VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI ----------

LÂM NGỌC SƠN

PHÁP LUẬT VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI TỰ NGUYỆN

TỪ THỰC TIỄN HUYỆN PHÚ TÂN, TỈNH CÀ MAU

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT KINH TẾ

Hà Nội, năm 2021

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

----------

LÂM NGỌC SƠN

PHÁP LUẬT VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI TỰ NGUYỆN

TỪ THỰC TIỄN HUYỆN PHÚ TÂN, TỈNH CÀ MAU

Ngành: Luật kinh tế

Mã số: 8380107

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC

PGS.TS. NGUYỄN HỮU CHÍ

Hà Nội, năm 2021

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Trong quá trình thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước,

ngoài việc phát huy nguồn nhân lực để đưa nền kinh tế phát triển bền vững và

nâng cao năng lực cạnh tranh, mặt khác phải không ngừng hoàn thiện hệ

thống an sinh xã hội, trước hết là bảo hiểm xã hội để giúp người lao động có

thêm tiềm lực chống đỡ, vượt qua rủi ro. Do vậy, chính sách bảo hiểm xã hội

luôn là vấn đề nóng vì có sự chi phối của các quy luật nền kinh tế thị trường,

nó luôn có sự cạnh tranh gay gắt, xã hội đang diễn ra sự phân chia với một

ranh giới rõ ràng giữa người chủ và người lao động. Lẽ đó, người lao động

cần có sự tương trợ trong cuộc sống do các rủi ro mang lại, vì vậy mà việc xác

định đúng đắn vị trí của bảo hiểm xã hội trong cuộc sống, sự tác động của nó

đối với người lao động còn là một vấn đề đang được cả xã hội quan tâm.

Đặc biệt, là trong giai đoạn xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng

xã hội chủ nghĩa nước ta hiện nay, hệ thống an sinh xã hội, nhất là bảo hiểm

xã hội càng phải được phát triển đồng bộ và toàn diện hơn, đáp ứng được

người lao động và cho nhân dân; bởi lẽ, thực hiện bảo hiểm xã hội đối với

mọi người lao động là thực hiện sự công bằng giữa mọi người thuộc các thành

phần kinh tế. Do đó, Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm, coi trọng thực hiện

các chính sách an sinh xã hội, cụ thể rõ nét nhất là hệ thống các chế độ bảo

hiểm xã hội bắt buộc và bảo hiểm xã hội tự nguyện, đây là mục tiêu quan

trọng và thể hiện tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa, phù hợp xu thế

chung của quốc tế hướng tới một xã hội phồn vinh, công bằng và an toàn.

Từ khi thực hiện các chính sách bảo hiểm xã hội đến nay, Nhà nước ta

đã nhiều lần thay đổi, bổ sung theo hướng ngày càng hoàn thiện hơn cho phù

hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của từng thời kỳ, với mục tiêu phấn đấu là

để mọi người lao động đều sống và làm việc trong môi trường có bảo hiểm,

1

mức sống của nhân dân ngày càng được nâng cao. Tại Đại hội Đại biểu toàn

quốc lần thứ IX của Đảng nêu: “Từng bước mở rộng vững chắc hệ thống bảo

hiểm xã hội và an sinh xã hội. Tiến tới áp dụng chế độ bảo hiểm xã hội cho

mọi người lao động, mọi tầng lớp nhân dân”; tới Đại hội lần thứ XII của

Đảng tiếp tục xác định nhiệm vụ, giải pháp là: “Giải quyết tốt lao động, việc

làm và thu nhập cho người lao động, bảo đảm an sinh xã hội” [15]; đồng

thời, tại Nghị quyết số 28-NQ/TW ngày 23/5/2018 của Ban Chấp hành Trung

ương Đảng khóa XII tiếp tục chỉ rõ: “Bảo hiểm xã hội là một trụ cột chính

của hệ thống an sinh xã hội trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội

chủ nghĩa, góp phần quan trọng thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, bảo đảm

ổn định chính trị - xã hội, đời sống nhân dân, phát triển bền vững đất nước”,

chính vậy việc xây dựng chế độ chính sách bảo hiểm xã hội nói chung và bảo

hiểm xã hội tự nguyện nói riêng là phù hợp thực tiễn và rất cần thiết, bởi

chính sách bảo hiểm xã hội tự nguyện sẽ áp dụng cho đối tượng không thuộc

diện làm công ăn lương, không được bảo vệ bằng bảo hiểm xã hội bắt buộc,

những đối tượng làm nghề tự do, những người nông dân v.v… mà trong nền

kinh tế thị trường của chúng ta hiện nay, đối tượng này rất rộng lớn.

Mặc dù, bảo hiểm xã hội tự nguyện đã được triển khai trong nhiều năm

qua, hệ thống bảo hiểm xã hội đã phân cấp tổ chức bộ máy đến huyện và cấp

xã đều có đại lý tạo điều kiện thuận lợi cho người dân tiếp cận tham gia. Tuy

nhiên, thời gian qua số lượng người tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện rất

hạn chế, chưa đáp ứng được nhu cầu của họ cũng như mục tiêu của Đảng,

Nhà nước đề ra. Nguyên nhân chủ yếu việc thực hiện chính sách bảo hiểm xã

hội tự nguyện vẫn còn nhiều điểm chưa hợp lý, chưa phù hợp với đặc điểm

lao động của nhóm đối tượng tham gia ở nước ta như: trình độ học vấn, nhận

thức xã hội, lao động chủ yếu chưa qua đào tạo, thu nhập thiếu ổn định,… và

chưa phù hợp với nhu cầu chung về bảo hiểm của người lao động, nhất là

trong giai đoạn hiện nay, giai đoạn đất nước ta đang có những thay đổi quan

2

trọng để hội nhập theo xu hướng toàn cầu hóa nền kinh tế thế giới. Trên cơ sở

đó, cho thấy việc thực thi loại hình bảo hiểm xã hội tự nguyện là thật sự cấp

thiết và sao cho phải phù hợp với nguyện vọng, khả năng đa số người lao

động, đó là yếu tố quyết định. Xuất phát từ những nguyên nhân trên, em chọn

đề tài “Pháp luật về Bảo hiểm xã hội tự nguyện từ thực tiễn huyện Phú

Tân, tỉnh Cà Mau” làm luận văn Thạc sĩ Luật học, chuyên ngành Luật Kinh

tế, với mong muốn góp phần hoàn thiện pháp luật về bảo hiểm xã hội tự

nguyện ở nước ta nói chung và việc thực thi tại huyện Phú Tân, góp phần đưa

chính sách của Đảng, Nhà nước vào cuộc sống người dân hiệu quả nhất.

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài

Pháp luật Bảo hiểm xã hội tự nguyện đã được các nhà khoa học quan

tâm nghiên cứu và tiếp cận theo nhiều cách với những cấp độ khác nhau. Một

số công trình tiêu biểu đã được thực hiện dưới dạng đề tài tốt nghiệp cấp độ

Thạc sĩ như: Luận văn thạc sĩ Luật học “Pháp luật về bảo hiểm xã hội tự

nguyện – Thực trạng và giải pháp” của tác giả Dương Thảo Phương (thực

hiện năm 2014), “Thực trạng thi hành pháp luật bảo hiểm xã hội tự nguyện

tại thành phố Đà Nẵng” của tác giả Phan Võ Thị Hạnh Thủy, Đại học Quốc

gia Hà Nội (thực hiện năm 2015). Ngoài ra, còn có các đề tài được trình bày,

nghiên cứu dưới dạng bài báo tạp chí khoa học như: “Chính sách bảo hiểm xã

hội tự nguyện của một số nước trên thế giới” của Bảo hiểm xã hội Việt Nam

đăng trong Thông tin Khoa học bảo hiểm xã hội, số 3/2014; “Phân tích thực

trạng tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện của người lao động tự do”

của Nguyễn Thị Thúy, Báo Công thương online; “Chế độ bảo hiểm xã hội tự

nguyện” của Nguyễn Xuân Thu, đăng trên Tạp chí Luật học, số 9 năm 2006;

Giáo trình Luật an sinh xã hội do PGS.TS Nguyễn Hữu Chí chủ biên, Nxb

Giáo dục, Hà Nội, 2012,...

Do đó, luận văn này trên cơ sở kế thừa các công trình nghiên cứu trước

đó kết hợp với thực tiễn thực thi pháp luật trên địa bàn huyện Phú Tân, tỉnh

3

Cà Mau, nhằm bổ sung thêm vào hệ thống lý luận về bảo hiểm xã hội tự

nguyện, qua đó đề ra một số giải pháp, kiến nghị để từng bước hoàn thiện

pháp luật về bảo hiểm xã hội tự nguyện ở nước ta.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích

Tìm hiểu, nghiên cứu lý luận về pháp luật bảo hiểm xã hội nói chung và

bảo hiểm xã hội tự nguyện nói riêng; phân tích thực trạng pháp luật hiện hành

của Việt Nam về bảo hiểm xã hội tự nguyện, việc vận dụng triển khai thực

hiện pháp luật này thực tiễn tại huyện Phú Tân, tỉnh Cà Mau. Từ những bất

cập trong quy định của pháp luật và áp dụng trong thực tiễn tại địa phương để

đưa ra một số giải pháp, kiến nghị sửa đổi, bổ sung một số quy định về bảo

hiểm xã hội tự nguyện và một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện

pháp luật bảo hiểm xã hội tự nguyện tại huyện Phú Tân, tỉnh Cà Mau.

3.2. Nhiệm vụ

- Nghiên cứu một số vấn đề lý luận về bảo hiểm xã hội tự nguyện và

pháp luật bảo hiểm xã hội tự nguyện.

- Phân tích, đánh giá thực trạng các quy định của pháp luật Việt Nam

hiện hành về bảo hiểm xã hội tự nguyện.

- Phân tích, đánh giá thực tiễn việc triển khai thực hiện các quy định

của pháp luật về bảo hiểm xã hội tự nguyện tại huyện Phú Tân, tỉnh Cà Mau.

- Đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả việc thực thi tại huyện Phú

Tân, tỉnh Cà Mau và kiến nghị hoàn thiện quy định pháp luật về bảo hiểm xã

hội tự nguyện.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu là các quy định pháp luật hiện hành của Việt

Nam về bảo hiểm xã hội tự nguyện theo Luật bảo hiểm xã hội năm 2014 và

4

các văn bản hướng dẫn thi hành.

Cùng với đó, luận văn nghiên cứu thực tiễn thực hiện pháp luật bảo

hiểm xã hội tự nguyện trên cơ sở các tài liệu, số liệu trong những năm gần

đây của bảo hiểm xã hội huyện Phú Tân, tỉnh Cà Mau.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

- Về nội dung: Luận văn tập trung nghiên cứu các vấn đề lý luận, pháp

luật về bảo hiểm xã hội tự nguyện như: đối tượng, chế độ hưởng, tài chính,

trình tự, thủ tục hưởng bảo hiểm xã hội tự nguyện. Luận văn không nghiên

cứu các nội dung về xử lý vi phạm và giải quyết tranh chấp bảo hiểm xã hội

tự nguyện.

- Về không gian: Luận văn nghiên cứu thực tiễn thực hiện bảo hiểm xã

hội tự nguyện tại huyện Phú Tân, tỉnh Cà Mau.

- Về thời gian: Luận văn nghiên cứu và đánh giá thực trạng tại địa bàn

nghiên cứu trong khoảng thời gian từ năm 2018 – 2020.

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

Phương pháp luận: Luận văn được nghiên cứu dựa trên phương pháp

luận của học thuyết Mác - Lênin bao gồm phép biện chứng duy vật và phương

pháp luận duy vật lịch sử; tư tưởng Hồ Chí Minh và trên cơ sở các quan điểm,

định hướng của Đảng và Nhà nước về chính sách bảo hiểm xã hội Việt Nam

giai đoạn hiện nay.

Phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên

cứu: phân tích và tổng hợp, so sánh, liệt kê; kết hợp với phương pháp nghiên

cứu thực tiễn, dự báo khoa học. Tùy từng nội dung mà các phương pháp

nghiên cứu này được sử dụng linh hoạt, kết hợp hoặc riêng rẽ với nhau.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

- Ý nghĩa khoa học: Luận văn khái quát hệ thống và làm rõ hơn một số

vấn đề lý luận về bảo hiểm xã hội tự nguyện và pháp luật về bảo hiểm xã hội

tự nguyện. Phân tích, đánh giá các quy định pháp luật và thực tiễn thực hiện

5

tại huyện Phú Tân, tỉnh Cà Mau. Trên cơ sở những bất cập, hạn chế, luận văn

mạnh dạn đưa ra các kiến nghị nhằm hoàn thiện một số quy định của pháp

luật và nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về bảo hiểm xã hội tự nguyện.

- Ý nghĩa thực tiễn: Luận văn góp phần cung cấp kiến thức cho những

người đang làm công tác thực tiễn về bảo hiểm xã hội nói chung, bảo hiểm xã

hội tự nguyện nói riêng, cho người tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện. Qua

đó, giúp họ thực thi pháp luật bảo hiểm xã hội tự nguyện đúng, đảm bảo

quyền lợi. Bên cạnh đó, đây cũng là nguồn tài liệu tham khảo cho sinh viên,

học viên, nhà nghiên cứu quan tâm đến pháp luật bảo hiểm xã hội tự nguyện.

Việc đi sâu tìm hiểu đề tài là vấn đề lớn, nên không tránh khỏi những

thiếu sót, hạn chế, rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của các thầy cô.

7. Kết cấu luận văn

Ngoài Mở đầu và Kết luận, luận văn được kết cấu thành 3 chương:

Chương 1: Một số vấn đề lý luận về pháp luật bảo hiểm xã hội tự nguyện

và quy định pháp luật Việt Nam hiện hành về bảo hiểm xã hội tự nguyện.

Chương 2: Thực tiễn thực hiện pháp luật bảo hiểm xã hội tự nguyện tại

huyện Phú Tân, tỉnh Cà Mau.

Chương 3: Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật và giải pháp nâng cao

hiệu quả thực hiện pháp luật bảo hiểm xã hội tự nguyện tại huyện Phú Tân,

6

tỉnh Cà Mau.

Chương 1

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁP LUẬT BẢO HIỂM XÃ HỘI

TỰ NGUYỆN VÀ QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN HÀNH

VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI TỰ NGUYỆN

1.1. Một số vấn đề lý luận về pháp luật bảo hiểm xã hội tự nguyện

1.1.1. Khái niệm bảo hiểm xã hội tự nguyện và pháp luật bảo hiểm xã

hội tự nguyện

1.1.1.1. Khái niệm bảo hiểm xã hội

Theo Bách khoa toàn thư mở (Trang thông tin điện tử Wikipedia Việt

Nam): "Bảo hiểm xã hội là sự đảm bảo, thay thế hoặc bù đắp một phần thu

nhập cho người lao động khi họ mất hoặc giảm thu nhập do bị ốm đau, thai

sản, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp, tàn tật, thất nghiệp, tuổi già, tử

tuất, dựa trên cơ sở một quỹ tài chính do sự đóng góp của các bên tham gia

bảo hiểm xã hội, có sự bảo hộ của Nhà nước theo pháp luật, nhằm đảm bảo

an toàn đời sống cho người lao động và gia đình họ, đồng thời góp phần đảm

bảo an toàn xã hội" [37].

Theo Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014: “Bảo hiểm xã hội là sự bảo đảm

thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập của người lao động khi họ bị giảm

hoặc mất thu nhập do ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp,

hết tuổi lao động hoặc chết, trên cơ sở đóng vào quỹ bảo hiểm xã hội”.

Về nội dung, cả hai khái niệm nêu trên không có gì khác biệt. Tuy

nhiên khái niệm về bảo hiểm xã hội theo từ điển Bách khoa được trình bày

chi tiết phù hợp với cách tiếp cận bảo hiểm xã hội có sự bảo hộ của Nhà nước,

còn khái niệm bảo hiểm xã hội theo Luật bảo hiểm xã hội phù hợp hơn với xu

thế của nền kinh tế mở, kinh tế hội nhập hiện nay.

Để có một khái niệm thống nhất trong việc nghiên cứu bảo hiểm xã hội

7

tại Việt Nam, trên phương diện lý thuyết bảo hiểm xã hội được khái quát như

sau: Bảo hiểm xã hội là phương pháp chuyển giao rủi ro được thực hiện thông

qua việc tạo lập quỹ tài chính bảo hiểm xã hội, nhằm đảm bảo thay thế hoặc

bù đắp một phần thu nhập của người lao động khi họ bị giảm hoặc mất thu

nhập do ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, tàn tật, thất

nghiệp, hết tuổi lao động hoặc chết. Với khái niệm bảo hiểm xã hội này, ta có

thể tiếp cận về bảo hiểm xã hội trên cả phương diện kinh tế và phương diện

xã hội. Song, về mặt bản chất bảo hiểm xã hội là “bù đắp” khoản thu nhập bị

giảm hoặc mất của người lao động tham gia bảo hiểm xã hội.

1.1.1.2. Khái niệm bảo hiểm xã hội tự nguyện

Xét về sự tự nguyện, có thể hiểu một cách đơn giản đó là sự lựa chọn

và hành động tự do trong ý thức, bắt nguồn từ những tác nhân được xem xét

dựa trên lý trí để đạt đến một mục đích nào đó, theo cách này chủ thể điều

khiển được chính bản thân trong những hành động và quyết định của chính

mình [23, tr.9].

Quá trình lao động, con người có thể gặp những sự cố bất thường như

lủ lụt, hạn hán, hỏa hoạn, bệnh tật,... dẫn đến thiệt hại về tính mạng, sức khỏe,

tài sản; đó là những rủi ro ngoài tầm kiểm soát, người lao động không mong

muốn xảy ra. Với tiến trình xã hội ngày càng phát triển thì những rủi ro có xu

thế tăng, nên nhu cầu về bảo hiểm xã hội của người lao động ngày càng lớn.

Để đảm bảo thu nhập tài chính khi gặp rủi ro đến thì cần sự tương trợ giúp đỡ

của cộng đồng, mà bảo hiểm xã hội tự nguyện xuất hiện bên cạnh bảo hiểm

xã hội bắt buộc như là một yếu tố khách quan, thật sự là nhu cầu cần thiết cho

người lao động.

Song, trước khi có bảo hiểm xã hội tự nguyện không phải tất cả người

lao động thuộc các thành phần kinh tế ai cũng đều được tham gia, mặc dù họ

có nhu cầu. Trong môi trường lao động, nếu như người lao động làm việc tại

khu vực chính thức được chế độ bảo hiểm xã hội bắt buộc thì sẽ có điều kiện

8

nguồn lực hỗ trợ vượt qua khó khăn nếu rủi ro không may đến; nhưng đối với

những người lao động không thuộc diện tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc

thì lại không có điều kiện tài chính, cơ chế tự bảo vệ mình một cách phù hợp

với điều kiện sống thiếu đảm bảo và thu nhập không ổn định. Chính vậy,

ngoài bảo hiểm xã hội bắt buộc thì loại hình bảo hiểm xã hội tự nguyện được

thiết kế nhằm đáp ứng nhu cầu, nguyện vọng đa số người lao động.

Theo Từ điển giải thích thuật ngữ Luật học: “Bảo hiểm xã hội tự

nguyện là loại hình bảo hiểm xã hội hình thành trên cơ sở kết hợp giữa tổ

chức, bảo trợ của Nhà nước với sự tham gia tự nguyện của người lao động có

nhu cầu bảo hiểm” [30, tr.85]

Ở Việt Nam, khái niệm bảo hiểm xã hội tự nguyện lần đầu tiên được

quy định tại Luật Bảo hiểm xã hội năm 2006 như sau: “Bảo hiểm xã hội tự

nguyện là loại hình bảo hiểm xã hội mà người lao động tự nguyện tham gia,

được lựa chọn mức đóng và phương thức đóng phù hợp với thu nhập của

mình để hưởng bảo hiểm xã hội. Đến Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014 tiếp tục

phát triển hoàn thiện khái niệm hơn, cụ thể tại Khoản 3, Điều 3 nêu: “Bảo

hiểm xã hội tự nguyện là loại hình bảo hiểm xã hội do Nhà nước tổ chức mà

người tham gia được lựa chọn mức đóng, phương thức đóng phù hợp với thu

nhập của mình và Nhà nước có chính sách hỗ trợ tiền đóng bảo hiểm xã hội

để người tham gia hưởng chế độ hưu trí và tử tuất”.

Có thể thấy, định nghĩa về bảo hiểm xã hội tự nguyện theo pháp luật

Việt Nam năm 2014 đã có sự bổ sung cụ thể hơn, hoàn thiện hơn so với Luật

bảo hiểm xã hội 2006. Theo đó, định nghĩa này đã nhấn mạnh vai trò của Nhà

nước trong bảo hiểm xã hội tự nguyện, đồng thời định nghĩa đưa ra cụ thể hai

chế độ mà người tham gia được hưởng. Tuy nhiên việc quy định các chế độ

bảo hiểm xã hội tự nguyện trong khái niệm này phần nào làm hạn chế việc

9

mở rộng chế độ bảo hiểm xã hội tự nguyện trong tương lai.

1.1.1.3. Khái niệm pháp luật bảo hiểm xã hội tự nguyện

Hiện nay, bảo hiểm xã hội tự nguyện được thực hiện rộng rãi trên thế

giới. Tại mỗi quốc gia có quan điểm, đường lối, trình độ phát triển dân trí

khác nhau thì chính sách, pháp luật về bảo hiểm xã hội tự nguyện cũng có

những điểm khác nhau; tên gọi chính sách đôi khi cũng khác nhau nhưng cho

cùng mục đích là cấp hỗ trợ an sinh xã hội cho công dân đất nước mình. Dù

trình độ dân trí có khác nhau nhưng loại hình bảo hiểm xã hội tự nguyện là

loại hình được xây dựng trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện của người tham gia,

bằng cách đóng góp một phần thu nhập của mình để được hưởng chế độ bảo

hiểm xã hội.

Bảo hiểm xã hội tự nguyện là một chính sách xã hội của quốc gia

nhưng đồng thời cũng là công cụ của Nhà nước nhằm tham gia vào việc phân

phối lại thu nhập quốc dân một cách hợp lý giữa các tầng lớp xã hội. Tại Việt

Nam, pháp luật bảo hiểm xã hội ra đời năm 1945 khi bắt đầu lập nước Việt

Nam Dân chủ Cộng hòa; tuy nhiên các quy định pháp luật về bảo hiểm xã hội

tự nguyện tại Việt Nam mới được cụ thể tại Luật Bảo hiểm xã hội năm 2006

và được sửa đổi, hoàn thiện hơn trong Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014. Pháp

luật bảo hiểm xã hội tự nguyện điều chỉnh những quan hệ xã hội phát sinh từ

hoạt động bảo hiểm xã hội trong đó bao gồm các quy định về đối tượng tham

gia, mức đóng phí, mức hưởng bảo hiểm cho đến quy định về thủ tục thực

hiện bảo hiểm xã hội tự nguyện, mức phí và phương thức đóng phí bảo hiểm

xã hội tự nguyện và các nội dung liên quan khác. Do vậy, có thể hiểu pháp

luật về bảo hiểm xã hội tự nguyện là hệ thống những quy định do Nhà nước

ban hành, quy định về đối tượng tham gia, mức phí và phương thức đóng phí,

các chế độ bảo hiểm xã hội tự nguyện, thủ tục hưởng quyền lợi, quản lý của

nhà nước và vấn đề khác về bảo hiểm xã hội tự nguyện.

Tóm lại, pháp luật về bảo hiểm xã hội tự nguyện là hệ thống những

10

chính sách do Nhà nước ban hành quy định các hình thức đảm bảo điều kiện

vật chất, tinh thần cho người lao động và thành viên trong gia đình trong

trường hợp bị mất hoặc bị giảm khả năng lao động, mất việc làm, khi họ tham

gia bảo hiểm xã hội tự nguyện.

1.1.1.4. Phân biệt bảo hiểm xã hội tự nguyện với loại hình kinh doanh

bảo hiểm (bảo hiểm thương mại)

* Sự giống nhau:

Bảo hiểm xã hội tự nguyện và bảo hiểm thương mại được thực hiện

trên cùng một nguyên tắc là có sự đóng góp của đối tượng tham gia thì mới

được hưởng quyền lợi. Hoạt động của hai loại hình này đều nhằm bù đắp tài

chính cho đối tượng tham gia bảo hiểm khi họ bị rủi ro trong khuôn khổ hình

thức bảo hiểm đang tham gia. Phương thức hoạt động của hai loại hình này

đều mang tính cộng đồng, lấy số đông bù cho số ít, mang tính chất cộng đồng

chia sẽ rủi ro.

* Sự khác nhau:

- Mục tiêu hoạt động của bảo hiểm xã hội tự nguyện là nhằm thực hiện

chính sách xã hội của Nhà nước, góp phần ổn định đời sống cho người lao

động và các thành viên của gia đình họ; tức là, hoạt động bảo hiểm xã hội tự

nguyện là hoạt động phi lợi nhuận và nhằm mục đích an sinh xã hội. Còn đối

với mục tiêu hoạt động của bảo hiểm thương mại là lợi nhuận.

- Phạm vi hoạt động của bảo hiểm xã hội tự nguyện chỉ diễn ra trong

từng quốc gia, với từng chính sách bảo hiểm xã hội riêng biệt phù hợp với

điều kiện quốc gia đó, mà nó sẽ trực tiếp liên quan đến người lao động và các

thành viên gia đình của họ. Về mức đóng, hình thức đóng, thời gian đóng,

mức hưởng dựa trên tiền lương, mức thu nhập của họ; khi có chính sách thay

đổi tiền lương hoặc chỉ số giá sinh hoạt tăng thì cũng sẽ được điều chỉnh phù

hợp để ổn định cuộc sống người lao động và đảm bảo cho họ tham gia để

11

được thụ hưởng chế độ bảo hiểm xã hội

Còn phạm vi hoạt động của bảo hiểm thương mại không chỉ diễn ra

trong mỗi quốc gia mà còn sang những quốc gia khác, trên toàn thế giới; các

sản phẩm của bảo hiểm thương mại có mặt hầu hết trên tất cả lĩnh vực kinh tế

xã hội. Hoạt động bảo hiểm thương mại thực hiện theo cơ chế thị trường và

nguyên tắc hạch toán kinh doanh. Nội dung hoạt động rất rộng, không chỉ

đảm bảo rủi ro về người mà còn đảm bảo rủi ro các đối tượng khác như: công

trình, hàng hóa, phương tiện,... Ứng với mỗi gói sản phẩm và mức đóng góp

nhất định mà công ty bảo hiểm đưa ra thì khi có sự kiện rủi ro xảy ra người

tham gia bảo hiểm sẽ được nhận một mức quyền lợi tương ứng được quy định

trước, do đó quan hệ giữa mức đóng góp và mức hưởng bảo hiểm là quan hệ

tương đồng.

- Bảo hiểm xã hội tự nguyện ngoài việc là một chính sách xã hội và

đồng thời cũng là một công cụ nhà nước tham gia vào việc phân phối lại thu

nhập quốc dân đảm bảo hài hòa, phù hợp với tầng lớp dân cư. Mặc dù, nguồn

kinh phí thực hiện chính sách bảo hiểm xã hội tự nguyện do người sử dụng

lao động và người lao động đóng góp nhưng đều do nhà nước bảo hộ, đảm

bảo quỹ bảo hiểm không bị vỡ và cũng nhằm giảm gánh nặng cho nguồn ngân

sách nhà nước và thực hiện được mục tiêu an sinh xã hội lâu dài, bền vững.

Còn bảo hiểm thương mại được thực hiện bởi các tổ chức kinh doanh

bảo hiểm trên thị trường. Bảo hiểm thương mại chỉ hoạt động mà nơi đó

doanh nghiệp chấp nhận rủi ro trên cơ sở người được bảo hiểm đóng một

khoản tiền gọi là phí bảo hiểm tham gia để doanh nghiệp bảo hiểm thực hiện

bồi thường hoặc chi trả bảo hiểm khi có sự kiện rủi ro xảy ra mà các bên đã

thỏa thuận trước thông qua hợp đồng bảo hiểm.

- Mối quan hệ giữa người lao động và cơ quan bảo hiểm xã hội là dài

hạn và trọn đời. Còn đối với mối quan hệ của người được bảo hiểm và người

bảo hiểm trong bảo hiểm thương mại là có thời hạn, thông thường là ngắn hạn

12

(bảo hiểm phi nhân thọ).

1.1.2. Đặc điểm của bảo hiểm xã hội tự nguyện

- Dưới góc độ chính trị xã hội, bảo hiểm xã hội tự nguyện là một phạm

trù xã hội thuộc hệ thống các chính sách xã hội, đây cũng là một trong những

giải pháp góp phần đảm bảo an sinh xã hội cho người dân của một đất nước.

- Đối với góc độ kinh tế, bảo hiểm xã hội tự nguyện là phạm trù kinh tế

tổng hợp, là sự đảm bảo thu nhập cho người lao động khi đối mặt với sự kiện

rủi ro khách quan mà họ không lường trước được dẫn đến tình trạng giảm

hoặc mất khả năng lao động. [13]

- Còn đối với góc độ pháp lý, bảo hiểm xã hội tự nguyện là một loại

hình bảo hiểm xã hội do Nhà nước tổ chức và quản lý mà trong đó người lao

động tự nguyện tham gia, được lựa chọn tham gia, lựa chọn mức đóng,

phương thức đóng phù hợp với thu nhập của mình. Do đó, cho thấy rằng:

Thứ nhất, về đối tượng bảo hiểm xã hội tự nguyện có đối tượng áp

dụng rộng rãi và việc tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện dựa vào ý chí của

người tham gia. Do tính chất tự nguyện của loại bảo hiểm xã hội này nên nhà

nước không bắt buộc người lao động tham gia; đây cũng là một trong những

tiêu chí phân biệt giữa bảo hiểm xã hội tự nguyện và bảo hiểm xã hội bắt

buộc. Khi không thuộc đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc, người

lao động từ đủ 15 tuổi trở lên có thể tham gia hoặc không tham gia bảo hiểm

xã hội tự nguyện.

Thứ hai, người tham gia tự chọn mức đóng và phương thức đóng, phù

hợp với thu nhập và điều kiện thực tế của người tham gia (như là có thể lựa

chọn thấp nhất bằng mức chuẩn hộ nghèo của khu vực nông thôn; phương

thức đóng có thể là đóng hàng tháng, 03 tháng hoặc 06 tháng một lần;…).

Vấn đề này được nhà nước quy định linh hoạt, xuất phát từ đặc điểm của đối

tượng tham gia chủ yếu là người lao động có thu nhập bấp bênh, việc làm

13

thiếu ổn định.

Thứ ba, ngoài sự đóng góp của người lao động, thì còn được nhà nước

hỗ trợ tiền đóng bảo hiểm xã hội. Để khuyến khích người lao động tham gia

bảo hiểm xã hôi tự nguyện, nhà nước có quy định cụ thể về mức hỗ trợ tiền

đóng (cụ thể tại Điều 14 Nghị định 134/2015/NĐ-CP)

Thứ tư, về chế độ bảo hiểm xã hội tự nguyện không thực hiện tất cả các

chế độ bảo hiểm xã hội mà chỉ thực hiện một số chế độ nhất định như: chế độ

hưu trí và chế độ tử tuất. Cụ thể, người tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện

khi đủ 60 tuổi đối với nam; 55 tuổi đối với nữ và đủ 20 năm đóng bảo hiểm

xã hội trở lên thì được hưởng lương hưu; đối với chế độ tử tuất thì được giải

quyết hưởng trợ cấp mai táng, trợ cấp tuất theo quy định.

1.1.3. Nguyên tắc của bảo hiểm xã hội tự nguyện

- Bảo hiểm xã hội tự nguyện được thực hiện trên cơ sở nguyên tắc tự

nguyện của người tham gia. Đây là nguyên tắc đặc trưng của loại hình này;

chính nguyên tắc này tạo điều kiện cho mọi người lao động trong xã hội tham

gia, dù giữa họ có sự chênh lệch về thu nhập. Tuy nhiên, sự tự nguyện này

còn bị ảnh hưởng bởi yếu tố mệnh lệnh; thể hiện ở việc nhà nước ban hành

các văn bản quy phạm pháp luật thực hiện chính sách bảo hiểm xã hội tự

nguyện rất cụ thể và chặt chẽ áp dụng cho cả nước, các cơ quan bảo hiểm xã

hội không được tự ý đặt ra bất kỳ chế độ, quy định nào khác thêm.

- Trong quy định pháp luật về bảo hiểm xã hội tự nguyện có sự linh

hoạt nhưng cũng có giới hạn nhất định. Đặc trưng này nhằm đảm bảo sự bình

đẳng, hài hòa lợi ích của các chủ thể trong quan hệ bảo hiểm xã hội tự

nguyện; tránh sự chênh lệch quá lớn về đời sống của những người cùng

hưởng bảo hiểm, cũng nhằm tránh gây mất cân đối cho quỹ bảo hiểm xã hội

khi chi trả bảo hiểm.

- Pháp luật bảo hiểm xã hội tự nguyện phải đảm bảo sự liên thông giữa

bảo hiểm xã hội tự nguyện và bảo hiểm xã hội bắt buộc. Nguyên tắc này

14

nhằm đảm bảo quyền lợi của người lao động, khi quan hệ lao động luôn có sự

thay đổi không ngừng trong điều kiện kinh tế có nhiều sự chuyển biến như sự

chuyển dịch của cơ cấu ngành, lãnh thổ kéo theo sự chuyển dịch cơ cấu thành

phần lao động, khu vực lao động,... hoặc là có sự yêu cầu về trình độ kỷ thuật,

tay nghề ngày càng cao dẫn đến người lao động sẽ chuyển từ khu vực chính

thức sang phi chính thức và ngược lại. Do đó, người lao động có quyền tham

gia bảo hiểm xã hội theo đúng loại hình dù ở bất kỳ khu vực môi trường lao

động nào, đảm bảo sự liên tục, thông suốt quá trình đóng bảo hiểm xã hội.

1.1.4. Vai trò của bảo hiểm xã hội tự nguyện

1.1.4.1. Tạo điều kiện để nhà nước thực hiện chỉnh sách kinh tế xã hội

Trong những năm qua, bảo hiểm xã hội ngày càng phát triển toàn diện,

số đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội ngày càng đông và ngày càng được mở

rộng ra các thành phần kinh tế khác nhau, chính sách bảo hiểm xã hội tự

nguyện đã tạo điều kiện cho hàng triệu người lao động làm việc ở vùng nông

thôn có thể tham gia bảo hiểm xã hội để họ yên tâm làm việc, gắn bó và phát

triển nông nghiệp, nông thôn, giảm sức ép di dân ra các đô thị. Đồng thời, còn

giúp thu hút lao động về làm việc tại các vùng nông thôn, miền núi để cho nhà

nước thực hiện các chính sách xã hội hướng vào phát triển xã hội lành mạnh,

cân bằng giữa các vùng miền, khôi phục và phát triển các làng nghề nhằm

phát huy sức mạnh của tất cả các nguồn lực xã hội.

Bảo hiểm xã hội tự nguyện ra đời sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc

thực hiện có hiệu quả một số chính sách xã hội khác như chính sách về dân số

và kế hoạch hóa gia đình. Vì hiện nay, đại bộ phận lao động khi tuổi già, mất

sức, ốm đau không có thu nhập để sống, có tâm lý chung là phải đẻ nhiều con

để được nương nhờ khi già yếu. Với tâm lý đó, mặc dù có nhiều cặp vợ chồng

đã có 2, 3 con thậm chí 4, 5 con nhưng vẫn đẻ thêm để mong được nương nhờ

vào các con khi tuổi già. Như vậy, pháp luật về bảo hiểm xã hội tự nguyện sẽ

là chỗ dựa vững chắc cho mỗi người lao động khi già yếu, góp phần xóa đi

15

tâm lý “trẻ cậy cha, già cậy con”.

1.1.4.2. Tăng cường nội lực, kích thích phát triển nền kinh tế

Trong đời sống xã hội con người có an cư mới lập nghiệp, việc đảm

bảo quyền lợi cho người lao động khi tham gia bảo hiểm xã hội sẽ tạo cho

người lao động an tâm công tác, lao động sản xuất. Trong định hướng chiến

lược phát triển đất nước đã đặt ra đó là tiếp tục thực hiện nhất quán chính sách

kinh tế xã hội nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa, tạo mọi

điều kiện thuận lợi để doanh nghiệp và công dân đầu tư và phát triển sản xuất

kinh doanh; hình thành đồng bộ các yếu tố thị trường; tăng cường nội lực của

các công cụ, chính sách quản lý vĩ mô, tiếp tục xây dựng và hoàn thiện hệ

thống pháp luật; chủ động hội nhập kinh tế quốc tế có hiệu quả, mở rộng kinh

tế đối ngoại; chính sách phát triển nguồn nhân lực, giáo dục và đào tạo khoa

học công nghệ; tiếp tục đổi mới chính sách xã hội, chính sách bảo vệ môi

trường và thúc đẩy cải cách hành chính, xây dựng bộ máy nhà nước trong

sạch, vững mạnh.

Trong việc hình thành đồng bộ các yếu tố thị trường thì yếu tố phát

triển thị trường vốn và tiền tệ cũng rất được quan tâm chú trọng. Nếu xét trên

phương diện tài chính thì nguồn thu bảo hiểm xã hội tạm thời nhàn rỗi cũng

có thể được coi là nguồn vốn bổ sung, hỗ trợ cho sự phát triển của các doanh

nghiệp và trong việc xây dựng hạ tầng cơ sở.

Mặt khác, việc thu hút đông đảo đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội,

về mặt chính trị sẽ đảm bảo được vấn đề an sinh xã hội, về mặt tài chính thì

thông qua chính sách bảo hiểm xã hội sẽ tập trung được lượng tiền tạm thời

nhàn rỗi trong các tầng lớp nhân dân phục vụ cho việc đầu tư và tăng trưởng

kinh tế. Ngoài ra việc hình thành quỹ bảo hiểm xã hội độc lập góp phần giảm

bớt gánh nặng cho ngân sách nhà nước, từ đó giúp cho việc tập trung đầu tư

vào các mũi nhọn kinh tế có trọng điểm từ nguồn ngân sách nhà nước có hiệu

16

quả hơn.

1.2. Quy định pháp luật Việt Nam hiện hành về bảo hiểm xã hội

tự nguyện

Theo pháp luật Việt Nam về bảo hiểm xã hội tự nguyện gồm có các văn

bản quy phạm pháp luật hiện hành sau: Luật bảo hiểm xã hội năm 2014, có

hiệu lực từ ngày 01/01/2016. Nghị định 134/2015/NĐ-CP ngày 29/12/2015

của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật bảo hiểm xã hội

về BHXH tự nguyện. Thông tư số 01/2016/TT-BLĐTBXH của Bộ Lao động

Thương binh và Xã hội quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều

của Luật bảo hiểm xã hội về bảo hiểm xã hội tự nguyện. Theo đó, pháp luật

quy định một số nội dung cơ bản sau:

1.2.1. Về đối tượng tham gia

Người tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện là công dân Việt Nam từ

đủ 15 tuổi trở lên và không thuộc đối tượng tham gia Bảo hiểm xã hội bắt

buộc theo Quyết định 595/QĐ-BHXH ngày 14/04/2017 của Bảo hiểm Xã hội

Việt Nam, bao gồm:

- Người lao động làm việc theo hợp đồng lao động có thời hạn dưới 03

tháng trước ngày 01/01/2018; người lao động làm việc theo hợp đồng lao

động có thời hạn dưới 01 tháng từ ngày 01/01/2018 trở đi.

- Người hoạt động không chuyên trách ở thôn, ấp, bản, sóc, làng, tổ dân

phố, khu, khu phố;

- Người lao động giúp việc gia đình.

- Người tham gia các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ không

hưởng tiền lương.

- Xã viên không hưởng tiền lương, tiền công làm việc trong hợp tác xã,

liên hiệp hợp tác xã.

- Người nông dân, người lao động tự tạo việc làm bao gồm những

17

người tự tổ chức hoạt động lao động để có thu nhập cho bản thân và gia đình.

- Người lao động đã đủ điều kiện về tuổi đời nhưng chưa đủ điều kiện

về thời gian đóng để hưởng lương hưu theo quy định của pháp luật về bảo

hiểm xã hội;

- Người tham gia khác.

So với Luật năm 2006 thì cho thấy đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội

tự nguyện mở rộng hơn. Luật năm 2014 đã bỏ quy định tuổi trần tham gia, chỉ

quy định người tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện là công dân Việt Nam, đủ

15 tuổi trở lên. Việc quy định rõ ràng các đối tượng tham gia tạo điều kiện

thuận lợi cho cán bộ, nhân viên làm công tác ngành bảo hiểm xã hội dễ dàng

giải thích cụ thể cho người tham gia.

Đồng thời, quy định về đối tượng là người tham gia khác là quy định

mở, mang tính linh hoạt để cập nhật và có bổ sung phù hợp với sự phát triển

không ngừng của tình hình kinh tế, xã hội và nhu cầu của người tham gia bảo

hiểm xã hội tự nguyện. Song, việc liệt kê cụ thể, rõ ràng từng đối tượng nêu

trên dễ xảy ra thiếu sót đối tượng.

1.2.2. Các chế độ bảo hiểm xã hội tự nguyện

1.2.2.1. Chế độ hưu trí

* Theo Điều 73, Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014 thì: Người tham gia

bảo hiểm xã hội tự nguyện khi đủ 55 tuổi đối với nữ, 60 tuổi đối với nam và

đủ 20 năm đóng bảo hiểm xã hội được hưởng lương hưu, như sau:

Lương hưu = (Mức bình quân thu nhập đóng bảo hiểm xã hội) x (Tỷ lệ

hưởng lương hưu)

Trong đó:

- Mức bình quân thu nhập đóng bảo hiểm xã hội: được tính bằng bình quân

các mức thu nhập tháng đã đóng bảo hiểm xã hội của toàn bộ thời gian đóng.

- Tỷ lệ hưởng lương hưu:

+ Đối với nữ được hưởng 45% tương ứng với 15 năm đóng bảo hiểm

xã hội, sau đó cứ thêm mỗi năm đóng bảo hiểm xã hội thì tính thêm 2%; mức

18

tối đa bằng 75%.

+ Đối với nam được hưởng 45% tương ứng với số năm đóng bảo hiểm

xã hội theo bảng dưới đây, sau đó cứ thêm mỗi năm đóng bảo hiểm xã hội,

được tính thêm 2%; mức tối đa bằng 75%:

Bảng 1.1: Tỷ lệ hưởng lương hưu

Số năm đóng bảo hiểm xã hội tương ứng với tỷ lệ Năm nghỉ hưu hưởng lương hưu 45%

2018 16 năm

2019 17 năm

2020 18 năm

2021 19 năm

20 năm Từ 2022 trở đi

[Nguồn: Luật Bảo hiểm xã hội]

Ngoài ra, Điều 73, Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014, Nghị định số

134/2015/NĐ-CP của Chính phủ còn quy định thêm trường hợp người tham

gia bảo hiểm xã hội tự nguyện đủ 60 tuổi đối với nam, đủ 55 đối với nữ

nhưng thời gian đóng bảo hiểm xã hội còn thiếu không quá 10 năm so với

thời gian quy định như trên, kể cả những người đã có từ đủ 10 năm đóng bảo

hiểm xã hội bắt buộc trở lên mà chưa nhận bảo hiểm xã hội một lần, có nhu

cầu tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện thì được đóng tiếp bảo hiểm xã hội tự

nguyện cho đến khi đủ 20 năm đóng bảo hiểm xã hội để hưởng chế độ hưu trí.

Tại Điều 5, Nghị định số 134/2015/NĐ-CP của Chính phủ còn quy định

thêm trường hợp chế độ hưu trí đối với người trước đó có thời gian đóng bảo

hiểm xã hội bắt buộc theo quy định tại Điều 71, Luật bảo hiểm xã hội năm

2014.

Điều đó cho thấy pháp luật quy định cụ thể vấn đề liên thông giữa bảo

hiểm xã hội bắt buộc và tự nguyện nhằm đáp ứng nhu cầu cần thiết của người

19

tham gia bảo hiểm xã hội. Trường hợp người tham gia bảo hiểm xã hội đã đủ

tuổi nhưng thời gian đóng bảo hiểm xã hội chưa đủ 20 năm thì sẽ không được

hưởng chế độ hưu trí. Mặt khác, so với trước đây thì điều kiện hưởng lương

hưu hàng tháng được qui định chi tiết hơn với các nhóm đối tượng, đặc biệt là

nâng dần tuổi nghỉ hưu để được hưởng chế độ hưu trí với mức thấp hơn.

* Song, tại điểm C, Khoản 1, Điều 219, Bộ Luật Lao động năm 2019

(có hiệu lực từ ngày 01/01/2021) đã có sửa đổi, bổ sung điều kiện hưởng

lương hưu tại Điều 73, Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014. Theo đó, độ tuổi nghỉ

hưu đã được Bộ Luật Lao động năm 2019 và Nghị định số 135/2020/NĐ-CP

ngày 18/11/2020 của Chính phủ điều chỉnh.

Tại Khoản 1, 2, Điều 169, Bộ Luật Lao động 2019 quy định: “1. Người

lao động bảo đảm điều kiện về thời gian đóng bảo hiểm xã hội theo quy định

của pháp luật về bảo hiểm xã hội được hưởng lương hưu khi đủ tuổi nghỉ

hưu.”; “2. Tuổi nghỉ hưu của người lao động trong điều kiện lao động bình

thường được điều chỉnh theo lộ trình cho đến khi đủ 62 tuổi đối với lao động

nam vào năm 2028 và đủ 60 tuổi đối với lao động nữ vào năm 2035. ”

Biểu đồ 1.1: Quy định chính thức về tuổi nghỉ hưu từ 01/01/2021

20

[Nguồn: Thư viện Pháp luật]

Như vậy, trong năm 2021 với điều kiện lao động bình thường, thì tuổi

nghỉ hưu của người lao động là đủ 60 tuổi 03 tháng đối với nam và đủ 55 tuổi

04 tháng đối với nữ; sau đó, cứ mỗi năm tăng thêm 03 tháng đối với lao động

nam và 04 tháng đối với lao động nữ, cụ thể từng năm theo Biểu đồ trên.

Ngoài ra, Luật này còn quy định đối với người lao động bị suy giảm

khả năng lao động; làm công việc đặc biệt nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm;

làm công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm, thì từ năm 2021 trở đi: Áp

dụng theo nguyên tắc “Có thể nghỉ hưu ở tuổi thấp hơn nhưng không quá 05

tuổi so với người lao động làm việc ở điều kiện lao động bình thường”. Tóm

lại, điều kiện độ tuổi của người lao động muốn được hưởng lương hưu đã

được Nhà nước điều chỉnh tăng lên theo lộ trình từng năm như phân tích trên.

* Tiếp tục tại Điều 75, Luật bảo hiểm xã hội năm 2014 còn quy định

việc trợ cấp một lần khi nghỉ hưu, khi người lao động nếu có thời gian đóng

bảo hiểm xã hội cao hơn số năm tương ứng với tỷ lệ hưởng lương hưu 75%,

cứ mỗi năm được tính bằng 0,5 tháng bình quân thu nhập tháng làm căn cứ

đóng bảo hiểm xã hội tự nguyện. Quy định này đảm bảo quyền lợi của người

lao động phù hợp với thời gian đóng bảo hiểm vào quỹ bảo hiểm xã hội của

họ, bảo đảm công bằng trên cơ sở nguyên tắc có đóng có hưởng, tạo điều kiện

cho người lao động yên tâm công tác và thực hiện các nghĩa vụ tham gia bảo

hiểm xã hội theo quy định.

Về chế độ bảo hiểm xã hội một lần cũng được được quy định tại Điều

77, Luật bảo hiểm xã hội năm 2014 và Điều 7, Nghị định số 134/2015/NĐ-CP

của Chính phủ, áp dụng đối với người không đủ điều kiện hưởng lương hưu

hàng tháng. Quy định này, nhằm tạo điều kiện đảm bảo quyền lợi cho người

lao động khi họ không đủ số năm đóng bảo hiểm xã hội theo quy định hoặc đã

đủ số năm đóng nhưng vì lý do đặc biệt hoàn cảnh gì đó họ muốn hưởng bảo

21

hiểm xã hội một lần.

Khi người lao động chưa đủ điều kiện hưởng lương hưu hàng tháng và

không có nguyện vọng hưởng bảo hiểm xã hội một lần thì được bảo lưu thời

gian đóng bảo hiểm xã hội. Quy định này, nhằm tạo điều kiện cho họ được

tiếp tục tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện và được hưởng những quyền đầy

đủ hơn khi bị phát sinh sự kiện gì đó ngoài ý muốn làm gián đoạn quá trình

đóng bảo hiểm xã hội tự nguyện của họ. Tính liên thông của bảo hiểm xã hội

tự nguyện và bắt buộc cũng được thể hiện ở quy định này, khi thời gian gián

đoạn có thể là khoảng thời gian chuyển tiếp giữa hai loại hình bảo hiểm, hay

xuất phát từ đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện, khi không có thu

nhập không ổn định.

1.2.2.2. Chế độ tử tuất

Khi người tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện chết hoặc tòa án tuyên

bố chết, người lo mai táng được nhận trợ cấp mai táng bằng 10 lần mức lương

cơ sở thuộc một trong các trường hợp sau:

- Người tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện có thời gian tính hưởng

chế độ tử tuất từ đủ 60 tháng trở lên;

- Người đang hưởng lương hưu.

- Người tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện có thời gian đóng bảo

hiểm xã hội bắt buộc từ đủ 12 tháng trở lên;

- Người tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện đang hưởng trợ cấp tai nạn

lao động, bệnh nghề nghiệp hằng tháng đã nghỉ việc.

Chế độ tử tuất được đông đảo người lao động quan tâm, đồng tình, bởi

lẽ khi người lao động mất đi thì những người thân của họ cần được trợ cấp để

đảm bảo khoản tài chính nhất định nhằm trang trải ổn định cuộc sống. Thời

gian tính hưởng chế độ tử tuất là tổng thời gian đã đóng bảo hiểm xã hội bắt

buộc và tự nguyện, không bao gồm thời gian đóng bảo hiểm xã hội đã được

22

tính hưởng bảo hiểm xã hội một lần.

Ngoài ra người tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện khi chết được

hượng trợ cấp tuất một lần khi chết. Trợ cấp tuất là khoản trợ cấp cho thân

nhân của người lao động tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện khi người lao

động chết hoặc bị Tòa án tuyên bố chết. Trợ cấp tuất gồm hai loại là trợ cấp

tuất hàng tháng và trợ cấp tuất một lần.

- Trợ cấp tuất hàng tháng: Về điều kiện được hưởng trợ cấp tuất hàng

tháng được quy định tại Khoản 3, Điều 8, Nghị định số 134/2015/NĐ-CP của

Chính phủ, cụ thể gồm: Đã đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc từ đủ 15 năm trở

lên nhưng chưa hưởng bảo hiểm xã hội một lần; Đang hưởng trợ cấp tai nạn

lao động, bệnh nghề nghiệp hằng tháng với mức suy giảm khả năng lao động

từ 61% trở lên; Đang hưởng lương hưu mà trước đó có thời gian đóng bảo

hiểm xã hội bắt buộc đủ 15 năm trở lên.

Luật và Nghị định quy định khá cụ thể, rõ ràng về điều kiện cũng như

mức hưởng trợ cấp tuất hàng tháng. Tuy nhiên, quy định về điều kiện hưởng

trợ cấp tuất hàng tháng đối với người lao động đóng bảo hiểm xã hội tự

nguyện là quá cao, buộc người lao động phải có 15 năm đóng bảo hiểm xã hội

bắt buộc và tiếp tục tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện để đủ thời gian quy

định, thì thân nhân của họ mới được hưởng chế độ trợ cấp tuất hằng tháng.

- Trợ cấp tuất một lần:

Theo quy định tại Khoản 1, Điều 81, Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014

thì những đối tượng sau được hưởng trợ cấp tuất một lần: Người lao động

đang đóng bảo hiểm xã hội; Người lao động đang bảo lưu thời gian đóng bảo

hiểm xã hội; Người đang hưởng lương hưu khi chết thì thân nhân. Đồng thời,

trường hợp thân nhân thuộc diện hưởng trợ cấp tuất hàng tháng mà có nguyện

vọng hưởng trợ cấp một lần thì được hưởng trợ cấp tuất một lần theo quy định

tại Khoản 2, 3, Điều 81, Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014.

Mức trợ cấp tuất một lần đối với nhân thân người lao động đang đóng

23

hoặc người lao động đang bảo lưu thời gian đóng bảo hiểm xã hội được tính

theo số năm đã đóng bảo hiểm xã hội, cứ mỗi năm tính bằng 1,5 tháng mức

bình quân thu nhập tháng đóng bảo hiểm xã hội quy định tại Điều 79, Luật

Bảo hiểm xã hội năm 2014 cho những năm đóng bảo hiểm xã hội trước năm

2014, bằng 02 tháng mức bình quân thu nhập tháng cho những năm đóng bảo

hiểm xã hội từ năm 2014 trở đi.

Trường hợp người lao động có thời gian đóng bảo hiểm xã hội chưa đủ

01 năm thì mức trợ cấp tuất một lần bằng số tiền đã đóng nhưng mức tối đa

bằng 02 tháng mức bình quân thu nhập tháng đóng bảo hiểm xã hội; trường

hợp người lao động có cả thời gian đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc và tự

nguyện thì mức hưởng trợ cấp tuất một lần tối thiểu bằng 03 tháng mức bình

quân tiền lương và thu nhập tháng đóng bảo hiểm xã hội. Mức trợ cấp tuất

một lần đối với thân nhân người đang hưởng lương hưu chết được tính theo

thời gian đã hưởng lương hưu, nếu chết trong 2 tháng đầu hưởng lương hưu

thì tính bằng 48 tháng lương hưu đang hưởng; nếu chết vào những tháng sau

đó thì cứ hưởng thêm một tháng lương hưu, mức trợ cấp giảm đi 0,5 tháng

lương hưu.

1.2.3. Phương thức đóng, mức đóng và thủ tục đóng bảo hiểm xã hội

tự nguyện

Pháp luật Việt Nam hiện hành không có tách riêng quỹ bảo hiểm xã hội

tự nguyện mà quy định chung trong quỹ hưu trí và tử tuất cùng bảo hiểm xã

hội bắt buộc. Quy định này là có tính hợp lý bởi lẽ đảm bảo cùng mục đích

của bảo hiểm xã hội và có công bằng, thống nhất cho người lao động hưởng

lương hưu và cho thân nhân của họ hưởng chế độ tuất ổn định, lâu dài. Pháp

luật quy định cụ thể về phương thức đóng, mức phí đóng và thủ tục đóng bảo

hiểm xã hội tự nguyện như sau:

1.2.3.1. Phương thức đóng

Người tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện được chọn một trong các

24

phương thức đóng sau đây để đóng vào quỹ hưu trí và tử tuất:

- Đóng hằng tháng.

- Đóng 03 tháng một lần.

- Đóng 06 tháng một lần.

- Đóng 12 tháng một lần.

- Đóng một lần cho nhiều năm về sau nhưng không quá 5 năm một lần

(Được tính chiết khấu theo lãi suất đầu tư quỹ bảo hiểm xã hội bình quân

tháng do Bảo hiểm xã hội Việt Nam công bố của năm trước liền kề với năm

đóng).

- Đóng một lần cho những năm còn thiếu đối với người tham gia bảo

hiểm xã hội đã đủ điều kiện về tuổi để hưởng lương hưu theo quy định nhưng

thời gian đóng bảo hiểm xã hội còn thiếu không quá 10 năm (120 tháng) thì

được đóng cho đủ 20 năm để hưởng lương hưu. (Được tính bằng tổng mức

đóng của các tháng còn thiếu lãi gộp bằng lãi suất đầu tư quỹ bảo hiểm xã

hội bình quân tháng do Bảo hiểm xã hội Việt Nam công bố của năm trước

liền kề với năm đóng).

Trường hợp người tham gia bảo hiểm xã hội đã đủ tuổi nghỉ hưu theo

quy định mà thời gian đã đóng bảo hiểm xã hội còn thiếu trên 10 năm, nếu có

nguyện vọng thì tiếp tục đóng bảo hiểm xã hội tự nguyện theo một trong các

phương thức quy định trên, cho đến khi thời gian đóng bảo hiểm xã hội còn

thiếu không quá 10 năm thì được đóng một lần cho những năm còn thiếu để

hưởng lương hưu theo quy định. Quy định này so với trước đây thì cho thấy

phương thức đóng phí có tính linh hoạt cho người lao động làm các công việc

trong những ngành nghề khác nhau mà không có thu nhập ổn định trong

tháng, như vậy sẽ tạo điều kiện cho người lao động có cơ hội tham gia bảo

hiểm xã hội tự nguyện.

1.2.3.2. Về mức phí đóng bảo hiểm xã hội tự nguyện

Mức đóng bảo hiểm xã hội tự nguyện theo Khoản 1, Điều 87, Luật Bảo

25

hiểm xã hội năm 2014 và Điều 10, Nghị định số 134/2015/NĐ-CP của Chính

phủ, được quy định như sau: Mức đóng hằng tháng bằng 22% mức thu nhập

tháng do người tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện lựa chọn.

Mức thu nhập tháng do người tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện lựa

chọn thấp nhất bằng mức chuẩn hộ nghèo của khu vực nông thôn theo quy

định (Năm 2019 là 700.000 đồng/tháng) của Thủ tướng Chính phủ và cao

nhất bằng 20 lần mức lương cơ sở tại thời điểm đóng (hiện tại 1.490.000 đồng

x 20 = 29.800.000 đồng/tháng). Ví dụ: Người tham gia chọn mức thu nhập

hàng tháng làm căn cứ đóng là 2.000.000 đồng thì mức đóng hàng tháng là

2.000.000 đồng x 22% =440.000 đồng/tháng.

Với quy định này, việc xác định mức phí đóng bảo hiểm xã hội tự

nguyện dựa vào thu nhập của người lao động sẽ do họ lựa chọn trong khoảng

mức thu nhập từ tối thiểu đến tối đa theo quy định của pháp luật và tùy thuộc

thu nhập tài chính tháng ổn định mà người lao động tự chọn và kê khai với cơ

quan Bảo hiểm Xã hội.

Người tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện được Nhà nước hỗ trợ tiền

đóng theo tỷ lệ phần trăm (%) trên mức đóng bảo hiểm xã hội hằng tháng theo

mức chuẩn hộ nghèo của khu vực nông thôn, cụ thể: 30% đối với người tham

gia bảo hiểm xã hội tự nguyện thuộc hộ nghèo; 25% đối với người tham gia

bảo hiểm xã hội tự nguyện thuộc hộ cận nghèo; 10% đối với các đối tượng

khác (tại Điều 14, Nghị định số 134/2015/NĐ-CP của Chính phủ). Quy định

trên, mục đích để chia sẻ với người lao động có thu nhập thấp và góp phần

đảm bảo quyền lợi cho người lao động cũng như bảo đảm an toàn về tài chính

cho quỹ. Song, trong bối cảnh hiện nay người lao động cũng chưa thấy lợi ích

của loại hình này, không hứng thú khi tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện.

1.2.3.3. Thủ tục đóng bảo hiểm xã hội tự nguyện

Thủ tục hồ sơ, biểu mẫu được quy định tại Nghị định số 134/2015/NĐ-

CP của Chính phủ và Quyết định số 595/QĐ-BHXH ngày 14/4/2017 của Bảo

26

hiểm Xã hội Việt Nam. Cụ thể một số nội dung cơ bản sau:

- Quy định thủ tục thực hiện chế độ hưu trí: Người lao động phải có: Sổ

Bảo hiểm xã hội, đơn đề nghị hưởng lương hưu, giấy ủy quyền làm thủ tục

giải quyết chế độ hưu trí và nhận lương hưu đối với người đang chấp hành

hình phạt tù, văn bản của cơ quan nhà nước có thẩm quyền về việc trở về

nước định cư hợp pháp đối với trường hợp xuất cảnh trái phép, quyết định có

hiệu lực của Tòa án hủy bỏ quyết định tuyên bố mất tích đối với những

trường hợp người mất tích trở về và các giấy tờ khác theo quy định.

- Quy định thủ tục thực hiện chế độ tử tuất: Hồ sơ giải quyết hưởng chế

độ tử tuất với thân nhân người tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện bao gồm:

Sổ bảo hiểm xã hội, bản sao giấy chứng tử hoặc giấy báo tử hoặc bản sao

quyết định tuyên bố là đã chết của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật, tờ khai

của nhân thân và biên bản họp của nhân thân đối với trường hợp đủ điều kiện

hưởng hàng tháng nhưng chọn hưởng trợ cấp tuất một lần, biên bản điều tra

tai nạn lao động, trường hợp bị tai nạn giao thông được xác định là tai nạn lao

động thì phải có thêm biên bản tai nạn giao thông hoặc biên bản khám nghiệm

hiện trường và sơ đồ hiện trường vụ tai nạn giao thông quy định, bản sao bệnh

án điều trị bệnh nghề nghiệp đối với trường hợp chết vì bệnh nghề nghiệp,

biên bản giám định mức suy giảm khả năng lao động đối với thân nhân bị suy

giảm khả năng lao động từ 81% trở lên và các giấy tờ khác theo quy định.

1.2.4. Nguồn quỹ bảo hiểm xã hội tự nguyện:

Quỹ bảo hiểm xã hội là quỹ tài chính độc lập với Ngân sách nhà nước.

Quỹ có mục đích và chủ thể riêng. Mục đích tạo lập quỹ là dùng để chi trả

cho người lao động, giúp họ ổn định cuộc sống khi gặp các biến cố hoặc rủi

ro. Chủ thể của quỹ bảo hiểm xã hội chính là những người tham gia đóng góp

để hình thành nên quỹ, do đó có thể bao gồm cả người lao động, người sử

dụng lao động và Nhà nước.

Quỹ bảo hiểm xã hội được hình thành từ nhiều nguồn khác nhau: đóng

27

góp của người lao động và người sử dụng lao động; sự hỗ trợ của Nhà nước

và một số nguồn khác (do cá nhân và các tổ chức ủng hộ, lãi đầu tư phần quỹ

nhàn rỗi, các khoản nộp phạt của những cá nhân, tổ chức kinh tế vi phạm các

quy định của pháp luật bảo hiểm xã hội như: chậm nộp bảo hiểm xã hội, nộp

thiếu, các khoản thu hợp pháp khác được pháp luật của mỗi nước quy định).

Trong các nguồn trên, cơ bản nhất là sự đóng góp của các bên tham gia bảo

hiểm xã hội, gọi là phí bảo hiểm xã hội. Phí bảo hiểm xã hội được tính cho

từng chế độ bảo hiểm xã hội và phân chia tỷ lệ đóng góp giữa các bên tham

gia bảo hiểm xã hội.

1.2.5. Quản lý thực hiện bảo hiểm xã hội tự nguyện

Quản lý bảo hiểm xã hội tự nguyện có thể hiểu là sự tác động của các

chủ thể quản lý vào đối tượng và khách thể quản lý trong các hoạt động của

bảo hiểm xã hội tự nguyện, nhằm đạt được mục tiêu đề ra với những nguyên

tắc và phương pháp quản lý phù hợp với hệ thống quản lý chung của nền kinh

tế. Tại Điều 8, Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014 thì do Chính phủ thống nhất

quản lý nhà nước về bảo hiểm xã hội; Bộ Lao động Thương binh và Xã hội

chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện quản lý nhà nước về bảo hiểm xã

hội; Bộ, cơ quan ngang bộ trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình thực

hiện quản lý nhà nước về bảo hiểm xã hội; Bảo hiểm Xã hội Việt Nam tham

gia, phối hợp với Bộ Lao động Thương binh và Xã hội, Bộ Tài chính, Ủy ban

nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương thực hiện quản lý thu, chi, bảo

toàn, phát triển và cân đối quỹ bảo hiểm xã hội; Ủy ban nhân dân các cấp thực

hiện quản lý nhà nước về bảo hiểm xã hội trong phạm vi địa phương theo

phân cấp của chính phủ.

Theo Điều 93, 94, Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014, cơ quan bảo hiểm

xã hội là cơ quan nhà nước có chức năng thực hiện chế độ, chính sách bảo

hiểm xã hội, quản lý và sử dụng các quỹ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo

hiểm thất nghiệp; thanh tra việc đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp,

28

bảo hiểm y tế và nhiệm vụ khác theo quy định. Hệ thống cơ quan bảo hiểm xã

hội được tổ chức thống nhất từ trung ương đến địa phương, ngoài Hội đồng

quản lý bảo hiểm xã hội cấp quốc gia, còn có hệ thống các cơ quan sự nghiệp

như: Bảo hiểm Xã hội Việt Nam, Bảo hiểm Xã hội cấp tỉnh, cấp huyện.

Kết luận Chương 1

Việc nghiên cứu những vấn đề Chương 1 là hết sức quan trọng, đặt nền

tảng vững chắc để nghiên cứu Chương 2 và Chương 3 của Luận văn. Chương

1 tập trung làm rõ cơ sở lý luận và pháp luật về bảo hiểm xã hội tự nguyện; đã

thể hiện được những đặc điểm, vai trò, nguyên tắc điều chỉnh pháp luật bảo

hiểm xã hội tự nguyện, đồng thời còn có những nội dung pháp lý cơ bản về

chế độ, mức đóng, phương thức đóng Bảo hiểm xã hội tự nguyện, nguồn hình

thành quỹ và hệ thống quản lý. Đây là cơ sở, nền tảng cho việc đưa ra một số

kiến nghị hoàn thiện Pháp luật và nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật Bảo

29

hiểm xã hội tự nguyện tại huyện Phú Tân, tỉnh Cà Mau.

Chương 2

THỰC TIỄN THỰC HIỆN PHÁP LUẬT BẢO HIỂM XÃ HỘI

TỰ NGUYỆN TẠI HUYỆN PHÚ TÂN, TỈNH CÀ MAU

2.1. Sơ lược lịch sử phát triển của bảo hiểm xã hội tự nguyện ở Việt Nam

2.1.1. Giai đoạn 1945-1954

Khi cách mạng Tháng 8 thành công, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ

Cộng Hòa, Chính phủ bắt đầu ngay việc xây dựng các chế độ chính sách an

sinh xã hội cho người lao động, trong đó có nội dung về bảo hiểm xã hội. Vấn

đề đó được đề cập tại Điều 13, 14, Hiến pháp 1946 “Quyền lợi của giới cần

lao trí thức và chân tay được đảm bảo và những người công dân già cả hoặc

tàn tật, không làm được việc thì được giúp đỡ”. Tiếp đến, Chính phủ ban

hành Sắc lệnh số 29/SL ngày 13/3/1946; Sắc lệnh số 76/SL ngày 20/5/1950,

cụ thể tại Điều 92 có đề cập: “Sau khi làm việc được 30 năm hay đủ 55 tuổi,

công chức các ngạch thuộc hạng thường trú được về hưu. Đối với công chức

các ngạch thuộc hạng lưu động, hạn về hưu là 50 tuổi hay 25 năm làm việc”.

Đặc điểm chính sách thời kỳ này là do hoàn cảnh kháng chiến gian khổ,

đất nước còn chia cắt, nên việc cụ thể chính sách bảo hiểm xã hội còn hạn

chế, đối tượng áp dụng chưa rộng, mức trợ cấp chưa cao, chủ yếu hỗ trợ cho

cán bộ, công nhân, chiến sĩ kháng chiến bị ốm đau, tai nạn, già yếu. Nhưng

đây là mốc quan trọng nói lên sự quan tâm sâu sắc của Đảng và Nhà nước ta

trong thời kỳ khó khăn này; đây cũng là cơ sở cho sự phát triển về chế độ

chính sách bảo hiểm xã hội của thời gian sau này.

2.1.2. Giai đoạn 1954 - 1995

Giai đoạn này, Chính phủ tiếp tục ban hành Nghị định số 594/TTg ngày

11/12/1957 về thực hiện chế độ mất sức lao động đối với công nhân viên

chức. Đến Hiến pháp 1959, Điều 32 ghi nhận: “Người lao động có quyền

30

được giúp đỡ vật chất khi già yếu, bệnh tật hoặc mất sức lao động. Nhà nước

mở rộng dần các tổ chức bảo hiểm xã hội … để đảm bảo cho người lao động

được hưởng quyền đó”. Tiếp đó, Chính phủ ban hành Nghị định số 218/CP

ngày 27/12/1961 kèm theo Điều lệ Bảo hiểm xã hội tạm thời, để cung cấp các

dịch vụ phúc lợi xã hội cho tất cả cán bộ, viên chức làm việc trong ngành nội

chính, nội vụ, y tế, giáo dục, doanh nghiệp nhà nước; Điều lệ này có thể được

xem là văn bản gốc về quy định đối tượng bảo hiểm xã hội, quỹ bảo hiểm xã

hội. Đến khi thống nhất đất nước 1975, chế độ chính sách bảo hiểm xã hội

được thực hiện thống nhất, đồng bộ cả nước gồm có chế độ: trợ cấp hưu trí,

mất sức lao động và tử tuất, chế độ ốm đau, thai sản và tai nạn lao động,… do

cơ quan, đơn vị và doanh nghiệp đóng góp. Đến Hiến pháp năm 1980 ra đời,

có quy định mở rộng đối tượng hưởng quyền lợi bảo hiểm xã hội gồm cả xã

viên Hợp tác xã. Trong giai đoạn này, Nhà nước chỉ có điều chỉnh Bảo hiểm

xã hội bắt buộc, chưa có quy định đối với Bảo hiểm xã hội tự nguyện; điều

này phù hợp với tình hình đất nước thời đó, kinh tế - xã hội chưa ổn định.

Đến Đại hội lần thứ VI của Đảng (12/1986), Đảng và Nhà nước ta đã

coi chính sách xã hội là một bộ phận quan trọng trong hệ thống chính sách,

một bộ phận cấu thành chiến lược phát triển kinh tế - xã hội; sau Đại hội này

cũng đã thay đổi chủ trương đường lối đổi mới từ nền kinh tế kế hoạch hóa

tập trung sang nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo cơ chế thị trường

có sự quản lý của Nhà nước, nên chính sách bảo hiểm xã hội cũng được thay

đổi theo để phù hợp với tình hình đổi mới của đất nước. Với tiến trình phát

triển đất nước, đến ngày 22/6/1993 Chính phủ ban hành Nghị định số 43/CP

quy định tạm thời chế độ bảo hiểm xã hội; theo đó cũng đã bắt đầu quy định

áp dụng 02 hình thức là bắt buộc và tự nguyện. Có thể thấy giai đoạn này,

mặc dù bảo hiểm xã hội tự nguyện chưa được quy định chi tiết trong một văn

bản pháp luật giá trị cao và cũng chưa được chính thức thừa nhận trên thực tế

nhưng những quy định tại các văn bản trong thời kỳ đó đã tạo tiền đề đầu tiên

31

để xây dựng cơ sở pháp lý về bảo hiểm xã hội tự nguyện cho sau này.

2.1.3. Giai đoạn 1995 đến Luật Bảo hiểm xã hội năm 2006 ra đời và

Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014

Tháng 01/1995 Bộ Luật Lao động có hiệu lực thi hành, theo đó đã dành

một chương quy định về bảo hiểm xã hội. Tiếp đến Chính phủ đã ban hành

Nghị định số 19/CP ngày 16/02/1995 thành lập hệ thống bảo hiểm xã hội Việt

Nam giúp Thủ tướng Chính phủ tổ chức thực hiện các chính sách, chế độ bảo

hiểm xã hội, bảo hiểm y tế và quản lý quỹ bảo hiểm xã hội. Đồng thời, Chính

phủ tiếp tục ban hành 02 Nghị định, Nghị định số 12 ngày 26/01/1995 về điều

lệ bảo hiểm xã hội áp dụng cho công nhân viên chức và người lao động áp

dụng loại hình bảo hiểm xã hội bắt buộc và Nghị định số 15 ngày 15/7/1995

về bảo hiểm xã hội đối với quân sự; cả 02 Nghị định này quy định hình thành

quỹ trên cơ sở thu bảo hiểm xã hội người sử dụng lao động đóng 15% quỹ

tiền lương và người lao động đóng 5% tiền lương hàng tháng; quỹ này được

sử dụng chi cho 05 chế độ. Giai đoạn này việc quản lý quỹ có sự thay đổi

quan trọng, cụ thể là quỹ bảo hiểm xã hội được quản lý tập trung thống nhất

với ngành quản lý và thực hiện các chế độ chính sách, tránh sự phân tán trong

hoạt động như trước năm 1995.

Việc quy định bảo hiểm xã hội tự nguyện trong Bộ Luật Lao động là

một bước tiến mới làm tiền đề cho việc triển khai thực hiện mục tiêu áp dụng

bảo hiểm xã hội tự nguyện đến mọi lao động, mọi tầng lớp xã hội. Mặc dù có

quy định về loại hình này nhưng chỉ mang nguyên tắc chung, chưa có văn bản

pháp quy nào hướng dẫn chi tiết riêng nên quá trình tổ chức thực hiện chưa

được rộng rãi trên phạm vi cả nước, người lao động chưa thấy được nhu cầu

cấp thiết của loại hình này.

Đến ngày 29/6/2006, Quốc hội khóa XI đã thông qua Luật Bảo hiểm xã

hội, trong đó có quy định loại hình bảo hiểm xã hội tự nguyện có hiệu lực từ

ngày 01/8/2008. Luật 2006 đã đánh dấu một tiến trình quan trọng trong việc

32

xác lập cơ sở pháp lý cao nhất để nâng cao hiệu quả thực thi chính sách, chế

độ bảo hiểm xã hội, nó đã bổ sung thêm một số chính sách phù hợp với quá

trình phát triển kinh tế đất nước theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ

nghĩa trong giai đoạn này.

Song, trong quá trình vận hành Luật vào thực tiễn còn nhiều nội dung

của Luật Bảo hiểm xã hội năm 2006 có sự bất cập, không còn phù hợp với

điều kiện kinh tế xã hội, cho nên ngày 20/11/2014 Quốc hội đã thông qua

Luật Bảo hiểm xã hội (Luật số 58/2014/QH13), có hiệu lực thi hành từ ngày

01/01/2016 (một số điểm có hiệu lực từ 1/1/2018), thay thế Luật Bảo hiểm xã

hội năm 2006; đây là một bước tiến về việc đảm bảo quyền con người, chăm

lo cho người lao động có cuộc sống ổn định lâu dài. Luật 2014 này có 09

chương và 125 điều; theo đó Luật đã mở rộng thêm đối tượng tham gia, sửa

đổi nhìn nhận lại một số thuật ngữ, chế độ bảo hiểm xã hội, cụ thể hóa một số

nguyên tắc mới, chính sách, cũng như nội dung quản lý, trách nhiệm của cơ

quan, tổ chức về bảo hiểm xã hội,…

Ngoài ra, Chính phủ còn ban hành Nghị định 134/2015/NĐ-CP ngày

29/12/2015, Bộ Lao động Thương binh và Xã hội ban hành Thông tư số

01/2016/TT-BLĐTBXH, Bảo hiểm Xã hội Việt Nam ban hành Quyết định số

636/QĐ-BHXH ngày 22/4/2016 quy định về hồ sơ và quy trình giải quyết

hưởng các chế độ bảo hiểm xã hội, Quyết định 595/QĐ-BHXH ngày

14/04/2017 về quy trình thu bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất

nghiệp, bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp; quản lý sổ bảo hiểm xã

hội, thẻ bảo hiểm y tế.

Như vậy, Bảo hiểm xã hội tự nguyện ở Việt Nam theo tiến trình lịch sử

từng bước dần được quy định cụ thể trong các văn bản pháp lý có giá trị cao,

được rút kinh nghiệm trong thực tiễn áp dụng Luật sao cho đáp ứng nhu cầu

tốt nhất cho người lao động cũng như triển khai vận hành chính sách thành

33

công trong phạm vi toàn quốc.

2.2. Khái quát tình hình kinh tế xã hội và cơ quan thực hiện pháp luật

bảo hiểm xã hội tự nguyện tại huyện Phú Tân, tỉnh Cà Mau

2.2.1. Khái quát tình hình kinh tế xã hội huyện Phú Tân

Huyện Phú Tân được tái lập vào đầu năm 2004 theo Nghị định số

138/2003/NĐ-CP ngày 17/11/2003 của Chính phủ; gồm 09 đơn vị hành chính

(08 xã và 01 thị trấn). Huyện nằm ở phía Tây Nam của tỉnh Cà Mau; phía Đông

giáp với huyện Cái Nước, phía Tây giáp với Vịnh Thái Lan, phía Nam giáp với

huyện Năm Căn, phía Bắc giáp với huyện Trần Văn Thời; địa bàn huyện có hệ

thống sông ngòi và kênh rạch chằng chịt, dân cư sống phân tán, kết cấu hạ

tầng được quan tâm đầu tư nên không ngừng phát triển, giao thông đi lại

trước đây chủ yếu bằng đường thủy, nay đã từng bước được thay thế bằng

đường bộ. Trung tâm huyện nằm trên trục giao thông Đông - Tây của tỉnh Cà

Mau, đấu nối với trục quốc lộ 1A Cà Mau - Năm Căn; đồng thời huyện nằm

trong hành lang ven biển Tây (vịnh Thái Lan), là vùng chiến lược phát triển

kinh tế biển của tỉnh Cà Mau.

Tổng diện tích tự nhiên của huyện là 46.433,25 ha, có bờ biển dài 32km

với 06 cửa sông ra biển; có khoảng 6.532,98 ha rừng (trong đó đất rừng phòng

hộ 3.230 ha chiếm 49,44% diện tích đất lâm nghiệp, đất rừng sản xuất

3.302,98 ha chiếm 50,56%); có khoảng 39.072 ha diện tích nuôi trồng thủy sản,

với 01 nhà máy chế biến thuỷ sản. Dân số huyện tính đến năm 2020 là 97.721

người, với 24.866 hộ; dân cư nông thôn 85.422 người chiếm 87,41%, dân cư

thành thị 12.299 người chiếm 12,59%. Có ba dân tộc chính: Kinh, Hoa, Khơ-

me. Tổng dân số trong độ tuổi lao động của huyện tính năm 2020 đạt 75.692

người (khoảng 77% dân số). Hộ nghèo trên địa bàn huyện là 353 hộ, với 1.387

khẩu, chiếm tỷ lệ 1,42%; hộ cận nghèo 516 hộ với 2.145 khẩu, chiếm 2,08%;

phần lớn hộ nghèo, hộ cận nghèo ở vùng nông thôn thuộc diện thiếu đất sản

xuất, không có việc làm ổn định, lao động chủ yếu là lao động phổ thông nên

34

thu nhập còn hạn chế. [35].

Tiềm năng, thế mạnh của huyện là nuôi trồng và đánh bắt thuỷ sản.

Người dân sinh sống chủ yếu là nghề nuôi trồng và đánh bắt thủy sản, kinh

doanh dịch vụ và các ngành nghề khác, trình độ dân trí còn thấp. Nhìn chung,

tình hình kinh tế - xã hội ổn định và không ngừng phát triển, an ninh chính trị

và trật tự an toàn xã hội được giữ vững, đời sống vật chất và tinh thần của

nhân dân từng bước được nâng lên.

Huyện đã huy động các nguồn đầu tư, chuyển dịch nhanh cơ cấu kinh tế,

xây dựng kết cấu hạ tầng, tạo động lực phát triển kinh tế - xã hội; kết hợp hài

hòa giữa tăng trưởng kinh tế gắn với giải quyết các vấn đề an sinh xã hội, đặc

biệt là nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, giải quyết việc làm, xoá đói giảm

nghèo, củng cố quốc phòng - an ninh. Đặc biệt, trong điều kiện còn nhiều khó

khăn, những năm qua cùng với sự quan tâm chỉ đạo sâu sát của các cấp ủy đảng,

chính quyền, sự phối hợp của các phòng, ban, ngành, đoàn thể mà trực tiếp là

ngành Bảo hiểm xã hội, các chính sách Bảo hiểm xã hội, Bảo hiểm y tế đã đạt

được những kết quả quan trọng, góp phần to lớn trong việc đảm bảo an sinh xã

hội, phát triển kinh tế trên địa bàn huyện.

2.2.2. Khái quát về cơ quan Bảo hiểm Xã hội huyện Phú Tân

Bảo hiểm xã hội huyện Phú Tân được thành lập theo Quyết định số

1741/QĐ-BHXH ngày 16/12/2003 của Tổng Giám đốc Bảo hiểm xã hội Việt

Nam. Là tổ chức có tư cách pháp nhân, có con dấu, tài khoản và trụ sở riêng.

35

Bảo hiểm xã hội huyện Phú Tân duy trì bởi 12 cán bộ viên chức.

- Về cơ cấu tổ chức:

Sơ đồ 2.1: Tổ chức hoạt động của Bảo hiểm xã hội huyện Phú Tân

Giám đốc Bảo hiểm xã hội huyện

Phó Giám đốc Bảo hiểm xã hội huyện

Phó Giám đốc Bảo hiểm xã hội huyện

CÁC BỘ NGHIỆP VỤ

1. Bộ phận Quản lý thu

2. Bộ phận cấp sổ Bảo hiểm xã hội, thẻ Bảo hiểm y tế

3. Bộ phận chế độ Bảo hiểm xã hội

4. Bộ phận tiếp nhận và Trả kết quả thủ tục hành chính

5. Bộ phận kế toán

6. Bộ phận văn thư, thủ quỹ

[Nguồn: Theo Quyết định số 1414/QĐ -BHXH ngày 04/19/2016

của Bảo hiểm Xã hội Việt Nam]

- Chức năng, nhiệm vụ của các bộ phận như sau:

+ Giám đốc: Quản lý điều hành chung của đơn vị.

+ Phó Giám đốc 1: Phụ trách quản lý bộ phận quản lý thu, bộ phận tiếp

nhận và trả kết quả thủ tục hành chính, khai thác phát triển đối tượng và thu

hồi nợ, công tác văn phòng, công tác kiểm tra.

+ Phó Giám đốc 2: Phụ trách quản lý bộ phận cấp sổ Bảo hiểm xã hội,

thẻ Bảo hiểm y tế, Bộ phận chế độ Bảo hiểm xã hội.

+ Bộ phận thu: Có nhiệm vụ hướng dẫn các đơn vị sử dụng lao động

tham gia bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp; đôn đốc việc

trích nộp bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp trên địa bàn

36

huyện theo phân cấp của Bảo hiểm xã hội tỉnh, lập kế hoạch thu bảo hiểm xã

hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp hàng quý, hàng năm, báo cáo kết quả

thu bảo hiểm xã hội về tỉnh theo quy định.

+ Bộ phận kế hoạch tài chính: Có nhiệm vụ theo dõi và quản lý hoạt

động tài chính của đơn vị .

+ Bộ phận chế độ chính sách: Có nhiệm vụ giải quyết các chính sách

chế độ bảo hiểm xã hội như ốm đau, thai sản, nghỉ dưỡng sức phục hồi sức

khỏe, tai nạn lao động bệnh nghề nghiệp.

+ Bộ phận sổ, thẻ: có nhiệm vụ in sổ bảo hiểm xã hội cho người lao

động tham gia bảo hiểm xã hội và in thẻ bảo hiểm y tế cho các đối tượng

được Bảo hiểm xã hội tỉnh phân cấp.

+ Bộ phận tiếp nhận và trả kết quả thủ tục hành chính: có nhiệm vụ

tiếp nhận tất cả các hồ sơ liên quan đến bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế và trả

kế quả đúng thời gian quy định.

+ Bộ phận văn thư, lưu trữ: có nhiệm vụ xử lý văn bản đến và văn đi

cho tất cả các nghiệp vụ liên quan, đồng thời lưu trữ đầy đủ hồ sơ.

Bảo hiểm xã hội huyện Phú Tân là cơ quan trực thuộc Bảo hiểm xã hội

tỉnh Cà Mau, có chức năng giúp Giám đốc Bảo hiểm xã hội tỉnh tổ chức thực

hiện chế độ, chính sách bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế; quản lý thu, chi bảo

hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp trên địa bàn huyện theo quy

định. Đơn vị chịu sự quản lý trực tiếp, toàn diện của Giám đốc Bảo hiểm xã

hội tỉnh và chịu sự quản lý hành chính nhà nước của Ủy ban nhân dân huyện.

Cụ thể chức năng, nhiệm vụ chủ yếu của cơ quan như:

- Xây dựng trình Giám đốc Bảo hiểm xã hội tỉnh kế hoạch phát triển

bảo hiểm xã hội huyện dài hạn, ngắn hạn và chương trình công tác hàng năm;

tổ chức thực hiện kế hoạch, chương trình sau khi được phê duyệt.

- Thực hiện công tác thông tin, tuyên truyền, phổ biến các chế độ,

37

chính sách, pháp luật về bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế.

- Tổ chức thực hiện các nhiệm vụ theo phân cấp của Bảo hiểm xã hội

Việt Nam và cấp tỉnh: Cấp sổ bảo hiểm xã hội, thẻ bảo hiểm y tế, bảo hiểm

thất nghiệp cho những người tham gia bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế. Khai

thác, đăng ký, quản lý các đối tượng tham gia và hưởng chế độ; thu các khoản

đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp đối với các tổ

chức và cá nhân tham gia, từ chối việc đóng các chế độ không đúng quy định.

Kiểm tra việc ký hợp đồng, việc đóng, trả bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo

hiểm thất nghiệp đối với cơ quan, đơn vị, tổ chức sử dụng lao động;

- Thực hiện chương trình, kế hoạch cải cách hành chính theo chỉ đạo,

hướng dẫn của Bảo hiểm xã hội tỉnh. Tổ chức triển khai hệ thống quản lý chất

lượng theo Tiêu chuẩn quốc gia TCVN ISO 9001: 2008 vào hoạt động của

Bảo hiểm xã hội huyện.

- Chủ trì, phối hợp với các cơ quan nhà nước, các tổ chức chính trị - xã

hội trên địa bàn, với các tổ chức, cá nhân tham gia bảo hiểm xã hội, bảo hiểm

y tế để giải quyết các vấn đề có liên quan đến việc thực hiện các chế độ bảo

hiểm xã hội, bảo hiểm y tế theo quy định.

- Đề xuất, kiến nghị, phối hợp với cơ quan nhà nước có thẩm quyền

thanh tra, kiểm tra các tổ chức, cá nhân trong việc thực hiện các chế độ bảo

hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp.

- Có quyền khởi kiện vụ án dân sự để yêu cầu tòa án bảo vệ lợi ích

công cộng, lợi ích nhà nước trong lĩnh vực bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế

trên địa bàn.

- Cung cấp đầy đủ và kịp thời thông tin về việc đóng, quyền được

hưởng các chế độ, thủ tục thực hiện chính sách bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y

tế khi người lao động, người sử dụng lao động hoặc tổ chức công đoàn yêu

cầu; cung cấp đầy đủ và kịp thời tài liệu, thông tin liên quan theo yêu cầu của

38

cơ quan nhà nước có thẩm quyền.

- Định kỳ 6 tháng, phối hợp với cơ quan quản lý nhà nước về lao động

ở địa phương cập nhật thông tin về tình hình sử dụng lao động trên địa bàn.

Phối hợp với cơ quan thuế cập nhật mã thuế của tổ chức, cá nhân; định kỳ

hàng năm, cập nhật thông tin do cơ quan thuế cung cấp về chi phí tiền lương

để tính thuế của doanh nghiệp hoặc tổ chức.

- Tham gia nghiên cứu khoa học, thực hiện chế độ thông tin, thống kê,

báo cáo, thi đua khen thưởng theo phân cấp của Bảo hiểm xã hội tỉnh.

Bảo hiểm xã hội huyện Phú Tân đi vào hoạt động độc lập vào tháng 01

năm 2004 với chỉ tiêu biên chế là 04 người, do mới thành lập nên các viên

chức, người lao động phải làm việc với một khối lượng công việc rất lớn.

Hơn nữa cơ sở vật chất còn nhiều thiếu thốn, đội ngũ cán bộ mới chuyển sang

chưa có kinh nghiệm nên gặp không ít những khó khăn. Nhưng với sự quyết

tâm cố gắng, với nhận thức đúng đắn của cán bộ về công tác bảo hiểm xã hội

là chính sách lớn của Đảng và Nhà nước, liên quan đến các chế độ chính sách

của người lao động trong xã hội. Do vậy, hơn suốt 16 năm qua Bảo hiểm xã

hội huyện Phú Tân đã luôn phấn đấu và hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được

cấp trên giao, tạo sự tin tưởng cho người lao động tham gia bảo hiểm xã hội;

mỗi viên chức, người lao động trong cơ quan luôn đoàn kết, nỗ lực cố gắng

vượt qua những thách thức, khó khăn, vướng mắc để dần dần từng bước phát

triển đi lên không ngừng lớn mạnh về mọi mặt. Đến nay, đội ngũ viên chức,

người lao động dần dần được tăng cường, hiện tại số viên chức, người lao

động của Bảo hiểm xã hội huyện Phú Tân, tỉnh Cà Mau là 12 người (Nam là

06 người; Nữ có 06 người). Tất cả số viên chức, người lao động này đều có

trình độ Đại học, cao đẳng chuyên môn nghiệp vụ vững vàng, có đầy đủ

phẩm chất đạo đức và năng lực tận tụy với công việc, nhiệm vụ được giao.

Cơ sở vật chất của các đơn vị được xây dựng khang trang, phương tiện làm

việc đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ đặt ra, đạt nhiều thành tích quan trọng trên

39

các lĩnh vực.

2.3. Thực tiễn thực hiện pháp luật bảo hiểm xã hội tự nguyện tại huyện

Phú Tân, tỉnh Cà Mau

2.3.1. Những kết quả đạt được trong thực hiện pháp luật bảo hiểm xã

hội tự nguyện tại huyện Phú Tân

2.3.1.1. Về thực hiện quy định đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội tự

nguyện

Với dân số 97.721 người, người dân sinh sống chủ yếu là nghề nuôi

trồng và đánh bắt thủy sản, kinh doanh dịch vụ và các ngành nghề khác; trình

độ dân trí thấp, đời sống của một bộ phận nhân dân còn gặp nhiều khó khăn.

Cho nên số người chưa tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện còn rất lớn. Phần

lớn người tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện chủ yếu là người nông dân,

người lao động tự do, hộ kinh doanh nhỏ lẻ,.... Với rất nhiều nỗ lực phấn đấu,

trong thời gian vừa qua, Bảo hiểm xã hội huyện Phú Tân đã đạt và vượt một

số chỉ tiêu kế hoạch cơ bản về phát triển đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội

tự nguyện. Cụ thể như sau:

- Về số đối tượng tham gia: Đến tháng 12/2018, tổng số người tham gia

bảo hiểm xã hội tự nguyện là 1.355 người, tăng 357 người so với năm 2017,

vượt 108,2% so với kế hoạch giao [3]. Đến tháng 12/2019 tổng số người tham

gia bảo hiểm xã hội tự nguyện là 1.750 người, tăng 395 người so với năm

2018, vượt 110,01% so với kế hoạch giao [4]. Đến tháng 12/2020 tổng số

người tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện là 1.926 người, tăng 176 người so

với năm 2019, vượt 101,9% so với kế hoạch giao [5].

Số liệu năm 2020 có tăng nhưng so với các năm trước thì không cao,

nguyên nhân là việc phát triển đối tượng bảo hiểm xã hội tự nguyện đã phải

đối mặt với một thách thức lớn khi dịch Covid-19 bùng phát trên thế giới và

tác động trực tiếp tới Việt Nam gây thiệt hại nặng nề về kinh tế - xã hội, thu

nhập của người dân có phần giảm sút, nhiều người lâm vào khó khăn tài

40

chính, cuộc sống nên trước mắt họ không thể tiếp tục tham gia bảo hiểm xã

hội tự nguyện; các hoạt động truyền thông, vận động người dân tham gia bảo

hiểm xã hội tự nguyện cũng phải tạm hoãn để thực hiện giãn cách xã hội…

dẫn đến số người tham gia có sự sụt giảm.

Theo Bảo hiểm xã hội huyện, tỉ lệ người lao động tham gia bảo hiểm xã

hội tự nguyện tham gia không điều nhau tại các xã, thị trấn; tham gia nhiều

nhất là xã Phú Mỹ, Phú Thuận và thị trấn Cái Đôi Vàm; do các địa phương

này có dân số đông, điều kiện thuận lợi dễ dàng tiếp cận với các thông tin về

bảo hiểm xã hội tự nguyện cũng như thu nhập của người dân ổn định và cao

hơn, nên họ có khả năng tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện lâu dài.

Các xã còn lại tuy số người tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện cũng

khá cao, nhưng nhìn chung vẫn còn thấp so với tiềm năng của đại phương. Sự

chênh lệch về đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện ở các xã, thị trấn

không đáng kể, dao động từ 100 người tham gia đến 300 người tham gia,

chiếm chưa tới 0,5% dân số của địa phương. Những năm đầu khi mới triển

khai thực hiện pháp luật bảo hiểm xã hội tự nguyện, số người lao động tham

gia vẫn còn là những con số khiêm tốn, khoảng 360 người (năm 2014), thì

đến hết năm 2020 số đối tượng tham gia đã lên đến 1.926 người. Được kết

quả này, đó là sự phấn đấu, nổ lực của cơ quan Bảo hiểm xã hội huyện.

- Độ tuổi tham gia chiếm phần đông là từ 40 tuổi trở lên. Ngoài ra, theo

Bảo hiểm xã hội huyện Phú Tân, số người thuộc đối tượng tham gia bảo hiểm

xã hội tự nguyện theo ngành nghề có sự khác nhau, phần lớn là người nông

dân và hộ kinh doanh nhỏ lẻ,... Số người tham gia hoạt động trong lĩnh vực

nông lâm ngư nghiệp chiếm 49,09%, kế đó là lao động kinh doanh tự do nhỏ

lẻ chiếm 18,63%, lao động tự do chiếm 17,20%, còn lại chiếm 15,09%.

2.3.1.2. Về thực hiện quy định đóng bảo hiểm xã hội tự nguyện

Do số lượng người tham gia bảo hiểm xã hội ngày càng tăng lên, nên

nguồn thu quỹ bảo hiểm xã hội nói chung, bảo hiểm xã hội tự nguyện trên địa

41

bàn huyện cũng gia tăng. Mức thu thực hiện theo đúng quy định của pháp

luật. Việc thu bảo hiểm xã hội tự nguyện có thể thu tiền theo tháng/quý hoặc

năm. Cụ thể như sau:

Đến cuối tháng 12/2018 số thu bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo

hiểm thất nghiệp với số tiền 81,050 tỷ đồng, đạt 118,25% so với năm 2017 và

đạt 105,21% so với kế hoạch tỉnh giao. Trong đó, thu bảo hiểm xã hội tự

nguyện là 2,1 tỷ đồng, chiếm 2,5% trong tổng số tiền thu. [3]

Tính đến tháng 12/2019 số thu bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo

hiểm thất nghiệp được 97,115 tỷ đồng, đạt 119,78% so với năm 2018 và đạt

100,28% so với kế hoạch tỉnh giao. Trong đó, thu bảo hiểm xã hội tự nguyện

là 2,92 tỷ đồng, chiếm 2,99% tổng số tiền thu. [4]

Đến cuối tháng 12/2020 số thu bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo

hiểm thất nghiệp được 106,989 tỷ đồng, đạt 110,17% so với năm 2019 và đạt

100,02% so với kế hoạch tỉnh giao. Trong đó, thu bảo hiểm xã hội tự nguyện

là 3,58 tỷ đồng, chiếm 3,34% trong số tiền thu. [5]

Như vậy, từ năm 2018 đến hết năm 2020, Bảo hiểm xã hội huyện Phú

Tân đã thu được số tiền bảo hiểm xã hội tự nguyện tăng hàng năm, năm sau

cao hơn năm trước và luôn đạt được kế hoạch bảo hiểm xã hội của tỉnh đề ra.

Tuy nhiên, ở một số xã, thị trấn số người tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện

không tăng nhiều về số lượng người tham gia, nhưng số tiền thu bảo hiểm xã

hội tự nguyện vẫn tăng. Có được mức tăng này là do người dân đã có ý thức

tham gia và lựa chọn cho mình mức đóng cao hơn, nhằm đảm bảo cho bản

thân quyền lợi cao hơn sau này khi về hưu hay thụ hưởng các chế độ của bảo

hiểm xã hội tự nguyện. Tuy vậy, số tiền thu bảo hiểm xã hội tự nguyện tăng

không nhiều chiếm 15 - 20% so với số tiền thu bảo hiểm xã hội.

Nhờ hoạt động thu bảo hiểm xã hội, trong đó có bảo hiểm xã hội tự

nguyện và quản lý tài chính được thực hiện chặt chẽ, đảm bảo an toàn, thuận

42

tiện nên quỹ bảo hiểm xã hội tiếp tục được cân đối và kết dư để dự phòng.

2.3.1.3. Về thực hiện quy định chi trả, giải quyết chế độ bảo hiểm xã

hội tự nguyện

Những năm qua, Bảo hiểm xã hội huyện Phú Tân thực hiện tốt công tác

chi trả chế độ bảo hiểm xã hội. Với cơ chế liên thông giữa bảo hiểm xã hội tự

nguyện và bắt buộc theo quy định của Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014 đã tạo

điều kiện cho một bộ phận không nhỏ người lao động không đủ điều kiện về

thời gian đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc có cơ hội tiếp tục tham gia bảo hiểm

xã hội tự nguyện, để đủ điều kiện hưởng lương hưu hàng tháng khi hết tuổi

lao động. Đây là một trong những mặt tích cực của chế độ bảo hiểm xã hội tự

nguyện, nhằm hạn chế việc người lao động nhận bảo hiểm xã hội một lần

trong bảo hiểm xã hội bắt buộc và tạo cơ hội cho họ tiếp tục tham gia bảo

hiểm xã hội tự nguyện để về sau nhận chế độ hưu trí hàng tháng.

Theo báo cáo thống kê năm 2018, 2019 của Bảo hiểm xã hội huyện thì

số liệu giải quyết chế độ, chính sách bảo hiểm xã hội tự nguyện gộp chung

với bảo hiểm xã hội, không có tách riêng loại hình tự nguyện, cụ thể như sau:

Đến tháng 12/2018, tổng số người do huyện và tỉnh giải quyết có 1.850

người, tăng 173 người so với cùng kỳ năm trước (trong đó: Hưởng bảo hiểm

xã hội hàng tháng 255 người; Hưởng trợ cấp 1 lần 771 lượt người; Hưởng

trợ cấp ốm đau, thai sản, dưỡng sức 68 người). Tổng số chi bảo hiểm xã hội,

bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp trong năm 2018 là: 29 tỷ 877,6 triệu

đồng, trong đó chi bảo hiểm xã hội từ Quỹ bảo hiểm xã hội tự nguyện là 435

triệu 982 ngàn đồng. [3]

Đến tháng 12/2019, tổng số giải quyết hưởng các chế độ bảo hiểm xã

hội là 1.355 lượt người, so với cùng kỳ năm trước tăng 138 người (trong

đó: Hưởng một lần có 684 người, so với cùng kỳ giảm 73 người; Hưởng

ốm đau có 367 lượt người, so với cùng kỳ tăng 92 lượt người; Hưởng thai

sản có 240 lượt người, so với cùng kỳ tăng 37 lượt người; Hưởng dưỡng

43

sức phục hồi sức khỏe có 64 người so với cùng kỳ tăng 19 lượt người). Chi

trả bảo hiểm xã hội một lần qua Bưu điện trong năm 2019 có 684 người,

239 hưởng qua tài khoản ngân hàng ATM chiếm 34,9% trong tổng số

người hưởng, còn lại 445 người nhận trực tiếp bằng tiền mặt chiếm 65,1%.

Tổng số chi bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp trong

năm là 30 tỷ 795,6 triệu đồng, so với cùng kỳ tăng hơn 599 triệu đồng,

trong đó chi bảo hiểm xã hội là 29 tỷ 372,9 triệu đồng. [4]

Đến hết tháng 12/2020, Bảo hiểm xã hội huyện đã tiếp nhận và giải

quyết chế độ bảo hiểm xã hội cho hàng trăm lượt người, trong đó có quản lý

và chi trả kịp thời, đúng chế độ chính sách cho khoảng 50 người hưởng lương

hưu. Tổng số chi bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp năm

2020 trên 40,856 tỷ đồng. Số người hưởng chế độ một lần và hưu trí nhận qua

tài khoản cá nhân ngân hàng (ATM) đạt 100%. [5]

Về giải quyết chế độ tử tuất trong bảo hiểm xã hội tự nguyện: Do loại

hình tự nguyện được thực hiện trong mấy năm gần đây nên việc chưa có

nhiều trường hợp giải quyết chi trả chế độ tử tuất. Song, nhìn chung cơ bản

việc thụ hưởng chế độ trợ cấp mai táng và tử tuất một lần được thực hiện

đúng quy định, đáp ứng được nhu cầu cần thiết trong thời điểm khó khăn của

thân nhân người lao động.

2.3.1.4. Về thực hiện quy định thủ tục giải quyết chế độ bảo hiểm xã hội

tự nguyện

Cho đến thời điểm này, Bảo hiểm xã hội huyện Phú Tân đang từng

bước cải cách thực hiện thủ tục giải quyết chế độ bảo hiểm xã hội tự nguyện

theo hướng đơn giản và thuận tiện hơn cho người lao động hưởng bảo hiểm

xã hội nói chung và bảo hiểm xã hội tự nguyện nói riêng, thông qua việc ký

kết thỏa thuận hợp tác với các cơ quan tổ chức khác giúp thúc đẩy quá trình

thực thi chính sách bảo hiểm xã hội tự nguyện thuận lợi.

Hoàn thiện các văn bản pháp lý, cải cách thủ tục hành chính trong khâu

44

quản lý đối tượng, thu và giải quyết chế độ bảo hiểm xã hội, trong đó có bảo

hiểm xã hội tự nguyện cho đối tượng theo hướng tăng cường sử dụng hồ sơ

điện tử và dịch vụ công trực tuyến trên mạng internet. Xây dựng hệ thống ứng

dụng công nghệ thông tin kết nối với Bảo hiểm xã hội tỉnh Cà Mau.

Theo Báo cáo của Bảo hiểm xã hội huyện Phú Tân tiếp nhận và giải

quyết chế độ cho người lao động hưởng bảo hiểm xã hội, trong đó có bảo

hiểm xã hội tự nguyện, quá trình được thực hiện theo cơ chế “Một cửa”. Tính

đến cuối năm 2018, Bảo hiểm xã hội huyện đã tiếp nhận hơn 15.200 lượt giao

dịch với hơn 10.000 hồ sơ, tăng 6,86% so với cùng kỳ năm trước. Tỷ lệ hồ sơ

giải quyết đúng hẹn 97.77%, chưa đúng hẹn là 2,23%, giảm 0,42% so với

cùng kỳ năm 2017. [3]

Công tác tiếp nhận hồ sơ, giao dịch điện tử trong năm 2019, với tổng số

hồ sơ tiếp nhận là xấp xỉ 28.250 hồ sơ; trong đó hồ sơ giao dịch điện tử

27.320 hồ sơ (tỷ lệ 56,7% trên tổng số hồ sơ tiếp nhận) [4]. Đến cuối năm

2020 công tác tiếp nhận và giải quyết thủ tục hưởng bảo hiểm xã hội, trong đó

có bảo hiểm xã hội tự nguyện tăng lên. Cụ thể trong năm Bảo hiểm xã hội

huyện đã tiếp nhận 40.150 lượt giao dịch với hơn 40.000 hồ sơ giải quyết chế

độ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, tỷ lệ giao dịch điện tử chiếm trên 97,83%.

Bảo hiểm xã hội huyện Phú Tân thực hiện tiếp nhận hồ sơ giải quyết chế độ

bảo hiểm xã hội bằng ba hình thức giao dịch, trong đó giao dịch điện tử chiếm

97,83%, qua bưu chính chiếm 1.16%, trực tiếp chiếm 1.01%. [5]

2.3.1.5. Hoạt động phổ biến, tuyên truyền pháp luật về bảo hiểm xã hội

tự nguyện trên địa bàn huyện Phú Tân

Ban Giám đốc Bảo hiểm xã hội huyện luôn chú trọng xây dựng mục

tiêu trọng tâm với những chỉ tiêu cụ thể, có kế hoạch thực hiện và phân công

nhiệm vụ phù hợp và rõ ràng, tạo sự phối hợp gắn kết chặt chẽ và hiệu quả

giữa các bộ phận nghiệp vụ, giữa các cá nhân. Cán bộ viên chức không ngừng

đổi mới, cải tiến trong hoạt động chuyên môn: thường xuyên rà soát để kịp

45

thời phát hiện và khắc phục các vướng mắc, bất cập; khuyến khích mọi viên

chức tìm ra các giải pháp hay nâng cao hiệu quả công việc,…. Ngoài ra, thực

hiện cấp mã số bảo hiểm xã hội cho người tham gia bảo hiểm xã hội, đồng bộ

mã số sổ bảo hiểm xã hội, thẻ bảo hiểm y tế và dữ liệu hộ gia đình để đáp ứng

yêu cầu về quản lý cơ sở dữ liệu tập trung trên toàn quốc. Triển khai thực hiện

rà soát và bàn giao sổ bảo hiểm xã hội cho người lao động nhằm góp phần

công khai, minh bạch thông tin, quá trình đóng bảo hiểm xã hội. Đẩy mạnh

ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý và các hoạt động nghiệp vụ.

Đồng thời, tích cực tranh thủ sự quan tâm, ủng hộ của cấp ủy, chính

quyền địa phương; tăng cường công tác phối hợp với các phòng, ban, ngành,

đoàn thể các cấp trong việc triển khai thực hiện chính sách bảo hiểm xã hội tự

nguyện trên địa bàn. Cơ quan Bảo hiểm xã hội huyện thường xuyên cung cấp

thông tin, tài liệu về chính sách, pháp luật bảo hiểm xã hội, đặc biệt là bảo

hiểm xã hội tự nguyện; tích cực đẩy mạnh các hoạt động phổ biến, tuyên

truyền, triển khai chính sách bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế cho người dân,

doanh nghiệp; định kỳ hàng tháng, hàng quý đánh giá kết quả thực hiện.

Đặc biệt, từ khi tiếp thu Nghị quyết số 21-NQ/TW của Bộ Chính trị “về

tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác Bảo hiểm xã hội, Bảo

hiểm y tế giai đoạn 2012 - 2020”, Bảo hiểm xã hội huyện đã tranh thủ với cấp

ủy huyện và Ủy ban nhân dân huyện đã tổ chức các buổi hội nghị quán triệt

các quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp của Nghị quyết số 21-

NQ/TW và Kế hoạch số 62-KH/HU ngày 29-3-2013 của Ban Thường vụ

Huyện ủy về tổ chức thực hiện Nghị quyết số 21-NQ/TW gắn với thông tin

triển khai những điểm mới của Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014, Luật Bảo

hiểm y tế sửa đổi năm 2014 cho cán bộ chủ chốt của huyện được 05 cuộc, có

hơn 795 lượt đồng chí tham gia; phối hợp với các cơ quan Mặt trận Tổ quốc –

đoàn thể, các xã, thị trấn tổ chức tuyên truyền, phổ biến đến cán bộ, đảng

viên, đoàn viên, hội viên, các tầng lớp nhân dân trong toàn huyện được 21

46

cuộc, có hơn 3.000 lượt người tham gia. Lắp đặt 08 pano, 21 băng rôn tuyên

truyền tại một số nơi đông dân cư; phát hành hơn 25.000 tờ rơi tuyên truyền

về Bảo hiểm y tế học sinh, Bảo hiểm y tế hộ gia đình; 9.000 tờ rơi “Những

điều cần biết về Bảo hiểm xã hội bắt buộc, Bảo hiểm xã hội tự nguyện”,...[18]

Đồng thời, vào tháng 3 năm 2019 tại Bảo hiểm xã hội huyện Phú Tân,

Uỷ ban nhân dân huyện và Bảo hiểm xã hội tổ chức Hội nghị phối hợp công

tác tuyên truyền thực hiện chính sách pháp luật về bảo hiểm xã hội, bảo hiểm

y tế, bảo hiểm thất nghiệp. Hoạt động này nhằm tăng cường sự phối hợp giữa

hai đơn vị trong chỉ đạo và tổ chức các hoạt động tuyên truyền, phổ biến Luật

Bảo hiểm xã hội; hướng tới mục tiêu chung là mọi người lao động đều tham

gia bảo hiểm xã hội và toàn dân tham gia bảo hiểm y tế, đảm bảo quyền lợi

chính đáng và hợp pháp của người tham gia bảo hiểm xã hội.

2.3.2. Một số tồn tại, hạn chế và nguyên nhân

2.3.2.1. Tồn tại, hạn chế

- Việc phổ biến, quán triệt các chủ trương của Đảng, chính sách pháp

luật của Nhà nước về công tác Bảo hiểm xã hội nói chung và bảo hiểm xã hội

tự nguyện nói riêng ở một số cấp ủy đảng, chính quyền chưa sâu rộng, có nơi

còn mang tính hình thức, chưa thường xuyên, công tác phối hợp giữa các cơ

quan liên quan chưa thật sự tốt. Công tác tuyên truyền đôi lúc thiếu sự linh

hoạt trong vận dụng kết hợp nhiều hình thức sao cho tác động trực tiếp đến

đối tượng tham gia một cách nhanh chóng, dễ hiểu.

- Đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện trên địa bàn huyện Phú

Tân số lượng người tham gia chưa nhiều. Tỷ lệ lao động tham gia Bảo hiểm

xã hội bắt buộc, tự nguyện còn thấp (đạt 3,49%) so với chỉ tiêu Nghị quyết

(đến năm 2020: có 50% lực lượng lao động tham gia Bảo hiểm xã hội, 35%

lực lượng lao động tham gia Bảo hiểm tự nguyện và trên 90% dân số tham

gia Bảo hiểm y tế) [18]. Mặc khác, theo quy định pháp luật về đối tượng, thì

47

việc liệt kê cụ thể từng đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện sẽ dễ

xảy ra thiếu sót đối tượng khi áp dụng trong thực tiễn xã hội, bởi thực tiễn xã

hội luôn vận động nên đôi khi không thể hình dung hết sự kiện phát sinh.

Theo báo cáo từng năm cho thấy về phát triển bảo hiểm xã hội tự

nguyện tuy đạt chỉ tiêu Huyện giao, nhưng có năm chưa đạt chỉ tiêu tỉnh giao.

Song những năm gần đây, số lượng người lao động tham gia bảo hiểm xã hội

tự nguyện trên địa bàn huyện Phú Tân đã tăng so với những năm trước đây và

chiếm tỷ lệ khá hơn so với các huyện khác trong tỉnh Cà Mau. Nhưng so với

gần 100 ngàn dân của huyện thì tỷ lệ người tham gia bảo hiểm xã hội tự

nguyện vẫn còn thấp, cụ thể đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện

còn thấp ở một số xã, thị trấn như: Tân Hưng Tây, Phú Tân, Rạch Chèo.

Đa phần, các đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện là các thân

nhân cán bộ trong xã hoặc huyện hay là những tiểu thương buôn bán ở các

chợ và những người đã tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc một số năm, tiếp

tục tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện để đủ điều kiện hưởng chế độ hưu trí.

Còn người lao động tự do, không ổn định nghề nghiệp chưa nhiều người tham

gia. Sau hơn 12 năm triển khai thực hiện pháp luật bảo hiểm xã hội tự

nguyện, tính đến 31/12/2020 toàn huyện mới chỉ có 1.926 người tham gia bảo

hiểm xã hội tự nguyện đạt 1.97% dân số của huyện.

- Người lao động chưa hiểu hết vai trò đặc điểm, lợi ích của bảo hiểm

xã hội tự nguyện, không mặn mà tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện; đặc

biệt là họ chưa hiểu rõ tính lợi ích mang tính lâu dài của loại hình này, trong

khi đó là tâm lý của người dân chủ yếu là thấy được cái lợi trước mắt.

- Chế độ bảo hiểm xã hội tự nguyện chưa thực sự hấp dẫn đối với

người lao động, còn thiếu những cơ chế ưu đãi thu hút và chính sách thêm chế

độ hưởng quyền lợi hỗ trợ người lao động; đặc biệt là lao động có hoàn cảnh

khó khăn, thu nhập không ổn định, người không đủ điều kiện về tuổi tham gia

48

bảo hiểm xã hội tự nguyện.

- Công tác phối hợp giữa Bảo hiểm xã hội huyện với các phòng, ban,

ngành liên quan và với chính quyền xã, thị trấn trong việc phát triển đối tượng

và thực hiện chế độ chính sách bảo hiểm xã hội nói chung, bảo hiểm xã hội tự

nguyện nói riêng thì chưa được thường xuyên, liên tục, đôi lúc thiếu chặt chẽ.

Do đó, hiệu quả triển khai thực hiện chính sách mang lại chưa cao.[18]

- Công tác tổ chức quản lý, thao tác nghiệp vụ, vận hành bộ máy cơ

quan Bảo hiểm xã hội huyện còn nhiều khó khăn như: Việc phân quyền quản

lý nghiệp vụ trên hệ thống cho cơ sở (cơ quan Bảo hiểm xã hội huyện) còn

hạn chế; thiếu biên chế chuyên trách phụ trách công tác tuyên truyền vận

động; cộng tác viên truyền thông còn thiếu; chất lượng chuyên môn nghiệp vụ

của một vài cán bộ viên chức chuyên trách còn hạn chế về kỹ năng thuyết

phục, nắm các chế độ cũng như nghiệp vụ chưa vững.

- Người tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện không chủ động cập nhật

thông tin thường xuyên, khi họ có thông tin cá nhân thay đổi; chưa nắm bắt

cũng như chưa biết sử dụng ứng dụng giao dịch điện tử cấp độ 4. Việc này

cũng gây khó khăn trong công tác theo dõi, quản lý đối tượng tham gia.

2.3.2.2. Nguyên nhân

- Huyện Phú Tân là huyện vùng sâu, vùng xa, được tái lập vào năm

2004; đời sống người dân còn khó khăn, kết cấu hạ tầng chưa được đầu tư

hoàn thiện, kinh tế xã hội phát triển không nhanh bằng so với một số huyện

khác trên địa bàn tỉnh Cà Mau. Lao động chủ yếu lao động nông thôn, chưa

qua đào tạo, sinh sống chủ yếu bằng nghề đánh bắt, nuôi trồng thủy hải sản là

chính, thu nhập thiếu tính ổn định, phụ thuộc nhiều mùa vụ, giá cả thị trường

các mặt hàng thủy sản. Song tại một số xã, đời sống nhân dân đang từng bước

cải thiện nhưng vấn đề an sinh xã hội chưa được đề cao, cụ thể như xã: Phú

Tân, Tân Hải, Rạch Chèo, Tân Hưng Tây,...

- Nguyên nhân chính dẫn đến số đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội tự

49

nguyện còn thấp không phải do thu nhập của người lao động chưa ổn định,

mà còn do người dân chưa được thường xuyên tiếp cận với chính sách bảo

hiểm xã hội tự nguyện, mức độ hiểu biết về loại hình này còn hạn chế, cụ thể

là người lao động chưa hiểu biết sâu rộng về vai trò đặc điểm, lợi ích lâu dài

của bảo hiểm xã hội tự nguyện cũng như chưa thấy được ý nghĩa, nhu cầu cần

thiết khi mà họ không may bị xảy ra sự cố ngoài ý muốn. Có nhiều người đôi

lúc còn nhầm tưởng bảo hiểm xã hội tự nguyện với bảo hiểm thương mại; và

khi họ chưa hiểu rõ thì khó có thể vận động kêu gọi họ tham gia. Mặt khác,

đối với những trường hợp có nguồn thu nhập ổn định, cao, nhưng người dân

chỉ muốn đến gửi ngân hàng hoặc đầu tư vào kênh khác có lợi nhuận nhiều.

- Pháp luật về bảo hiểm xã hội tự nguyện quy định chế độ chính sách

còn ít, chưa thật sự thu hút người tham gia. Nguyên nhân: Pháp luật đưa ra

những quy định về điều kiện hưởng các chế độ như: trợ cấp mai táng, trợ cấp

tuất hàng tháng khắt khe hơn so với bảo hiểm xã hội bắt buộc (như quy định

trợ cấp mai táng của bảo hiểm xã hội tự nguyện phải đóng 5 năm, trong khi

đó điều kiện hưởng trợ cấp mai táng của bảo hiểm xã hội bắt buộc thì không

có; hay là điều kiện hưởng trợ cấp tuất hàng tháng là phải có 15 năm đóng

bảo hiểm xã hội bắt buộc và tiếp tục tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện mới

được hưởng chế độ này). Đồng thời, quy định những đối tượng lao động có

độ tuổi từ 45 trở lên đối với nam và từ 40 tuổi đối với nữ là những đối tượng

không được hưởng chế độ hưu trí hằng tháng khi đến tuổi nghỉ hưu theo quy

định (vì thời gian tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện chưa đủ 20 năm); vấn

đề này sẽ làm rào cản phát triển số lượng người tham gia, bởi lẽ đây là độ tuổi

họ đã biết lo cho cuộc sống tương lai, có kinh nghiệm trong việc kiếm sống,

thu nhập tương đối ổn định nên họ về cơ bản sẽ có nhu cầu tham gia. Ngoài

ra, loại hình tự nguyện chỉ bao gồm chế độ hưu trí và chế độ tử tuất, không có

chế độ thai sản, ốm đau, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp,... Chính vì vậy,

chính sách bảo hiểm xã hội tự nguyện có sự phân biệt với bảo hiểm xã hội bắt

50

buộc; do đó chưa thật sự khuyến khích người lao động tham gia.

Người lao động chỉ được hưởng có hai chế độ hưu trí và tử tuất nhưng

lại quy định thời gian đóng bảo hiểm xã hội để được hưởng lương hưu phải từ

đủ 20 năm trở lên và có tuổi đời 60 tuổi đối với nam, 55 tuổi đối với nữ theo

Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014, cho thấy quá dài. Nhưng, thời gian tới theo

Bộ Luật Lao động năm 2019 và Nghị định số 135/2020/NĐ-CP ngày

16/11/2020 của Chính phủ quy định về tuổi nghỉ hưu, thì tuổi nghỉ hưu lại

điều chỉnh theo lộ trình tăng lên, cho đến khi đủ 62 tuổi đối với lao động nam

vào năm 2028 và đủ 60 tuổi đối với lao động nữ vào năm 2035 (cụ thể là từ

ngày 01/01/2021, tuổi nghỉ hưu của người lao động trong điều kiện lao động

bình thường là đủ 60 tuổi 03 tháng đối với nam, đủ 55 tuổi 04 tháng đối với

nữ; sau đó cứ mỗi năm tăng thêm 03 tháng đối với nam và 04 tháng đối với

nữ), như vậy độ tuổi hưu sẽ kéo dài hơn nửa, gây cảm giác gánh nặng thêm

cho người lao động khi họ muốn tham gia loại hình tự nguyện. Ngoài ra,

người tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện được nhà nước hỗ trợ tiền đóng

theo tỷ lệ % trên mức đóng bảo hiểm xã hội hàng tháng theo mức chuẩn hộ

nghèo của khu vực nông thôn. Nhưng, xét thấy mức hỗ trợ theo các tỷ lệ mà

nhà nước quy định vẫn rất thấp.

- Một số cấp ủy, chính quyền, cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp nhận thức

chưa đầy đủ và chưa có sự phối hợp tốt với Bảo hiểm xã hội huyện trong việc

triển khai, phát triển đối tượng và thực hiện các chính sách về bảo hiểm cho

người lao động nói chung và bảo hiểm xã hội tự nguyện nói riêng, mà coi đó

là trách nhiệm của ngành Bảo hiểm xã hội. Công tác phối hợp giữa các ngành,

tổ chức chính trị - xã hội, các xã, thị trấn trong công tác tuyên truyền, vận

động đôi lúc thiếu chặt chẽ; chưa xây dựng, phát triển được đội ngũ cộng tác

viên tuyên truyền tại địa bàn ấp, khóm. [3], [4], [5], [18]

- Hầu hết người dân chưa hiểu rõ chính sách an sinh xã hội của nhà

51

nước, chưa thực sự hiểu đúng về chế độ, chính sách bảo hiểm xã hội tự

nguyện của Đảng và Nhà nước; đặc biệt là chế độ, quyền lợi khi tham gia bảo

hiểm xã hội tự nguyện.

- Hoạt động tuyên truyền, vận động tuy đã được đẩy mạnh nhưng thiếu

liên tục; chưa có giải pháp phù hợp trong tuyên truyền. Thông tin về bảo hiểm

xã hội tự nguyện mặc dù có tuyên truyền nhưng chưa phủ sâu rộng trong mọi

tầng lớp nhân dân, đặc biệt là những đối tượng mà chính sách này hướng đến.

Bên cạnh đó, còn ảnh hưởng của dịch bệnh Covid-19, thu nhập của người dân

có phần giảm sút, nhiều người lâm vào khó khăn nên không thể tiếp tục tham

gia bảo hiểm xã hội tự nguyện; việc tập trung triển khai chế độ chính sách bảo

hiểm xã hội tự nguyện cho các đối tượng bị ảnh hưởng, bị hạn chế theo.

- Chưa xác định được chính xác số lượng, nguồn chưa tham gia thuộc

đối tượng cụ thể nào. Đối với những người đã tham gia do thu nhập thấp,

không ổn định dẫn đến việc chậm gia hạn.

- Đội ngũ cán bộ tại Bảo hiểm xã hội huyện còn ít, trong khi đó khối

lượng công việc chuyên môn cần xử lý kịp thời nhiều. Chưa dành lượng thời

gian đầu tư nội dung tuyên truyền chất lượng, dễ hiểu cho từng đối tượng phù

52

hợp; cán bộ còn yếu về kỹ năng truyền thông, vận động thuyết phục.

Kết luận Chương 2

Chương 2 đã giới thiệu sơ lược về lịch sử hình thành và phát triển Bảo

hiểm xã hội tự nguyện ở Việt Nam. Trên cơ sở đó vận dụng vào thực tế, khái

quát tình hình kinh tế xã hội của huyện và tổng quan về sự hình thành của

Bảo hiểm xã hội huyện Phú Tân.

Nội dung trọng tâm của Chương 2 là phân tích thực tiễn thực hiện pháp

luật về bảo hiểm xã hội tự nguyện trên địa bàn huyện Phú Tân, tỉnh Cà Mau

giai đoạn 2018 – 2020. Quá trình nghiên cứu, phân tích đã tiến hành nhận xét,

đánh giá những kết quả đạt được trong thực hiện pháp luật về bảo hiểm xã hội

tự nguyện, cụ thể: về thực hiện quy định đối tượng tham gia, quy định việc

đóng, chi trả, quy trình thủ tục chi trả chế độ cũng như việc thanh tra, kiểm tra

vi phạm; theo đó Bảo hiểm xã hội huyện trong những năm qua đã đạt được

nhiều kết quả quan trọng, đối tượng tham gia, số thu có chiều hướng tăng qua

từng năm, việc giải quyết chế độ cho người lao động kịp thời; công tác triển

khai, tuyên truyền chính sách bảo hiểm xã hội tự nguyện,... Đồng thời, chỉ rõ

những khó khăn, hạn chế, bất cập trong pháp luật và nguyên nhân của khó

khăn, hạn chế đó. Kết quả nghiên cứu, phân tích, đánh giá này sẽ là tiền đề,

cơ sở thực tiễn để đưa ra các giải pháp, kiến nghị, đề xuất phù hợp cho từng

yếu tố hoàn thiện pháp luật về bảo hiểm xã hội tự nguyện và nâng cao hiệu

quả thực tiễn thực hiện pháp luật bảo hiểm xã hội tự nguyện tại huyện, góp

phần đảm bảo an sinh xã hội, phát triển kinh tế trên địa bàn huyện Phú Tân,

53

tỉnh Cà Mau trong thời gian tới.

Chương 3

MỘT SỐ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ GIẢI PHÁP

NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT BẢO HIỂM XÃ

HỘI TỰ NGUYỆN TẠI HUYỆN PHÚ TÂN, TỈNH CÀ MAU

3.1. Yêu cầu hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực hiện

pháp luật bảo hiểm xã hội tự nguyện tại huyện Phú Tân, tỉnh Cà Mau

3.1.1. Khắc phục những bất cập trong quy định pháp luật về bảo

hiểm xã hội tự nguyện

Luật bảo hiểm xã hội năm 2014 ra đời thay thế Luật năm 2006, theo đó

điều chỉnh, bổ sung những điểm mới bảo hiểm xã hội tự nguyện phù hợp với

thực tiễn lúc đó, cụ thể pháp luật quy định về đối tượng tham gia, điều kiện

hưởng các chế độ, phương thức đóng được bổ sung đa dạng và các chế độ bảo

hiểm xã hội tự nguyện được mở rộng hơn khi rút ngắn thời gian tham gia.

Song, qua hơn 6 năm triển khai thực hiện Luật Bảo hiểm xã hội năm

2014, nội dung quy định về bảo hiểm xã hội tự nguyện xuất hiện một số điểm

bất cập, chưa thu hút nhiều sự quan tâm của người lao động. Đối tượng người

nước ngoài định cư ở Việt Nam chưa được quy định là đối tượng tham gia của

bảo hiểm xã hội tự nguyện; các chế độ thai sản, tai nạn lao động, ốm đau chưa

được bổ sung trong loại hình bảo hiểm xã hội tự nguyện, cho nên người dân,

đặc biệt là người lao động không hứng thú tham gia bảo hiểm xã hội tự

nguyện; việc quy định gia tăng nguồn quỹ bảo hiểm xã hội tự nguyện chưa

thật sự linh hoạt, khó có thể phát triển quỹ mạnh; các quy trình thủ tục đã có

cải cách nhưng nhìn chung vẫn còn phức tạp so với nhận thức của người dân,

đặc biệt là đối với nông dân nông thôn,…

Cho nên, các quy định về bảo hiểm xã hội tự nguyện cần phải cụ thể, rõ

ràng, chặt chẽ, nhưng cũng cần phải có sự linh hoạt, phù hợp với điều kiện và

54

hoàn cảnh sống của người lao động, của từng địa phương, như vậy mới có đủ

sức hấp dẫn người dân tham gia. Việc mở rộng, phát triển đối tượng tham gia

phải được chú trọng, ưu tiên trong thực hiện chính sách bảo hiểm xã hội tự

nguyện cũng như trong tổ chức thực hiện; nếu được người dân chào đón thì sẽ

giúp cuộc sống của họ giảm áp lực, đảm bảo cuộc sống trong tương lai cũng

như góp phần xây dựng nguồn Quỹ bảo hiểm xã hội tự nguyện tăng. Do vậy,

pháp luật về bảo hiểm xã hội tự nguyện cần sớm sửa đổi, bổ sung phù hợp với

nhu cầu của người tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện và điều kiện đời sống

thu nhập của họ.

3.1.2. Bảo đảm phù hợp với chính sách của Đảng ta về bảo hiểm xã

hội nói chung, bảo hiểm xã hội tự nguyện nói riêng

Thực hiện chiến lược xây dựng hệ thống an sinh xã hội phù hợp với

giai đoạn phát triển đất nước, Đảng và Nhà nước ta ban hành nhiều văn bản

chỉ đạo, cụ thể là Nghị quyết số 21-NQ/TW của Bộ Chính trị về tăng cường

sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế giai

đoạn 2012 - 2020. Theo đó, Đảng ta đã nêu rõ quan điểm: “Bảo hiểm xã hội

và bảo hiểm y tế là hai chính sách xã hội quan trọng, là trụ cột chính của hệ

thống an sinh xã hội, góp phần thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo

đảm ổn định chính trị - xã hội và phát triển kinh tế - xã hội”, “Mở rộng và

hoàn thiện chế độ, chính sách bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế có bước đi, lộ

trình phù hợp với phát triển kinh tế - xã hội của đất nước….”. Đồng thời,

cũng xác định mục tiêu: “Thực hiện có hiệu quả các chính sách, chế độ bảo

hiểm xã hội, bảo hiểm y tế; tăng nhanh diện bao phủ đối tượng tham gia bảo

hiểm xã hội, nhất là bảo hiểm xã hội tự nguyện;…”. Và xác định nhiệm vụ,

giải pháp là: “Mở rộng chính sách hỗ trợ của Nhà nước đối với người tham

gia các loại hình bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, nhất là bảo hiểm xã hội tự

nguyện cho nông dân, lao động trong khu vực phi chính thức;…”

Sau khi tiếp thu Nghị quyết số 21-NQ/TW, Ban Thường vụ Huyện ủy

55

Phú Tân đã xây dựng Kế hoạch số 62-KH/HU ngày 29-3-2013 về thực hiện

Nghị quyết số 21-NQ/TW của Bộ Chính trị; Ủy ban nhân dân huyện cũng có

văn bản chỉ đạo tổ chức thực hiện các nội dung này.

Ngoài ra, tại Hội nghị lần thứ Bảy, Ban Chấp hành Trung ương khóa

XII đã ban hành Nghị quyết số 28-NQ/TW về cải cách chính sách bảo hiểm

xã hội. Trong đó, chính sách bảo hiểm xã hội tự nguyện cần mở rộng đối

tượng thuộc diện tham gia theo hướng không khống chế tuổi trần tham gia để

khuyến khích những người từ 45 tuổi trở lên đối với nam, từ 40 tuổi trở lên

đối với nữ tham gia bảo hiểm xã hội. Với quy định này sẽ tạo điều kiện cho

mọi người lao động có khả năng và nhu cầu đều được tham gia để có lương

hưu khi về già; đồng thời có ý nghĩa đối với lao động nữ thuộc diện tham gia

bảo hiểm xã hội tự nguyện, bởi phần đông lao động nữ nước ta ở độ tuổi trên,

dưới 30 thông thường ưu tiên nhiều thời gian hơn để chăm sóc gia đình, con

nhỏ, khi con đủ lớn thì mới tích cực tham gia lao động, sản xuất. Vì vậy, việc

không không chế tuổi trần để tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện sẽ giúp

nhiều lao động nữ có cơ hội được tham gia.

Đồng thời, cần sửa đổi mức đóng bảo hiểm xã hội tự nguyện theo

hướng bỏ quy định khống chế mức thu nhập thấp nhất làm căn cứ đóng bảo

hiểm xã hội bằng mức lương tối thiểu chung, giao Chính phủ qui định cụ thể

tùy thuộc vào điều kiện kinh tế xã hội của từng thời kỳ, nhằm phù hợp với

khả năng tài chính của đại bộ phận lao động nông thôn và khu vực phi chính

thức. Cho nên, quá trình hoàn thiện pháp luật về bảo hiểm xã hội tự nguyện,

phải bảo đảm phù hợp với những quan điểm, định hướng, mục tiêu của Đảng.

3.1.3. Bảo đảm phù hợp với xu hướng chung của pháp luật quốc tế

về bảo hiểm xã hội tự nguyện

Quá trình hội nhập quốc tế sẽ tạo ra nhiều phát sinh vấn đề xã hội bức

xúc trong khu vực và toàn cầu mà không thể dự báo lường hết được, đặt ra

56

sức ép cho các quốc gia phải cùng nổ lực để giải quyết ổn định xã hội, vấn đề

này sẽ tạo điều kiện cho các quốc gia tiếp cận xây dựng thực hiện chính sách

an sinh xã hội dễ dàng hơn.

Để xây dựng hệ thống các chính sách, chế độ bảo hiểm xã hội tự

nguyện phù hợp, Việt Nam cần học tập kế thừa, phát huy sáng tạo những tri

thức về bảo hiểm xã hội của thế giới, đặc biệt tại các quốc gia phát triển hoặc

quốc gia có điều kiện gần tương đồng với nước ta. Việc mở rộng, phát triển

đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện cũng như tăng thêm các chế độ

của bảo hiểm xã hội tự nguyện là cần thiết đối với loại hình này tại Việt Nam.

Đồng thời, cũng nên tham khảo kinh nghiệm cách thức quản lý vốn nhàn rỗi

của bảo hiểm xã hội, học hỏi các quốc gia phát triển trong việc đầu tư sinh lời

những nguồn vốn nhàn rỗi nhằm tăng quỹ bảo hiểm xã hội. Do đó, việc sớm

hoàn thiện chính sách an sinh xã hội, trong đó có pháp luật bảo hiểm xã hội tự

nguyện là phù hợp với yêu cầu bảo đảm an sinh xã hội cho mọi người dân

Việt Nam nhưng cũng phải đáp ứng xu thế hội nhập quốc tế nước ta.

3.2. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về bảo hiểm xã hội tự

nguyện

3.2.1. Bổ sung thêm các chế độ bảo hiểm xã hội tự nguyện

Nước ta, hiện nay tình hình tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, ốm đau

và các trường hợp tai nạn lao động ngày càng tăng cao, do vậy việc bổ sung

thêm các chế độ như: thai sản, ốm đau và tai nạn lao động là cần thiết cho

người tham gia, bởi đây là những chế độ gắn liền với đời sống của người lao

động. Mặt khác, đối với những người tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện là

lao động nữ ở nông thôn, vùng điều kiện khó khăn, có thu nhập thấp thì chế

độ thai sản trở thành một trong những vấn đề được quan tâm hàng đầu khi

quyết định có tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện hay không. Trong suốt thời

gian nghỉ hộ sản, lao động nữ sẽ không thể làm việc để tạo ra thu nhập nên

việc họ không được hưởng trợ cấp thai sản của bảo hiểm xã hội sẽ tạo ra

57

những khó khăn cho cuộc sống, gây thiệt thòi đối với lao động nữ tham gia

bảo hiểm xã hội tự nguyện. Đối với các quốc gia khác thì bảo hiểm xã hội tự

nguyện có quy định nhiều chế độ khác nhau cho người lao động lựa chọn tuỳ

vào khả năng và nguyện vọng của họ. Ví dụ: Pháp luật bảo hiểm xã hội tự

nguyện ở Ba Lan, các chế độ gồm có tai nạn, ốm đau, thai sản [16, tr.28]; hay

là tại Pháp, Pháp luật bảo hiểm xã hội tự nguyện áp dụng các chế độ như: Bảo

hiểm hưu trí; Bảo hiểm ốm đau, sinh đẻ, thương tật; Bảo hiểm tai nạn nghề

nghiệp; Bảo hiểm thất nghiệp đối với những người làm công trong nông

nghiệp; Trợ cấp gia đình [02, tr.27].

Với thực tiễn nước ta nói chung, huyện Phú Tân, tỉnh Cà Mau nói

riêng, đòi hỏi cần phải bổ sung mở rộng các chế độ thai sản, tai nạn lao động,

bệnh nghề nghiệp cho người lao động tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện để

đảm bảo công bằng giữa các khu vực kinh tế, đặc biệt là cho những người

kinh doanh buôn bán nhỏ lẻ, nghề tự do, tạo bình đẳng hơn giữa người tham

gia loại hình bảo hiểm xã hội tự nguyện với người tham gia bảo hiểm xã hội

bắt buộc, đồng thời đảm bảo chính sách an sinh xã hội ngày càng có ý nghĩa

sâu sắc đối với người dân.

3.2.2. Điều chỉnh, rút ngắn thời gian tham gia bảo hiểm xã hội tự

nguyện để được hưởng chế độ lương hưu hàng tháng

Theo Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014 và Bộ Luật Lao động năm 2019

quy định, người tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện được hưởng lương hưu

hàng tháng khi đủ tuổi nghỉ hưu theo Khoản 2, Điều 169 Bộ Luật Lao động

năm 2019 và có đủ 20 năm đóng bảo hiểm xã hội trở lên. Hoặc nam từ đủ 55

tuổi trở lên, nữ từ đủ 50 tuổi trở lên đối với người tham gia bảo hiểm xã hội tự

nguyện mà trước đó đã có tổng thời gian đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc đủ 20

năm trở lên, trong đó có đủ 15 năm làm nghề hoặc công việc nặng nhọc, độc

hại, nguy hiểm hoặc có đủ 15 năm làm việc ở nơi có phụ cấp khu vực hệ số

0,7 trở lên. Nhưng thực tế hiện nay, một bộ phận lớn người lao động (nam từ

58

45 tuổi, nữ từ 40 tuổi trở lên) đã không có thu nhập hoặc nếu có thì không ổn

định; đặc biệt là những người lao động nông thôn vùng sâu, thu nhập dựa vào

khai thác, nuôi trồng thủy sản như huyện Phú Tân, vì thế không có khả năng

tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện để hưởng chế độ hưu trí hàng tháng,

trong khi họ phải đủ 20 năm đóng bảo hiểm xã hội. Nếu hưởng bảo hiểm xã

hội một lần theo Nghị quyết số 93/2015/QH13 ngày 22/06/2015 thì ảnh

hưởng đến mục đích an sinh xã hội, sẽ gây khó khăn cho đời sống của người

lao động, vì thế pháp luật cần rút ngắn thời gian tham gia bảo hiểm xã hội tự

nguyện để được hưởng chế độ lương hưu hàng tháng, đúng theo tinh thần mở

rộng đối tượng hưởng lương hưu trong Nghị quyết số 28/NQ-TW.

3.2.3. Tăng mức trợ cấp một lần

Kiến nghị pháp luật cần tăng mức trợ cấp một lần khi người lao động

tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện nghỉ hưu mà có thời gian đóng bảo hiểm

xã hội cao hơn thời gian tương ứng mức lương hưu tối đa.

Theo Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014 quy định: Người lao động tham

gia bảo hiểm xã hội tự nguyện có thời gian đóng bảo hiểm xã hội cao hơn thời

gian tương ứng mức lương hưu tối đa 75%, cứ mỗi năm đóng bảo hiểm xã hội

thì được tính bằng 0,5 tháng mức bình quân thu nhập tháng đóng bảo hiểm xã

hội. Mức hưởng trợ cấp một lần khi nghỉ hưu theo quy định này là thấp so với

người lao động hưởng chế độ bảo hiểm xã hội một lần. Mặc dù, đặt ra với

mục đích nhằm chia sẻ giữa những người lao động tham gia bảo hiểm xã hội,

song pháp luật cần phải bảo đảm nguyên tắc công bằng, có đóng có hưởng

của bảo hiểm xã hội.

Do đó, kiến nghị pháp luật cần tăng mức trợ cấp một lần khi người lao

động tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện có thời gian đóng bảo hiểm xã hội

cao hơn thời gian tương ứng mức lương hưu tối đa 75%, thì cứ mỗi năm đóng

bảo hiểm xã hội thì được tính bằng 1,5 tháng mức bình quân thu nhập tháng

đóng bảo hiểm xã hội. Thời gian hưởng theo lộ trình tăng dần và theo mức

59

tăng bậc thang. Được điều chỉnh như vậy sẽ vừa bảo đảm nguyên tắc đóng

hưởng bảo hiểm xã hội, vừa bảo đảm công bằng giữa những người tham gia

bảo hiểm xã hội tự nguyện.

3.2.4. Sửa đổi quy định về điều kiện hưởng trợ cấp mai táng và tuất

hàng tháng

Tại khoản 1, Điều 80, Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014, người lao động

tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện từ đủ 5 năm trở lên mà chết thì thân nhân

của họ mới được nhận chế độ trợ cấp mai táng. Theo nhận định của phần

đông người, thì việc quy định thời gian 5 năm đóng mới được nhận trợ cấp

mai táng như quy định trên là quá dài. Mặt khác, đây là nội dung quy định

được kế thừa từ Luật Bảo hiểm xã hội năm 2006, trong thời điểm mà Việt

Nam mới triển khai bảo hiểm xã hội tự nguyện và quỹ bảo hiểm xã hội tự

nguyện độc lập, mục đích là nhằm ổn định quỹ mới này, chưa có sự chia sẻ

giữa nhiều người tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện. Song, đến nay theo

Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014, đã có quy định gộp quỹ bảo hiểm xã hội tự

nguyện chung trong quỹ hưu trí, tử tuất của bảo hiểm xã hội bắt buộc; hơn

nữa số người tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện ngày một tăng và đã kết dư.

Do vậy, kiến nghị pháp luật cần xem xét điều chỉnh thời gian tham gia

bảo hiểm xã hội tự nguyện để được hưởng chế độ này, cụ thể là điều chỉnh

giảm số năm tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện (có thể còn từ đủ 2 hoặc 3

năm) trên cơ sở cân đối nguồn quỹ bảo hiểm xã hội, sao cho đảm bảo việc

tăng trưởng quỹ cân đối với lợi ích của người lao động, để tạo sự ưu tiên chế

độ cho người tham gia khi chết thì thân nhân của họ được nhận chế độ trợ cấp

mai táng, hỗ trợ động viên được phần nào với gia đình trong khó khăn; đặc

biệt là cần thiết với tập quán lối sống nông thôn miền tây nói chung, khi được

sự quan tâm chia sẽ, hỗ trợ chế độ của nhà nước đối với gia đình mình.

Đồng thời, về chế độ trợ cấp tuất hàng tháng, kiến nghị nên xem xét hạ

thấp xuống nửa hoặc điều kiện về thời gian 15 năm đóng bảo hiểm xã hội bắt

60

buộc xuống còn 08 hoặc 10 năm để đảm bảo hơn nửa cho người tham gia

cũng như thân nhân của họ có điều kiện được hưởng quyền và lợi ích của

mình và cho họ thấy có sự công bằng.

3.2.5. Tăng mức hỗ trợ từ ngân sách nhà nước đối với người lao

động tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện

Đầu năm 2018, Nhà nước thực hiện chính sách hỗ trợ phí đóng cho

người tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện với mức hỗ trợ từ 10% đến 30%,

tùy theo từng đối tượng. Với phương thức hỗ trợ là người tham gia thuộc đối

tượng được hỗ trợ, nộp số tiền đóng bảo hiểm xã hội phần thuộc trách nhiệm

đóng của mình cho cơ quan Bảo hiểm xã hội hoặc đại lý thu; định kỳ 3 tháng,

6 tháng hoặc 12 tháng, cơ quan Bảo hiểm xã hội tổng hợp số đối tượng được

hỗ trợ, số tiền thu của đối tượng và số tiền ngân sách nhà nước hỗ trợ gửi cơ

quan tài chính để chuyển kinh phí vào quỹ bảo hiểm xã hội.

Nhưng, theo Bảo hiểm xã hội huyện khi áp dụng quy định này tại

huyện Phú Tân, mặc dù đã thực hiện hỗ trợ đúng theo pháp luật hiện hành,

tuy nhiên theo ý kiến các hộ gia đình và người lao động thì cho rằng mức hỗ

trợ của Nhà nước vẫn còn thấp đối với đặc thù điều kiện của huyện như hiện

nay, mức hỗ trợ này vẫn chưa đủ hấp dẫn người dân tham gia bảo hiểm xã hội

tự nguyện. Do vậy, để phát triển đối tượng tham gia thời gian tới và nhằm

khuyến khích người lao động tham gia loại hình này cũng như thực hiện tốt

chính sách an sinh xã hội cho người lao động khi về già, kiến nghị pháp luật

cần quy định tăng mức hỗ trợ mức đóng của Nhà nước (có thể vận dụng nhiều

nguồn quỹ) cho người lao động tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện.

Với điều kiện thực tế khi tốc độ già hóa dân số đang diễn ra ở Việt

Nam hiện nay, nếu người lao động đến tuổi già khi cuộc sống họ không có thu

nhập ổn định, mà họ không có lương hưu hoặc không có nguồn trợ cấp nào

khác thì sẽ tạo gánh nặng cho xã hội, tăng áp lực cho cân đối ngân sách về trợ

61

cấp xã hội.

3.3. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về bảo hiểm

xã hội tự nguyện tại huyện Phú Tân, tỉnh Cà Mau

Thứ nhất, Tăng cường sự lãnh đạo của cấp ủy trong thực hiện chính

sách an sinh xã hội, đặc biệt là bảo hiểm xã hội tự nguyện trên địa bàn huyện

Quán triệt sâu sắc, nhận thức đầy đủ hơn các quan điểm, mục tiêu,

nhiệm vụ và giải pháp của Nghị quyết số 21-NQ/TW, Kế hoạch số 13-KH/TU

của Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Kế hoạch số 62-KH/HU của Ban Thường vụ

Huyện ủy về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác bảo hiểm xã

hội, bảo hiểm y tế giai đoạn 2012 - 2020 đến cán bộ, đảng viên và nhân dân

trong huyện. [18]

Chấp hành sự lãnh đạo, chỉ đạo, hướng dẫn và điều hành của Bảo hiểm

xã hội tỉnh tỉnh; tích cực và chủ động tham mưu Huyện ủy, Hội đồng nhân

dân, Ủy ban nhân dân huyện giải pháp phát triển bảo hiểm xã hội và phối hợp

chặt chẽ với các cơ quan, đơn vị có liên quan trong tổ chức thực hiện nhiệm

vụ ngành, đặc biệt là phát triển đối tượng và thực thi chính sách pháp luật bảo

hiểm xã hội tự nguyện trên địa bàn huyện; phải có sự chuyển biến về nhận

thức đầy đủ về chính sách an sinh xã hội, xem đây là nhiệm vụ quan trọng của

các cấp, các ngành, không phải nhiệm vụ riêng của ngành Bảo hiểm xã hội.

Thứ hai, Đẩy mạnh và thường xuyên đổi mới hơn nửa công tác vận

động, tuyên truyền chính sách pháp luật về bảo hiểm xã hội tự nguyện

Công tác vận động, tuyên truyền pháp luật về bảo hiểm xã hội tự

nguyện là nhiệm vụ thường xuyên, liên tục, với mục đích là nâng cao nhận

thức, trách nhiệm của người dân, hiểu rõ chế độ, chính sách và đảm bảo

quyền, lợi ích cho người lao động khi tham gia loại hình này. Do đó, cần phải

thường xuyên đổi mới, linh hoạt các phương thức tuyên truyền, nội dung phải

được kết tin gọn sao cho phù hợp từng đối tượng, đặc thù công việc của họ.

Bởi lẽ đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện đa số là những

62

người lao động tự do, khu vực phi chính thức, thường thay đổi nơi ở theo yêu

cầu công việc, có thu nhập không ổn định, nên khả năng tiếp nhận những

chính sách ưu đãi của nhà nước và các chế độ khác còn nhiều hạn chế. Do đó,

cần phải tích cực tận dụng các kênh phương tiện thông tin đại chúng, xu thế

hiện nay là tuyên truyền trên mạng xã hội, zalo, trạm tryền thanh tại các xã,

thị trấn; kết hợp lồng ghép hình thức truyền thống (sách, báo, tờ rơi, tuyên

truyền viên, báo cáo viên), theo phương châm “mưa dầm thấm lâu”; quá trình

triển khai có sự tương tác, đặt câu hỏi – trả lời,…. Thường xuyên phối hợp

với Ủy ban nhân dân các xã, thị trấn tăng cường tuyên truyền bằng hình thức

đối thoại trực tiếp với cán bộ chủ chốt của khóm, ấp, Chi hội trưởng các Hội

đoàn thể và đối tượng hộ gia đình tham gia Bảo hiểm xã hội tự nguyện.

Ngoài ra, do đặc thù điều kiện hạ tầng của huyện có sông ngòi chằn

chịt nên việc đi lại người dân khó khăn, quá trình tập trung họ lại cũng khó,

đặc biệt là với tình hình hiện nay bị ảnh hưởng đại dịch Covid-19 hạn chế tập

trung đôi người, nên tiếp tục phát huy hình thức “Đi từng ngõ, ngách, gõ cửa

từng nhà, đến trực tiếp từng hộ gia đình”, đây là một trong những giải pháp

hiệu quả nhất trong công tác vận động, tuyên truyền thời gian qua của huyện.

Thứ ba, Tập trung phát triển, khai thác mở rộng đối tượng tham gia

bảo hiểm xã hội tự nguyện và kết hợp chính sách bảo hiểm xã hội với các

chương trình khác

Tập trung phát triển, khai thác mở rộng đối tượng tham gia bảo hiểm xã

hội tự nguyện trên địa bàn huyện, sao cho ngày càng bao phủ bảo hiểm xã hội

tới người dân trong xã hội theo Nghị quyết số 28-NQ/TW đề ra. Muốn đạt

được thì phải quan tâm chú trọng một số việc sau:

Ngoài việc vận dụng linh hoạt các giải pháp tuyên truyền, vận động nêu

trên thì có kế hoạch thực hiện điều tra xã hội, khảo sát rộng rãi địa bàn và

nhiều đối tượng về tình hình thực hiện bảo hiểm xã hội tự nguyện trên địa bàn

huyện (đã qua Bảo hiểm xã hội huyện đã phối hợp với tổ chức, đơn vị, các

63

trường Trung học phổ thông tiến hành khảo sát, tuy nhiên chưa được rộng rãi

hết khu vực cũng như hết các đối tượng), trên cơ sở số liệu thực tế này đánh

giá được nhu cầu hiểu biết chính sách cũng như sự mong muốn tham gia bảo

hiểm xã hội tự nguyện của người lao động hoặc lý do không tham gia, từ đó

mới xác định được giải pháp phù hợp. Bên cạnh đó, hàng năm Bảo hiểm xã

hội huyện phải chủ động xây dựng kế hoạch khai thác phát triển đối tượng

tham gia Bảo hiểm xã hội tự nguyện và các loại hình khác; đồng thời quản lý,

đôn đốc thu nợ dưới mức quy định so với số phải thu.

Trên cơ sở đó, cũng kiến nghị đề xuất với Ủy ban nhân dân tỉnh Cà

Mau và Bảo hiểm xã hội Việt Nam cần phải xây dựng định hướng phát triển

chính sách bảo hiểm xã hội tự nguyện cho từng giai đoạn, từng khu vực kinh

tế theo từng đối tượng. Bởi lẽ, việc tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện phụ

thuộc lớn vào thu nhập của người lao động, với người lao động thu nhập thấp,

không ổn định cần có cơ chế độ hỗ trợ thêm (huyện Phú Tân lao động chủ yếu

làm nông - lâm nghiệp - thủy sản là chính, mức thu nhập còn thấp, việc trích

ra 22% đóng bảo hiểm xã hội tự nguyện là khó). Do đó, việc xây dựng chính

sách hỗ trợ một phần kinh phí đóng bảo hiểm xã hội tự nguyện cho nhóm lao

động này là cần thiết để họ có thể tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện.

Ngoài ra, Ủy ban nhân dân các cấp và các ngành liên quan phải triển

khai thực hiện hiệu quả Chương trình mục tiêu quốc gia về lao động việc làm,

đa dạng hóa các ngành nghề lao động và có nhiều chính sách hỗ trợ cho hộ

nghèo, hộ cận nghèo hơn nửa để giúp họ có việc làm, có thu nhập, vươn lên

cuộc sống.

Thứ tư, Đẩy mạnh công tác cải cách thủ tục hành chính và ứng dụng

công nghệ thông tin

Để giảm chi phí hành chính và xây dựng cách làm việc khoa học, tiết

kiệm thời gian cho viên chức ngành thì việc cải cách thủ tục hành chính gắn

với ứng dụng tốt công nghệ thông tin vào quản lý, chuyên môn nghiệp vụ là

64

điều rất cần thiết. Thời gian tới Bảo hiểm xã hội huyện Phú Tân cần thực hiện

tốt hơn nửa quy chế “một cửa” để tiếp nhận hồ sơ và trả kết quả, đẩy mạnh

quá trình giải quyết thông qua giao dịch điện tử và dịch vụ bưu chính. Thực

hiện thường xuyên việc khảo sát mức độ hài lòng của tổ chức, công dân.

Ngoài ra, Bảo hiểm xã hội huyện cần đơn giản việc kê khai thủ tục

hành chính theo hướng người kê khai tự chịu trách nhiệm trước pháp luật về

nội dung kê khai; tăng tính hậu kiểm của cơ quan Bảo hiểm xã hội huyện; hạn

chế việc yêu cầu người kê khai lấy xác nhận của cơ quan Nhà nước nếu xét

thấy không cần thiết. Cơ quan Bảo hiểm xã hội huyện có trách nhiệm sử dụng

thông tin đã có để phục vụ cho việc thẩm định và phê duyệt hồ sơ, tạo điều

kiện linh hoạt cho tổ chức, cá nhân chỉ kê khai lần đầu và các thông tin thay

đổi, không cần phải kê khai lại nhiều lần thông tin đã cung cấp.

Cùng với đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, Bảo hiểm xã hội

huyện tăng cường hơn nửa ứng dụng công nghệ thông tin trong quy trình

chuyên môn, nghiệp vụ, đặc biệt là Bảo hiểm xã hội tự nguyện. Vận hành

nhuần nhuyển Chương trình ứng dụng của Bảo hiểm xã hội Việt Nam như:

Phần mềm quản lý thu, cấp và quản lý sổ bảo hiểm xã hội, xét duyệt các chế

độ bảo hiểm xã hội nói chung, bảo hiểm xã hội tự nguyện nói riêng, tiếp nhận

hồ sơ, triển khai ứng dụng VssID đến với người tham gia,… Kết hợp với đó

là phải xây dựng hoàn chỉnh hệ thống lưu trữ dữ liệu của người tham gia bảo

hiểm xã hội, kể cả bảo hiểm xã hội bắt buộc và tự nguyện, đảm bảo tính liên

thông, dễ chuyển đổi giữa loại hình bắt buộc và tự nguyện; do dữ liệu cá nhân

có thể có rất nhiều thông tin và thường thay đổi nên định kỳ rà soát, bổ sung

cập nhật theo từng giai đoạn.

Thứ năm, Tăng cường nâng cao hiệu quả tổ chức quản lý; sắp xếp, kiện

toàn bộ máy; nâng cao năng lực đội ngủ cán bộ trong lĩnh vực bảo hiểm xã

hội gắn với đổi mới tác phong phục vụ

Nâng cao năng lực, hiệu quả quản lý nhà nước về bảo hiểm xã hội nói

65

chung, bảo hiểm xã hội tự nguyện nói riêng, tiếp tục thực hiện có hiệu quả các

chính sách khuyến khích người dân, chú ý người có thu nhập dưới mức trung

bình tham gia bảo hiểm xã hội. Công tác quản lý bảo hiểm xã hội tự nguyện

cần chuyển đổi phong cách hành chính sang tác phong phục vụ người dân,

mang tính chuyên nghiệp.

Sắp xếp, kiện toàn tổ chức bộ máy, nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ

trong lĩnh vực bảo hiểm xã hội tự nguyện; không ngừng cải tiến lề lối làm

việc, nâng cao tinh thần trách nhiệm, thái độ phục vụ nhân dân của đội ngũ

viên chức và người lao động trong đơn vị. Thực hiện tốt chính sách đãi ngộ

của nhà nước đối với cán bộ làm công tác bảo hiểm xã hội. Tiếp tục kiện toàn

hệ thống Đại lý thu tại các xã, thị trấn và nhân viên các điểm thu tại ấp, khóm

làm đầu mối tuyên truyền vận động thu bảo hiểm xã hội tự nguyện. Trong đó,

củng cố, kiện toàn lực lượng Nhân viên đại lý thu thuộc các xã, thị trấn và

nhân viên các điểm thu tại ấp, khóm. Duy trì và nâng cao chất lượng, phương

thức phối hợp với đơn vị Bưu điện. [18]

Tăng cường công tác phối hợp chặt chẽ với Ủy ban nhân dân các xã và

thị trấn, Mặt trận và các ngành đoàn thể tổ chức bồi dưỡng, tập huấn kỹ năng

vận động, tuyên truyền trực tiếp cho cán bộ chủ chốt của khóm, ấp, Chi hội

trưởng các hội đoàn thể, từng bước xây dựng và phát triển mạnh đội ngủ cộng

tác viên tuyên truyền tuyến cơ sở ấp, khóm, ưu tiên người có uy tín trong

cộng đồng dân cư; trong đó quyết liệt tập trung các địa phương xây dựng

nông thôn mới và nông thôn mới nâng cao.

Quan tâm tổ chức các lớp bồi dưỡng, tập huấn nâng cao nghiệp vụ cho

cán bộ Bảo hiểm xã hội, đặc biệt là kỷ năng tuyên truyền, thuyết phục cho đội

ngủ cán bộ phụ trách bảo hiểm xã hội tự nguyện. Ngoài việc cải cách thủ tục

hành chính và nâng cao chất lượng phục vụ, đề xuất kiến nghị với Bảo hiểm

xã hội tỉnh, Bảo hiểm xã hội Việt Nam tăng thêm biên chế làm công tác tuyên

truyền, vận động chuyên trách tại Bảo hiểm xã hội huyện (mỗi cấp huyện bố

66

trí thêm ít nhất 01 biên chế phụ trách vận động, tuyên truyền), trang bị thêm

cơ sở vật chất, công nghệ hiện đại để có thể vận dụng tốt ứng dụng công nghệ

thông tin, tạo mọi điều kiện thuận lợi để tổ chức, cá nhân tham gia và thụ

hưởng kịp thời, đầy đủ các chế độ chính sách bảo hiểm xã hội tự nguyện.

Thứ sáu, Thường xuyên tổ chức thanh tra, kiểm tra thực hiện pháp luật

bảo hiểm xã hội tự nguyện

Nhằm nâng cao hiệu quả công tác quản lý và thực thi pháp luật bảo

hiểm xã hội tự nguyện trên địa bàn huyện, cần phải chú trọng hoạt động kiểm

tra, thanh tra, giải quyết khiếu nại tố cáo của người dân. Tích cực phối hợp

với các ngành chức năng phát hiện và xử lý trường hợp vi phạm pháp luật.

Định kỳ phải xây dựng kế hoạch thanh tra, kiểm tra, giám sát việc chấp

hành pháp luật, chính sách bảo hiểm xã hội, trong đó có bảo hiểm xã hội tự

nguyện; công tác quản lý cũng như quá trình thực thi công vụ, chủ yếu tập

trung vào việc thực hiện nhiệm vụ đối với tổ chức, bộ máy làm công tác thu,

đại lý thu. Qua đó, kịp thời phát hiện những hành vi vi phạm, nhũng nhiễu,

nhất là trốn đóng, nợ tiền bảo hiểm, cũng như các hành vi tiêu cực khác, làm

67

hạn chế kết quả thực hiện nhiệm vụ công tác phát triển đối tượng.

Kết luận Chương 3

Trên cơ sở phân tích, đánh giá quá trình triển khai, tổ chức thực thi

pháp luật về bảo hiểm xã hội tự nguyện trên địa bàn huyện giai đoạn 2018 –

2020 tại Chương 2, thì Chương 3 tiến hành đưa ra một số kiến nghị nội dung

để hoàn thiện pháp luật và đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện

chính sách pháp luật bảo hiểm xã hội tự nguyện tại huyện Phú Tân, tỉnh Cà

Mau trong thời gian tới, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu, quyền lợi cho

người tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện, bảo đảm phù hợp với sự phát triển

kinh tế - xã hội của đất nước nói chung trong quá trình hội nhập quốc tế, của

huyện Phú Tân, tỉnh Cà Mau nói riêng.

Việc hoàn thiện hơn nửa pháp luật về bảo hiểm xã hội tự nguyện về mở

rộng đối tượng, điều kiện hưởng thêm vài chế độ, bổ sung thêm các chế độ

cho loại hình bảo hiểm xã hội tự nguyện,... là nhu cầu, nguyện vọng đa số

người dân, làm tiền đề để phát triển đối tượng cũng như người lao động có cơ

hội được lựa chọn phù hợp với hình thức, khả năng của mình khi tham gia

loại hình này. Ngoài việc hoàn thiện pháp luật, cần phải có giải pháp nâng cao

hiệu quả thực hiện pháp luật bảo hiểm xã hội tự nguyện, mà các giải pháp đó

phải phù hợp với thực tiễn xã hội, cụ thể tại huyện Phú Tân, tỉnh Cà Mau.

Trong đó, có xác định được tầm quan trọng trong việc đổi mới, linh hoạt các

hình thức phổ biến, tuyên truyền, vận động người dân; nâng cao hiệu quả

quản lý bộ máy, cải cách hành chính, chất lượng đội ngủ cán bộ làm công tác

bảo hiểm xã hội và đội ngủ cộng tác viên tuyến cơ sở, giữ cho việc triển khai

68

thực hiện chính sách bảo hiểm xã hội tự nguyện hiệu quả cao hơn.

KẾT LUẬN

Bảo hiểm xã hội nói chung, Bảo hiểm xã hội tự nguyện nói riêng là một

trong những chính sách lớn của Đảng và Nhà nước ta về an sinh xã hội, thể

hiện sự chăm lo, trợ giúp về vật chất lẫn tinh thần cho người tham gia và thân

nhân của họ. Pháp luật về bảo hiểm xã hội tự nguyên ra đời đó là sự cụ thể

hóa thực hiện Hiến pháp và Nghị quyết Đại hội lần thứ X của Đảng ta, đồng

thời pháp luật đang từng bước điều chỉnh, bổ sung hoàn thiện (Luật Bảo hiểm

xã hội năm 2014 điều chỉnh, thay thế Luật Bảo hiểm xã hội năm 2006), nó sẽ

đáp ứng sự mong mõi, tăng sự hấp dẫn cho số đông người lao động không

thuộc diện tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc, từng bước xóa bỏ sự phân biệt

giữa người lao động, khu vực lao động.

Theo Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014 và các Nghị định, Thông tư hiện

hành thì pháp luật về bảo hiểm xã hội tự nguyện đã được quy định liệt kê cụ

thể đối tượng được tham gia và có 2 chế độ hưởng là hưu trí và tử tuất, quy

định rõ mức đóng, phương thức đóng, mức nhà nước hỗ trợ cũng như là trình

tự, thủ tục quản lý, giải quyết chi trả chế độ bảo hiểm xã hội tự nguyện;…

Những năm qua, công tác thực thi pháp luật bảo hiểm xã hội đạt được nhiều

kết quả quan trọng, đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện ngày càng

tăng qua từng năm, tương ứng là quá trình phát triển hệ thống bảo hiểm xã hội

không ngừng đẩy mạnh, mở rộng nhiều Đại lý và xây dựng được đội ngủ

cộng tác viên tới cơ sở, việc chi trả chế độ thực hiện đúng theo quy định và

kịp thời, quyền lợi người tham gia được đảm bảo, góp phần ổn định đời sống

người dân, đảm bảo công bằng xã hội; Quỹ bảo hiểm xã hội hình thành và có

kết dư tăng trưởng, tham gia góp phần phát triển kinh tế xã hội.

Song, quá trình triển khai thực hiện pháp luật về bảo hiểm xã hội tự

nguyện vào thực tiễn đã bộc lộ khó khăn, hạn chế, bất cập như: loại hình tự

nguyện còn hạn chế quyền lợi cho người tham gia (không được hưởng chế độ

69

thai sản, ốm đau, tai nạn lao động), một số quy định điều kiện hưởng chế độ

cao hơn, khắt khe hơn bảo hiểm xã hội bắt buộc, đối tượng tham gia dù đã mở

rộng nhưng vẫn còn bị hạn chế, phát triển đối tượng có tăng nhưng vẫn còn ít

so với dân số, chưa hấp dẫn người lao động tham gia, đặc biệt lao động khu

vực phi chính thức, không có thu nhập ổn định,… Cụ thể rõ nét nhất qua phân

tích, đánh giá thực tiễn tại huyện Phú Tân, tỉnh Cà Mau.

Trước thực trạng pháp luật và thực tiễn thực hiện pháp luật nêu trên,

cần thiết phải hoàn thiện hoàn thiện pháp luật về bảo hiểm xã hội tự nguyện

để phát triển đối tượng, đảm bảo an sinh xã hội cho người lao động (như bổ

sung thêm chế độ, tăng tuổi nghỉ hưu cho người lao động, giảm bớt một số

điều kiện khắt khe,…); đồng thời, phải có giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả

thực hiện pháp luật bảo hiểm xã hội tự nguyện trên địa bàn huyện (năng cao

năng lực quản lý; kiện toàn bộ máy gắn với cải cách hành chính; đổi mới, linh

hoạt hình thức, nội dung, phổ biến tuyên truyền; xây dựng mở rộng đội ngủ

cộng tác viên có năng lực;…), trong đó cơ quan Bảo hiểm xã hội phải chủ

động xây dựng được kế hoạch lộ trình, chiến lược dài hạn, ngắn hạn.

Tóm lại, chính sách pháp luật bảo hiểm xã hội tự nguyện đóng vai trò

quan trọng trong hệ thống an sinh xã hội của đất nước, đặc biệt trong điều

kiện nước ta hiện nay trong giai đoạn hội nhập quốc tế, nhưng có lực lượng

lao động làm việc khu vực phi chính thức chiếm tỷ lệ lớn, cho nên cần từng

bước hoàn thiện chính sách, mở rộng vững chắc hệ thống bảo hiểm xã hội tự

70

nguyện, đáp ứng được mong muốn cho mọi người có cuộc sống tốt hơn./.