ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
LÝ ANH PHƯƠNG
SỰ THỂ HIỆN CỦA NGUYÊN TẮC BÌNH ĐĂNG GIỮA VỢ VÀ CHỒNG TRONG CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH NĂM 2014 VÀ THỰC TIỄN THI HÀNH
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2019
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT
LÝ ANH PHƯƠNG
SỰ THỂ HIỆN CỦA NGUYÊN TẮC BÌNH ĐĂNG GIỮA VỢ VÀ CHỒNG TRONG CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH NĂM 2014 VÀ THỰC TIỄN THI HÀNH
Chuyên ngành: Luật dân sự và tố tụng dân sự
Mã số: 8380101.04
Người hướng dẫn khoa học: GS.TS HOÀNG THỊ KIM QUẾ
Hà Nội – 2019
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết
quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và
trung thực. Tôi đã hoàn thành hết các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa
vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể
bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN
Lý Anh Phương
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 1
Chương 1 7
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN CỦA NGUYÊN TẮC BÌNH ĐẲNG
GIỮA VỢ VÀ CHỒNG TRONG CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT HÔN NHÂN
VÀ GIA ĐÌNH NĂM 2014 7
1.1.Những khái niệm cơ bản về hôn nhân và gia đình .................................... 7
1.1.1.Khái niệm và đặc trưng cơ bản của hôn nhân .......................................7
1.1.2.Khái niệm và các chức năng cơ bản của gia đình 9
1.2.Các nguyên tắc cơ bản của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 11
1.3.Khái niệm và cơ sở pháp lý của nguyên tắc bình đẳng giữa vợ và chồng13
1.3.1.Khái niệm nguyên tắc bình đẳng giữa vợ và chồng .............................13
1.3.2.Cơ sở pháp lý của nguyên tắc bình đẳng giữa vợ và chồng 15
1.4.Sơ lược về địa vị pháp lý của vợ và chồng qua các thời kỳ lịch sử của đất
nước ...................................................................................................... 24
1.4.1.Địa vị pháp lý của vợ và chồng trong pháp luật thời kỳ phong kiến .....24
1.4.3. Địa vị pháp lý của vợ và chồng trong pháp luật từ sau Cách mạng tháng 8
đến nay ....................................................................................................28
1.5.Nội dung cơ bản của nguyên tắc bình đẳng giữa vợ và chồng theo quy định
của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 .................................................... 32
1.5.1. Vợ chồng bình đẳng trong quan hệ nhân thân....................................32
1.4.2.Địa vị pháp của của vợ và chồng trong pháp luật thời kỳ Pháp thuộc ..27
1.5.2.Vợ chồng bình đẳng trong quan hệ tài sản..........................................39
1.5.2.4. Bình đẳng trong quan hệ cấp dưỡng ...............................................52
Chương 2 55
ÁP DỤNG NGUYÊN TẮC BÌNH ĐẲNG GIỮA VỢ VÀ CHỒNG TRONG
CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH NĂM 2014 –
THỰC TRẠNG VÀ ĐỀ XUẤT MỘT SỐ GIẢI PHÁP CƠ BẢN 55
2.1. Thực trạng áp dụng nguyên tắc bình đẳng giữa vợ và chồng trong các quy
định của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 55
2.1.1.Áp dụng nguyên tắc bình đẳng giữa vợ và chồng theo quy định của Luật
hôn nhân và gia đình năm 2014 trong thực tiễn xã hội ở nước ta hiện nay ...55
2.1.2.Áp dụng nguyên tắc bình đẳng giữa vợ và chồng theo quy định của Luật
hôn nhân và gia đình năm 2014 trong thực tiễn pháp lý ở nước ta hiện nay..61
2.2.Một số giải pháp về đảm bảo áp dụng nguyên tắc bình đẳng giữa vợ và
chồn ...................................................................................................... 76
2.2.1.Hoàn thiện các quy định của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 liên quan
đến nguyên tắc bình đẳng giữa vợ và chồng ................................................ 76
2.2.2. Đảm bảo chất lượng, hiệu quả hoạt động áp dụng pháp luật hôn nhân và
gia đình ..................................................................................................... 78
và chồng
84
2.2.5.Phòng ngừa và xử lý nghiêm mình, công bằng mọi hành vi vi phạm nguyên
tắc bình đẳng giữa vợ và chồng
84
KẾT LUẬN
85
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
87
2.2.4. Thực hiện giám sát, kiểm tra việc thực hiện nguyên tắc bình đẳng giữa vợ
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hôn nhân và gia đình đóng vai trò quan trọng đối với sự phát triển ổn định
của một quốc gia. Nhà nước và xã hội luôn dành một sự quan tâm cũng như tìm
cách xây dựng các biện pháp nhằm củng cố quan hệ hôn nhân, làm cho mối quan
hệ này luôn bền vững, ổn định. Hôn nhân có bền vững thì gia đình mới ấm no,
hạnh phúc, từ đó góp phần cho xã hội ổn định, trật tự, văn minh và phát triển.
Bình đẳng giới là một trong những chuẩn mực hết sức quan trọng mà các
Quốc gia trên thế giới hiện nay luôn hướng đến nhằm mục đích duy trì sự hòa
bình, ổn định và làm cho xã hội ngày càng trở nên tiến bộ hơn. Vấn đề này cũng
đã được ghi nhận ở rất nhiều các văn bản, điều ước quốc tế về quyền con người.
Đất nước Việt Nam ta đang trên đà chuyển đổi và phát triển với tốc độ nhanh
chóng trên toàn bộ các lĩnh vực nên vấn đề bình đẳng giới cũng luôn luôn được
Nhà nước quan tâm và coi đó là một trong những vấn đề quan trọng, mang tính
thời sự nhằm mục tiêu đảm bảo quyền con người cũng như các quyền bình đẳng
vợ và người chồng trong quan hệ hôn nhân và gia đình.
Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói rằng: “Chúng ta làm Cách mạng để giành
lấy tự do, dân chủ, bình đẳng, trai gái đều ngang quyền nhau, không thể để phụ
nữ bị áp bức cũng như coi thường phụ nữ” [16]. Và để tiếp thu các quan điểm, tư
tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, trong suốt quá trình cách mạng, Đảng và Nhà
giữa các thành viên trong gia đình, đặc biệt ở đây là quyền bình đẳng giữa người
1
nước ta đã thực hiện nhất quán các đường lối, quan điểm về giải phóng phụ nữ,
thực hiện quyền bình đẳng nam nữ trong mọi lĩnh vực, trong đó có hôn nhân và
gia đình.
Trong Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, quyền bình đẳng giữa vợ và
chồng đã được đề cập khá cụ thể và chi tiết, đồng thời có xu hướng hoàn thiện hơn
so với Luật Hôn nhân và Gia đình của những năm về trước. Điều đó cho thấy sự
quan tâm của Đảng, của Nhà nước và của toàn xã hội đến vấn đề này, từ đó hướng
đến mục tiêu bình đẳng giới trên toàn thế giới.
Tuy nhiên, trên thực tế thì Việt Nam ta là một quốc gia thuộc Châu Á, từ bao
đời nay chịu ảnh hưởng của hệ tư tưởng Nho giáo và Khổng tử, nên vấn đề “trọng
nam khinh nữ” đã để lại dấu ấn sâu sắc trong tiềm thức của biết bao thế hệ nhân
dân. Bên cạnh đó, do tốc độ phát triển về kinh tế cũng như văn hóa là không đồng
đều giữa các vùng miền trên cả nước, nhận thức của người dân ở một số nơi còn
lạc hậu dẫn đến việc bảo đảm bình đẳng giới ở Việt Nam hiện nay còn gặp nhiều
khó khăn, thách thức, đặc biệt trong lĩnh vực Hôn nhân và Gia đình.
Từ đó đòi hỏi phải có sự nghiên cứu, phân tích pháp luật trong nước, cũng
như có sự so sánh giữa pháp luật trong nước và quốc tế về quyền bình đẳng giữa
vợ và chồng trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình để qua đó xây dựng được những
quan điểm, đưa ra giải pháp khắc phục những bất cập, khó khăn còn tồn tại nhằm
được lựa chọn làm đề tài: “Sự thể hiện của nguyên tắc bình đẳng giữa vợ và
đảm bảo được quyền bình đẳng này giữa vợ và chồng. Do vậy, tác giả xin phép
chồng trong các quy định của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 và thực tiễn
thi hành”.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Một số công trình, đề tài nghiên cứu được các chuyên gia thực hiện dưới các
2
góc độ và trong phạm vi khác nhau, tiêu biểu là: “Đưa vấn đề giới vào phát triển:
thông qua sự bình đẳng giới về quyền, nguồn lực và tiếng nói”, Nxb Văn hóa -
Thông tin, năm 2001; “Giới, việc làm và đời sống gia đình”, Nxb Khoa học xã
hội, năm 2007;… Một số luận văn và luận án về nguyên tắc bình đẳng của vợ
chồng hiện có: Luận văn Tiến sĩ của tác giả Ngyễn Văn Cừ bảo vệ năm 2005:
“Chế độ tài sản của vợ chồng theo Luật Hôn nhân và Gia đình Việt Nam”; tác giả
Chu Thị Thoa: “Bình đẳng giới trong gia đình ở nông thôn đồng bằng sông Hồng
hiện nay”, chuyên ngành Chủ nghĩa cộng sản khoa học, năm 2002; tác giả Đặng
Thị Ánh Tuyết: “Bình đẳng giới ở nông thôn miền núi phía Bắc hiện nay”, Chuyên
ngành Xã hội học;…
Ngoài ra, vấn đề bình đẳng giữa vợ và chồng còn được đề cập trong nhiều
tạp chí pháp luật, tạp chí phụ nữ, tạp chí nhân quyền và các hội thảo khoa học trên
toàn quốc. Mặc dù đã có nhiều công trình về bình đẳng giới nói chung và bình
đẳng giữa vợ và chồng nói riêng, nhưng nhìn chung những công trình nêu trên chỉ
mới đề cập một số khía cạnh về vấn đề này. Mặt khác, các công trình này đã được
nghiên cứu, thực hiện cách đây nhiều năm, cho đến nay pháp luật và thực tiễn về
quyền bình đẳng của vợ và chồng đã có nhiều thay đổi. Vì vậy, qua việc thực hiện
công trình mới này tác giả đã nghiên cứu có hệ thống và chuyên sâu về nguyên tắc
bình đẳng của vợ và chồng trong Luật Hôn nhân và Gia đình hiện hành, cũng như
đề xuất phương hướng, giải pháp bảo đảm thực hiện nguyên tắc này.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
3.1. Mục đích nghiên cứu đề tài
Nghiên cứu cơ sở lý luận, phân tích, so sánh giữa pháp luật Việt Nam qua
các thời kì lịch sử về nguyên tắc bình đẳng giữa vợ và chồng trong lĩnh vực hôn
nhân gia đình và thực tiễn. Từ đó, đưa ra các giải pháp và phương hướng bảo đảm
3
cho nguyên tắc này được thực hiện triệt để ở Việt Nam.
3.2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài
3.2.1. Đối tượng nghiên cứu đề tài
Luận văn tập trung nghiên cứu sự thể hiện của nguyên tắc bình đẳng giữa vợ
và chồng trong các quy định của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 và thực tiễn
thi hành.
3.2.2. Phạm vi nghiên cứu đề tài
Về nội dung: Đề tài tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản về sự
thể hiện nguyên tắc bình đẳng giữa vợ và chồng theo quy định của Luật hôn nhân
và gia đình năm 2014 và thực tiễn thi hành.
Về không gian: Đề tài tập trung nghiên cứu ở một số địa phương trên cả nước.
Về thời gian: Đề tài sử dụng số liệu nghiên cứu từ năm 2014 đến năm 2018.
3.3. Nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
Để có thể đạt được mục đích đặt ra khi nghiên cứu đề tài, đòi hỏi luận văn
Thứ nhất, nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản về hôn nhân và gia đình,
đặc biệt là nguyên tắc bình đẳng của vợ và chồng theo quy định của Luật hôn nhân
và gia đình năm 2014.
Thứ hai, nêu và phân tích thực trạng về việc thực hiện nguyên tắc bình đẳng
của vợ chồng trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình ở Việt Nam.
4
phải giải quyết các vấn đề sau:
Thứ ba, đề xuất kiến nghị và giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả của
việc thực hiện nguyên tắc này trên thực tế.
4. Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh về bình đẳng giới; cùng với những chủ trương, chính sách, quan điểm của
Nhà nước về vấn đề bình đẳng giới, từ đó nghiên cứu thực trạng của việc thực hiện
nguyên tắc bình đẳng của vợ chồng trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình ở Việt
Nam.
Luận văn kết hợp sử dụng phương pháp luận cùng các phương pháp nghiên
cứu cụ thể: phương pháp tổng hợp, chứng minh, phân tích, so sánh, điều tra xã hội
học,…
5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Kết quả đạt được của luận văn góp phần làm sáng tỏ, bổ sung và phát triển
những vấn đề lý luận về nguyên tắc bình đẳng của vợ chồng theo Luật hôn nhân
và gia đình năm 2014, tạo cơ sở khoa học cho việc nghiên cứu nhằm tiếp tục hoàn
Nam.
Ngoài ra, những giải pháp hoàn thiện pháp luật là cơ sở quan trọng để các cơ
quan chức năng trong phạm vi, thẩm quyền của mình sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện
pháp luật trong lĩnh vực tương ứng. Bên cạnh đó, luận văn sẽ là tài liệu tham khảo
hữu ích không chỉ với đội ngũ giảng viên, sinh viên mà còn có giá trị đối với các
thiện, nâng cao vấn đề bình đẳng giới trong quan hệ hôn nhân gia đình tại Việt
5
cán bộ đang làm công tác hoạch định chính sách và xây dựng pháp luật trong lĩnh
vực hôn nhân và gia đình nói chung, cũng như trong vấn đề bình đẳng giữa người
vợ và người chồng trong quan hệ hôn nhân và gia đình nói riêng.
6. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, nội dung chính của luận văn
bao gồm 2 chương sau:
Chương 1: Những vấn đề lý luận cơ bản của nguyên tắc bình đẳng giữa vợ
và chồng trong các quy định của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.
Chương 2: Áp dụng nguyên tắc bình đẳng giữa vợ và chồng trong các quy
định của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 – Thực trạng và những giải pháp cơ
6
bản.
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN CỦA NGUYÊN TẮC BÌNH ĐẲNG
GIỮA VỢ VÀ CHỒNG TRONG CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT HÔN
NHÂN VÀ GIA ĐÌNH NĂM 2014
1.1. Những khái niệm cơ bản về hôn nhân và gia đình
1.1.1. Khái niệm và đặc trưng cơ bản của hôn nhân
Con người ngay từ khi được sinh ra đời đã hình thành những tình cảm, tình
yêu thương như: tình mẫu tử, tình phụ tử,… Khi phát triển lớn lên trong mỗi chúng
ta sẽ dần dần xuất hiện thêm nhiều thứ tình cảm khác, như là: tình yêu quê hương,
đất nước; tình yêu thương giữa các thành viên trong gia đình (tình yêu con cái đối
với cha mẹ, tình yêu của anh chị đối với các em,…). Đặc biệt có một thứ tình cảm
rất đặc trưng cần phải nói đến là tình yêu đôi lứa – tình yêu nam nữ. Tình yêu nam
nữ chính là tiền đề cho quan hệ hôn nhân và gia đình sau này.
“Trai lớn dựng vợ, gái lớn gả chồng”, hiểu theo nghĩa thông thường thì hôn
nhân chính là sự kết hợp giữa một người nam và một người nữ nhằm tạo lập cuộc
Theo Từ điền Tiếng Việt: “Hôn nhân là việc nam nữ chính thức lấy nhau làm
vợ chồng”.[17]
Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định tại khoản 1 Điều 3 như sau:
“Hôn nhân là quan hệ giữa vợ và chồng sau khi kết hôn”.
sống chung với nhau.
một người đàn ông và một người đàn bà trên nguyên tắc hoàn toàn tự nguyện và
7
Như vậy, theo pháp luật hôn nhân và gia đình thì hôn nhân là sự liên kết giữa
bình đẳng trong khuôn khổ của pháp luật nhằm tạo lập cuộc sống chung với nhau,
cùng nhau xây dựng gia đình ấm no, hạnh phúc.
Từ khái niệm trên có thể thấy hôn nhân có các đặc điểm sau đây:
Thứ nhất, hôn nhân là sự liên kết giữa một người đàn ông và một người đàn
bà:
Hôn nhân dưới chế độ xã hội chủ nghĩa là hôn nhân dựa trên sự liên kết giữa
một người đàn ông và một người đàn bà, đó là hôn nhân một vợ một chồng được
quy định tại các Điều 2, 4 và 10 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.
Thứ hai, hôn nhân là sự liên kết bình đẳng giữa một người đàn ông và một
người đàn bà trên nguyên tắc hoàn toàn tự nguyện:
Trong chế độ xã hội chủ nghĩa, việc kết hôn của nam và nữ là hoàn toàn do
họ tự nguyện quyết định, không bị chi phối bới ý chí của bất kỳ ai và không ai có
quyền thực hiện các hành vi gây cản trở cho việc kết hôn đó. Việc kết hôn cũng
không bị chi phối bởi vấn đề kinh tế, mà nó được xây dựng dựa trên cơ sở là tình
Thứ ba, hôn nhân là sự liên kết bình đẳng giữa vợ và chồng:
Khoản 1 Điều 16 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Mọi người đều bình đẳng
trước pháp luật”. Kế thừa quy định trên của Hiến pháp, Luật hôn nhân và gia đình
năm 2014 cũng đã có quy định về quyền bình đẳng giữa vợ và chồng tại Điều 17
như sau: “Vợ, chồng bình đẳng với nhau, có quyền, nghĩa vụ ngang nhau về mọi
8
cảm, tình yêu chân chính của nam và nữ.
mặt trong gia đình, trong vi các quyền, nghĩa vụ của công dân được quy định trong
Hiến pháp, Luật này và các luật khác có liên quan”.
Thứ tư, hôn nhân là sự liên kết của vợ chồng nhằm sống chung suốt đời với
nhau, cùng nhau xây dựng gia đình tiến bộ, ấm no, hạnh phúc:
Tính chất “bền vững suốt đời” là đặc trưng của hôn nhân thời kỳ xã hội chủ
nghĩa. Khi yêu nhau, vợ chồng đều hướng tới mục tiêu sống chung suốt đời, gắn
bó, hòa thuận với nhau.
Thứ năm, hôn nhân là sự liên kết của vợ chồng theo quy định của pháp luật
hôn nhân và gia đình:
Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 đã quy định một cách đầy đủ, chi tiết về
điều kiện kết hôn. Nam, nữ có quyền tự do kết hôn, tuy nhiên khi thực hiện quyền
này thì phải nằm trong khuôn khổ các điều kiện về kết hôn mà pháp luật đề ra.
1.1.2. Khái niệm và các chức năng cơ bản của gia đình
Theo Từ điển Tiếng Việt: “Gia đình là tập hợp người sống chung thành đơn
thường bao gồm: vợ chồng, cha mẹ và con cái”.[17]
Theo Từ điển Chủ nghĩa Cộng sản Khoa học: “Gia đình là một hình thái
cộng đồng những người gắn bó với nhau bằng quan hệ hôn nhân và quan hệ máu
mủ”.[18]
9
vị nhỏ nhất trong xã hội, gắn bó với nhau bằng quan hệ hôn nhân và dòng máu,
Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định về gia đình tại khoản 2 Điều 3
như sau: “Gia đình là tập hợp những người gắn bó với nhau do hôn nhân, quan
hệ huyết thống hoặc quan hệ nuôi dưỡng, làm phát sinh các quyền và nghĩa vụ
giữa họ với nhau theo quy định của Luật này”.
Như vậy, có thể thấy khái niệm gia đình được hiểu dưới những góc độ khác
nhau:
- Dưới góc độ xã hội: Gia đình chính là tế bào nhỏ nhất hình thành nên xã
hội, là một bộ phận không thể tách rời của xã hội;
- Dưới góc độ pháp lý: Gia đình là tập hợp những người gắn bó với nhau do
quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết thống hay là quan hệ nuôi dưỡng làm phát sinh
các quyền, nghĩa vụ theo quy định của pháp luật. Gia đình được hình thành khi
một trong các sự kiện sau đây xảy ra: sự kiện kết hôn, sự kiện sinh con hay sự kiện
nhận nuôi con nuôi,…
Với vai trò là một tế bào cấu thành nên xã hội nên gia đình sẽ thực hiện các
chức năng xã hội của mình: chức năng sinh đẻ, chức năng kinh tế và chức năng
giáo dục.
Đây là một chức năng rất quan trọng của gia đình, giúp tái sản xuất ra con
người, quyết định đến sự tồn tại cũng như phát triển của toàn xã hội. Chức năng
này của gia đình sẽ đảm bảo duy trì và phát triển nòi giống, đồng thời đầu tư sức
lao động để sản xuất ra của cải vật chất cho xã hội.
Thứ hai, gia đình có chức năng kinh tế:
Đất nước ta với nền kinh tế thị trường nhiều thành phần, định hướng xã hội
Thứ nhất, gia đình có chức năng sinh đẻ:
10
chủ nghĩa, kinh tế gia đình chiếm một tỷ trọng đáng kể và có vai trò quan trọng
trong việc duy trì và phát triển gia đình. Do đó, chức năng kinh tế là một trong
những chức năng quan trọng và chủ yếu của gia đình.
Thứ ba, gia đình có chức năng giáo dục:
Đây là một chức năng quan trọng, có vai trò quyết định trong việc hình thành
và phát triển nhân cách của mỗi con người. Gia đình chính là cái nôi, là trường
học đầu tiên giáo dục mỗi con người chúng ta. Gia đình là nơi đào tạo cho con
người chúng ta biết yêu thương, biết cư xử, biết lao động và rèn luyện nhân cách,
đạo đức.
1.2. Các nguyên tắc cơ bản của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014
Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 có hiệu lực kể từ ngày 01/01/2015 với
9 chương, 133 điều đã thể hiện được những điểm tiến bộ rõ nét và tính nhân văn
sâu sắc so với các văn bản Luật Hôn nhân và Gia đình những năm về trước, phù
hợp với tình hình phát triển kinh tế, xã hội trong giai đoạn mới nhằm nâng cao
chất lượng, sự bền vững của hôn nhân và gia đình, các quy định mới thể hiện sự
tiến bộ rõ nét của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 so với Luật Hôn nhân và
Gia đình năm 2000 gồm: Tăng cường bảo vệ quyền con người, Áp dụng tập quán
trong hôn nhân và gia đình, Nâng độ tuổi kết hôn của nam và nữ, Không cấm kết
thỏa thuận, Quy định thêm đối tượng được yêu cầu giải quyết ly hôn, Quy định
bạo lực gia đình là căn cứ để ly hôn, Vấn đề chia tài sản phải xét yếu tố lỗi, Hạ độ
tuổi hỏi ý kiến của con khi bố mẹ ly hôn, Cho phép mang thai hộ vì mục đích nhân
đạo,…
Bất kì một ngành luật nào cũng đều có một hệ thống những nguyên tắc cơ
hôn giữa những người cùng giới tính, Quy định chế độ tài sản của vợ chồng theo
11
bản ứng với mỗi ngành luật đó, nó đóng vai trò là một khung pháp lý chung được
pháp luật ghi nhận, có tác dụng nhằm định hướng, chỉ đạo cho toàn bộ hệ thống
các quy phạm pháp luật của ngành luật đó.
Nguyên tắc cơ bản của Luật Hôn nhân và Gia đình là những nguyên lý, tư
tưởng chỉ đạo, quán triệt toàn bộ hệ thống các quy phạm pháp luật hôn nhân và
gia đình.
Những nguyên tắc cơ bản của chế độ hôn nhân và gia đình được quy định tại
Điều 2 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 đó là những nguyên tắc sau:
1. Hôn nhân tự nguyện, tiến bộ, một vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng.
2. Hôn nhân giữa công dân Việt Nam thuộc các dân tộc, tôn giáo, giữa người
theo tôn giáo với người không theo tôn giáo, giữa người có tín ngưỡng với người
không có tín ngưỡng, giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài được tôn
trọng và được pháp luật bảo vệ.
3. Xây dựng gia đình ấm no, tiến bộ, hạnh phúc; các thành viên gia đình có
nghĩa vụ tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau; không phân biệt đối xử
giữa các con.
cao tuổi, người khuyết tật thực hiện các quyền về hôn nhân và gia đình; giúp đỡ
các bà mẹ thực hiện tốt chức năng cao quý của người mẹ; thực hiện kế hoạch hóa
gia đình.
5. Kế thừa, phát huy truyền thống văn hóa, đạo đức tốt đẹp của dân tộc Việt
4. Nhà nước, xã hội và gia đình có trách nhiệm bảo vệ, hỗ trợ trẻ em, người
12
Nam về hôn nhân và gia đình.
1.3. Khái niệm và cơ sở pháp lý của nguyên tắc bình đẳng giữa vợ và
chồng
1.3.1. Khái niệm nguyên tắc bình đẳng giữa vợ và chồng
Hôn nhân và gia đình là một lĩnh vực rộng lớn, trong đó tồn tại các quan hệ
nhân thân cũng như các quan hệ tài sản, nó phát sinh dựa trên cơ sở hôn nhân,
huyết thống hay nuôi dưỡng,…
Trong quan hệ hôn nhân và gia đình, do quan niệm xã hội, nam giới thường
được coi là “trụ cột”, có toàn quyền quyết định, làm chủ các vấn đề có liên quan
đến gia đình, còn người phụ nữ lại bị coi thường, không được xem trọng,… Như
vậy, để có một xã hội hiện đại và tiến bộ thì yêu cầu cấp thiết là làm sao để đảm
bảo được sự bình đẳng giữa người nam và người nữ trong gia đình, cụ thể ở đây
chính là sự bình đẳng giữa vợ và chồng.
Bình đẳng giữa vợ và chồng là việc người vợ có quyền bình đẳng, ngang
hàng với người chồng, mọi công việc có liên quan trong gia đình đều được vợ,
chồng cùng nhau gánh vác, chia sẻ và cùng nhau hưởng thụ thành quả từ những
công việc đó.
Nguyên tắc bình đẳng là một trong những nguyên tắc cơ bản của Luật Hôn
nhân và Gia đình. Đó là nguyên lý, tư tưởng chỉ đạo, quán triệt toàn bộ hệ thống
Khoản 3 Điều 5 Luật Bình đẳng giới 2006 quy định: “Bình đẳng giới là việc
nam, nữ có vị trí, vai trò ngang nhau, được tạo điều kiện và cơ hội phát huy năng
lực của mình cho sự phát triển của cộng đồng, của gia đình và thụ hưởng như
nhau về thành quả của sự phát triển đó”.
Khi nam nữ kết hôn, hình thành nên quan hệ hôn nhân và gia đình thì khái
các quy phạm pháp luật hôn nhân và gia đình
13
niệm bình đẳng giới sẽ được xem xét, nhìn nhận dưới góc độ bình đẳng giữa vợ
và chồng. Do đó khái niệm bình đẳng vợ chồng sẽ thuộc trong phạm vi khái niệm
bình đẳng giới.
Trong pháp luật Việt Nam nhà làm luật không đưa ra khái niệm thế nào là
quyền bình đẳng mà chỉ nêu ra các quy định về quyền và nghĩa vụ giữa vợ và
chồng nhằm đảm bảo sự bình đẳng của vợ chồng.
Điều 17 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định: “Vợ, chồng bình
đẳng với nhau, có quyền, nghĩa vụ ngang nhau về mọi mặt trong gia đình, trong
việc thực hiện các quyền, nghĩa vụ của công dân được quy định trong Hiến pháp,
Luật này và các luật khác có liên quan”.
Như vậy, từ quy định của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 ta có các điểm
cần lưu ý như sau:
Thứ nhất, vợ chồng bình đẳng với nhau, có quyền, nghĩa vụ ngang nhau về
mọi mặt trong gia đình:
Mọi mặt trong gia đình ở đây có thể hiểu là mọi vấn đề liên quan đến nhân
thân và quan hệ tài sản của vợ và chồng trong phạm vi gia đình, vợ chồng bình
đẳng trong việc bàn bạc, thỏa thuận các vấn đề liên quan đến nhân thân và tài sản
của vợ chồng, của con cái hoặc các thành viên trong gia đình, liên quan đến cuộc
sống chung của gia đình, các mục tiêu và các tiêu chí mà gia đình mình hướng tới.
nghĩa vụ của công dân:
Sau khi nam nữ kết hôn hình thành quan hệ vợ chồng thì sẽ có quyền và nghĩa
vụ ngang nhau trong mọi vấn đề liên quan đến gia đình mình, từ việc quyết định
các công việc của gia đình, hay việc chăm sóc, giáo dục con cái,... hay trong việc
thực hiện các quyền, nghĩa vụ của công dân theo quy định của pháp luật. Đây
Thứ hai, vợ chồng bình đẳng với nhau trong việc thực hiện các quyền và
14
chính là một điểm mới đáng chú ý của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 so với
Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000, khẳng định quan điểm của Nhà nước về
sự bình đẳng giữa vợ và chồng không chỉ gói gọn trong quan hệ gia đình mà còn
trong các quan hệ khác của đời sống xã hội được thể hiện qua những quyền công
dân được Hiến pháp quy định.
1.3.2. Cơ sở pháp lý của nguyên tắc bình đẳng giữa vợ và chồng
Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa năm 1946 có quy
định: “Đàn bà ngang quyền với đàn ông về mọi phương diện”. Như vậy, Hiến
pháp năm 1946 đã ghi nhận nguyên tắc bình đẳng của nam nữ. Kể từ đó, nguyên
tắc này đã được các bản Hiến pháp sau này của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam kế thừa và ghi nhận.
Hiến pháp năm 2013 của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã ghi
nhận quyền bình đẳng của công dân tại Khoản 1 Điều 16: “Mọi công dân đều bình
đẳng trước pháp luật” và được cụ thể hóa tại Điều 26 như sau:
- Công dân nam, nữ bình đẳng về mọi mặt. Nhà nước có chính sách bảo đảm
quyền và cơ hội bình đẳng giới.
phát huy vai trò của mình trong xã hội.
- Nghiêm cấm phân biệt đối xử về giới.
Trong mối quan hệ hôn nhân thì nguyên tắc bình đẳng nam nữ sẽ được xem
xét và ghi nhận dưới góc độ bình đẳng giữa vợ và chồng. Chính vì lẽ đó, Khoản 1
- Nhà nước, xã hội và gia đình tạo điều kiện để phụ nữ phát triển toàn diện,
15
Điều 36 Hiến pháp 2013 cũng đã có quy định: “Nam, nữ có quyền kết hôn, ly hôn.
Hôn nhân theo nguyên tắc tự nguyện, tiến bộ, một vợ một chồng, vợ chồng bình
đẳng, tôn trọng lẫn nhau”.
Nguyên tắc bình đẳng của vợ chồng trong lĩnh vực hôn nhân, gia đình không
chỉ được Hiến pháp quy định và bảo vệ mà còn được điều chỉnh trong nhiều văn
bản pháp luật khác nhau như: pháp luật dân sự, pháp luật hôn nhân và gia đình,...
Văn bản pháp lý quốc tế đầu tiên đề cập đến vấn đề bình đẳng giữa vợ và
chồng là Tuyên ngôn quốc tế về nhân quyền 1948. Ngay tại lời nói đầu của Tuyên
ngôn đã tuyên bố rằng:
Bản tuyên ngôn toàn thế giới về nhân quyền này là thước đo
chung cho tất cả các nước và tất cả các dân tộc đánh giá việc thực
hiện mục tiêu mà mọi cá nhân và mọi tổ chức trong xã hội, trên cơ sở
luôn ghi nhớ Bản tuyên ngôn này, sẽ phấn đấu thúc đẩy sự tôn trọng
các quyền và tự do cơ bản của con người thông qua truyền bá và giáo
dục, cũng như sẽ phấn đấu đảm bảo cho mọi người dân, ở chính các
nước thành viên của Liên Hợp Quốc và ở các lãnh thổ thuộc quyền
quản lý của mình, công nhận và thực hiện những quyền và tự do đó
vi quốc gia hay quốc tế. [12]
Khoản 1 Điều 16 Bản Tuyên ngôn quốc tế về nhân quyền quy định: “Đến
tuổi thành hôn, thanh niên nam nữ có quyền kết hôn và lập gia đình mà không bị
ngăn cấm vì lý do chủng tộc, quốc tịch hay tôn giáo. Họ có quyền bình đẳng khi
kết hôn, trong thời gian hôn thú cũng như khi ly hôn”.
Quy định nêu trên là một trong những quyền tự do cơ bản của con người được
một cách có hiệu quả thông qua những biện pháp tích cực, trong phạm
16
ghi nhận tại Tuyên ngôn quốc tế về nhân quyền và Các Quốc Gia Hội Viên cam
kết, bằng những hành động riêng rẽ hay phối hợp, sẽ cộng tác với Liên Hiệp Quốc
trong việc thực hiện những mục tiêu mà Bản tuyên ngôn đề ra (Điều 56).
Một văn bản pháp lý quốc tế tiếp theo phải kể đến là Công ước Cedaw về xóa
bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử chống lại phụ nữ năm 1979. Công ước này đã
thừa nhận một cách rõ ràng:
Sự phân biệt đối xử chống lại phụ nữ vẫn đang tồn tại ở nhiều
nơi và nhấn mạnh rằng: “Sự phân biệt đối xử chống lại phụ nữ vi phạm
các nguyên tắc bình đẳng về các quyền và tôn trọng nhân phẩm, là một
trở ngại với sự tham gia của phụ nữ, trên cơ sở bình đẳng với đàn ông,
vào đời sống văn hoá, kinh tế, xã hội và chính trị của quốc gia họ, làm
ảnh hưởng tới sự thịnh vượng của xã hội và gia đình, và gây nhiều khó
khăn cho sự phát triển đầy đủ các khả năng tiềm tàng của phụ nữ trong
việc phục vụ đất nước và loài người. [13]
Điều 1 Công ước đã nêu ra định nghĩa về sự phân biệt đối xử như sau:
Vì những mục đích của Công ước này, thuật ngữ “phân biệt đối
xử với phụ nữ" sẽ có nghĩa là bất kỳ sự phân biệt, loại trừ hay hạn chế
nào được đề ra dựa trên cơ sở giới tính, mà có tác dụng hoặc nhằm mục
đích làm tổn hại hoặc vô hiệu hóa việc phụ nữ, bất kể tình trạng hôn
quyền con người và tự do cơ bản trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, xã
hội, văn hóa, dân sự hay bất kể lĩnh vực nào khác, trên cơ sở bình đẳng
giữa nam giới và phụ nữ. [13]
Bản Công ước khẳng định tại Điều 2 và Điều 3 rằng Các quốc gia thành viên
nhân của họ như thế nào, được công nhận, hưởng thụ hay thực hiện các
17
Công ước lên án sự phân biệt đối xử chống lại phụ nữ thể hiện dưới mọi hình thức,
đồng ý áp dụng tất cả những biện pháp thích hợp và không chậm trễ để thực hiện
một chính sách xoá bỏ phân biệt đối xử chống lại phụ nữ, và nhằm mục đích đó,
cam kết:
- Thể hiện nguyên tắc bình đẳng nam nữ vào hiến pháp nước
mình, hoặc vào các văn bản pháp luật thích hợp khác, nếu như việc này
chưa được thực hiện, và bảo đảm, thông qua pháp luật và các biện pháp
khác, việc thực hiện các nguyên tắc này trên thực tế;
- Thông qua các biện pháp pháp lý và các biện pháp thích hợp
khác, kể cả việc trừng phạt trong những trường hợp cần thiết, nhằm
ngăn cấm tất cả các hình thức phân biệt đối xử chống lại phụ nữ;
- Thiết lập sự bảo vệ về mặt luật pháp các quyền của phụ nữ trên
cơ sở bình đẳng với nam giới và đảm bảo bảo vệ phụ nữ một cách có
hiệu quả chống lại bất kỳ hành động phân biệt đối xử nào thông qua
các Tòa án quốc gia có thẩm quyền và các thiết chế công cộng khác;
- Kiềm chế tham gia bất kỳ hành động hoặc hoạt động nào có
chức và cơ quan chính quyền sẽ hành động phù hợp với nghĩa vụ này;
- Thực hiện tất cả các biện pháp thích hợp nhằm xoá bỏ sự phân
biệt đối xử chống lại phụ nữ do bất kỳ cá nhân, tổ chức hoặc cơ quan
nào tiến hành;
18
tính chất phân biệt đối xử chống lại phụ nữ và bảo đảm rằng các giới
- Thực hiện tất cả các biện pháp thích hợp, kể cả về mặt pháp lý,
nhằm sửa đổi hoặc xoá bỏ các luật và văn bản pháp luật hiện hành, các
tập quán và phong tục tạo nên sự phân biệt đối xử chống lại phụ nữ;
- Hủy bỏ tất cả quy định hình sự quốc gia mà tạo nên sự phân
biệt đối xử chống lại phụ nữ.
Các quốc gia thành viên Công ước phải tiến hành mọi biện pháp thích hợp,
kể cả về mặt lập pháp, trên tất cả các lĩnh vực, đặc biệt là về chính trị, xã hội, kinh
tế và văn hóa, để đảm bảo sự phát triển và tiến bộ đầy đủ của phụ nữ, với mục đích
đảm bảo cho họ thực hiện và được hưởng các quyền của con người và tự do cơ
bản trên cơ sở bình đẳng với nam giới.
Về sự phân biệt đối xử đối với phụ nữ trong quan hệ hôn nhân và gia đình thì
ngay tại khoản 1 Điều 16 của Công ước đã có quy định như sau:
Các quốc gia thành viên phải áp dụng tất cả các biện pháp thích
hợp để xoá bỏ sự phân biệt đối xử chống lại phụ nữ trong tất cả các vấn
đề liên quan đến hôn nhân và quan hệ gia đình, cụ thể phải bảo đảm
a) Quyền kết hôn như nhau;
b) Quyền như nhau trong việc tự do lựa chọn người để kết hôn
và chỉ kết hôn khi mình được tự do quyết định và hoàn toàn tự nguyện;
c) Quyền và trách nhiệm như nhau giữa vợ chồng trong thời gian
những quyền dưới đây, trên cơ sở bình đẳng nam nữ:
19
hôn nhân cũng như khi hôn nhân bị hủy bỏ;
d) Quyền và trách nhiệm như nhau trong vai trò làm cha mẹ, bất
kể tình trạng hôn nhân như thế nào, về các vấn đề liên quan đến con
cái họ. Trong tất cả các trường hợp, lợi ích của con cái phải được coi
là điều quan trọng nhất;
e) Quyền như nhau trong việc quyết định một cách tự do và có
trách nhiệm về số con và khoảng cách giữa các lần sinh, quyền được
tiếp cận với những thông tin, giáo dục và các phương tiện cho phép họ
thực hiện các quyền này;
f) Quyền và trách nhiệm như nhau đối trong các vấn đề về nuôi
dưỡng, giám hộ, bảo trợ, ủy thác và cho nhận con nuôi, hoặc trong
những vấn đề tương tự ở những nơi mà các khái niệm này có trong
pháp luật quốc gia. Trong tất cả các trường hợp, lợi ích của con cái phải
được coi là điều quan trọng nhất;
g) Các quyền cá nhân như nhau giữa vợ và chồng, bao gồm
quyền được lựa chọn tên họ, nghề nghiệp, việc làm của bản thân mình;
tiếp nhận, kiểm soát, quản lý, hưởng thụ và sử dụng tài sản, dù đó là
tài sản không phải trả tiền, hay đó là tài sản có giá trị lớn.
Như vậy, có thể thấy nghĩa vụ của các Quốc gia khi tham gia vào Công ước
Cedaw sẽ mang tính chất toàn diện, từ nghĩa vụ đảm bảo quyền bình đẳng trong
việc kết hôn, trong thời kỳ hôn nhân, trong quan hệ giữa cha, mẹ đối với con cái,
h) Các quyền như nhau của cả vợ và chồng đối với việc sở hữu,
20
trong việc chiếm hữu sử dụng định đoạt tài sản, hay khi hhoon nhân kết thúc,... và
để thực hiện được các nghĩa vụ nói trên thì Công ước Cedaw đưa ra các biện pháp
cụ thể tại Điều 2 để các Quốc gia áp dụng như sau:
- Đưa nguyên tắc bình đẳng nam nữ vào Hiến pháp quốc gia
hoặc các văn bản pháp luật thích hợp khác nếu vấn đề này chưa được
đề cập tới và bảo đảm việc thực thi nguyên tắc này trong thực tế bằng
pháp luật và các biện pháp thích hợp khác;
- Xây dựng các điều khoản pháp luật và thông qua các biện pháp
thích hợp khác, kể cả việc trừng phạt trong những trường hợp cần thiết,
nhằm ngăn cấm mọi sự phân biệt đối xử với phụ nữ;
- Thiết lập cơ chế bảo vệ mang tính pháp lý các quyền của phụ
nữ trên cơ sở bình đẳng với nam giới và thông qua các toà án quốc gia
có thẩm quyền và các cơ quan nhà nước khác để bảo vệ phụ nữ một
cách có hiệu quả chống lại mọi hành động phân biệt đối xử;
- Không tiến hành bất kỳ hành động hoặc hoạt động nào có tính
chất phân biệt đối xử với phụ nữ và bảo đảm rằng các cấp chính quyền
- Áp dụng mọi biện pháp thích hợp nhằm xoá bỏ sự phân biệt
đối xử với phụ nữ do bất kỳ cá nhân, tổ chức hoặc doanh nghiệp nào
tiến hành;
- Áp dụng mọi biện pháp thích hợp, kể cả những biện pháp pháp
và cơ quan nhà nước sẽ hành động phù hợp với nghĩa vụ này;
luật, nhằm sửa đổi hoặc xóa bỏ mọi điều khoản, quy định, tập quán và
21
thực tiễn hiện đang tồn tại mang tính chất phân biệt đối xử với phụ nữ;
- Huỷ bỏ mọi điều khoản hình sự có phân biệt đối xử với phụ nữ.
Các nước tham gia Công ước phải áp dụng mọi biện pháp thích hợp, kể cả
biện pháp pháp luật, trên tất cả các lĩnh vực đặc biệt là chính trị, xã hội, kinh tế và
văn hoá để đảm bảo sự phát triển và tiến bộ đầy đủ của phụ nữ, nhằm mục đích
bảo đảm cho họ được thực hiện cũng như thụ hưởng các quyền con người và tự
do cơ bản trên cơ sở bình đẳng với nam giới (Điều 3).
Để kế thừa các quy định về sự bình đẳng từ các văn bản pháp luật Quốc tế
cũng như quy định tại Hiến pháp của Việt Nam, pháp luật hôn nhân và gia đình đã
công nhận quyền bình đẳng của vợ và chồng trong quan hệ hôn nhân gia đình.
Pháp luật Hôn nhân và Gia đình là một hệ thống quy phạm pháp luật điều
chỉnh các quan hệ phát sinh trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình, đây là công cụ
có vai trò quan trọng mà thông qua đó, trật tự xã hội trong lĩnh vực hôn nhân và
gia đình được thiết lập và bảo vệ.
Kể từ sau Cách mạng Tháng tám năm 1945, Việt Nam ta đã xây dựng được
4 đạo luật trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình, đó là: Luật Hôn nhân và Gia đình
2000 và Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 hiện đang có hiệu lực thi hành. Điểm
chung của cả 4 đạo Luật này là Nhà nước Việt Nam đều công nhận chế độ hôn
nhân tự do, tự nguyện, tiến bộ, một vợ, một chồng, vợ chồng bình đẳng.
Một trong những nguyên tắc cơ bản của Luật Hôn nhân và Gia đình năm
1959 chính là nguyên tắc vợ chồng bình đẳng. Luật hôn nhân và Gia đình năm
năm 1959, Luật Hôn nhân và Gia đình năm 1986, Luật Hôn nhân và Gia đình năm
22
1959 quy định về nguyên tắc vợ chồng bình đẳng tại Điều 3, và được cụ thể hóa
tại các Điều 12, 14, 15 và 16 như sau: Trong gia đình, vợ chồng đều bình đẳng về
mọi mặt, vợ chồng đều có quyền tự do chọn nghề nghiệp, tự do hoạt động chính
trị, văn hóa, xã hội; vợ chồng đều có quyền sở hữu, hưởng thụ và sử dụng ngang
nhau đối với các tài sản có trước và sau khi cưới; vợ chồng có quyền thừa kế tài
sản của nhau khi một bên chết.
Luật Hôn nhân và Gia đình năm 1986 và năm 2000 tiếp tục ghi nhận nguyên
tắc vợ chồng bình đẳng, trong phạm vi gia đình, vợ chồng có quyền và nghĩa vụ
ngang nhau về mọi mặt. Đồng thời cũng đảm bảo quyền bình đẳng của vợ chồng
trong việc lựa chọn chỗ ở, việc làm, trong việc tham gia các hoạt động kinh tế, văn
hóa, chính trị, thừa nhận vợ chồng có quyền ngang nhau đối với tài sản chung,...
Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 đã kế thừa các đạo luật Hôn nhân và
Gia đình những năm về trước, thể hiện quan điểm của Đảng và Nhà nước về vấn
đề bình đẳng giữa vợ và chồng, đồng thời là Luật hôn nhân và gia đình năm 2014
còn kịp thời bổ sung các quy định mới, sửa đổi, loại bỏ các quy định cũ đã lạc hậu,
không theo kịp xu hướng phát triển của xã hội nhằm giải quyết các vấn đề phát
sinh trong thực tiễn ở lĩnh vực Hôn nhân và Gia đình. Đặc biệt, việc ghi nhận
vi gia đình trong Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 so với Luật Hôn nhân và
Gia đình năm 2000 là một cơ sở pháp lý quan trọng bảo đảm sự bình đẳng thực
chất giữa vợ và chồng không chỉ trong quan hệ gia đình mà còn là sự bình đẳng
trong thực hiện các quyền, nghĩa vụ của công dân được Hiến pháp và văn bản quy
phạm pháp luật khác quy định.
23
nguyên tắc bình đẳng của vợ chồng một cách toàn diện mà không chỉ trong phạm
1.4. Sơ lược về địa vị pháp lý của vợ và chồng qua các thời kỳ lịch sử của
đất nước
1.4.1. Địa vị pháp lý của vợ và chồng trong pháp luật thời kỳ phong kiến
Xã hội thời kỳ phong kiến ở Việt Nam chịu ảnh hưởng nặng nề của tư tưởng
Nho giáo, địa vị của người phụ nữ trong xã hội nói chung và trong gia đình nói
riêng rất thấp kém, hoàn toàn phụ thuộc vào người đàn ông.
Sớm nhận thức được sự bất bình đẳng giữa người đàn ông và người đàn bà
trong xã hội nên vấn đề bình đẳng giới đã được nhà nước phong kiến Việt Nam
quan tâm, thể hiện qua tư duy pháp lý mà đỉnh cao là những quy định tại Bộ luật
Hồng Đức. Bộ luật này gồm 13 chương và 722 điều ban hành vào thời vua Lê
Thánh Tông (1470 - 1497). Trong Bộ luật này, bên cạnh những quy định thể hiện
sự phân biệt đối xử khá rõ ràng về sự bình đẳng giữa vợ và chồng, như quy định
tại Điều 481 người vợ phải “phục tùng chồng và chịu sự dạy dỗ của người chồng”
thì Bộ luật cũng có hẳn một nội dung lớn bênh vực và bảo vệ quyền lợi cho người
phụ nữ, thể hiện quan điểm bình đẳng giới mà đến nay vẫn mang tính thời sự và
cần kế thừa, học tập. Cụ thể là các quy định sau:
Quyền này được thể hiện ở các quy định như sau:
- Điều 338: "Những nhà quyền thế mà ức hiếp để lấy con gái kẻ lương dân,
thì xử tội phạt, biếm hay đồ”,
Thứ nhất, quyền được Nhà nước bảo vệ hôn nhân:
không gả nữa thì bị phạt “80 trượng” và đem gả cho người khác mà đã thành hôn
24
- Điều 315 quy định việc trừng trị tất cả những ai đã gả con gái rồi mà lại thôi
rồi thì bị xử tội “đồ”, người sau biết thế mà cứ lấy thì cũng bị xử tội “đồ”, người
con gái đó phải gả cho người hỏi trước, nếu người đó không lấy nữa thì nhà người
con gái phải bồi thường đồ sính lễ gấp đôi cho người đó;
- Điều 321 quy định vợ cả và vợ lẽ nếu tự tiện bỏ nhà chồng cũng như đi lấy
chồng khác đều bị xử tội “đồ” và họ cùng gia sản phải trả về cho nhà chồng cũ;
- Điều 333 ghi rõ: Đã gả con gái rồi mà về sau vì thấy người chồng nghèo
khổ, lại bắt con gái về thì bị xử phạt “60 trượng”, biếm hai tư, người con gái đó
phải bắt trở về nhà chồng.
Tất cả những người đàn ông nào biết mà vẫn lấy họ làm vợ đều bị xử tội “đồ”.
- Điều 308, 309,… yêu cầu người chồng phải luôn thương yêu người vợ, phải
chăm lo hạnh phúc cho gia đình.
Thứ hai, quyền ly hôn của phụ nữ được thể hiện ở các quy định:
- Điều 308 quy định: Phàm chồng bỏ lững vợ 5 tháng không đi lại (vợ được
trình quan sở tại, quan xã làm chứng) thì chồng đó mất vợ. Nếu đã có con thì gia
hạn 1 năm. Nếu đã thôi vợ mà cản trở người khác cưới vợ cũ thì xử “biếm”;
vợ thì bị xử tội “biếm”. Bên cạnh đó, tất cả những hành vi gian dâm đều bị nghiêm
trị với khung hình phạt rất nặng.
25
- Điều 309 quy định: Người nào mà quá say đắm với nàng hầu mà thờ ơ với
Thứ ba, bình đẳng trong sở hữu tài sản:
Điều 374, 375 và 376 tài sản của vợ chồng được hình thành từ 3 nguồn: Tài
sản của chồng thừa kế từ gia đình nhà chồng (phu điền sản); tài sản của người vợ
thừa kế từ gia đình nhà vợ (thê điền sản) và tài sản do hai vợ chồng làm ra trong
thời kỳ hôn nhân (tần tảo điền sản). Khi gia đình tồn tại, tất cả tài sản được coi là
của chung. Khi ly hôn, tài sản của ai, người đó được nhận riêng và chia đôi tài sản
chung của hai người. Còn khi chồng chết trước (hay vợ chết trước) tài sản có do
cha mẹ dành cho được chia làm hai phần bằng nhau, một phần dành cho gia đình
bên chồng/vợ để lo việc tế lễ. Một phần dành cho vợ/chồng để phụng dưỡng một
đời.
Bên cạnh đó, Bộ Luật Hồng Đức cũng có quy định bảo vệ phụ nữ như xử
nặng đối với trường hợp xâm phạm thân thể của người vợ. Điều 404 quy định nếu
người chồng đánh vợ bị thương thì xử như tội đánh người bị thương nhưng nhẹ
hơn 3 bậc hay trong Điều 309 buộc người chồng phải tôn trọng thứ bậc của người
vợ trong gia đình: “Ai lấy nàng hầu lên làm vợ thì xử tội phạt, vì quá say đắm
nàng hầu mà thờ ơ với vợ thì xử tội biếm”. [2]
ban hành sau Bộ Luật Hồng Đức tới hơn 300 năm nhưng Bộ luật này lại không kế
thừa được tư tưởng tiến bộ của Bộ luật Hồng Đức trong việc công nhận nguyên
tắc bình đẳng giới cũng như bảo vệ quyền lợi của người phụ nữ trong xã hội phong
kiến, Bộ Luật phủ nhận hoàn toàn vai trò của người phụ nữ và số phận của người
vợ phụ thuộc tuyệt đối vào người chồng của mình.
26
Bộ luật Gia Long được ban hành dưới Triều Nguyễn vào năm 1812, dù được
1.4.2. Địa vị pháp của của vợ và chồng trong pháp luật thời kỳ Pháp thuộc
Thực dân Pháp đã đô hộ đất nước ta gần 80 năm, chúng đã thực hiện chính
sách chia để trị đối với Việt Nam nhằm biến nước ta thành thuộc địa của chúng,
cụ thể chúng chia đất nước ta làm 3 miền và mỗi miền lại có một chế độ pháp luật
riêng biệt, đó là: Bộ luật dân sự Bắc kì năm 1931, Bộ luật Dân sự Trung kì năm
1936, Bộ luật Dân sự Nam kì giản yếu năm 1883.
Quan hệ vợ chồng khi được ba Bộ luật trên điều chỉnh đều thể hiện sự bất
bình đẳng sâu sắc giữa người vợ và người chồng. Tuy nhiên, bên cạnh các quy
định thể hiện sự bất bình đẳng, phân biệt đối xử với phụ nữ, pháp luật thời kì này
cũng có những quy định thể hiện sự tiến bộ, đáng ghi nhận. Cụ thể:
- Điều 76 Bộ luật Dân sự Bắc kì năm 1931 quy định việc kết hôn phải do hai
bên nam nữ tự nguyện và bằng lòng;
- Điều 118 Bộ luật Trung Kì 1936 quy định cho phép người vợ có thể xin ly
hôn trong những trường hợp sau đây:
+ Chồng không làm những nghĩa vụ đã cam kết khi kết hôn là phải nuôi
+ Chồng bỏ nhà đi quá hai năm không có lý do chính đáng và không lo liệu
việc nuôi nấng con cái;
+ Không có lý do chính đáng mà chồng đuổi vợ con ra khỏi nhà.
27
dưỡng con tùy theo kế sinh nhai;
- Ngoài ra, Bộ luật Dân sự Bắc kì và Bộ luật Dân sự Trung kì đã thừa nhận
quyền sở hữu của người vợ trong khối tài sản chung là ngang bằng với người
chồng,...
1.4.3. Địa vị pháp lý của vợ và chồng trong pháp luật từ sau Cách mạng
tháng 8 đến nay
Cách mạng tháng 8 năm 1945 thành công vang dội, xóa bỏ được ách thống
trị suốt hàng ngàn năm của chế độ phong kiến lạc hậu, cổ hủ, mà ở đó có sự bất
bình đẳng năm nữ, sự phân biệt đối xử một cách nặng nề đối với người phụ nữ.
Điều 9 Hiến pháp năm 1946 quy định: “Đàn bà ngang quyền với đàn ông về
mọi phương diện”. Như vậy, nguyên tắc bình đẳng nam nữ đã được Nhà nước
thừa nhận và coi đây là một trong những nguyên tắc cơ bản để xây dựng pháp luật.
Bằng việc quy định quyền bình đẳng nam nữ, Hiến pháp năm 1946 đã tạo lập cơ
sở pháp lý để đấu tranh nhằm xóa bỏ dần sự bất bình đẳng giữa phụ nữ và nam
giới trong xã hội. Quyền bình đẳng giữa nam và nữ cũng như sự quan tâm của Nhà
nước và xã hội đối với quyền lợi của người phụ nữ tiếp tục được thể hiện ở các
bản Hiến pháp về sau của nước ta như Hiến pháp năm 1959, Hiến pháp năm 1980,
Sau Hiệp định Giơ-ne-vơ năm 1954, đất nước ta bị chia cắt làm 2 miền Nam
– Bắc. Miền Bắc được giải phóng, bước vào xây dựng thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội. Miền Nam tiếp tục cuộc Cách mạng đấu tranh, thống nhất đất nước.
Ở miền Bắc, Hiến pháp năm 1959 của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đã
Hiến pháp năm 1992 và Hiến pháp năm 2013. [22]
28
ghi nhận quyền bình đẳng của vợ chồng trên mọi phương diện. Ngay trong năm
đó cũng ra đời văn bản pháp luật đầu tiên điều chỉnh quan hệ hôn nhân và gia đình
của Nhà nước ra ta, đó là Luật Hôn nhân và Gia đình năm 1959 mà một trong
những nguyên tắc cơ bản của Luật này chính là nguyên tắc vợ chồng bình đẳng.
Luật Hôn nhân và Gia đình năm 1959 quy định về nguyên tắc vợ chồng bình đẳng
tại Điều 3, và được cụ thể hóa tại các Điều 12, 14, 15 và 16.
Ở miền Nam, đế quốc Mỹ đã nhảy vào thế chân Thực dân Pháp xâm lược
nước ta và có ba văn bản pháp luật được ban hành và áp dụng là: Luật Gia đình
ngày 02 tháng 01 năm 1959 của chính quyền Ngô Đình Diệm; Sắc luật số 15/64
ngày 23 tháng 7 năm 1964 của chính quyền Nguyễn Khánh; Bộ Dân luật Sài Gòn
ngày 20 tháng 12 năm 1972 của chính quyền Nguyễn Văn Thiệu. Theo quy định
của 3 văn bản pháp luật này thì phụ nữ phần nào đã có thêm những quyền lợi tương
đương với người chồng: quyền có tài sản riêng, vợ chồng thỏa thuận vấn đề tài sản
chung, quyền tự do lập hôn ước,...
- Luật Gia đình năm 1959 đánh dấu mốc đầu tiên trong nền pháp chế Việt
Nam bãi bỏ chế độ một chồng nhiều vợ bằng quy định: “Chế độ đa thê từ nay bị
bãi bỏ hẳn”. Quy định này thể hiện sự tiến bộ đáng kể trong việc đảm bảo chế độ
55: “Cấm ly hôn, chỉ được phép ly thân”, quy định xử phạt đối với hành vi ruồng
bỏ vợ hay chồng là có thể bị phạt tiền hay phạt giam tới 1 năm,...
- Sắc luật số 15/64 năm 1964 quy định vợ hoặc chồng có thể yêu cầu ly hôn
khi có một trong các căn cứ sau đây: Vì sự ngoại tình của người phối ngẫu; Vì sự
phối ngẫu bị kết án trọng hình về thường tội; Sự ngược đãi, bạo hành hay ngục
hôn nhân một vợ một chồng. Bên cạnh đó, Luật còn quy định về ly thân tại Điều
29
mạ, có tính chất thâm từ và thường xuyên làm cho vợ chồng không thể chung sống
với nhau được nữa; Vì có án văn xác định sự biệt tích của người phối ngẫu đã thất
tung; Vì người phối ngẫu bỏ phế gia đình, sau khi có án văn nhất định xử phạt
người phạm tội (Điều 63, Sắc luật số 15/64).
- Bộ Dân luật Sài Gòn năm 1972 quy định tại Điều 136: “Vợ chồng có nghĩa
vụ thủy chung với nhau và giúp đỡ nhau cùng chung lo xây dựng hạnh phúc gia
đình và dưỡng dục con cái”; Điều 143: “Dưới mọi chế độ, vợ có quyền thay mặt
chồng về những nhu cầu gia vụ và dùng tiền bạc của chồng vào những nhu cầu
ấy. Mọi hành vi của vợ trong phạm vi này đều có hiệu lực ràng buộc chồng, trừ
phi người chồng đã tước quyền vợ và người đệ tam kết ước với người vợ đã biết
có sự tước quyền”,...
Về quyền được ly thân hoặc ly hôn, Điều 170 quy định về các trường hợp vợ
hay chồng có thể xin ly hôn hoặc ly thân:
+ Vì sự ngoại tình của người phối ngẫu;
+ Vì người phối ngẫu bị kết án trọng hình về thường tội;
+ Vì sự ngược đãi, bạo hành hay nhục mạ, có tính chất thậm từ và tái diễn
Tuy nhiên, cả ba văn bản này vẫn đề cao quyền gia trưởng trong gia đình của
người chồng, quyền lợi của người vợ không được đảm bảo, do đó sự bất bình đẳng
trong quan hệ giữa vợ chồng vẫn còn tồn tại trong xã hội niềm Nam thời kì bấy
giờ.
30
khiến vợ chồng không thể ăn ở với nhau nữa.
Ngày 30 tháng 4 năm 1975 đánh dấu mốc lịch sử thắng lợi cho cuộc kháng
chiến chống Mỹ, đất nước thống nhất, cả nước ta đi lên xây dựng chủ nghĩa xã
hội. Hiến pháp 1980 ghi nhận nguyên tắc vợ chồng bình đẳng là một trong những
nguyên tắc cơ bản của luật hôn nhân gia đình. Năm 1986, Luật Hôn nhân và Gia
đình mới ra đời thay thế cho Luật Hôn nhân và Gia đình năm 1959 đã không còn
phù hợp với xu thế phát triển đất nước. Nhìn chung, Luật Hôn nhân và Gia đình
năm 1986 đã kế thừa những điểm tích cực trong Luật Hôn nhân và Gia đình năm
1959 trong việc đảm bảo quyền bình đẳng giữa vợ và chồng trong mối quan hệ
hôn nhân gia đình.
Sau đó, Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000 và Luật hôn nhân và gia đình
năm 2014 ra đời thể hiện quan điểm của Đảng và Nhà nước về vấn đề bình đẳng
giữa vợ và chồng, tiếp tục ghi nhận nguyên tắc vợ chồng bình đẳng, trong phạm
vi gia đình, vợ chồng có quyền và nghĩa vụ ngang nhau về mọi mặt. Đồng thời
cũng đảm bảo quyền bình đẳng của vợ chồng trong việc lựa chọn chỗ ở, việc làm,
trong việc tham gia các hoạt động kinh tế, văn hóa, chính trị, thừa nhận vợ chồng
có quyền ngang nhau đối với tài sản chung,... Luật hôn nhân và gia đình năm 2014
còn kịp thời bổ sung các quy định mới, sửa đổi, loại bỏ các quy định cũ đã lạc hậu,
sinh tron thực tiễn ở lĩnh vực Hôn nhân và Gia đình.
31
không theo kịp xu hướng phát triển của xã hội nhằm giải quyết các vấn đề phát
1.5. Nội dung cơ bản của nguyên tắc bình đẳng giữa vợ và chồng theo
quy định của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014
1.5.1. Vợ chồng bình đẳng trong quan hệ nhân thân
Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 hiện chưa có quy định thế nào là quyền
nhân thân, tuy nhiên Luật hôn nhân và gia đình với tư cách là một ngành luật
chuyên ngành thuộc lĩnh vực dân sự nên có thể chiếu theo quy định của Bộ luật
dân sự 2015 về quyền nhân thân như sau: “Quyền nhân thân được quy định trong
Bộ luật này là quyền dân sự gắn liền với mỗi cá nhân, không thể chuyển giao cho
người khác, trừ trường hợp luật khác có liên quan quy định khác” (khoản 1 Điều
25).
Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 có quy định khái quát nhất về quyền và
nghĩa vụ nhân thân của vợ chồng tại Điều 17 như sau: “Vợ, chồng bình đẳng với
nhau, có quyền, nghĩa vụ ngang nhau về mọi mặt trong gia đình, trong việc thực
hiện các quyền, nghĩa vụ của công dân được quy định trong Hiến pháp, Luật này
và các luật khác có liên quan”.
Như vậy, sau khi nam nữ kết hôn hình thành quan hệ vợ chồng thì sẽ có quyền
quyết định các công việc của gia đình, việc chăm sóc, giáo dục con cái,... hay trong
việc thực hiện các quyền, nghĩa vụ của công dân theo quy định của pháp luật. Đây
chính là một điểm mới đáng chú ý của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 so với
Luật Hôn nhân và Gia đình 2000, khẳng định quan điểm của Nhà nước về sự bình
đẳng giữa vợ và chồng không chỉ gói gọn trong quan hệ gia đình mà còn trong các
32
và nghĩa vụ ngang nhau trong mọi vấn đề liên quan đến gia đình mình, từ việc
quan hệ khác của đời sống xã hội được thể hiện qua những quyền công dân được
Hiến pháp quy định.
1.5.1.1. Bình đẳng qua nghĩa vụ chung thủy, thương yêu, tôn trọng, quan
tâm, chăm sóc và giúp đỡ nhau
Khoản 1 điều 19 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định: “Vợ chồng
có nghĩa vụ thương yêu, chung thủy, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau;
cùng nhau chia sẻ, thực hiện các công việc trong gia đình”.
Theo Từ điển Tiếng Việt, “chung thủy” trong mối quan hệ vợ chồng là “tình
cảm trước sau như một, không thay đổi”. [17]
Trong thời kì phong kiến Việt Nam trước kia đã xuất hiện bài ca dao “trai
năm thê bảy thiếp, gái chính chuyên một chồng”. Sở dĩ có câu ca dao đó là xã hội
Việt Nam thời phong kiến chịu ảnh hưởng sâu sắc của tư tưởng Nho giáo, vì vậy
nghĩa vụ chung thủy trong quan hệ vợ chồng chỉ đước đặt ra đối với người phụ
nữ, còn người đàn ông thì có quyền đa thê. Điều này thể hiện sự phân biệt đối xử
đối với người phụ nữ cũng như thể hiện sự bất bình đẳng sâu sắc giữa người vợ và
người chồng trong quan hệ hôn nhân gia đình.
là sợi dây vô hình gắn kết người vợ và người chồng, và chung thủy, thương yêu,
tôn trọng, quan tâm, chăm sóc và giúp đỡ nhau là những biểu hiện của tình yêu
đó. Điều đó có nghĩa là vợ chồng cần yêu thương, tôn trọng, lắng nghe ý kiến của
nhau; đồng thời giữ gìn danh dự, uy tín, nhân phẩm; quan tâm, động viên lẫn nhau
và tạo điều kiện cho đối phương phát huy những điểm mạnh của bản thân. Có như
33
Trong xã hội hiện đại, tình yêu là nền tảng xây dựng nên quan hệ hôn nhân,
vậy thì mới tạo ra một gia đình bền vững, hạnh phúc, góp phần xây dựng một xã
hội văn minh, hiện đại.
Chính vì vậy pháp luật Hôn nhân và Gia đình đặt ra nghĩa vụ chung thủy,
thương yêu, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc và giúp đỡ nhau là nghĩa vụ bình đẳng
của cả vợ và chồng, đòi hỏi người vợ và người chồng cần cố gắng thực hiện để
bảo vệ hạnh phúc gia đình.
1.5.1.2. Bình đẳng trong việc lựa chọn nơi cư trú
Điều 20 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định: “Việc lựa chọn nơi
cư trú của vợ chồng do vợ chồng thỏa thuận, không bị ràng buộc bởi phong tục,
tập quán, địa giới hành chính”.
Vấn đề phát sinh đầu tiên sau khi quan hệ vợ chồng được hình thành có lẽ là
việc lựa chọn nơi cư trú của vợ chồng, do đó pháp luật Hôn nhân Gia đình thừa
nhận vợ chồng bình đằng với nhau trong việc lựa chọn nơi cư trú của vợ chồng
bằng cách quy định nơi cư trú của vợ chồng do vợ chồng thỏa thuận để lựa chọn,
sự lựa chọn này không bị ràng buộc bởi phong tục tập quán của địa phương, vào
địa giới hành chính. Vì vậy, vợ chồng cần thỏa thuận và lựa chọn thế nào để phù
1.5.1.3. Bình đẳng trong quyền lựa chọn tự do tín ngưỡng, tôn giáo
Điều 24 Hiến pháp năm 2013 quy định quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của
công dân như sau:
- Mọi người có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc
không theo một tôn giáo nào. Các tôn giáo bình đẳng trước pháp luật;
34
hợp với điều kiện sinh sống và làm việc của gia đình mình.
- Nhà nước tôn trọng và bảo hộquyền tự do tín ngưỡng, tôn
giáo;
- Không ai được xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi
dụng tín ngưỡng, tôn giáo để vi phạm pháp luật.
Để kế thừa quy định của Hiến pháp 2013 về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo
của công dân thì Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 có quy định tại Điều 22 về
tôn trọng quyền tự do, tín ngưỡng, tôn giáo của vợ chồng nhằm đảm bảo sự bình
đẳng về quyền tự do, tín ngưỡng, tôn giáo trong quan hệ vợ chồng. Quy định này
như sau: “Vợ, chồng có nghĩa vụ tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của
nhau”.
Trong thời kỳ hôn nhân, có thể sẽ phát sinh vấn đề người vợ hoặc người
chồng muốn thay đổi tín ngưỡng, tôn giáo của chính bản thân mình. Khi đó, bên
còn lại cần tôn trọng ý muốn của người vợ hoặc người chồng của mình trong việc
lựa chọn tín ngưỡng, tôn giáo mà không có quyền gây cản trở, áp đặt ý chí của
mình cho người vợ hoặc chồng mình.
trị, kinh tế, văn hóa, xã hội
Trong thời kỳ xã hội chủ nghĩa, phụ nữ cũng như nam giới cần phải được học
tập và nâng cao trình độ văn hóa, chuyên môn, nghiệp vụ, tham gia hoạt động
chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội nhằm đảm bảo cho cuộc sống của bản thân mình,
của gia đình mình cũng như đóng góp công sức của mình cho sự phát triển của
toàn xã hội.
35
1.5.1.4. Bình đẳng trong vấn đề học tập, làm việc, tham gia hoạt động chính
Điều 23 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định: “Vợ, chồng có quyền,
nghĩa vụ tạo điều kiện, giúp đỡ nhau chọn nghề nghiệp; học tập, nâng cao trình
độ văn hóa, chuyên môn, nghiệp vụ; tham gia hoạt động chính trị, kinh tế, văn
hóa, xã hội.”
Quy định này một lần nữa khẳng định quyền bình đẳng giữa vợ và chồng
trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, dần đẩy lùi quan niệm lạc hậu rằng phụ
nữ chỉ cần làm công việc nội trợ, chăm sóc con cái còn việc ngoài xã hội là thuộc
về đàn ông.
Đảm bảo sự bình đẳng của vợ, chồng trong vấn đề học tập, làm việc, tham
gia hoạt động chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội chính là tạo điều kiện để cả 2 vợ,
chồng đều có thể tham gia vào đời sống xã hội. Điều này có ý nghĩa đặc biệt quan
trọng trong công tác giải phóng phụ nữ, làm cho phụ nữ ngày một bình đẳng với
nam giới, bởi muốn phụ nữ được bình đẳng với nam giới thì phải tạo điều kiện
cho họ được góp công, góp sức làm việc, tham gia các hoạt động trong xã hội cùng
với nam giới. Để có thể tham gia lao động sản xuất, tham gia vào các hoạt động
chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội thì trước hết cần tạo điều kiện để người phụ nữ
chuyên môn, năng lực của họ như nam giới để khi có điều kiện, người phụ nữ sẽ
chứng tỏ, phát huy được khả năng của mình.
Như vậy, Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định quyền bình đẳng của
vợ chồng trong vấn đề học tập, làm việc, tham gia hoạt động chính trị, kinh tế, văn
hóa, xã hội là không chỉ nhằm góp phần đảm bảo quyền bình đẳng của người phụ
nữ với người nam giới trọng gia đình mà còn góp phần đảm bảo của quyền bình
36
được học tập, được đào tạo, trau dồi, tích lũy kiến thức, nâng cao trình độ văn hóa,
đẳng của nữ giới so với nam giới ở ngoài xã hội, tiến tới mục tiêu đảm bảo quyền
bình đẳng của vợ, chồng trên mọi phương diện của đời sống xã hội.
1.5.1.5. Bình đẳng trong quan hệ với con
Thứ nhất, vợ chồng bình đẳng với nhau trong việc chăm sóc, nuôi dưỡng và
giáo dục con:
Điều này được quy định rất rõ tại Điều 71 và 72 của Luật hôn nhân và gia
đình năm 2014 như sau:
- Cha, mẹ có nghĩa vụ và quyền ngang nhau, cùng nhau chăm
sóc, nuôi dưỡng con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực
hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản
để tự nuôi mình.
- Con có nghĩa vụ và quyền chăm sóc, nuôi dưỡng cha mẹ, đặc
biệt khi cha mẹ mất năng lực hành vi dân sự, ốm đau, già yếu, khuyết
tật; trường hợp gia đình có nhiều con thì các con phải cùng nhau chăm
sóc, nuôi dưỡng cha mẹ.
kiện cho con học tập.
Cha mẹ tạo điều kiện cho con được sống trong môi trường gia
đình đầm ấm, hòa thuận; làm gương tốt cho con về mọi mặt; phối hợp
chặt chẽ với nhà trường, cơ quan, tổ chức trong việc giáo dục con.
37
- Cha mẹ có nghĩa vụ và quyền giáo dục con, chăm lo và tạo điều
- Cha mẹ hướng dẫn con chọn nghề; tôn trọng quyền chọn nghề,
quyền tham gia hoạt động chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội của con.
- Cha mẹ có thể đề nghị cơ quan, tổ chức hữu quan giúp đỡ để
thực hiện việc giáo dục con khi gặp khó khăn không thể tự giải quyết
được.
Tục ngữ Việt Nam có câu: “Con hư tại mẹ, cháu hư tại bà”. Sở dĩ có quan
niệm này là do một phần ở hoàn cảnh xã hội. Trước kia, khi đất nước có chiến
tranh, những thanh niên trai tráng, những người đàn ông trong gia đình hầu hết
đều phải ra chiến trận để bảo vệ đất nước, do đó mọi công việc ở nhà đều do bàn
tay của những người mẹ, người vợ chăm lo, vun vén, trong đó có việc chăm sóc,
nuôi dạy con cái. Khi đất nước được hòa bình như ngày nay, công việc của người
phụ nữ sẽ không chỉ gói gọn trong phạm vi gia đình nữa mà họ cũng tham gia vào
lao động sản xuất cũng như tham gia vào các lĩnh vực khác trong đời sống xã hội.
Từ hoàn cảnh đó, pháp luật hôn nhân gia đình đã đưa ra quy định cha, mẹ có nghĩa
vụ và quyền ngang nhau, cùng nhau chăm sóc, nuôi dưỡng giáo dục con, chăm lo
và tạo điều kiện cho con học tập.
Khoản 3 Điều 69 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định về nghĩa vụ
và quyền của cha mẹ như sau: “Giám hộ hoặc đại diện theo quy định của Bộ luật
dân sự cho con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự”.
Cha mẹ là người đại diện theo pháp luật của con chưa thành niên, con đã
Thứ hai, vợ chồng bình đẳng với nhau trong việc đại diện cho con:
38
thành niên mất năng lực hành vi dân sự, trừ trường hợp con có người khác làm
giám hộ hoặc có người khác đại diện theo pháp luật. Cha hoặc mẹ có quyền tự
mình thực hiện giao dịch nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu của con chưa thành niên,
con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động
và không có tài sản để tự nuôi mình. (Điều 73 Luật hôn nhân và gia đình năm
2014).
Như vậy, pháp luật hôn nhân gia đình đã đảm bảo quyền bình đẳng giữa
người cha và người mẹ trong việc thực hiện công việc đại diện cho con. Việc ai là
người đại diện cho con trong các giao dịch dân sự sẽ do vợ, chồng tự thỏa thuận
với nhau.
1.5.2. Vợ chồng bình đẳng trong quan hệ tài sản
1.5.2.1. Vợ chồng bình đẳng trong quan hệ sở hữu tài sản
* Quyền sở hữu đối với tài sản chung:
Sau khi nam nữ kết hôn hình thành nên quan hệ hôn nhân và có cuộc sống
chung đòi hỏi phải có tài sản chung của vợ chồng để duy trì và phát triển gia đình.
Điều 33 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định về tài sản chung của
vợ chồng như sau:
thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh, hoa lợi, lợi tức
phát sinh từ tài sản riêng và thu nhập hợp pháp khác trong thời kỳ hôn
nhân, trừ trường hợp được quy định tại khoản 1 Điều 40 của Luật này;
tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và
tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung.
39
- Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra,
Quyền sử dụng đất mà vợ, chồng có được sau khi kết hôn là tài
sản chung của vợ chồng, trừ trường hợp vợ hoặc chồng được thừa kế
riêng, được tặng cho riêng hoặc có được thông qua giao dịch bằng tài
sản riêng.
- Tài sản chung của vợ chồng thuộc sở hữu chung hợp nhất, được
dùng để bảo đảm nhu cầu của gia đình, thực hiện nghĩa vụ chung của
vợ chồng.
- Trong trường hợp không có căn cứ để chứng minh tài sản mà
vợ, chồng đang có tranh chấp là tài sản riêng của mỗi bên thì tài sản đó
được coi là tài sản chung.
Trong mối quan hệ hôn nhân gia đình, do vợ chồng có sự gắn bó mật thiết
với nhau, cùng nhau góp phần xây dựng, tạo lập tài sản chung, mặt khác mỗi con
người khác nhau sẽ có sức khỏe, năng lực, chuyên môn,… là khác nhau, do đó họ
đương nhiên sẽ có mức thu nhập khác nhau nên pháp luật không đưa ra sự phân
biệt mức đóng góp của mỗi bên vợ hoặc chồng trong việc tạo lập nên khối tài sản
chung đó. Dù mức đóng góp của mỗi người trong khối tài sản chung là bao nhiêu
hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung; không phân biệt giữa lao động trong gia
đình và lao động có thu nhập ngoài xã hội, họ đều có quyền bình đẳng trong việc
chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung (khoản 1 Điều 29 Luật hôn nhân và
gia đình năm 2014).
Điều 30 Luât Hôn nhân và Gia đình năm 2014 quy định về quyền, nghĩa vụ
thì Vợ, chồng đều bình đẳng với nhau về quyền, nghĩa vụ trong việc tạo lập, chiếm
40
của vợ, chồng trong việc đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình:
- Vợ, chồng có quyền, nghĩa vụ thực hiện giao dịch nhằm đáp
ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình.
- Trong trường hợp vợ chồng không có tài sản chung hoặc tài
sản chung không đủ để đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình thì vợ,
chồng có nghĩa vụ đóng góp tài sản riêng theo khả năng kinh tế của
mỗi bên.
Khoản 1 Điều 13 Nghị định số 126/2014/NĐ-CP của chính phủ Quy định chi
tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Hôn nhân và gia đình quy định Việc
chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung do vợ chồng thỏa thuận. Trong trường
hợp vợ hoặc chồng xác lập, thực hiện giao dịch liên quan đến tài sản chung để đáp
ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình thì được coi là có sự đồng ý của bên kia, trừ
trường hợp quy định tại Khoản 2 Điều 35 của Luật Hôn nhân và Gia đình.
Theo đó, vợ chồng sẽ tự mình quyết định thực hiện những giao dịch nhằm
đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình một các bình đẳng với nhau. Nhu cầu thiết
yếu của gia đình là những chi phí ăn uống, sinh hoạt của gia đình đòi hỏi phải chi
tiêu hằng ngày, hoặc những chi phí phát sinh như chi phí khám, chữa bệnh, thuốc
và phát triển gia đình nên vợ chồng có quyền và nghĩa vụ thực hiện nó bình đẳng
với nhau.
Đối với việc xác lập, thực hiện hoặc chấm dứt những giao dịch liên quan đến
tài sản chung của vợ chồng mà có giá trị lớn vượt ngoài phạm vi nhu cầu thiết yếu
của gia đình, hoặc đưa tài sản chung vào đầu tư, kinh doanh thì cần hai vợ chồng
men,… những nhu cầu này là thiết yếu, chúng liên quan trực tiếp đến việc tồn tại
41
thỏa thuận, bàn bạc với nhau trước khi đưa ra quyết định.
Kế thừa những quy định của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000, Luật hôn
nhân và gia đình năm 2014 đưa ra quy định về việc đăng ký quyền sở hữu, quyền
sử dụng đối với tài sản chung tại Điều 34 như sau:
- Trong trường hợp tài sản thuộc sở hữu chung của vợ chồng mà
pháp luật quy định phải đăng ký quyền sở hữu, quyền sử dụng thì giấy
chứng nhận quyền sở hữu, giấy chứng nhận quyền sử dụng phải ghi tên
cả hai vợ chồng, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác.
- Trong trường hợp giấy chứng nhận quyền sở hữu, giấy chứng
nhận quyền sử dụng tài sản chỉ ghi tên một bên vợ hoặc chồng thì giao
dịch liên quan đến tài sản này được thực hiện theo quy định tại Điều
26 của Luật này; nếu có tranh chấp về tài sản đó thì được giải quyết
theo quy định tại khoản 3 Điều 33 của Luật này.
Quy định trên được Nghị đinh 126/2014/NĐ-CP của Chính phủ hướng dẫn
thực hiện tại Điều 12 của Nghị định như sau:
- Tài sản chung của vợ chồng phải đăng ký theo quy định tại
những tài sản khác mà pháp luật quy định phải đăng ký quyền sử dụng,
quyền sở hữu.
- Đối với tài sản chung của vợ chồng đã được đăng ký và ghi tên
một bên vợ hoặc chồng thì vợ, chồng có quyền yêu cầu cơ quan có
thẩm quyền cấp đổi giấy chứng nhận quyền sở hữu, quyền sử dụng đất
Điều 34 của Luật Hôn nhân và gia đình bao gồm quyền sử dụng đất,
42
để ghi tên của cả vợ và chồng.
- Trong trường hợp tài sản chung được chia trong thời kỳ hôn
nhân mà trong giấy chứng nhận quyền sở hữu, giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất ghi tên cả vợ và chồng thì bên được chia phần tài sản bằng
hiện vật có quyền yêu cầu cơ quan đăng ký tài sản cấp lại giấy chứng
nhận quyền sở hữu, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất trên cơ sở văn
bản thỏa thuận của vợ chồng hoặc quyết định của Tòa án về chia tài
sản chung.
Đăng ký quyền sở hữu, sử dụng đối với tài sản chung của vợ chồng được áp
dụng đối với các tài sản có giá trị lớn như là: đất đai, nhà ở,… là hết sức cần thiết
nhằm đảm bảo quyền và lợi ích chính đáng của vợ chồng đối với các tài sản đó.
Trên thực tế nhiều năm trước đây, việc đăng ký quyền sử dụng, quyền sở hữu
tài sản chung của vợ chồng thường do một bên vợ hoặc một bên chồng đứng tên,
do đó pháp luật hôn nhân gia đình đã quy định tại khoản 2 Điều 34 Luật hôn nhân
2014, được hướng dẫn thực hiện tại khoản 2 Điều 12 Nghị định 126/2014/NĐ-CP
thì đối với tài sản chung của vợ chồng đã được đăng ký và ghi tên một bên vợ hoặc
chồng thì vợ, chồng có quyền yêu cầu cơ quan có thẩm quyền cấp đổi giấy chứng
Ngoài việc bình đẳng trong việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung
thì vợ chồng còn bình đẳng trong việc thực hiện các nghĩa vụ về tài sản của vợ
chồng.
Điều 37 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định về nghĩa vụ chung về
tài sản của vợ chồng như sau:
43
nhận quyền sở hữu, quyền sử dụng đất để ghi tên của cả vợ và chồng.
Vợ chồng có các nghĩa vụ chung về tài sản sau đây:
- Nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch do vợ chồng cùng thỏa thuận
xác lập, nghĩa vụ bồi thường thiệt hại mà theo quy định của pháp luật
vợ chồng cùng phải chịu trách nhiệm;
- Nghĩa vụ do vợ hoặc chồng thực hiện nhằm đáp ứng nhu cầu
thiết yếu của gia đình;
- Nghĩa vụ phát sinh từ việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài
sản chung;
- Nghĩa vụ phát sinh từ việc sử dụng tài sản riêng để duy trì, phát
triển khối tài sản chung hoặc để tạo ra nguồn thu nhập chủ yếu của gia
đình;
- Nghĩa vụ bồi thường thiệt hại do con gây ra mà theo quy định
của Bộ luật dân sự thì cha mẹ phải bồi thường;
* Quyền sở hữu đối với tài sản riêng:
Điều 43 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định về tài sản riêng của
vợ, chồng như sau:
- Tài sản riêng của vợ, chồng gồm tài sản mà mỗi người có trước
khi kết hôn; tài sản được thừa kế riêng, được tặng cho riêng trong thời
- Nghĩa vụ khác theo quy định của các luật có liên quan.
44
kỳ hôn nhân; tài sản được chia riêng cho vợ, chồng theo quy định tại
các điều 38, 39 và 40 của Luật này; tài sản phục vụ nhu cầu thiết yếu
của vợ, chồng và tài sản khác mà theo quy định của pháp luật thuộc sở
hữu riêng của vợ, chồng.
- Tài sản được hình thành từ tài sản riêng của vợ, chồng cũng là
tài sản riêng của vợ, chồng. Hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng
trong thời kỳ hôn nhân được thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều
33 và khoản 1 Điều 40 của Luật này.
Trong điều kiện kinh tế xã hội ngày nay, thì tài sản riêng của vợ, chồng có
được trước khi kết hôn, tài sản được thừa kế riêng, được tặng cho riêng trong thời
kỳ hôn nhân,… xét về bản chất pháp lý cũng như kinh tế thì những tài sản đó sẽ
thuộc sở hữu riêng của mỗi người. Việc công nhận quyền sở hữu đối với tài sản
riêng của vợ, chồng là phù hợp với xu thế phát triển xã hội, cũng như phù hợp với
quyền sở hữu đối với tài sản riêng của công dân được quy định trong Hiến pháp
2013.
Điều 44 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định về việc chiếm hữu, sử
- Vợ, chồng có quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản riêng
của mình; nhập hoặc không nhập tài sản riêng vào tài sản chung.
- Trong trường hợp vợ hoặc chồng không thể tự mình quản lý tài
sản riêng và cũng không ủy quyền cho người khác quản lý thì bên kia
có quyền quản lý tài sản đó. Việc quản lý tài sản phải bảo đảm lợi ích
dụng, định đoạt tài sản riêng:
45
của người có tài sản.
- Nghĩa vụ riêng về tài sản của mỗi người được thanh toán từ tài
sản riêng của người đó.
- Trong trường hợp vợ, chồng có tài sản riêng mà hoa lợi, lợi tức
từ tài sản riêng đó là nguồn sống duy nhất của gia đình thì việc định
đoạt tài sản này phải có sự đồng ý của chồng, vợ.
Như vậy, đối với tài sản riêng của mình, vợ, chồng có quyền chiếm hữu, sử
dụng, định đoạt một cách độc lập, nhập hoặc không nhập tài sản riêng vào tài sản
chung. Vợ, chồng cũng tự mình quyết định việc quản lý đối với tài sản riêng đó
bằng cách tự mình quản lý tài sản hoặc có thể ủy quyền cho người khác quản lý
thay.
Vợ chồng là chủ sở hữu đối với tài sản riêng của mình, có quyền chiếm hữu,
sử dụng, định đoạt tài sản riêng đó thì đồng thời vợ chồng cũng phải thực hiện
nghĩa vụ về tài sản của vợ, chồng.
Trên cơ sở quyền sở hữu tài sản riêng của mỗi bên vợ, chồng đối với tài sản
riêng, mà vợ, chồng có khả năng thực hiện một cách độc lập các nghĩa vụ riêng về
doanh, đảm bảo sự bình đẳng và không lệ thuộc lẫn nhau giữa vợ chồng về tài sản.
Cụ thể Điều 45 quy định về nghĩa vụ riêng về tài sản của vợ, chồng:
Vợ, chồng có các nghĩa vụ riêng về tài sản sau đây:
- Nghĩa vụ của mỗi bên vợ, chồng có trước khi kết hôn;
46
tài sản của mình, có khả năng tham gia độc lập vào các hoạt động sản xuất kinh
- Nghĩa vụ phát sinh từ việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài
sản riêng, trừ trường hợp nghĩa vụ phát sinh trong việc bảo quản, duy
trì, tu sửa tài sản riêng của vợ, chồng theo quy định tại khoản 4 Điều
44 hoặc quy định tại khoản 4 Điều 37 của Luật này;
- Nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch do một bên xác lập, thực hiện
không vì nhu cầu của gia đình;
- Nghĩa vụ phát sinh từ hành vi vi phạm pháp luật của vợ, chồng.
Vấn đề nhập tài sản riêng của vợ, chồng vào tài sản chung cũng được pháp
luật Hôn nhân và Gia đình dự liệu và quy định cụ thể dựa trên cơ sở tôn trọng sự
tự định đoạt, tự thỏa thuận của vợ, chồng. Tài sản được nhập vào tài sản chung mà
theo quy định của pháp luật, giao dịch liên quan đến tài sản đó phải tuân theo hình
thức nhất định thì thỏa thuận phải bảo đảm hình thức đó. Nghĩa vụ liên quan đến
tài sản riêng đã nhập vào tài sản chung được thực hiện bằng tài sản chung, trừ
trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác. (Điều
46 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014)
người đó, dù trong thời kì hôn nhân hay khi li hôn, trừ trường hợp người có tài sản
riêng đã chi dùng tài sản riêng vào đời sống chung hoặc vợ chồng đã thỏa thuận
tự nguyện nhập tài sản riêng đó vào tài sản chung của vợ chồng.
* Bình đẳng trong vấn đề chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân:
Như vậy, tài sản riêng của mỗi bên vợ hoặc chồng luôn thuộc sở hữu của
Điều 38 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định về việc chia tài sản
47
chung trong thời kỳ hôn nhân. Theo đó:
- Trong thời kỳ hôn nhân, vợ chồng có quyền thỏa thuận chia
một phần hoặc toàn bộ tài sản chung, trừ trường hợp quy định tại Điều
42 của Luật Hôn nhân và Gia đình; nếu không thỏa thuận được thì có
quyền yêu cầu Tòa án giải quyết.
- Thỏa thuận về việc chia tài sản chung phải lập thành văn bản.
Văn bản này được công chứng theo yêu cầu của vợ chồng hoặc theo
quy định của pháp luật.
- Trong trường hợp vợ, chồng có yêu cầu thì Tòa án giải quyết
việc chia tài sản chung của vợ chồng theo quy định tại Điều 59 của
Luật Hôn nhân và Gia đình.
Như vậy, vợ chồng bình đẳng với nhau trong việc thỏa thuận chia tài sản
chung. Thỏa thuận về việc chia tài sản chung phải được lấp thành văn bản và được
công chứng theo quy định của pháp luật. Trong trường hợp vợ chồng không tự
thỏa thuận được thì có thể yêu cầu tòa án giải quyết. Chia tài sản chung trong thời
kì hôn nhân có thể là chia một phần hoặc toàn bộ tài sản chung của vợ chồng, và
pháp luật luôn luôn đảm bảo nguyên tắc vợ chồng bình đẳng bằng việc luôn chia
chấm dứt quan hệ vợ chồng trước pháp luật.
Trong trường hợp chia tài sản chung của vợ chồng thì phần tài sản được chia,
hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng của mỗi bên sau khi chia tài sản chung là
tài sản riêng của vợ, chồng, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác. Phần tài
sản còn lại không chia vẫn là tài sản chung của vợ chồng. (khoản 1 Điền 40)
48
đôi giữa vợ và chồng. Việc chia tài sản chung trong thời kì hôn nhân không làm
Sau khi chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân, vợ chồng có quyền thỏa
thuận chấm dứt hiệu lực của việc chia tài sản chung. Kể từ ngày thỏa thuận của vợ
chồng về việc chấm dứt hiệu lực của việc chia tài sản chung có hiệu lực thì việc
xác định tài sản chung, tài sản riêng của vợ chồng được thực hiện theo quy định
tại Điều 33 và Điều 43 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014. Phần tài sản mà
vợ, chồng đã được chia vẫn thuộc sở hữu riêng của vợ, chồng, trừ trường hợp vợ
chồng có thỏa thuận khác. Đồng thời, quyền, nghĩa vụ về tài sản phát sinh trước
thời điểm chấm dứt hiệu lực của việc chia tài sản chung vẫn có hiệu lực, trừ trường
hợp các bên có thỏa thuận khác. Trong trường hợp việc chia tài sản chung trong
thời kỳ hôn nhân được thực hiện theo bản án, quyết định có hiệu lực của Tòa án
thì thỏa thuận chấm dứt hiệu lực của việc chia tài sản chung phải được Tòa án
công nhận (Điều 41 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014).
1.5.2.2. Bình đẳng trong việc thỏa thuận chế độ tài sản
Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 có một bước đột phá mới khi quy định
chế độ tài sản của vợ chồng gồm 2 loại: chế độ tài sản theo luật định và chế độ tài
sản theo thỏa thuận. Vợ chồng có quyền lựa chọn áp dụng một trong hai chế độ tài
gia đình năm 2014 so với Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000, đồng thời khi
nhìn từ góc độ bình đẳng giới, chế độ tài sản vợ chồng theo thỏa thuận là một quy
định quan trọng nhằm bảo đảm quyền bình đẳng thực chất giữa vợ và chồng.
Khi hai bên nam, nữ kết hôn lựa chọn chế độ tài sản theo thỏa thuận thì thỏa
thuận này phải được lập trước khi kết hôn, bằng hình thức văn bản có công chứng
49
sản này. Đây là một trong những quy định mới quan trọng trong Luật hôn nhân và
hoặc chứng thực. Chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận được xác lập kể từ
ngày đăng ký kết hôn.
Văn bản thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng về cơ bản cần có những
nội dung sau:
- Tài sản được xác định là tài sản chung, tài sản riêng của vợ,
chồng;
- Quyền, nghĩa vụ của vợ chồng đối với tài sản chung, tài sản
riêng và giao dịch có liên quan; tài sản để bảo đảm nhu cầu thiết yếu
của gia đình;
- Điều kiện, thủ tục và nguyên tắc phân chia tài sản khi chấm dứt
chế độ tài sản;
- Nội dung khác có liên quan.
Như vậy, vợ chồng bình đẳng trong việc thỏa thuận với nhau khi lựa chọn
chế độ tài sản theo thỏa thuận. Có thể nói, đây là bước đột phá lớn trong quy định
tắc tự thỏa thuận, định đoạt đã được quy định trong pháp luật dân sự.
Để khắc phục những trường hợp tiêu cực có thể xảy ra trong chế độ tài sản
theo thỏa thuận, Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định về các trường hợp
vô hiệu của thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng. Cụ thể, Thỏa thuận về chế
độ tài sản của vợ chồng bị Tòa án tuyên bố vô hiệu khi thuộc một trong các trường
chế độ tài sản của vợ chồng, bảo đảm phù hợp với nguyên tắc bình đẳng và nguyên
50
hợp sau đây:
- Không tuân thủ điều kiện có hiệu lực của giao dịch được quy
định tại Bộ luật dân sự và các luật khác có liên quan;
- Vi phạm một trong các quy định tại các điều 29, 30, 31 và 32
của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014;
- Nội dung của thỏa thuận vi phạm nghiêm trọng quyền được
cấp dưỡng, quyền được thừa kế và quyền, lợi ích hợp pháp khác của
cha, mẹ, con và thành viên khác của gia đình.
Như vậy, chế độ thỏa thuận về tài sản của vợ chồng vẫn phải dựa trên những
nguyên tắc chung về chế độ tài sản của vợ chồng, quyền và nghĩa vụ của vợ chồng
trong việc đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình,...
1.5.2.3. Bình đẳng trong việc thừa kế tài sản của nhau
Điều 66 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định về vấn đề giải quyết
tài sản của vợ chồng trong trường hợp một bên chết hoặc bị Tòa án tuyên bố là đã
chết như sau:
- Khi một bên vợ, chồng chết hoặc bị Tòa án tuyên bố là đã chết
trong di chúc có chỉ định người khác quản lý di sản hoặc những người
thừa kế thỏa thuận cử người khác quản lý di sản.
- Khi có yêu cầu về chia di sản thì tài sản chung của vợ chồng
được chia đôi, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận về chế độ tài sản.
51
thì bên còn sống quản lý tài sản chung của vợ chồng, trừ trường hợp
Phần tài sản của vợ, chồng chết hoặc bị Tòa án tuyên bố là đã chết được
chia theo quy định của pháp luật về thừa kế.
- Trong trường hợp việc chia di sản ảnh hưởng nghiêm trọng đến
đời sống của vợ hoặc chồng còn sống, gia đình thì vợ, chồng còn sống
có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế phân chia di sản theo quy định của
Bộ luật dân sự.
- Tài sản của vợ chồng trong kinh doanh được giải quyết theo
quy định tại các khoản 1, 2 và 3 Điều 66 Luật hôn nhân và gia đình
năm 2014, trừ trường hợp pháp luật về kinh doanh có quy định khác.
Luật Hôn nhân và Gia đình đã thể hiện quyền bình đẳng của vợ chồng về
quyền thừa kế tài sản của nhau bằng cách quy định phần tài sản của vợ, chồng chết
hoặc bị tòa án tuyên bố là đã chết được chia theo quy định của pháp luật thừa kế.
Theo pháp luật thừa kế thì vợ, chồng chính là hàng thừa kế thứ nhất của nhau.
Pháp luật còn quy định trong trường hợp việc chia di sản ảnh hưởng nghiêm
trọng đến đời sống của vợ hoặc chồng còn sống, gia đình thì vợ, chồng còn sống
sự.
1.5.2.4. Bình đẳng trong quan hệ cấp dưỡng
Theo khoản 24 Điều 3 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 thì cấp dưỡng là
việc một người có nghĩa vụ đóng góp tiền hoặc tài sản khác để đáp ứng nhu cầu
có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế phân chia di sản theo quy định của Bộ luật dân
thống hoặc nuôi dưỡng trong trường hợp người đó là người chưa thành niên, người
52
thiết yếu của người không sống chung với mình mà có quan hệ hôn nhân, huyết
đã thành niên mà không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình
hoặc người gặp khó khăn, túng thiếu theo quy định của Luật Hôn nhân và Gia
đình.
Nghĩa vụ cấp dưỡng là nghĩa vụ được thực hiện giữa cha, mẹ và con; giữa
anh, chị, em với nhau; giữa ông bà nội, ông bà ngoại và cháu; giữa cô, dì, chú,
cậu, bác ruột và cháu ruột; giữa vợ và chồng theo quy định của Luật Hôn nhân và
Gia đình. Nghĩa vụ cấp dưỡng không thể thay thế bằng nghĩa vụ khác và không
thể chuyển giao cho người khác (Điều 107 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014).
Vợ, chồng bình đẳng với nhau trong việc thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng cho
nhau khi ly hôn. Sau khi ly hôn nếu bên nào khó khăn, túng thiếu có yêu cầu cấp
dưỡng mà có lý do chính đáng thì bên kia có nghĩa vụ cấp dưỡng theo khả năng
của mình (Điều 115 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014).
Nghĩa vụ cấp dưỡng giữa vợ và chồng khi ly hôn là một nghĩa vụ mà pháp
luật Hôn nhân và Gia đình quy định nhằm đảm bảo cuộc sống của mỗi bên vợ
hoặc chồng khi gặp khó khăn, túng thiếu. Vợ hoặc chồng đều có quyền và nghĩa
vụ bình đẳng như nhau trong vấn đề cấp dưỡng đối với nhau. Tùy vào từng hoàn
Trong thời kì phong kiến, do quan niệm xã hội coi người đàn ông là người
làm chủ gia đình, là người nắm kinh tế, quyết định các vấn đề liên quan đến gia
đình, thâm chí là quyết định số phận của người vợ thì nghĩa vụ cấp dưỡng nếu có
sẽ thuộc trách nhiệm của người chồng và được đặt ra trước hết đối với người
chồng. Còn trong thời kì hiện đại, pháp luật hiện hành chỉ xem xét vợ hoặc chồng
cảnh cụ thể, vợ, chồng đều có thể là người cấp dưỡng hoặc người được cấp dưỡng.
53
có khả năng cấp dưỡng cho đối phương hay không mà thôi. Trong trường hợp một
bên có yêu cầu và có lí do chính đáng mà người chồng hoặc người vợ có khả năng
thì phải cấp dưỡng cho bên kia theo khả năng của mình.
Về nguyên tắc, trong thời kì hôn nhân, vợ chồng có nghĩa vụ quan tâm, chăm
sóc nhau, giúp đỡ nhau bằng tài sản chung nên nghĩa vụ cấp dưỡng không đặt ra.
Do đó, nghĩa vụ cấp dưỡng giữa vợ và chồng chỉ đặt ra khi vợ chồng li hôn hoặc
54
khi hôn nhân vẫn tồn tại trong hoàn cảnh nhất định.
Chương 2
ÁP DỤNG NGUYÊN TẮC BÌNH ĐẲNG GIỮA VỢ VÀ CHỒNG TRONG CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH NĂM 2014 – THỰC TRẠNG VÀ ĐỀ XUẤT MỘT SỐ GIẢI PHÁP CƠ BẢN
2.1. Thực trạng áp dụng nguyên tắc bình đẳng giữa vợ và chồng trong các quy định của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014
2.1.1. Áp dụng nguyên tắc bình đẳng giữa vợ và chồng theo quy định của
Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 trong thực tiễn xã hội ở nước ta hiện nay
2.1.1.1. Nghĩa vụ chung thủy, thương yêu, chăm sóc, tôn trọng, giúp đỡ nhau
Nhiều năm trở lại đây, phong trào xây dựng gia đình văn hóa đã được nhiều
địa phương trên cả nước nhiệt liệt hưởng ứng. Gia đình văn hóa là một chỉ tiêu
được Chính phủ đề ra để thực hiện trong nhiều gia đình ở Việt Nam tại cấp tổ dân
phố nhằm tạo ra một số tiêu chuẩn về văn hóa và khuyến khích các gia đình đạt
các tiêu chuẩn này. Gia đình là tế bào của xã hội, có xây dựng được gia đình bền
vững, hạnh phúc thì xã hội mới văn minh, hiện đại. Để một gia đình được xếp vào
tiêu chuẩn gia đình văn hóa thì vấn đề vợ chồng chung thủy, thương yêu, chăm
sóc, tôn trọng, giúp đỡ nhau là một tiêu chuẩn không thể thiếu.
85,03% trên tổng số hộ gia đình trên cả nước đạt danh hiệu gia đình văn hóa. Con
số gia đình văn hóa của năm 2016 so sánh với năm 2014 là tăng 2% và tăng 9,03%
so với năm 2012. Đó là một con số đáng mừng trong việc hưởng ứng tích cực
phong trào thi đua đạt gia đình văn hóa.
Tuy nhiên trong thực tế vẫn còn tồn tại căn bệnh thành tích trong phong trào
Thống kê năm 2016 cho thấy, cả nước có gần 18,8 triệu hộ gia đình chiếm
55
gia đình văn hóa. Theo thống kê, tỷ lệ gia đình đăng ký xây dựng gia đình văn hóa
hàng năm lên tới hơn 90%, nhưng theo nghiên cứu của Viện Nghiên cứu gia đình
và giới, chỉ có 29,5% số người được hỏi biết rõ về các tiêu chí xây dựng gia đình
văn hóa, 55,2% có nghe nói và 15,2% số người không biết gì về những tiêu chí
này. Còn theo khảo sát của Viện Tâm lý học - Viện Hàn lâm khoa học xã hội Việt
Nam, 29,4% số hộ gia đình đăng ký xây dựng gia đình văn hóa với tâm lý thụ
động, thấy người khác đăng ký cũng đăng ký mà không hiểu nội dung, ý nghĩa của
phong trào. [10]
Có một thực tế rằng, ở hầu hết các gia đình ở Việt Nam hiện nay, công việc
nội trợ phần lớn thuộc trách nhiệm của người vợ. Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam
đã thực hiện cuộc khảo sát đối với hơn 600 gia đình ở Hà Nội và TP Hồ Chí Minh
từ ngày 16/12/2016 đến 17/1/2017 thì có tới 88% ông chồng trong độ tuổi 25 - 50
cho rằng bếp núc là chốn dành riêng cho phụ nữ.
Và cho đó cách phân công lao động bao đời nay, đàn ông xây nhà, đàn bà xây
tổ ấm. Thiên chức làm mẹ, làm vợ không thể tròn vai nếu phụ nữ không đảm
đương việc tề gia nội trợ.
Khảo sát mới nhất do Vụ Bình đằng giới, Bộ Lao động Thương binh và Xã
từ tháng 1 đến tháng 6 năm 2016 thì trung bình, phụ nữ dành 5 tiếng mỗi ngày cho
những việc không tên như nấu ăn, dọn nhà, chăm con,... nhiều hơn nam giới 2-2,5
tiếng. Tại Việt Nam, 22 triệu phụ nữ trong độ tuổi lao động làm việc nhà 5 tiếng
mỗi ngày, sẽ tương đương với 13 triệu ngày làm việc. Nếu mỗi ngày trả công
100.000 - 150.000 đồng, ước tính chị em sẽ đóng góp hơn 20% GDP Việt Nam
năm 2015 (tương đương khoảng 41 tỷ USD). [39]
56
hội phối hợp cùng Tổ chức ActionAid Việt Nam (AAV) thực hiện tại 9 tỉnh thành
2.1.1.2. Quyền tham gia học tập, làm việc, tham gia hoạt động chính trị, kinh
tế, văn hóa, xã hội
Phát biểu tại Tọa đàm bình đẳng giới nhân ngày Quốc tế phụ nữ năm 2017,
Bộ trưởng Đào Ngọc Dung cho biết, cả nước hiện có 53,27 triệu lao động có việc
làm, trong đó lao động nữ có việc làm chiếm khoảng 48,48% và năm 2016 đã giải
quyết việc làm cho khoảng 1,641 triệu lao động, trong đó lao động nữ chiếm 48%
. Nhiều chương trình, dự án hỗ trợ lao động nữ tiếp cận thông tin về thị trường lao
động hiệu quả và tìm việc làm thành công đã được triển khai. Bên cạnh đó, các
chính sách tín dụng ưu đãi đối với hộ nghèo do phụ nữ làm chủ hộ nhằm giúp họ
vươn lên thoát nghèo đã và đang được Việt Nam đặc biệt quan tâm. Từ năm 1992,
Quỹ quốc gia về việc làm đã phát huy vai trò hỗ trợ việc làm cho người lao động,
nhất là lao động nữ khu vực nông thôn. Tính đến tháng 11/2016, tổng nguồn vốn
từ Quỹ Quốc gia về việc làm đạt trên 5.040 tỷ đồng, góp phần hỗ trợ giải quyết
việc làm cho khoảng 100 nghìn lao động mỗi năm, trong đó lao động nữ chiếm
63%.
Tuy nhiên, việc thực hiện bình đẳng giới trong lĩnh vực lao động việc làm
thấp; thiếu tính ổn định, bền vững, nhất là việc làm thường xuyên trong khu vực
chính thức. Đặc biệt, một số doanh nghiệp FDI tận dụng, tập trung sử dụng những
lao động trẻ, những lao động nữ trong độ tuổi 18- 20 sau một thời gian lại thay lao
động. Vì vậy, những lao động nữ ở độ tuổi 30 – 35 ít được tuyển dụng phải quay
về nông thôn với số vốn ít và không có tay nghề.
57
còn gặp nhiều khó khăn, thách thức như chất lượng việc làm của lao động nữ còn
Kết quả điều tra cho thấy, lao động nữ thường làm trong các ngành, lĩnh vực
có trình độ chuyên môn không cao, như: dịch vụ, dệt may, da giày (chiếm khoảng
70% tổng số lao động trong các ngành này). Tỷ lệ lao động nữ trong khu vực phi
chính thức khá cao 62,4% lao động nữ làm việc trong gia đình không hưởng lương
và tự làm; 41,1% lao động nữ làm những công việc giản đơn; 43,6% lao động nữ
làm việc trong lĩnh vực nông nghiệp. Lương bình quân hàng tháng của lao động
nữ làm công, có hưởng lương khoảng 4,58 triệu đồng, thấp hơn so với lao động
nam là 5,19 triệu đồng . Tỷ lệ lao động nữ thất nghiệp chiếm 44,6% trên tổng số
1 triệu 117 nghìn người trong độ tuổi lao động bị thất nghiệp. [36]
Hiện nay, vẫn còn tình trạng phụ nữ bị trói buộc trong các công việc nội trợ
gia đình, do đó họ không có điều kiện cũng như có thời gian để tham gia vào các
hoạt động xã hội. Trên thực tế, tỷ lệ nữ giữ vai trò lãnh đạo, đảm nhận những vị
trí quan trọng trong xã hội còn hạn chế. Theo Báo cáo của Chính phủ về việc thực
hiện các mục tiêu quốc gia về bình đẳng giới, tính đến hết tháng 8 năm 2017, có
11/30 Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ có nữ cán bộ đảm nhiệm
chức vụ lãnh đạo chủ chốt (giảm so với năm 2016). Có 16/63 địa phương có nữ
lãnh đạo chủ chốt (gồm 1 địa phương có nữ giữ chức danh Chủ tịch UBND tỉnh
25,39%.
2.1.1.3. Quyền quyết định các vấn đề trong gia đình
58
và 15 địa phương có nữ giữ chức danh Phó Chủ tịch UBND tỉnh), chiếm tỷ lệ
Theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, vợ chồng có quyền
bình đẳng với nhau về quyền và nghĩa vụ trong gia đình, tuy nhiên trong thực tế
với quan niệm nam giới là trụ cột thì nam giới có quyền quyết định. Tư tưởng
trọng nam khinh nữ, trọng con trai vẫn còn tồn tại ở nhiều nơi, đặc biệt là vùng
nông thôn hay khu vực dân tộc thiểu số.
2.1.1.4. Chăm sóc, giáo dục con cái
Qua điều tra 528 người ở phường Hội Hợp tỉnh Vĩnh Phúc năm 2015 thì
48% trong số 485 người có câu trả lời phù hợp cho biết người đảm nhiệm công
việc dạy dỗ con cái trong gia đình là người vợ. Tỷ lệ hai vợ chồng cùng đảm nhận
công việc dạy dỗ con cái cũng chiếm tỷ lệ khá cao, tương đương với tỷ lệ người
vợ đảm nhận 46,4%. Như vậy có thể nói một điều, sự bình đẳng vợ chồng trong
việc dạy dỗ con cái đang dần được hình thành. Vợ chồng đã cùng nhau chia sẻ
công việc dạy dỗ con cái, điều này là một nỗ lực của xã hội hiện đại. Tuy nhiên,
chính con số này cũng cho ta thấy tỷ lệ người phụ nữ đảm nhận công việc chính
là giáo dục con là nhiều. Mặt khác, khi xét về vợ chồng thì sự chênh lệch nhau ở
đây khá lớn. Trong khi có 48% người vợ đảm nhận công việc này thì tỉ lệ người
chồng đảm nhận công việc này chỉ chiếm có 3,3%, một tỷ lệ khiêm tốn hơn rất
nhiều lần so với tỷ lệ của người phụ nữ.
Theo Báo cáo về Tiếp cận đất đai của phụ nữ trong xã hội hiện nay được
Chương trình Phát triển Liên Hợp Quốc (UNDP) công bố năm 2013 tại 10 tỉnh
thành đại diện cho sự đa dạng của các vùng kinh tế và tộc người bao gồm Hà Nội,
TP. Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, Lâm Đồng, Long An, Nghệ An, Ninh Thuận, Quảng
Ninh, Sơn La, Trà Vinh, tỷ lệ cả chồng và vợ cùng đứng tên trên Giấy chứng nhận
59
2.1.1.5. Sở hữu tài sản chung
quyền sử dụng đất chỉ chiếm 22%. trong khi người chồng đứng tên riêng cho tỷ
lệ gấp đôi là lên tới 45%.
Tỷ lệ phụ nữ đứng tên trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc đứng
tên cùng chồng chỉ có xu hướng cao hơn khi đó là đất do cha mẹ đẻ để lại, đất
được cấp cho vợ hoặc chồng hoặc đất họ cùng mua sau khi kết hôn.
Tương tự, việc sở hữu bình đẳng (2 vợ chồng cùng đứng tên) có xu hướng
phổ biến hơn trong nhóm di dân, có học vấn cao hơn, có thu nhập cao hơn, có sự
tham gia của phụ nữ trong các buổi họp tuyên truyền về pháp luật.
Xét về mặt kinh tế xã hội, việc người vợ không có tên trong Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật làm cho chủ trương về tăng cường
bình đẳng về giới trong xã hội nói chung và bình đẳng giữa vợ và chồng trong
Luật Hôn nhân và Gia đình nói riêng, lồng ghép các vấn đề giới vào các chính
sách, chương trình và dự án phát triển trong chiến lược toàn diện về tăng trưởng
và xóa đói, giảm nghèo bền vững không được thực hiện triệt để.
Xét về phía gia đình, việc người vợ không có tên trong Giấy chứng nhận
đất vào mục đích phát triển kinh tế gia đình, từ đó ảnh hưởng chung đến sự phát
triển kinh tế của toàn xã hội.
2.1.1.6. Chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân
Trên cả nước, việc yêu cầu chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân xảy ra
quyền sử dụng đất sẽ góp phần làm giảm vai trò, vị thế của phụ nữ trong sử dụng
Minh, Hà Nội, Hải Phòng,... một số tỉnh thành đặc biệt không có vụ nào. Điều này
60
không nhiều, tập trung chủ yếu ở các tỉnh, thành phố lớn như: Thành phố Hồ Chí
xuất phát từ tư tưởng truyền thống của đại đa số gia đình Việt Nam là người chồng
được xem là người chủ gia đình, có quyền sở hữu tài sản chung của vợ chồng cũng
như định đoạt và quản lý tài sản đó. Do đó, có rất ít cặp vợ chồng yêu cầu chia tài
sản chung khi hôn nhân còn đang tồn tại, họ sợ dư luận dèm pha, ảnh hưởng đến
cuộc sống của bản thân và những người thân trong gia đình mình.
2.1.2. Áp dụng nguyên tắc bình đẳng giữa vợ và chồng theo quy định của
Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 trong thực tiễn pháp lý ở nước ta hiện nay
2.1.2.1. Thuận lợi
Trong nhiều năm trở lại đây, Đảng và nhà nước ta đang rất quan tâm, chú
trọng xây dựng hệ thống văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ dân
sự nói chung và đặc biệt là pháp luật hôn nhân và gia đình. Quan trọng nhất phải
kể đến là Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 với nhiều nội dung mới được quy
định đã khắc phục phần nào những hạn chế, thiếu xót của Luật Hôn nhân và Gia
đình năm 2000 trong việc đảm bảo nguyên tắc bình đẳng giữa vợ và chồng, và đặc
biệt Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 dự liệu được nhiều tình huống có thể xảy
ra trong đời sống hôn nhân, gia đình nhưng không làm mất đi giá trị văn hóa, đạo
đức truyền thống vốn có của dân tộc Việt Nam ta.
theo thỏa thuận có những ưu điểm sau:
- Bảo đảm quyền tự định đoạt của cá nhân đối với tài sản mình: Về nguyên
tắc chung, chế độ tài sản theo thỏa thuận cho phép vợ chồng tự thỏa thuận với
nhau về việc xác lập và thực hiện các quyền, nghĩa vụ đối với tài sản của vợ chồng.
Do đó, sẽ bảo đảm cho vợ, chồng có quyền tự định đoạt đối với tài sản chung và
Cụ thể, việc Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định chế độ tài sản
61
tài sản riêng của mình. Đồng thời, quy định này sẽ giúp vợ chồng có thể tự bảo
toàn tài sản riêng của mình, qua đó làm giảm hoặc tránh được những xung đột,
tranh chấp về tài sản khi vợ, chồng ly hôn;
- Việc ghi nhận chế độ tài sản theo thỏa thuận góp phần làm giảm chi phí khi
ly hôn và giúp Tòa án xác định được tài sản riêng, tài sản chung nhanh chóng và
dễ dàng hơn.
Ngoài Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 có vai trò chủ đạo, Nhà nước ta
đã ban hành rất nhiều các văn bản hướng dẫn, giải thích cụ thể bên cạnh Luật hôn
nhân và gia đình năm 2014 như sau:
+ Nghị định số 126/2014/NĐ-CP của Chính phủ ban hành ngày 31/12/2014
quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật hôn nhân và gia đình năm
2014;
+ Nghị định số 10/2015/NĐ-CP của Chính phủ ban hành ngày 28/01/2015
quy định về sinh con bằng kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm và điều kiện mang
thai hộ vì mục đích nhân đạo (sửa đổi, bổ sung bằng nghị định 98/2016);
+ Thông tư liên tịch số 01/2016/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP giữa Tòa
Án nhân dân tối cao và Viện Kiểm Sát nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành quy
+ Văn bản hướng dẫn giải quyết vụ án, xử phạt hành chính về hôn nhân, gia
đình: Nghị định 110/2013/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh
vực tư pháp, hôn nhân và gia đình (Nghị định 67/2015/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung);
Nghị quyết 02/2004/NQ-HĐTP hướng dẫn áp dụng pháp luật trong giải quyết các
vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình; Nghị quyết 01/2003/NQ-HĐTP hướng dẫn áp
định của Luật Hôn nhân và Gia đình;
62
dụng pháp luật trong giải quyết tranh chấp dân sự, hôn nhân và gia đình,...
+ Văn bản hướng dẫn về quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài:
Chỉ thị 03/2005/CT-TTg về tăng cường quản lý nhà nước đối với quan hệ hôn
nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài; Thông tư về chế độ thu, nộp quản lý và sử
dụng lệ phí đăng ký, công nhận kết hôn, nhận con ngoài giá thú, đăng ký nuôi con
nuôi giữa công dân VN và người nước ngoài; Thông báo 133/TB-VPCP ý kiến kết
luận của Phó Thủ tướng tại Hội nghị toàn quốc về quan hệ hôn nhân và gia đình
có yếu tố nước ngoài; Quyết định 288/QĐ-BTP về Quy chế hoạt động của Tổ công
tác liên ngành về vấn đề kết hôn giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài;...
Bên cạnh việc chú trọng ban hành các văn bản quy phạm điều chỉnh quan hệ
hôn nhân và gia đình thì Nhà nước ta cũng đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ
biến, giáo dục pháp luật đến mọi tầng lớp nhân dân trong xã hội, góp phần không
nhỏ nâng cao ý thức pháp luât của người dân trong việc gìn giữ hạnh phúc gia
đình, hiểu và bảo vệ được quyền và lợi ích chính đáng của mình trong lĩnh vực
hôn nhân gia đình đặc biệt trong vấn đề bình đẳng giới trong gia đình và ngoài xã
hội.
Các cơ quan ban ngành đoàn thể đã hỗ trợ rất tích cực cho Nhà nước bằng
việc xây dựng đội ngũ cán bộ, các kênh thông tin như: Hộp thư truyền hình, đường
vực hôn nhân và gia đình, góp phần không nhỏ bảo vệ quyền và lợi ích của người
phụ nữ.
Nhằm thể chế hóa các Chỉ thị, Nghị quyết của Đảng, Tòa Án nhân dân tối
cao đã xây dựng thành công “Đề án thành lập Tòa Gia đình và người chưa thành
niên ở Việt Nam” trình Ban Chỉ đạo cải cách tư pháp Trung ương; đã thể hiện
dây nóng, email,... để tiếp nhận, nhận phản ánh những vụ việc liên quan đến lĩnh
63
trong dự án Luật Tổ chức Tòa án và được Quốc hội khóa XIII thông qua. Theo
quy định của Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014, trong cơ cấu tổ chức của
Tòa Án nhân dân cấp cao, Tòa Án nhân dân cấp tỉnh và Tòa Án nhân dân cấp
huyện có Tòa Gia đình và Người chưa thành niên.
Việc thành lập Tòa Gia đình và Người chưa thành niên trong tổ chức bộ máy
của Tòa án nhân dân, là dấu ấn quan trọng, đồng thời là một trong những thành
tựu của tiến trình cải cách tư pháp. Đây là bước đi cụ thể nhằm triển khai có hiệu
quả các quan điểm, chủ trương của Đảng và pháp luật của Nhà nước về bảo vệ,
phát triển gia đình Việt Nam; bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em nói chung và xử
lý người chưa thành niên vi phạm pháp luật nói riêng.
Việc thành lập Tòa Gia đình và Người chưa thành niên chứng tỏ cam kết
mạnh mẽ của Việt Nam trong việc bảo đảm quyền trẻ em, thông qua việc xây dựng
một hệ thống tư pháp trẻ em toàn diện mà Tòa Gia đình và Người chưa thành niên
là trung tâm, với sự tham gia, phối hợp chặt chẽ của các cơ quan, tổ chức có liên
quan. Đây cũng là phương thức để thực hiện nguyên tắc Hiến định về việc xét xử
kín đối với người chưa thành niên (quy định tại Khoản 3 Điều 103 của Hiến pháp
năm 2013).
chưa thành niên không chỉ là sự sắp xếp lại cơ cấu tổ chức của Tòa án nhân dân,
mà tạo dựng một thiết chế đặc thù, để chuyên môn hóa công tác giải quyết các vụ
việc về gia đình và người chưa thành niên, nhằm nâng cao hiệu quả, chất lượng,
thời hạn giải quyết các vụ việc về gia đình và người chưa thành niên tại Tòa án
nhân dân, bảo vệ tốt hơn sự phát triển về thể chất và tinh thần của trẻ em Việt Nam
Với tầm quan trọng và ý nghĩa nêu trên, việc thành lập Tòa Gia đình và Người
64
trong giai đoạn hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng hiện nay. [34]
Nhận thức rõ tầm quan trọng của xây dựng gia đình đối với xây dựng xã hội,
Chính phủ đang xây dựng chiến lược phát triển gia đình VN giai đoạn 2011 –
2020.
Theo Báo cáo Sơ kết Chiến lược phát triển gia đình Việt Nam đến năm 2020,
tầm nhìn 2030 và các văn bản, đề án thực hiện công tác gia đình giai đoạn 2011 -
2015 cho thấy, nhận thức của các cấp uỷ Đảng, chính quyền trong công tác gia
đình đã có sự chuyển biến, tích cực chỉ đạo xây dựng, ban hành, triển khai các văn
bản thực hiện Chiến lược phù hợp với tình hình địa phương; đưa mục tiêu, nhiệm
vụ của Chiến lược vào các tiêu chí, mục tiêu, nhiệm vụ quan trọng trong chương
trình, kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội của địa phương. Nhiều Bộ, ngành và các
tỉnh, thành đã chỉ đạo bổ sung các tiêu chí xây dựng gia đình no ấm, tiến bộ, hạnh
phúc, văn minh vào hương ước, quy ước, đăng ký xây dựng cơ quan, đơn vị văn
hoá,…
Bên cạnh đó, công tác gia đình ngày càng nhận được sự quan tâm và phối
hợp của các ngành, đoàn thể, chủ động triển khai thực hiện các nội dung của công
tác gia đình gắn với hoạt động của ngành; đẩy mạnh phối hợp hoạt động tuyên
chống bạo lực gia đình, thực hiện bình đẳng giới…
Các mục tiêu, chỉ tiêu của Chiến lược phát triển gia đình Việt Nam được thực
hiện với những kết quả đáng ghi nhận, nâng cao nhận thức về vai trò, vị trí, trách
nhiệm của gia đình và cộng đồng trong việc thực hiện tốt chủ trương, đường lối,
chính sách, pháp luật về hôn nhân và gia đình, bình đẳng giới, phòng, chống bạo
truyền, tập huấn nâng cao kỹ năng xây dựng, bảo vệ hạnh phúc gia đình, phòng,
65
lực gia đình, ngăn chặn các tệ nạn xã hội xâm nhập vào gia đình. Cụ thể, 90% hộ
gia đình được phổ biến, tuyên truyền và cam kết thực hiện tốt các chủ trương,
đường lối, chính sách, pháp luật về hôn nhân và gia đình, bình đẳng giới, phòng,
chống bạo lực gia đình; 90% nam nữ thanh niên trước khi kết hôn được trang bị
kiến thức cơ bản về gia đình, phòng, chống bạo lực gia đình; hàng năm trung bình
giảm từ 10-15% hộ gia đình có bạo lực gia đình, có người mắc tệ nạn xã hội,…
Kế thừa và phát huy các giá trị truyền thống tốt đẹp của gia đình Việt Nam,
tiếp thu có chọn lọc các giá trị tiên tiến của gia đình trong xã hội phát triển, thực
hiện đầy đủ các quyền, trách nhiệm của các thành viên trong gia đình, đặc biệt đối
với trẻ em, người cao tuổi, phụ nữ có thai, nuôi con nhỏ. Ở mục tiêu này, có 80%
trở lên hộ gia đình đạt tiêu chuẩn gia đình văn hoá; 85% hộ gia đình dành thời gian
chăm sóc, dạy bảo con cháu, tạo điều kiện cho con cháu phát triển toàn diện về thể
chất, trí tuệ, đạo đức và tinh thần, không phân biệt con cháu là trai hay gái; 85%
hộ gia đình thực hiện chăm sóc, phụng dưỡng chu đáo ông bà, chăm sóc cha mẹ,
phụ nữ có thai, nuôi con nhỏ; 95% hộ gia đình có người trong độ tuổi sinh đẻ được
tuyên truyền và thực hiện đúng chính sách dân số, kế hoạch hoá gia đình,…
2.1.2.2. Hạn chế
thống, theo đó, nam và nữ, vợ và chồng là hai chủ thể bắt buộc, không thể thiếu
trong xác lập quan hệ hôn nhân, duy trì quan hệ hôn nhân và chấm dứt quan hệ
hôn nhân. Tuy nhiên, thực tiễn đã và đang phát sinh các quan hệ hôn nhân thực tế
giữa những người đồng tính. Về mặt pháp lý, quan hệ hôn nhân này pháp luật
không cấm tuy nhiên cũng không thừa nhận. Nhưng nếu xem xét ở góc độ pháp
luật nhân quyền quốc tế thì mọi người đều bình đẳng với nhau mà không phân biệt
- Pháp luật hôn nhân ở Việt Nam vẫn được xây dựng theo quan niệm truyền
66
về một số yếu tố, trong đó có yếu tố giới tính.
- Chế độ “Ly thân” hiện nay vẫn chưa được quy định trong Luật hôn nhân
và gia đình năm 2014, mặc dù tình trạng này đang diễn ra rất phổ biến trong xã
hội, trước khi ly hôn thì hầu hết các cặp vợ chồng sẽ sống ly thân một thời gian,
tuy nhiên nhiều trường hợp sau khi ly thân vợ chồng lại trở về sống chung với
nhau, trong thời gian ly thân vợ chồng có thể tạo ra tài sản riêng của mình. Như
vây, theo nguyên tắc thì tất cả tài sản được tạo ra kể cả trong thời gian ly thân thì
vẫn là tài sản chung của vợ chồng, như vậy sẽ là không công bằng cho bên nào tạo
ra tài sản.
Ở một khía cạnh khác, khi trong gia đình xảy ra tình trạng bạo lực thì quy
định về chế độ ly thân sẽ là cơ sở pháp lý để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
các bên đặc biệt là phụ nữ và trẻ em, họ là những đối tượng thuộc phái yếu cần
được pháp luật chú trọng bảo vệ. Theo đó, khi bị chồng bạo lực, người vợ có thể
lựa chọn giải pháp không chung sống với chồng mà không lo bị vi phạm nghĩa vụ
chung sống với nhau theo quy định hiện hành của Luật hôn nhân và gia đình năm
2014.
- Liên quan đến chế độ tài sản theo thỏa thuận, hiện nay Điều 47 Luật hôn
chồng phải được lập trước khi kết hôn, bằng hình thức văn bản có công chứng
hoặc chứng thực.
Như vậy, việc thỏa thuận chế độ tài sản của vợ chồng chỉ được thực hiện
trước khi kết hôn, có nghĩa là quy định này chỉ áp dụng đối với các cặp vợ chồng
kết hôn từ kể từ sau ngày Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 có hiệu lực (sau
nhân và gia đình năm 2014 quy định việc thỏa thuận chế độ tài sản chung của vợ
67
ngày 01/01/2015). Còn đối với các cặp vợ chồng đã kết hôn trước thời điểm này
và các cặp vợ chồng kết hôn sau thời điểm này nhưng chưa có thỏa thuận về chế
độ tài sản vợ chồng thì chỉ được áp dụng một chế độ tài sản vợ chồng duy nhất là
chế độ tài sản luật định. Điều này, vô hình chung đã hạn chế quyền tự thỏa thuận,
định đoạt về chế độ tài sản của vợ chồng.
- Việc bảo đảm thực thi các quy định của pháp luật trong lĩnh vực hôn nhân
và gia đình còn gặp những những khó khăn nhất định, trong đó phải kể đến là các
phong tục, tập quán, tư tưởng truyền thống đã ăn sâu vào trong suy nghĩ, lối tư
duy của đại đa số người dân với tư tưởng: “trọng nam khinh nữ”, đề cao vị trí, vai
trò, trách nhiệm “trụ cột” của người chồng trong quan hệ hôn nhân và gia đình
mà coi nhẹ vị trí, vai trò của người vợ,... Do đó, không ít quy định của pháp luật
hôn nhân và gia đình đã không phát huy được hiệu quả trong thực tiễn cuộc sống.
- Công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về vấn đề bình đẳng
giữa vợ và chồng vẫn được Nhà nước quan tâm, chú trọng và thực thi tuy nhiên
hiệu quả chưa được cao. Nội dung tuyên truyền chưa xây dựng được theo hướng
gắn kết các văn bản quy phạm pháp luật liên quan với những thông tin khoa học
trên thế giới mà hầu hết mới chỉ tập trung trong phạm vi của từng văn bản quy
Trong những năm qua, thực tiễn xét xử các vụ việc trong lĩnh vực Hôn nhân
và Gia đình đã gặp những khó khăn, vướng mắc nhất định trong việc áp dụng các
quy định của pháp luật, nhiều quy định cho thấy đã không còn phù hợp với thực
tế đời sống, gây ảnh hưởng không nhỏ đến sự công bằng của mỗi bên vợ, chồng.
Cụ thể:
68
phạm pháp luật đơn lẻ.
* Liên quan đến vấn đề tài sản chung của vợ chồng nhưng chỉ đứng tên một
người trong giấy chứng nhận quyền sử dụng:
Ông bà Đ.T.B. và P.Đ.N. (Hoài Nhơn, Bình Định) kết hôn năm 1995. Do
những bất hòa trong cuộc sống nên năm 2007 họ ra tòa ly hôn nhưng thời điểm
này họ không yêu cầu tòa chia tài sản chung. Năm 2011, sau khi đi lao động ở
nước ngoài trở về bà B mới yêu cầu chia tài sản chung, trong đó có 2 lô đất; tuy
nhiên, ông N cho rằng hai lô đất là do ông đứng tên hộ một người họ hàng.
Tại phiên tòa sơ thẩm lần 1, TAND huyện Hoài Nhơn chia mỗi người một
lô đất; sau đó, do có kháng cáo nên TAND tỉnh Bình Định đã mở phiên tòa phúc
thẩm tuyên hủy án sơ thẩm vì vi phạm tố tụng
Tại phiên tòa sơ thẩm lần 2, TAND huyện Hoài Nhơn chỉ chấp nhận 1 trong
2 lô đất là tài sản chung vợ chồng, lô còn lại Tòa xác định ông N. chỉ đứng tên hộ,
vì thế bà B chỉ được chia 1 nửa lô đất này. Đương sự tiếp tục kháng cáo, ông N
vẫn cho rằng cả thửa đất Tòa đem chia ông cũng chỉ là người đứng tên hộ.
Tháng 8 năm 2013, Tòa án cấp phúc thẩm tiếp tục hủy án sơ thẩm, vụ án lại
được đưa ra xét xử lại từ đầu.
khó khăn khi tài sản chung vợ chồng nhưng chỉ đứng tên một người, trong khi đây
lại là một thực tế khá phổ biến. Một tổ chức quốc tế khi khảo sát vấn đề này tại 6
tỉnh ở Việt Nam đã cho thấy, rất nhiều trường hợp tài sản vợ chồng chỉ đứng tên
1 người (chủ yếu đứng tên chồng).
Luật Hôn nhân và Gia đình hiện nay có quy định rõ về tài sản chung của vợ
Thực tế cho thấy, có rất nhiều vụ việc mà quá trình giải quyết Tòa án gặp
69
chồng, theo đó tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu
nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài
sản riêng và thu nhập hợp pháp khác trong thời kỳ hôn nhân, trừ trường hợp được
quy định tại khoản 1 Điều 40 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; tài sản mà
vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và tài sản khác mà vợ
chồng thỏa thuận là tài sản chung.
Trong trường hợp tài sản thuộc sở hữu chung của vợ chồng mà pháp luật
quy định phải đăng ký quyền sở hữu, quyền sử dụng thì giấy chứng nhận quyền
sở hữu, giấy chứng nhận quyền sử dụng phải ghi tên cả hai vợ chồng, trừ trường
hợp vợ chồng có thỏa thuận khác.
Như vậy, trong trường hợp (như của ông N nói trên) nếu chỉ đứng tên một
người mà không có chứng cứ chứng minh là tài sản riêng thì theo quy định của
Luật Hôn nhân và Gia đình thì vẫn bị coi là tài sản chung. Thực tế, có rất nhiều
trường hợp vợ, chồng được tặng, cho hoặc thừa kế riêng tài sản và họ không nhập
tài sản này vào khối tài sản chung, nhưng vì họ không thể chứng minh được việc
này thì đó vẫn là tài sản chung và phải được đem chia nếu có tranh chấp.
* Liên quan đến vấn đề phân định tài sản chung – riêng của vợ chồng:
trong việc phân định rõ đâu là tài sản chung của vợ chồng, đâu là tài sản riêng của
từng người, đâu là tài sản có liên quan đến người thứ ba, nhất là những trường hợp
trước khi kết hôn một bên đã được cơ quan thẩm quyền cấp hoặc công nhận quyền
sử dụng tài sản riêng hoặc sau khi kết hôn vợ, chồng được cha, mẹ cho đất để làm
nhà ở nhưng chưa làm thủ tục đầy đủ.... Theo đó, Hội đồng xét xử chỉ dựa trên
tình hình thực tế của quá trình sử dụng tài sản đó để xác định ý chí của các bên về
Một số Hội đồng xét xử khi xem xét yêu cầu của đương sự đã gặp khó khăn
70
nhập tài sản riêng vào tài sản chung. Dưới đây là một số ví dụ:
Trước đây, vợ chồng ông N ra tòa ly hôn và tranh chấp một lô đất đang
đứng tên ông N. Người vợ khai chồng mua đất lúc nào bà không biết, chỉ khi trong
nhà thiếu đi một khoản tiền, bà mới hay là chồng đã lấy đi mua đất. Do đó mảnh
đất là tài sản chung của vợ chồng. Ngược lại, ông N. khai nguồn tiền mua đất là
của mẹ ông. Mẹ ông N thì khai năm 2003, bà đưa 90 triệu đồng nhờ con trai mua
giùm lô đất trên. Hội đồng xét xử cấp sơ thẩm không công nhận lô đất là tài sản
chung của vợ chồng ông N. Cấp phúc thẩm đã sửa án sơ thẩm, công nhận lô đất
này là tài sản chung.
Cấp giám đốc thẩm nhận định: Lời khai của các đương sự rất khác nhau về
nguồn tiền mua đất nhưng không bên nào xuất trình được đầy đủ chứng cứ chứng
minh. Lẽ ra, các cấp tòa án cần phải thu thập thêm chứng cứ để làm rõ thời điểm
mua đất, mua của ai, quá trình sử dụng, đăng ký, kê khai. Về nguồn tiền mua, các
cấp tòa án cũng cần phải xác minh công việc, nguồn thu nhập của các bên cũng
như độ chính xác trong lời khai của mẹ ông N. Do không thu thập đầy đủ chứng
cứ để làm rõ nên mỗi cấp tòa có một quyết định khác nhau nhưng đều chưa đủ
căn cứ và thiếu tính thuyết phục.
* Liên quan đến vấn đề xác định công sức đóng góp của mỗi bên vợ chồng
Do pháp luật không có quy định cụ thể về công sức đóng góp của mỗi bên
vợ chồng trong việc tạo lập nên khối tài sản chung nên khi giải quyết, các Tòa án
hầu hết xác định tỉ lệ đóng góp theo định tính.
Điển hình có vụ việc sau:
71
trong khối tài sản chung:
Ông N và bà B kết hôn năm 1995. Trước khi kết hôn ông N được giao sử
dụng một mảnh đất thổ cư diện tích 640 m2. Sau khi kết hôn thì ông N mới được
Nhà nước cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Sau đó, ông N và bà B cùng
góp tiền, công sức xây ngôi nhà diện tích 48 m2 trên thửa đất đó. Sau đó, ông M
chuyển nhượng một mảnh đất có diện tích 265,24 m2 cho ông N và bà B. Đầu năm
2010, do mâu thuẫn, ông N và bà B ly hôn. Tòa án sơ thẩm cho rằng bà B là người
kinh doanh, buôn bán nên có thu nhập cao hơn, do đó chia cho bà B 60% giá trị
mảnh đất. Còn Tòa án phúc thẩm nhận định không có chứng cứ chứng minh bà B
dùng số tiền mình có được từ công việc kinh doanh, buôn bán góp vào để mua
mảnh đất nói trên. Do đó, Tòa án phúc thẩm chia cho ông N và bà B mỗi người
50% giá trị mảnh đất.
* Liên quan đến chế độ tài sản của vợ chồng khi vợ chồng ly thân:
Ông Quảng và bà Phương kết hôn năm 1968, trú tại xã Liên Châu, huyện
Yên Lạc, tỉnh Vĩnh Phúc. Năm 2000, vợ chồng ông Quảng và bà Phương phát sinh
mâu thuẫn nên sống ly thân kể từ năm 2000 đến thời điểm xin ly hôn vào năm
2015, trong thời gian ly thân, ông Quảng chung sống như vợ chồng với bà Nguyệt.
Khi phân chia tài sản ly hôn, giữa ông Quảng và bà Phương đã xảy ra tranh chấp
Nông thôn – Chi nhánh Liên Châu – Yên Lạc - Vĩnh Phúc.
Bà Phương cho rằng đây là tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân giữa ông
Quảng và bà Phương, do đó yêu cầu Tòa án chia
72
đối với số tiền tiết kiệm 225.000.000đ gửi tại ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển
Bà Nguyệt trình bày: số tiền 225.000.000đ mà ông Quảng gửi tiết kiệm này
là do bà làm ăn, tích cóp được. Do bà sống chung với ông Quảng như vợ chồng
nên bà đưa cho ông Quảng đi gửi tiết kiệm,
TAND huyện Yên Lạc cho rằng:
Từ năm 2001, ông Quảng và bà Nguyệt sống chung với nhau như vợ chồng,
số tiền 225.000.000đ mà ông Quảng gửi tiết kiệm này là do bà Nguyệt làm ăn, tích
cóp được. do bà Nguyệt sống chung với ông Quảng nên đưa cho ông Quảng đi gửi
tiết kiệm, ông Quảng cũng thừa nhận có sự việc này. Mặt khác, bà Phương không
có tài liệu, chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu chia số tiền đó của mình là có
căn cứ pháp luật. Do đó, không có căn cứ khẳng định số tiền 225.000.000đ đó là
tài sản chung của ông Quảng và bà Phương nên yêu cầu chia số tiền này của bà
Phương không được Hội đồng xét xử chấp nhận.
Trong khi đó, pháp luật Hôn nhân và gia đình hiện nay chưa quy định chế
định ly thân cũng như chế độ tài sản trong khi vợ chồng ly thân, do đó thời gian ly
thân vẫn là khoảng thời gian trong thời kì hôn nhân. Như vậy, theo đúng quy định
của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 thì sổ tiết kiệm mà ông Quảng gửi trong
thời gian ông Quảng và bà Phương chưa ly hôn phải là tài sản chung của 2 ông bà.
* Liên quan đến vấn đề trách nhiệm liên đới đối với giao dịch do một bên
thực hiện:
Anh Trần Văn Ngọc và chị Phạm Thị Ban là hai vợ chồng trú tại khu phố
Đa Hội, phường Châu Khê, thị xã Từ Sơn, Bắc Ninh. Năm 2011, chị Ban đã tự ý
Do đó, TAND huyện Yên Lạc xử như trên là không có căn cứ pháp luật.
73
vay tiền của vợ chồng ông bà Trần Văn Việt (SN 1951) - Trần Thị Lụa (SN 1953)
số tiền 1.080.000.000 đồng (Một tỷ không trăm tám mươi triệu đồng) để sử dụng
vào mục đích riêng, không phục vụ cho mục đích sinh hoạt, phát triển kinh tế
chung của gia đình.
Năm 2013, vợ chồng anh Ngọc - chị Ban làm thủ tục ly hôn được tòa án
đồng ý và có thỏa thuận phân chia tài sản như sau: Anh Ngọc được sử dụng 1 thửa
đất rộng khoảng 10m2 ở khu phố Đa Hội, phường Châu Khê (thị xã Từ Sơn, tỉnh
Bắc Ninh). Còn chị Ban được sử dụng 1 thửa đất ở Khu công nghiệp làng nghề
Châu Khê (Từ Sơn, Bắc Ninh). Tuy nhiên, cuốn số đỏ của thừa đất mà anh Ngọc
được sử dụng thời điểm này vẫn đang đứng tên chung với chị Ban, nhưng chị Ban
đã “cắm” cho vợ chồng Lụa - Việt để vay số tiền trên.
Mới đây, vợ chồng ông bà Lụa - Việt đã gửi đơn kiện anh Ngọc - chị Ban ra
Tòa án Nhân dân thị xã Từ Sơn vì số tiền hơn 1 tỷ đồng nói trên mà chị Ban trực
tiếp vay và ký nhận chưa trả nợ đúng hạn. Đồng thời, vợ chồng Lụa - Việt yêu cầu
anh Ngọc phải cùng trả số nợ 1.080.000.000 đồng.
Ngày 17/3/2016, tại phiên tòa dân sự do Tòa án Nhân dân thị xã Từ Sơn xét
xử vụ án “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản”. Chị Ban cũng đã khai trước tòa số
tiền 1.080.000.000 đồng là chị tự ý vay vợ chồng ông bà Lụa - Việt và trực tiếp
tên chung “Ngọc - Ban” tại thừa đất mà anh Ngọc được hưởng như nói ở trên cho
vợ chồng Lụa - Việt để làm tin khi vay tiền, nhưng không làm hợp đồng giao -
nhận. Ngoài ra, chị Ban thừa nhận số tiền nợ này không liên quan đến anh Ngọc,
không yêu cầu anh Ngọc phải cùng trả nợ. Đồng thời tại tòa, chị Ban nói vẫn sẽ
có trách nhiệm trả nợ số tiền trên cho vợ chồng Lụa - Việt.
74
ký nhận vào tờ giấy vay. Đồng thời, chị Ban xác nhận đã giao cuốn số đỏ mang
Tuy nhiên, kết luận phiên tòa nói trên, Tòa án nhân dân Từ Sơn vẫn quyết
định buộc anh Ngọc phải cùng trả 1/2 số nợ mà chị Ban đã vay, tương đương với
số tiền là 540.000.000 đồng. Bởi, Tòa án nhân thị xã Từ Sơn cho rằng: Chị Ban
vay tiền là để sử dụng vào mục đích kinh doanh sản xuất gia đình vì theo như
chính quyền địa phương cung cấp: Tại thời điểm vay tiền, chị Ban và Ngọc vẫn là
vợ chồng, cùng chung sống và có sản xuất thép tại khu phố Đa Hội, Châu Khê.
Như vậy, TAND Từ Sơn tuyên như vậy là không chính xác. Bởi, theo quy
định tại Điều 27 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 thì:
“Điều 27. Trách nhiệm liên đới của vợ, chồng
1. Vợ, chồng chịu trách nhiệm liên đới đối với giao dịch do
một bên thực hiện quy định tại khoản 1 Điều 30 hoặc giao dịch khác
phù hợp với quy định về đại diện tại các điều 24, 25 và 26 của Luật
này.
2. Vợ, chồng chịu trách nhiệm liên đới về các nghĩa vụ quy
định tại Điều 37 của Luật này.”
Khoản 1 Điều 30 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định: “Vợ,
của gia đình”.
Theo đó, các giao dịch mà do một bên vợ hoặc chồng xác lập để nhằm đáp
ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình thì vợ và chồng phải chịu trách nhiệm liên đới.
Tuy nhiên, trong trường hợp này chị Ban đã tự ý vay số tiền lớn như vậy và
xác nhận không liên quan đến anh Ngọc, không yêu cầu anh Ngọc trả nợ cùng và
chồng có quyền, nghĩa vụ thực hiện giao dịch nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu
75
xác nhận trước tòa là sẽ trả nợ. Mặt khác, cũng không có căn cứ nào cho thấy
khoản vay đó để đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình hay để hai vợ chồng làm
ăn kinh doanh chung. Như vậy, TAND Từ Sơn buộc anh Ngọc phải trả nợ cùng
chị Ban số tiền chị Ban vay nói trên là không đúng theo quy định của pháp luật.
2.2. Một số giải pháp về đảm bảo áp dụng nguyên tắc bình đẳng giữa
vợ và chồng
2.2.1. Hoàn thiện các quy định của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014
liên quan đến nguyên tắc bình đẳng giữa vợ và chồng
- Cần công nhận và có sự quy định rõ ràng chế độ ly thân trong pháp luật
hôn nhân gia đình, bởi lẽ tình trạng này đang diễn ra rất phổ biến trong xã hội,
trước khi ly hôn thì hầu hết các cặp vợ chồng sẽ sống ly thân một thời gian, tuy
nhiên nhiều trường hợp sau khi ly thân vợ chồng lại trở về sống chung với nhau,
trong thời gian ly thân vợ chồng có thể tạo ra tài sản riêng của mình. Như vây,
theo nguyên tắc thì tất cả tài sản được tạo ra kể cả trong thời gian ly thân thì vẫn
là tài sản chung của vợ chồng, như vậy sẽ là không công bằng cho bên nào tạo ra
tài sản.
Việc luật hóa chế độ “ly thân” sẽ là cơ sở pháp lý bởi vệ quyền lợi của mỗi
bên vợ chồng. Luật Hôn nhân và Gia đình cần quy định chế độ ly thân của vợ
thỏa thuận, quyết định việc có ly thân hay không. Đồng thời, pháp luật sẽ quy định
cụ thể về thủ tục đăng lý, chấm dứt ly thân, thời gian ly thân, nghĩa vụ của cha mẹ
với con khi ly thân,... từ đó là cơ sở để bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của vợ,
chồng và các thành viên khác trong gia đình.
- Cần có quy định cụ thể về hình thức thỏa thuận của việc nhập tài sản riêng
chồng với tư cách là một quyền mới của vợ chồng, theo đó vợ chồng có quyền
76
vào tài sản chung, nếu hình thức thỏa thuận bằng văn bản thì có cần công chứng
hay không? Bởi tính chất phức tạp của việc nhập tài sản chung cũng giống với
việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân, vậy tại sao Luật Hôn nhân và Gia
đình có quy định điều chỉnh việc chia tài sản chung trong thời kì hôn nhân mà việc
nhập tài sản riêng vào tài sản chung lại không quy định cụ thể về trình tự, thủ tục.
- Cần quy định thời hạn để tài sản riêng của vợ chồng sau một thời gian
được đưa vào sử dụng, quản lý chung sẽ trở thành tài sản chung của vợ chồng, để
đánh giá đúng thực trạng quan hệ tài sản của vợ chồng và đảm bảo quyền, lợi ích
của các thành viên trong gia đình. Theo đúng tinh thần của Bộ Luật Dân sự năm
2015 tại Điều 236 quy định về việc xác lập quyền sở hữu theo thời hiệu do chiếm
hữu, được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật:
Người chiếm hữu, người được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật
nhưng ngay tình, liên tục, công khai trong thời hạn 10 năm đối với động sản, 30
năm đối với bất động sản thì trở thành chủ sở hữu tài sản đó, kể từ thời điểm bắt
đầu chiếm hữu, trừ trường hợp Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định khác.
- Liên quan đến chế độ tài sản do vợ chồng thỏa thuận, như đã trình bày ở
trên, để những cặp vợ chồng kết hôn trước ngày 01/1/2015 và những cặp vợ chồng
đảm bảo quyền tự thỏa thuận, định đoạt về chế độ tài sản của vợ chồng thì pháp
luật cần quy định quyền thỏa thuận về chế độ tài sản giữa vợ và chồng không phụ
thuộc vào thời điểm trước kết hôn hay sau kết hôn.
- Điều 47, Điều 49 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định về việc
thỏa thuận xác lập chế độ tài sản của vợ chồng và vợ, chồng có quyền sửa đổi, bổ
đã đăng ký kết hôn sau ngày 01/1/2015 nhưng chưa thỏa thuận chế độ tài sản được
77
sung thỏa thuận về chế độ tài sản; hình thức sửa đổi, bổ sung nội dung của thỏa
thuận đó là bằng văn bản có công chứng và chứng thực nhưng lại không có quy
định về việc hủy bỏ thỏa thuận về chế độ tài sản đã xác lập. Do đó, Luật Hôn nhân
và Gia đình nên có quy định về vấn đề hủy bỏ thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ
chồng bởi nó hoàn toàn có thể xảy ra trong thực tế, xuất phát từ ý chí, mong muốn
của các mỗi bên vợ chồng sau khi đã có thỏa thuận về chế độ tài sản trước đó.
2.2.2. Đảm bảo chất lượng, hiệu quả hoạt động áp dụng pháp luật hôn
nhân và gia đình
- Nhìn chung các quy định của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 còn
khá xa lạ và mới mẻ đối với đại bộ phận nhân dân, do đó việc áp dụng luật vào đời
sống còn khá khó khăn. Vì vậy, để các quy định của luật được thi hành trong đời
sống, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền cần tích cực phối hợp với nhau trong
việc xây dựng hệ thống văn bản pháp luật nhằm hướng dẫn thi hành các quy định
về quyền bình đẳng vợ chồng từ đó đưa luật gần gũi với cuộc sống, nhằm xây
dựng gia đình ấm no hạnh phúc bình đẳng trọn vẹn.
- Cần đảm báo sự thống nhất, toàn diện, không ngừng nâng cao năng lực,
kỹ thuật lập pháp. Khi bộ phận cấu thành nên pháp luật mà không có sự thống
nhất, đồng bộ, quy định của văn bản này mâu thuẫn với quy định của văn bản kia
hôn nhân và gia đình được hoàn thiện thì công tác lập pháp là yếu tố có vai trò rất
quan trọng.
- Nguyên nhân khiến tình trạng xét xử các vụ việc về hôn nhân gia đình
nói chung, liên quan đến vấn đề bình đẳng giữa vợ và chồng nói riêng còn hạn chế
thì có rất nhiều, tuy nhiên nguyên nhân chủ quan là do thiếu thẩm phán và trình
thì sẽ ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả thực hiện pháp luật. Vì vậy để pháp luật
78
độ của thẩm phán các cấp tòa án còn chưa cao. Ngành tòa án cần xây dựng chiến
lược phát triển, nâng cao trình độ cán bộ đồng thời có sự phối hợp chặt chẽ với
các cơ quan có thẩm quyền khác nhằm nâng cao hiệu quả của công tác xét xử. Cụ
thể, toà án các cấp cần tích cực tổ chức nhiều lớp đào tạo nhiệp vụ và triển khai
kịp thời các văn bản pháp luật, hướng dẫn của Tòa án nhân dân tối cao trong hoạt
động xét xử, giải quyết các vụ án hôn nhân và gia đình, đặc biệt là các vụ việc liên
quan đến bình đẳng giữa vợ và chồng. Có như thế mới góp phần nâng cao trình độ
của đội ngũ thẩm phán, đảm bảo quyền lợi chính đáng cho các đương sự.
Để giải quyết án hôn nhân và gia đình đạt hiệu quả cao, tránh được những
sai sót và bảo đảm quyền lợi cho các đương sự, các thẩm phán, thư ký tòa án còn
cần nêu cao tinh thần, trách nhiệm ngay từ bước thu thập chứng cứ, tài liệu làm cơ
sở giải quyết vụ án. Khi giải quyết các tranh chấp liên quan đến tài sản chung,
thẩm phán, thư ký tập trung xác định, thẩm định chính xác tài sản chung, riêng của
vợ chồng; xác định vai trò, đóng góp của mỗi bên trong việc duy trì, phát triển tài
sản chung.
Khi đưa ra quyết định về quyền nuôi con cho cha hay mẹ, Hội đồng xét xử
căn cứ quy định của Luật Hôn nhân và gia đình, điều kiện vật chất, tinh thần để
xem xét, phán quyết giao con chung cho bên nào nuôi. Các nội dung này được thể
hiện rõ trong bản án, nhằm bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của phụ nữ, trẻ em;
Cùng với đó, các cấp TAND cần quan tâm, chú trọng đến công tác kiện toàn
tổ chức cán bộ, đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ; quán
triệt, giáo dục cán bộ, thẩm phán thực hiện nghiêm quy chế văn hóa công sở và
quy tắc ứng xử của cán bộ, công chức TAND; làm tốt công tác hướng dẫn áp dụng
thống nhất pháp luật, trao đổi nghiệp vụ và rút kinh nghiệm công tác xét xử.
79
phòng ngừa các hành vi bạo lực gia đình.
Ngành Toà án tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra nghiệp vụ tập trung
vào việc khắc phục những hạn chế, thiếu sót trong công tác của TAND cấp huyện;
bổ sung cán bộ, thẩm phán cho các đơn vị còn thiếu so với yêu cầu công tác; phát
động các phong trào thi đua gắn với việc hoàn thành tốt nhiệm vụ chuyên môn...
- Cần chú trọng vấn đề đào tạo, nâng cao trình độ chuyên môn, đạo đức
của các cán bộ chuyên trách việc bảo đảm sự bình đẳng trong hôn nhân . Từ đó
giúp họ có kiến thức, có nhận thức đúng đắn và tầm quan trọng của mình trong
công việc mình đang làm về vấn đề bình đẳng, bảo đảm quyền và lợi ích chính
đáng cho người dân.
- Kiện toàn từ trung ương đến địa phương hệ thống tổ chức, đội ngũ cán
bộ tư pháp, cán bộ làm công tác dân số, kế hoạch hóa gia đình, bảo vệ bà mẹ trẻ
em,... bố trí phù hợp cán bộ chuyên trách, đảm bảo môi trường làm việc cho cán
bộ. Đảm bảo mỗi cụm dân cư đều có cán bộ chuyên trách nhằm đưa công tác, giáo
dục tuyên truyền vận động về bình đẳng giới đến từng hộ gia đình.
- Tăng cường hợp tác quốc tế về bình đẳng giới nói chung và bình đẳng
giới trong quan hệ hôn nhân và gia đình nói riêng:
Việt nam là quốc gia tham gia nhiều vào các điều ước quốc tế về quyền con
người, bình đẳng giới và đã nội luật hóa các quy định của điều ước. Bên cạnh
quốc tế nhằm đảm bảo cho quyền bình đẳng được thực thi.
Do đó, các hoạt động hợp tác quốc tế cần được chú trọng và đẩy mạnh nhằm
học tập, chia sẻ kinh nghiệm, vận động các nguồn lực hỗ trợ Việt Nam thực hiện
tốt chiến lược bình đẳng giới.
80
những thành tựu đạt được, còn tồn tại rất nhiều khó khăn cần sự hỗ trợ của bạn bè
- Đảm bảo kinh phí cho hoạt động bình đằng giới nói chung:
Một trong những nguyên nhân khiến pháp luật về bình đẳng giới nói chung
và bình đẳng giữa vợ và chồng trong quan hệ hôn nhân gia đình nói riêng chính là
kinh phí dành cho việc thực hiện hoạt động này còn hạn chế. Để có nguồn kinh
phí phục vụ cho công tác đảm bảo bình đẳng giới trong xã hội thì Nhà nước ta cần:
+ Xây dựng kế hoạch kinh phí hàng năm, trong đó có kinh phí riêng phục
vụ cho công tác đảm bảo bình đẳng giới trong xã hội; đảm bảo đáp ứng kịp thời
kinh phí, công cụ, tài liệu, cơ sở vật chất,… phục vụ cho các hoạt động này;
+ Vận động nguồn lực phục vụ cho các hoạt động đảm bảo bình đằng giới
trong xã hội bằng việc phối hợp với các tổ chức phi chính phủ, các doanh nghiệp
trong và ngoài nước,…
2.2.3. Tăng cường phổ biến, giáo dục pháp luật hôn nhân và gia đình
- Tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật: Cần đẩy
mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục nhất là ở cấp cơ sở tới mọi tầng
lớp nhân dân về pháp luật của Nhà nước Việt Nam nói chung và các quy định Luật
Hôn nhân và Gia đình nói riêng, tích cực lên án các hành vi xâm phạm đến quyền
nữ,...
Giải pháp này nhằm giúp cho mỗi cá nhân thực sự hiểu rõ về quyền và nghĩa
vụ của mỗi một thành viên trong quan hệ hôn nhân và gia đình, cũng như hiểu và
nắm rõ cơ chế để tự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình khi bị xâm phạm.
Ngoài ra, công tác này góp phần làm thay đổi tư duy mang tính truyền thống về
vai trò của nam giới và nữ giới trong gia đình, đặc biệt là khu vực vùng sâu vùng
bình đẳng vợ chồng, cụ thể là: hành vi bạo lực gia đình, phân biệt đối xử với phụ
81
xa, dân tộc thiểu số - nơi mà tư tưởng trọng nam khinh nữ vẫn đang tồn tại ở đại
đa số hộ gia đình. Các hình thức tuyên truyền phải đa dạng, ngắn gọn, dễ hiểu
thông qua các hình thức như phát thanh, truyền hình, báo chí, pa-nô, áp phích,...
bởi những tư tưởng “trọng nam khinh nữ” đã “ăn sâu, bám rễ” trong trong suy
nghĩ của mỗi con người nên công việc này không thể làm trong thời gian ngắn,
ngày một ngày hai mà nó cần được thực hiện một cách thường xuyên, liên tục,
trường kỳ.
Để thực hiện tốt công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật cho
nhân dân cần phải:
Thứ nhất, tiếp tục thực hiện chương trình, đề án mà Chính phủ đề ra về
tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật cho nhân dân;
Thứ hai, lựa chọn những nội dung giáo dục pháp luật sao cho phù hợp với
từng đối tượng, từng địa phương, khu vực khác nhau trong cả nước;
Thứ ba, cần xây dựng được đội ngũ tuyên truyền viên, báo cáo viên có đầy
đủ phẩm chất đạo đức, tiêu chuẩn theo quy định của Bộ tư pháp;
Thứ tư, đẩy mạnh công tác phối kết hợp giữa các Bộ, ban, ngành, đoàn thể,
chính quyền địa phương từ trung ương cho tới địa phương.
- Tăng cường, đa dạng các hình thức giáo dục, phổ biến, tuyên truyền pháp
luật cho nhân dân thông qua các phương tiện thông tin đại chúng:
với các thông tin về pháp luật, nhưng có lẽ phương tiện thông tin đại chúng là một
giải pháp hữu hiệu nhất.
Phát thanh, truyền hình ngày nay được phổ biến rộng rãi ở khắp nơi trên cả
nước, kể cả khu vực vùng sâu vùng xa, rừng núi, hải đảo. do đó phát thanh, truyền
hình có thể nói là một hình thức phù hợp với mọi đối tượng, tầng lớp nhân dân.
82
Trong xã hội hiện đại, có rất nhiều cách để người dân có thể tiếp cận được
Qua các phương tiện thông tin đại chúng, mọi người dân sẽ được cung cấp
thông tin mới nhất về hoạt động xây dựng, ban hành, chấp hành pháp luật trên cả
nước nói chung và ở tại địa phương nơi mình sinh sống nói riêng. Phương tiện
thông tin đại chúng còn giúp người dân có thể hiểu một cách sâu rộng những vấn
đề pháp luật, những đạo luật của các ngành luật cụ thể, đồng thời nó còn giúp nâng
cao ý thức pháp luật của người dân.
Để các cơ quan thông tin đại chúng có thể phát huy tốt vai trò của mình
trong việc giáo dục, phổ biến, tuyên truyền pháp luật cho nhân dân thì cần có sự
phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan thông tin đại chúng với các cơ quan có chức
năng bảo vệ pháp luật ở những hình thức sau đây:
Thứ nhất, các cơ quan có chức năng bảo vệ pháp luật cần cung cấp kịp thời
các thông tin về tổ chức, thực thi pháp luật ở các ban ngành, địa phương trên cả
nước để cơ quan thông tin đại chúng đưa tin tức tới nhân dân.
Thứ hai, thường xuyên họp bàn rút kinh nghiệm về việc thực hiện các chức
năng của các cơ quan bảo vệ pháp luật và cơ quan thông tin đại chúng để có định
hướng, giải pháp phù hợp với từng giai đoạn, từng không gian cho công tác giáo
dục, tuyên truyền, phổ biến pháp luật.
Thư ba, thường xuyên tổ chức bồi dưỡng, đào tạo nhằm nâng cao kiến thức
quan đến pháp luật trong cả nước.
- Vận động toàn dân tham gia công tác bảo đảm quyền bình đẳng vợ chồng
trong gia đình. Khuyến khích, tạo điều kiện cho các tổ chức chính trị, xã hội,
những tình nguyện viên tham gia công tác gia đình.
83
pháp luật cho đội ngũ phóng viên, biên tập viên,… phụ trách các chuyên mục liên
2.2.4. Thực hiện giám sát, kiểm tra việc thực hiện nguyên tắc bình đẳng
giữa vợ và chồng
Công việc này có thể nói là khá mờ nhạt trong quản lý nhà nước đối với lĩnh
vực hôn nhân và gia đình. Điều này xuất phát một phần từ quan niệm xã hội Việt
Nam ta coi những việc liên quan đến lĩnh vực hôn nhân và gia đình là công việc
riêng của mỗi cá nhân, mỗi gia đình trong xã hội. Từ đó, dẫn đến nhiều vụ việc vi
phạm pháp luật hôn nhân và gia đình nói chung, vi phạm nguyên tắc bình đẳng
giữa vợ và chồng nói riêng chưa được kịp thời phát hiện và xử lý. Do đó, việc tăng
cường thực hiện công tác giám sát, kiểm tra việc thực hiện nguyên tắc bình đẳng
giữa vợ và chồng là hết sức cần thiết.
Cùng với việc xây dựng pháp luật hôn nhân và gia đình cần có cơ chế giám
sát việc thực hiện pháp luật, đặc biệt là việc thực hiện nguyên tắc bình đẳng giữa
vợ và chồng . Công tác kiểm tra, giám sát nên được thực hiện qua hai kênh là nhà
nước và xã hội. Đồng thời cũng cần đa dạng hóa các hình thức kiểm tra, giám sát
sao cho hoạt động này phát huy hiệu quả tuyệt đối.
2.2.5. Phòng ngừa và xử lý nghiêm mình, công bằng mọi hành vi vi phạm
nguyên tắc bình đẳng giữa vợ và chồng
Cần xây dựng các biện pháp phòng ngừa những hành vi vi phạm nguyên tắc
kiểm tra để kịp thời xử lý những hành vi vi phạm về bình đẳng trong quan hệ hôn
nhân gia đình, qua đó hạn chế tối đa các hành vi xâm phạm đến quyền và lợi ích
hợp pháp của các bên trong quan hệ hôn nhân và gia đình.
84
bình đẳng giữa vợ và chồng trong xã hội, đồng thời tăng cường công tác thanh tra,
KẾT LUẬN
Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 với nhiều nội dung mới được quy định
đã khắc phục phần nào những hạn chế, thiếu xót của Luật Hôn nhân và Gia đình
năm 2000 trong việc đảm bảo nguyên tắc bình đẳng giữa vợ và chồng, và đặc biệt
Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 dự liệu được nhiều tình huống có thể xảy ra
trong đời sống hôn nhân, gia đình nhưng không làm mất đi giá trị văn hóa, đạo
đức truyền thống vốn có của dân tộc Việt Nam ta.
Những giá trị tiến bộ mới của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 so với
các đạo luật Hôn nhân và Gia đình trước đó có thể kể đến như là: pháp luật không
cấm kết hôn đồng tính, quy định chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận bên
cạnh chế độ tài sản của vợ chồng theo luật định, quy định vấn đề mang thai hộ,…
Đặc biệt, với quy định chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận hết sức
tiến bộ, Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 đã bảo đảm cho vợ, chồng có quyền
tự định đoạt đối với tài sản chung và tài sản riêng của mình. Đồng thời, quy định
này cũng giúp vợ chồng có thể tự bảo toàn tài sản riêng của mình, qua đó làm giảm
hoặc tránh được những xung đột, tranh chấp về tài sản khi vợ, chồng ly hôn.
Tuy nhiên, một số quy định của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 chưa
thực sự phù hợp với xu thế phát triển kinh tế, xã hội ngày nay và các quy định của
nhân dân, dẫn đến việc áp dụng pháp luật trên thực tế còn gặp nhiều khó khăn,
vướng mắc. Trên cơ sở đó, Luận văn đã đưa ra những giải pháp nhằm hoàn thiện
pháp luật hôn nhân và gia đình liên quan đến nguyên tắc bình đẳng giữa vợ và
chồng, đồng thời đưa ra một số giải pháp đảm bảo cho nguyên tắc bình đẳng giữa
vợ và chồng được áp dụng một cách có hiệu quả trên thực tế.
85
Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 nói chung còn khá xa lạ đối với đại bộ phận
Trong tầm hiểu biết còn giới hạn, tác giả đã cố gắng nghiên cứu, đánh giá
một cách toàn diện các quy định của pháp luật hôn nhân và gia đình liên quan đến
nguyên tắc bình đẳng giữa vợ và chồng cũng như thực tiễn áp dụng nguyên tắc
này trong đời sống xã hội, trên cơ sở đó tác giả đề ra những giải pháp nhằm hoàn
thiện pháp luật hôn nhân và gia đình, cũng như đảm bảo cho pháp luật hôn nhân
86
và gia đình được thực hiện tốt hơn trong đời sống xã hội.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch (2015), Báo cáo Sơ kết Chiến lược phát triển
gia đình Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn 2030, Hà Nội.
2. Dương Văn Chăm (2012), “Luật Hồng Đức với vấn đề bình đẳng giới”,
http://truongchinhtribentre.edu.vn/noi-dung/lua-t-ho-ng-du-c-vo-i-va-n-de-
binh-da-ng-gio-i.
3. Chính phủ (2014), Nghị định số 126/2014/NĐ-CP ngày 31/12/2014 quy định
chi tiết một số điều và hướng dẫn thi hành Luật hôn nhân và gia đình năm
2014, Hà Nội.
4. Chương trình phát triển Liên Hợp quốc (2013), Báo cáo về Tiếp cận đất đai
của phụ nữ.
5. Nguyễn Văn Cừ (2005), Chế độ tài sản của vợ chồng theo Luật hôn nhân và
Gia đình Việt Nam, Luận án Tiến sĩ Luật học, Đại học Luật, Hà Nội.
6. Nguyễn Văn Cừ (2015), “Chế độ tài sản theo thỏa thuận trong pháp luật Hôn
nhân và Gia đình Việt Nam”, Tạp chí Luật học, (4).
7. Nguyễn Văn Cừ và Ngô Thị Hường (2002), Một số vấn đề lý luận và thực
tiễn về Luật hôn nhân và gia đình năm 2000, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
8. Lê Thị Dung (2017), Chế độ hôn sản theo Luật hôn nhân và gia đình năm
9. Xuân Duy (2016), “TPHCM ra mắt Tòa gia đình và người chưa thành niên”,
http://dantri.com.vn.
10. Hà Hiền (2016), “Danh hiệu gia đình văn hóa: Quá dễ sẽ làm giảm giá trị!”,
www.hanoimoi.com.vn.
11. Hiếu Hiển (2014), “Một số vấn đề thực tiễn xử án Hôn nhân & Gia đình tại
2014, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Khoa luật – Đại học Quốc gia, Hà Nội.
87
TAND hai cấp tỉnh Quảng Nam”, http://toaanquangnam.gov.vn.
12. Ngô Thị Hường (2012). “Bình đẳng giới trong Gia đình”, Tạp chí Luật học,
(5).
13. Nguyễn Phương Lan (2016), “Cedaw và vấn đề quyền bình đẳng giới trong
pháp luật Hôn nhân và Gia đình Việt Nam”, Tạp chí Luật học, (3).
14. Liên Hợp Quốc (1948), Tuyên ngôn nhân quyền.
15. Liên Hợp Quốc (1979), Công ước về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử
với phụ nữ (Cedaw).
16. Hồ Chí Minh Toàn tập (2011), Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, (15), Hà
Nội, tr. 260.
17. Từ điển Tiếng Việt (1992), Nxb Đà Nẵng.
18. Từ điển Chủ nghĩa cộng sản khoa học (1986), Nxb Sự thật, Hà Nội.
19. Trần Thị Hồng Nhung (2013), Bảo vệ quyền của người phụ nữ trong quan
hệ tài sản giữa vợ và chồng theo Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000, Luận
văn Thạc sĩ Luật học, Khoa luật – Đai học Quốc Gia, Hà Nội.
20. Hoàng Thị Kim Quế (2012), “Bảo vệ quyền lợi phụ nữ trong Luật Hồng Đức
(Lê Triều hình luật) – Tính tiến bộ, nhân văn và giá trị đương đại”, Tạp chí
Khoa học Đại học Quốc Gia Hà Nội, Luật học 28 (2012), 199-203.
21. Hoàng Thị Kim Quế (2000), “Bảo vệ quyền và vì sự tiến bộ của phụ nữ trong
22. Hoàng Thị Kim Quế (1999), “Một số vấn đề về phụ nữ và pháp luật ở Việt
Nam – Lịch sử và hiện tại”, Đại học Quốc gia Hà Nội.
23. Quốc hội (1946), Hiến pháp, Hà Nội.
24. Quốc hội (1959), Hiến pháp, Hà Nội.
25. Quốc hội (1980), Hiến pháp, Hà Nội.
pháp luật Việt Nam”, Hội nghị Khoa học Nữ lần thứ 5, Hà Nội.
88
26. Quốc hội (1992), Hiến pháp, Hà Nội.
27. Quốc hội (2013), Hiến pháp, Hà Nội.
28. Quốc hội (2006), Luật Bình đẳng giới, Hà Nội.
29. Quốc hội (2015), Bộ luật Dân sự, Hà Nội.
30. Quốc hội (1959), Luật hôn nhân và gia đình, Hà Nội.
31. Quốc hội (1986), Luật hôn nhân và gia đình, Hà Nội.
32. Quốc hội (2000), Luật hôn nhân và gia đình, Hà Nội.
33. Quốc hội (2014), Luật hôn nhân và gia đình, Hà Nội.
34. Lê Thảo (2018), “Nâng cao chất lượng xét xử và giải quyết án Hôn nhân và
Gia đình”, htpp:// baovinhphuc.com.vn.
35. Lê Thu Thảo (2014), Bảo đảm quyền bình đẳng của phụ nữ trong lĩnh vực
Hôn nhân và Gia đình tại Việt Nam hiện nay, Luận vãn Thạc sĩ Luật học,
Khoa luật – Đại học Quốc gia, Hà Nội.
36. Phạm Ngọc Tiến (2018), “Luật Bình đẳng giới – ghi nhận sau 10 năm thực
hiện”, https://moha.gov.vn.
37. Trường Đại học Luật Hà Nội (2009), Giáo trình Luật hôn nhân và Gia đình
Việt Nam, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
38. Trường Đại học Luật TP Hồ Chí Minh (2012), Giáo trình Luật Hôn nhân &
Gia đình Việt Nam, Nxb Hồng Đức, TP. Hồ Chí Minh.
Việt Nam (AAV) (2016), Để ngôi nhà trở thành tổ ấm.
89
39. Vụ Bình đằng giới, Bộ Lao động Thương binh và Xã hội, Tổ chức ActionAid