VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
DƯƠNG MINH CHÂU
PHÁP LUẬT VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI BẮT BUỘC
TỪ THỰC TIỄN TỈNH LẠNG SƠN
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT KINH TẾ
HÀ NỘI, 2020
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
DƯƠNG MINH CHÂU
PHÁP LUẬT VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI BẮT BUỘC
TỪ THỰC TIỄN TỈNH LẠNG SƠN
Ngành: Luật kinh tế
Mã số: 8 38 01 07
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. PHAN THỊ THANH HUYỀN
HÀ NỘI, 2020
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả
nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác.Các số liệu,
ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi
đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo
quy định của Khoa Luật kinh tế - Học viện Khoa học xã hội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật kinh tế xem xét để tôi có thể
bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN
Dương Minh Châu
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1
Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI BẮT BUỘC
VÀ PHÁP LUẬT VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI BẮT BUỘC ..................................... 6
1.1. Một số vấn đề lý luận về bảo hiểm xã hội bắt buộc ...................................... 6
1.2. Vai trò của pháp luật bảo hiểm xã hội bắt buộc ........................................... 12
1.3. Nội dung pháp luật bảo hiểm xã hội bắt buộc ............................................. 13
1.4. Các yếu tố tác động việc thực thi pháp luật về bảo hiểm xã hội bắt buộc ... 28
Chương 2 THỰC TRẠNG QUY ĐỊNH VỀ PHÁP LUẬT BẢO HIỂM XÃ HỘI
BẮT BUỘC VÀ THỰC TIỄN THỰC HIỆN TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH LẠNG
SƠN………………………………………………………………………………..30
2.1. Thực trạng pháp luật bảo hiểm xã hội bắt buộc ........................................... 30
2.1.1. Về đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc ........................................ 30
2.1.2. Về các chế độ bảo hiểm xã hội bắt buộc ...................................................... 31
2.1.3. Quỹ bảo hiểm xã hội bắt buộc ..................................................................... 43
2.1.4. Thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm và giải quyết tranh chấp về bảo hiểm xã
hội bắt buộc ............................................................................................................... 45
2.2. Thực tiễn thi hành pháp luật bảo hiểm xã hội bắt buộc tại tỉnh Lạng Sơn. . 49
2.2.1. Tình hình thực hiện pháp luật về bảo hiểm xã hội bắt buộc trên địa bàn tỉnh
Lạng Sơn ................................................................................................................... 49
2.2.2. Những hạn chế còn tồn tại trong thực hiện pháp luật bảo hiểm xã hội bắt
buộc………………………………………………………………………………...59
2.2.3. Nguyên nhân của tình trạng chậm đóng, nợ đọng và không tham gia bảo
hiểm xã hội ................................................................................................................ 61
2.2.4. Thực tiễn công tác kiểm tra, thanh tra, xử lý vi phạm và giải quyết tranh
chấp về bảo hiểm xã hội bắt buộc trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn ................................. 65
Chương 3 MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT BẢO
HIỂM XÃ HỘI BẮT BUỘC VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN BẢO
HIỂM XÃ HỘI BẮT BUỘC TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH LẠNG SƠN ................... 70
3.1. Sự cần thiết phải hoàn thiện pháp luật về bảo hiểm xã hội bắt buộc ................ 70
3.2. Một số kiến nghị cụ thể nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện bảo hiểm xã hội bắt
buộc nói chung và trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn nói riêng .......................................... 74
KẾT LUẬN .............................................................................................................. 80
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................... 81
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
Viết tắt
Viết đầy đủ
ASXH
An sinh xã hội
BHXH
Bảo hiểm xã hội
BHYT
Bảo hiểm y tế
BHTN
Bảo hiểm thất nghiệp
ILO
Tổ chức Lao động quốc tế
HĐLĐ
Hợp đồng lao động
NLĐ
Người lao động
NSDLĐ
Người sử dụng lao động
Tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp
TNLĐ, BNN
Doanh nghiệp
DN
Sản xuất kinh doanh
SXKD
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 2.1: Số đơn vị tham gia BHXH bắt buộc trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn giai đoạn
2016 - 2019 ............................................................................................................... 52
Bảng 2.2. Số lao động tham gia BHXH bắt buộc tại tỉnh Lạng Sơn giai đoạn 2016 –
2019:………………. ................................................................................................. 53
Bảng 2.3. Kết quả thực hiện các chế độ ốm đau, thai sản, dưỡng sức sau sinh,
TNLĐ - BNN giai đoạn 2016 - 2019 ........................................................................ 54
Bảng 2.4. Kết quả thực hiện hưu trí giai đoạn 2016 – 2019 .................................... 55
Bảng 2.5. Kết quả thu BHXH bắt buộc giai đoạn 2016 – 2019 ................................ 56
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trên thế giới, để hệ thống An sinh xã hội của mỗi quốc gia được xây dựng một
cách hoàn hảo thì bảo hiểm xã hội đã xuất hiện cách đây hàng trăm năm và ngày càng
trở thành một công cụ hữu hiệu, một khâu không thể thiếu, một bộ phận hợp thành
hệ thống An sinh xã hội. Ở Việt Nam, Đảng và Nhà nước ta nhận thức được tầm quan
trọng của bảo hiểm xã hội nên luôn xác định chính sách bảo hiểm xã hội là chính sách
quan trọng, có tính nhân văn sâu sắc, nhằm đảm bảo tốt hơn đời sống người lao động,
góp phần tích cực vào việc ổn định, an toàn xã hội và sự nghiệp phát triển kinh tế, xã
hội của đất nước và đồng thời thiết lập hành lang pháp lý của Bảo hiểm xã hội một
các chặt chẽ.
Tại cuộc họp Quốc hội khóa XI, kỳ họp thứ 9 ngày 29 tháng 6 năm 2006 Luật
Bảo hiểm xã hội năm 2006 đã được thông qua và có hiệu lực thi hành từ ngày 01
tháng 01 năm 2007, với chính sự phê duyệt quan trọng đó đã đánh dấu bước phát
triển mới của pháp luật bảo hiểm xã hội ở nước ta trong việc điều chỉnh các mối quan
hệ bảo hiểm xã hội giữa NLĐ với NSDLĐ đồng thời mở rộng hơn nữa các loại hình
bảo hiểm xã hội và phạm vi tham gia cũng như thụ hưởng bảo hiểm xã hội để NLĐ
có thể hưởng những chính sách tốt nhất, đồng thời tăng cường vai trò của Nhà nước
trong lĩnh vực quản lý về bảo hiểm xã hội.
Sau nhiều năm thực hiện triển khai Luật Bảo hiểm xã hội và các văn bản hướng
dẫn Luật Bảo hiểm xã hội kèm theo, hệ thống các văn bản pháp luật về bảo hiểm xã
hội đã đi vào cuộc sống, từng bước mở rộng đối tượng tham gia và thụ hưởng bảo
hiểm xã hội, phát huy tích cực trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của NLĐ
và NSDLĐ, góp phần thực hiện có hiệu quả mục tiêu an sinh xã hội của Nhà nước.
Tuy nhiên, do nước ta vẫn còn là một trong những nước đang phát triển nên trong
quá trình thực hiện, các chính sách, chế độ về bảo hiểm xã hội vẫn có không ít các
điểm bất hợp lý thể hiện trong bản thân nội dung quy định của chính sách, chế độ và
việc tổ chức thực thi các quy định này trong các chế độ của bảo hiểm xã hội bắt buộc
quy định. Hạn chế trong chính sách tác động mạnh đến quyền lợi của NLĐ từ đó làm
mất sự công bằng giữa các đối tượng được thụ hưởng. Chế tài xử phạt các vi phạm
1
hành chính trong lĩnh vực BHXH vẫn chưa đủ mạnh, mang tính răn đe cao nên mức
tuân thủ còn thấp. Tình trạng nợ đóng, chậm đóng bảo hiểm xã hội vẫn còn phổ biến
nhất vào thời điểm xảy ra dịch bệnh như hiện nay gây ảnh hưởng trực tiếp tới quyền
lợi của NLĐ và những đối tượng thụ hưởng khác.
Lạng Sơn là một tỉnh đang phát triển về mặt nông nghiệp, văn hóa, y tế, giáo
dục và thương mại. Tỉnh Lạng Sơn có thế mạnh thu hút đầu tư về công nghiệp, du
lịch, dịch vụ và giáo dục đặc biệt là thu hút đầu tư từ nước ngoài do tiếp giáp với
nước Trung Quốc. Công tác BHXH trong thời gian qua đang được quan tâm và ưu
tiên đặc biệt. Vai trò của pháp luật về BHXH trong đó có hoạt động thu, chi, đảm bảo
chính sách cho đối tượng tham gia BHXH ngày càng tăng trưởng tốt. Tuy nhiên đối
với tình hình xã hội đang đổi mới, BHXH vẫn chưa khai thác hết tiềm năng và thế
mạnh, tuy đối tượng phát triển ngày một tăng nhưng nhiều vấn đề phát sinh.
Qua những bất cập đã được đề cập trên đòi hỏi cần phải đánh giá một cách đầy
đủ hơn về chính sách, chế độ về bảo hiểm xã hội, từ đó chỉ ra những quy định phù
hợp với thời điểm hiện tại, những vướng mắc còn tồn tại cần được nghiên cứu điều
chỉnh, bổ sung để có thể đáp ứng các yêu cầu thực tế xã hội. Vì lý do đó, tôi xin chọn
đề tài: “Pháp luật về bảo hiểm xã hội bắt buộc từ thực tiễn tỉnh Lạng Sơn” làm
luận văn Thạc sĩ Luật học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Thời gian qua, giới nghiên cứu khoa học xã hội nói chung và khoa học pháp lý
nói riêng ở nước ta hướng sự quan tâm, nghiên cứu đến vấn đề an sinh xã hội nói
chung, pháp luật bảo hiểm xã hội nói riêng. Ở phạm vi và mức độ khác nhau đã có
một số công trình nghiên cứu, bài viết đề cập đến pháp luật bảo hiểm xã hội bắt buộc
nói chung và từng chế độ nói riêng, điển hình như:
- Nguyễn Thị Hồng Nhung: Nghiên cứu “Pháp luật về BHXH từ thực tiễn thị
xã Sông Công, tỉnh Thái Nguyên". Luận văn thạc sĩ chuyên ngành luật Hiến Pháp và
luật hành chính, Học viện chính trị quốc gia, năm 2017. Luận văn chỉ ra rằng việc
triển khai thực hiện pháp luật về bảo hiểm xã hội một cách thực sự có hiệu quả vẫn
còn là một vấn đề phức tạp, khó khăn, luôn đòi hỏi sự tìm tòi, nghiên cứu về lý luận,
sáng tạo trong thực tiễn thực hiện tại mỗi địa phương.
2
- Nguyễn Thị Hương: Nghiên cứu "Pháp luật về BHXH bắt buộc qua thực tiễn
áp dụng tại tỉnh Quảng trị". Luận văn thạc sĩ kinh tế, Trường Đại học luật Đại học
Huế, năm 2018. Luận văn đã phân tích được những vấn đề lý luận cơ bản về bảo hiểm
xã hội bắt buộc, đánh giá dược thực trạng pháp luật về bảo hiểm xã hội bắt buộc và thực
tiễn thực hiện tại địa phương và luận văn cũng đã đưa ra những giải pháp quan trọng
nhằm hoàn thiện các quy định pháp luật về bảo hiểm xã hội bắt buộc đồng thời nâng cao
hiệu quả việc thực hiện pháp luật về bảo hiểm xã hội bắt buộc.
- Hà Thị Hiền (2018), "Chế độ hưu trí theo Luật BHXH năm 2014 ở Việt Nam
hiện nay", Luận văn thạc sĩ Luật học, Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam, Học viện KH
- XH.
- Hoàng Hồng Giang (2015) đã thực hiện đề tài luận văn thạc sĩ: "Một số biện pháp
tăng cường quản lý công tác thu BHXH bắt buộc tại BHXH thành phố Hải Phòng".
- Luận văn của Nguyễn Thị Thúy (2014), Bảo hiểm xã hội bắt buộc trong Luật
bảo hiểm xã hội và thực tiễn thi hành trên địa bàn thành thành phố Hà Nội, Luận văn
thạc sĩ luật học, Khoa Luật - Đại học Quốc Gia Hà Nội.
- Luận văn của Nguyễn Thị La Giang (2015), Pháp luật về bảo hiểm xã hội bắt
buộc và thực tiễn ở Hà Nội, Luận văn thạc sĩ Luật học, Khoa Luật- Đại học Quốc gia
Hà Nội.
- Luận án Tiến sĩ của tác giả Phạm Trường Giang (2013), Hoàn thiện cơ chế thu
bảo hiểm xã hội ở Việt Nam, Học viện khoa học xã hội.
- Đề tài khoa học cấp Bộ (2013): Cơ sở khoa học hoàn thiện quy trình quản lý
thu bảo hiểm xã hội, Chủ nhiệm Tiến sĩ Dương Xuân Triệu, cấp Bộ LĐ-TBXH.
- Bài viết Lê Quang Thắng (2018), Bình luận tội trốn đóng bảo hiểm xã hội, bảo
hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp cho người lao động theo BLHS năm 2015, Tạp chí
Kiểm sát số 9/2018.
- Bài viết của tác giả Phan Tiến Anh (2016) , Nhận diện một số thủ đoạn thực
hiện hành vi vi phạm pháp luật trong lĩnh vực bảo hiểm xã hội và biện pháp phòng
ngừa. Tạp chí kiểm sát số 6
Các bài viết, công trình nghiên cứu nêu trên đã góp phần tạo ra các cơ sở lý luận
và chỉ ra được những vấn đề thực tiễn cho việc hoàn thiện pháp luật BHXH bắt buộc,
3
tuy nhiên các công trình này còn tản mạn, hoặc nếu viết về pháp luật BHXH chưa
làm rõ thực trạng pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật BHXH bắt buộc tại một
địa phương cụ thể. Do vậy, luận văn tập trung nghiên cứu và làm sáng rõ thêm những
vấn đề lý luận về bảo hiểm xã hội bắt buộc nói chung và tình hình thực hiện bảo hiểm
xã hội bắt buộc trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn nói riêng để từ đó đưa ra giải pháp nhằm
nâng cao hiệu quả các quy định của Luật Bảo hiểm xã hội bắt buộc.
3. Mục đích và nhiệm vụ của nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của đề tài là góp phần làm rõ một số vấn đề lý luận và
pháp luật về bảo hiểm xã hội bắt buộc cũng như thực tiễn thi hành trên địa bàn tỉnh
Lạng Sơn. Từ đó đề xuất một số kiến nghị nhằm góp phần hoàn thiện pháp luật bảo
hiểm xã hội bắt buộc và nâng cao hiệu quả thực hiện bảo hiểm xã hội bắt buộc trên
địa bàn tỉnh Lạng Sơn.
Với mục đích nghiên cứu như trên, nhiệm vụ nghiên cứu được xác định trên
những nội dung chủ yếu sau:
- Phân tích làm rõ một số vấn đề lý luận về bảo hiểm xã hội bắt buộc.
- Đánh giá thực trạng các quy định pháp luật về bảo hiểm xã hội bắt buộc để từ đó
đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về lĩnh vực này.
- Đánh giá tình hình thực hiện pháp luật về bảo hiểm xã hội bắt buộc trên địa
bàn tỉnh Lạng Sơn.
- Đề xuất một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về bảo hiểm xã hội bắt
buộc và nâng cao hiệu quả thực hiện tại tỉnh Lạng Sơn.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu pháp luật về bảo hiểm xã hội bắt buộc trong giới hạn
nghiên cứu của đề tài. Luận văn nghiên cứu một số vấn đề lý luận về bảo hiểm xã hội
bắt buộc, thực trạng áp dụng pháp luật về bảo hiểm xã hội bắt buộc tại tỉnh Lạng Sơn
trong giai đoạn hiện nay.
Về mặt không gian: Luận văn nghiên cứu pháp luật về bảo hiểm xã hội bắt buộc
tại địa bàn tỉnh Lạng Sơn trên cơ sở các văn bản pháp luật như: Bộ luật Lao động,
Luật Bảo hiểm xã hội và các văn bản pháp luật khác điều chỉnh về bảo hiểm xã hội
bắt buộc.
4
Về mặt thời gian: Luận văn tập trung nghiên cứu các quy định của pháp luật về
bảo hiểm xã hội bắt buộc tại tỉnh Lạng Sơn trong giai đoạn hiện nay từ năm 2016-
2019.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn chủ yếu dựa trên cơ sở phương pháp luận của triết học Mác – Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm, đường lối của Đảng, các văn bản pháp luật
của Nhà nước về bảo hiểm xã hội bắt buộc và quan điểm của Tổ chức Lao Động Quốc
tế (ILO) về bảo hiểm xã hội bắt buộc qua một số Công ước quốc tế mà Việt Nam đã
tham gia ký kết, quan điểm duy vật biện chứng và duy vật lịch sử. Ngoài ra, các
phương pháp nghiên cứu cụ thể phù hợp với từng lĩnh vực của đề tài như: phương
pháp phân tích, tổng hợp, so sánh, logic, thống kê…cũng được sử dụng trong quá
trình nghiên cứu.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
- Luận văn góp hệ thống hóa những vấn đề lý luận cơ bản về bảo hiểm xã hội
bắt buộc như khái niệm, đặc điểm, vai trò, sự điều chỉnh của pháp luật đối với bảo
hiểm xã hội bắt buộc.
- Trên cơ sở phân tích và đánh giá thực trạng pháp luật về bảo hiểm xã hội bắt
buộc và thực tiễn thực hiện tại Lạng Sơn. Luận văn đã đề xuất ra giải pháp quan trọng
nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả việc thực hiện pháp luật về bảo hiểm
xã hội bắt buộc tại Lạng Sơn. Những giải pháp này có tính chất tham khảo cho các
cơ quan có thẩm quyền xây dựng, hoàn thiện pháp luật về BHXH bắt buộc.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn có bố
cục 3 chương như sau:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về pháp luật về bảo hiểm xã hội bắt buộc
và pháp luật về bảo hiểm xã hội bắt buộc
Chương 2: Thực trạng quy định pháp luật bảo hiểm xã hội bắt buộc và
thực tiễn thực hiện trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn.
Chương 3: Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật bảo hiểm xã hội
bắt buộc và nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về bảo hiểm xã hội bắt buộc
trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn
5
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI BẮT BUỘC VÀ
PHÁP LUẬT VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI BẮT BUỘC
1.1. Một số vấn đề lý luận về bảo hiểm xã hội bắt buộc
1.1.1. Khái niệm bảo hiểm xã hội bắt buộc
Bảo hiểm xã hội có thể được coi là một sự hỗ trợ chắc chắn đối với bất kì mọi
người, bảo hiểm xã hội ra đời và phát triển là một quá trình thích ứng và xử lý những
vấn đề liên quan đến nhu cầu con người.
BHXH đã xuất hiện từ rất lâu đời xuất phát từ thế kỷ XIII ở Nam Âu khi nền
công nghiệp và kinh tế hàng hóa bắt đầu phát triển, BHXH ban đầu xuất hiện chỉ
mang tính chất xơ khai với phạm vi khá nhỏ hẹp. Từ thế kỉ XVI đến thế kỉ XVII một
số nghiệp đoàn thợ thủ công ra đời, để bảo vệ lẫn nhau trong hoạt động nghề nghiệp
họ đã thành lập nên các quỹ tương trợ để giúp đỡ lẫn nhau, như năm 1473 tại Anh đã
thành lập hội "bằng hữu" để giúp đỡ các hội viên khi bị ốm đau, tai nạn nghề nghiệp.
Hệ thống BHXH lần đầu tiên trên thế giới được hình thành vào giữa thế kỉ XIX là
công trình của Chính phủ Đức dưới thời Thủ tướng Bismarck. Năm 1893 Thụy Sĩ lập
quỹ bảo hiểm thất nghiệp theo hình thức tự nguyện với cơ chế ba bên (Nhà nước -
giới chủ - giới thợ) cùng đóng góp nhằm bảo hiểm cho người lao động trong một số
trường hợp họ gặp rủi ro. Mô hình này của Đức đã lan dần ra châu Âu, sau đó sang
các nước Mỹ Latin, rồi đến Bắc Mỹ và Canada vào những năm 30 của thế kỷ XX.
Sau chiến tranh thế giới thứ hai, BHXH đã lan rộng ra các nước giành độc lập ở châu
Á, châu Phi và vùng Caribe. Đến đầu thế kỷ XX có nhiều nước công nghiệp châu Âu
đã ban hành Luật bảo hiểm thất nghiệp theo hình thức tự nguyện được nhà nước trợ
cấp.
Theo ILO: "BHXH là sự bảo vệ của xã hội đối với các thành viên của mình
thông qua một loạt các biện pháp công cộng để đối phó với khó khăn về kinh tế xã
hội do bị ngừng hoặc bị giảm nhiều về thu nhập, gây ra bởi ốm đau, mất khả năng lao
động, tuổi già và chết, việc cung cấp chăm sóc y tế và trợ cấp cho các gia đình đông
con". Tác phẩm: "Một số vấn đề về chính sách đảm bảo xã hội ở nước ta hiện nay”:
6
"BHXH chính là một quá trình tổ chức và sử dụng một quỹ tiền tệ tập trung được tồn
tích dần do sự đóng góp của NSDLĐ và NLĐ dưới sự điều tiết của nhà nước, nhằm
đảm bảo một phần thu nhập để thỏa mãn những nhu cầu sinh sống thiết yếu của NLĐ
và gia đình gặp phải những biến cố làm giảm hoặc mất khả năng thu nhập lao động".
Bảo hiểm xã hội là sự bảo đảm thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập của
NLĐ khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập do ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh
nghề nghiệp, hết tuổi lao động hoặc chết, trên cơ sở đóng vào quỹ bảo hiểm xã hội.
Bảo hiểm xã hội bắt buộc là loại hình bảo hiểm xã hội do Nhà nước tổ chức mà
NLĐ và người sử dụng lao động phải tham gia
“Bảo hiểm xã hội bắt buộc là loại hình bảo hiểm xã hội do Nhà nước tổ chức
mà NLĐ và NSDLĐ phải tham gia”.
Bảo hiểm xã hội có thể đảm bảo chắc chắn, ổn định và bền vững khi có sự tổ
chức của Nhà nước với những quy định mang tính bắt buộc để có thể hình thành nên
một quỹ tiền tệ tập chung ở một phạm vi vô cùng lớn và đây cũng chính là cơ sở cho
việc hình thành nên hình thức bảo hiểm xã hội ở phạm vi lớn đồng thời hình thành
hình thức bảo hiểm xã hội bắt buộc.
1.1.2. Đặc điểm bảo hiểm xã hội bắt buộc
Dựa trên các quy định theo công ước ILO và các văn bản pháp luật về bảo hiểm
xã hội bắt buộc của các đã ban hành, ta có thể bảo hiểm xã hội bắt buộc mang những
đặc điểm cơ bản dưới đây:
Thứ nhất, việc tham gia loại hình bảo hiểm xã hội này mang tính chất bắt buộc
Việc tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc không phụ thuộc vào ý chí của NLĐ
đồng ý tham gia hay do NSDLĐ quyết định NLĐ có được tham gia hay không mà
loại hình bảo hiểm này mang tính chất bắt buộc, NLĐ và NSDLĐ buộc phải thực
hiện nghiêm túc bởi, mục đích chủ yếu của BHXH là đảm bảo nguồn thu nhập cho
NLĐ khi gặp những khó khăn trong cuộc sống lúc giảm hoặc mất nguồn thu nhập.
BHXH bắt buộc là sự bù đắp một phần thu nhập cho NLĐ khi NLĐ bị suy giảm hay
mất khả năng lao động dẫn đến bị suy giảm hay mất thu nhập. BHXH buộc sẽ bù đắp
thu nhập cho NLĐ khi NLĐ đang tham gia vào quan hệ lao động hoặc kể cả khi chấm
dứt quan hệ lao động hay khi NLĐ chết.
7
BHXH bắt buộc luôn chứa đựng vai trò đan xen cả về kinh tế và xã hội. Vai trò
của pháp luật là xác lập được hình thức pháp luật nhất định và đảm bảo thực hiện bởi
các cơ chế pháp luật thích hợp nhằm kết hợp hài hòa nội dung kinh tế và xã hội trong
BHXH phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội của đất nước, trên cơ sở quyền và lợi ích
hợp pháp, chính đáng của các bên trong quan hệ BHXH. Vậy nên việc tham gia
BHXH không chỉ bắt buộc với NLĐ hay NSDLĐ mà bắt buộc đối với cả Nhà nước
Thứ hai, pháp luật ban hành quy định cụ thể về mức đóng và phương thức đóng
loại hình bảo hiểm xã hội
Nếu trong trường hợp NLĐ tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện thì người tham
gia được lựa chọn phương thức đóng và mức thu nhập tháng làm căn cứ đóng bảo hiểm
xã hội thì NLĐ tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc được ấn định cụ thể vô cùng chi tiết.
Mức đóng của BHXH bắt buộc không chỉ NLĐ phải đóng toàn bộ mức mà phải có sự
đóng góp của NSDLĐ. Mức đóng và phương thức đóng của NLĐ cần được quy định
chi tiết để NLĐ có thể tự thấy được mức đóng hàng tháng, phương thức đóng của bản
thân và quan trọng nhất là dựa vào đó có thể nhận biết căn cứ được hưởng chế độ theo
quy định đồng thời qua Luật còn nêu một số trường hợp NLĐ không đủ cơ sở để tham
gia BHXH bắt buộc, điều kiện tính hưởng các chế độ,…
Thứ ba, những người tham gia loại hình bảo hiểm xã hội bắt buộc này sẽ được
hưởng nhiều chế độ hơn loại hình bảo hiểm xã hội khác
Đối với người tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc, họ sẽ được hưởng các chế độ
theo các quy định như sau: ốm đau; thai sản; hưu trí; tử tuất; các bệnh về tai nạn lao
động, bệnh nghề nghiệp,... Đặc biệt là đối với chế độ thai sản cho NLĐ, hiện BHXH
tự nguyện chưa có chế độ thai sản, điều này sẽ gây bất lợi vô cùng lớn cho NLĐ nữ
khi trong quá trình mang thai và sinh con phát sinh rất nhiều việc như khám thai, sinh
nở và quá trình nuôi con trong vòng 4 - 6 tháng đầu chưa kể có thể gặp những việc
không may trong quá trình mang thai như phải phẫu thuật,... thời gian này lao động
nữ không thế lao động để có thể tạo ra thu nhập.
Ở trong những trường hợp cụ thể khác, với các chế độ cụ thể mà pháp luật đặt
ra cho họ thì NLĐ sẽ được những điều kiện nhất định Nhà nước phải đáp ứng.
Các nguyên tắc của bảo hiểm xã hội bắt buộc:
8
Khi tiến hành tổ chức và thực hiện chính sách BHXH, các quốc gia đều lựa chọn
hình thức, cơ chế và mức độ thoả mãn các nhu cầu BHXH phù hợp với tập quán, khả
năng trang trải và định hướng phát triển kinh tế - xã hội của quốc gia mình, đồng thời
cũng nhận thức thống nhất các quan điểm cơ bản về BHXH. Đó là những nguyên lý,
những quy định được đặt ra và thực hiện xuyên suốt trong mọi hoạt động của BHXH,
BHXH bắt buộc là một trong các loại hình bảo hiểm, lại chủ yếu hàng mục đích xã
hội, BHXH vừa phải thực hiện các nguyên tắc chung của hoạt động bảo hiểm, vừa
phải thực hiện các nguyên tắc mang tính xã hội của mình. Cụ thể, BHXH bắt buộc
được thực hiện theo các nguyên tắc sau:
Thứ nhất, mức hưởng BHXH bắt buộc được tính trên cơ sở mức đóng, thời gian
đóng BHXH và có chia sẻ giữa những người tham gia BHXH.
BHXH bắt buộc là loại bảo hiểm vừa mang tính kinh tế vừa mang tính xã hội.
Tính kinh tế của BHXH bắt buộc thể hiện ở chức năng tổ chức phân phối thu nhập,
đảm bảo đời sống của cá nhân cũng như của gia đình NLĐ. Để thực hiện việc phân
phối đó một cách hiệu quả, BHXH bắt buộc trong quá trình triển khai phải có sự kết
hợp hài hòa giữa cống hiến và hưởng thụ và sự tương xứng tương đối giữa mức đóng
và mức hưởng. Tuy nhiên, ngoài ra BHXH bắt buộc còn mang tính xã hội, trong đó
nổi trội là sự chia sẻ những rủi ro xã hội, lấy số đông bù số ít.
Mức hưởng của BHXH bắt buộc cần đảm bảo sự hợp lý giữa mức đóng góp và
mức hưởng thụ và căn cứ vào sự cống hiến của NLĐ như mức đóng góp, thời gian
đóng góp cho các quỹ bảo hiểm xã hội... để dựa vào đó quy định mức trợ cấp và độ
dài thời gian hưởng sao cho phù hợp với sự đóng góp cho xã hội của NLĐ. Sự tương
xứng giữa mức đóng và mức hưởng của BHXH bắt buộc chỉ mang tính chất tương
đối bởi không phải NLĐ cứ đóng góp vào quỹ bảo hiểm xã hội bao nhiêu thì sẽ nhận
được bấy nhiều chế độ bảo hiểm xã hội.
Mặc dù mức hưởng phải căn cứ trên cơ sở mức đóng, thời gian đóng BHXH
nhưng vẫn mang tính chất chia sẻ, hỗ trợ giữa những người tham gia bảo hiểm. Điều
này được thể hiện ngay từ việc đóng góp của họ vào quỹ BHXH. Để được hưởng các
chế độ BHXH bắt buộc thì đối tượng thụ hưởng phải đáp ứng các điều kiện luật định.
Hơn nữa, trong số đông những người tham gia đóng góp (NSDLĐ, NLĐ và Nhà
9
nước) thì chỉ có NLĐ mới là đối tượng được hưởng trợ cấp. Vì thế số trợ cấp mà họ
nhận được thưởng lớn hơn rất nhiều số tiền mà họ đã đóng góp. Và việc chi trả các
chế độ BHXH bắt buộc được tiến hành trên cơ sở lấy kết quả của số đông người tham
gia để bù cho số ít người được hưởng. Ngoài ra, đây cũng là cách mà cộng đồng giúp
đỡ những đối tượng gặp rủi ro mà nếu không có sự chia sẻ, tương trợ cộng đồng thì
sẽ gặp rất nhiều khó khăn trong cuộc sống.
Thứ hai, mức đóng BHXH bắt buộc được tính trên cơ sở tiền lương, tiền công
của NLĐ.
Đối tượng của BHXH bắt buộc là phần thu nhập của NLĐ trong trường hợp bị
giảm hoặc bị mất đi do bị giảm hoặc mất khả năng lao động, mất việc làm. Cho nên
mức đóng BHXH bắt buộc phải căn cứ vào mức thu nhập được bảo hiểm thì mới đảm
bảo nguyên tắc mức hưởng của BHXH bắt buộc phải tính trên cơ sở mức đóng.
Mức thu nhập được bảo hiểm là mức tiền lương hoặc một mức thu nhập bằng
tiền nào đó do Nhà nước quy định. Mức thu nhập này là công cụ để Nhà nước giám
sát, kiểm tra, điều tiết trên giác độ quản lý vĩ mô đối với BHXH bắt buộc và quản lý
lao động trong nền kinh tế quốc dân. Yêu cầu trong việc lựa chọn mức thu nhập được
bảo hiểm được Nhà nước quán triệt là phải dựa trên cơ sở mức sống, mức thu nhập
bình quân thực tế của đại đa số NLĐ... để đảm bảo cho mức thu nhập này luôn thăng
bằng tương đối, đảm bảo đời sống cho NLĐ tham gia bảo hiểm và gia đình họ. Mức
đóng BHXH bắt buộc được tính trên cơ sở tiền công, tiền lương của NLĐ. Nguyên
tắc này là phù hợp với xu hướng chung hiện nay, đảm bảo được sự cân bằng giữa
mức đóng BHXH với mức thu nhập của NLĐ. Hơn nữa, nó cũng đảm bảo sự ổn định
cho quỹ BHXH trước sự biến động của giá cả thị trường. Bên cạnh đó, cùng với
nguyên tắc thứ nhất, nguyên tắc này sẽ tạo nên sự bình đẳng tương đối giữa những
người tham gia BHXH trong việc thụ hưởng quyền lợi khi mức đóng góp của mỗi
người là không giống nhau, bởi vì mức hưởng thì tính trên cơ sở mức đóng BHXH
và mức đóng BHXH thì lại được tính trên cơ sở tiền lương, tiền công của NLĐ, từ đó
tạo ra sự cân xứng trong việc đóng góp và thụ hưởng.
Thứ ba, NLĐ vừa có thời gian đóng BHXH bắt buộc vừa có thời gian đóng
BHXH tự nguyện được hưởng chế độ hưu trí và chế độ tử tuất trên cơ sở thời gian đã
10
đóng BHXH. Thời gian đóng BHXH đã được tính hưởng BHXH một lần thì không
được tính vào thời gian làm cơ sở tính hưởng các chế độ BHXH .
Theo quy định của pháp luật về hình thức thi BHXH gồm có BHXH bắt buộc
và BHXH tự nguyện. Mặc dù số lượng người tham gia mỗi loại BHXH không giống
nhau nhưng đều về phương diện pháp lý, việc tham gia BHXH bắt buộc hay BHXH
tự nguyện đều tạo nên các quyền lợi về BHXH có giá trị như nhau. Xét trên thực tế,
có rất nhiều trường hợp NLĐ có thể có những thời gian tham gia BHXH theo các loại
hình khác nhau. Từ đó đặt ra yêu cầu giải quyết quyền lợi cho họ sao cho hợp lý nhất.
Đây là quy định được Luật BHXH nâng lên thành nguyên tắc cơ bản, nhảm đảm
bảo quyền lợi của NLĐ và tính liên thông trong quan hệ bảo hiểm xã hội, hạn chế
tình trạng thực tế có rất nhiều NLĐ bị"cắt xén"quyền lợi khi rơi vào trường hợp như
trên.
Thứ tư, việc thực hiện BHXH bắt buộc phải đơn giản, dễ dàng, thuận tiện, bảo
đám kịp thời và đầy đủ quyền lợi của người tham gia BHXH bắt buộc
Người tham gia BHXH bắt buộc là NSDLĐ, NLĐ và nhà nước. Trong đó,
NSDLĐ là người có nghĩa vụ phải đóng góp bảo hiểm cho NLĐ nhưng họ lại không
đồng thời là người thụ hưởng. Cho nên, đối tượng chủ thể này thường ít khi mặn mà
với việc thực hiện trách nhiệm của mình. Để khuyến khích NSDLĐ thực hiện nghĩa
vụ trên, trình tự thủ tục đóng góp cũng như thực hiện BHXH bắt buộc phải giảm thiểu
sự phiền hà, phức tạp đến mức tối đa.
Những trường hợp được hưởng các chế độ BHXH bắt buộc là những trường
hợp xảy ra rủi ro làm giảm hoặc mất thu nhập của NLĐ. Trong tình huống đó, họ và
gia đình rất cần đến khoản tiền BHXH bắt buộc một cách kịp thời, nhanh chóng để
giải quyết khó khăn, ổn định cuộc sống. Chính vì vậy, việc thực hiện BHXH phải
đảm bảo đơn giản, dễ dàng, thuận tiện, kịp thời, đặc biệt là thủ tục hành chính để có
thể đảm bảo giải quyết một cách nhanh chóng, đầy đủ quyền lợi, đáp ứng yêu cầu cấp
thiết của người tham gia BHXH.
Có thể thấy rằng, mỗi nguyên tắc BHXH bắt buộc có một nội dung riêng, phản
ánh những quy luật khách quan khác nhau của chính sách BHXH. Tuy vậy giữa chúng
luôn tồn tại mối quan hệ tác động qua lại với nhau, tạo thành một hệ thống thống
11
nhất, việc thực hiện tốt nguyên tắc này sẽ tạo tiền đề cho việc thực hiện có hiệu quả
các nguyên tắc khác. Cho nên trong hoạt động BHXH bắt buộc cần phải kết hợp thực
hiện các nguyên tắc nhằm nâng cao hiệu quả của việc quản lý, tổ chức thực hiện các
chính sách BHXH bắt buộc.
1.2. Vai trò của pháp luật bảo hiểm xã hội bắt buộc
Từ hai trường phái phái Bismarck hoặc theo trường phái Beveridge hoặc là trường
phái hỗn hợp khác cùng với sự phát triển kinh tế - xã hội, ta thấy về bản chất vẫn có sự
khác nhau với những cơ chế khác nhau, cho dù BHXH là một bộ phận quan trọng của
ASXH. Định hình được hướng đi cho một mô hình, một hệ thống BHXH phụ thuộc nhiều
vào ý chí của nhà nước và của thể chế chính trị của mỗi quốc gia.
Với cách tiếp cận nêu trên, quay trở lại với mục tiêu của nước ta là BHXH toàn
dân, cần phải làm rất rõ khái niệm toàn dân. Trên thế giới có khái niệm là BHXH phổ
cập. Phổ cập khác với toàn dân ở chỗ bảo hiểm phổ cập là bảo hiểm cho mọi NLĐ
đều có thể tham gia và hưởng thụ ở mức tối thiểu theo luật định. Tuy nhiên BHXH
bắt buộc không chỉ có vai trò đối với NLĐ mà còn có vai trò đối với các quan hệ lao
động bao phủ lên đó.
Thứ nhất, đối với người lao động
BHXH bắt buộc được hình thành và phát triển chủ yếu là nhằm đảm bảo chính
sách cho NLĐ và người thân của họ khi gặp phải những khó khăn, làm giảm hoặc
mất một phần thu nhập. Đối với NLĐ là người được hưởng lợi chủ yếu do mục đích
của bảo hiểm xã hội là đảm bảo nguồn thu nhập cho NLĐ khi gặp những khó khăn
trong cuộc sống làm giảm hoặc mất nguồn thu nhập mà còn thể hiện trách nhiệm của
NLĐ đối với xã hội. Khi tham gia BHXH bắt buộc, việc chi dùng cá nhân của NLĐ
được nâng cao hiệu quả cho họ tiết kiệm được một khoản tiền nhỏ, đều đặn hàng
tháng để chi dùng khi già cả, mất sức lao động,... Đây không chỉ là nguồn hỗ trợ về
vật chất mà còn là nguồn động viên tinh thần to lớn đối với mỗi cá nhân khi gặp khó
khăn, giúp họ ổn định về mặt tâm lý, ổn định chính sách cho bản thân và gia đình khi
gặp bất trắc. Không chỉ đối với riêng NLĐ mà còn hỗ trợ cuộc sống thân nhân NLĐ
khi NLĐ không may qua đời.
Thứ hai, đối với người sử dụng lao động
12
Cũng giống mục đích của BHXH bắt buộc đối với NLĐ đó là BHXH bắt buộc
thay NSDLĐ chi trả thu nhập hoặc một phần thu nhập cho NLĐ khi gặp khó khăn
làm giảm hoặc mất nguồn thu nhập dẫn đến việc ảnh hưởng chất lượng lao động.
Ngoài ra còn tăng cường hiệu quả mối quan hệ bền chắc giữa các thành viên trong
quan hệ lao động và tạo điều kiện để NSDLĐ có trách nhiệm với NLĐ trong suốt
cuộc đời NLĐ cho những đóng góp của họ với doanh nghiệp.
Thứ ba, đối với Nhà nước
Bảo hiểm xã hội bắt buộc luôn chứa đựng vai trò đan xen cả về kinh tế và xã
hội. Vai trò của pháp luật là xác lập được hình thức pháp luật nhất định và đảm bảo
thực hiện bởi các cơ chế pháp luật thích hợp nhằm kết hợp hài hòa nội dung kinh tế
và xã hội trong Bảo hiểm xã hội phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội của đất nước,
trên cơ sở quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của các bên trong quan hệ bảo hiểm
xã hội. BHXH vốn là một trong bốn trụ cột của hệ thống An sinh xã hội của Nhà nước
hiện nay và nhìn vào hệ thống BHXH bắt buộc của quốc gia có thể biết được trình độ
phát triển của quốc gia đó.
Qua các nội dung trên ta thấy vai trò của BHXH bắt buộc là rất lớn và là một
khâu không thể thiếu trong việc thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh” góp phần
vào ổn định và phát triển kinh tế đất nước.
1.3. Nội dung pháp luật bảo hiểm xã hội bắt buộc
Tùy thuộc vào điều kiện kinh tế xã hội mà các quốc gia có những quy định khác
nhau về BHXH bắt buộc. Song nhìn chung về nội dung pháp luật BHXH bắt buộc
của hầu hết các quốc gia thường quy định về các nội dung như đối tượng tham gia,
quỹ BHXH bắt buộc và các chế độ BHXH bắt buộc, thanh tra, xử lý vi phạm và giải
quyết các vấn đề về BHXH bắt buộc.
1.3.1. Đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc.
Theo đánh giá của ILO, thì bảo hiểm xã hội là một bộ phận quan trọng nhất của
bảo đảm xã hội. Bởi vì, BHXH có đối tượng áp dụng chiếm tỷ lệ cao và sự "che chắn"
của BHXH là ổn định, vững chắc. Ở các nước theo báo cáo của tổ chức lao động quốc
tế, lực lượng lao động thường chiếm từ 55% đến 70% dân số. Điều đó cho thấy đối
tượng trực tiếp của BHXH bắt buộc là NLĐ nói chung. Nhưng trên thực tế, do điều
13
kiện kinh tế, chính trị, xã hội của mỗi nước nên phạm vi, đối tượng áp dụng các chế
độ BHXH có khác nhau. Có nước chỉ thực hiện BHXH đối với công nhân, viên chức
Nhà nước, ví dụ như Lào, có nước áp dụng với cả NLĐ làm công ăn lương, ví dụ như
Philippin, Thái Lan; có nước hầu như áp dụng cho mọi NLĐ, ví dụ như ở Liên Xô
cũ, Australia. Mục tiêu hiện nay của các nước là mở rộng đối tượng áp dụng BHXH
đến mọi lao động. Ngoài đối tượng thụ hưởng là NLĐ thì khi NLĐ xảy ra điều không
mong muốn thì thân nhân của NLĐ cũng sẽ được hưởng trợ cấp là chế độ này ở các
nước gọi là chế độ tiền tuất.
Trong BHXH, nếu NLĐ tham gia quan hệ lao động thuộc đối tượng bảo hiểm
bắt buộc thì NSDLĐ có nghĩa vụ phải tham gia đóng phí bảo hiểm cho những lao
động đó. Do vậy, NSDLĐ cũng chính là đối tượng áp dụng của BHXH bắt buộc.
Trên thực tế, tùy theo nhu cầu tham gia bảo hiểm và trình độ quản lý rủi ro của
từng hệ thống bảo hiểm mà đối tượng tham gia có quy mô lớn hay nhỏ. Ở những nước
phát triển, lao động làm công chiếm tỷ lệ lớn trong tổng số lao động. Nhà nước có
khả năng quản lý rủi ro xã hội ở mức độ cao thì có quy mô đối tượng tham gia BHXH
lớn. Ngoài ra, còn có hình thức bảo hiểm tự nguyện cho các đối tượng khác. Đại diện
cho nhóm các quốc gia này có thể kể đến Anh, Đan Mạch, Hà Lan... Tại Anh, “Chế
độ bảo hiểm quốc gia là chế độ bảo hiểm phổ thông và có xu hướng phủ toàn bộ dân
cư thường trú tại Anh: người làm công ăn lương, lao động độc lập và người không
làm việc”
Theo báo cáo của tổ chức lao động quốc tế ILO, những người được bảo hiểm
được chia thành 4 loại:
Loại 1: Loại này liên quan đến người làm công ăn lương mà thu nhập hàng tuần
vượt quá sàn 57 bảng.
Loại 2 và 4; Các loại này liên quan đến những NLĐ độc lập chịu một sự đóng
góp hàng tuần ấn định. NLĐ độc lập mà thu nhập vượt quá một sàn nào đó phải trả
tiền đóng bảo hiểm bổ sung với danh nghĩa của loại 4;
Loại 3: Đối tượng liên quan trước hết là những người không thuộc các loại khác
hoặc việc đóng góp thường xuyên không đủ để có các quyền đối với một số trợ cấp
có sự tham gia đóng góp.
14
Tại Hà Lan lại song song tồn tại hai hệ thống BHXH, một cho riêng người làm
công ăn lương và hai là áp dụng cho toàn bộ cư. Mặt khác, tồn tại các trợ cấp xã hội
không có sự đóng góp. BHXH của những người làm công ăn lương bảo đảm chi phí
duy nhất cho những người làm công ăn lương và những người giống như vậy. Để
được thụ hưởng BHXH này, phải có một HĐLĐ, ít nhất giống như người làm công
ăn lương. Đó là trường hợp người học nghề, những NLĐ tại nhà hoặc trong các phân
xưởng được bảo hiểm.
Những NLĐ thật sự độc lập không giống người làm công ăn lương và công chức
có chế độ riêng. Người làm công ăn lương mà thu nhập dưới một trần tham gia phải
thuộc chế độ ZFW (bảo hiểm ốm đau). Trần này hiện nay là 58.950 florin một năm.
Chế độ ZFW cũng đảm bảo những người nhận trợ giúp xã hội. Vượt lên trần, những
người làm công ăn lương không thể lựa chọn để tham gia tự nguyện vào chế độ ZFW,
nhưng có thể gia nhập một chế độ tự nhãn bảo hiểm ốm đau. Mặc dù không có một
nghĩa vụ nào, hầu hết tất cả những người liên quan đã làm như vậy. Bảo hiểm quốc
gia bảo đảm chế độ bảo hiểm cho tất cả những người sống ở Hà Lan, cũng như những
người không thường trú với điều kiện họ đang làm việc ở Hà Lan và trả thuế về lượng
(Nguồn báo cáo của tổ chức lao động quốc tế-ILO) .
Qua nghiên cứu thực tiễn quy định về đối tượng áp dụng của một số nước trên
thế giới cho thấy với đối tượng áp dụng rộng lớn, cùng với hệ thống trợ cấp toàn diện,
BHXH bắt buộc thực sự phục vụ đời sống con người, góp phần bảo đảm cho xã hội
an toàn, phát triển.
1.3.2. Các chế độ bảo hiểm xã hội bắt buộc
Trong giáo trình Bảo hiểm xã hội của Trường Đại học Lao động – Xã hội đã
nhận định về Chế độ bảo hiểm xã hội như sau: "Chế độ bảo hiểm xã hội là các trường
hợp được bảo hiểm do Nhà nước quy định cho người hưởng bảo hiểm, theo các mức
hưởng và thời gian hưởng khác nhau, khi có đủ điều kiện bảo hiểm phát sinh", "Chế
độ bảo hiểm xã hội là sự cụ thể hoá chính sách bảo hiểm xã hội, là hệ thống các quy
định cụ thể và chi tiết nhằm thực hiện chính sách bảo hiểm xã hội đối với NLĐ. Nói
cách khác, đó là hệ thống các quy định được pháp luật hoá về đối tượng, điều kiện để
được hưởng mức hưởng, thời hạn hưởng, nghĩa vụ và mức đóng góp cho từng chế độ
15
bảo hiểm xã hội cụ thể. Các quan điểm cơ bản đã bao trùm đầy đủ các nội dung của
chế độ BHXH bắt buộc và có vai trò quan trọng trong việc lựa chọn và thực hiện các
chế độ BHXH. Chế độ BHXH bắt buộc được cụ thể hoá dưới dạng các văn bản pháp
luật và dưới luật, các thông tư, điều lệ... Vì thế, khi thực hiện mỗi chế độ thường phải
nắm vững những vấn đề mang tính cốt lõi của chính sách BHXH để đảm bảo sự đúng
đắn và tính nhất quán trong toàn bộ hệ thống các chế độ BHXH bắt buộc.
Theo khuyến nghị của ILO đã nêu trong Công ước số 102 tháng 6 năm 1952 tại
Giơnevơ, hệ thống chế độ ASXH bao gồm 9 chế độ sau Chăm sóc y tế; Trợ cấp ốm
đau; Trợ cấp thất nghiệp; Trợ cấp tuổi già; Trợ cấp tai nạn lao động, bệnh nghề
nghiệp; Trợ cấp gia đình; Trợ cấp sinh đẻ; Trợ cấp khi tàn phế; Trợ cấp tiền tuất.
Tùy theo điều kiện kinh tế, xã hội mà mỗi nước tham gia Công ước thực hiện
khuyến nghị đó ở mức độ khác nhau, nhưng ít nhất phải thực hiện được ba chế độ.
Trong đó, ít nhất phải có một trong năm chế độ: trợ cấp thất nghiệp, trợ cấp tuổi già,
trợ cấp TNLĐ, BNN, trợ cấp khi tàn phế và trợ cấp tiền tuất. Khi đã được pháp luật
quy định, nội dung của các chế độ BHXH thường bao gồm việc xác định mục đích
thực hiện chế độ, xác định đối tượng bảo hiểm, điều kiện được trợ cấp, xác định mức
trợ cấp và thời gian trợ cấp BHXH. Cho tới nay, tất cả các quốc gia trên thế giới đã
ban hành hệ thống pháp luật về ASXH, trong đó có BHXH bắt buộc và không ngừng
hoàn thiện hệ thống các chế độ trợ cấp.
Hiện nay, việc thực hiện các chế độ BHXH bắt buộc trên thế giới có thể chia
thành hai mô hình chính nằm trong hệ thống ASXH: mô hình Bismarck (Đức, Pháp)
và mô hình Mỹ, Anh. Mô hình Bismarck được áp dụng khá phổ biến ở các nước Tây
Âu (Đức, Pháp) hay Bắc Âu (Thụy Điển, Phần Lan) do thủ tướng Đức Bismarck là
người sáng lập. Trong mô hình này BHXH được coi là trụ cột trong hệ thống ASXH.
Mục tiêu là hầu hết các thành viên trong xã hội đều được "bao bọc", nên diện bao phủ
rất rộng. Bao gồm chăm sóc y tế (BHYT), trợ cấp ốm đau, thất nghiệp, thai sản, tai
nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, trợ cấp tuổi già (hưu trí), trợ cấp gia đình, trợ cấp
tàn phế và trợ cấp mất người nuôi dưỡng. Trong đó, Thụy Điển là một trong những
quốc gia có các chế độ bảo hiểm xã hội bắt buộc đầy đủ theo khuyến nghị của ILO
16
tại Công ước 102. Chế độ BHXH Thụy Điển bao gồm chế độ chung dựa vào nơi cư
trú và trợ cấp gắn với công việc.
Không giống như mô hình ASXH của các nước Bắc Âu, mô hình ASXH của
Mỹ, Anh lại đề cao trách nhiệm cá nhân, Nhà nước chỉ tập trung cho những lực lượng
yếu thế trong xã hội. Nhà nước chi đảm bảo những mức trợ cấp thấp cho người dân
và khuyến khích lệ tham gia các dịch vụ bảo hiểm tư nhân. Vì theo quan điểm không
tạo gánh nặng cho ngân sách nhà nước, tạo tư tưởng lười biếng do lợi ích bị cào bằng,
mức trợ cấp của Nhà nước thường chỉ đảm bảo mức sống tối thiểu cho người được
Thưởng trợ cấp. Trong trường hợp muốn hưởng cao hơn, người dân phải tự tham gia
các sản phẩm bảo hiểm của công ty bảo hiểm. Đối với chính sách BHXH, Nhà nước
đảm bảo rất hạn chế trong phạm vi một số chế độ, chứ không phải toàn bộ chín chế
độ như theo mô hình Bismarck. Ví dụ, tại Mỹ, Nhà nước chỉ cung cấp trợ giúp cho
các chế độ BHXH bao gồm trợ cấp lưu trí, trợ cấp mất người nuôi dưỡng, trợ cấp mất
sức lao động, bảo hiểm y tế; còn lại, bảo hiểm TNLĐ, bảo hiểm thất nghiệp người
dân bắt buộc tự phải mua bảo hiểm tư nhân mà không có sự trợ giúp, bảo trợ của Nhà
nước.
Như vậy, qua tìm hiểu hệ thống các chế độ về BHXH bắt buộc một số nước trên
thế giới cho thấy, mô hình Bismarck có những ưu thế vượt trội trong việc bảo vệ
quyền lợi của người dân. Hầu như toàn bộ người dân (NLĐ làm công ăn lương, lao
động tự do, người thân của họ) đều được bảo vệ bởi chính sách BHXH với chín chế
độ thực hiện đầy đủ. Trong khi đó, các nước đang phát triển phần lớn chỉ mới thực
hiện được với người làm công, ăn lương. Do vậy, những ưu việt mà hệ thống các chế
độ BHXH bắt buộc ở các nước theo mô hình Bismarck, trong đó có Thụy Điển mang
lại cho người dân là những kinh nghiệm quý, rất đáng tham khảo.
Tuy nhiên hầu hết các quốc gia quy định các chế độ BHXH mang tính chất bắt
buộc thường bao gồm 5 chế độ: chế độ BHXH ốm đau; chế độ BHXH thai sản; chế
độ BHXH tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp; chế độ hưu trí và chế độ tử tuất.
Thứ nhất, chế độ ốm đau
Bảo hiểm ốm đau là một trong các chế độ BHXH ra đời sớm nhất trong lịch sử
hình thành và phát triển của pháp luật BHXH, Ở Đức, ngay từ những năm 50 của thế
17
kỷ XIX nhiều chính quyền bang đã quan tâm tới việc quy định và bắt buộc thực hiện
chế độ trợ cấp ốm đau đối với NLĐ. Đối tượng tham gia chế độ bảo hiểm ốm đau
ngày càng được mở rộng. Sau đó, nhiều nước châu Âu cũng đã cho ra đời các đạo
luật của mình có quy định về vấn đề bảo hiểm ốm đau. Đến đầu thế kỷ XX, bảo hiểm
ốm đau bắt đầu mở rộng hơn nhiều nước trên thế giới, đặc biệt là các nước Châu Mỹ.
Năm 1952, Tổ chức ILO đã thông qua Công ước số 102 với những quy phạm
tối thiểu về BHXH, Trong đó, điều 14 của Công ước quy định "các trường hợp phải
bảo vệ bao gồm sự mất khả năng lao động do đau ốm gây ra và dẫn đến gián đoạn
thu nhập, như pháp luật hoặc quy định quốc gia quy định ”.
Các đối tượng được trợ cấp ốm đau là những NLĐ bị ốm đau hoặc có con nhỏ
bị ốm đau và dẫn đến gián đoạn thu nhập, giúp người tham gia BHXH nhanh chóng
ổn định được cuộc sống, góp phần đảm bảo ASXH.
Điều kiện được hưởng trợ cấp ốm đau là những người tham gia BHXH bị ốm
đau, tạm thời nghỉ việc dẫn đến gián đoạn thu nhập sẽ được coi là đủ điều kiện được
hưởng trợ cấp ốm đau, Nếu có con nhỏ bị ốm, cũng có thể được nghỉ để chăm sóc
con tương tự như bản thân bị ốm. Việc trợ cấp có thể bị tạm ngừng trong các trường
hợp như: gian lận trong việc khai nhận trợ cấp, vắng mặt ở quốc gia...
Mức trợ cấp thường được quy định là một tỷ lệ phần trăm nhất định và nhỏ hơn
100% để tránh lạm dụng chế độ so với tổng thu nhập trước đó của người hưởng thụ
hoặc người trụ cột trong gia đình họ. Tuy nhiên vẫn phải bảo đảm cho người thụ
hưởng đủ điều kiện sinh sống lành mạnh và không thấp hơn mức tối thiểu.
Thứ hai, chế độ thai sản
Tổ chức ILO đã ban hành nhiều công ước và khuyến nghị thể hiện sự quan tâm,
bảo vệ sức khỏe, cũng như quyền lợi cho các lao động nữ liên quan đến thai sản. Đó
là Công ước số 3 năm 1919, Công ước số 102 năm 1952, Khuyến nghị số 95 (sửa đổi
năm 1952), công ước số 103 (xét lại năm 1952), công ước số 183 năm 2000 và
Khuyến nghị số 191... Ngoài ra, Tổ chức Liên hợp quốc (UN) cũng có một số công
ước đề cập vấn đề này, đó là: Công ước về quyền kinh tế, xã hội, văn hóa năm 1966,
Công ước về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ năm 1979.
18
Từ các công ước, khuyến nghị đó đến nay pháp luật của hầu hết các nước đều
quy định về chế độ bảo hiểm thai sản.
Đối tượng được trợ cấp thai sản bao gồm mọi phụ nữ là lao động làm công ăn
lương với số lượng tham gia tối thiểu là 50%, hoặc toàn bộ phụ nữ hoạt động kinh tế
thường trú trong nước với số lượng tham gia tối thiểu là 20%. Ngoài ra NLĐ nhận
nuôi con nuôi hay NLĐ nữ mang thai hộ, người mẹ nhờ mang thai hộ cũng là đối
tượng được hưởng trợ cấp thai sản.
Điều kiện hưởng trợ cấp thai sản được quy định Điều 47, Công ước số 102 chỉ
rõ: "Trường hợp bảo vệ gồm thai nghén, sinh đẻ và những hậu quả tiếp theo, và sự
gián đoạn thu nhập nảy sinh như pháp luật quốc gia quy định ". Đồng thời, để tránh
lạm dụng chế độ có thể bổ sung quy định về điều kiện hưởng trợ cấp thai sản như là
khoảng thời gian tham gia BHXH tối thiểu. Quy định về khoảng thời gian này tùy
theo điều kiện cụ thể của mỗi quốc gia trong từng thời kỳ.
Mức trợ cấp và thời gian trợ cấp đối với trường hợp thai nghén, sinh đẻ và các
hậu quả của sự kiện này (nếu có), NLĐ nữ sẽ được hưởng trợ cấp y tế về thai sản.
Trong trường hợp gián đoạn thu nhập vì các lý do trên, lao động nữ sẽ được chi trả
trợ cấp bằng tiền theo định kỳ. Mức trợ cấp phải đảm bảo cho họ có thể nuôi sống
bản thân và con mình trong điều kiện sức khỏe đảm bảo và một mức sống phù hợp.
Thời gian trợ cấp là toàn bộ thời gian được bảo vệ và không được ít hơn 12 tuần.
Thứ ba, chế độ bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp
Khi bị tai nạn lao động bệnh nghề nghiệp, một mặt NLĐ sẽ mất hoặc giảm thu
nhập từ lao động, mặt khác, các chi phí cho đời sống hàng ngày tăng lên đột ngột,
thậm chí xuất hiện nhiều loại chi phí mới. Từ đó, nhu cầu được bảo hiểm của NLĐ
và gia đình họ trong các trường hợp này càng trở nên cần thiết. Sau sự ra đời của chế
độ bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp có ý nghĩa ràng buộc trách nhiệm
của NSDLĐ đối với những rủi ro xảy ra trong quá trình lao động gắn liền với nghề
nghiệp của NLĐ đồng thời thể hiện sự quan tâm và trách nhiệm của Nhà nước đối
với lực lượng lao động và cộng đồng xã hội nói chung.
Đối tượng được trợ cấp được quy định theo Công ước 102, đối tượng thuộc diện
được bảo vệ bao gồm những người làm công ăn lương với số lượng tham gia tối thiểu
19
là 50%. Đối tượng được hưởng trợ cấp có thể bao gồm cả vợ góa hoặc con cái của
NLĐ trong trường hợp họ bị tai nạn lao động hoặc bệnh nghề nghiệp và bị tử vong.
Trường hợp này gọi là trợ cấp tiền tuất cho người thân của họ.
Điều kiện được hưởng trợ cấp là NLĐ gặp rủi ro tai nạn lao động hoặc mắc bệnh
nghề nghiệp theo danh mục các bệnh nghề nghiệp đã quy định.
Mức trợ cấp đối với tình trạng đau ốm là các chi phí y tế bao gồm chi phí chăm
sóc sức khỏe khi điều trị nội trú và ngoại trú. Đối với trường hợp mất khả năng lao
động dẫn đến nguy cơ mất toàn bộ thu nhập hoặc mất sức khỏe, được trợ cấp bằng
tiền định kỳ với tỷ lệ tối thiểu 50% thu nhập trước đó của NLĐ. Nếu chỉ mất một
phần thu nhập hoặc sức khỏe thì mức chi trả sẽ được điều chỉnh theo một tỷ lệ so với
mức trên cho phù hợp. Thời gian trợ cấp là suốt thời gian NLĐ gặp rủi ro, ngay từ
ngày đầu tiên khi họ không có thu nhập
Thứ tư, chế độ bảo hiểm hưu trí
Trong hệ thống bảo hiểm xã hội, bảo hiểm hưu trí là chế độ dành cho những
người không còn tham gia quan hệ lao động nữa. Vì vậy, nó rất cần thiết và không
thể thiểu được bởi bất cứ NLĐ nào cũng sẽ đến lúc già yếu, hết tuổi lao động nhưng
vẫn có nhu cầu đảm bảo cuộc sống và lương hưu sẽ là nguồn thu nhập chính của họ
trong lúc này. Vào những năm cuối thế kỷ XIX, khi hệ thống bảo hiểm xã hội mới
được hình thành ở các nước Đức, Pháp... thì bảo hiểm hưu trí (bảo hiểm tuổi già) là
một trong những chế độ bảo hiểm xã hội bắt buộc đầu tiên được thực hiện. Trong
Công ước số 102 của Tổ chức ILO về những quy định tối thiểu của an sinh an toàn)
xã hội, trong đỏ có các khuyến nghị các nước thành viên phải thực hiện ít nhất 3 trong
9 chế độ được quy định trong Công ước và một trong các chế độ trợ cấp bắt buộc bao
là trợ cấp thất nghiệp, trợ cấp hưu trí, trợ cấp tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, trợ
cấp tàn tật và trợ cấp người nuôi dưỡng. Điều này chứng tỏ, chế độ hưu trí luôn được
ILO, chính phủ các nước cũng như NLĐ hết sức quan tâm.
Đối tượng được trợ cấp theo Công ước 102, đối tượng thuộc diện bảo vệ bao
gồm những người làm công ăn lương với số lượng tham gia tối thiểu là 50% hoặc dân
số hoạt động kinh tế với số lượng tham gia tối thiểu là 20%.
20
Điều kiện được hưởng trợ cấp: NLĐ tham gia BHXH sẽ được hưởng chế độ
tuổi già khi về hưu, nghĩa là sống lâu hơn một độ tuổi quy định. Độ tuổi này là tuổi
nghỉ hưu theo luật định và thay đổi theo từng quốc gia, từng thời kỳ và từng nhóm
đối tượng lao động cụ thể. ILO khuyến cáo các nước thành viên tham gia Công ước
số 102 quy định độ tuổi nghỉ hưu không quá 65 tuổi.
Mức trợ cấp và thời gian trợ cấp: Mức trợ cấp tuổi già là số tiền mà NLĐ tham
gia BHXH được nhận sau khi nghỉ hưu và phụ thuộc vào thời gian họ tham gia
BHXH. Thông thưởng trợ cấp tuổi già được chi trả định kỳ (hàng tuần, hàng tháng),
nhưng trong một số trường hợp cụ thể (ví dụ chưa đủ khoảng thời gian tham gia
BHXH hoặc thời gian lao động tối thiểu theo quy định) cũng có thể chi trả trợ cấp
một hoặc một số lần nhất định. Thời gian được hưởng trợ cấp sẽ được chi trả cho đến
khi người thụ hưởng qua đời.
Thứ năm, chế độ tử tuất
Chế độ tử tuất là sự bù đắp một phần thu nhập cho thành viên gia đình người
lao động khi NLĐ chết dẫn đến mất nguồn thu nhập. Chế độ tử tuất bao gồm tổng
hợp các quy định của pháp luật về đối tượng, điều kiện hưởng trợ cấp tiền tuất hàng
tháng hoặc một lần khi NLĐ bị chết. Động cơ và mục đích cơ bản để NLĐ tham gia
vào quan hệ lao động là có thu nhập để nuôi sống bản thân và các thành viên trong
gia đình. Họ thường là những người giữ vị trí trụ cột trong gia đình, thu nhập trong
gia đình chủ yếu trông chờ vào họ. Do đó, khi họ chết, gia đình sẽ mất đi khoản thu
nhập và điều này sẽ ảnh hưởng trực tiếp cuộc sống của các thân nhân trong gia đình.
Bởi vậy, NLĐ rất cần khoản trợ cấp nhân dân bảo và ổn định cuộc sống cho người
thân khi lọ không còn tồn tại.
Trong hệ thống các chế độ BHXH, chế độ trợ cấp tử tuất có điểm khác biệt là
đối tượng tham gia BHXH luôn khác đối tượng thụ hưởng. Đối tượng tham gia là
NLĐ, còn đối tượng thụ hưởng gia đình họ.
Điều 60, Công ước 102 quy định về điều kiện hưởng chế độ tử tuất "Trường
hợp bảo vệ phải gồm việc người vợ góa hoặc con cái bị mất phương tiện sinh sống
do người trụ cột gia đình chết ".
21
Mức trợ cấp tiền tuất là chế độ chi trả bằng tiền theo định kỳ. Đối với người vợ
góa có 2 con nhỏ, Công ước 102 quy định mức trợ cấp tối thiểu là 40% thu nhập trước
đó của NLĐ là trụ cột gia đình. Thời gian trợ cấp chế độ tử tuất phải đảm bảo cho
con cái NLĐ đủ tuổi trưởng thành. Dối với người vợ góa, trợ cấp đến khi họ tìm được
việc làm và có thu nhập hoặc tái hôn.
1.3.3. Quỹ bảo hiểm xã hội bắt buộc
Quỹ bảo hiểm xã hội bắt buộc là một quỹ tiền tệ tập trung được hình thành chủ
yếu từ sự đóng góp bằng tiền của các bên tham gia bảo hiểm xã hội và được sử dụng
để chi trả các chế độ bảo hiểm xã hội cho NLĐ theo quy định của pháp luật bảo hiểm.
Nội dung đầu tiên của quỹ BHXH là vấn để xác định trách nhiệm đóng quỹ, hay
còn gọi là đóng phí BHXH. Thông thường, trách nhiệm đóng quỹ BHXH chủ yếu
thuộc về NLĐ và NSDLĐ, theo kỳ hạn hàng tháng. Tỷ lệ đóng của mỗi bên có thể
khác nhau, tùy theo quy định của từng nước, nhưng quan điểm của ILO cho rằng mức
đóng của NLĐ không thể vượt quá 50% tổng quỹ. Nhà nước ngoài việc đóng quỹ cho
các lao động làm việc trong bộ máy của mình (trong khu vực Nhà nước trả công lao
động) như NSDLĐ khác, Nhà nước còn có vai trò bảo trợ, hỗ trợ, bù thiếu cho quỹ
BHXH khi cần thiết.
Đại diện cho mức đóng góp vào quỹ bảo hiểm ngang bằng nhau giữa các bên
có thể kể đến nước Đức. Tại đây, phí bảo hiểm của NSDLĐ và NLĐ bằng nhau, dao
động theo quỹ, hiện tổng phí đóng của cả NSDLĐ và NLĐ lao động trong khoảng 11
và 14%, trung bình khoảng 13,2% thu nhập thô của NLĐ.
Một xu hướng trái ngược với trách nhiệm đóng góp vào quỹ bảo hiểm của Đức,
đó là Phần Lan. Đóng góp BHXH gồm đóng góp do NSDLĐ dựa trên quỹ lương,
đóng góp của NLĐ làm công ăn lương và NLĐ độc lập. Trách nhiệm đóng góp của
người được bảo hiểm tăng lên trong khi tỷ lệ đóng góp của NSDLĐ giảm đi. Những
đóng góp vào chế độ bảo hiểm ốm đau quốc gia (trợ cấp bằng tiền mặt) và bảo hiểm
trợ cấp quốc gia do cơ quan thuế của địa phương nơi quản lý NSDLĐ thu đồng thời
với các khoản thuế chung. Những đóng góp vào bảo hiểm nghề nghiệp được gửi đến
tổ chức bảo hiểm do NSDLĐ và NLĐ độc lập lựa chọn.
22
Như vậy, có thể thấy, tùy thuộc vào điều kiện kinh tế, xã hội đặc thù của mỗi
quốc gia, việc lựa chọn cơ chế đóng góp quỹ bảo hiểm cần đảm bảo yêu cầu phù hợp
với điều kiện kinh tế, xã hội, lịch sử của từng nước.
Các khoản chi chủ yếu từ quỹ BHXH là các khoản trợ cấp và các chế độ luật
định khác cho người được BHXH. Khoản chi này chỉ phụ thuộc vào điều kiện hưởng
BHXH do pháp luật quy định, không phụ thuộc vào khả năng của quỹ BHXH. Ngoài
ra, còn có các chi phí quản lý hệ thống và chi đầu tư tăng trưởng. Thông thường, chi
phí quản lý hệ thống sẽ tỷ lệ nghịch với trình độ quản lý ở mỗi nước và ngày càng
giảm do trình độ quản lý đạt được ngày càng cao. Tuy nhiên, để tránh lạm dụng, trong
từng thời kỳ, Nhà nước có thể quy định một mức trần chi quản lý, tương đương với
chất lượng dịch vụ BHXH, quy mô hệ thống và thời gian hoạt động.
Đối với BHXH, quản lý quỹ có vai trò đặc biệt quan trọng. Về nguyên tắc chung,
quỹ BHXH là quỹ cộng đồng, độc lập với ngân sách, thường do tổ chức BHXH quản
lý công khai, minh bạch, có giám sát của cơ chế ba bên (đại diện NLĐ, NSDLĐ, Nhà
nước), để đảm bảo an toàn tài chính và được Nhà nước tuyên bố bảo trợ hoặc bù thiếu
để không bị phá sản. Thực tế, có rất nhiều cách thức quản lý tài chính khác nhau được
sử dụng trong BHXH, tùy theo điều kiện của từng quốc gia. Về cơ bản, hai cách quản
lý hệ thống tài chính tiêu biểu là"thu đến đâu, chi đến đấy "(PAYG: Pay - as - you -
go) và kiểu"lập quỹ tồn tích dài hạn".
Quản lý tài chính theo kiểu "thu đến đâu, chi đến đấy" đơn giản hơn vì quỹ
được hạch toán trong thời hạn ngắn, thường trong khoảng một năm và về nguyên tắc
là có thể điều chỉnh. Như vậy quỹ ít bị ảnh hưởng bởi các yếu tố giá cả, lạm phát, ít
phải chú trọng hoạt động đầu tư tăng trưởng để bảo tồn quỹ. Tuy nhiên, mô hình"thu
đến đâu, chi đến đấy"chỉ thành công trong điều kiện hệ thống đã tương đối ổn định,
nghĩa là tính toán được đối tượng đóng và mức thu, xác suất rủi ro và mức chi... ở
mức độ cần thiết, từ đó tính được mức thu tương đối sát thực và một khoản dự phòng
nhỏ để đảm bảo an toàn. Vì vậy, kiểu quần lý tài chính này thường được áp dụng cho
các chế độ ngắn hạn, tính được xác suất rủi ro và chủ yếu để thực hiện nguyên tắc
tương trợ cộng đồng. Quản lý tài chính BHXH theo mô hình "lập quỹ tồn tích dài
hạn" thường được áp dụng cho các chế độ BHXH dài hạn. Về nguyên tắc, quỹ được
23
tích lũy trong suốt cuộc đời NLĐ, có thể qua nhiều thể hệ, để chỉ trả khi người tham
gia đủ điều kiện hưởng sau một thời gian dài đóng góp. Vì vậy, hệ thống tài chính
"lập quỹ tồn tích dài hạn" thường bị ảnh hưởng bởi các khó khăn do lạm phát, cơ cấu
tuổi dân số, mức sống và số người hưởng ngày cảng tăng. Kết quả đầu tư, tăng trưởng
quỹ là vấn đề quan trọng nhưng không phải bao giờ cũng đem lại hiệu quả tốt, bởi
quỹ duy trì trong một thời gian dài, khó tránh khỏi khó khăn do những chu kỳ suy
thoái kinh tế gây ra. Để đối phó với các khó khăn trên, quỹ thường được hoạch định,
cân bằng trong từng giai đoạn.
1.3.4. Thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm và giải quyết tranh chấp về bảo hiểm
xã hội bắt buộc
Hoạt động BHXH là quá trình thu, chi và quản lý quỹ tài chính được hình thành
chủ yếu từ nguồn đóng góp của NSDLĐ và NLĐ nên khả năng xảy ra vi phạm và tội
phạm về BHXH cũng không nằm ngoài quá trình thu, chi và quản lý hoạt động BHXH
đó. Để tìm ra các lỗi vi phạm về BHXH cần phải nhiệm vụ theo dõi và kiểm tra các
hoạt động đó để quá trình thực hiện đúng theo những gì mà luật pháp đã đưa ra. Hơn
nữa, trong quá trình thực hiện bảo hiểm xã hội hoặc trong các quan hệ lao động thông
thường, việc phát sinh tranh chấp bảo hiểm xã hội giữa chủ sử dụng lao động và NLĐ
thường xuyên diễn ra, ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền và lợi ích các bên.
Thứ nhất, thanh tra, kiểm tra về bảo hiểm xã hội bắt buộc
Trong thực tiễn, công tác kiểm tra, thanh tra là một chức năng thiết yếu không
thể thiếu được trong công tác quản lý nói chung, trong quản lý BHXH, có thể thấy
vai trò của kiểm tra trong biểu thức: Quản lý tương đương với Quyết định đi kèm với
Tổ chức thực hiện và Kiểm tra. Bản chất của công tác kiểm tra BHXH là phải xác
định và sửa chữa được những sai lệch trong hoạt động của cơ quan BHXH so với
chính sách pháp luật, mục tiêu và kế hoạch vạch ra. Thực tế đã chỉ ra nội dung kiểm
tra, thanh tra BHXH, chỉ có thể kiểm tra, thanh tra một số khu vực và một số lĩnh vực
quan trọng tác động đến cả hệ thống hoặc kiểm tra, thanh tra phát sinh đột biến cần
phải có thông tin phản hồi phục vụ yêu cầu quản lý. Các phương thức kiểm tra hoạt
động của BHXH gồm có: Kiểm tra của các cơ quan quyền lực Nhà nước, kiểm tra
chuyên ngành và kiểm tra nhân dân (gồm thanh tra nhân dân, kiểm tra của tổ chức
24
đảng, đoàn thể...). Tuỳ thuộc vào mục đích, yêu cầu, nội dung và thời gian kiểm tra
để có loại hình kiểm tra cho phù hợp: theo thời gian thì có loại hình thường xuyên
hay định kỳ; kiểm tra trước, kiểm tra sau, kiểm tra đột xuất; nếu theo phạm vi trách
nhiệm thì có kiểm tra nội bộ, kiểm tra của các cơ quan ngoài hệ thống theo quy định
của pháp luật (Tổ chức thanh tra Nhà nước, thanh tra nhân dân, thanh tra lao động...).
Nội dung kiểm tra về BHXH thường có kiểm tra về quản lý thu BHXH; kiểm tra chi
trả BHXH; kiểm tra thực hiện các chế độ BHXH; kiểm tra quản lý đối tượng được
hưởng các chế độ BHXH ; kiểm tra quản lý, sử dụng tài chính, tài sản...
Thứ hai, xử lý vi phạm về bảo hiểm xã hội bắt buộc
Căn cứ vào tính chất của hoạt động BHXH, có thể chia những hành vi này thành
3 nhóm chính như sau:
Đối với nhóm thứ nhất là nhóm hành vi vi phạm nghĩa vụ đóng BHXH. Những
hành vi thuộc nhóm này xuất phát từ ý thức tuân thủ pháp luật của NSDLĐ chưa cao.
Nhằm mục đích giảm tối đa chi phí đóng BHXH, nhiều chủ sử dụng lao động đã tìm
mọi cách để có thể tránh nghĩa vụ đóng BHXH hoặc giảm chi phí đóng, Hành vi này
của các doanh nghiệp tác động rất lớn đến quyền được tham gia và thụ hưởng các chế
độ BHXH của NLĐ, nhiều trường hợp xâm phạm tới quyền lợi của NLĐ bị tính là
nguy hiểm, có thể bị coi là tội phạm.
Đối với nhóm hành vi thứ hai, những hành vi vi phạm quy định về quyền thụ
hưởng BHXH là những hành vi gian lận qua việc làm sai lệch hồ sơ, làm giả giấy tờ,
hồ sơ để hưởng các chế độ BHXH trái pháp luật. Những hành vi gian lận BHXH có
thể do một cá nhân thực hiện một cách độc lập để cho chính mình được hưởng BHXH
hoặc được hưởng BHXH ở mức cao hơn mức quy định. Tuy nhiên, những hành vi
này cũng có thể do một nhóm người thực hiện như trong hành vi tổ chức làm giả, làm
sai lệch một số lượng lớn hồ sơ của nhiều đối tượng khác nhau nhằm chiếm đoạt tiền
của quỹ BHXH. Những hành vi gian lận này, trước hết gây thiệt hại cho quý BHXH
và qua đó gián tiếp gây thiệt hại cho quyền lợi hợp pháp của NLĐ tham gia BHXH.
Các hành vi vi phạm quy định này, dù ở mức độ nào cũng có tình nguy hiểm cho xã
hội, cần bị xử lý bằng chế tài phù hợp, là chế thi hành chính hoặc chế tài hình sự.
25
Đối với nhóm thứ ba, những hành vi vi phạm liên quan đến quản lý và thực
hiện hoạt động BHXH, những quy định này có thể là những quy định chung trong
quản lý kinh tế nhưng cũng có thể là quy định riêng đối với hoạt động quản lý BHXH.
Việc vi phạm những quy định này có thể dẫn đến thất thoát về mặt tài sản của quỹ
BHXH, không những ảnh hưởng đến quỹ BHXH theo chiều hướng giảm thiểu mà
còn ảnh hưởng gián tiếp đến quyền lợi của NLĐ, làm giảm niềm tin của của NLĐ
vào việc thực thi chính sách BHXH của Nhà nước. Do có tính nguy hiểm cho xã hội
như vậy nên những hành vi này cũng có thể bị xử phạt hành chính hoặc xử lý hình sự
tùy theo mức độ của tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi.
Văn bản pháp luật của các nước trên thế giới đều quy định các hình thức xử
phạt đối với các hành vi vi phạm nghĩa vụ đóng và thụ hưởng các chế độ. Các văn
bản pháp luật ASXH phải quy định các hành vi vi phạm có thể bị truy tố, ví dụ như:
gian lận để hưởng BHXH hay không nộp tiền đóng BHXH đúng hạn... Cũng có quan
điểm cho rằng, không nên hình sự hóa đối với các hành vi vi phạm nghĩa vụ đóng
BHXH vì lo ngại trước việc có thể làm ảnh hưởng tới sự tồn tại của các doanh nghiệp.
Tuy nhiên, quan điểm khác thì cho rằng miễn là những hình phạt được pháp luật quy
định là hợp lý, thỏa đáng và có ý nghĩa giáo dục, răn đe thì nhất định sẽ được NLĐ
ủng hộ. Bằng việc truy tố những kẻ phạm pháp, cơ quan, tổ chức BHXH có thể khẳng
định rằng dưới góc nhìn của người tham gia BHXH, mình đã làm tròn nghĩa vụ đối
với họ.
Trong một số trường hợp, việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với các vụ phạm
tội nghiêm trọng lại càng chứng minh tính đúng đắn trong việc phòng ngừa đối với
những kẻ phạm pháp tiềm ẩn. Nếu vi phạm nghiêm trọng xảy ra mà ta bỏ qua không
truy tố hoặc không thể truy tố thì sẽ ảnh hưởng đến niềm tin của NLĐ vào hệ thống
BHXH và khuyến khích người ta tin rằng có thể vi phạm pháp luật BHXH mà không
phải chịu hậu quả gì.
Nhiều quốc gia trên thế giới đã quy định chế tài hình sự để xử lý những hành vi
vi phạm nghĩa vụ đóng BHXH và vi phạm về quyền thụ hưởng các chế độ BHXH để
bảo vệ chính sách an sinh xã hội của mình thông qua việc bảo vệ những quan hệ xã
hội phát sinh trong quá trình thực hiện chính sách BHXH trong các luật chuyên ngành
26
về BHXH (như: Mỹ, Philippin, Thái Lan, Campuchia...). Bên cạnh đó cũng có nhiều
quốc gia đi theo hướng tội phạm hóa các hành vi này trong bộ luật hình sự (như: Đức,
Slovenia...). Từ kinh nghiệm của các quốc gia, Việt Nam có thể nghiên cứu, học hỏi
để xây dựng các chế tài xử phạt hành vi vi phạm pháp luật BHXH, phù hợp với điều
kiện kinh tế, xã hội của đất nước. Đặc biệt, xử lý các hành vi vi phạm trong lĩnh vực
BHXH là rất cần thiết trong giai đoạn hiện nay và trong thời gian tới.
Thứ ba, giải quyết tranh chấp về bảo hiểm xã hội bắt buộc
Trong lĩnh vực BHXH, các loại tranh chấp xảy ra vô cùng đa dạng. Nếu căn cứ
vào chủ thể tranh chấp, có thể chia tranh chấp trong lĩnh vực này thành một số loại
như: tranh chấp giữa NLĐ và NSDLĐ về việc đóng BHXH cho NLĐ, tranh chấp
giữa cơ quan BHXH với NSDLĐ về việc đóng BHXH cho NLĐ, tranh chấp giữa
NLĐ và tổ chức BHXH về việc đóng góp và xác nhận về thời gian đóng bảo hiểm xã
hội, tranh chấp giữa người thụ hưởng với cơ quan BHXH về việc chi trả các chế độ
BHXH… Với các nội dung như trên, tranh chấp trong lĩnh vực BHXH không chỉ liên
quan đến việc NSDLĐ phải đảm bảo thực hiện quyền được bảo hiểm về thu nhập của
NLĐ khi xác lập quan hệ lao động bằng cách đóng góp phí bảo hiểm cho họ mà còn
liên quan đến trách nhiệm của cơ quan BHXH với tư cách là cơ quan nhà nước trong
việc thực hiện các nghiệp vụ bảo hiểm và giải quyết chế độ cho người có đủ điều kiện
thụ hưởng chế độ của BHXH. Chính vì vậy, việc xác định các mâu thuẫn nêu trên có
phải là tranh chấp hay không, nếu là tranh chấp thì thuộc loại nào phụ thuộc rất nhiều
vào việc xác định chủ thể và tính chất của quan hệ phát sinh. Cho đến nay, xung
quanh vấn đề này vẫn còn có rất nhiều quan điểm khác nhau. Tranh chấp về BHXH
giữa NLĐ hoặc tập thể lao động với NSDLĐ đa phần bao gồm 2 trường hợp là tranh
chấp giữa NLĐ với NSDLĐ là tranh chấp lao động cá nhân và tranh chấp giữa tập
thể lao động với NSDLĐ là tranh chấp lao động tập thể. Ngoài ra, còn có tranh chấp
về bảo hiểm xã hội giữa NLĐ hoặc NSDLĐ với cơ quan bảo hiểm xã hội về quyết
định hoặc hành vi hành chính của cơ quan BHXH là tranh chấp hành chính. Nhìn
chung, tình hình tranh chấp thực tế và vướng mắc trong quá trình giải quyết tranh
chấp chủ yếu liên quan đến loại tranh chấp về việc NSDLĐ trốn đóng BHXH cho
NLĐ.
27
1.4. Các yếu tố tác động việc thực thi pháp luật về bảo hiểm xã hội bắt buộc
1.4.1. Yếu tố pháp luật
Các quy định của pháp luật về đối tượng, điều kiện tham gia bảo hiểm xã hội
bắt buộc và chế độ bảo hiểm xã hội bắt buộc là một bộ phận quan trọng nhằm đảm
bảo cho NLĐ, NSDLĐ, các cơ quan bảo hiểm xã hội bắt buộc tuân thủ các chuẩn
mực cơ bản nhất về tính công bằng, minh bạch trong hoạt động quản lý bảo hiểm xã
hội bắt buộc.
1.4.2. Yếu tố kinh tế xã hội
Yếu tố này bao quát các điều kiện về hoàn cảnh về kinh tế - xã hội, hệ thống
các chính sách xã hội và việc triển khai thực hiện, áp dụng vào thực tế xã hội. Trong
một xã hội phát triển năng động, bền vững sẽ là điều kiện vô cùng thuận lợi cho hoạt
động thực hiện pháp luật về bảo hiểm xã hội bắt buộc. Điều đó sẽ nâng cao hiểu biết
pháp luật, ý thức pháp luật của NLĐ, NSDLĐ và các tầng lớp trong xã hội.
1.4.3. Ý thức tham gia của NLĐ và NSDLĐ
Ý thức pháp luật của chủ thể tham gia quan hệ pháp luật về BHXH bắt buộc
cũng là một trong những điều rất quan trọng. Bởi vậy nên rất cần NLĐ và NSDLĐ
nắm bắt, hiểu được vai trò và tầm quan trọng của bảo hiểm xã hội bắt buộc để thực
hiện tốt pháp luật về bảo hiểm xã hội bắt buộc. Nếu một phần nhỏ NLĐ và NSDLĐ
ý thức được sẽ tác động đến tư tưởng và hành vi của những NLĐ khác trong xã hội.
1.4.4. Cơ quan quản lý nhà nước về bảo hiểm xã hội bắt buộc
Khi tham gia quan hệ pháp luật lao động, ngoài việc chấp hành pháp luật của NLĐ
và NSDLĐ thì vai trò của các cơ quan quản lý nhà nước về BHXH cũng có vị trí quan
trọng tương đương do pháp luật cần người quản lý và giám sát các hoạt động.
Kết luận chương 1
Qua những phân tích trên ta có thể thấy rằng hệ thống pháp luật Việt Nam với
các quy định về chế độ BHXH nói chúng và chế độ BHXH bắt buộc nói riêng đã
được xây dựng một cách đầy đủ và chi tiết tạo hành lang pháp lý quan trọng cho việc
tổ chức triển khai thực hiện. Đặc biệt, Luật BHXH năm 2014 có hiệu lực thi hành từ
ngày 01/01/2016 với những điểm mới quan trọng và được các chuyên gia pháp lý
28
đánh giá có tính phù hợp và tối ưu hơn so với quy định trước đây, điều này hứa hẹn
sẽ thúc đẩy sự phát triển các chế độ BHXH phát triển mạnh mẽ. Chính sách BHXH
bắt buộc được xây dựng nên là một trong những chính sách lớn của Đảng và Nhà
nước ta, được chính thức bắt đầu triển khai từ năm 2007 với mục tiêu thực hiện đảm
bảo an sinh xã hội cho NLĐ. Nội dung pháp luật về BHXH bắt buộc bao gồm nhóm
các quy phạm pháp luật về đối tượng BHXH bắt buộc, điều kiện hưởng BHXH bắt
buộc và các chế độ chi trả về BHXH bắt buộc. Trong quá trình áp dụng pháp luật về
bảo hiểm xã hội bắt buộc ta thấy được các yếu tố tác động đến hiệu quả của việc áp
dụng pháp luật bảo hiểm xã hội bắt buộc bao gồm các yếu tố như: pháp luật, yếu tố
về kinh tế xã hội, yếu tố ý thức pháp luật của NLĐ, NSDLĐ và việc thực thi pháp
luật của các cơ quan quản lý nhà nước về bảo hiểm xã hội bắt buộc.
29
Chương 2
THỰC TRẠNG QUY ĐỊNH VỀ PHÁP LUẬT
BẢO HIỂM XÃ HỘI BẮT BUỘC VÀ THỰC TIỄN THỰC HIỆN
TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH LẠNG SƠN
2.1. Thực trạng pháp luật bảo hiểm xã hội bắt buộc
2.1.1. Về đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc
Điều 2, Luật BHXH 2014 quy định đối tượng tham gia BHXH bắt buộc như sau:
Thứ nhất, đối với người lao động
NLĐ tham gia BHXH bắt buộc bao gồm NLĐ làm việc tại các cơ quan nhà
nước như: cán bộ, công chức, viên chức theo quy định của pháp luật về cán bộ, công
chức, viên chức, công nhân quốc phòng, công an nhân dân, người làm công tác khác
trong tổ chức cơ yếu (trường hợp BHXH Bộ Quốc phòng, BHXH Công an nhân dân
bàn giao cho BHXH các tỉnh) hay người quản lý DN, người quản lý điều hành hợp
tác xã có hưởng tiền lương, người hoạt động không chuyên trách ở xã, phường,.. tham
gia BHXH bắt buộc vào quỹ hưu trí và tử tuất, người đi làm việc ở nước ngoài theo
hợp đồng quy định tại Luật NLĐ Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng
đồng thời người hưởng chế độ phu nhân hoặc phu quân tại cơ quan đại diện Việt Nam
ở nước ngoài quy định tại cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài quy định tại Khoản
4 Điều 123 Luật BHXH mới có thể tham gia vào quỹ BHXH bắt buộc mà đối với
người làm việc theo HĐLĐ không xác định thời hạn, HĐLĐ xác định thời hạn, hợp
đồng theo mùa vụ hoặc theo một công việc nhất định có thời hạn từ đủ 03 tháng đến
dưới 12 tháng, kể cả HĐLĐ được ký kết giữa đơn vị với người đại diện theo pháp
luật của người dưới 15 tuổi theo quy định của pháp luật về lao động. Hoặc người làm
việc theo HĐLĐ có thời hạn từ đủ 01 tháng đến dưới 03 tháng cũng đều được tham
gia và hưởng quyền lợi như nhau.
Ngoài ra, đối với NLĐ là công dân nước ngoài làm việc tại Việt Nam có giấy
phép lao động/chứng chỉ hành nghề/giấy phép hành nghề do cơ quan có thẩm quyền
của Việt Nam cấp. Cụ thể: Điều 2 Nghị định số 143/2013/NĐ-CP ngày 15/10/2018
của Chính phủ quy định NLĐ là công dân nước ngoài làm việc tại Việt Nam thuộc
30
đối tượng tham gia BHXH bắt buộc khi có giấy phép lao động hoặc chứng chỉ hành
nghề hoặc giấy phép hành nghề do cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam cấp và có
HĐLĐ không xác định thời hạn, HĐLĐ xác định thời hạn từ đủ 1 năm trở lên với
NSDLĐ tại Việt Nam.
Thứ hai, đối với người sử dụng lao động
NSDLĐ tham gia BHXH bắt buộc là các cơ quan của Đảng, Nhà nước, đơn vị
sự nghiệp của Nhà nước ở Trung ương, cấp tỉnh, huyện đến cấp xã và đơn vị thuộc
lực lượng vũ trang. Các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội - nghề nghiệp, tổ
chức xã hội - nghề nghiệp, đơn vị sự nghiệp thuộc tổ chức chính trị, đơn vị sự nghiệp
thuộc tổ chức chính trị - xã hội và tổ chức xã hội khác,...bắt buộc phải tham gia bảo
hiểm xã hội cho NLĐ thì các tổ chức sau cũng bắt buộc phải chấp hành như doanh
nghiệp thành lập, hoạt động theo Luật doanh nghiệp và Luật Đầu tư, Hợp tác xã, Liên
hiệp Hợp tác xã thành lập và hoạt động theo Luật Hợp tác xã, hộ kinh do nhiều cá
thể, tổ hợp tác, tổ chức khác và cá nhân có thuê mướn, sử dụng và trả công cho NLĐ.
Không chỉ các đơn vị sự nghiệp trong nước đã nêu trên mà các cơ quan, tổ chức, cá
nhân nước ngoài, tổ chức quốc tế hoạt động cũng phải thực hiện nhiệm vụ tương tự
các đơn vị trong nước.
Tổng quan về các đối tượng tham gia bảo hiểm với mục đích tương trợ, bảo vệ
lẫn nhau giữa các thành phần trong xã hội, bảo hiểm xã hội bắt buộc bao phủ hầu hết
các đối tượng NLĐ và NSDLĐ trong xã hội.
2.1.2. Về các chế độ bảo hiểm xã hội bắt buộc
2.2.4.2. Chế độ ốm đau
Đối tượng được hưởng chế độ ốm đau là người tham gia BHXH bắt buộc phải
nghỉ việc do bị ốm, bị tai nạn mà không phải là tai nạn lao động hoặc điều trị thương
tật, bệnh tật tái phát do TNLĐ, BNN; hoặc nghỉ việc để chăm sóc con dưới 07 tuổi bị
ốm đau và có xác nhận của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh thì sẽ được hưởng chế độ
ốm đau. Trong thời gian nghỉ ốm đau thì NLĐ sẽ không đóng BHXH, không tính thời
gian đóng BHXH và không được trả lương.
Điều kiện hưởng chế độ ốm đau là NLĐ bị ốm đau, tai nạn mà không phải là tai
nạn lao động phải nghỉ việc và có xác nhận của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh có thẩm
31
quyền theo quy định của Bộ Y tế. Trường hợp “ốm đau, tai nạn phải nghỉ việc do tự
huỷ hoại sức khoẻ, do say rượu hoặc sử dụng chất ma túy, tiền chất ma túy theo danh
mục do Chính phủ quy định” thì không được hưởng chế độ ốm đau, tai nạn rủi ro và
con ốm. Cụ thể danh mục chất ma túy và tiền chất ma túy được quy định tại Nghị
định 82/2013 NĐ-CP). Trường hợp có con dưới 07 tuổi bị ốm: Phải nghỉ việc chăm
con dưới 07 tuổi bị ốm phải có xác nhận của cơ sở y tế có thẩm quyền. Lao động nữ
đi làm trước khi hết thời hạn nghỉ sinh con mà thuộc một trong các trường hợp quy
định tại điểm nêu trên.
Thời gian hưởng chế độ ốm đau là khi NLĐ ốm đau đối với NLĐ làm việc trong
điều kiện bình thường thì được hưởng 30 ngày nếu đã đóng bảo hiểm xã hội dưới 15
năm, 40 ngày nếu đã đóng từ đủ 15 năm đến dưới 30 năm, 60 ngày nếu đã đóng từ
đủ 30 năm trở lên. Đối với NLĐ làm nghề hoặc công việc nặng nhọc, độc hại, nguy
hiểm hoặc đặc biệt nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm thuộc danh mục do Bộ Lao động
Thương binh và Xã hội, Bộ Y tế ban hành hoặc làm việc ở nơi có phụ cấp khu vực
hệ số từ 0,7 trở lên thì được hưởng 40 ngày nếu đã đóng bảo hiểm xã hội dưới 15
năm, 50 ngày nếu đã đóng từ đủ 15 năm đến dưới 30 năm, 70 ngày nếu đã đóng từ
đủ 30 năm trở lên.
NLĐ nghỉ việc do mắc bệnh thuộc Danh mục bệnh cần chữa trị dài ngày do Bộ
Y tế ban hành thì được hưởng chế độ ốm đau như sau: Tối đa 180 ngày tính cả ngày
nghỉ lễ, nghỉ Tết, ngày nghỉ hàng tuần. Hết thời hạn hưởng chế độ ốm đau 180 ngày
mà vẫn tiếp tục điều trị thì được hưởng tiếp chế độ ốm đau với mức thấp hơn nhưng
thời gian hưởng tối đa bằng thời gian đã đóng bảo hiểm xã hội. Riêng đối với sĩ quan,
quân nhân chuyên nghiệp quân đội nhân dân; sĩ quan, hạ sĩ quan nghiệp vụ, sĩ quan,
hạ sĩ quan chuyên môn kỹ thuật công an nhân dân; người làm công tác cơ yếu hưởng
lương như đối với quân nhân thì thời gian hưởng chế độ ốm đau căn cứ vào thời gian
điều trị tại cơ sở khám bệnh, chữa bệnh có thẩm quyền.
Còn về chế độ hưởng, mức hưởng chế độ ốm đau ngắn ngày/con ốm được tính
theo tháng bằng 75% mức tiền lương đóng bảo hiểm xã hội của tháng liền kề trước
khi nghỉ việc. Trường hợp NLĐ mới bắt đầu làm việc hoặc NLĐ trước đó đã có thời
gian đóng bảo hiểm xã hội, sau đó bị gián đoạn thời gian làm việc mà phải nghỉ việc
32
hưởng chế độ ốm đau ngay trong tháng đầu tiên trở lại làm việc thì mức hưởng bằng
75% mức tiền lương đóng bảo hiểm xã hội của tháng đó. Đối với sĩ quan, quân nhân
chuyên nghiệp quân đội nhân dân; sĩ quan, hạ sĩ quan nghiệp vụ, sĩ quan, hạ sĩ quan
chuyên môn kỹ thuật công an nhân dân; người làm công tác cơ yếu hưởng lương như
đối với quân nhân thì mức hưởng bằng 100% mức tiền lương đóng bảo hiểm xã hội
của tháng liền kề trước khi nghỉ việc. Mắc bệnh dài ngày trong danh mục: bệnh cần
chữa bệnh dài ngày do Bộ Y tế ban hành (Thông tư 34/2013/TT - BYT); Tối đa 180
ngày (tỷ lệ 75%) tính cả ngày nghỉ lễ, tết, nghỉ hàng tuần. Nếu vẫn tiếp tục điều trị
thì được hưởng tiếp chế độ ốm đau với mức thấp, tối đa bằng thời gian đã đóng
BHXH. Mức hưởng ốm dài ngày khi đủ tháng đối với bệnh cần chữa trị dài ngày =
Tiền lương đóng BHXH của tháng liền kề trước khi nghỉ việc * Tỷ lệ hưởng chế độ
ốm đau (%) * Số tháng nghỉ việc hưởng chế độ ốm đau. Mức hưởng ốm dài ngày khi
có ngày lẻ đối với bệnh cần chữa trị dài ngày = Tiền lương đóng BHXH của tháng
liền kề trước khi nghỉ việc/24 ngày * Tỷ lệ hưởng chế độ ốm đau (%) * Số ngày nghỉ
việc hưởng chế độ ốm đau.
2.2.4.2. Chế độ dưỡng sức, phục hồi sức khỏe sau ốm đau:
Đã hưởng chế độ ốm đau đủ thời gian quy định trong một năm, trong khoảng
thời gian 30 ngày đầu trở lại làm việc mà sức khỏe chưa phục hồi thì được nghỉ dưỡng
sức phục hồi sức khỏe do NSDLĐ và BCH công đoàn cơ sở quyết định Thời gian
hưởng: gồm cả ngày nghỉ lễ, Tết, nghỉ hàng tuần. 10 ngày: bệnh dài ngày, 7 ngày:
bệnh phải phẫu thuật và 5 ngày: trường hợp khác. Mức hưởng một ngày = 30% mức
lương cơ sở.
2.2.4.2. Chế độ thai sản
Đối tượng hưởng chế độ thai sản là lao động nữ sinh con, lao động nữ mang
thai hộ và người mẹ nhờ mang thai hộ, lao động nữ nhận nuôi con nuôi dưới 06 tháng
tuổi sẽ hưởng chế độ thai sản nếu đóng BHXH bắt buộc từ đủ 06 tháng trở lên trong
thời gian 12 tháng trước khi sinh con hoặc nhận nuôi con. Ngoài ra, lao động nam
đang đóng BHXH bắt buộc khi có vợ sinh con cũng sẽ được hưởng chế độ thai sản
theo quy định tại Điểm e Khoản 1 Điều 31 của Luật Bảo hiểm Xã hội năm 2014.
33
Điều kiện hưởng NLĐ được hưởng chế độ thai sản khi thuộc một trong các
trường hợp như: lao động nữ mang thai, lao động nữ sinh con, lao động nữ mang thai
hộ và người mẹ nhờ mang thai hộ, NLĐ nhận nuôi con nuôi dưới 06 tháng tuổi, lao
động nữ đặt vòng tránh thai, NLĐ thực hiện biện pháp triệt sản, lao động nam đang
đóng BHXH có vợ sinh con. Với lao động nữ sinh con; lao động nữ mang thai hộ và
người mẹ nhờ mang thai hộ; NLĐ nhận nuôi con nuôi dưới 06 tháng tuổi thì phải
đóng bảo hiểm xã hội từ đủ 06 tháng trở lên trong thời gian 12 tháng trước khi sinh
con hoặc nhận nuôi con nuôi. Với lao động nữ sinh con đã đóng BHXH từ đủ 12
tháng trở lên mà khi mang thai phải nghỉ việc để dưỡng thai theo chỉ định của cơ sở
khám bệnh, chữa bệnh có thẩm quyền thì phải đóng bảo hiểm xã hội từ đủ 03 tháng
trở lên trong thời gian 12 tháng trước khi sinh con. Lao động nữ mang thai hộ mà chấm
dứt HĐLĐ, HĐLV hoặc thôi việc trước thời điểm sinh và người mẹ nhờ mang thai hộ
mà chấm dứt HĐLĐ, HĐLV hoặc thôi việc trước thời điểm nhận con vẫn được hưởng
chế độ thai sản theo quy định tại các Điều 34, Điều 36, Điều 38 và Khoản 1 Điều 39 của
Luật BHXH năm 2014 sẽ không được tính là thời gian đóng BHXH.
Ngoài chế độ thai sản còn có chế độ hưởng trợ cấp một lần khi sinh con đối với
lao động nam như sau: Đối với trường hợp chỉ có cha tham gia BHXH thì cha phải
đóng BHXH từ đủ 6 tháng trở lên trong vòng 12 tháng trước khi sinh con, đối với
người chồng của người mẹ nhờ mang thai hộ phải đóng BHXH từ đủ 6 tháng trở lên
trong thời gian 12 tháng tính đến thời điểm nhận con. Trong thời gian đi làm trước
khi hết thời hạn nghỉ sinh con mà lao động nữ phải nghỉ việc để khám thai, sẩy thai,
nạo, hút thai, thai chết lưu, phá thai bệnh lý, thực hiện các biện pháp tránh thai thì
được hưởng chế độ thai sản theo quy định tại các Điều 32, Điều 33 và Điều 37 của
Luật BHXH năm 2014.
Thời gian hưởng chế độ thai sản được chia theo các giai đoạn sau:
Thứ nhất, khi khám thai: Trong thời gian mang thai, lao động nữ được nghỉ việc
để đi khám thai 05 lần, mỗi lần 01 ngày; trường hợp ở xa cơ sở khám bệnh, chữa bệnh
hoặc người mang thai có bệnh lý hoặc thai không bình thường thì được nghỉ 02 ngày
cho mỗi lần khám thai. Thời gian nghỉ việc hưởng chế độ thai sản này tính theo ngày
làm việc không kể ngày nghỉ lễ, nghỉ Tết, ngày nghỉ hàng tuần.
34
Thứ hai, khi sẩy thai, nạo, hút thai, thai chết lưu hoặc phá thai bệnh lý: Khi sẩy
thai, nạo, hút thai, thai chết lưu hoặc phá thai bệnh lý thì lao động nữ được nghỉ việc
hưởng chế độ thai sản theo chỉ định của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh có thẩm quyền.
Thời gian nghỉ việc tối đa được quy định như sau: 10 ngày nếu thai dưới 05 tuần tuổi, 20
ngày nếu thai từ 05 tuần tuổi đến dưới 13 tuần tuổi, 40 ngày nếu thai từ 13 tuần tuổi đến
dưới 25 tuần tuổi, 50 ngày nếu thai từ 25 tuần tuổi trở lên. Thời gian nghỉ việc hưởng
chế độ thai sản này tính cả ngày nghỉ lễ, nghỉ Tết, ngày nghỉ hàng tuần.
Thứ ba, khi sinh con: Lao động nữ sinh con được nghỉ việc hưởng chế độ thai
sản trước và sau khi sinh con là 06 tháng. Trường hợp lao động nữ sinh đôi trở lên thì
tính từ con thứ hai trở đi, cứ mỗi con, người mẹ được nghỉ thêm 01 tháng. Thời gian
nghỉ hưởng chế độ thai sản trước khi sinh tối đa không quá 02 tháng. Thời gian hưởng
chế độ thai sản này tính cả ngày nghỉ lễ, nghỉ Tết, ngày nghỉ hàng tuần. Lao động
nam đang đóng bảo hiểm xã hội khi vợ sinh con được nghỉ việc hưởng chế độ thai
sản như sau: 05 ngày làm việc; 07 ngày làm việc khi vợ sinh con phải phẫu thuật,
sinh con dưới 32 tuần tuổi; trường hợp vợ sinh đôi thì được nghỉ 10 ngày làm việc,
từ sinh ba trở lên thì cứ thêm mỗi con được nghỉ thêm 03 ngày làm việc; trường hợp
vợ sinh đôi trở lên mà phải phẫu thuật thì được nghỉ 14 ngày làm việc. Thời gian nghỉ
việc hưởng chế độ thai sản quy định tại khoản này được tính trong khoảng thời gian
30 ngày đầu kể từ ngày vợ sinh con.
Trường hợp đặc biệt sau khi sinh, bao gồm:
Thứ nhất, trường hợp sau sinh, con chết: Nếu con dưới 02 tháng tuổi bị chết thì
mẹ được nghỉ việc 04 tháng tính từ ngày sinh con, Nếu con từ 02 tháng tuổi trở lên
bị chết thì mẹ được nghỉ việc 02 tháng tính từ ngày con chết, nhưng thời gian nghỉ việc
hưởng chế độ thai sản không vượt quá thời gian quy định 6 tháng, thời gian này không
tính vào thời gian nghỉ việc riêng theo quy định của pháp luật về lao động.
Thứ hai, trường hợp sau sinh, mẹ chết: Trường hợp chỉ có mẹ tham gia BHXH
mà mẹ chết sau khi sinh thì cha hoặc người trực tiếp nuôi dưỡng được hưởng chế độ thai
sản đối với thời gian còn lại của người mẹ theo quy định. Mức hưởng chế độ thai sản
còn lại = Bình quân tiền lương tháng đóng BHXH của 6 tháng trước khi nghỉ việc hưởng
chế độ của người mẹ * Số tháng hoặc ngày còn lại của chế độ thai sản.
35
Trường hợp cả cha và mẹ đều tham gia BHXH mà mẹ chết sau khi sinh thì cha
được nghỉ việc hưởng chế độ thai sản đối với thời gian còn lại của người mẹ theo quy
định. Mức hưởng chế độ thai sản còn lại = Bình quân tiền lương tháng đóng BHXH
của 6 tháng trước khi nghỉ việc hưởng chế độ của người cha * Số tháng hoặc ngày
còn lại của chế độ thai sản.
Trường hợp mẹ tham gia BHXH nhưng không đủ điều kiện quy định về đóng
BHXH (đóng BHXH < 6 tháng) mà mẹ chết sau khi sinh thì cha hoặc người trực tiếp
nuôi dưỡng được hưởng chế độ thai sản cho đến khi con đủ 06 tháng tuổi. Mức hưởng
chế độ thai sản còn lại = Bình quân tiền lương tháng đóng BHXH của các tháng đã đóng
BHXH của người mẹ * Số tháng hoặc ngày còn lại của chế độ thai sản.
Trường hợp cả cha và mẹ tham gia BHXH nhưng người mẹ không đủ điều kiện
quy định về đóng BHXH (đóng BHXH < 6 tháng) tại khoản 2 hoặc khoản 3 điều 31
Luật BHXH mà mẹ chết sau khi sinh thì cha được nghỉ việc hưởng chế độ thai sản
cho đến khi con đủ 06 tháng tuổi. Mức hưởng chế độ thai sản còn lại = Bình quân
tiền lương tháng đóng BHXH của 6 tháng trước khi nghỉ việc hưởng chế độ của người
cha * Số tháng hoặc ngày còn lại của chế độ thai sản.
Trường hợp cha hoặc người trực tiếp nuôi dưỡng quy định mà không nghỉ việc
thì ngoài tiền lương còn được hưởng chế độ thai sản. Mức hưởng chế độ thai sản còn
lại = Bình quân tiền lương tháng đóng BHXH của các tháng đã đóng BHXH của
người mẹ * Số tháng hoặc ngày còn lại của chế độ thai sản.
Trường hợp chỉ có cha tham gia BHXH mà mẹ chết sau khi sinh con hoặc gặp
rủi ro sau khi sinh mà không còn đủ sức khỏe để chăm sóc con theo xác nhận của cơ
sở khám chữa bệnh có thẩm quyền thì cha được nghỉ việc hưởng chế độ thai sản cho
đến khi con đủ 06 tháng tuổi. Mức hưởng chế độ thai sản còn lại = Bình quân tiền
lương tháng đóng BHXH của các tháng đã đóng BHXH của người cha * Sổ tháng
hoặc ngày còn lại của chế độ thai sản
Đối với trường hợp quy định người cha được nghỉ việc để hưởng chế độ thai
sản, mà người cha đóng BHXH chưa đủ 06 tháng thì mức hưởng chế độ thai sản được
tính trên cơ sở mức bình quân tiền lương tháng của các tháng đã đóng BHXH.
36
Ngoài ra, trường hợp lao động nam đang đóng BHXH có vợ sinh con được nghỉ
việc hưởng chế độ thai sản (được tính trong khoảng thời gian 30 ngày đầu kể từ ngày
vợ sinh con) 05 ngày làm việc; 07 ngày làm việc khi vợ sinh con phải phẫu thuật,
sinh con dưới 32 tuần tuổi. Trường hợp vợ sinh đôi thì được nghỉ 10 ngày làm việc,
từ sinh ba trở lên thì cứ thêm mỗi con được nghỉ thêm 03 ngày làm việc. Trường hợp
vợ sinh đôi trở lên mà phải phẫu thuật thì được nghỉ 14 ngày làm việc.
Chế độ thai sản đối với lao động nữ mang thai hộ đang đóng BHXH bắt buộc là
khi lao động nữ mang thai hộ được hưởng chế độ khi khám thai, sẩy thai, nạo, hút
thai, thai chết lưu hoặc phá thai bệnh lý và chế độ khi sinh con cho đến thời điểm giao
đứa trẻ cho người mẹ nhờ mang thai hộ nhưng không vượt quá thời gian quy định.
Nghỉ việc hưởng chế độ thai sản cho đến ngày giao đứa trẻ. Trong trường hợp kể từ
ngày sinh đến thời điểm giao đứa trẻ hoặc thời điểm đứa trẻ chết mà thời gian hưởng
chế độ thai sản chưa đủ 60 ngày thì người mang thai hộ vẫn được hưởng chế độ thai
sản cho đến khi đủ 60 ngày tính cả ngày nghỉ lễ, nghỉ Tết, ngày nghỉ hàng tuần. Trợ
cấp một lần cho mỗi con bằng 02 lần mức lương Cơ sở tại tháng lao động nữ mang
thai hộ sinh con. Thời điểm giao đứa trẻ cho người mẹ nhờ mang thai hộ là thời điểm
ghi trong văn bản xác nhận thời điểm giao đứa trẻ của bên nhờ mang thai hộ và bên
mang thai hộ. Sau thời gian hưởng chế độ thai sản quy định (như: sẩy thai, nạo, hút,
thai chết lưu hoặc phá thai bệnh lý; Nghỉ việc hưởng chế độ thai sản cho đến ngày
giao đứa trẻ) trong 30 ngày đầu làm việc mà sức khỏe chưa hồi phục thì lao động nữ
mang thai hộ được nghỉ dưỡng sức, phục hồi sức khỏe theo quy định. Khi lao động
nữ mang thai hộ sinh con thì người chồng đang đóng BHXH bắt buộc vào quỹ ốm
đau và thai sản được nghỉ việc hưởng chế độ thai sản theo quy định tại Khoản 2 Điều
34 của Luật BHXH.
Còn đối với chế độ thai sản đối với lao động nữ nhờ mang thai hộ khi người mẹ
nhờ mang thai hộ đã đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc vào quỹ ốm đau và thai sản từ
đủ 06 tháng trở lên trong thời gian 12 tháng tính đến thời điểm nhận con thì được
hưởng chế độ thai sản theo quy định.
NLĐ nhận nuôi con nuôi dưới 06 tháng tuổi thời gian hưởng chế độ khi nhận
nuôi con nuôi thì được nghỉ việc hưởng chế độ thai sản cho đến khi con đủ 06 tháng
37
tuổi, Trường hợp cả cha và mẹ cùng tham gia BHXH, đủ điều kiện hưởng chế độ thai
sản theo quy định (đã đóng BHXH từ đủ 6 tháng trong thời gian 12 tháng trước khi
sinh con nuôi) thì chỉ cha hoặc mẹ được nghỉ việc hưởng chế độ.
Như vậy chế độ thai sản trong Luật BHXH mới đã linh hoạt hơn, đem lại những
lợi ích thiết thực cho lao động, đặc biệt là lao động nữ. Tuy nhiên vẫn còn một số tồn
tại khi thực hiện chính sách: Sự chi tiết, sự tỉ mỉ trong từng quy định về thời gian
hưởng và mức hưởng trong chế độ thai sản càng chứng minh sự quan tâm của Đảng
và Nhà nước đối với nhân dân, đặc biệt là đối với người phụ nữ và trẻ em. Điều đó
càng khẳng định tầm quan trọng của chế độ thai sản trong chính sách về an sinh xã
hội. Nhưng những tồn tại và vướng mắc khi thực hiện chế độ này đã gây ra những
khó khăn cho NLĐ.
2.2.4.2. Chế độ tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp
Trong quá trình lao động, gắn liền với việc thực hiện công việc, nhiệm vụ lao
động mà NLĐ bị tai nạn lao động dẫn đến bị thương, tử vong hoặc NLĐ bị bệnh nghề
nghiệp do điều kiện lao động có hại của nghề nghiệp tác động thì tùy vào từng trường
hợp cụ thể, NLĐ sẽ được hưởng chế độ tai nạn lao động hoặc chế độ bệnh nghề
nghiệp nếu đáp ứng đủ điều kiện.
Điều kiện hưởng chế độ tai nạn lao động là khi NLĐ được hưởng chế độ tai nạn
lao động khi có đủ các điều kiện sau đây: Bị tai nạn thuộc một trong các trường hợp
tại nơi làm việc và trong giờ làm việc. Nơi làm việc là địa điểm mà NLĐ phải làm
việc theo hợp đồng, nơi NLĐ hàng ngày có mặt để làm việc và phải xảy ra trong thời
gian làm việc hoặc giờ làm việc mà Bộ luật Lao động và Nội quy công ty, ngoài nơi
làm việc hoặc ngoài giờ làm việc khi thực hiện công việc theo yêu cầu của NSDLĐ
hoặc trên tuyến đường đi và về từ nơi ở đến nơi làm việc trong khoảng thời gian và
tuyến đường hợp lý. NLĐ bị suy giảm khả năng lao động từ 5% trở lên do bị những
tai nạn trên.
Điều kiện hưởng chế độ bệnh nghề nghiệp là khi NLĐ được hưởng chế độ bệnh
nghề nghiệp khi bị bệnh thuộc danh mục bệnh nghề nghiệp do Bộ Y tế và Bộ Lao
động, thương binh và Xã hội ban hành khi làm việc trong môi trường hoặc nghề có
yếu tố độc hại; NLĐ bị suy giảm khả năng lao động từ 5% trở lên do bị bệnh theo
38
quy định trên. Giám định mức suy giảm khả năng lao động. NLĐ bị tai nạn lao động,
bệnh nghề nghiệp được giám định hoặc giám định lại mức suy giảm khả năng lao
động khi thuộc một trong các trường hợp sau khi thương tật, bệnh tật đã được điều trị
ổn định hoặc sau khi thương tật, bệnh tật tái phát đã được điều trị ổn định.
NLĐ được giám định tổng hợp mức suy giảm khả năng lao động khi thuộc một
trong các trường hợp vừa bị tai nạn lao động vừa bị bệnh nghề nghiệp, bị tai nạn lao
động nhiều lần, bị nhiều bệnh nghề nghiệp.
Chế độ hưởng của Tai nạn lao động và Bệnh nghề nghiệp như sau:
Thứ nhất, Giám định mức suy giảm khả năng lao động
NLĐ bị tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp được giám định hoặc giám định lại
mức suy giảm khả năng lao động khi thuộc một trong các trường hợp sau khi thương
tật, bệnh tật đã được điều trị ổn định hoặc sau khi thương tật, bệnh tật tái phát đã được
điều trị ổn định. NLĐ được giám định tổng hợp mức suy giảm khả năng lao động khi
thuộc một trong các trường hợp sau: vừa bị tai nạn lao động vừa bị bệnh nghề nghiệp.
Bị tai nạn lao động nhiều lần hoặc bị nhiều bệnh nghề nghiệp.
Thứ hai, Trợ cấp BHXH được chia thành các loại như sau:
Trợ cấp một lần dành cho NLĐ bị suy giảm khả năng lao động từ 5% đến 30%
thì được hưởng trợ cấp một lần. Mức trợ cấp một lần được quy định như sau: Suy
giảm 5% khả năng lao động thì được hưởng 05 lần mức lương cơ sở, sau đó cứ suy
giảm thêm 1% thì được hưởng thêm 0,5 lần mức lương cơ sở. Ngoài mức trợ cấp quy
định tại điểm a khoản này, còn được hưởng thêm khoản trợ cấp tính theo số năm đã
đóng bảo hiểm xã hội, từ một năm trở xuống thì được tính bằng 0,5 tháng, sau đó cứ
thêm mỗi năm đóng bảo hiểm xã hội được tính thêm 0,3 tháng tiền lương đóng bảo
hiểm xã hội của tháng liền kề trước khi nghỉ việc để điều trị.
Trợ cấp hàng tháng dành cho NLĐ bị suy giảm khả năng lao động từ 31% trở
lên thì được hưởng trợ cấp hàng tháng. Mức trợ cấp hàng tháng được quy định như
sau: Suy giảm 31% khả năng lao động thì được hưởng bằng 30% mức lương cơ sở,
sau đó cứ suy giảm thêm 1% thì được hưởng thêm 2% mức lương cơ sở. Ngoài mức
trợ cấp quy định tại điểm a khoản này, hàng tháng còn được hưởng thêm một khoản
trợ cấp tính theo số năm đã đóng bảo hiểm xã hội, từ một năm trở xuống được tính bằng
39
0,5%, sau đó cứ thêm mỗi năm đóng bảo hiểm xã hội được tính thêm 0,3% mức tiền lương
đóng bảo hiểm xã hội của tháng liền kề trước khi nghỉ việc để điều trị.
Thứ ba, các chế độ khác
NLĐ bị TNLĐ, BNN mà bị tổn thương chức năng hoạt động của cơ thể thì được
cấp phương tiện trợ giúp sinh hoạt, dụng cụ chỉnh hình theo niên hạn căn cứ vào tình
hình theo niên hạn căn cứ vào tình trạng thương tật, bệnh tật; NLĐ bị suy giảm khả
năng lao động từ 81% trở lên mà bị liệt cột sống và mù hai mắt hoặc cụt, liệt hai chi
hoặc bị bệnh tâm thần hàng tháng còn được hưởng trợ cấp phục vụ bằng mức lương
cơ sở.
Thứ tư, chế độ dưỡng sức, phục hồi sức khỏe sau khi điều trị thương tật, bệnh
tật. NLĐ sau khi điều trị ổn định thương tật do tai nạn lao động hoặc bệnh tật do bệnh
nghề nghiệp, trong thời gian 30 ngày đầu trở lại làm việc mà sức khỏe chưa phục hồi
thì được nghỉ dưỡng sức, phục hồi sức khỏe từ 05 ngày đến 10 ngày cho một lần bị
TNLĐ, BNN. Mức hưởng một ngày bằng 30% mức lương cơ sở.
2.2.4.2. Chế độ hưu trí
Chế độ hưu trí là chế độ dành cho NLĐ đủ điều kiện nghỉ lương hưu, tức là đáp
ứng điều kiện về tuổi và thời gian đóng BHXH thì sẽ được hưởng lương hưu sau khi
chấm dứt hợp đồng lao động.
Điều kiện hưởng lương hưu là NLĐ khi nghỉ việc có đủ 20 năm đóng bảo hiểm
xã hội trở lên thì được hưởng lương hưu nếu thuộc một trong các trường hợp nam đủ
60 tuổi, nữ đủ 55 tuổi. Nam từ đủ 55 tuổi đến đủ 60 tuổi, nữ từ đủ 50 tuổi đến đủ 55
tuổi và có đủ 15 năm làm nghề hoặc công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm hoặc
đặc biệt nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm thuộc danh mục do Bộ Lao động - Thương
binh và Xã hội, Bộ Y tế ban hành hoặc có đủ 15 năm làm việc ở nơi có phụ cấp khu
vực hệ số 0,7 trở lên. Hoặc NLĐ từ đủ 50 tuổi đến đủ 55 tuổi và có đủ 20 năm đóng
bảo hiểm xã hội trở lên mà trong đó có đủ 15 năm làm công việc khai thác than trong
hầm lò - Người bị nhiễm HIV/AIDS do tai nạn rủi ro nghề nghiệp.
Ngoài ra, NLĐ trong lực lượng công an, quân đội và cơ yếu chính phủ có đủ 20
năm đóng bảo hiểm xã hội trở lên thì nghỉ việc được hưởng lương hưu khi thuộc một
trong các trường hợp nam đủ 55 tuổi, nữ đủ 50 tuổi, trừ trường hợp Luật sĩ quan quân
40
đội nhân dân Việt Nam, Luật công an nhân dân, Luật cơ yếu có quy định khác. Nam
từ đủ 50 tuổi đến đủ 55 tuổi, nữ từ đủ 45 tuổi đến đủ 50 tuổi và có đủ 15 năm làm
nghề hoặc công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm hoặc đặc biệt nặng nhọc, độc hại,
nguy hiểm thuộc danh mục do Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Bộ Y tế ban
hành hoặc có đủ 15 năm làm việc ở nơi có phụ cấp khu vực hệ số 0,7 trở lên. Người
bị nhiễm HIV/AIDS do tai nạn rủi ro nghề nghiệp. Lao động nữ là người hoạt động
chuyên trách hoặc không chuyên trách ở xã, phường, thị trấn tham gia bảo hiểm xã
hội khi nghỉ việc mà có từ đủ 15 năm đến dưới 20 năm đóng BHXH và đủ 55 tuổi thì
được hưởng lương hưu. Điểm mới thứ nhất về chế độ hưu trí quy định trong Luật
BHXH 2014 chính là độ tuổi hưởng lương hưu. Theo số liệu thống kê cho thấy, hiện
nay trong tổng số những người nghỉ việc hưởng lương hưu có khoảng 60% người
nghỉ hưu trước tuổi quy định, trong đó phần lớn nghỉ hưu do suy giảm khả năng lao
động từ 61% trở lên, đây là một trong các nguyên nhân làm cho tuổi nghỉ hưu bình
quân thực tế xuống thấp hơn so với quy định. Trên thực tế tuổi nghỉ hưu bình quân
năm 2012 chỉ là 54,2 tuổi, trong đó nam là 55,6 tuổi và nữ là 52,6 tuổi. Bên cạnh đó,
xu hướng tuổi thọ bình quân của nước ta càng tăng, hiện nay tuổi thọ bình quân của
người dân Việt Nam là 73 tuổi, đặc biệt số năm trung bình còn sống được của nam ở
tuổi 60 là 18,1 năm và của nữ ở tuổi 55 là 24,5 năm. Tuổi nghỉ hưu bình quân thấp,
trong khi tuổi thọ trung bình cao, đây là một yếu tố ảnh hưởng lớn đến khả năng cân
đối của quỹ hưu trí và tử tuất.
2.2.4.2. Chế độ tử tuất
Chế độ tử tuất dành cho đối tượng trong trường hợp NLĐ đang tham gia BHXH,
đang hưởng lương hưu, hưởng trợ cấp BHXH hàng tháng,.. mà bị chết thì những thân
nhân của đáp ứng đủ điều kiện theo quy định pháp luật sẽ được hưởng chế độ tử tuất.
Thứ nhất, trợ cấp mai táng
Những người sau đây khi chết thì người lo mai táng được nhận một lần trợ cấp
mai táng: NLĐ đang đóng bảo hiểm xã hội hoặc NLĐ đang bảo lưu thời gian đóng
bảo hiểm xã hội mà đã có thời gian đóng từ đủ 12 tháng trở lên. NLĐ chết do tai nạn
lao động, bệnh nghề nghiệp hoặc chết trong thời gian điều trị do tai nạn lao động,
bệnh nghề nghiệp. Người đang hưởng lương hưu; hưởng trợ cấp tai nạn lao động,
41
bệnh nghề nghiệp hàng tháng đã nghỉ việc. Mức trợ cấp mai táng bằng 10 lần mức
lương cơ sở tại tháng mà NLĐ chết. Chế độ mai táng phí theo Luật BHXH năm 2014
được mở rộng thêm đối tượng hưởng đối với trường hợp NLĐ chết trong thời gian
điều trị do tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp.
Đồng thời bổ sung thêm thời hạn tham gia BHXH 12 tháng trở lên đối với
trường hợp NLĐ bảo lưu mà chết thì người lo mai táng được hưởng trợ cấp mai táng.
Các trường hợp được hưởng tuất hàng tháng cũng điều chỉnh theo hướng nâng độ
tuổi của con NLĐ từ 15 tuổi lên 18 tuổi Điểm a Khoản 2 Điều 67 nhằm đảm bảo
quyền lợi hơn nữa cho NLĐ và tương thích với quy định pháp luật về quyền trẻ em.
Thứ hai, trợ cấp hàng tháng
Những NLĐ thuộc một trong các trường hợp sau đây khi chết thì thân nhân
được hưởng tiền tuất hàng tháng: Đã đóng bảo hiểm xã hội đủ 15 năm trở lên nhưng
chưa hưởng bảo hiểm xã hội một lần. Đang hưởng lương hưu. Chết do tai nạn lao
động, bệnh nghề nghiệp. Đang hưởng trợ cấp tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp
hàng tháng với mức suy giảm khả năng lao động từ 61% trở lên.
Thân nhân của những NLĐ trên được hưởng trợ cấp tuất hàng tháng, bao gồm:
Con chưa đủ 18 tuổi; con từ đủ 18 tuổi trở lên nếu bị suy giảm khả năng lao động từ
81% trở lên; con được sinh khi người bố chết mà người mẹ đang mang thai. Vợ từ đủ
55 tuổi trở lên hoặc chồng từ đủ 60 tuổi trở lên; vợ dưới 55 tuổi, chồng dưới 60 tuổi
nếu bị suy giảm khả năng lao động từ 81% trở lên. Cha đẻ, mẹ đẻ, cha đẻ của vợ hoặc
cha đẻ của chồng, mẹ đẻ của vợ hoặc mẹ đẻ của chồng, thành viên khác trong gia
đình mà người tham gia bảo hiểm xã hội đang có nghĩa vụ nuôi dưỡng theo quy định
của pháp luật về hôn nhân và gia đình nếu từ đủ 60 tuổi trở lên đối với nam, từ đủ 55
tuổi trở lên đối với nữ. Cha đẻ, mẹ đẻ, cha đẻ của vợ hoặc cha đẻ của chồng, mẹ đẻ
của vợ hoặc mẹ đẻ của chồng, thành viên khác trong gia đình mà người tham gia bảo
hiểm xã hội đang có nghĩa vụ nuôi dưỡng theo quy định của pháp luật về hôn nhân
và gia đình nếu dưới 60 tuổi đối với nam, dưới 55 tuổi đối với nữ và bị suy giảm khả
năng lao động từ 81% trở lên.
42
2.1.3. Quỹ bảo hiểm xã hội bắt buộc
Tại Điều 13 Nghị định số 143/2014/NĐ-CP quy định mức đóng và phương thức
đóng của NSDLĐ, hàng tháng đóng trên quỹ tiền lương tháng đóng BHXH của NLĐ
như sau: Từ ngày 1/12/2018 đóng 3% vào quỹ ốm đau và thai sản; 0,5% vào quỹ bảo
hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp; từ ngày 1/1/2022 đóng 14% vào quỹ hưu
trí và tử tuất từ ngày 1/1/2022.
2.2.4.2. Về nguồn hình thành quỹ bảo hiểm xã hội
Thu được coi là nguồn công tác trọng tâm để hình thành quỹ BHXH, thực hiện
tốt công tác thu sẽ đảm bảo việc thực hiện pháp luật BHXH được triệt để. Tổ chức
tốt công tác thu tiền đóng BHXH hàng tháng đồng thời giải quyết nhanh gọn, chế độ
chính sách BHXH, bảo đảm quyền, lợi ích cho NLĐ. Tập trung đôn đốc đơn vị ngay
từ khi đơn vị có dấu hiệu chậm đóng BHXH từ 1 đến 2 tháng. Quỹ BHXH hình thành
và hoạt động đã tạo ra khả năng giải quyết những rủi ro của tất cả những người tham
gia với tổng dự trữ ít nhất, giúp cho việc dàn trải rủi ro được thực hiện theo cả hai
chiều không gian và thời gian, đồng thời giúp giảm tối thiểu thiệt hại kinh tế cho
NSDLĐ, tiết kiệm chi cho cả ngân sách Nhà nước và tiền của gia đình.
Quỹ BHXH là quỹ tiền tệ độc lập được hình thành từ sự đóng góp của NLĐ và
NSDLĐ đặt dưới sự bảo trợ của Nhà nước. Tuy nhiên tỷ lệ % chi so với thu của quỹ
BHXH bắt buộc đều có xu hướng gia tăng và đang có nguy cơ mất cân đối thu chi
quỹ hưu trí - tử tuất đang cận kề điều này ảnh hưởng không nhỏ tới việc thực hiện
pháp luật BHXH.
Quỹ BHXH được hình thành từ những nguồn khác nhau. Chủ động phối hợp
với các ngành chức năng liên quan tổ chức thanh tra, kiểm tra những doanh nghiệp
nợ đọng BHXH, xử lý nghiêm, kịp thời các đơn vị cố tình chậm đóng, trốn đóng
BHXH làm ảnh hưởng đến quyền lợi của NLĐ. Xem việc khởi kiện như là biện pháp
cuối cùng, xây dựng tiêu chí nợ làm cơ sở khởi kiện và khởi kiện kịp thời .
Thứ nhất, theo quy định tại Khoản 4 Điều 3 Luật BHXH 2014:"Quỹ BHXH là
quỹ tài chính độc lập với ngân sách nhà nước, được hình thành từ đóng góp của NLĐ,
NSDLĐ và có sự hỗ trợ của Nhà nước."
43
Thứ hai, theo quy định tại Điều 82 Luật BHXH 2014 quy định các nguồn hình
thành quỹ BHXH gồm: NSDLĐ đóng theo quy định tại Điều 86 của Luật này và NLĐ
đóng theo quy định tại Điều 85 và Điều 87 của Luật này. Mức đóng cụ thể của NLĐ
và NSDLĐ là tỷ lệ (%) đóng BHXH x Mức tiền lương, tiền công tháng của NLĐ. Tỷ
lệ (%) đóng BHXH qua các năm như sau: Từ 01/01/2010 đến 31/12/2011: 22%
(NLĐ: 6%; Đơn vị: 16%). Từ 01/01/2012 đến 31/12/2013: 24% (NLĐ: 7%; Đơn vị:
17%). Từ 01/01/2014 đến 31/12/2017: 26% (NLĐ: 8%; Đơn vị: 18%). Căn cứ vào
Luật BHXH năm 2014, Luật việc làm năm 2013, Nghị định số 105/2014/NĐ-CP,
Nghị định số 44/2017/NĐ-CP ngày 04/04/2017 của Chính phủ thì mức đóng BHXH
bắt buộc (đóng vào quỹ hưu trí, tử tuất ; quỹ TNLĐ, BNN ; quỹ ốm đau, thai sản, quỹ
BHTN: quỹ BHYT áp dụng từ ngày 01/01/2018.
Ngoài ra, còn là tiền sinh lời của hoạt động đầu tư từ quỹ. Nghị định
30/2016/NĐ-CP ngày 28/4/2016 của Chính phủ quy định chi tiết hoạt động đầu tư từ
quỹ BHXH, do BHXH Việt Nam quản lý. Hoạt động đầu tư từ quỹ bảo hiểm xã hội,
bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp được thực hiện thông qua các hình thức theo thứ
tự ưu tiên như sau: Mua trái phiếu Chính phủ; Cho ngân sách nhà nước vay: Gửi tiền;
mua trái phiếu, kỳ phiếu, tín phiếu, chứng chỉ tiền gửi tại các ngân hàng thương mại
có chất lượng hoạt động tốt theo xếp loại tín nhiệm của Ngân hàng Nhà nước Việt
Nam; Cho Ngân hàng Phát triển Việt Nam, Ngân hàng Chính sách xã hội vay theo
hình thức mua trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh do các ngân hàng này phát hành;
Đầu tư vào các dự án quan trọng theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ. Hoặc là
tiền hỗ trợ của Nhà nước và các nguồn thu hợp pháp khác.
Có thể thấy quỹ BHXH được hình thành từ các nguồn trên. Phần lớn các nước
trên thế giới đều quy định quỹ bảo hiểm hình thành từ các nguồn trên. NSDLĐ đóng
góp một phần quỹ BHXH cho NLĐ nhằm tránh những thiệt hại lớn khi có những sự
cố xảy ra như đình trệ sản xuất, đào tạo lại lao động hay khi có rủi ro xảy ra với NLĐ;
bên cạnh đó còn giảm bớt đi sự căng thẳng trong mối quan hệ vốn chứa đựng đầy
những mâu thuẫn, tranh chấp giữa NSDLĐ và NLĐ. NLĐ đóng góp một phần vào
quỹ BHXH nhằm một phần gánh chịu trực tiếp rủi ro của chính mình, bên cạnh đó
còn có ý nghĩa ràng buộc nghĩa vụ và quyền lợi của họ một cách chặt chẽ. Nhà nước
44
tham gia đóng góp một phần vào quỹ BHXH trên cương vị của người quản lý xã hội
về mọi mặt với mục đích phát triển kinh tế ổn định xã hội. Do mối quan hệ giữa chủ
- thợ có chứa nhiều mâu thuẫn mà hai bên không thể tự giải quyết được. Nhà nước
buộc phải tham gia nhằm hài hòa mọi mâu thuẫn của hai bên thông qua hệ thống các
chính sách, pháp luật. Không chỉ có như vậy nhà nước còn hỗ trợ thêm vào quỹ
BHXH giúp cho hoạt động BHXH được ổn định.
Theo quy định tại Khoản 4 Điều 5 Luật BHXH 2014 quy định: "Quỹ BHXH
được quản lý tập trung, thống nhất, công khai, minh bạch; được sử dụng đúng mục
đích và được hạch toán độc lập theo các quỹ thành phần, các nhóm đối tượng thực
hiện chế độ tiền lương do Nhà nước quy định và chế độ tiền lương do NSDLĐ quyết
định."
2.2.4.2. Về sử dụng quỹ bảo hiểm xã hội
Theo Điều 84 Luật BHXH 2014 quy định về sử dụng quỹ BHXH như sau:
Thứ nhất, trả các chế độ BHXH cho NLĐ theo quy định tại Chương III và
Chương IV của Luật này.
Thứ hai, đóng BHYT cho người đang hưởng lương hưu hoặc nghỉ việc hưởng
trợ cấp TNLĐ, BNN hàng tháng hoặc nghỉ việc hưởng trợ cấp thai sản khi sinh con
hoặc nhận nuôi con nuôi hoặc nghỉ việc hưởng trợ cấp ốm đau đối với NLĐ bị mắc
bệnh thuộc Danh mục bệnh cần chữa trị dài ngày do Bộ Y tế ban hành
Quỹ BHXH Việt Nam sử dụng chủ yếu vào mục đích chi trả trợ cấp cho các
chế độ BHXH và chi phí cho sự nghiệp quản lý BHXH. Chi đầu tư tăng trưởng quỹ
còn thấp, việc đầu tư tăng trưởng quỹ BHXH mặc dù đã đảm bảo nguyên tắc; an toàn,
có lãi, đảm bảo lợi ích kinh tế - xã hội, song định hướng đầu tư còn lúng túng, lãi suất
đầu tư chưa cao cần tạo ra môi trường vĩ mô để đầu tư bảo toàn và tăng trưởng quỹ.
2.1.4. Thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm và giải quyết tranh chấp về bảo
hiểm xã hội bắt buộc
Trong đời sống kinh tế - xã hội các quy định của pháp luật thường được các chủ
thể pháp luật nghiêm chỉnh thực hiện. Do đó cần các cơ quan tổ chức, cá nhân có
thẩm quyền áp dụng pháp luật BHXH đó là: Thanh tra nhà nước về lao động là cơ
quan chuyên trách có chức năng kiểm tra, giám sát và xử phạt hành chính đối với
45
những đối tượng có hành vi vi phạm pháp luật BHXH. Tùy theo mức độ vi phạm và
thẩm quyền quy định mà Chánh thanh tra Bộ Lao động - Thương binh và xã hội,
Chánh thanh tra lao động cấp Sở hoặc thanh tra viên lao động khi đang thi hành công
vụ ra quyết định xử lý vi phạm. Chủ tịch ủy ban nhân dân các cấp cũng có thẩm quyền
xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực BHXH ở địa phương mình quản lý theo
quy định của pháp luật. Trong trường hợp vi phạm nghiêm trọng thì sẽ bị xử lý hình
sự theo quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam năm 2017.
Có thể nói công tác thanh tra là một nội dung không thể thiếu trong quản lý
nhà nước, là một giai đoạn trong quá trình quản lý, có vai trò kiểm định, đánh giá
hiệu quả của quản lý nhà nước. Theo quy định của pháp luật về BHXH pháp luật về
thanh tra hiện hành thì Thanh tra Lao động - Thương binh và Xã hội và Thanh tra Y
tế có chức năng thanh tra chuyên ngành về BHXH đã có nhiều cố gắng trong việc
thanh tra và phối hợp với tổ chức BHXH để thanh tra, xử phạt đối với các đơn vị, DN
vi phạm pháp luật về BHXH. Tuy nhiên, do số lượng các đơn vị, DN sử dụng lao
động quá lớn, trong khi lực lượng thanh tra của hai ngành này còn quá mỏng; mặt
khác phải tập trung các nhiệm vụ thanh tra, kiểm tra theo chức năng của ngành mình
nên thực tế việc thanh tra thực hiện chính sách BHXH còn nhiều hạn chế về số lần và
số đơn vị được thanh tra. Trong khi đó, cơ quan BHXH trong quá trình thực hiện
nhiệm vụ về BHXH phát hiện nhiều trường hợp vi phạm về BHXH nhưng không có
chức năng để xử phạt, mà chỉ có quyền kiến nghị cấp có thẩm quyền xử lý dẫn đến
các vụ việc vi phạm chưa được xử lý kịp thời.
Để góp phần khắc phục tình trạng này, Luật BHXH (sửa đổi) năm 2014 lần đầu
tiên đã quy định cơ quan BHXH được thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành
về đóng BHXH bắt buộc tại Khoản 3 Điều 13: “Cơ quan BHXH thực hiện chức năng
thanh tra chuyên ngành về đóng BHXH bắt buộc theo quy định của Luật này và quy
định khác của pháp luật khác có liên quan".
Hiện nay, Chính phủ đã đã xây dựng Nghị định về tổ chức và hoạt động của
Thanh tra chuyên ngành về đóng BHXH bắt buộc. Theo đó, với quy định chức năng
thanh tra chuyên ngành về đóng BHXH bắt buộc cho cơ quan BHXH thì công tác xử
lý vi phạm pháp luật về đóng BHXH bắt buộc sẽ đạt hiệu quả cao hơn, bởi cơ quan
46
BHXH trực tiếp thực hiện chính sách BHXH bắt buộc nên sẽ nắm chắc các đơn vị,
DN sử dụng lao động vi phạm quy định về BHXH và các cơ sở khám, chữa bệnh
BHYT, thường xuyên, kịp thời phát hiện, ngăn chặn, xử lý hành vi vi phạm có hiệu
quả. Cơ quan BHXH sẽ cùng với Thanh tra Nhà nước, Thanh tra ngành Lao động
Thương binh và Xã hội, ngành Y tế, ngành Tài chính, ngành Giáo dục... tăng cường
thanh tra, ngăn ngừa vi phạm và kịp thời kiến nghị, sửa đổi những tồn tại, vướng mắc,
bất cập trong triển khai thực hiện chính sách BHXH góp phần bảo đảm cho việc thực
hiện chính sách BHXH đúng quy định của pháp luật và ngày càng tốt hơn.
Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân khác nhau, trong xã hội vẫn có các chủ thể
bất chấp các quy định của pháp luật dẫn đến sự vi phạm pháp luật. Theo quy định tại
Điều 13 Luật Bảo hiểm xã hội và Nghị định số 28/2020/NĐ-CP ngày 01/3/2020 của
Chính phủ quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực lao động, bảo hiểm
xã hội, đưa NLĐ Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng, có hiệu lực thi
hành từ 15/4/2020, Theo đó Nghị định số 28/2020/NĐ-CP quy định:
Đối với NLĐ có hành vi thỏa thuận với NSDLĐ không tham gia BHXH bắt
buộc, tham gia không đúng đối tượng hoặc tham gia không đúng mức quy định sẽ bị
xử phạt từ 500.000 đồng đến. 1.000.000 đồng.
Đối với NSDLĐ, nếu hàng năm không niêm yết công khai thông tin đóng
BHXH của NLĐ do cơ quan BHXH cung cấp theo quy định tại Điều 23 của Luật
BHXH; không thực hiện thủ tục xác nhận về việc đóng BHTN cho NLĐ để NLĐ
hoàn thiện hồ sơ hưởng BHTN theo quy định; không cung cấp hoặc cung cấp không
đầy đủ thông tin về đóng BHXH bắt buộc của NLĐ khi NLĐ hoặc tổ chức Công đoàn
yêu cầu sẽ xử phạt mức tiền từ 500.000 đến 1.000.000 đồng.
Ngoài ra, theo Nghị định số 28/2020/NĐ-CP, sẽ phạt tiền từ 5.000.000 đồng
đến 10.000.000 đồng đối với NSDLĐ có hành vi không cung cấp chính xác, đầy đủ,
kịp thời thông tin, tài liệu liên quan đến việc đóng, hưởng BHXH bắt buộc theo yêu
cầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, cơ quan BHXH.
Phạt tiền từ 12% đến 15% tổng số tiền phải đóng BHXH bắt buộc tại thời điểm
lập biên bản vi phạm hành chính, nhưng tối đa không quá 75,000,000 đồng đối với
NSDLĐ có một trong các hành vi sau: Chậm đóng BHXH bắt buộc; đóng BHXH
47
không đúng mức quy định mà không phải là trốn đóng, đóng BHXH không đủ số
người thuộc diện tham gia BHXH bắt buộc mà không phải là trốn đóng.
Phạt tiền từ 18% đến 20% tổng số tiền phải đóng BHXH bắt buộc tại thời điểm
lập biên bản vi phạm hành chính, nhưng tối đa không quá 75.000.000 đồng đối với
NSDLĐ không đóng BHXH bắt buộc, cho toàn bộ NLĐ thuộc diện tham gia BHXH
bắt buộc, mà chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự. Phạt tiền từ 50.000.000
đồng đến 75.000.000 đồng đối với NSDLĐ có hành vi trốn đóng BHXH bắt buộc mà
chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự.
Bên cạnh đó, các hành vi làm giả, làm sai lệch nội dung hồ sơ BHXH để trục
lợi chế độ mà chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự đối với mỗi hồ sơ hưởng
BHXH làm giả, làm sai lệch nội dung sẽ bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến
10.000.000 đồng. Phạt tiền từ 1.000.000 đồng đến 2.000.000 đồng khi vi phạm với
mỗi NLĐ nhưng tối đa không quá 75.000.000 đồng đối với NSDLĐ có hành vi không
trả chế độ BH TNLĐ, BNN trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày nhận được tiền do cơ
quan BHXH chuyển đến.
Ngoài ra, trong trường hợp xảy ra tranh chấp giữa NLĐ và NSDLĐ về BHXH
thì giải quyết theo quy định về giải quyết tranh chấp lao động. Nếu tranh chấp giữa
NLĐ đi nghỉ việc với NSDLĐ hoặc với cơ quan BHXH, giữa NSDLĐ với cơ quan
BHXH do hai bên thỏa thuận, trường hợp không giải quyết được thi do Tòa án nhân
dân giải quyết (Điều 151 Bộ luật Lao động năm 2012). Theo hướng dẫn của Công
văn số 105/TANDTC-PC&QLKH ngày 14/04/2016 của Toà án nhân dân tối cao về
việc thi hành Luật BHXH, việc xác định loại tranh chấp được thực hiện như sau:
Đối với tranh chấp về BHXH giữa NLĐ hoặc tập thể lao động với NSDLĐ bao
gồm 2 trường hợp: tranh chấp giữa NLĐ với NSDLĐ là tranh chấp lao động cá nhân;
tranh chấp giữa tập thể lao động với NSDLĐ là tranh chấp lao động tập thể. Trường
hợp này, nếu trong quá trình giải quyết tranh chấp mà các bên không đồng ý với quyết
định của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện và khởi kiện đối với quyết định này
thì được xác định là tranh chấp hành chính. Còn tranh chấp về BHXH giữa NLĐ hoặc
NSDLĐ với cơ quan BHXH về quyết định hoặc hành vi hành chính của cơ quan
BHXH là tranh chấp hành chính.
48
Ngoài ra, từ 01/01/2016, Toà án không thụ lý đơn khởi kiện của cơ quan BHXH
đòi tiền BHXH đối với NSDLĐ. Trong trường hợp này, việc khởi kiện được hướng
dẫn thực hiện theo Điều 14 Luật BHXH, theo đó, tổ chức công đoàn có quyền khởi
kiện ra Toà án đối với hành vi vi phạm pháp luật về BHXH gây ảnh hưởng đến quyền
và lợi ích hợp pháp của NLĐ, tập thể NLĐ.
2.2. Thực tiễn thi hành pháp luật bảo hiểm xã hội bắt buộc tại tỉnh Lạng Sơn.
2.2.1. Tình hình thực hiện pháp luật về bảo hiểm xã hội bắt buộc trên địa bàn
tỉnh Lạng Sơn
2.2.4.2. Những kết quả đã đạt được:
Khái quát tình hình kinh tế, xã hội tỉnh Lạng Sơn:
Lạng Sơn là tỉnh miền núi thuộc vùng Đông Bắc, nằm ở vị trí đường quốc lộ
1A, 1B, 4A, 4B, 279 đi qua, là điểm nút của sự giao lưu kinh tế với các tỉnh phía Tây
như Cao Bằng, Thái Nguyên, Bắc Kạn, phía Đông như tỉnh Quảng Ninh, phía Nam
như Bắc Giang, Bắc Ninh, thủ đô Hà Nội và phía Bắc tiếp giáp với Trung Quốc, với
2 cửa khẩu quốc tế, 2 cửa khẩu quốc gia và 7 cặp chợ biên giới tạo điều kiện cho
Lạng Sơn trở thành điểm giao lưu, trung tâm buôn bán thương mại quan trọng của
tỉnh trong cả nước với Trung Quốc, sau đó sang các nước Trung Á, ...
Ngoài những điều kiện tự nhiên, tài nguyên thiên nhiên, văn hóa nhân văn phong
phú. Lạng Sơn còn có đường sắt liên vận quốc tế, là điều kiện rất thuận lợi cho việc
giao lưu kinh tế, khoa học – công nghệ với các tỉnh phía Nam trong cả nước, với
Trung Quốc và qua đó sang các nước vùng Trung Á, châu Âu và các nước
khác…Trong điều kiện hiện nay, khi Nhà nước đang thực hiện chính sách đầu tư phát
triển các khu kinh tế cửa khẩu, thì Lạng Sơn càng có điều kiện để phát triển các ngành
kinh tế, đặc biệt kinh tế thương mại - du lịch - dịch vụ, đây là khu vực phát triển năng
động nhất, đóng vai trò động lực thúc đẩy phát triển các lĩnh vực kinh tế - xã hội, là
trọng tâm chuyển dịch cơ cấu kinh tế của cả tỉnh.
Lạng Sơn có lợi thế về phát triển kinh tế thương mại, với điều kiện về khu kinh
tế cửa khẩu, hệ thống giao thông thuận lợi, nên việc buôn bán trong những năm qua
ở đây rất sôi động, hàng hoá trong tỉnh, các tỉnh bạn trong cả nước qua Lạng Sơn xuất
khẩu sang Trung với số lượng, chủng loại lớn, năm sau cao hơn năm trước. Hàng năm
49
có hàng trăm người dân trong cả nước tham gia xuất khẩu qua biên giới, thu hút nhiều
người dân trong nước, nước ngoài, các thành phần kinh tế tham gia kinh doanh thương
mại, dịch vụ, du lịch ở cửa khẩu và trên địa bàn tỉnh. Thương mại Lạng Sơn phát triển
nhanh chóng đã góp phần thúc đẩy sản xuất phát triển, nâng cao mức sống của nhân
dân, tăng thu nhập cho ngân sách địa phương và trung ương. Hàng năm thu thuế hoạt
động thương mại chiếm trên 80% tổng thu ngân sách toàn tỉnh. Cùng với buôn bán
phát triển, ngành dịch vụ, du lịch, khách sạn, nhà hàng trong những năm qua cũng đã
phát triển nhanh chóng, đáp ứng nhu cầu buôn bán, du lịch của khách trong nước và
quốc tế.
Trong những năm qua, kinh tế tỉnh Lạng Sơn liên tục tăng trưởng, cơ cấu kinh
tế chuyển dịch bền vững, theo đúng định hướng với tốc độ nhanh, chất lượng, các
nguồn lực xã hội được huy động và phát huy hiệu quả. Nền kinh tế quan tâm đẩy
mạnh phát triển kinh tế tư nhân, kinh tế hộ gia đình, thúc đẩy tinh thần khởi nghiệp,
sáng tạo,..., phát triển các khu vực, tuyến đường chuyên doanh các ngành dịch vụ trên
địa bàn tỉnh; công tác thu, chi ngân sách nhà nước được tập trung chỉ đạo sâu sát,
quyết liệt. Ngân sách thu về trên địa bàn tỉnh hàng năm đều vượt dự toán thành phố
giao, năm sau cao hơn năm trước. Chi ngân sách đảm bảo đúng luật, tiết kiệm, hiệu
quả. UBND tỉnh tập trung lãnh đạo, chỉ đạo triển khai tổ chức thực hiện đồng bộ các
giải pháp kinh tế phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn; tích cực cải cách hành chính,
thường xuyên tiếp xúc, đối thoại với doanh nghiệp, hộ kinh doanh trên địa bàn nhằm
kịp thời tháo gỡ khó khăn, thu hút đầu tư phát triển, tạo mọi điều kiện thuận lợi cho
thành phần kinh tế phát triển sản xuất kinh doanh.
Hiện nay, dân số khoảng 782.000 người, năm 2019 số người tham gia BHXH
bắt buộc là 741.521 đạt 98,3% kế hoạch BHXH Việt Nam giao; tổng thu hơn 101.620
triệu đồng, đạt 81% kế hoạch. Với ưu thế có lượng khách du lịch tham quan đông
đúc, giao thông thuận lợi đặc biệt với nước láng giềng Trung Quốc nên hiện nay có
nhiều dự án lớn có ý nghĩa chiến lược và trong điểm. Thời gian tới, tỉnh Lạng Sơn
sớm sẽ trở thành tỉnh phát triển mạnh về kinh tế, đô thị theo hướng công nghiệp hóa
- hiện đại hóa.
50
Khái quát về cơ quan Bảo hiểm xã hội tỉnh Lạng Sơn:
BHXH tỉnh Lạng Sơn được thành lập theo Quyết định số 101/QĐ-TCCB ngày
04/8/1995 của Tổng Giám đốc BHXH Việt Nam trên cơ sở thống nhất hai bộ phận
BHXH của Sở Lao động - Thương binh và Xã hội và Liên đoàn Lao động tỉnh Lạng
Sơn. BHXH tỉnh Lạng Sơn là cơ quan trực thuộc BHXH Việt Nam đặt tại số 621,
Đường Bà Triệu, Phường Đông Kinh, Thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn.
Chức năng, nhiệm vụ của Bảo hiểm xã hội tỉnh, là cơ quan trực thuộc BHXH
Việt Nam đặt tại tỉnh, có chức năng giúp Tổng Giám đốc BHXH Việt Nam tổ chức
thực hiện các chế độ, chính sách bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế; tổ chức thu, chi chế
độ BHTN; quản lý và sử dụng các quỹ: BHXH, BHYT, BHTN; thanh tra chuyên
ngành việc đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm y tế trên địa bàn
tỉnh theo quy định của pháp luật và quy định của Bảo hiểm xã hội Việt Nam. Bảo
hiểm xã hội tỉnh Lạng Sơn chịu sự quản lý trực tiếp, toàn diện của Tổng Giám đốc
BHXH và chịu sự quản lý hành chính trên địa bàn tỉnh của Ủy ban nhân dân tỉnh.
BHXH tỉnh cũng như các cơ quan ban ngành khác như có tư cách pháp nhân, có con
dấu, tài khoản và trụ sở riêng.
Về cơ cấu tổ chức của cơ quan BHXH tỉnh Lạng Sơn từ tháng 01/2020, thực
hiện Quyết định số 969/QĐ-BHXH ngày 29/7/2019 của BHXH Việt Nam Quy định
chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của BHXH địa phương, thực hiện
chuyển giao nghiệp vụ tuyên truyền về phòng Khai thác - Thu nợ và đổi tên thành
phòng Truyền thông và Phát triển đối tượng; sáp nhập BHXH thành phố về BHXH
tỉnh theo chủ trương sắp xếp tinh gọn của BHXH Việt Nam. Hiện nay, BHXH tỉnh
Lạng Sơn có 20 đơn vị trực thuộc gồm 10 phòng chức năng (Quản lý thu, Truyền
thông và Phát triển đối tượng, Tổ chức cán bộ, Tiếp nhận và Trả kết quả thủ tục hành
chính, Kế hoạch – Tài chính, Cấp sổ thẻ, Thanh tra kiểm tra, Công nghệ thông tin,
Chế độ BHXH, Văn phòng) và BHXH 10 huyện.
Những kết quả đạt được:
Về tình hình tham gia BHXH tại tỉnh Lạng Sơn:
Trong những năm gần đây, nền kinh tế tại tỉnh Lạng Sơn đang từng bước ổn
định và phát triển, kéo theo sự xuất hiện các DN mới, vì vậy các thành phần tham gia
51
vào nền kinh tế cũng ngày càng đa dạng và phong phú làm cho số lượng đơn vị thuộc
diện tham gia BHXH bắt buộc gia tăng đáng kể. Số đơn vị tham gia BHXH bắt buộc
của tỉnh Lạng Sơn giai đoạn 2016-2019 được thể hiện qua bảng như sau:
Bảng 2.1: Số đơn vị tham gia BHXH bắt buộc trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn
giai đoạn 2016 - 2019
STT Diễn giải 2016 2017 2018 2019
1 Khối doanh nghiệp nhà nước 8 8 12 12
2 Khối DN vốn đầu tư nước ngoài 17 33 49 62
3 Khối DN ngoài quốc doanh 565 659 1016 1214
4 Khối Hành chính sự nghiệp 40 40 57 57
5 Khối ngoài công lập 24 30 35 42
6 Khối hợp tác xã 5 5 7 13
7 Khối xã, phường 8 8 8 8
8 Khối hộ sản xuất kinh doanh cá thể 10 15 15 18
9 Doanh nghiệp xuất khẩu lao động 3 6 8 11
TỔNG 680 804 1.207 1.437
Đơn vị: Khối, hộ doanh nghiệp (Nguồn BHXH tỉnh Lạng Sơn)
Bảng 2.1. cho thấy số đơn vị tham gia tại BHXH tỉnh Lạng Sơn tăng nhanh từ
680 đơn vị năm 2016 lên 804 đơn vị vào năm 2017 tương ứng với 11,18%. Tiếp tục
tăng mạnh vào các năm 2018 và 2019 tương ứng với 14,93% và 19,06%; trong đó
tăng mạnh là khối DN ngoài quốc doanh, các khối còn lại không đáng kể. Như vậy
thực trạng tham gia BHXH bắt buộc tại tỉnh Lạng Sơn của các đơn vị cần nghiên cứu
kỹ trong việc quản lý. Ngoài ra, kinh tế đang ngày càng phát triển và cùng với sự
hướng dẫn tận tình của các cán bộ trong cơ quan bảo hiểm mà NLĐ cũng như NSDLĐ
đã dần hiểu rõ tầm quan trọng của BHXH và sẵn sàng tham gia đóng BHXH, nên số
NLĐ tham gia ngày càng gia tăng, năm sau luôn cao hơn năm trước. Điều này được
thể hiện qua bảng sau:
52
Bảng 2.2. Số lao động tham gia BHXH bắt buộc tại tỉnh Lạng Sơn
giai đoạn 2016 – 2019:
STT Diễn giải 2016 2017 2018 2019
1 Khối doanh nghiệp nhà nước 325 361 388 392
2 Khối DN vốn đầu tư nước ngoài 1.756 1.624 1.825 2.684
3 Khối DN ngoài quốc doanh 8.681 8.864 9.264 9.642
4 Khối Hành chính sự nghiệp 1.681 1.752 1.862 1.894
5 Khối ngoài công lập 325 329 352 355
6 Khối hợp tác xã 28 28 30 27
7 Khối xã, phường 176 168 168 168
8 Khối hộ SXKD cá thể 6 22 29 35
9 DN xuất khẩu lao động 9 13 18 21
TỔNG 49.810 52.200 52.540 54.060
Số lao động 125.893 128.871 129.374 133.245
Tỷ lệ NLĐ tham gia BHXH bắt 39.7% 40.5% 40.3% 40.6% buộc so với số lao động
Đơn vị: Người (Nguồn BHXH tỉnh Lạng Sơn)
Bảng 2.2. cho thấy số đối tượng tham gia BHXH đã có sự gia tăng, năm sau cao
hơn năm trước, số lao động tăng mạnh, do các đơn vị thành lập nên thu hút lượng lớn
NLĐ. Số đối tượng tham gia BHXH bắt buộc tại các DN tuy không ổn định . Vấn đề
này là do những năm qua, tỉnh chịu nhiều khó khăn bởi tình trạng suy thoái kinh tế,
số DN phải hoạt động cầm chừng, nhất là những DN hoạt động trong lĩnh vực xây
dựng, giao thông là rất lớn do nguồn vốn của ngân sách nhà nước, ngân sách tỉnh đầu
tư vào dự án bị cắt giảm nghiêm trọng, nhiều công trình xây dựng, giao thông đang
triển khai phải dừng như: công trình đường giao thông huyện Cao Lộc; nhiều công
trình đã được phê duyệt nhưng không có nguồn vốn để triển khai … dẫn đến DN phải
53
ngừng hoạt động hoặc hoạt động cầm chừng, cắt giảm số lao động. Tuy nhiên, số đơn
vị lại tăng qua các năm. So sánh, đối chiếu với số liệu người lao động trong tỉnh chúng
ta thấy: Số người lao động tại các DN tham gia BHXH bắt buộc năm 2016 mới đạt
khoảng 39.7%, năm 2017 mới đạt khoảng 40.5%,; năm 2018 bị tụt xuống đạt khoảng
40.3%, còn năm 2019 có tăng nhưng rất ít đạt khoảng 40.6%.
NLĐ tham gia BHXH bắt buộc có độ tuổi từ 20-30 tuổi chiếm tỷ lệ 38,4%, từ
30-50 tuổi chiếm tỷ lệ 59,5%, trên 50 tuổi trở lên là 2,1%. Còn nhiều NLĐ chưa được
đào tạo về chuyên môn kỹ thuật, trong đó số lượng người có trình độ trung cấp nghề
trở lên chiếm tỷ lệ 74%; lao động chưa qua đào tạo chiếm tỷ lệ 10%; Công nhân kỹ
thuật không có bằng nghề chiếm tỷ lệ 5% và người có chứng chỉ nghề, giấy chứng
nhận học nghề chiếm tỷ lệ 11%.
Về cơ cấu công việc của NLĐ tại DN: Chủ yếu là Lao động chuyên môn, nghiệp
vụ như kế toán, kỹ thuật, chiếm tỷ lệ 43%; Lao động trực tiếp sản xuất kinh doanh
27%; Nhân viên hành chính, phục vụ 25% và Nhóm Quản lý (Giám đốc/Phó Giám
đốc) 5%. Đa số DN đã thực hiện ký kết HĐLĐ với NLĐ, trong đó: Không xác định
thời hạn chiếm tỷ lệ 85%; Xác định thời hạn từ đủ 3 tháng đến dưới 36 tháng chiếm
tỷ lệ 13%; còn 2% NLĐ được giao kết HĐLĐ dưới 3 tháng hoặc chưa được giao kết
HĐLĐ. Hình thức trả lương của DN chủ yếu là trả lương theo thời gian (84%); 6%
NLĐ được trả lương theo sản phẩm và 10% được trả lương khoán. Như vậy, cho thấy
thu nhập của NLĐ cơ bản là ổn định. Đồng thời, 86% NLĐ cũng đã được doanh
nghiệp kịp thời điều chỉnh mức tiền lương khi Nhà nước điều chỉnh tiền lương tối
thiểu vùng; 14% chưa được điều chỉnh kịp thời.
Về thực hiện chế độ BHXH bắt buộc:
BHXH tỉnh Lạng Sơn luôn quan tâm đến lợi ích của NLĐ nên luôn hoàn thành
tốt công tác chi trả chế độ BHXH cho các đối tượng . Qua số liệu chi chế độ BHXH
ta thấy rõ được sự quan tâm của Nhà nước, BHXH đối với những người không may
gặp rủi ro, giúp họ ổn định cuộc sống cho bản thân và gia đình, cụ thể như sau:
Bảng 2.3. Kết quả thực hiện các chế độ ốm đau, thai sản, dưỡng sức sau sinh,
TNLĐ - BNN giai đoạn 2016 - 2019
54
Tỷ lệ hồ sơ được Năm Tổng tiền chi Tổng người giải quyết
13.032 5.223 100% 2016
14.784 6.241 100% 2017
17.148 7.270 100% 2018
16.982 7.195 100% 2019
Đơn vị: Triệu đồng (Nguồn BHXH tỉnh Lạng Sơn)
Về chế độ hưu trí, năm 2016, BHXH tỉnh Lạng Sơn đã thực hiện chi trả cho
7.698 người hưởng chế độ hưu trí, năm 2017 là 7.964 người, năm 2018 là 8.547 người
và đến năm 2019 là 8.641 người. Tỷ lệ hồ sơ được giải quyết đúng theo trình tự và
đúng pháp luật là 100%, không có hồ sơ nào nộp mà không được cơ quan BHXH trả
kết quả lại cho DN. Trong đó, người nghỉ hưu trước tuổi chiếm 64%, bình quân tuổi
nghỉ hưu là 57 tuổi đối với nam, 53 tuổi đối với nữ. Qua khảo sát tại DN và NLĐ
thấy: 97% số hồ sơ gửi BHXH giải quyết được phê duyệt đúng và kịp kịp; 2% số hồ
sơ không được duyệt do hồ sơ do DN nộp không đúng hoặc không đủ, 1% còn lại do
người thực hiện BHXH tại DN lập hồ sơ giải quyết muộn, quá thời gian quy định.
Bảng 2.4. Kết quả thực hiện hưu trí giai đoạn 2016 – 2019
Hưu viên
chức và quân Năm 2016 Năm 2017 Năm 2018 Năm 2019
đội
Số người 7.698 7.964 8.547 8.641
Số tiền 314.687 346.487 376.148 397.468
Tỷ lệ hồ sơ 100% 100% 100% 100% giải quyết
Đơn vị: Người (Nguồn BHXH tỉnh Lạng Sơn)
Còn về chế độ tử tuất, các đối tượng bao gồm: NLĐ làm việc, NLĐ nghỉ việc
chờ giải quyết chế độ hưu trí, NLĐ đang hưởng lương hưu hoặc trợ cấp lao động,
bệnh nghề nghiệp. Trường hợp được hưởng : Thân nhân của người chết bao gồm con
đẻ, con nuôi hợp pháp dưới 15 tuổi (hoặc đi học thì chưa đủ 18 tuổi) bố, mẹ, vợ,
chồng đã hết tuổi lao động, số người được hưởng không quá 4 người. Trường hợp
55
không có thân nhân hưởng hàng tháng thì được hưởng một lần. Điều kiện được
hưởng: Đã đóng phí BHXH đủ 15 năm trở lên , người bị tai nạn lao động- bệnh nghề
nghiệp chết, người được hưởng trợ cấp hàng tháng chết thì thân nhân được hưởng trợ
cấp hàng tháng. Nếu có thời gian tham gia BHXH dưới 15 năm (trừ tai nạn lao động
và bệnh nghề nghiệp) thì chỉ nhận trợ cấp một lần. Năm 2017 , BHXH tỉnh Lạng Sơn
thực hiện giải quyết chế độ tử tuất cho 650 người là thân nhân của người đang đóng,
đang bảo lưu BHXH hoặc đang hưởng lương hưu hàng tháng chết hưởng trợ cấp tiền
tuất hàng tháng và tuất một lần với số tiền 8,364 tỷ đồng . Năm 2018, là 741 người
với số tiền 10,982 tỷ đồng. Năm 2019, BHXH tỉnh Lạng Sơn thực hiện chi trả cho
862 trường hợp với số tiền 11,064 tỷ đồng. Trong đó số đối tượng hưởng trợ cấp
thuộc nguồn BHXH chi trả so với nguồn quỹ NSNN dần chiếm tỷ lệ lớn hơn về đối
tượng và số tiền chi trả. Hơn nữa qua khảo sát chưa có trường hợp nào nộp hồ sơ xin
hưởng chế độ hưu trí mà không được giải quyết, tất cả hồ sơ đều được nhận trong
trường hợp hồ sơ chưa hợp lệ đều được nhân viên tại bộ phận một cửa hướng dẫn bổ
sung giấy tờ để NLĐ được hưởng chế độ. Vậy nên tỉ lệ hồ sơ của NLĐ xin giải quyết
chế độ đều đạt 100%.
Về tài chính thực hiện BHXH bắt buộc:
Nguồn hình thành: trong 4 năm qua, BHXH tỉnh Lạng Sơn đã thực hiện công
tác thu BHXH bắt buộc như sau:
Bảng 2.5. Kết quả thu BHXH bắt buộc giai đoạn 2016 – 2019
Năm 2016 Năm 2017 Năm 2018 Năm 2019
Loại Số Số Số Số Số Số Số Số thực hình phải phải thực phải thực phải thực thu thu thu thu thu thu thu thu
BHXH 620 596 1.744 1.697 2.713 2.668 3.389 3.354 bắt buộc
tiền Số
24.1 14.9 47.2 19.8 44.7 22.6 34.6 28.9 nợ
BHXH
56
3.8% 2.7% 1.7% 1.1% Tỷ lệ nợ
Đơn vị: Tỷ đồng (Nguồn BHXH tỉnh Lạng Sơn)
Khi công tác quản lý thu, quản lý chi được đảm bảo thực hiện tốt thì sẽ đảm bảo
được sự cân đối quỹ. Cho nên công tác quản lý thu, chi rất quan trọng và luôn được
BHXH tỉnh đặt lên hàng đầu. Trong những năm qua, quỹ BHXH của tỉnh Lạng Sơn
luôn được quản lý chặt chẽ, công khai và minh bạch Các chính sách , chế độ được
hạch toán và quyết toán đúng, đủ, kịp thời, không xảy ra sai sót, thất thoát. Các chi
phí như chi quản lý bộ máy, mua sắm tài sản cố định, chi phúc lợi đơn vị, đầu tư xây
dựng cơ bản ... đều được hạch toán rõ ràng, tiết kiệm và hiệu quả, tránh lãng phí, tiêu
cực. Qua bảng số liệu 2.5 trên ta thấy kết quả thu BHXH tại cơ quan tỉnh Lạng Sơn
giai đoạn 2016-2019 thì vẫn còn một bộ phận NLĐ là những người ký kết HĐLĐ
chưa được tham gia đầy đủ BHXH , BHTN. Điều này ảnh hưởng lớn đến quyền lợi
của NLĐ, vừa tạo cơ hội cho các doanh nghiệp trốn tránh; NLĐ là chủ hộ kinh doanh
cá thể, người quản lý DN, người quản lý điều hành HTX không hưởng tiền lương,
tiền công cũng chưa được đóng BHXH đầy đủ. Ngoài ra, các đơn vị còn nợ đọng tiền
đóng bảo hiểm chủ yếu là BHXH bắt buộc.
Từ năm 2015, các đơn vị đã dần quan tâm đến việc xây dựng thang lương, bảng
lương theo quy định của Bộ luật Lao động làm căn cứ để trả lương cho NLĐ, do đó
mức lương và số tiền đóng nộp của DN cũng tăng. Các biện pháp quản lý thu BHXH
của BHXH tỉnh Lạng Sơn ngày càng đạt hiệu quả cao, bên cạnh đó là sự phối hợp
giúp đỡ của các sở, ngành chức năng trên địa bàn tỉnh và sự nỗ lực của mỗi cán bộ
làm công tác thu cùng những biện pháp thu hợp lý. Nhờ các biện pháp đó mà đã hạn
chế dần được tình trạng trốn đóng và nợ đọng kéo dài, đặc biệt công tác tuyên truyền
cũng được đẩy mạnh và nâng cao nhận thức của NLĐ và NSDLĐ trong cuộc sống.
Qua khảo sát tại gần 200 DN thấy: Đa số DN thực hiện đóng BHXH theo định kỳ
hàng tháng, chiếm tỷ lệ 92,7%; hàng quý chiếm tỷ lệ 5,6%; một số DN thực hiện
đóng BHXH bắt buộc khi cần giải quyết chế độ cho người lao động, chiếm tỷ lệ 1,7%.
Số lao động tham gia không nhiều nên số tiền trích đóng BHXH bắt buộc hàng tháng
của DN không cao, trong đó: Dưới 5 triệu đồng có khoảng 120 DN, chiếm tỷ lệ
61,6%; Từ 5 - 10 triệu đồng có khoảng 40 DN, chiếm tỷ lệ 19,8%; Trên 10 triệu -50
57
triệu đồng có 30 DN, chiếm tỷ lệ 15,8%; Trên 50 triệu đồng có 10 DN, chiếm tỷ lệ
2,8%
Năm 2016 - 2019 phần thu BHXH bắt buộc vẫn chưa hoàn thành được mục tiêu
đặt ra. Các năm cơ quan BHXH tỉnh đã hoàn thành nhiệm vụ do BHXH thành phố
giao. Chỉ tiêu thu BHXH bắt buộc là không hoàn thành kế hoạch do các đơn vị còn
nợ, trốn đông nhiều. Theo quy định, hàng tháng các đơn vị căn cứ mức tiền lương,
tiền công của NLĐ có trách nhiệm thực hiện trích, nộp đầy đủ, kịp thời cho NLĐ vào
tài khoản chuyên thu của cơ quan BHXH theo phân cấp quản lý thu. Bảng 2.5. cho
thấy số tiền nợ đọng BHXH giảm qua các năm. Kết quả xử lý thu hồi nợ của BHXH
tỉnh Lạng Sơn đã đạt được một số hiệu quả nhất định, Điều này chứng tỏ việc xử lý
nợ đọng đã phát huy tác dụng. Để có được kết quả như vậy là do BHXH Tỉnh Lạng
Sơn đã có những biện pháp xử lý nợ đọng đối với các đơn vị nợ dài và nhất là chức
năng thanh, kiểm tra. Từ ngày 1/6/2016 Nghị định số 21/2016/NĐ-CP ngày
31/3/2016 của Chính phủ có hiệu lực. Tăng chức năng thanh tra chuyên ngành về
đóng BHXH của cơ quan BHXH. Đây là căn cứ pháp lý quan trọng giúp ngành
BHXH thực hiện tốt công tác thu, giảm nợ đọng BHXH. Đối với đơn vị nợ đọng
BHXH kéo dài cơ quan BHXH sẽ kịp thời tổ chức thực hiện thanh tra, kiểm tra và xử
lý nghiêm theo quy định.
So sánh với số thu BHXH bắt buộc qua các năm, số nợ chiếm tỷ lệ thấp so với
tổng thu BHXH bắt buộc đối với các DN, cụ thể: năm 2016, chiếm tỷ lệ 3.8%; năm
2017, chiếm tỷ lệ 2.7%; năm 2018, chiếm tỷ lệ 1,7% và đến năm 2019 chỉ còn 1.1%.
Việc Chính phủ áp dụng chính sách thắt chặt tiền tệ đã ảnh hưởng lớn tới một bộ phận
các DN trong nước cũng như trên địa bàn tỉnh, khó khăn trong việc huy động vốn đã
khiến các DN hoạt động khó khăn, dẫn đến nhiều DN bị phá sản, phải đóng cửa hoặc
chuyển sang các lĩnh vực kinh doanh khác. Điều này làm cho số thu BHXH bắt buộc
tại các DN cũng bị ảnh hưởng không nhỏ. Một số DN ngừng hoạt động không làm
thủ tục phá sản gây ảnh hưởng đến công tác quản lý thu đối với đơn vị. Qua khảo sát
tại DN và NLĐ thấy: 82% người lao động đã được DN thực hiện việc trích tiền lương
đóng bắt buộc hàng tháng theo quy định; 3% người lao động chưa được đảm bảo do
58
DN vi phạm quy định về đóng nộp BHXH bắt buộc, trong đó 10% trích đóng khi cần
đóng nộp cho cơ quan BHXH để giải quyết chế độ; 5% không được trích đóng
Về chi trả BHXH bắt buộc
Khi công tác quản lý thu, quản lý chi được đảm bảo thực hiện tốt thì sẽ đảm bảo
được sự cân đối quỹ. Cho nên công tác quản lý thu, chi rất quan trọng và luôn được
BHXH tỉnh đặt lên hàng đầu. Hồ sơ về BHXH ở BHXH tỉnh Lạng Sơn được quản lý
qua 4 khẩu chính: Bộ phận tiếp nhận hồ sơ, bộ phận thu, phòng tổng hợp thu và kho
lưu trữ. Tại bộ phận tiếp nhận và trả kết quả hồ sơ của tất cả các đối tượng thuộc diện
được áp dụng của BHXH theo quy trình, thủ tục, hướng dẫn đối tượng lập hồ sơ theo
đúng quy định . Phân loại hồ sơ vào phần mềm tiếp nhận. Lập giấy hẹn và thực hiện
luân chuyển hồ sơ theo đúng quy định. Sau đó, hồ sơ được chuyển sang bộ phận thu:
là nơi đối chiếu tình hình thu nộp của các đơn vị tham gia. Hồ sơ được lưu trữ theo
mã đối tượng, theo loại trợ cấp và theo xã, phường. Sau khi được kiểm tra, tính toán
trợ cấp, hồ sơ sẽ được chuyển sang bộ phận tổng hợp thu để bộ phận này tổng hợp,
lập dự toán thu chi, báo cáo tổng kết và đề ra phương hướng, nhiệm vụ theo tháng,
theo quý và theo năm trình lên giám đốc phê duyệt. Cuối cùng, hồ sơ được lưu trữ ở
kho lưu riêng của cơ quan .
2.2.2. Những hạn chế còn tồn tại trong thực hiện pháp luật bảo hiểm xã hội
bắt buộc
Về phương diện nợ BHXH bắt buộc:
Qua báo cáo các năm cho ta thấy, tình hình trốn đóng, nợ đọng BHXH vẫn phổ
biến ở nhiều loại hình DN đặc biệt là các đơn vị còn nhỏ. Ngoài ra, kể cả một vài DN
nhà nước, các DN đang cơ cấu lại cũng trong tình trạng tương tự. Tình trạng nợ đọng
BHXH hiện nay cũng vô cùng phức tạp như đóng BHXH chưa đầy đủ, kịp thời, nợ
kéo dài và với số tiền lớn nên những trường hợp đó đã làm ảnh hưởng tới việc hưởng
các chế độ của NLĐ. Có thể thấy việc trốn đóng BHXH cho NLĐ đang là “bệnh của
các DN, nhất là DN tư nhân và các DN nhà nước cổ phần hóa.
Nguyên nhân dẫn đến tình trạng trốn đóng, nợ đọng BHXH của các DN, ngoài
nguyên nhân khách quan là do tình hình khó khăn chung của nền kinh tế - xã hội nên
các DN cũng bị ảnh hưởng nghiêm trọng trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Trong
59
khi đó, DN phải chịu áp lực lớn từ các khoản chi phí lương, chi phí duy trì,... khiến
nhiều DN không có khả năng tài chính để đóng đủ, đúng hạn tiền BHXH. Tuy nhiên
bên cạnh đó, nhiều chủ DN nhận thức chưa đầy đủ, hoặc cố tình không hiểu về
BHXH, đặc biệt là DN tư nhân.
Tỉnh Lạng Sơn là một tỉnh đang phát triển nên phần lớn là các DN nhỏ và siêu
nhỏ nên số lao động trong mỗi DN nhỏ và vừa, địa điểm hoạt động kinh doanh không
cố định và thường xuyên có sự thay đổi dẫn đến có nhiều khó khăn cho BHXH tỉnh
trong việc đốc thu và xác định tình trạng hoạt động. Nhiều đơn vị sử dụng lao động
chưa chấp hành hoặc chưa chấp hành đầy đủ các quy định của Luật do nhận thức của
một số chủ sử dụng lao động, một số bộ phận NLĐ, NSDLĐ và nhân dân về chính
sách BHXH bắt chưa đầy đủ do chưa được tuyên truyền rộng rãi đặc biệt là các khu
vực vùng sâu vùng xa trên địa bàn Tỉnh.
Theo quy định của Luật BHXH 2014, công tác khởi kiện các đơn vị nợ đọng
BHXH bắt buộc chuyển giao cho tổ chức Công đoàn. Tuy nhiên quá trình tổ chức
còn gặp nhiều khó khăn, vướng mắc, do đó công tác khởi kiện để thu hồi nợ đọng
chưa thể thực hiện và những cơ sở thực hiện còn chưa được triển khai nghiêm ngặt
và triệt để.
Về trốn không tham gia BHXH bắt buộc:
Trình độ văn hóa còn kém do các xã, huyện trên địa bàn Tỉnh Lạng Sơn nên vẫn
chưa ý thức đầy đủ về lợi ích của chính sách BHXH bắt buộc dẫn đến việc vẫn chưa tích
cực, chủ động tham gia BHXH bắt buộc. Công tác phát triển đối tượng tham gia BHXH
bắt buộc còn hạn chế, các đơn vị doanh nghiệp có quy mô hoạt động nhỏ, lao động thiếu
việc làm thường xuyên, thu nhập thấp; nhiều đơn vị gặp khó khăn trong sản xuất kinh
doanh, thậm chí phải thu hẹp hoặc ngừng hoạt động nên nhiều đơn vị trốn tham gia
BHXH cho NLĐ hoặc tham gia không đầy đủ theo quy định. Ngoài ra, việc phổ biến,
quán triệt các quan điểm, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về
BHXH ở một số cấp Ủy đảng, chính quyền chưa sâu rộng.
Về đối tượng tham gia, hiện nay tỉnh Lạng Sơn tuy đã có cơ chế phối hợp giữa
các ngành, các cơ quan có thẩm quyền để xác định đối tượng thuộc diện đóng BHXH
bắt buộc nhưng vẫn còn yếu kém nên việc phát triển, mở rộng đối tượng tham gia BHXH
60
gặp nhiều khó khăn. Việc ban hành cơ chế, chính sách về BHXH bắt buộc nhiều lúc còn
chậm, bất cập ảnh hưởng không nhỏ đến công tác thông tin, truyền thông về BHXH bắt
buộc do tình hình kinh tế tại một số nơi trên địa bàn tỉnh vẫn còn làm thủ công chưa hiện
đại hóa để cập nhật thông tin nhanh và chính xác nhất.
Về thực hiện chi trả các chế độ bắt buộc:
Hiện nay về chi trả chế độ hưu trí, tử tuất đang được thông qua cơ quan Bưu
điện đã đạt kết quả khả quan nhưng việc quản lý đối tượng hưởng lương hưu và trợ
cấp qua đời chưa chặt chẽ, báo giảm chưa kịp thời dẫn đến chi sai cho người hưởng
nên BHXH phải thực hiện thủ tục truy thu. Đối tượng lĩnh thay không có giấy ủy
quyền hoặc quyết định công nhận người giám hộ nên việc kiểm soát người lĩnh hộ
vẫn còn xảy ra sai sót.
Nhiều đơn vị có dấu hiệu lạm dụng chế độ ốm đau, thai sản như làm giả giấy
ốm đau tại các cơ sở khám bệnh tư nhân để hưởng chế độ ốm đau. Nhiều đơn vị chỉ
tham gia cho lao động nữ 6 tháng trước sinh để đủ điều kiện hưởng thai sản.
Về tiến độ xử lý hồ sơ giải quyết chế độ BHXH bắt buộc:
Do khối lượng hồ sơ giải quyết chế BHXH hàng tháng rất lớn việc giải quyết
chế độ, chính sách BHXH cho NLĐ tại một số địa phương còn thiếu sót và chưa kịp
thời. Đơn vị nợ đọng BHXH cũng dẫn đến tình trạng giải quyết chế độ BHXH cho
NLĐ bị ảnh hưởng.
2.2.3. Nguyên nhân của tình trạng chậm đóng, nợ đọng và không tham gia
bảo hiểm xã hội
Ngành BHXH nói chung và BHXH tỉnh Lạng Sơn nói riêng tiếp tục phải đối
mặt với những tác động không nhỏ của tình hình suy giảm kinh tế, lạm phát tuy đã
giảm nhưng vẫn chưa phục hồi ổn định khiến nhiều DN gặp khó khăn trong sản xuất,
kinh doanh, một số DN trên địa bàn tỉnh phải hoạt động cầm chừng, việc làm và thu
nhập của NLĐ không ổn định dẫn đến không có khả năng đóng BHXH đúng hạn. Có
thể nói, đây là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến số nợ toàn tỉnh vẫn còn tương đối cao.
Những tồn tại trên có thể xuất phát từ nhiều nguyên nhân nhưng có thể có thể
thấy một số nguyên nhân cơ bản sau :
61
Thứ nhất, nhận thức của các đối tượng tham gia pháp luật BHXH về quyền lợi
và nghĩa vụ BHXH không đầy đủ. Đối tượng chính không tuân thủ pháp luật BHXH
là NSDLĐ . Họ chỉ mới nghĩ đến lợi nhuận hiện tại mà không nhìn thấy ý nghĩa , vai
trò của việc tham gia BHXH cho NLĐ trong chính sách nhân sự , có ảnh hưởng đến
lợi nhuận tiềm năng của DN. Đối với NLĐ, có không ít trường hợp thực sự không
biết mình có quyền được hưởng BHXH và tham gia BHXH. Mặt khác, cũng có một
bộ phận NLĐ biết quyền và nghĩa vụ BHXH nhưng lại không hiểu tiền đóng BHXH
là một khoản chiết khấu tử lương, nên họ cho rằng số tiền đó chính là nguyên nhân
làm giảm thu nhập hiện tại và không muốn đóng BHXH. Nhận thức tuân thủ pháp
luật BHXH của cả NLĐ và NSDLĐ chưa cao. Nhiều NSDLĐ có nhận thức về BHXH
nhưng vẫn cố tình trốn đóng BHXH hoặc chây ỳ. Phần lớn do NSDLĐ là các DN
không có chiến lược kinh doanh bền vững mà chủ yếu là làm ăn theo kiểu “ chộp giật
" chỉ muốn càng thu được nhiều lợi nhuận hiện tại công tốt. Cách NSDLĐ thường
làm là trốn đóng BHXH để giảm chi phí như không ký kết HĐLĐ, hoặc chi ký HĐLĐ
dưới 3 tháng và một số DN có ký kết HĐLĐ nhưng dây dưa , nợ đọng BHXH.
Về phía NLĐ , mặc dù thấy lợi ích hiển nhiên của BHXH đối với bản thân và
gia đình nhưng vẫn có một bộ phận NLĐ không đóng BHXH. Do chỉ quan tâm đến
thu nhập và cuộc sống trước mắt, chưa có ý thức phòng thân , lo xa; một bộ phận
nhầm lẫn BHXH với các bảo hiểm thương mại khác, nên thiếu niềm tin vào chính
sách BHXH hoài nghi về khoản tiền mà họ đã đóng góp sẽ có hiệu quả thế nào. Một
số ít các trường hợp NLĐ trốn đóng do ý thức tuân thủ kém là vì họ không kỳ vọng
sống đến khi nhận được tiền lương hưu.
Tình trạng khó khăn về tài chính của các DN cũng là một nguyên nhân dẫn đến
việc không tuân thủ pháp luật BHXH. Một số NSDLĐ khởi sự kinh doanh vốn ít và
Còn nhiều khó khăn nên đôi khi lờ đi trách nhiệm và nghĩa vụ đóng BHXH cho NLĐ.
Một số DN có đăng ký tham gia BHXH nhưng không đầy đủ , chỉ tập trung cho số ít
NLĐ cần thiết và đóng không đúng với mức lương thực trả cho NLĐ. Một số khác
lại đang ở trong tình trạng làm ăn suy yếu, có xu hướng thua lỗ, do đó chây ỳ việc
đóng BHXH hoặc chiếm dụng tiền đóng BHXH của NLĐ để tăng vốn làm ăn.
62
Thứ hai, năng lực và trình độ thực hiện nghiệp vụ của cán bộ, viên chức ngành
BHXH vẫn còn một vài điểm hạn chế. Số lượng biên chế so với nhu cầu công việc
hiện tại còn thấp. Nhiều viên chức chưa được đào tạo cơ bản về chuyên ngành BHXH;
công việc hàng năm phát sinh nhiều đôi khi luôn làm việc trong điều kiện quá tải,
phải làm thêm giờ mới hoàn thành nhiệm vụ, nên công việc chưa đạt chuẩn theo mục
tiêu đề ra. Đơn vị phải làm việc kiêm nhiệm, nên một số lĩnh vực còn bỏ trống, nguồn
thu BHXH chưa được khai thác triệt để. BHXH tỉnh vẫn còn đang trong giai đoạn
phát triển nên chưa có kế hoạch chi tiết trong việc phát triển đối tượng tham gia. Với
công tác tuyên truyền trên phương tiện thông tin, truyền thông của tỉnh, các phường,
và phát tờ rơi khi đơn vị tới đăng ký mã số thuế và hàng tháng BHXH tỉnh tiếp nhận
danh sách các DN trên địa bàn từ Chi cục thuế và phòng Kế hoạch - Tài chính, nhưng
BHXH tỉnh chưa tổ chức điều tra số đơn vị, số lao động tham gia BHXH bắt buộc
thuộc khu vực DN ngoài quốc trên địa bàn tỉnh. Mới chỉ dừng tuyên truyền, đôn đốc,
lại ở việc tách danh sách từng phường và gửi xuống UBND phường đề nghị phối hợp.
Thứ ba, do pháp luật về BHXH còn có những tồn tại. Pháp luật về BHXH về cơ
bàn đã tạo khung pháp lý cho việc thực hiện các chế độ BHXH bắt buộc. Tuy nhiên
, bên cạnh đó, pháp luật về BHXH bắt buộc vẫn còn có một số những bất cập. Chẳng
hạn như các quy định về chế tài xử lý vi phạm chưa đủ mạnh do mới mang tính chất
răn đe, sự phối hợp của các ngành vẫn còn hạn chế. Khung pháp lý về BHXH chưa
hoàn chỉnh. Luật BHXH có hiệu lực từ 01/01/2016 với nhiều quy định mới, thay đổi
bên trong quá trình triển khai có những vướng mắc là điều khó tránh khỏi. Một số
chính sách BHXH chưa thật rõ ràng, chưa ổn định , lợi ích của chủ SDLĐ khi tham
gia BHXH chưa rõ ràng: NLĐ nhận thức không đầy đủ, thậm chí hiểu sai chính sách
BHXH. Mặt khác pháp luật BHXH vẫn chưa đưa ra được biện pháp chế tài đủ mạnh
để răn đe và ngăn chặn những trường hợp không đóng , trốn đóng , nợ đọng BHXH ,
chiếm dụng Quỹ BHXH. Theo Nghị định số 28/2020/NĐ- CP của Chính phủ quy
định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực BHXH đã tăng mức xử phạt tối
đa lên 75 triệu đồng. Đơn vị có nhiều hành vi vi phạm có thể bị tước quyền sử dụng
giấy phép vô thời hạn và bắt buộc phải khắc phục hậu quả. Tuy nhiên , mức xử phạt
này vẫn còn quá nhẹ so với số tiền hàng trăm triệu , hàng tỷ mà các DN phải đóng
63
BHXH, do đó các DN vẫn tiếp tục vi phạm và sẵn sàng nộp tiền phạt hành chính.
Liên bộ LĐ - TB & XH , Bộ Tài chính và Ngân hàng nhà nước cũng đã ban hành
Thông tư Liên tịch số 03/2008/TTLT-BLĐTBXH-BTC-NHNN hướng dẫn thủ tục
buộc trích tiền từ tài khoản tiền gửi của NSDLĐ để nộp tiền BHXH chưa đóng, chậm
đóng và tiền lãi phát sinh. Ngay cả trong Luật BHXH cùng quy định DN nợ BHXH
từ ngày thứ 31 trở đi phải chịu một khoản tiền lãi suất bằng với lãi suất đầu tư của
Quỹ BHXH. Tuy nhiên, những văn bản pháp luật trên vẫn không hạn chế được tình
trạng trốn đóng, nợ đọng BHXH do tính cưỡng chế của pháp luật chưa nghiêm. Việc
tuân thủ pháp luật về BHXH của phần lớn các DN dân doanh, hợp tác xã, hộ kinh
doanh cá thể, tổ hợp tác chưa tốt, biểu hiện ở việc trốn đóng BHXH, đóng không
đúng thời gian, không đúng mức hoặc không đủ số người theo quy định; một số đơn
vị sử dụng lao động trích tiền đóng BHXH của NLĐ hàng tháng nhưng không nộp
cho cơ quan BHXH trái quy định của pháp luật; nhiều DN ký HĐLĐ dưới 2 tháng để
đối phó, lách luật hoặc chỉ đăng ký một phần trong tổng số NLĐ phải tham gia BHXH
để né tránh việc đóng BHXH. Mặt khác, theo quy định đối tượng lao động có HĐLĐ
dưới 01 tháng không thuộc diện tham gia BHXH thì NSDLĐ phải trả tiền BHXH
trong tiền lương hoặc tiền công để NLĐ có thể tham gia loại hình BHXH tự nguyện
hoặc tự lo về bảo hiểm. Tình trạng nhiều DN sau khi đăng ký kinh doanh không đăng
ký lao động với cơ quan lao động địa phương mà không bị xử lý. Sự phối hợp hoạt
động của một số cơ quan quản lý nhà nước trên địa bàn còn chưa quan tâm đúng mức.
Cơ quan BHXH tỉnh chưa có thẩm quyền xử phạt các DN vi phạm pháp luật về BHXH
mà sau khi phát hiện chỉ dừng lại ở việc làm văn bản đề nghị các sở, ngành xử lý,
mặc dù mức xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực BHXH đã được tăng lên theo
quy định tại Nghị định số 95/2013/NĐ-CP, hiện nay là Nghị định 28/2020/NĐ-CP
của Chính phủ, song thực tế mức xử phạt này vẫn còn quá thấp, không đủ sức răn đe
đối với những DN vi phạm khối lượng công việc của BHXH tỉnh ngày càng tăng ,
biên chế chưa được BHXH tỉnh bổ sung dẫn đến việc kiểm tra, đôn đốc các DN đóng
BHXH của BHXH tỉnh còn hạn chế, chưa kịp thời.
Thứ tư, cơ chế phối hợp giữa cơ quan quản lý nhà nước về BHXH, cơ quan
BHXH và Công đoàn thiếu chặt chẽ, xử lý các vụ việc chậm, thiếu tính răn đe, thiếu
64
kiên quyết xử lý làm cho tình trạng vi phạm pháp luật BHXH trở lên phức tạp, dây
dưa, kéo dài. Việc triển khai thực hiện pháp luật về BHXH chưa thực sự được quan
tâm đúng mức của UBND các cấp; chương trình, kế hoạch mang tính lâu dài, chiến
lược để triển khai thực hiện chưa triệt để, thực tế cho thấy trước tình trạng DN trốn
đóng, nợ đọng tiền BHXH kéo dài như phản ánh ở phần trên cơ quan BHXH đã nhiều
lần báo cáo nhưng chưa được UBND các cấp quan tâm chỉ đạo, xử lý cụ thể. Nhiều
DN vi phạm pháp luật BHXH nhưng vẫn được xét khen thưởng, tôn vinh .
Thứ năm, việc khởi kiện DN nợ BHXH hiện chịu chi phối của 4 Luật hiện hành,
gồm: Luật Tố tụng dân sự, Luật Công đoàn, Luật BHXH năm 2014 và Bộ luật Lao
động năm 2012. Tuy nhiên, do các quy định và cách hiểu chưa đồng nhất nên Tòa án
các cấp vẫn từ chối thụ lý. Cụ thể, có luật thì quy định Công đoàn cơ sở được khởi
kiện, có luật quy định phải có chữ ký ủy quyền của từng NLĐ. Trong khi đó, có những
DN có tới hàng vạn lao động. Do đó, khi công đoàn tiến hành khởi kiện, nộp hồ sơ,
nhưng nhiều nơi Tòa án từ chối thụ lý vụ án. Ngoài ra, rất ít cán bộ công đoàn cơ sở
đứng ra để khởi kiện chủ sử dụng lao động, bởi sợ ảnh hưởng đến quyền lợi của mình
... Vì vậy, mặc dù đã có quy định tội trốn đóng BHXH trong Bộ luật Hình sự những
việc áp dụng vẫn còn hạn chế nên hiệu quả chưa được như mong muốn.
Thực chất việc nợ đọng BHXH bắt buộc của một số DN chủ yếu là cố tình dây
dưa lợi dụng vốn để phục vụ cho mục đích khác bởi lãi suất chậm nộp BHXH bắt
buộc thấp hơn so với lãi suất của ngân hàng mà không phải làm thủ tục vay.
2.2.4. Thực tiễn công tác kiểm tra, thanh tra, xử lý vi phạm và giải quyết tranh
chấp về bảo hiểm xã hội bắt buộc trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn
2.2.4.1. Thực tiễn công tác kiểm tra, thanh tra, xử lý vi phạm về bảo hiểm xã hội
bắt buộc trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn:
Tính đến cuối năm 2019, tổng số tiền nợ đọng BHXH, bảo hiểm y tế , bảo hiểm
thất nghiệp của các đơn vị trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn là trên 70 tỷ đồng, trong đó nợ
BHXH bắt buộc là hơn 40 tỷ đồng; Hiện toàn tỉnh có gần 300 DN nợ trên 3 tháng,
gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến việc giải quyết quyền lợi của NLĐ, như: Công ty
Sản xuất Thương mại tranh Thái Bình nợ 38 tháng với số tiền trên 111,5 triệu đồng;
Công ty Cổ phần 389 thành phố Lạng Sơn nợ 27 tháng với số tiền trên 138 triệu đồng;
65
Công ty Cổ phần Xuất nhập khẩu Đạt Anh nợ 15 tháng với số tiền trên 127 triệu đồng;
Công ty TNHH Long Hoa nợ 6 tháng với số tiền trên 201 triệu đồng… Các đơn vị
sản xuất kinh doanh đều đưa ra nguyên nhân chậm nộp tiền BHXH bắt buộc là do
tình hình kinh tế – xã hội gặp nhiều khó khăn, tốc độ tăng trưởng chậm… Tuy nhiên,
trên thực tế một số DN trả lương cho NLĐ đến tháng đã khấu trừ phần trách nhiệm
phải nộp BHXH bắt buộc của NLĐ.
Tính đến hết năm 2019, BHXH tỉnh đã tiến hành kiểm tra tại 156 đơn vị sử dụng lao
động và cơ sở khám chữa bệnh trên địa bàn, kết quả sau kiểm tra thu hồi được trên 2 tỷ
đồng tiền nợ BHXH bắt buộc. Bên cạnh đó, BHXH tỉnh phối hợp với Thanh tra Sở Lao
động, Thương binh & Xã hội, Liên đoàn Lao động tỉnh và Công an tỉnh tăng cường thanh
tra, kiểm tra liên ngành đối với các đơn vị, DN trên địa bàn, xử lý nghiêm các đơn vị trốn
đóng, chậm đóng BHXH bắt buộc trên địa bàn tỉnh.
Thời gian tới, để các đơn vị sử dụng lao động trên địa bàn chấp hành nghiêm
chỉnh chính sách, pháp luật về BHXH bắt buộc, BHXH tỉnh tiếp tục tuyên truyền,
phổ biến chính sách pháp luật về BHXH bắt buộc, nâng cao hơn nữa nhận thức của
các tầng lớp nhân dân về BHXH bắt buộc đặc biệt chú ý phát triển nhóm đối tượng
tham gia dưới hình thức bắt buộc. Tiếp tục thực hiện cải cách hành chính, ứng dụng
công nghệ thông tin trong giải quyết nhiệm vụ chuyên môn, nghiệp vụ, đảm bảo
quyền lợi của các đối tượng tham gia và thụ hưởng các chế độ. Tích cực phối hợp
chặt chẽ với Bưu điện tỉnh triển khai tốt công tác chi trả lương hưu, trợ cấp BHXH
hàng tháng qua hệ thống bưu điện trên địa bàn…Tăng cường hoạt động của các tổ
thu nợ, tăng cường thanh tra, kiểm tra liên ngành, kịp thời ra thông báo, đôn đốc, nhắc
nhở các đơn vị thực hiện đúng quy định; tổ chức các đợt làm việc tại các đơn vị có số
nợ lớn, nợ kéo dài; kiến nghị với cơ quan nhà nước có thẩm quyền kiên quyết xử phạt
hành chính theo quy định đối với các đơn vị cố tình nợ BHXH bắt buộc dây dưa kéo
dài.
Giám đốc BHXH tỉnh Lạng Sơn Đỗ Văn Khoan cho biết, thời gian qua, BHXH
tỉnh Lạng Sơn đã tích cực tham mưu cho UBND Tỉnh, phối hợp chặt chẽ với các
ngành tổ chức triển khai, thực hiện công tác khai thác, mở rộng đối tượng tham gia
66
BHXH bắt buộc công tác tuyên truyền, tập huấn, hướng dẫn về trình tự, thủ tục thực
hiện các chính sách BHXH bắt buộc được đẩy mạnh...
Tuy nhiên, theo đánh giá của BHXH Lạng Sơn, các đơn vị trên địa bàn vẫn còn
nợ BHXH, bắt buộc là hơn 50 tỷ đồng; các đơn vị sử dụng lao động nợ trên 30 tỷ
đồng, trong đó có 159 đơn vị nợ BHXH bắt buộc trên 12 tháng trên 6,4 tỷ đồng và 62
đơn vị nợ khó thu hồi gần 5 tỷ đồng (42 đơn vị mất tích; 13 đơn vị đang giải thể, phá
sản; 7 đơn vị đã giải thể, phá sản)…
Tỉnh Lạng Sơn cần tiếp tục nâng cao nhận thức, trách nhiệm trong lãnh đạo, chỉ
đạo tổ chức thực hiện các chính sách an sinh xã hội, xác định chỉ tiêu phát triển đối
tượng tham gia BHXH hàng năm; chủ động cân đối kinh phí ngân sách địa phương
để hỗ trợ đóng BHXH cho đối tượng chính sách. Đồng thời, phối hợp của các ngành
liên quan trong thanh tra, kiểm tra liên ngành, xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm.
Làm rõ thêm về công tác thực hiện chính sách BHXH trên địa bàn tỉnh Lạng
Sơn, Tổng Giám đốc BHXH Việt Nam Nguyễn Thị Minh khẳng định: Mặc dù là tỉnh
miền núi nhưng tỷ lệ liên thông dữ liệu đạt cao, tỷ lệ nợ thấp dưới 2% số thu, công tác
phối hợp giữa BHXH và Y tế trong đấu thầu thuốc tốt… Tuy nhiên, việc thực hiện
BHXH bắt buộc trên địa bàn Tỉnh còn một số tồn tại do nhiều nguyên nhân.
Cũng theo Tổng Giám đốc Nguyễn Thị Minh, về công tác khám chữa bệnh
BHYT cho các đối tượng, Tỉnh cần quan tâm hỗ trợ đến các vấn đề khám chữa bệnh
BHYT; Chỉ đạo các bệnh viện đẩy dữ liệu kịp thời, giảm ngày điều trị, công tác thanh
tra, kiểm tra được thực hiện kịp thời nhằm đảm bảo quyền lợi tốt nhất cho người dân
tham gia BHXH bắt buộc.
2.2.4.2. Thực tiễn giải quyết tranh chấp về bảo hiểm xã hội bắt buộc trên
địa bàn tỉnh Lạng Sơn:
Trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn, do hoạt động triển khai về BHXH bắt buộc vẫn
đang trên đà phát triển, tuy nhiên vẫn chưa thực sự được phổ cập tới mọi đối tượng
trên khắp địa bàn nhưng với sự nỗ lực của cán bộ công đoàn cùng với điều kiện phù
hợp về quy mô sử dụng lao động, tranh chấp lao động về BHXH của NLĐ được giải
quyết, góp phần bảo đảm quyền lợi cho NLĐ nên hiện chưa có sự vụ nào phải giải
quyết trong những năm vừa qua. Trong thực tế hiện nay ở tỉnh Lạng Sơn nhiều DN
67
có tổ chức công đoàn cơ sở nhưng công đoàn cơ sở không dám đứng ra khởi kiện
hoặc ủy quyền cho công đoàn cấp trên khởi kiện. NLĐ lại càng không dám ủy quyền
cho tổ chức công đoàn cấp trên khởi kiện chủ DN của mình khi bản thân cần có công
việc hơn nữa thủ tục cũng chưa được đơn giản. Do vậy, cơ quan BHXH tỉnh cũng đã
cung cấp hồ sơ của đơn vị nợ BHXH cho công đoàn khởi kiện nhưng không thể giải
quyết được do không có giấy ủy quyền của NLĐ cho công đoàn khởi kiện.
68
Kết luận chương 2
Lạng Sơn là một tỉnh nhỏ, nằm gần biên giới của Việt Nam và vẫn đang trong
giai đoạn phát triển. Thực tiễn áp dụng pháp luật về bảo hiểm xã hội bắt buộc tại Tỉnh
Lạng Sơn tuy còn nhiều bất cập, vẫn còn non kém do hệ thống BHXH của Việt Nam
nói chung và tỉnh Lạng Sơn nói riêng vẫn còn đang được xây dựng và hoàn thiện
nhưng cũng đã có rất nhiều kết quả đáng khích lệ. Bên cạnh đó, thực tiễn thi hành
vẫn còn nhiều khó khăn vướng mắc nhất định nhưng BHXH tỉnh Lạng Sơn vẫn cố
gắng khắc phục từ đó rút ra kinh nghiệm và hoàn thiện hệ thống BHXH. Điều này
đặt ra cho tỉnh Lạng Sơn trọng trách cần phải có nhiều giải pháp để thúc đẩy việc
thực thi pháp luật về bảo hiểm xã hội bắt buộc để đạt mục tiêu mà BHXH Việt Nam
cũng như BHXH tỉnh Lạng Sơn đề ra.
69
Chương 3
MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT BẢO HIỂM
XÃ HỘI BẮT BUỘC VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN BẢO HIỂM
XÃ HỘI BẮT BUỘC TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH LẠNG SƠN
3.1. Sự cần thiết phải hoàn thiện pháp luật về bảo hiểm xã hội bắt buộc
Bên cạnh những kết quả đã đạt được trong năm qua cũng còn có những tồn tại, khó
khăn, vướng mắc: Số người tham gia BHXH bắt buộc còn thấp so với số người thực tế
phải tham gia BHXH bắt buộc; tình hình trốn đóng, nợ đọng BHXH bắt buộc còn phổ
biến, ảnh hưởng đến quyền lợi của NLĐ. Công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật về
BHXH bắt buộc chưa sâu rộng, thiếu đa dạng và chưa phù hợp với từng nhóm đối tượng.
Chính sách BHXH còn có nhiều nội dung chưa thực sự phù hợp, vì xã hội ngày
một phát triển nên một số nội dung mới nảy sinh trong thực tiễn chưa được kịp thời
bổ sung. Một số địa phương trên địa bàn tỉnh chưa quan tâm hết mức trong việc lãnh
đạo, chỉ đạo thực hiện chính sách BHXH bắt buộc trên địa bàn; sự phối hợp giữa cơ
quan BHXH với các cơ quan liên quan chưa chặt chẽ. Việc xác định số lượng đơn vị
và số lao động thuộc diện phải tham gia BHXH bắt buộc còn nhiều bất cập do chưa
có quy định cụ thể cơ quan nào chịu trách nhiệm cung cấp thông tin về số lương DN thành
lập, giải thể, phá sản, ngừng hoạt động, bỏ trốn cũng như việc xác định và cung cấp số lao
động thuộc diện tham gia BHXH bắt buộc, trong khi việc phối hợp cung cấp thông tin để
xác định đối tượng này giữa các cơ quan còn rất hạn chế ảnh hưởng đến việc quản lý và
thực hiện chính BHXH đối với NLĐ, đặc biệt nhiều DN vừa và nhỏ trốn đóng BHXH đối
với toàn bộ lao động trong đơn vị thì NLĐ bị thiệt thòi nhất khi về già không được hưởng
BHXH do chủ sử dụng trốn đóng BHXH.
Một số quy định trong Luật BHXH chưa có hướng dẫn cụ thể nên khó khăn
trong tổ chức thực hiện; Tổ chức BHXH chỉ có quyền kiểm tra, không có chức năng
thanh tra, xử phạt nên khi phát hiện sai phạm, thẩm quyền chỉ dừng lại ở việc ra văn
bản yêu cầu đơn vị thực hiện đúng quy định. Trong khi công tác thanh tra chưa thường
xuyên, chế tài xử lý vi phạm còn nhẹ chưa đủ sức buộc NSDLĐ tuân thủ pháp luật
BHXH.
70
3.1.1. Những yêu cầu đặt ra cho việc hoàn thiện pháp luật về bảo hiểm xã
hội bắt buộc trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn
Một là, mở rộng diện bao phủ BHXH bắt buộc theo như Nghị quyết số 21-
NQ/TW ngày 22-11-2012, Bộ Chính trị ban hành về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng
đối với công tác BHXH bắt buộc giai đoạn 2012-2020, xác định đến hết năm 2020
có khoảng 50% số lực lượng lao động tham gia BHXH (với khoảng 28 triệu người,
trong đó, 25 triệu người tham gia BHXH bắt buộc và ba triệu người tham gia BHXH
tự nguyện). Để đạt mục tiêu này, Luật BHXH 2014 đã mở rộng phạm vi đối tượng
tham gia BHXH bắt buộc. Trong đó, bổ sung một số nhóm đối tượng thuộc diện tham
gia BHXH bắt buộc như: NLĐ làm việc theo mùa vụ, HĐLĐ từ một đến dưới ba
tháng, NLĐ là công dân nước ngoài vào làm việc tại Việt Nam có giấy phép lao động
được cơ quan thẩm quyền của Việt Nam cấp, cán bộ không chuyên trách ở cấp xã…
Hai là, sửa đổi một số nội dung về các chế độ BHXH bắt buộc theo hướng vừa
bảo đảm quyền lợi cho NLĐ, từng bước thực hiện nguyên tắc cân bằng đóng - hưởng.
Trong đó, chế độ hưu trí là chế độ được sửa đổi, bổ sung nhiều nhất. Các nội dung
sửa đổi, bổ sung đều hướng đến bảo đảm công bằng xã hội, từng bước cải thiện tình
hình quỹ hưu trí, tử tuất, bảo đảm cho quỹ được cân đối trong thời gian dài hơn; các
chế độ BHXH bắt buộc như ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp…
đều có những quy định mới có lợi cho NLĐ. Đồng thời, nhằm cải thiện mức hưởng,
nâng cao đời sống cho người về hưu, Luật bổ sung chế độ bảo hiểm hưu trí bổ sung.
Đây là bổ sung cho chế độ hưu trí trong BHXH bắt buộc, cơ chế tạo lập Quỹ từ sự
đóng góp của NLĐ và NSDLĐ dưới hình thức tài khoản tiết kiệm cá nhân, được bảo
toàn và tích lũy thông qua hoạt động đầu tư theo quy định của pháp luật.
3.1.2. Hoàn thiện pháp luật về bảo hiểm xã hội bắt buộc
Để khắc phục những tồn tại, hạn chế trong thực hiện chính sách BHXH bắt buộc
thời gian tới cần triển khai đồng bộ các giải pháp về pháp luật như sau:
Thứ nhất, nâng cao nhận thức về chính sách BHXH bắt buộc: Tăng cường công
tác tuyên truyền, phổ biến chính sách, pháp luật về BHXH bắt buộc để nhân dân thấy
rõ những lợi ích, ý nghĩa của chính sách BHXH bắt buộc đối với việc ổn định đời
71
sống nhân dân, ổn định kinh tế - xã hội và bảo đảm an sinh xã hội, tạo sự đồng thuận
xã hội.
Thứ hai, hoàn thiện hệ thống pháp luật về BHXH bắt buộc: Hoàn thiện hệ thống
pháp luật về BHXH bắt buộc và pháp luật có liên quan để thể chế hóa các chủ trương,
cải cách chính sách BHXH và chăm sóc, nâng cao sức khỏe nhân dân theo tinh thần
các Nghị quyết của Trung ương. Nghiên cứu sửa đổi, bổ sung Luật BHXH theo hướng
mở rộng đối tượng tham gia tiến tới thực hiện BHXH toàn dân; thiết kế hệ thống
BHXH đa tầng, hoàn thiện các quy định về đóng - hưởng. Nghiên cứu sửa đổi, bổ
sung Luật Việc làm, chính sách BHTN, chính sách việc làm theo hướng hỗ trợ DN
và NLĐ duy trì việc làm, tránh sa thải lao động, bảo đảm quyền lợi chính đáng của
DN và NLĐ, nhanh chóng đưa người thất nghiệp trở lại làm việc, khắc phục tình
trạng trục lợi BHTN.
Các cơ quan tiếp tục nghiên cứu sửa đổi, bổ sung các chế tài xử lý vi phạm pháp
luật về BHXH bắt buộc, nhất là đối với các hành vi trốn đóng, nợ đóng, trục lợi BHXH
bắt buộc; đồng thời, các DN và NLĐ có quyền khiếu nại hoặc khởi kiện cơ quan thực
hiện BHXH bắt buộc nếu phát hiện có sai phạm trong thực hiện chính sách.
Thứ ba, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về BHXH bắt buộc: Nâng
cao năng lực của cơ quan nhà nước trong việc hoạch định chiến lược phát triển BHXH
bắt buộc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật; Nâng cao tính tuân thủ pháp luật
thông qua thực hiện đồng bộ các biện pháp hành chính, kinh tế, tư pháp để tăng số
người tham gia BHXH bắt buộc đi đôi với chú trọng tăng số người thụ hưởng quyền
lợi. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát việc chấp hành pháp luật về
BHXH bắt buộc kịp thời phát hiện và xử lý các vi phạm, nhất là các hành vi trốn
đóng, nợ đóng, gian lận, trục lợi BHXH bắt buộc. Đồng thời, sửa đổi, bổ sung các
văn bản quy phạm pháp luật để đẩy mạnh việc phân cấp cho các cơ quan BHXH; thực
hiện giao chỉ tiêu phát triển đối tượng tham gia BHXH cho các địa phương; phân định
rõ việc quản lý nhà nước với quản trị bộ máy tổ chức thực hiện chính sách BHXH bắt
buộc; Tổ chức tốt cơ sở dữ liệu về BHXH, xây dựng bộ tiêu chí đánh giá kết quả thực
hiện nhiệm vụ và chất lượng cung ứng dịch vụ của cơ quan BHXH; Tăng cường công
tác phối hợp và tích hợp thông tin dữ liệu giữa cơ quan quản lý nhà nước về đầu tư, tài
72
chính, thuế, lao động để nâng cao hiệu quả quản lý đối tượng tham gia BHXH bắt buộc
và thực thi chính sách hiệu quả.
Thứ tư, nâng cao năng lực quản trị và hiệu quả tổ chức thực hiện chính sách
BHXH bắt buộc: Hoàn thiện bộ máy tổ chức thực hiện chính sách BHXH bắt buộc
theo hướng tinh gọn, hiệu quả, phù hợp với tinh thần của Nghị quyết số 18-NQ/TW
ngày 25/10/2017 của Hội nghị lần thứ 6, Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa
XII) về một số vấn đề tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính
trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; Kiện toàn và nâng cao năng lực hoạt động
của Hội đồng quản lý BHXH bắt buộc... Bên cạnh đó, đẩy mạnh cải cách thủ tục hành
chính, thực hiện dịch vụ công trực tuyến mức độ 4 trên tất cả các lĩnh vực BHXH bắt
buộc; Đẩy mạnh kết nối cơ sở dữ liệu quốc gia về BHXH với các hệ thống cơ sở dữ
liệu có liên quan, nhằm phục vụ tốt công tác thực hiện chính sách và công tác nghiên
cứu, hoạch định chính sách; Tiếp tục hiện đại hóa quản lý BHXH, đầu tư phát triển
công nghệ và phương pháp quản lý tiên tiến trong tổ chức thực hiện BHXH bắt buộc.
Đặc biệt, tăng cường, đổi mới nội dung, hình thức tuyên truyền phù hợp từng
nhóm đối tượng tham gia BHXH bắt buộc đi đôi với tăng cường công tác thanh tra
chuyên ngành về BHXH; Tăng cường công tác đánh giá, dự báo tài chính và hiệu quả
đầu tư các Quỹ BHXH bắt buộc; đa dạng hóa danh mục, cơ cấu đầu tư Quỹ BHXH
theo nguyên tắc an toàn, hiệu quả và bền vững; ưu tiên đầu tư vào trái phiếu chính
phủ, nhất là trái phiếu chính phủ dài hạn; từng bước mở rộng sang các lĩnh vực có
khả năng sinh lời cao.
Thứ năm, tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, phát huy vai trò của nhân dân,
Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể xã hội. Cụ thể:
Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong hoạch định chính sách và tổ chức thực
hiện chính sách BHXH bắt buộc theo đúng định hướng xã hội chủ nghĩa; Tăng cường
sự lãnh đạo và tổ chức thực hiện của các cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương để
thực hiện tốt chính sách BHXH bắt buộc đặc biệt trong phát triển đối tượng tham gia
BHXH bắt buộc và tuân thủ các quy định của pháp luật; Phát huy vai trò của Mặt trận
Tổ quốc, đoàn thể chính trị - xã hội và nhân dân trong giám sát, phản biện xã hội về
73
chính sách BHXH bắt buộc tổ chức tuyên truyền, vận động nhân dân thực hiện tốt
chính sách, pháp luật về BHXH bắt buộc.
Ta có thể thấy chính sách BHXH bắt buộc là chính sách lớn của Đảng và Nhà
nước, việc cải cách chính sách BHXH bắt buộc là vấn đề hệ trọng liên quan trực tiếp
đến đời sống nhân dân. Để hiện thực hóa các mục tiêu đã đề ra trong phát triển đối
tượng tham gia BHXH bắt buộc cần hoàn thiện chính sách BHXH bắt buộc có sự vào
cuộc với quyết tâm cao của cả hệ thống chính trị, góp phần quan trọng trong thực
hiện tiến bộ và công bằng xã hội.
3.2. Một số kiến nghị cụ thể nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện bảo hiểm
xã hội bắt buộc nói chung và trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn nói riêng
3.2.1 Một số kiến nghị cụ thể nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện bảo hiểm
xã hội bắt buộc nói chung:
Một là, tiếp tục triển khai hiệu quả các nhiệm vụ được giao tại các nghị quyết
của Chính phủ gồm: Nghị quyết số 125/NQ-CP ban hành Chương trình hành động
của Chính phủ thực hiện Nghị quyết 28-NQ/TW về cải cách chính sách BHXH; Nghị
quyết số 01/NQ-CP về nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu thực hiện kế hoạch phát triển
kinh tế - xã hội và dự toán ngân sách nhà nước năm 2019; Nghị quyết số 02/NQ-CP
về giải pháp cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia
năm 2019.
Hai là, phối hợp chặt chẽ với các bộ, ngành hoàn thiện hệ thống chính sách,
pháp luật về BHXH bắt buộc; các nghị định, văn bản hướng dẫn thực hiện chính sách,
pháp luật BHXH bắt buộc. Đồng thời, bám sát chỉ đạo của Chính phủ để xây dựng và
triển khai các phương án điều hành các kế hoạch, dự toán, chỉ tiêu, nhiệm vụ trọng
tâm năm 2020 trong bối cảnh ảnh hưởng bởi dịch Covid-19.
Ba là, phối hợp với các bộ, ngành, tổ chức đoàn thể, xã hội, cơ quan thông tấn,
báo chí đổi mới nội dung, hình thức tuyên truyền phổ biến chính sách, pháp luật về
BHXH bắt buộc phù hợp với đặc điểm, tính chất đặc thù của từng nhóm đối tượng,
vùng miền; tập trung vào các nhóm đối tượng tham gia BHXH tự nguyện.
Bốn là, đẩy mạnh các hoạt động thanh tra, kiểm tra liên ngành, thanh tra chuyên
ngành tại một số đơn vị, doanh nghiệp có dấu hiệu lạm dụng, trục lợi BHXH bắt buộc;
74
tăng cường kiểm tra, kiểm soát việc giải quyết, chi trả các chế độ BHXH bắt buộc;
kịp thời xử lý, kiến nghị xử lý các hành vi vi phạm pháp luật BHXH bắt buộc …
3.2.2. Một số kiến nghị cụ thể nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện bảo hiểm
xã hội bắt buộc tại tỉnh Lạng Sơn nói riêng:
Thứ nhất, về phương diện nợ BHXH bắt buộc
Tăng cường công tác phối hợp thanh tra, kiểm tra, thu hồi nợ đọng bảo hiểm xã hội
bắt buộc. Hàng năm, tổ chức điều tra, khảo sát, nắm cụ thể số DN, hộ kinh doanh, số lao
động làm việc chưa thực hiện chính sách bảo hiểm xã hội bắt buộc.
Thực tế cho thấy rằng, tình trạng VPPL BHXH bắt buộc nói chung và tình trạng
nợ, trốn đóng BHXH ngày càng phổ biến và có dấu hiệu tăng. Do vậy, vai trò của
công tác thanh tra, kiểm tra và giám sát hết sức quan trọng. Để giảm thiểu vi phạm
BHXH, cơ quan BHXH cần tăng cường lực lượng cán bộ có năng lực chuyên môn,
dù phẩm chất, ý thức trách nhiệm làm công tác kiểm tra. Đồng thời, chủ động, phối
hợp chặt chẽ với các cơ quan chức năng có liên quan như Liên đoàn Lao động, Sở Y
tế, Sở Lao động – Thương binh và xã hội... tổ chức thực hiện thanh tra, kiểm tra theo
theo kế hoạch và kiểm tra đột xuất để kịp thời phát hiện, ngăn chặn vi phạm, chấn
chỉnh sai sót. Có hình thức xử lý nghiêm cán bộ sai phạm trong quản lý và thực hiện
pháp luật BHXH để công tác thanh, kiểm tra đem lại kết quả và tạo được lòng tin đối
với nhân dân và đối tượng tham gia BHXH. Cụ thể, các phòng, ban ngành: Công an
tỉnh, Liên đoàn Lao động tỉnh, Thanh tra tỉnh, phòng Lao động và Thương binh xã
hội, Chi cục Thuế và UBND tỉnh cần tiếp tục tăng cường phối hợp với BHXH tỉnh
tăng cường thanh tra, kiểm tra các đơn vị nợ đóng, trốn đóng BHXH; kiên quyết xử
phạt VPHC theo quy định.
Một trong những nguyên nhân dẫn đến những hạn chế của việc thực hiện BHXH
bắt buộc đó là nhận thức cũng như ý thức pháp luật của NLĐ và NSDLĐ về BHXH
còn chưa tốt. Muốn thực hiện công tác BHXH bắt buộc nói riêng và BHXH nói chung
được hiệu quả thì vấn đề tác động vào ý thức pháp luật và nhận thức của các chủ thể
tham gia BHXH là một biện pháp quan trọng. Công tác này hiện nay đã và đang được
thực hiện tuy nhiên hiệu quả thực sự của công tác tuyên truyền và giáo dục pháp luật
BHXH chưa đạt hiệu quả cao.
75
Các hình thức tuyên truyền về BHXH còn đơn giản, tính chủ động trong công
tác tuyên truyền còn chưa cao chưa thu hút được sự quan tâm của NLĐ và NSDLĐ.
Một số cơ quan, tổ chức còn chưa nhận thức đầy đủ về tầm quan trọng của chính sách
BHXH nên công tác phối hợp thông tin, tuyên truyền, phổ biến pháp luật BHXH ở
một số huyện trên địa bàn thành phố còn chậm thực hiện.
Xây dựng kế hoạch thu cụ thể, rõ ràng, sát với tình hình thực tế của địa phương,
tăng cường công tác thanh tra chuyên ngành về đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc, triển
khai thực hiện nhiều giải pháp đồng bộ đẩy mạnh công tác thu đồng thời tăng cường
mở rộng và nâng cao chất lượng hệ thống Đại lý thu, xây dựng kế hoạch thu cụ thể,
rõ ràng, sát với tình hình thực tế của địa phương.
Cụ thể, Sở Tư pháp cần chủ trì tuyên truyền, phổ biến pháp luật về BHXH bắt
buộc nhất là Nghị quyết số 05/2012/NQ-HĐTP hướng dẫn áp dụng Điều 214 về tội
gian lận BHXH, bảo hiểm thất nghiệp, Điều 215 về tội gian lận BHYT và Điều 216
về tội trốn đóng BHXH bắt buộc cho NLĐ của Bộ luật Hình sự hiệu lực từ 01/9/2019
trên địa bàn Thành phố; Các cơ quan báo đài Trung ương và địa phương thường xuyên
tuyên truyền chính sách, pháp luật về BHXH bắt buộc đồng thời, thông tin rộng rãi
các DN nợ đọng BHXH bắt buộc trên các phương tiện thông tin đại chúng.
Thứ hai, về phương diện không tham gia BHXH bắt buộc
Phát triển đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc và đẩy mạnh công tác
tuyên truyền cả về nội dung và hình thức theo hướng chuyên nghiệp. Ủy ban Mặt trận
tổ quốc Việt Nam tỉnh chỉ đạo các tổ chức đoàn thể, tổ chức Chính trị - xã hội và
UBMTTQVN các cấp trong việc đưa chính sách bảo hiểm xã hội bắt buộc đến với
mọi tầng lớp nhân dân và NLĐ. Đồng thời, cấp ủy, chính quyền địa phương và các
Sở, Ban, Ngành có liên quan cần quan tâm, tăng cường công tác tuyên truyền, phổ
biến sâu, rộng chính sách bảo hiểm xã hội bắt buộc.
Để đạt được hiệu quả tối đa nhằm tăng cường ý thức pháp luật của người dân
về việc tham gia BHXH bắt buộc cần phải đa dạng hóa các hình thức tuyên truyền
như: xây dựng các chương trình tìm hiểu về BHXH; triển khai các chính sách về
BHXH tới các đơn vị sử dụng lao động và nhân dân trên địa bàn thành phố thông qua
các phương tiện truyền thông đại chúng. Bên cạnh đó, cán bộ của cơ quan BHXH cần
76
phải nắm rõ các chế độ chính sách để tuyên truyền, tập huấn, trao đổi trực tiếp để các
đơn vị sử dụng lao động, NLĐ nhận thức đúng về quyền lợi và trách nhiệm của mình
trong việc tham gia BHXH. Phòng ngừa tình trạng TNLĐ do thiếu hiểu biết mà bị
các DN lợi dụng.
Thứ ba, về phương diện thực hiện chi trả các chế độ bắt buộc
Giải quyết đầy đủ, kịp thời các quyền lợi của người tham gia bảo hiểm xã hội,
xây dựng đội ngũ cán bộ ngành bảo hiểm xã hội phải hết lòng phục vụ lợi ích của
nhân dân. Tiếp tục quán triệt mục tiêu, quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng,
pháp luật của Nhà nước về chính sách BHXH bắt buộc. Đẩy mạnh cải cách thủ tục
hành chính, ứng dụng CNTT, nâng cao hiệu quả quản lý hoạt động BHXH bắt buộc.
Triển khai thực hiện tốt Kế hoạch số 3491/KH-UBND ngày 21/10/2013 của
UBND tỉnh về thực hiện Chương trình hành động số 70-CTHĐ/TU ngày 02/7/2013
của Tỉnh ủy và Công văn số 1061/UBND-VX ngày 22/3/2017 của UBND tỉnh Lạng
Sơn. Thường xuyên báo cáo, tham mưu với các cấp ủy Đảng, chính quyền địa
phương, phối hợp chặt chẽ với các Sở, Ban, Ngành và các tổ chức đoàn thể liên quan
trong việc thực hiện chính sách bảo hiểm xã hội.
Thời gian qua, BHXH tỉnh Lạng Sơn luôn coi trọng việc ứng dụng công nghệ
thông tin, coi đây là khâu đột phá chiến lược và không thể thiếu trong hoạt động quản
lý của ngành. Việc ứng dụng CNTT vào công tác quản lý từng bước được thực hiện
có hiệu quả làm tiền để thúc đẩy tiến trình hiện đại hóa công tác quản lý quỹ BHXH
bắt buộc của thành phố. Hiện trên 90% đơn vị sử dụng lao động giao dịch với cơ quan
BHXH thông qua phần mềm giao dịch BHXH điện tử. Vì vậy, trong thời gian tới
BHXH cần nâng cấp, cài phần mềm, thực hiện đồng bộ việc thực hiện giao dịch điện
tử. Việc thực hiện tốt công tác cải cách thủ tục hành chính không chỉ nhằm tạo điều
kiện thuận lợi cho các đơn vị, đối tượng tham gia và thụ hưởng chế độ, chính sách,
còn góp phần quan trọng vào hoàn thành tốt các nhiệm vụ chính trị của ngành. Do
đó, BHXH cần tiếp tục triển khai quyết liệt công tác cải cách thủ tục hành chính theo
hướng phục vụ đối tượng; tiếp tục nâng cao hiệu quả hoạt động tại bộ phận"Một
cửa"từ BHXH thành phố đến BHXH các tỉnh, huyện nhằm đơn giản hóa việc kê khai
thủ tục hành chính, hạn chế tối đa việc yêu cầu người kê khai lấy xác nhận của cơ
77
quan nhà nước nếu xét thấy không cần thiết. Bên cạnh đó, biểu dương, khen thưởng
kịp thời những cá nhân, tập thể thực hiện tốt công tác cải cách thủ tục hành chính.
Thứ tư, về tiến độ xử lý hồ sơ giải quyết chế độ BHXH bắt buộc
Tăng cường bồi dưỡng nâng cao năng lực cán bộ BHXH ở các cấp. Phát động
phong trào thi đua sáng kiến cải tiến có hiệu quả trong công việc.
Cán bộ BHXH tại cấp tỉnh huyện đóng vai trò quan trọng trong công tác BHXH.
Họ là những người trực tiếp làm các thủ tục bảo hiểm cũng như giải quyết các chế độ
BHXH cho NLĐ. Do vậy, để thực hiện nhanh chóng và có hiệu quả công tác BHXH
thì cán bộ BHXH cần phải nắm rõ các quy định của pháp luật cũng như công tác
nghiệp vụ. Với vai trò giải quyết chế độ, chính sách về BHXH cho NLĐ, BHXH tỉnh
Lạng Sơn nói riêng cần chú trọng nâng cao năng lực chuyên môn thông qua các lớp
tập huấn chuyên môn, nghiệp vụ. Bản thân đội ngũ cán bộ làm công tác BHXH cũng
cần không ngừng học hỏi, nghiên cứu văn bản, tự nâng cao năng lực để triển khai
thực hiện pháp luật một cách chính xác, nhanh chóng, kịp thời. Đồng thời, cơ quan
BHXH cũng như đội ngũ cán bộ cần có tinh thần cầu tiến, tiếp thu ý kiến đóng góp
của nhân dân và NLĐ, qua đó phát hiện, khắc phục vướng mắc, sai sót, tạo niềm tin
từ phía người tham gia BHXH.
78
Kết luận chương 3
Trên cơ sở kết quả nghiên cứu, luận văn đưa ra một số định hướng hoàn thiện
pháp luật và nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về bảo hiểm xã hội bắt buộc trên
địa bàn tỉnh Lạng Sơn hiện nay, theo đó định hướng hoàn thiện pháp luật và nâng cao
hiệu quả thực hiện pháp luật về bảo hiểm xã hội bắt buộc phải dựa trên hàng lang
pháp lý mà Nhà nước đã tạo nên; hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực hiện
pháp luật về bảo hiểm xã hội bắt buộc đặt trong bối cảnh đất nước đang hội nhập
quốc tế.
Hiệu quả của việc thực hiện pháp luật về bảo hiểm xã hội bắt buộc không chỉ
phụ thuộc vào việc quy định đầy đủ các đối tượng hưởng bảo hiểm xã hội bắt buộc,
điều kiện hưởng bảo hiểm xã hội bắt buộc, các chế độ bảo hiểm xã hội bắt buộc, quản
lý quỹ bảo hiểm xã hội bắt buộc mà nó còn phụ thuộc vào khả năng tổ chức thực thi
một cách nghiêm túc trong thực tiễn và người lao động phải biết tự bảo vệ mình để
tránh những thiệt hại có thể xảy ra.
79
KẾT LUẬN
Trong giai đoạn hiện nay, bảo hiểm xã hội bắt buộc giữ vai trò quan trọng đối
với các chủ thể là người lao động, người sử dụng lao động và Nhà nước. Bảo hiểm
xã hội bắt buộc có một vị trí đặc biệt quan trọng đối với việc phát triển chính sách an
sinh xã hội. Bảo hiểm xã hội bắt buộc là trụ cột của hệ thống an sinh xã hội. Trong
mối quan hệ lao động, để bù đắp thu nhập cho người lao động khi người lao động bị
suy giảm hay mất khả năng lao động thì người lao động phải tham gia bảo hiểm xã
hội bắt buộc. Đồng thời, người sử dụng lao động và Nhà nước cũng góp phần tham
gia vào quỹ bảo hiểm xã hội bắt buộc. Nội dung của pháp luật về bảo hiểm xã hội bắt
buộc không chỉ bao hàm trong việc quy định các đối tượng hưởng bảo hiểm xã hội
bắt buộc, điều kiện tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc, các chế độ bảo hiểm xã hội
bắt buộc, quỹ bảo hiểm xã hội bắt buộc, mà nội dung pháp luật về bảo hiểm xã hội
bắt buộc còn tạo lập hành lang pháp lý để bảo vệ người lao động thụ hưởng các chế
độ về bảo hiểm xã hội bắt buộc. Pháp luật về bảo hiểm xã hội bắt buộc phản ánh thực
trạng hiện nay còn nhiều hạn chế, bất cập trong các chế độ về ốm đau, thai sản, tai
nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, hưu trí và tử tuất. Ngoài ra, trong quá trình triển khai
vào thực tiễn đời sống tại tỉnh Lạng Sơn, thực tế áp dụng pháp luật vẫn còn nhiều khó
khăn, vướng mắc cần phải khắc phục. Để tạo hành lang pháp lý về bảo hiểm xã hội
bắt buộc trong giai đoạn hiện nay, cần phải khắc phục những hạn chế của pháp luật
về bảo hiểm xã hội bắt buộc hiện hành. Đồng thời, khi hoàn thiện pháp luật về bảo
hiểm xã hội bắt buộc nhất định phải tuân theo những yêu cầu khách quan của điều
kiện kinh tế xã hội và những nội dung khác kèm theo.Hoàn thiện pháp luật về bảo
hiểm xã hội bắt buộc cần chú trọng đến việc hoàn thiện các chế độ về ốm đau, thai
sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, hưu trí và tử tuất. Đồng thời, sửa đổi các quy
định về quỹ bảo hiểm xã hội bắt buộc cũng cần đặt ra trong giai đoạn hiện nay. Pháp
luật về bảo hiểm xã hội bắt buộc chỉ đạt hiệu quả khi triển khai trong thực tiễn nếu
như Nhà nước hoàn thiện pháp luật về bảo hiểm xã hội bắt buộc đồng bộ, toàn diện
và mang tính khả thi. Đồng thời, kết hợp hài hòa các giải pháp nâng cao hiệu quả áp
dụng pháp luật về bảo hiểm xã hội bắt buộc trong giai đoạn hiện nay.
80
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Phan Tiến Anh (2015), “Nhận diện một số thủ đoạn thực hiện hành vi vi phạm
pháp luật trong lĩnh vực bảo hiểm xã hội và biện pháp phòng ngừa”. Tạp chí
Kiểm sát số 6/2015.
2. Ban chấp hành TƯ (2018), Nghị quyết số 28-NQ/TW ngày 23 tháng 5 năm 2018,
Hội nghị lần thứ 7 ban chấp hành trung ương khóa XII về cải cách chính sách
bảo hiểm xã hội.
3. Ban thực hiện chính sách bảo hiểm xã hội – Bảo hiểm xã hội Việt Nam (2016)
“Chính sách, pháp luật bảo hiểm xã hội“ Nhà xuất bản Lao động – xã hội. Hệ thống
các văn bản về bảo hiểm xã hội; hệ thống các văn bản hướng dẫn tính thời gian công
tác trước năm 1995 và chính sách bảo hiểm xã hội. NXB Thanh niên.
4. Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội (2012), Báo cáo tình hình thực hiện BHXH
5. Chính phủ (2013), Nghị định số 95/2013/NĐ- CP về xử lý hành chính trong lĩnh
vực lao động, bảo hiểm xã hội và đưa người VIệt Nam đi lao động nước ngoài
bằng hợp đồng (được sửa đổi bằng Nghị định 88/2015/NĐ-CP).
6. Chính phủ (2016), Nghị định số 21/2016/NĐ-CP ngày 31 tháng 03 năm 2016 của
Thủ tướng chính phủ quy định việc thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành
về đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp của cơ quan bảo
hiểm xã hội.
7. Nguyễn Trí Đại (2015) “Tiền lương tháng làm căn cứ đóng BHXH: Từ quy định
của pháp luật và yêu cầu thực tiễn”, Tạp chí bảo hiểm xã hội, số 8/2015.
8. Nguyễn Thị La Giang (2015), Pháp luật về bảo hiểm xã hội bắt buộc và thực tiễn ở
Hà Nội, Luận văn thạc sĩ Luật học, Khoa Luật- Đại học Quốc gia Hà Nội.
9. Nguyễn Thị Hương (2018) Pháp luật về bảo hiểm xã hội bắt buộc qua thực tiễn
áp dụng tại tỉnh Quảng Trị, Đại học Huế. quốc hội (2012), Bộ Luật lao động số
10/2012/QH13.
10. Quốc hội (2014), Luật bảo hiểm xã hội số 58/2014/QH 13.
11. Quốc hội (2015), Bộ luật dân sự 2015.
12. Quốc hội (2015), Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017)
81
13. Quốc hội (2015), Bộ Luật Tố tụng dân sự 2015.
14. Đỗ Văn Sinh (2009) Hoàn thiện quản lý quỹ bảo hiểm xã hội ở Việt Nam,Luận
án tiến sĩ, trường Đại học Luật Hà Nội.
15. Lê Quang Thắng (2018), Bình luận tội trốn đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế,
bảo hiểm thất nghiệp cho người lao động theo BLHS năm 2015, Tạp chí Kiểm
sát số 9/2018.
16. Nguyễn Thị Thúy (2014), Bảo hiểm xã hội bắt buộc trong Luật bảo hiểm xã hội
và thực tiễn thi hành trên địa bàn thành thành phố Hà Nội, Luận văn thạc sĩ luật
học, Khoa Luật - Đại học Quốc Gia Hà Nội.
82