước đạt hơn 84%; trong đó có gần 40% đạt vững mạnh xuất sắc, vượt chỉ tiêu Đại hội X đề ra” [76, tr.65].

Với những cố gắng, nỗ lực của các cấp CĐVN, có thể nói công tác phát triển đoàn viên, thành lập CĐCS giai đoạn 2008 - 2013 đã đạt được những thành tựu nổi bật so với các chỉ tiêu của Nghị quyết Đại hội X CĐVN với tỷ lệ hoàn thành: 219% chỉ tiêu kết nạp đoàn viên, 218,5% chỉ tiêu thành lập CĐCS mà TLĐLĐVN giao cho các đơn vị [61, tr.6] (Xem thêm Phụ lục 2.4, tr.127).

81

Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được, công tác phát triển đoàn viên, thành lập CĐCS giai đoạn này vẫn còn tồn tại một số hạn chế. Tốc độ phát triển đoàn viên, thành lập CĐCS chưa theo kịp tốc độ phát triển doanh nghiệp và NLĐ. Công tác tập hợp, kết nạp lao động tự do hợp pháp trong các ngành giao thông vận tải, tiểu thủ công nghiệp, thương mại, dịch vụ, đánh bắt hải sản…vào tổ chức CĐ đến nay còn rất khiêm tốn. Công tác cấp phát, quản lý và sử dụng thẻ đoàn viên ở một số nơi chưa được quan tâm đúng mức. Chất lượng hoạt động ở một số CĐCS còn yếu, hoạt động còn hình thức, chưa tổ chức được những hoạt động thiết thực đối với đoàn viên và NLĐ, chưa lôi cuốn được đông đảo NLĐ tham gia các hoạt động do CĐ tổ chức. Đối với khu vực ngoài nhà nước, việc thực hiện dân chủ còn gặp nhiều khó khăn, bất cập, vai trò của CĐCS ở một số nơi chưa tương xứng với yêu cầu đặt ra. Tỷ lệ doanh nghiệp có thỏa ước lao động tập thể tăng chậm, chất lượng thỏa ước tập thể ở nhiều nơi còn thấp, mang tính hình thức, đối phó.

Tiểu kết chƣơng 2

Từ năm 2008 đến năm 2013, chủ trương, đường lối của Đảng lãnh đạo tổ chức CĐVN ngày càng đi vào chiều sâu. Quán triệt quan điểm lãnh đạo của Đảng, nội dung, phương thức hoạt động của CĐ hướng mạnh về cơ sở phù hợp với các thành phần kinh tế, lấy CNVCLĐ làm đối tượng vận động chính. Công tác tuyên truyền, vận động, giáo dục của CĐ có nhiều đổi mới về nội dung và hình thức, từng bước phù hợp với thực tiễn của cơ sở, bám sát nhu cầu đoàn viên, NLĐ nhất là các hoạt động trong “Tháng CN” mang lại hiệu quả cao. Vai trò của CĐ trong việc đồng hành cùng doanh nghiệp, tháo gỡ khó khăn trong sản xuất kinh doanh, chăm lo đời sống, đại diện, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của CNVCLĐ, xây dựng quan hệ lao động hài hòa, ổn định, tiến bộ tại doanh nghiệp trong điều kiện thực hành nền KTTT định hướng XHCN, đẩy mạnh CNH,HĐH đất nước và hội nhập quốc tế đạt được nhiều kết quả cụ thể, thiết thực. Việc đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động, nâng cao chất lượng hoạt động của tổ chức CĐ và đội ngũ cán bộ CĐ được các cấp CĐ thường xuyên thực hiện. Trong 5 năm (2008 - 2013) đã kết nạp thêm hơn 1,5 triệu đoàn viên CĐ và thành lập mới được 34.144 CĐCS [61, tr.6]. Việc CĐ chủ động, tích cực trong việc vận động, thành lập thí điểm mô hình CĐ ngành Dệt - may và vận động thành lập Nghiệp đoàn nghề cá ở những tỉnh thành phố ven biển đã mở ra phương thức tuyên truyền, vận động, kết nạp đoàn viên CĐ mới hiệu quả hơn. Những thành tích đạt được như trên là một minh chứng khẳng định vị trí, vai trò và trách nhiệm của GCCN và tổ chức CĐ dưới sự lãnh đạo của Đảng trong sự nghiệp CNH,HĐH đất nước.

82

Bên cạnh những kết quả đạt được, hoạt động của CĐVN dưới sự lãnh đạo của Đảng cũng còn tồn tại một số hạn chế. Công tác kiểm tra, thanh gia kiểm tra giám sát thực hiện chế độ, chính sách chưa đồng đều, có nơi còn hình thức. Công tác quản lý đoàn viên CĐ còn chưa thật chặt chẽ. Công tác vận động lao động nữ còn dàn trải. Công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển của GCCN và tổ chức CĐ trong thời kỳ đẩy mạnh CNH,HĐH đất nước.

Chƣơng 3 NHẬN XÉT VÀ KINH NGHIỆM LỊCH SỬ

3.1. Một số nhận xét

Qua quá trình tìm hiểu về sự lãnh đạo của Đảng với hoạt động của

CĐVN từ năm 2003 đến năm 2013, có thể rút ra một số nhận xét sau:

3.1.1. Ưu điểm và nguyên nhân

3.1.1.1. Ưu điểm

Một là, chủ trương lãnh đạo của Đảng đối với tổ chức CĐVN là đúng

đắn, phù hợp, ngày càng được đổi mới và đi vào chiều sâu.

Từ năm 2003 đến năm 2007, trên cơ sở phân tích tình hình thế giới với

xu thế toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc tế là một xu thế khách quan, sự

phát triển mạnh mẽ của khoa học và công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông

tin và công nghệ sinh học có những bước phát triển nhảy vọt, ngày càng trở

thành lực lượng sản xuất trực tiếp, thúc đẩy sự phát triển kinh tế tri thức, làm

chuyển dịch nhanh cơ cấu kinh tế, làm biến đổi sâu sắc các lĩnh vực của đời

sống xã hội. Ở trong nước, sau hơn 20 năm thực hiện đường lối đổi mới,

Đảng tiếp tục lãnh đạo công cuộc đổi mới, phát triển nền KTTT định hướng

XHCN, đẩy mạnh CNH,HĐH đất nước và hội nhập kinh tế quốc tế. Trước

những thời cơ và thách thức lớn của tình hình thế giới và trong nước, để

GCCN Việt Nam xứng đáng là lực lượng đi đầu trong sự nghiệp CNH,HĐH

đất nước và để tổ chức CĐVN có thể thực hiện tốt chức năng bảo vệ quyền,

lợi ích hợp pháp chính đáng của CNVCLĐ, Đảng ta đã xác định nhiệm vụ cơ

bản cho GCCN và tổ chức CĐ. Tại Đại hội lần thứ IX của Đảng (2001) xác

định nhiệm vụ của tổ chức CĐ trong giai đoạn mới là: “Đối với GCCN, coi

trọng việc phát triển số lượng và chất lượng, nâng cao giác ngộ và bản lĩnh

chính trị, trình độ học vấn và nghề nghiệp, thực hiện “trí thức hóa CN”, nâng

83

cao năng lực ứng dụng và sáng tạo công nghệ mới, lao động đạt năng suất,

chất lượng và hiệu quả ngày càng cao, xứng đáng là một lực lượng đi đầu

trong sự nghiệp CNH,HĐH đất nước và vai trò lãnh đạo cách mạng trong thời

kỳ mới. Bảo vệ quyền lợi, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của GCCN

trong điều kiện thực hiện cơ chế thị trường” [4, tr.124-125]. Quan điểm “trí

thức hóa CN” và “bảo vệ quyền lợi, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần

của GCCN trong điều kiện thực hiện cơ chế thị trường” là những nội dung rất

mới trong chủ trương, đường lối lãnh đạo tổ chức CĐVN của ĐCSVN.

Có thể nói, Đảng rất coi trọng vai trò lãnh đạo của mình đối với tổ chức

CĐ, đồng thời Đảng cũng nhận thức rõ được vai trò, vị trí rất quan trọng của

GCCN và tổ chức CĐ đối với việc thực hiện thắng lợi sự nghiệp CNH,HĐH

đất nước. Vì thế, tại Hội nghị lần thứ bẩy Ban Chấp hành Trung ương khóa IX

(2003), một lần nữa quan điểm trên được Đảng ta khẳng định: “Nâng cao giác

ngộ và bản lĩnh chính trị, trình độ học vấn và nghề nghiệp, bồi dưỡng tác phong

công nghiệp, thực hiện “trí thức hóa CN”. Giải quyết việc làm, giảm tối đa tỷ lệ

CN thiếu việc làm và thất nghiệp. Thực hiện tốt pháp luật lao động, bảo hộ lao

động và việc chăm sóc, phục hội sức khỏe cho CN…”[5, tr.15].

Đại hội lần thứ X của Đảng (2006) diễn ra trong bối cảnh Việt Nam trở

thành thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) đánh dấu bước

tiến vượt bậc trong quá trình hội nhập kinh tế của nước ta, tạo ra thời cơ mới

trên con đường phát triển đất nước, nhưng cũng đặt ra những thách thức to

lớn. Trong hội nhập kinh tế quốc tế, Đảng, Nhà nước, CNVCLĐ ngày càng

nhận thức rõ vai trò to lớn của tổ chức CĐ, ủng hộ cho việc thành lập và phát

triển tổ chức CĐ, đặc biệt trong khu vực ngoài nhà nước để CĐ bảo vệ tốt

hơn quyền, lợi ích cho CNVCLĐ. Trên cơ sở nhận thức đó, Đại hội lần thứ X

của Đảng đã đề ra chủ trương mới cho tổ chức CĐ đó là “Xây dựng tổ chức,

phát triển đoàn viên CĐ, nghiệp đoàn đều khắp ở các cơ sở sản xuất kinh

84

doanh thuộc các thành phần kinh tế” [6, tr.118].

Từ năm 2008 đến năm 2013, với sự chuyển biến nhanh chóng của tình

hình thế giới và trong nước, để xây dựng GCCN Việt Nam lớn mạnh, tiếp tục

thực hiện sứ mệnh lịch sử của mình thông qua đội tiên phong là ĐCSVN

trong việc lãnh đạo thực hiện hai nhiệm vụ quan trọng là xây dựng và bảo vệ

Tổ quốc Việt Nam XHCN, tại Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung

ương Đảng khóa X (2008), Đảng ta đã ra Nghị quyết “Tiếp tục xây dựng

GCCN Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh CNH,HĐH đất nước”. Nghị quyết đã

đánh giá thực trạng tình hình GCCN Việt Nam trong những năm đổi mới, đưa

ra định nghĩa về GCCN Việt Nam, đồng thời xác định rõ vai trò, vị trí của

GCCN và đề ra các quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp để tiếp tục

xây dựng GCCN Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh CNH,HĐH đất nước và hội

nhập quốc tế. Nghị quyết ra đời có ý nghĩa hết sức quan trọng bởi Nghị quyết

này có ý nghĩa quyết định đến sự lớn mạnh của GCCN, khẳng định sự quan

tâm của Đảng đến GCCN và CĐVN trong giai đoạn cách mạng mới của đất

nước. Đồng thời, Nghị quyết đánh dấu bước phát triển quan trọng về lý luận

và thực tiễn của Đảng, khẳng định rõ quan điểm của Đảng về GCCN, là giai

cấp lãnh đạo cách mạng thông qua đội tiên phong là ĐCSVN, là giai cấp tiên

phong đi đầu trong sự nghiệp CNH,HĐH đất nước và hội nhập quốc tế, có sứ

mệnh lịch sử là xây dựng thành công CNXH trên đất nước Việt Nam.

Nghị quyết Đại hội lần thứ XI (2011) của Đảng tiếp tục nhấn mạnh

nhiệm vụ đào tạo, bồi dưỡng, phát triển GCCN Việt Nam lớn mạnh hơn cả về

số lượng, chất lượng, bản lĩnh chính trị, tác phong công nghiệp, kỷ luật lao

động, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp CNH,HĐH và hội nhập quốc tế. Đồng

thời phát huy vai trò lãnh đạo cách mạng của GCCN và vai trò của tổ chức

CĐ trong việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của NLĐ, nâng cao

85

cả đời sống vật chất và tinh thần của CN.

Như vậy, quá trình từ năm 2003 đến năm 2013 đánh dấu những thay đổi

mới mẻ, đúng đắn, hợp lý, theo kịp những chuyển biến nhanh chóng tình hình

thế giới, khu vực và đất nước cũng như hoạt động thực tiễn của phong trào

CN và tổ chức CĐVN. Điều đó thể hiện năng lực tư duy lãnh đạo của Đảng

rất kịp thời.

Hai là, CĐVN đã cụ thể hóa chủ trương của Đảng, kịp thời đề ra được

mục tiêu, phương hướng hoạt động phù hợp.

Là một tổ chức chính trị - xã hội do Đảng trực tiếp lãnh đạo, mục tiêu,

phương hướng hoạt động mà TLĐLĐVN đặt ra chính là việc cụ thể hóa chủ

trương của Đảng, là sự phản ánh chân thực và khách quan những nội dung,

chủ trương, đường lối của Đảng lãnh đạo CĐVN.

Từ năm 2003 đến năm 2007, tại Đại hội CĐVN lần thứ IX (2003) đã xác

định mục tiêu và phương hướng tổng quát của tổ chức CĐVN từ năm 2003

đến năm 2008 là: “Xây dựng GCCN vững mạnh, xứng đáng là lực lượng

nòng cốt, đi đầu trong sự nghiệp CNH,HĐH đất nước và vai trò lãnh đạo cách

mạng trong thời kỳ đổi mới; củng cố và phát triển sâu rộng khối đại đoàn kết

toàn dân tộc trong Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, trên cơ sở liên minh vững

chắc giữa GCCN với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức; tổ chức các phong

trào thi đua yêu nước sôi nổi, rộng khắp, thiết thực và có hiệu quả trong

CNVCLĐ; đẩy mạnh phát triển đoàn viên và tổ chức CĐ trong các thành

phần kinh tế; nâng cao năng lực và trình độ cán bộ CĐ, đổi mới nội dung và

phương thức hoạt động, xây dựng tổ chức CĐ vững mạnh; tham gia xây dựng

Đảng, Nhà nước trong sạch, vững mạnh; mở rộng và tăng cường hợp tác quốc

tế, góp phần thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, xây

dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN”. Khẩu hiệu hành động

được xác định là: “Xây dựng GCCN và tổ chức CĐ vững mạnh, chăm lo bảo

86

vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của CNVCLĐ, góp phần tăng

cường đại đoàn kết toàn dân tộc, thực hiện thắng lợi sự nghiệp CNH,HĐH đất

nước”[44, tr.600].

Trên tinh thần nắm bắt chủ trương, đường lối của Đảng, CĐVN đã chủ

động, kịp thời phân tích đặc điểm tình hình thế giới, khu vực, trong nước,

thực tiễn hoạt động của phong trào CN và CĐVN, từ đó đưa ra mục tiêu,

phương hướng phù hợp với quan quan điểm của Đảng tại Đại hội lần thứ IX

(2001). Tuy nhiên, cũng có thể thấy mục tiêu, phương hướng hoạt động của

CĐ những năm 2003 - 2008 vẫn dừng lại ở việc đề ra mục tiêu, phương

hướng hoạt động chung chung, dàn trải, chưa xác định được nội dung hoạt

động trọng tâm của tổ chức mình trong trong điều kiện thực hiện cơ thế thị

trường định hướng XHCN và hội nhập kinh tế quốc tế.

Từ năm 2008 đến năm 2013, CĐVN đã có bước phát triển căn bản trong

tư duy, nhận thức về nội dung hoạt động của tổ chức CĐ trong tình hình mới.

Từ việc xác định mục tiêu còn tương đối chung chung, đến Đại hội CĐ lần

thứ X (2008), lần thứ XI (2013), TLĐLĐVN đã xác định rõ ràng mục tiêu,

nhiệm vụ của tổ chức CĐ, đó là tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức hoạt

động của tổ chức CĐ, hướng về cơ sở, lấy đoàn viên, CNVCLĐ làm trọng

tâm, thực hiện tốt chức năng đại diện, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính

đáng cho đoàn viên, CNVCLĐ vì sự phát triển bền vững của đất nước.

Đại hội lần thứ X CĐVN mới chỉ xác định khẩu hiệu hành động là “Đổi

mới, sáng tạo; bảo vệ quyền lợi hợp pháp của đoàn viên, CNVCLĐ; vì sự

phát triển ổn định bền vững của đất nước” thì đến Đại hội lần thứ XI CĐVN

đã phát triển thành phương châm hành động là: “Vì quyền, lợi ích hợp pháp,

chính đáng của đoàn viên và NLĐ, vì sự phát triển bền vững của đất nước,

tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của CĐ” [76, tr.85, 86].

Sự chuyển hướng trong việc xác định mục tiêu, phương hướng hoạt động

87

trọng tâm của tổ chức CĐ vừa phù hợp với chủ trương chung của Đảng, vừa

phù hợp với tình hình thực tiễn của tổ chức CĐVN trong điều kiện thế giới,

khu vực và trong nước biến chuyển nhanh chóng. Mục tiêu, phương hướng

hoạt động cho tổ chức CĐ mà TLĐLĐVN đề ra thể hiện rõ sự vận dụng đúng

đắn, linh hoạt chủ trương, đường lối lãnh đạo của ĐCSVN đối với CĐVN.

Ba là, CĐVN có những biện pháp chủ động, sáng tạo và khoa học thực

hiện hiệu quả chủ trương lãnh đạo của Đảng.

Trên cơ sở những mục tiêu, phương hướng đã đề ra trong từng giai đoạn,

tổ chức CĐVN đã đưa ra những biện pháp thực hiện cụ thể qua các kỳ Đại hội

CĐ lần thứ IX, X, XI. Các biện pháp thực hiện được bổ sung, hoàn thiện hơn

thông qua các kỳ Đại hội cho phù hợp với tình hình thực tiễn của thế giới, khu

vực, trong nước và hoạt động của phong trào CN, của tổ chức CĐ. Một số

biện pháp cơ bản được tổ chức CĐVN đề ra là:

- Xây dựng chiến lược hoạt động của tổ chức CĐVN phù hợp với từng giai

đoạn cách mạng, với đặc điểm cụ thể của mỗi ngành, mỗi địa phương và cơ sở.

Xác định rõ nhiệm vụ trọng tâm cần tập trung chỉ đạo thực hiện trong từng thời

gian, tránh dàn trải. Tập trung tham gia giải quyết có hiệu quả những vấn đề bức

xúc của CNVCLĐ. Khắc phục bệnh quan liêu, hành chính trong hoạt động CĐ.

- Đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác, tập trung hướng về

cơ sở, sâu sát với thực tế lao động sản xuất, công tác của đoàn viên, NLĐ.

Tăng cường công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn hoạt động CĐ

nhằm rút ra những kinh nghiệm về nội dung, phương thức hoạt động trong

điều kiện thực hiện nền KTTT định hướng XHCN và hội nhập quốc tế.

- Phát huy trí tuệ, tính tích cực, sáng tạo của đội ngũ cán bộ CĐ, của

đông đảo đoàn viên, CNVCLĐ trong hoạt động CĐ. Tranh thủ sự chỉ đạo

của các cơ quan Đảng, sự phối hợp, hợp tác giúp đỡ của các cơ quan nhà

nước. Tập trung chỉ đạo và đầu tư kinh phí thích hợp cho các hoạt động của

88

CĐVN. Nâng cao chất lượng và đề cao trách nhiệm trong việc thực hiện chế độ

thông tin, báo cáo của lãnh đạo CĐ các cấp. Tiếp tục đẩy mạnh ứng dụng công

nghệ thông tin trong hoạt động CĐ.

Bốn là, quán triệt chủ trương của Đảng, hoạt động của tổ chức CĐVN

ngày càng đi vào chiều sâu.

Công tác tuyên truyền, giáo dục, đoàn viên và NLĐ có nhiều đổi mới về

nội dung và hình thức. Nội dung tuyên truyền cụ thể, sát thực, hiệu quả, đi

vào chiều sâu. Cụ thể là: tập trung vào tuyên truyền, triển khai có hiệu quả các

nghị quyết của Đảng, nhất là Nghị quyết Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành

Trung ương khóa X về “Tiếp tục xây dựng GCCN Việt Nam thời kỳ đẩy

mạnh CNH,HĐH đất nước”. Tổ chức sâu rộng Cuộc vận động “Học tập và

làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền,

phổ biến giáo dục pháp luật trong CNVCLĐ, đặc biệt là CN, lao động ở các

khu vực doanh nghiệp ngoài nhà nước, có vốn đầu tư nước ngoài; tuyên

truyền vận động ngư dân tham gia thành lập Nghiệp đoàn nghề cá và tuyên

truyền, triển khai thực hiện Chương trình phát triển đoàn viên CĐ, v.v..

Hình thức và biện pháp tuyên truyền đa dạng hóa, có nhiều đổi mới phù

hợp với thực tiễn cơ sở, bám sát nhu cầu đoàn viên, NLĐ. Các phương tiện

truyền thông của CĐ và các chương trình phối hợp với các cơ quan báo, đài,

thông tấn xã của Trung ương và địa phương thường xuyên tuyên truyền biên

soạn tờ gấp, sổ tay bỏ túi dành cho CN, lao động, cán bộ CĐCS. Phát triển hệ

thống truyền thanh nội bộ với nội dung hỏi đáp ngắn gọn, dễ hiểu. Tổ chức

các chương trình “Giao lưu - đối thoại” với sự tham gia của các ngành chức

năng nhằm giải đáp những vướng mắc của CNVCLĐ. Cử cán bộ CĐ đến

tuyên truyền cho CN lao động tại khu nhà trọ. Xây dựng các tủ sách pháp luật

với hàng trăm đầu sách. Thành lập hệ thống các Nhà văn hóa Lao động,

“Điểm sinh hoạt văn hóa CN”. Các phương tiện khoa học và công nghệ hiện

89

đại cũng được đưa vào hỗ trợ tuyên truyền như sử dụng máy chiếu, chương

trình phần mềm ứng dụng, thông tin cập nhật thường xuyên, hình ảnh minh

họa cụ thể, sinh động, nội dung tuyên truyền đạt hiệu quả rõ rệt.

Trong các giai đoạn, CĐVN tiếp tục sử dụng thường xuyên và nâng cao

chất lượng các phương tiện truyền thông của CĐ, các chương trình phối hợp

với các cơ quan báo, đài, thông tấn xã của Trung ương và địa phương làm

công tác tuyên truyền mang lại hiệu quả cao. Từ năm 2011, chuyên mục “Lao

động và việc làm” trên Đài Truyền hình Việt Nam đã được đổi tên thành “Lao

động và CĐ”. Cũng từ năm 2011, “Tháng CN” chính thức được CĐ phát

động thực hiện hàng năm gắn liền với kỷ niệm ngày Quốc tế lao động, thu hút

hàng triệu lượt người tham gia, đánh dấu bước phát triển trong đổi mới hình

thức phổ biến, tuyên truyền, giáo dục và tập hợp đoàn viên, NLĐ.

CĐ tích cực, chủ động trong việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính

đáng của CNVCLĐ. Từ năm 2003 đến năm 2013, các cấp CĐ đã tích cực,

chủ động tổ chức các hoạt động nhằm thực hiện chức năng đại diện, bảo vệ

quyền, lợi ích hợp pháp chính đáng của đoàn viên, NLĐ. Nổi bật là tổ chức

CĐ đã tập trung nghiên cứu, xây dựng dự thảo Luật CĐ (sửa đổi) và tham gia

xây dựng dự thảo Bộ luật Lao động (sửa đổi). Hai luật trên đã được Quốc hội

thông qua tại kỳ họp thứ ba, khóa XIII, tạo cơ sở pháp lý cho hoạt động và sự

phát triển của tổ chức CĐ trong giai đoạn tới.

Việc thực hiện Quy chế dân chủ, số lượng và chất lượng ký kết thỏa ước

lao động tập thể và triển khai thực hiện thỏa ước lao động tập thể ở cơ sở tăng

lên, nhất là ở các doanh nghiệp ngoài nhà nước. Đặc biệt, TLĐLĐVN đã phối

hợp với Bộ Lao động Thương binh và Xã hội thực hiện thí điểm thành công

việc ký kết thỏa ước lao động tập thể ngành Dệt - may Việt Nam, ngành Dệt -

may Bình Dương. Hoạt động tư vấn pháp luật cho CNVCLĐ được đổi mới,

nâng cao chất lượng, phù hợp với tình hình mới. Hoạt động của Ban Thanh

90

tra nhân dân ở cơ sở đã có bước tiến bộ mới.

Từ yêu cầu của thực tế, nhiều CĐ các cấp trên cơ sở đã cử cán bộ hỗ trợ,

hướng dẫn, giúp đỡ CĐCS tham gia với người sử dụng lao động xây dựng

thang bảng lương, định mức lao động của doanh nghiệp theo đúng quy định

của pháp luật. CĐ một số địa phương đã chủ động tham gia với chính quyền

có biện pháp xử lý tình trạng chủ doanh nghiệp nước ngoài bỏ trốn, nhằm bảo

vệ quyền lợi cho đoàn viên, NLĐ. Nhiều địa phương, CĐ còn vận động chủ

doanh nghiệp tăng tiền lương, tiền làm thêm giờ, tiền ăn ca, các loại phụ cấp.

Năm là, đổi mới nội dung, phương thức và nâng cao chất lượng hoạt động

của tổ chức CĐ và đội ngũ cán bộ CĐ, phát triển mạnh đoàn viên.

Từ năm 2003 đến năm 2013, các cấp CĐ đã có nhiều đổi mới nội dung,

phương thức và nâng cao chất lượng hoạt động của tổ chức CĐ, hướng mạnh

về cơ sở và lấy CNVCLĐ làm đối tượng vận động chính. Chất lượng của đội

ngũ cán bộ CĐ ngày một nâng cao, ngày càng đáp ứng được yêu cầu của

nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn mới. Để mở rộng đối tượng tập hợp và

đổi mới hoạt động, Đoàn Chủ tịch TLĐLĐVN đã thí điểm thành lập CĐ

ngành Dệt - may địa phương, thành lập Nghiệp đoàn nghề cá, làm cơ sở cho

việc thương lượng, ký kết thỏa ước lao động tập thể ngành, địa phương, tăng

cường mối liên kết giữa CĐ cấp trên với CĐCS và NLĐ, nâng cao trách

nhiệm của CĐ cấp trên trong việc hướng dẫn, giúp đỡ CĐCS thực hiện. Mô

hình đổi mới phát triển đoàn viên sau 5 năm thực hiện thí điểm đã mở ra triển

vọng mới về da dạng hóa cách thức phát triển đoàn viên, vận động thành lập

CĐCS. Ngoài phương pháp phổ biến vẫn đang dùng thì CĐ cấp trên cơ sở có

thể tuyên truyền, vận động, kết nạp CN, lao động vào CĐ ở ngoài doanh

nghiệp, trong các khu nhà trọ. Xây dựng bồi dưỡng họ trở thành đoàn viên

nòng cốt để vận động số đông lao động khác trong doanh nghiệp gia nhập tổ

91

chức CĐ.

Nội dung và phương thức hoạt động CĐ có bước đổi mới, đã làm rõ hơn

về mô hình tổ chức, nội dung hoạt động, nhiệm vụ từng cấp CĐ, từng loại

hình CĐCS. Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ CĐ đã có chuyển biến tích

cực theo hướng đa dạng hóa hình thức, đổi mới nội dung, chương trình,

phương pháp đào tạo. Tổ chức nhiều lớp tập huấn ngắn ngày theo chuyên đề,

chú trọng đào tạo bồi dưỡng cán bộ CĐ ở cấp cơ sở, nhất là những khu vực

doanh nghiệp ngoài nhà nước, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.

Tóm lại, dưới sự lãnh đạo của Đảng từ năm 2003 đến năm 2013, hoạt

động của tổ chức CĐVN ngày một đổi mới về nội dung và phương thức hoạt

động, đem lại hiệu quả ngày càng cao và thiết thực cho CNVCLĐ nói riêng

và sự nghiệp CNH,HĐH đất nước nói chung. Từ đó, khẳng định sự đúng đắn

trong đường lối của Đảng trong lãnh đạo tổ chức CĐVN.

3.1.1.2. Nguyên nhân

Tình hình thế giới, khu vực có nhiều chuyển biến, đem đến cho hoạt

động của tổ chức CĐ những thời cơ lớn. Mặc dù còn những xung đột, tranh

chấp khu vực, nhiều diễn biến phức tạp, song trong hoàn cảnh đó, hoạt động

của GCCN và tổ chức CĐVN có nhiều điều kiện thuận lợi lớn trong việc tiếp

cận khoa học và công nghệ, cơ hội học tập nâng cao trình độ chuyên môn, cơ

hội tiếp cận việc làm và nâng cao thu nhập.

Những thành công trong hoạt động của tổ chức CĐVN có được một

phần không nhỏ là do có sự lãnh đạo của Đảng, sự quan tâm phối hợp của

Nhà nước, các bộ, ngành, các cấp ủy đảng và chính quyền, Mặt trận, các tổ

chức chính trị - xã hội và các cấp ngành. Đảng và Nhà nước đã đề ra đường

lối, chính sách đúng đắn và lãnh đạo CĐ thực hiện có hiệu quả đường lối,

chính sách đó.

Tổ chức CĐVN đã tích cực triển khai những định hướng lớn theo Nghị

92

quyết của Đảng trong các kỳ đại hội. Tổ chức đã nắm bắt nhanh nhạy, chủ

động về tình hình hoạt động thực tiễn của GCCN và CĐ trong nước, quán

triệt sâu sắc những chủ trương, đường lối lãnh đạo của Đảng đối với CĐVN.

CĐVN đã phát huy được tinh thần năng động, sáng tạo của các cấp CĐ

và tinh thần lao động cần cù, sáng tạo, nỗ lực phấn đấu của đông đảo

CNVCLĐ trong cả nước.

3.1.2. Hạn chế và nguyên nhân

3.1.2.1. Hạn chế

Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, trước yêu cầu của sự nghiệp phát

triển nền KTTT định hướng XHCN, đẩy mạnh CNH,HĐH đất nước và hội

nhập quốc tế, hoạt động của tổ chức CĐVN vẫn còn có những hạn chế nhất

định.

Một là, sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước đối với hoạt động

của CĐVN chưa ngang tầm với vị trí, vai trò của tổ chức CĐ.

Ngay từ khi ra đời cho đến nay, ĐCSVN luôn quan tâm, đề ra chủ

trương, đường lối xây dựng và phát triển tổ chức CĐVN ngày một vững

mạnh, xứng đáng là lực lượng nòng cốt, đi đầu trong sự nghiệp CNH,HĐH,

hội nhập quốc tế. Song, sự quan tâm của Đảng đối với GCCN và tổ chức

CĐVN chưa ngang tầm với vị trí, vai trò của CĐ. Đảng chưa có chiến lược

xây dựng, phát triển GCCN hiện đại và tổ chức CĐ như là một bộ phận của

chiến lược phát triển kinh tế - xã hội để thực hiện CNH,HĐH đất nước và hội

nhập quốc tế. Các nghị quyết của Đảng về xây dựng GCCN và tổ chức

CĐVN chưa được triển khai sâu rộng trong toàn bộ hệ thống tổ chức Đảng và

trong hệ thống chính trị nước ta. Do tập trung cho nhiệm vụ phát triển kinh tế

- xã hội hoặc nhiệm vụ chuyên môn mà đa số các tổ chức cơ sở Đảng và các

tổ chức trong hệ thống chính trị chưa quan tâm triển khai chủ trương, nghị

quyết về GCCN và tổ chức CĐ đến tất cả các đảng viên, các ngành, các cấp.

93

Công tác phát triển Đảng, đào tạo cán bộ xuất thân từ CN chưa được chú ý

đúng mức, tỷ lệ đảng viên trong CN, tỷ lệ cán bộ Đảng, Nhà nước, các đoàn

thể chính trị - xã hội từ CN còn thấp. Đảng chưa tập trung lãnh đạo để tạo

được sự phối hợp đồng bộ, thống nhất giữa sự lãnh đạo của Đảng, vai trò

quản lý của Nhà nước và phát huy sức mạnh của các tổ chức chính trị - xã hội

trong triển khai thực hiện xây dựng GCCN và tổ chức CĐ nên hiệu quả chưa

cao.

Công tác quản lý của Nhà nước còn hạn chế, yếu kém, đặc biệt là trong

lĩnh vực ban hành và giám sát việc thực thi chính sách, pháp luật về lao động.

Việc xây dựng và hoàn thiện chế độ, chính sách, pháp luật lao động còn

chậm. Hệ thống chính sách, pháp luật của nước ta còn thiếu đồng bộ. Cụ thể

như Bộ luật Lao động và những văn bản pháp luật về lao động nói chung về

giải quyết tranh chấp lao động, đình công, mặc dù đã được sửa đổi, bổ sung

và từng bước được thực hiện, song đã và đang bộc lộ nhiều hạn chế, chưa

theo kịp với thực tiễn. Nhiều quy định về trình tự, thủ tục đình công, chủ thể

lãnh đạo đình công tỏ ra khó thực thi. Còn thiếu đồng bộ, nhất quán trong tổ

chức thực hiện cơ chế, chính sách của Nhà nước đối với việc chăm lo đến lợi

ích của NLĐ. Trong quá trình chuyển sang phát triển nền KTTT định hướng

XHCN, Nhà nước chú trọng nhiều đến phát triển kinh tế, có lúc, có nơi Nhà

nước coi trọng lợi ích chung, lợi ích người sử dụng lao động, còn e ngại, ảnh

hưởng đến môi trường đầu tư, nên chưa thực sự quan tâm đến lợi ích của CN,

dẫn đến chủ trương, chính sách đối với NLĐ chậm đổi mới và chứa đựng

những bất cập.

Công tác đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ học vấn, chuyên môn

nghề nghiệp, công tác giáo dục pháp luật, giáo dục truyền thống cách mạng,

đạo đức nghề nghiệp cho CN, lao động, nhất là CN, lao động ở các doanh

nghiệp ngoài nhà nước, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chưa được

94

chú trọng, còn nhiều hạn chế, chưa tạo được sự phối hợp đồng bộ giữa các

ngành, các cấp nên hiệu quả chưa cao. Công tác kiểm tra, giám sát thực hiện

các chủ trương, chính sách đối với CN, lao động chưa được quan tâm thường

xuyên, đúng mức. Một số cơ chế, chính sách đối với CN, CĐ đề ra khá tốt,

nhưng trong tổ chức thực hiện còn chậm, sai lệch, làm trở ngại cho thực hiện

vai trò, chức năng của CĐ. Điển hình như đã có cơ chế bảo đảm quyền dân

chủ trực tiếp, dân chủ đại diện cho CN thông qua tổ chức CĐ ở cơ sở, Đại hội

CN, viên chức, Hội nghị CN, lao động, Ban Thanh tra nhân dân, thương

lượng ký kết thỏa ước lao động tập thể, nhưng trong thực tế thì điều kiện để

CĐ thực hiện quyền, nghĩa vụ của mình trong các lĩnh vực trên chưa được

quan tâm đúng mức.

Hai là, hoạt động của CĐVN còn tồn tại những bất cập trong quá

trình triển khai cụ thể chủ trương của Đảng, phương hướng, nhiệm vụ của

tổ chức CĐ.

Hoạt động tuyên truyền, giáo dục, vận động CNVCLĐ về chủ trương

của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và các nghị quyết của CĐ mặc

dù đã được triển khai, sử dụng nhiều kênh thông tin, tuy nhiên thông tin còn ít

hấp dẫn. Nội dung tuyên truyền, giáo dục còn nặng về lý luận, chưa sát với

thực tiễn và yêu cầu cụ thể, đa dạng của từng loại hình cơ sở, mới chỉ tập

trung nhiều ở khu vực cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp nhà nước. Việc tuyên

truyền, giáo dục chủ yếu mới chỉ đến được với cán bộ CĐCS, chưa đến được

với số đông CN, lao động sản xuất trực tiếp. Chưa có biện pháp thích hợp để

nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền pháp luật, nhất là ở các doanh nghiệp

ngoài nhà nước, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, nên kết quả đạt được

chưa cao. Việc nắm bắt dư luận, xử lý kịp thời diễn biến tư tưởng trong đoàn

viên, NLĐ còn hạn chế. Công tác nghiên cứu lý luận và đội ngũ làm công tác

95

nghiên cứu lý luận về CN, CĐ còn hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu thực

tiễn của phong trào CN, tổ chức và hoạt động CĐ trong tình hình mới. Chất

lượng các đề tài nghiên cứu chậm được ứng dụng trong thực tiễn.

Hoạt động bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng CNVCLĐ của tổ

chức CĐVN trong những năm vừa qua đã được thực hiện. CĐ ngày càng phát

huy được vị trí, vai trò của mình là tổ chức đại diện cho cán bộ, CNVCLĐ.

Tuy nhiên, trong hoạt động thực tiễn, các hoạt động bảo vệ quyền, lợi ích hợp

pháp, chính đáng CNVCLĐ của tổ chức CĐ vẫn còn một số mặt chưa thực

hiện tốt. Chất lượng tham gia xây dựng, hoàn thiện một số chính sách, pháp

luật liên quan đến đoàn viên, NLĐ và CĐ chưa cao. Vai trò tham gia quản lý,

đại diện, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của NLĐ ở một số

ngành, địa phương, cơ sơ hiệu quả còn thấp. Công tác kiểm tra, tham gia kiểm

tra, giám sát thực hiện chế độ, chính sách chưa đồng đều, có nơi còn hình

thức. CĐCS chưa lãnh đạo được đình công theo quy định của pháp luật, tham

gia giải quyết tranh chấp lao động, ngừng việc tập thể, đình công còn bị động,

lúng túng. Hoạt động tư vấn pháp luật, tư vấn đào tạo nghề, giới thiệu việc

làm chất lượng, hiệu quả chưa đáp ứng được yêu cầu của NLĐ.

Công tác phát triển đoàn viên và thành lập CĐCS tuy phát triển nhanh,

nhưng chất lượng đoàn viên, chất lượng CĐCS ở một số nơi chưa đáp ứng

được yêu cầu đề ra. Tốc độ phát triển đoàn viên, thành lập CĐCS khu vực

doanh nghiệp ngoài nhà nước, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chưa

theo kịp tốc độ phát triển của doanh nghiệp. Công tác khảo sát, dự báo tình

hình phát triển doanh nghiệp và CN, lao động chưa được thực hiện nghiêm

túc và khoa học, vì vậy xây dựng kế hoạch phát triển đoàn viên chưa sát với

tình hình thực tế, còn mang tính ước lệ, thiếu tính dự báo, nên một số đơn vị

có tỷ lệ phát triển đoàn viên ồ ạt vượt nhiều lần so với chỉ tiêu được giao hoặc

cũng có những đơn vị chưa hoàn thành kế hoạch đề ra. Công tác quản lý đoàn

96

viên CĐ còn yếu kém, chưa nắm chắc sự tăng giảm đoàn viên trong từng địa

bàn, khu vực. Việc thành lập Ban Chỉ đạo phát triển đoàn viên của các cấp

CĐ nhiều nơi còn mang tính hình thức, hiệu quả chỉ đạo và tổ chức thực hiện

thấp. Một số đơn vị có Ban Chỉ đạo phát triển đoàn viên nhưng mọi việc lại

“khoán trắng” cho ban tổ chức.

Chất lượng hoạt động ở một số CĐCS còn yếu, hoạt động còn hình thức,

chưa tổ chức được những hoạt động thiết thực đối với đoàn viên và NLĐ,

chưa lôi cuốn được đông đảo người lao động tham gia các hoạt động do CĐ

tổ chức. Đối với khu vực doanh nghiệp ngoài nhà nước, việc thực hiện Quy

chế dân chủ còn gặp nhiều khó khăn, bất cập, vai trò của CĐCS ở một số nơi

chưa tương xứng với yêu cầu đề ra. Tỷ lệ doanh nghiệp có thỏa ước lao động

tập thể tăng chậm, chất lượng thỏa ước lao động tập thể ở nhiều nơi còn thấp,

mang tính hình thức, đối phó. Hàng năm, vẫn còn xảy ra hàng trăm vụ đình

công, dừng việc tập thể của CN, lao động không do CĐ tổ chức, mà hầu hết

những yêu sách của CN, lao động đều xuất phát từ quyền và lợi ích hợp pháp,

chính đáng của NLĐ, đang bị chủ doanh nghiệp từ chối, không thực hiện theo

quy định của pháp luật. Khu vực ngoài nhà nước còn nhiều CĐCS không thu

được kinh phí CĐ, thiếu kinh phí để tổ chức hoạt động. Các hoạt động của

CĐCS đều phải xin phép chủ doanh nghiệp mới được triển khai. Việc phân

loại CĐCS hàng năm ở một số ngành, địa phương, CĐ cấp trên trực tiếp cơ sở

mang tính hình thức, chạy theo chỉ tiêu thi đua, chưa sát với thực tiễn hoạt

động của CĐCS.

Đội ngũ cán bộ CĐCS còn nhiều hạn chế về phẩm chất và năng lực cũng

như bản lĩnh chính trị để đấu tranh bảo vệ quyền, lợi ích của NLĐ. Nội dung,

phương pháp đào tạo, bồi dưỡng cán bộ CĐ chưa gắn với tiêu chuẩn, quy

hoạch, sử dụng cán bộ. Công tác quản lý cán bộ ở một số ngành, địa phương

97

chưa tốt; việc luân chuyển cán bộ của CĐ cấp trên cơ sở và cử cán bộ CĐ đi

thực tế cơ sở còn ít. Tỷ lệ cán bộ nữ chủ chốt trong các cấp CĐ còn thấp, chưa

tương xứng với tiềm năng và tỷ lệ nữ CNVCLĐ.

Ba là, sự phối hợp hoạt động giữa tổ chức CĐ với các tổ chức chính trị -

xã hội và các cơ quan chức năng còn thiếu chặt chẽ.

Trên thực tế, trong quá trình triển khai thực hiện các nghị quyết và

Chương trình hành động của CĐ ngành, địa phương, của Tỉnh ủy, Thành ủy

còn chậm, thiếu đồng bộ; công tác thanh tra, kiểm tra, đôn đốc chưa thường

xuyên. Sự chỉ đạo phối hợp của một số cấp ủy Đảng, một số bộ, ngành với tổ

chức CĐ còn thiếu đồng bộ. Nhiều cấp ủy Đảng chưa quan tâm đầy đủ việc

triển khai thực hiện, chưa cụ thể hóa thành kế hoạch và chương trình hành

động. Chưa có sự phân công rõ về vị trí, chức năng, nhiệm vụ của các chủ thể

tham gia hoạt động của tổ chức CĐ. Các hoạt động của CĐVN đã có sự liên

hệ với các tổ chức chính trị - xã hội, tuy nhiên sự liên hệ còn ít và thiếu chặt

chẽ. Một số tổ chức chính trị - xã hội coi nhiệm vụ xây dựng GCCN và tổ

chức CĐ là việc riêng của tổ chức CĐ.

Bốn là, hoạt động của CĐVN đôi lúc còn thụ động, thiếu linh hoạt.

Đại hội lần thứ XI CĐVN đã đề ra phương châm hành động cho tổ chức

CĐ là: “Vì quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của đoàn viên và NLĐ, vì sự

phát triển bền vững của đất nước; tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức hoạt

động của CĐ”. Mặc dù, CĐVN đã xác định được vấn đề trọng tâm, song

trong quá trình thực hiện vẫn chưa thực hiện tốt nội dung phương châm hành

động đã được đề ra. Các chức năng của CĐ còn chậm được thể chế hóa; chưa

vận dụng linh hoạt cho phù hợp với tổ chức và hoạt động của CĐ trong từng

thành phần kinh tế. Trên thực tế, việc triển khai chức năng bảo vệ quyền, lợi

ích hợp pháp, chính đáng của CNVCLĐ mới chỉ được thực hiện tốt ở các đơn

vị, doanh nghiệp khu vực nhà nước, còn ở khu vực doanh nghiệp ngoài nhà

98

nước, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chức năng trên thực hiện chỉ ở

một mức độ nhất định, hiệu quả chưa cao. Các phương pháp tuyên truyền có

được bổ sung nhưng chưa được thường xuyên. Việc xác định nhiệm vụ, phân

công, phân cấp chỉ đạo đối với CĐ cấp trên cơ sở, CĐ ngành Trung ương và

Liên đoàn Lao động địa phương còn một số vướng mắc chậm được giải

quyết. Tình trạng hành chính, quan liêu, chưa được khắc phục triệt để trong

cán bộ CĐ. Tài chính của CĐ còn gặp nhiều khó khăn, không đủ kinh phí cho

hoạt động, trong khi đó lại vẫn còn có tư tưởng trông chờ, thiếu chủ động

trong việc đặt mối quan hệ với các nhà tài trợ bên ngoài.

Năm là, đội ngũ cán bộ làm công tác CĐ còn bộc lộ một số hạn chế, chưa

đáp ứng được yêu cầu và nhiệm vụ mới.

CĐVN đã chú ý quan tâm đào tạo đội ngũ cán bộ làm công tác CĐ và có

những chuyển biến, nhưng nhìn chung chất lượng cán bộ chuyên trách về hoạt

động của CĐ còn hạn chế, về số lượng chưa đảm bảo yêu cầu, nhất là trong

giai đoạn đẩy mạnh CNH,HĐH đất nước và hội nhập quốc tế. Nội dung đào

tạo, bồi dưỡng cán bộ CĐ từ đào tạo chính quy đến tập huấn ngắn ngày chưa

thực sự phù hợp với những yêu cầu thực tế phong trào CNVCLĐ và hoạt

động của CĐ. Đội ngũ cán bộ CĐCS chủ yếu là không chuyên trách, lại phải

kiêm nhiệm nhiều công việc, do đó có ít thời gian dành cho hoạt động CĐ và

còn phụ thuộc vào người sử dụng lao động. Việc tuyên truyền nâng cao trình

độ, nhận thức cho đội ngũ cán bộ CĐ về chủ trương, đường lối của Đảng,

chính sách, pháp luật của Nhà nước, nghị quyết của CĐ chưa được tiến hành

thường xuyên, liên tục.

3.1.2.2. Nguyên nhân

Vấn đề xây dựng GCCN và tổ chức CĐ tuy đã được Đảng và Nhà nước

quan tâm nhưng chưa đồng bộ và thiếu cụ thể. Chẳng hạn như, đã 5 năm thực

hiện Nghị quyết số 20 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X về “Xây

99

dựng GCCN Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh CNH,HĐH đất nước”, nhưng những

vấn đề bức xúc đã nêu trong Nghị quyết đến nay vẫn chưa được giải quyết

thỏa đáng, nhiều cơ chế, chính sách chưa được ban hành.

Việc thể chế hóa các quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà

nước đối với tổ chức CĐVN còn chưa đầy đủ, thiếu đồng bộ. Mặt trái của

KTTT và những tiêu cực trong xã hội đã tác động trực tiếp đến đội ngũ người

lao động và hoạt động CĐ. Hệ thống pháp luật, chính sách chưa đồng bộ; một

số văn bản quy định được ban hành nhưng còn chồng chéo và không nhất

quán, gây khó khăn cho việc tổ chức thực hiện. Hiệu lực quản lý nhà nước về

lao động trên một số mặt còn hạn chế. Một số quy định của pháp luật không

được thực thi nghiêm túc.

Một số cấp ủy Đảng, chính quyền chưa nhận thức đúng về vai trò, chức

năng, nhiệm vụ của CĐ, có lúc còn coi nhẹ hoặc can thiệp quá sâu vào hoạt

động của CĐ; có những chính sách, chế độ liên quan đến CNVCLĐ, cán bộ

CĐ không phù hợp, CĐ đã kiến nghị nhiều lần nhưng chưa được nghiên cứu

bổ sung, sửa đổi. Kinh phí dành cho sự phát triển tổ chức và hoạt động của

CĐCS ngoài nhà nước còn hạn chế.

Nhận thức của một bộ phận đoàn viên, NLĐ, cán bộ CĐ về GCCN, về

vai trò, vị trí, chức năng, nhiệm vụ của CĐ trong cơ chế thị trường định

hướng XHCN chưa đầy đủ và sâu sắc.

3.2. Kinh nghiệm lịch sử

Từ những ưu điểm và hạn chế trong hoạt động của tổ chức CĐ dưới sự

lãnh đạo của Đảng từ năm 2003 đến năm 2013, có thể rút ra một số kinh

nghiệm sau đây:

3.2.1. Đảng lãnh đạo Công đoàn phải trực tiếp, toàn diện trong việc

quán triệt sâu sắc đường lối, quan điểm, nghị quyết của Đảng, chính sách

100

pháp luật của Nhà nước

ĐCSVN là đội tiên phong của GCCN, đồng thời là đội tiên phong của

nhân dân lao động và của cả dân tộc Việt Nam; đại biểu trung thành lợi ích

của GCCN, nhân dân lao động và của cả dân tộc. Sự lãnh đạo sâu sát, trực

tiếp, toàn diện của Đảng đối với CĐ thể hiện ở việc thể chế hóa chủ trương

của Đảng thành luật pháp, chính sách của Nhà nước, sự chủ động, sáng tạo,

hiệu quả trong hoạt động của các cấp CĐ, tinh thần tự chủ đoàn kết vượt khó

vươn lên của đoàn viên, CNVCLĐ là những nhân tố cơ bản quyết định thành

công trong hoạt động của tổ chức CĐVN, mà trong đó, nhân tố lãnh đạo của

Đảng là nhân tố quan trọng nhất. Những chủ trương, đường lối của Đảng lãnh

đạo CĐ mỗi thời kỳ có sự thay đổi cho phù hợp với hoàn cảnh lịch sử cụ thể.

Vấn đề quan trọng hàng đầu trong lãnh đạo hoạt động của CĐ là tổ chức,

động viên CNVCLĐ phát huy tinh thần làm chủ, tính sáng tạo, ý chí phấn đấu

cao để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị của mình trong từng thời kỳ

cách mạng. Đảng lãnh đạo tổ chức CĐ phải thường xuyên đổi mới nội dung

và phương thức hoạt động, luôn phối hợp chặt chẽ với chính quyền và các

đoàn thể chính trị - xã hội để động viên CNVCLĐ phấn đấu hoàn thành tốt

các nhiệm vụ chính trị của mỗi cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp trong từng thời

kỳ. Bên cạnh đó, CĐVN cũng phải coi trọng và chủ động phối hợp công tác

với chính quyền, cơ quan hữu quan, các tổ chức chính trị - xã hội, người quản

lý để tạo thành sức mạnh tổng hợp, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của

CĐ.

3.2.2. Đảng lãnh đạo Công đoàn cần phải tăng cường thực hiện đổi

mới nội dung và phương thức hoạt động của tổ chức Công đoàn trong tình

hình mới

Qua hoạt động thực tiễn của CĐ, có thể thấy Đảng cần tăng cường lãnh

đạo việc đổi mới nội dung và phương thức hoạt động của CĐ theo hướng tăng

cường và nâng cao chất lượng của công tác tuyên truyền, vận động, giáo dục

101

CNVCLĐ cả về nội dung, hình thức để tập hợp, giáo dục CNVCLĐ, thuyết

phục người sử dụng lao động ủng hộ công tác phát triển đoàn viên và xây

dựng tổ chức CĐ ở doanh nghiệp, nhất là ở khu vực kinh tế ngoài nhà nước,

có vốn đầu tư nước ngoài. Đảng lãnh đạo CĐ cần chỉ đạo các cấp CĐ phải

đặc biệt coi trọng chức năng đại diện và bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp,

chính đáng của CNVCLĐ, coi đây là một trong những nhiệm vụ trung tâm

trong suốt quá trình hoạt động của tổ chức CĐ. Hoạt động CĐ luôn quan tâm

đến những vấn đề có liên quan trực tiếp đến NLĐ như việc làm, đời sống, thu

nhập, tâm tư, tình cảm, nguyện vọng của CNVCLĐ, thông qua đó để tập hợp,

vận động NLĐ gia nhập tổ chức CĐ. Đảng lãnh đạo CĐ làm tốt được điều

này sẽ là yếu tố quyết định, gắn kết giữa đoàn viên và NLĐ với tổ chức CĐ.

Đảng lãnh đạo, chỉ đạo sao cho mọi hoạt động của CĐ phải hướng về cơ

sở, tập trung củng cố, xây dựng CĐCS vững mạnh, nâng cao vai trò, chất

lượng hoạt động của CĐ cấp trên trực tiếp cơ sở để giúp đỡ, hỗ trợ, giải quyết

vướng mắc cho CĐCS và những doanh nghiệp chưa có tổ chức CĐ.

Ngoài ra, Đảng chỉ đạo các tổ chức CĐ luôn luôn cải tiến lề lối, phương

thức làm việc, giữ vững kỷ luật công tác, chống bệnh hành chính, hình thức

đơn thuần trong hoạt động CĐ; xác định rõ những việc trọng tâm, trọng điểm

để tập trung chỉ đạo thực hiện; nâng cao chất lượng tham mưu cho Đảng,

tham gia với Nhà nước xây dựng, bổ sung, sửa đổi các chính sách, pháp luật

có liên quan trực tiếp đến đoàn viên, NLĐ, tổ chức CĐ.

3.2.3. Đảng cần thường xuyên quan tâm lãnh đạo công tác đào tạo,

bồi dưỡng xây dựng đội ngũ cán bộ Công đoàn có phẩm chất, năng lực đáp

ứng yêu cầu, nhiệm vụ

Cán bộ luôn là cái gốc của phong trào. Ở đâu cán bộ hoạt động tốt thì ở

đó phong trào hoạt động sôi nổi, hiệu quả. Bởi vậy, muốn nâng cao hiệu quả

hoạt động của tổ chức CĐ, việc quan trọng nhất là Đảng cần thường xuyên

quan tâm lãnh đạo công tác đào tạo đội ngũ cán bộ CĐ chuyên trách, đặc biệt

102

là cán bộ CĐCS chuyên trách. Đào tạo đội ngũ cán bộ CĐ chuyên trách cũng

là một việc không hề dễ dàng. Người cán bộ CĐ chuyên trách hiện nay cần

được đào tạo có hệ thống những kiến thức về quản lý, kinh tế, am hiểu về

pháp luật, có kiến thức về lý luận và nghiệp vụ công tác CĐ; nắm vững vai

trò, vị trí, chức năng của tổ chức CĐ; rèn luyện phương pháp hoạt động của

người cán bộ CĐ, đồng thời phải là người có khả năng tập hợp và tổ chức các

phong trào hành động trong đoàn viên, NLĐ và tổ chức CĐ. Các kỹ năng

trong hoạt động CĐ như kỹ năng giao tiếp, kỹ năng đàm phán, kỹ năng thuyết

trình, kỹ năng thương lượng, kỹ năng lắng nghe, kỹ năng soạn thảo, lưu trữ

văn bản, kỹ năng vận động, thuyết phục người lao động, kỹ năng giải quyết

các tranh chấp lao động một cách hài hòa, ổn định cần được hoàn thiện. Bên

cạnh đó, đào tạo ngoại ngữ, nắm bắt công nghệ mới cũng là một việc làm vô

cùng cần thiết trong thời đại hội nhập quốc tế hiện nay. Không chỉ cần kiến

thức chuyên môn tốt, cán bộ CĐ cần được đào tạo để có bản lĩnh chính trị

vững vàng, có đạo đức và phẩm chất tốt, có ý thức tổ chức kỷ luật và có kinh

nghiệm hoạt động.

Đảng lãnh đạo CĐ chủ động xây dựng và thực hiện quy hoạch đội ngũ

cán bộ CĐ, chú ý bồi dưỡng cán bộ xuất thân, trưởng thành từ CN và hoạt

động từ cơ sở. TLĐLĐVN cần đào tạo, bồi dưỡng cho cả thành phần cán bộ

không chuyên trách. TLĐLĐVN, CĐ ngành Trung ương, CĐ Tổng công ty,

Liên đoàn Lao động tỉnh, thành phố tổ chức các lớp bồi dưỡng kiến thức, kinh

nghiệm về công tác CĐ cho cán bộ chủ chốt của các cấp CĐ. Đảng cần chỉ

đạo Nhà nước, cấp Trung ương và tỉnh, thành CĐ đầu tư huấn luyện cán bộ,

cung cấp kinh phí cho hoạt động nghiên cứu khoa học và tài liệu về hoạt động

CĐ cho cán bộ CĐ theo đối tượng, vùng miền, theo chuyên đề. CĐ trong

Tổng công ty, cấp quận, huyện và cơ sở tổ chức các buổi sinh hoạt chuyên đề,

sinh hoạt tổ CĐ, sinh hoạt câu lạc bộ. Tăng cường chỉ đạo các cơ quan thông

tin truyền thông của Đảng, Nhà nước tăng đầu sách, báo, chuyên mục về hoạt

103

động CĐ…Thông qua các hoạt động phong phú đó, CĐVN sẽ tạo sự hiểu biết

thống nhất về vai trò của hoạt động CĐ tới từng cá nhân, mỗi cán bộ, đoàn

viên của CĐVN từ đó sẽ có ý tức tham gia và góp phần vào hoạt động của

CĐVN.

Thực tế đang đặt ra nhiều vấn đề về công tác cán bộ CĐ trong tình hình

mới, điều quan trọng là Đảng cần định hướng cho tổ chức CĐVN đặt ra được

những tiêu chuẩn cụ thể để đào tạo, tuyển chọn, đánh giá cán bộ CĐ về năng

lực chuyên môn, trình độ ngoại ngữ, phẩm chất chính trị, đạo đức, tác phong

của người làm công tác CĐ.

3.2.4. Đảng đề ra đường lối lãnh đạo Công đoàn Việt Nam phải không

tách rời với việc thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội của đất nước, của

từng địa phương, cơ sở

CĐ là tổ chức rộng lớn của GCCN và của NLĐ, là cơ sở xã hội quan

trọng của ĐCSVN, dưới sự lãnh đạo của Đảng, là thành viên của hệ thống

chính trị - xã hội nước ta. Sự vững mạnh của CĐVN không tách rời với sự

lãnh đạo của Đảng và sự phát triển, trưởng thành của hệ thống chính trị ở

nước ta. Vì thế, mục tiêu hoạt động của tổ chức CĐ phải gắn với các mục tiêu

kinh tế - xã hội của đất nước trong thời kỳ mới, xứng đáng là tổ chức của

GCCN Việt Nam, giai cấp tiên phong, đi đầu trong sự nghiệp đẩy mạnh

CNH,HĐH đất nước.

Thực hiện xã hội hóa hoạt động của CĐ trên cơ sở liên kết, phối hợp

rộng rãi với các ngành, các đoàn thể, mở rộng hợp tác quốc tế, đồng thời coi

trọng phát huy truyền thống sức mạnh đoàn kết và tiềm năng to lớn của tất cả

cán bộ, đoàn viên, CNVCLĐ tạo thành sức mạnh tổng hợp giải quyết có hiệu

quả các vấn đề hoạt động của tổ chức CĐVN.

Sự hưởng ứng, đóng góp to lớn của cán bộ, CNVCLĐ vào các hoạt động

xã hội, nhân đạo, từ thiện như "Quỹ tấm lòng vàng lao động”, “Mái ấm CĐ”,

104

“Vì nữ CN, lao động nghèo”, “Bảo trợ trẻ em CĐVN”, “Đền ơn đáp nghĩa”,

mang ý nghĩa chính trị, xã hội, nhân văn sâu sắc, góp phần thực hiện có hiệu

quả chủ trương xóa đói, giảm nghèo của Đảng, củng cố khối đại đoàn kết toàn

dân tộc, khơi dậy truyền thống tương thân, tương ái của dân tộc Việt Nam,

qua đó, góp phần nâng cao vị thế của CĐVN.

3.2.5. Đảng lãnh đạo Công đoàn Việt Nam cần chú trọng công tác

nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn về nội dung và phương thức hoạt

động

CĐVN cần thường xuyên kiểm tra, đánh giá hoạt động của tổ chức mình,

có như vậy mới thấy được những mặt đã làm được, những mặt chưa làm được

trong hoạt động thực tiễn của tổ chức mình, tình hiểu rõ nguyên nhân chủ

quan, khách quan dẫn tới hệ quả trên, đồng thời rút ra bài học kinh nghiệm,

xây dựng được phương thức hoạt động tiếp theo của tổ chức mình. CĐVN

cần đầu tư cho công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn về nội dung,

phương thức hoạt động CĐ để từ đó có cơ sở khoa học đề xuất, tham gia xây

dựng luật pháp, chính sách và xây dựng chủ trương công tác của tổ chức mình

sao cho đúng, phù hợp với yêu cầu thực tiễn của hoạt động CĐ trong tình

hình mới. Công tác này có ý nghĩa rất quan trọng trong việc nâng cao vai trò

và hiệu quả hoạt động của CĐ.

Tình hình thế giới, khu vực và đất nước luôn chuyển biến nhanh chóng

và sâu sắc trong từng giai đoạn khác nhau, CĐ cần phải đổi mới thường

xuyên để đảm bảo linh hoạt cả về phương thức lẫn nội dung hoạt động nhằm

đem lại hiệu quả cao nhất. Nếu như trước đây, nội dung hoạt động của CĐ

còn chung chung, thì hiện nay hoạt động của CĐ đã chỉ rõ phải tập trung vào

những nhiệm vụ trọng tâm, hướng tới cơ sở, vì đoàn viên và NLĐ, vì sự phát

105

triển bền vững của đất nước.

Tiểu kết chƣơng 3

Trong thời gian từ năm 2003 đến năm 2013, vận dụng chủ trương, đường

lối đúng đắn của Đảng lãnh đạo CĐVN, tổ chức CĐ đã đề ra phương hướng

hoạt động phù hợp với tình hình hoạt động của tổ chức mình với những biện

pháp chủ động, tích cực, linh hoạt, đem lại hiệu quả ngày càng cao và thiết

thực cho tổ chức CĐVN nói riêng, góp phần vào thành tựu của sự nghiệp

CNH,HĐH, hội nhập quốc tế của đất nước nói chung. CĐVN đã tập trung

thực hiện tốt các chức năng, nhiệm vụ tuyên truyền, vận động, giáo dục chủ

trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, Nghị quyết

của CĐ đến đông đảo CNVCLĐ; bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng

của CNVCLĐ trong điều kiện thực hiện nền KTTT định hướng XHCN, đẩy

mạnh CNH,HĐH đất nước và hội nhập quốc tế; phát triển đoàn viên, đổi mới

nội dung, phương thức và chất lượng hoạt động của tổ chức CĐ và đội ngũ

cán bộ CĐ.

Tuy nhiên, hoạt động của CĐ vẫn còn có những hạn chế: Sự lãnh đạo

của Đảng, quản lý của Nhà nước đối với hoạt động của CĐVN chưa ngang

tầm với vị trí, vai trò của tổ chức CĐ. Hoạt động của CĐVN còn tồn tại

những bất cập trong quá trình triển khai cụ thể chủ trương của Đảng, phương

hướng, nhiệm vụ của tổ chức CĐ. Sự phối hợp hoạt động giữa tổ chức CĐ với

các tổ chức chính trị - xã hội và các cơ quan chức năng còn thiếu chặt chẽ.

Phương thức hoạt động của CĐVN đôi lúc còn thụ động, thiếu linh hoạt. Đội

ngũ cán bộ làm công tác CĐ của tổ chức CĐVN còn bộc lộ một số hạn chế,

chưa đáp ứng được yêu cầu và nhiệm vụ trong giai đoạn mới.

Để khắc phục những hạn chế này, CĐVN cần thực hiện tốt các kinh

nghiệm lịch sử. Cụ thể là: Đảng lãnh đạo CĐ phải trực tiếp, toàn diện trong

việc quan triệt sâu sắc đường lối, quan điểm, nghị quyết của Đảng, chính

106

sách, pháp luật của Nhà nước; Đảng lãnh đạo CĐ cần phải tăng cường thực

hiện đổi mới nội dung và phương thức hoạt động của tổ chức CĐ trong tình

hình mới đồng thời Đảng cần thường xuyên quan tâm lãnh đạo công tác đào

tạo, bồi dưỡng xây dựng đội ngũ cán bộ CĐ có phẩm chất, năng lực đáp ứng

yêu cầu nhiệm vụ. Đảng đề ra đường lối lãnh đạo Công đoàn Việt Nam phải

không tách rời với việc thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội của đất nước,

của từng địa phương, cơ sở. Đảng lãnh đạo Công đoàn Việt Nam cần chú

trọng công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn về nội dung và phương

107

thức hoạt động.

KẾT LUẬN

Nghiên cứu sự lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động của CĐVN từ năm

2003 đến năm 2013 có thể thấy, CĐVN đã năng động, sáng tạo vượt qua mọi

khó khăn, thử thách đạt được những thành tựu rất đáng ghi nhận.

Thực hiện đường lối đổi mới do ĐCSVN khởi xướng và lãnh đạo, phát

triển nền KTTT định hướng XHCN và hội nhập quốc tế trong bối cảnh muôn

vàn khó khăn, thử thách, do tác động của tình hình kinh tế, chính trị thế giới

và mặt trái của KTTT, của hội nhập quốc tế, từ năm 2003 đến năm 2013, trên

cơ sở những chủ trương lãnh đạo đúng đắn, phù hợp của Đảng, CĐVN đã cụ

thể hóa chủ trương của Đảng, kịp thời đề ra những phương hướng hoạt động

phù hợp với tình hình của tổ chức và ngày một hoàn chỉnh với những biện

pháp chủ động, sáng tạo, khoa học. Nội dung hoạt động của CĐ ngày càng

phong phú, được tăng cường về chất; đã chú trọng công tác tuyên truyền, vận

động, giáo dục CNVCLĐ thực hiện chủ trương của Đảng, chính sách, pháp

luật của Nhà nước; đã tăng cường thực hiện có hiệu quả chức năng đại diện,

bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng CNVCLĐ trong điều kiện thực

hiện nền KTTT định hướng XHCN; đã ra sức phát triển đoàn viên CĐ, thành

lập CĐCS, đổi mới nội dung và phương thức, nâng cao chất lượng hoạt động

của tổ chức CĐ và đội ngũ cán bộ CĐ. Hoạt động của CĐVN góp phần quan

trọng vào sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.

Tuy nhiên, hoạt động của CĐVN còn tồn tại một số hạn chế: Sự lãnh đạo

của Đảng, quản lý của Nhà nước đối với hoạt động của CĐVN chưa ngang

tầm với vị trí, vai trò của tổ chức CĐ. Hoạt động của CĐVN còn tồn tại

những bất cập trong quá trình triển khai cụ thể chủ trương của Đảng, phương

hướng, nhiệm vụ của tổ chức CĐ. Sự phối hợp hoạt động giữa tổ chức CĐ với

các tổ chức chính trị - xã hội và các cơ quan chức năng còn thiếu chặt chẽ.

108

Phương thức hoạt động của CĐVN đôi lúc còn thụ động, thiếu linh hoạt. Đội ngũ

cán bộ làm công tác CĐ của tổ chức CĐVN còn bộc lộ một số hạn chế, chưa đáp

ứng được yêu cầu và nhiệm vụ trong giai đoạn mới của cách mạng nước ta.

Trên cơ sở tìm hiểu sự lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động của tổ chức

CĐVN từ năm 2003 đến năm 2013, có thể rút ra một số kinh nghiệm: Một là,

Đảng lãnh đạo CĐ phải trực tiếp, toàn diện trong việc quán triệt sâu sắc

đường lối, quan điểm, nghị quyết của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà

nước. Hai là, Đảng lãnh đạo CĐ cần phải tăng cường thực hiện đổi mới nội

dung và phương thức hoạt động của tổ chức CĐ trong tình hình mới. Ba là,

Đảng cần thường xuyên quan tâm lãnh đạo công tác đào tạo, bồi dưỡng xây

dựng đội ngũ cán bộ CĐ có phẩm chất, năng lực đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ

trong giai đoạn mới. Bốn là, Đảng đề ra đường lối lãnh đạo CĐVN phải

không tách rời với việc thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội của đất nước,

của từng địa phương, cơ sở. Năm là, Đảng lãnh đạo CĐVN cần chú trọng

công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn về nội dung và phương thức

hoạt động.

Cùng với quá trình đẩy mạnh CNH,HĐH đất nước và hội nhập quốc tế,

tổ chức CĐVN ngày càng có vị trí, vai trò quan trọng trong sự nghiệp xây

dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN. Trong bối cảnh mới, CĐVN vừa

có những thuận lợi vừa gặp nhiều khó khăn, thách thức lớn. Từ đó, đặt ra yêu

cầu CĐVN cần phải vận dụng những bài học kinh nghiệm, chủ động, linh

hoạt, sáng tạo đề ra những phương hướng, nhiệm vụ hoạt động kịp thời và

đúng đắn, phát huy hơn nữa thành công và lợi thế để giảm thiểu tối đa những

khó khăn, thách thức. Với truyền thống cách mạng vẻ vang của GCCN và tổ

chức CĐVN, cán bộ, đoàn viên, NLĐ cả nước sẽ tiếp tục nêu cao ý chí tự lực,

tự cường, đoàn kết, năng động, sáng tạo, quyết tâm vượt qua mọi khó khăn,

thách thức, thực hiện thắng lợi các mục tiêu kinh tế - xã hội, đi tiên phong

trong sự nghiệp đẩy mạnh CNH,HĐH đất nước, phấn đấu vì mục tiêu “dân

109

giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. PGS.TS. Bùi Đình Bôn (2013), Vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân

Việt Nam thông qua đội tiền phong là Đảng Cộng sản Việt Nam trong

thời kỳ mới, Nxb. Lao động, Hà Nội.

2. Mai Đức Chính (2013), Phát huy phong trào thi đua yêu nước trong đội

ngũ CN, lao động, góp phần đẩy nhanh tiến trình công nghiệp hóa, hiện

đại hóa đất nước, Tạp chí Cộng sản điện tử ngày 7/6/2013.

3. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc

lần thứ VIII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

4. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc

lần thứ IX, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

5. Đảng Cộng sản Việt Nam (2003), Văn kiện Hội nghị lần thứ bẩy Ban

Chấp hành Trung ương khóa IX, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

6. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc

lần thứ X, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

7. Đảng Cộng sản Việt Nam (2008), Văn kiện Hội nghị lần thứ sáu Ban

Chấp hành Trung ương khóa X, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

8. Đảng Cộng sản Việt Nam (2008), Văn kiện Hội nghị lần thứ bẩy Ban

Chấp hành Trung ương khóa X, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

9. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc

lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

10. Đảng Cộng sản Việt Nam (2013), Văn kiện Hội nghị lần thứ bẩy Ban

Chấp hành Trung ương khóa XI, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

11. Đảng Cộng sản Việt Nam (2013), Kết luận số 79-KL/TW ngày

25/12/2013 của Bộ Chính trị về đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết số 20 -

NQ/TW ngày 28/1/2008 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X

110

về Tiếp tục xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh

công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Tài liệu lưu trữ tại Trung tâm

Thông tin tư liệu Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam.

12. TS. Lê Thanh Hà (2007), Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo xây dựng

giai cấp công nhân trong thời kỳ đổi mới (1986 - 2006), Nxb. Lao động,

Hà Nội.

13. TS. Lê Thanh Hà (2009), Phát triển nguồn nhân lực công nghiệp Việt

Nam trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và vai trò

của Công đoàn, Nxb. Lao động, Hà Nội.

14. TS. Lê Thanh Hà (2012), Trí thức hóa công nhân và nhiệm vụ của Công

đoàn, Nxb. Lao động, Hà Nội.

15. Trương Giang Long (2007), giai cấp công nhân Việt Nam - thực trạng và

suy ngẫm, Tạp chí Cộng sản số 23(143).

16. PGS.TS. Phạm Công Nhất (2012), Xây dựng và phát triển giai cấp công

nhân Việt Nam theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XI của Đảng, Báo Điện

tử Đảng Cộng sản Việt Nam ngày 7/5/2012.

17. Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2013), Hiến pháp

nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam (có hiệu lực từ ngày

1/1/2014), Nxb. Tư pháp, Hà Nội.

18. PGS.TS. Dương Văn Sao (2012), Tổ chức và hoạt động của Công đoàn

cơ sở trong tình hình hiện nay, Nxb. Lao động, Hà Nội.

19. GS. Văn Tạo (2006), Quan điểm mới về giai cấp công nhân Việt Nam

của Văn kiện Đại hội X của Đảng, Tạp chí Cộng sản, số 10 tháng 5/2006.

20. Đan Tâm (2003), Về đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với

Công đoàn trong nền kinh tế thị trường, Nxb. Lao động, Hà Nội.

21. Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam (1999), Giáo trình Lý luận và

111

nghiệp vụ Công đoàn tập 1,2 Nxb. Lao động, Hà Nội.

22. Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam (2001), Chương trình hành động

của Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam thực hiện Nghị quyết Đại hội IX

Đảng Cộng sản Việt Nam, Tài liệu lưu trữ tại Trung tâm Thông tin tư

liệu Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam.

23. Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam (2003), Báo cáo tổng kết công tác

Công đoàn năm 2002, nhiệm vụ năm 2003, Tài liệu lưu trữ tại Trung tâm

Thông tin tư liệu Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam.

24. Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam (2003), Nâng cao hiệu quả hoạt

động Công đoàn trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, Nxb.

Lao động, Hà Nội.

25. Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam (2003), Văn kiện Đại hội Công đoàn

lần thứ IX, Nxb. Lao động, Hà Nội.

26. Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam (2004), Báo cáo tổng kết công tác

Công đoàn năm 2003, nhiệm vụ năm 2004, Tài liệu lưu trữ tại Trung tâm

Thông tin tư liệu Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam.

27. Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam (2005), Báo cáo tổng kết công tác

Công đoàn năm 2004, nhiệm vụ năm 2005, Tài liệu lưu trữ tại Trung

tâm Thông tin tư liệu Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam.

28. Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam (2005), Báo cáo kết quả công tác

phổ biến giáo dục pháp luật năm 2004, phương hướng nhiệm vụ năm

2005 và 2006, Tài liệu lưu trữ tại Trung tâm Thông tin tư liệu Tổng Liên

đoàn Lao động Việt Nam.

29. Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam (2005), Chỉ thị số 02-CT/TLĐ ngày

23/4/2005 của Đoàn Chủ tịch Tổng Liên đoàn về tuyển cử cán bộ Công

đoàn đi công tác cơ sở. Tài liệu lưu trữ tại Trung tâm Thông tin tư liệu

112

Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam.

30. Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam (2005), Hướng dẫn triển khai phong

trào thi đua “Giỏi việc nước, đảm việc nhà” trong nữ công nhân, viên

chức, lao động giai đoạn 2006 - 2010, Tài liệu lưu trữ tại Trung tâm

Thông tin tư liệu Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam.

31. Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam (2005), Nghị quyết số 46-NQ/BCH

ngày 6/1/2005 “Công đoàn với nhiệm vụ nâng cao trình độ học vấn,

nghề nghiệp của công nhân, viên chức, lao động đáp ứng yêu cầu sự

nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”, Tài liệu lưu trữ tại

Trung tâm Thông tin tư liệu Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam.

32. Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam - Bộ Giáo dục và Đào tạo (2005),

“Nghị quyết liên tịch số 02/2005/NQLT - LĐLĐVN-BGD&ĐT ngày

27/7/2005 về việc phối hợp hoạt động nâng cao trình độ học vấn, kỹ

năng nghề nghiệp trong công nhân, viên chức, lao động giai đoạn 2005 -

2010”, Tài liệu lưu trữ tại Trung tâm Thông tin tư liệu Tổng Liên đoàn

Lao động Việt Nam.

33. Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam (2005), Nghị quyết 5a-NQ/BCH

ngày 7/7/2005 về “Đẩy mạnh công tác pháp luật của Công đoàn trong

tình hình mới”, Tài liệu lưu trữ tại Trung tâm Thông tin tư liệu Tổng

Liên đoàn Lao động Việt Nam.

34. Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam - Tổng cục Chính trị Quân đội nhân

dân Việt Nam, (2005), Nghị quyết Liên tịch về “Phối hợp tuyên truyền

vận động công nhân, viên chức, lao động, cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ

trang đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước, phát triển kinh tế - xã hội,

tăng cường quốc phòng - an ninh trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại

hóa đất nước giai đoạn 2005 - 2010, ngày 12/1/2005”, Tài liệu lưu trữ

113

tại Trung tâm Thông tin tư liệu Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam.

35. Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam (2006), Báo cáo tổng kết công tác

Công đoàn năm 2005, nhiệm vụ năm 2006, Tài liệu lưu trữ tại Trung

tâm thông tin tư liệu Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam.

36. Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam (2006), Công văn số 1245/TLĐ

ngày 01/08/2006 của Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam về Chương

trình hành động của Công đoàn Việt Nam thực hiện Nghị quyết Đại hội

X Đảng Cộng sản Việt Nam, Tài liệu lưu trữ tại Trung tâm Thông tin tư

liệu Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam.

37. Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam (2006), Nghị Quyết số 04-NQ/ĐCT

ngày 3/4/2006 của Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam về việc “Đẩy

mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục của tổ chức Công đoàn trong tình

hình mới”, Tài liệu lưu trữ tại Trung tâm Thông tin tư liệu Tổng Liên

đoàn Lao động Việt Nam.

38. Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam (2007), Báo cáo tổng kết công tác

Công đoàn năm 2006, nhiệm vụ năm 2007, Tài liệu lưu trữ tại Trung tâm

thông tin tư liệu Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam.

39. Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam (2007), Văn kiện Đại hội Công đoàn

lần thứ X, Nxb. Lao động, Hà Nội.

40. Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam (2007), Tăng cường sự lãnh đạo

của Đảng đối với giai cấp công nhân và Công đoàn Việt Nam thời kỳ

công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế, Nxb. Lao

động, Hà Nội.

41. Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam (2008), Báo cáo tổng kết công tác

Công đoàn năm 2007, nhiệm vụ năm 2008, Tài liệu lưu trữ tại Trung tâm

114

Thông tin tư liệu Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam.

42. Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam (2008), Báo cáo tổng kết chương

trình phát triển 1 triệu đoàn viên giai đoạn 2003 - 2008, Tài liệu lưu trữ

tại Trung tâm Thông tin tư liệu Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam.

43. Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam (2008), Chỉ thị số 02/CT-TLĐ ngày

30/9/2008 của Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam về việc tiếp tục triển

khai thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung

ương Đảng khóa X về “Tiếp tục xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam

thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”, Tài liệu lưu

trữ tại Trung tâm thông tin tư liệu Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam.

44. Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam (2008), Công đoàn Việt Nam từ Đại

hội I đến Đại hội X, Nxb. Lao động, Hà Nội.

45. Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam (2008), Công văn số 399-Ctr/TLĐ

ngày 7/3/2008 về Chương trình hành động của Tổng Liên đoàn Lao động

Việt Nam thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành

Trung ương Đảng khóa X về “Tiếp tục xây dựng giai cấp công nhân Việt

Nam thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”, Tài liệu

lưu trữ tại Trung tâm thông tin tư liệu Tổng Liên đoàn Lao động Việt

Nam.

46. Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam (2008), Kế hoạch số 378-KH/TLĐ

ngày 6/3/2008 về Tuyên truyền và tổ chức thực hiện các Nghị quyết Hội

nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X. Tài liệu lưu

trữ tại Trung tâm Thông tin tư liệu Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam.

47. Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam (2008), Kế hoạch tổ chức Hội thi kể

chuyện về tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh trong công nhân, viên chức,

lao động, Tài liệu lưu trữ tại Trung tâm Thông tin tư liệu Tổng Liên đoàn

115

Lao động Việt Nam.

48. Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam (2008), Kế hoạch số 1233-KH/TLĐ

ngày 17/7/2008 Thực hiện Chỉ thị 22-CT/TW ngày 5/6/2008 của Ban Bí

thư về tăng cường công tác lãnh đạo, chỉ đạo việc xây dựng quan hệ lao

động hài hòa, ổn định và tiến bộ trong doanh nghiệp, Tài liệu lưu trữ tại

Trung tâm Thông tin tư liệu Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam.

49. Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam (2009), Báo cáo tổng kết công tác

Công đoàn năm 2008, nhiệm vụ năm 2009, Tài liệu lưu trữ tại Trung

tâm thông tin tư liệu Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam.

50. Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam (2009), Báo cáo kết quả thực hiện

chương trình phối hợp tuyên truyền giữa Tổng Liên đoàn Lao động Việt

Nam với Đài Truyền hình Việt Nam (2007 - 2009), Tài liệu lưu trữ tại

Trung tâm thông tin tư liệu Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam.

51. Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam (2009), Báo cáo tổng kết 6 năm

thực hiện Chỉ thị số 32-CT/TW ngày 9/12/2003 của Ban Bí thư Trung

ương Đảng về “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong công tác phổ

biến, giáo dục pháp luật, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của cán

bộ, nhân dân”, Tài liệu lưu trữ tại Trung tâm Thông tin tư liệu Tổng

Liên đoàn Lao động Việt Nam.

52. Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam (2009), Chỉ thị về việc tiếp tục đẩy

mạnh công tác nghiên cứu lý luận và hoạt động khoa học trong tổ chức

Công đoàn, Tài liệu lưu trữ tại Trung tâm Thông tin tư liệu Tổng Liên

đoàn Lao động Việt Nam.

53. Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam (2009), Một số phong trào Công

đoàn Việt Nam, lịch sử và hiện tại, Nxb. Lao động, Hà Nội.

54. Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam (2010), Báo cáo tổng kết công tác

CĐ năm 2009, nhiệm vụ năm 2010, Tài liệu lưu trữ tại Trung tâm Thông

116

tin tư liệu Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam.

55. Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam (2010), Vai trò lãnh đạo của Đảng

đối với giai cấp công nhân và Công đoàn Việt Nam, Nxb. Lao động, Hà

Nội.

56. Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam (2010), Văn kiện Hội nghị lần thứ

tư Ban Chấp hành Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam khóa X, Nxb.

Lao động, Hà Nội.

57. Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam (2010), Vai trò lãnh đạo của Đảng

đối với giai cấp công nhân, Công đoàn Việt Nam, Nxb. Lao động, Hà Nội.

58. Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam (2010), Xây dựng giai cấp công

nhân Việt Nam giai đoạn 2011 - 2020, Nxb. Lao động, Hà Nội.

59. Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam (2011), Báo cáo tổng kết công tác

Công đoàn năm 2010, nhiệm vụ năm 2011, Tài liệu lưu trữ tại Trung

tâm Thông tin tư liệu Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam.

60. Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam (2011), Nghị quyết về công tác vận

động nữ công nhân, viên chức, lao động thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp

hóa, hiện đại hóa đất nước, Tài liệu lưu trữ tại Trung tâm Thông tin tư

liệu Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam.

61. Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam (2012), Báo cáo kết quả thực hiện

chỉ tiêu thành lập Công đoàn cơ sở và phát triển đoàn viên Công đoàn từ

năm 2008 - 2012, Tài liệu lưu trữ tại Trung tâm Thông tin tư liệu Tổng

Liên đoàn Lao động Việt Nam.

62. Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam (2012), Báo cáo tổng kết công tác

Công đoàn năm 2011, nhiệm vụ năm 2012, Tài liệu lưu trữ tại Trung tâm

Thông tin tư liệu Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam.

63. Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam (2012), Luật Công đoàn đã được

117

sửa đổi năm 2012, Nxb. Lao động, Hà Nội.

64. Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam (2013), Báo cáo tổng kết công tác

Công đoàn năm 2012, nhiệm vụ năm 2013, Tài liệu lưu trữ tại Trung tâm

Thông tin tư liệu Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam.

65. Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam (2013), Báo cáo sơ kết 5 năm thực

hiện Nghị quyết 20-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa

X, Tài liệu lưu trữ tại Trung tâm Thông tin tư liệu Tổng Liên đoàn Lao

động Việt Nam.

66. Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam (2013), Báo cáo tổng kết chương

trình phát triển đoàn viên Công đoàn giai đoạn 2008 - 2013, Tài liệu lưu

trữ tại Trung tâm Thông tin tư liệu Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam.

67. Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam (2013), Kế hoạch số 23-KH/TLĐ về

việc triển khai thực hiện Kết luận số 79-KL/TW ngày 25/12/2013 của Bộ

Chính trị về đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết số 20-NQ/TW ngày

28/1/2008 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X về “Tiếp tục

xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp

hóa, hiện đại hóa đất nước”, Tài liệu lưu trữ tại Trung tâm Thông tin tư

liệu Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam.

68. Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam (2013), Tài liệu đào tạo, bồi dưỡng

cán bộ Công đoàn cơ sở tập 1,2, Nxb. Lao động, Hà Nội.

69. Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam (2013), Tài liệu truyên truyền kết

quả Đại hội XI Công đoàn Việt Nam, Nxb. Lao động, Hà Nội.

70. Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam (2013), Thống kê số liệu tổ chức

Công đoàn và xây dựng Công đoàn cơ sở vững mạnh từ năm 2008 -

2013, Tài liệu lưu trữ tại Trung tâm Thông tin tư liệu Tổng Liên đoàn

Lao động Việt Nam.

71. Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam (2013), Phong trào công nhân và

118

Công đoàn Việt Nam (2001 - 2010), Nxb. Lao động, Hà Nội

72. Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam (2013), Thống kê số lượng đoàn

viên Công đoàn từ năm 2009 - 2013, Tài liệu lưu trữ tại Trung tâm

Thông tin tư liệu TLĐLĐVN.

73. Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam (2013), Thống kê số lượng đơn vị

doanh nghiệp có tổ chức Công đoàn từ năm 2009 - 2013, Tài liệu lưu trữ

tại Trung tâm Thông tin tư liệu Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam.

74. Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam (2013), Thống kê số lượng công

nhân, viên chức, lao động từ năm 2009 - 2013, Tài liệu lưu trữ tại Trung

tâm thông tin tư liệu Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam.

75. Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam (2013), Tài liệu tuyên truyền kết

quả Đại hội XI Công đoàn Việt Nam, Nxb. Lao động, Hà Nội.

76. Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam (2013), Văn kiện Đại hội Công đoàn

lần thứ XI, Nxb. Lao động, Hà Nội.

77. Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam (2014), Báo cáo tổng kết công tác

Công đoàn năm 2013, nhiệm vụ năm 2014, Tài liệu lưu trữ tại Trung tâm

Thông tin tư liệu TLĐLĐVN.

78. Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam (2014): Công đoàn Việt Nam 85

năm xây dựng và phát triển, Nxb. Lao động, Hà Nội.

79. TS. Đặng Ngọc Tùng (2014), Xây dựng đội ngũ cán bộ Công đoàn vững

mạnh, đáp ứng yêu cầu trong thời kỳ mới, Tạp chí Cộng sản điện tử ngày

18/7/2013.

80. TS. Đặng Ngọc Tùng (2014), Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, nâng

cao tính chủ động sáng tạo của hoạt động Công đoàn, Tạp chí Cộng sản

điện tử ngày 5/9/2014.

81. TS. Đặng Ngọc Tùng (2014), Đổi mới hoạt động của CĐVN đáp ứng yêu

cầu đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, Tạp

119

chí Cộng sản ngày 28/7/2014.

82. PGS.TS. Nguyễn Phú Trọng (2001), Tìm hiểu sự lãnh đạo của Đảng với

Công đoàn, Nxb. Lao động, Hà Nội.

83. Trường Đại học Công đoàn (2004), Pháp luật về Lao động và Công

đoàn, Nxb. Lao động, Hà Nội.

84. PSG.TSKH. Nguyễn Viết Vượng (2003), Vận dụng tư tưởng Hồ Chí

Minh về dân chủ trong sự nghiệp xây dựng tổ chức Công đoàn Việt Nam

hiện nay, Nxb. Lao động, Hà Nội.

85. PGS.TSKH. Nguyễn Viết Vượng (2005), Lý luận Mác - Lênin về Công

đoàn và vận dụng vào hoạt động Công đoàn Việt Nam trong kinh tế thị

trường, Nxb. Lao động, Hà Nội.

86. Viện Công nhân và Công đoàn (2001), Xu hướng biến động của GCCN

Việt Nam trong những năm đầu thế kỷ XXI, Nxb. Lao động, Hà Nội.

87. Viện công nhân và Công đoàn (2002), Giải pháp xây dựng giai cấp công

nhân Việt Nam trong những năm đầu thế kỷ XXI, Nxb. Lao động, Hà

Nội.

88. Viện công nhân và Công đoàn (2004), Đảng Cộng sản Việt Nam với Đại

hội IX Công đoàn Việt Nam, Nxb. Lao động, Hà Nội.

89. Viện công nhân và Công đoàn (2004), Một số vấn đề cơ bản xây dựng và

phát huy vai trò của giai cấp công nhân trong thời kỳ công nghiệp hóa,

hiện đại hóa, Nxb. Lao động, Hà Nội.

90. Viện công nhân và Công đoàn (2005), Công đoàn với phong trào thi đua

trong công nhân, viên chức, lao động thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa,

hiện đại hóa đất nước, Nxb. Lao động, Hà Nội.

91. Viện công nhân và Công đoàn (2007), Báo cáo kết quả khảo sát điều tra

thực trạng giai cấp công nhân Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, Tài

liệu lưu trữ tại Trung tâm Thông tin tư liệu Tổng liên đoàn Lao động

120

Việt Nam.

92. Viện công nhân và Công đoàn (2007), Đề tài cấp Tổng Liên đoàn “Một

số vấn đề cấp bách xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam trong điều

kiện đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”, Tài liệu lưu trữ

tại Trung tâm Thông tin tư liệu Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam.

93. Viện công nhân và Công đoàn (2007), Tác động tới việc làm, đời sống của

người lao động khi Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO)

và các giải pháp hoạt động của Công đoàn, Nxb. Lao động, Hà Nội.

94. Viện công nhân và Công đoàn (2007), Công đoàn với việc xây dựng

quan hệ lao động hài hòa trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước

121

ngoài ở Việt Nam hiện nay, Nxb. Lao động, Hà Nội.

PHỤ LỤC

Phụ lục 1.1: PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH PHÁT TRIỂN ĐOÀN VIÊN

TỪ 31/12/2003 ĐẾN HẾT NGÀY 31/12/2007

Nội dung

Số lƣợng hiện nay

Số lƣợng thời điểm 31/12/2003

Số lƣợng tăng thêm so với 2003

Tổng số CNVCLĐ Trong đó, CNVCLĐ ngoài quốc doanh Tổng số đoàn viên Trong đó nữ *Chia ra theo khu vực 1. Khu vực Nhà nước Hành chính sự nghiệp Doanh nghiệp nhà nước 2. Khu vực kinh tế ngoài quốc doanh Sự nghiệp ngoài công lập Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài Khu vực có vốn đầu tư trong nước *Chia ra theo CĐ ngành, địa phương Liên đoàn Lao động tỉnh, thành phố CĐ ngành Trung ương, CĐ Tổng công ty

4.680.784 1.538.436 3.582.961 1.714.957 1.868.004 1.097.823 55.187 412.889 629.747 3.382.925 1.297.859

8.876.890 4.369.994 6.094.024 2.711.571 3.825.351 2.263.800 1.561.551 2.268.673 84.056 967.668 1216.949 4.655.340 1.438.684

1.413.240 1.173.135 242.390 548.843 (-306.453) 1.170.850 28.869 554.779 587.202 1.272.415 140.825

Nguồn: Ban Chính sách pháp luật, TLĐLĐVN.

122

Phụ lục 1.2: PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH THÀNH LẬP CĐCS TỪ 31/12/2003

ĐẾN HẾT NGÀY 31/12/2007

Nội dung

Số lƣợng hiện nay

Tổng số doanh nghiệp Trong đó:+ Số DN có vốn đầu tư NN + Số DN đủ điều kiện thành lập CĐ Tổng số công đoàn cơ sở *Chia ra theo loại hình CĐCS:

1. Khu vực Nhà nước

Hành chính sự nghiệp Xã, phường Doanh nghiệp nhà nước

2. Khu vực kinh tế ngoài quốc doanh

Sự nghiệp ngoài công lập Liên doanh nước ngoài 100% vốn nước ngoài Công ty cổ phần Công ty trách nhiệm hữu hạn Doanh nghiệp tư nhân Hợp tác xã Nghiệp đoàn Loại hình khác *Chia ra theo CĐ ngành, địa phương Liên đoàn Lao động tỉnh, thành phố CĐ ngành trung ương, CĐ Tổng công ty

Số lƣợng thời điểm 31/12/2003 67.555 55.465 47.559 924 7.162 11.910 2.223 539 940 1.884 3.054 1.048 787 828 607 62.323 5.232

189.014 7.516 40.724 93.054 71.921 56.085 10.512 5.324 21.133 3.533 535 2.158 5.171 5.734 1.767 980 804 451 86.572 6.482

Số lƣợng tăng thêm so với 2003 25.499 16.276 8.526 9.588 (-1.838) 9.223 1.310 (-4) 1.218 3.287 2.680 719 193 (-24) (-156) 24.249 1.250 Nguồn: Ban Chính sách pháp luật, TLĐLĐVN.

123

Phụ lục 1.3: KẾT QUẢ XÂY DỰNG CĐCS MẠNH

TỪ NĂM 2003 ĐẾN HẾT NGÀY 31/12/2007

(Đơn vị tính: %)

TT

Nội dung

1 2 3 4

Tỷ lệ CĐCS vững mạnh Tỷ lệ CĐCS khá Tỷ lệ CĐCS trung bình Tỷ lệ CĐCS yếu kém

Năm 2003 76,49 12,7 4,51 6,3

Năm 2004 78,47 13,5 3,68 4,35

Năm 2006 79,54 14,14 2,74 3,3

Năm 2007 77,25 13,1 3,91 5,74

Năm 2005 79,79 13,6 3,34 3,27 Nguồn: Ban Chính sách pháp luật, TLĐLĐVN.

Phụ lục 1. 4: TRÌNH ĐỘ CÁN BỘ CHUYÊN TRÁCH CĐ VÀ KẾT QUẢ

BỒI DƢỠNG TẬP HUẤN CÁN BỘ CĐCS TỪ NĂM 2003

ĐẾN HẾT NGÀY 31/12/2007

Nội dung

Số lƣợng

TT 1 Trình độ chuyên môn nghiệp vụ (chuyên trách)

Thạc sỹ trở lên (Sau đại học) Đại học, Cao đẳng Trung cấp

2 Trình độ chính trị (chuyên trách)

Cao cấp Trung cấp Sơ cấp

3 Trình độ ngoại ngữ (cán bộ chuyên trách)

Trình độ A Trình độ B Trình độ C

4 Trình độ tin học (cán bộ chuyên trách)

Đại học Trình độ A Trình độ B

5 Số lượt cán bộ được bồi dưỡng chuyên môn nghiệp

Đơn vị tính Người Người Người Người Người Người Người Người Người Người Người Người Người Người Người Lượt người

245 5.661 1.183 1.904 1.959 1.695 2.401 605 163 2.330 1.635 906.000

vụ

Nguồn: Ban Tổ chức, TLĐLĐVN.

124

Phụ lục 2.1: CÔNG TÁC TUYÊN GIÁO TỪ NĂM 2008 ĐẾN NĂM 2013

TT

Nội dung

ĐVT

Năm 2008

Năm 2009

Năm 2010

Năm 2011

Năm 2012

Năm 2013

18.199.720 23.850.240 25.622.936 24.691.987 25.477.854 26.555.650

1

Cuốn, bản

Lượt người

2

2.117.242

2.448.638

2.264.654

3.199.412

3.339.178

3.429.180

3

Cuộc, lần

42.998

52.631

55.761

58.150

66.681

67.870

Điểm

4

1.123

1.938

2.150

2.230

5

Lượt người

91.555

92.488

91.998

92.787

93.328

94.320

Người

6

57.852

73.952

69.941

79.113

86.256

87.456

7

Lượt người

3.082.010

3.751.963

3.901.088

4.051.952

4.995.676

5.095.650

8

577.858

638.946

831.536

839.326

857.226

867.326

Số tài liệu truyên truyền, phổ biến pháp luật Số CNVCLĐ được truyên truyền, phổ biến pháp luật Số cuộc hội thao, hội diễn trong CNVCLĐ Số điểm sinh hoạt văn hóa CN Số CNVCLĐ được bồi dưỡng, học tập về Đảng Số CNVCLĐ được kết nạp vào Đảng Hoạt động báo cáo viên, tuyên truyền viên Phát hành sách, báo, tạp chí, bản tin, chương trình truyền hình CĐ

Tờ, cuốn, chương trình

125

Nguồn: Ban Tuyên giáo, TLĐLĐVN.

Phụ lục 2.2: CÔNG TÁC PHÁT TRIỂN ĐOÀN VIÊN VÀ CĐCS TỪ NĂM 2008 ĐẾN NĂM 2013

TT

Nội dung

Tổng số

Năm 2008

Năm 2009

Năm 2010

Năm 2011

Năm 2012

Năm 2013

562.921 580.715 638.908 813.376 689.454 564.500

3.849.874

1 Số lượng đoàn viên kết nạp mới 2 Số lượng đoàn

293.076 296.211 298.334 387.119 278.421 252.250 1.805.411

viên giảm

269.845 284.504 340.564 426.257 411.033 312.250 2.044.453

5.453

6.331

6.230

6.677

5.219

4.234

34.144

3 Số lượng đoàn viên tăng thực tế 4 Số lượng CĐCS thành lập mới 5 Số lượng CĐCS

1.149

1.713

2.084

1.550

2.185

1.811

10.492

giảm

4.287

4.618

4.146

5.127

2.877

2.423

23.478

6 Số lượng CĐCS tăng thực tế

Nguồn: Ban Tổ chức, TLĐLĐVN.

Phụ lục 2.3: CÔNG TÁC ĐÀO TẠO, BỒI DƢỠNG, TẬP HUẤN CÁN

BỘ CĐ TỪ NĂM 2008 ĐẾN NĂM 2013

Đào tạo chung (ngƣời)

Bồi dƣỡng, tập huấn

Đào tạo về CĐ (ngƣời)

Lý luận chính trị

Cán bộ CĐ không chuyên trách

Cán bộ CĐ chuyên trách

Năm

Đại học

Lý luận và nghiệp vụ CĐ

Sau đại học

Số lớp

Đại học các chuyên ngành

Trung cấp

Số lớp

Tổng số lượt người

226 177 299 221 240 250

216 163 178 245 270 275

Cử nhân, Cao cấp 215 256 338 334 295 299

Tổng số lượt người 2.877 44 758 599 173 10.385 969 167 11.634 728 158 10.234 820 175 11.650 850 180 11.750

1.642 4.376 5.199 6.545 6.730 6.840

52 2008 2009 73 2010 111 2011 134 2012 138 2013 140 Tổng 648

266 259 317 269 286 290 1.413 1.737 1.347 1.687

114.893 325.721 357.559 316.524 325.125 350.520 4.724 897 58.530 31.332 1790.342 Nguồn: Ban Tổ chức, TLĐLĐVN.

126

Phụ lục 2.4: KẾT QUẢ XẾP LOẠI CĐCS TỪ NĂM 2008 ĐẾN NĂM 2013

Đơn vị tính: %

Kết quả xếp loại CĐCS, nghiệp đoàn

TT

Nội dung

Khá

Yếu

Bình quân năm 2008 Khu vực HCSN nhà nước Khu vực DN nhà nước Khu vực SN ngoài công lập Khu vực DN ngoài nhà nước Khu vực DN có vốn FDI

Khu vực HCSN nhà nước Khu vực DN nhà nước Khu vực SN ngoài công lập Khu vực DN ngoài nhà nước Khu vực DN có vốn FDI

Khu vực HCSN nhà nước Khu vực DN nhà nước Khu vực SN ngoài công lập Khu vực DN ngoài nhà nước Khu vực DN có vốn FDI

Khu vực HCNN, tổ chức CT-XH Khu vực sự nghiệp công lập Khu vực DN nhà nước Khu vực sự nghiệp ngoài công lập Khu vực DN ngoài nhà nước Khu vực DN có vốn FDI

Khu vực HCNN, tổ chức CT-XH Khu vực sự nghiệp công lập Khu vực DN nhà nước Khu vực sự nghiệp ngoài công lập Khu vực DN ngoài nhà nước Khu vực DN có vốn FDI

Vững mạnh 41,51 13,2 43,36 11,44 34,14 10,13 43,89 17,04 31,42 17,22 28,21 20,77 38,36 11,66 41,51 8,75 7,18 35,74 41,16 19,76 29,51 19,20 29,22 21,35 36,86 11,95 39,61 8,81 8,85 34,66 43,40 16,66 29,00 20,06 30,47 19,82 35,01 11,20 7,83 39,3 6,65 34,81 30,81 5,89 40,07 14,83 27,43 20,59 30,58 19,47 7,47 36,75 8,41 37,82 5,75 35,74 31,14 7,12 37,84 17,54 29,19 20,70 33,28 19,44 6,47 34,71 7,41 36,82

Trung bình 1,15 3,68 0,08 1,83 0,15 1,90 0,22 3,66 9,55 3,57 10,59 13,85 1,02 3,68 0,21 1,55 0,17 1,32 0,15 3,77 2,79 10,11 8,42 10,34 0,63 3,64 0,08 1,52 0,32 1.,8 0,41 3,48 2,08 9,38 2,31 10,57 0,86 3,58 0,12 1,26 0,01 1,19 0,56 1,67 0,62 3,6 2,70 9,52 2,96 8,50 0,18 0,88 0,20 1,01 0,04 0,53 0,63 1,46 0,85 3,47 3,68 9,08 2,74 8,36 0,15 0,68 0,10 1,00

Không xếp loại 4,42 1,88 4,25 12,56 21,58 15,38 6,83 2,13 4,69 0,73 22,56 14,54 7,09 1,77 2,62 3,77 23,87 11,14 7,82 1,68 0,75 2,82 8,96 23,99 21,25 1,18 1,48 0,50 2,04 10,00 21,50 16,87 2,45 1,59

I 1 2 3 4 5 II Bình quân năm 2009 1 2 3 4 5 III Bình quân năm 2010 1 2 3 4 5 IV Bình quân năm 2011 1 2 3 4 5 6 V Bình quân năm 2012 1 2 3 4 5 6 VI Bình quân năm 2013 1

Khu vực HCNN, tổ chức CT-XH

V.mạnh xuất sắc 36,00 41,42 49,44 22,63 16,67 11,20 38,44 45,85 50,90 34,44 15,83 16,14 39,84 48,19 52,36 32,29 15,62 25,68 41,53 49,58 56,59 58,26 31,88 15,76 17,25 53,54 51,08 57,44 57,61 30,30 15,85 19,31 55,54 53,08

127

Kết quả xếp loại CĐCS, nghiệp đoàn

TT

Nội dung

Yếu

Khá

Khu vực sự nghiệp công lập Khu vực DN nhà nước Khu vực sự nghiệp ngoài công lập Khu vực DN ngoài nhà nước Khu vực DN có vốn FDI

2 3 4 5 6

V.mạnh xuất sắc 56,44 57,60 29,30 14,85 20,31

Vững mạnh 5,70 36,74 6,12 31,15 38,84 16,54 28,19 19,70 34,28 19,40

Trung bình 0,58 2,46 4,47 10,08 9,00

0,03 0,61 1,85 3,65 2,72

Không xếp loại 0,51 2,06 9,00 21,53 16,89 Nguồn: Ban Tổ chức, TLĐLĐVN.

128