VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TRÌNH PHẠM ĐẮC DUY CHẾ ĐỘ TÀI SẢN CỦA VỢ CHỒNG THEO LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH Ở VIỆT NAM HIỆN NAY LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT KINH TẾ HÀ NỘI, năm 2019

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TRÌNH PHẠM ĐẮC DUY

CHẾ ĐỘ TÀI SẢN CỦA VỢ CHỒNG THEO LUẬT

HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH Ở VIỆT NAM NAY

Ngành: Luật Kinh Tế

Mã số: 8380107

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC

PGS.TS. HÀ THỊ MAI HIÊN

HÀ NỘI, năm 2019

PHẦN MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Pháp luật về tài sản là một trong những chế định quan trọng trong pháp luật Dân

sự Việt Nam nói chung và của Luật Hôn nhân và Gia đình nói riêng, đặc biệt là chế định

tài sản của vợ chồng. Trong các thời kỳ lịch sử thì có nhiều quy định khác nhau về chế

độ tài sản của vợ chồng và cùng với sự phát triển của xã hội thì những quy định về chế

độ tài sản của vợ chồng ở mỗi thời kỳ được xây dựng, sửa đổi, bổ sung phù hợp với tình

hình thực tiễn của Đất Nước. Pháp luật điều chỉnh về chế độ sở hữu tài sản trong mối

quan hệ vợ chồng, thể hiện sự công bằng, dân chủ, văn minh, sự phát triển của xã hội

và pháp luật, đáp ứng nhu cầu thực tiễn hiện nay về nhu cầu sở hữu tài sản của con người.

Việc nghiên cứu luận văn “Chế độ tài sản của vợ chồng theo Luật Hôn nhân và Gia đình

Việt Nam hiện nay” là cần thiết và có cơ sở khoa học bởi:

Thứ nhất: Đánh giá được sự phù hợp của quy định pháp luật về chế độ tài sản của

vợ chồng trong quy định của Hiến Pháp, của hệ thống pháp luật của Nhà nước nói chung

và Luật Hôn nhân và Gia đình nói riêng.

Thứ hai: Xuất phát từ thực tiễn áp dụng pháp luật về chế độ tài sản của vợ chồng

hiện nay về các quy định pháp luật còn chưa hoàn thiện và còn nhiều hạn chế, các quy

định pháp luật hiện hành về chế độ tài sản của vợ chồng hiện nay vẫn chưa quy định chi

tiết, rõ ràng, chưa có văn bản hướng dẫn thi hành, nhiều quy định còn mâu thuẩn, chồng

chéo giữa quy định trong Bộ luật Dân sự và quy định trong Luật Hôn nhân và Gia đình

dẫn đến công tác áp dụng pháp luật về chế độ tài sản của vợ chồng trong thực tế gặp

nhiều khó khăn, vướng mắc.

Thứ ba: Thực trạng các tranh chấp về tài sản trong quan hệ pháp luật vợ chồng

hiện nay diễn ra thường xuyên và phức tạp, các tranh chấp về tài sản của vợ chồng có

giá trị lớn, tài sản tranh chấp đa dạng và phức tạp về nguồn gốc, công sức đóng góp tạo

dựng. Nhiều vụ án tranh chấp tài sản của vợ chồng với khối lượng tài sản lớn, phức tạp,

liên quan đến nhiều người, gây tốn kém nhiều thời gian công sức của các cơ quan tố tụng

khi giải quyết tranh chấp liên quan đến chế độ tài sản của vợ chồng.

Thứ tư: Hiện nay các tranh chấp tài sản của vợ chồng xảy ra thường xuyên dẫn

đến tình trạng suy thoái về truyền thống văn hóa, đạo đức, lối sống của con người, phá

vỡ truyền thống gia đình, làm mất trật tự an toàn xã hội, nảy sinh nhiều mâu thuẫn mới,

tranh chấp mới trên nhiều lĩnh vực xã hội.

Thứ năm: Công tác xét xử và thi hành án đối với các tranh chấp về tài sản trong

quan hệ vợ chồng gặp nhiều khó khăn và vướng mắc vì tranh chấp về tài sản của vợ

chồng hiện nay diễn ra thường xuyên và có nhiều tranh chấp phức tạp, giá trị tranh chấp

lớn. Công tác xét xử các tranh chấp tài sản của vợ chồng tại Tòa án thường bị quá tải ở

những thành phố lớn, đông dân cư như Thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội,…

Thứ sáu: Ở các thành phố lớn như: Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh và một số

thành phố lớn có mật độ dân cư sinh sống đông đúc thì thực trạng vợ chồng ly hôn, thanh

chấp tài sản diễn ra ngày càng thường xuyên và phức tạp, nhiều tranh chấp tài sản lớn,

diễn biến vụ việc phức tạp từ đó gây khó khăn và áp lực quá tải cho công tác giải quyết

các tranh chấp tài sản của vợ chồng. Vì vậy, chế độ tài sản của vợ chồng hiện nay cần

phải được nghiên cứu chuyên sâu và làm rõ các khía cạnh của vấn đề. Từ đó, làm cơ sở

để nghiên cứu thực trạng, nguyên nhân và đề xuất giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật

và nâng cao hiệu quả công tác áp dụng pháp luật.

Từ những lý do đó tác giả nhận thấy được tầm quan trọng của “Chế độ tài sản của

vợ chồng theo Luật Hôn nhân và Gia đình ở Việt Nam hiện nay” là rất quan trọng và cần

thiết, vấn đề cần phải được nghiên cứu và làm rõ không chỉ ở góc độ khoa học pháp lý

mà còn phải nghiên cứu làm rõ vấn đề dưới nhiều góc độ khoa học như: Xã hội học, kinh

tế học, đạo đức học… Vì vậy, tác giả đã lựa chọn nghiên cứu đề tài nhằm làm rõ chế độ

tài sản của vợ chồng, góp phần hoàn thiện quy định pháp luật, ổn định các quan hệ Hôn

nhân và Gia đình, tạo cơ sở pháp lý thực hiện quyền và nghĩa vụ về tài sản của vợ chồng.

Bên cạnh những hiệu quả của quy định pháp luật hiện hành đem lại và những kết quả

trong công tác tố tụng đã đạt được, trong thời gian qua công tác áp dụng pháp luật về chế

độ tài sản của vợ chồng còn gặp nhiều khó khăn và cần phải có giải pháp để giải quyết.

Vì vậy, việc nghiên cứu luận văn “Chế đội tài sản của vợ chồng theo pháp Luật Hôn

nhân và Gia đình ở Việt Nam hiện nay” là cần thiết nhằm làm rõ vấn đề về mặt lý luận

và thực tiễn. Từ đó, chỉ ra thực trạng, nguyên nhân và kiến nghị giải pháp hoàn thiện

pháp luật, điều hòa mối quan hệ Hôn nhân và Gia đình trong xã hội, nâng cao hiệu quả

công tác áp dụng pháp luật trong thực tiễn.

2. Tình hình nghiên cứu

Chế độ tài sản của vợ chồng là đề tài nghiên cứu khoa học đã được nhiều tác giả

nghiên cứu dưới nhiều góc độ, khía cạnh và địa phương khác nhau như:

- Nguyễn Thị Kim Dung (2014), “Chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận

trong pháp luật Việt Nam” luận văn thạc sĩ luật học, Đại học Luật Hà Nội”.

- Lê Thị Hà (2016), “Hiệu lực của thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng theo

pháp luật Việt Nam”, luận văn thạc sĩ luật học, Đại học Quốc gia Hà Nội”.

- Trương Thị Lan (2016) “Chế độ tài sản pháp định theo Luật Hôn nhân và Gia

đình năm 2014”, Luận văn thạc sĩ luật học, Đại học Quốc gia Hà Nội”.

- Lê Đình Nghị, “Chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận luật Hôn nhân và

Gia đình năm 2014 ở Việt Nam hiện nay”, luận văn thạc sĩ luật học, Học viện khoa học

xã hội.

- Đào Thanh Huyền (2017), “Giải quyết tranh chấp tài sản vợ chồng trong các vụ

án ly hôn, từ thực tiễn xét xử của Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương”, Luận án tiến sĩ,

Học viện khoa học xã hội”.

- Ngoài những tác giả trên, còn nhiều tác giả khác cũng nghiên cứu về “Chế độ tài

sản của vợ chồng” dưới nhiều góc độ khoa học và nghiên cứu ở nhiều địa phương khác

nhau. Có thể thấy, các công trình nghiên cứu trên của các tác giả về cơ bản đã tiếp cận

chế độ tài sản của vợ chồng nói chung và chế độ tài sản của vợ chồng theo Luật Hôn

nhân và Gia đình nói riêng dưới nhiều góc độ lý luận khoa học và thực tiễn, nghiên cứu

thực trạng ở nhiều địa phương là khác nhau. Mỗi công trình nghiên cứu tiếp cận vấn đề

ở các khía cạnh khác nhau, nghiên cứu về lý luận, thực tiễn, phân tích đánh giá thực

trạng và có những kiến nghị, giải pháp khác nhau phù hợp với từng thời điểm và từng

địa phương.

Hiện nay tình hình nghiên cứu chế định tài sản của vợ chồng theo Luật Hôn nhân

và Gia đình là rất cần thiết, góp phần đánh giá được hiệu quả và tầm quan trọng của pháp

Luật Hôn nhân và Gia đình 2014 trong thực tiễn áp dụng, ngoài ra, nghiên cứu còn làm

rõ những vấn đề tồn tại bất cập hiện nay về chế độ tài sản của vợ chồng. Từ đó đánh giá

thực trạng, nguyên nhân và giải pháp hoàn thiện quy định pháp luật và nâng cao hiệu

quả áp dụng pháp luật. Đặc biệt, là trên địa bàn các thành phố lớn, đông dân cư sinh sống

như: Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu

Luận văn là cơ sở nghiên cứu khoa học và pháp lý để làm rõ các vấn đề lý luận và

thực tiễn chế độ tài sản của vợ chồng hiện nay.

Phân tích và làm rõ các khái niệm, nội dung cơ bản, các đặc điểm, ý nghĩa các quy

định pháp luật, quá trình hình thành và phát triển, các yếu tố tác động đến quy định pháp

luật và thực hiện pháp luật về chế độ tài sản của vợ chồng hiện nay.

Phân tích và làm rõ các quy định pháp luật trong Luật Hôn nhân và Gia đình, quy

định về chế độ tài sản của vợ chồng hiện nay để làm cơ sở đánh giá hiệu quả của Bộ luật

Dân sự 2015, Luật Hôn nhân và Gia đình 2014, và các văn bản hướng dẫn thi hành.

Nghiên cứu tình hình thực tiễn hiện nay của chế định tài sản vợ chồng để chỉ ra

thực trạng, tìm ra nguyên nhân của những khó khăn vướng mắc, từ đó kiến nghị những

giải pháp tích cực nhằm hoàn thiện pháp luật, nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Để làm rõ chế độ tài sản của vợ chồng theo quy định Luật hôn nhân và Gia đình thì

luận văn tập trung nghiên cứu những nhiệm vụ sau:

- Làm rõ một số vấn đề lý luận về chế độ tài sản của vợi chồng như: khái niệm, nội

dung cơ bản, đặc điểm, ý nghĩa, các yếu tố tác động đến chế độ tài sản của vợ chồng.

- Làm rõ quá trình hình thành và phát triển của các quy định pháp luật về chế độ

tài sản của vợ chồng.

- Phân tích nội dung chế độ tài sản của vợ chồng theo quy định của Luật Hôn nhân

và Gia đình 2014.

- Nghiên cứu và làm rõ nội dung của các quy định pháp luật trong Luật Hôn nhân

và Gia đình và pháp luật có liên quan đến tài sản nói chung, tài sản chung, tài sản riêng

của vợ chồng.

- Phân tích đánh giá tình hình thực tiễn, thực trạng của chế độ tài sản của vợ chồng

ở nước ta hiện nay. Từ đó, chỉ ra những khó khăn, vướng mắc, tìm ra nguyên nhân và

kiến nghị giải pháp.

4. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những vấn đề lý luận và thực tiễn về chế độ

tài sản của vợ chồng theo quy định của Luật Hôn nhân và Gia đình Việt Nam hiện nay.

Nghiên cứu các quy định pháp luật hiện hành có liên quan đến chế độ tài sản của

vợ chồng trong: Hiến pháp 2013, Bộ Luật Dân sự 2015, Luật Hôn nhân và Gia đình

2014, và các văn pháp luật hướng dẫn thi hành.

Nguyên cứu các số liệu thực tiễn đã thu thập để tổng hợp, phân tích, đánh giá và

rút ra tình hình thực tiễn hiện nay của chế độ tài sản của vợ chồng.

Nghiên cứu thực trạng giải quyết các tranh chấp tài sản của vợ chồng tại Tòa án và

tham khảo các bản án, Quyết định của Tòa án trong xét xử và giải quyết các vụ việc liên

quan đến chế độ tài sản của vợ chồng.

5. Phạm vi nghiên cứu

Luận văn nghiên cứu chế độ tài sản của vợ chồng theo quy định của Luật Hôn nhân

và Gia đình từ năm 2015 đến nay. Nghiên cứu chế định này tập trung chủ yếu trong thời

gian hiệu lực của Luật Hôn nhân và Gia đình 2014.

Luận văn nghiên cứu chế độ tài sản của vợ chồng theo Luật Hôn nhân và Gia đình

2014 trên phạm vi cả nước thông qua các báo cáo, tổng hợp của Tòa án nhân dân các

cấp.

6. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

- Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác

- Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và Nhà nước về chế độ Hôn nhân

và Gia đình trên tinh thần của Hiến pháp 2013.

- Phương pháp phân tích - tổng hợp: Được sử dụng để nghiên cứu trong các phần

của Luận văn, phương pháp này cho phép nghiên cứu rõ các vấn đề lý luận của pháp luật

về chế độ tài sản của vợ chồng theo quy định Luật Hôn nhân và Gia đình hiện hành.

- Phương pháp luận từ lý luận đến thực tiễn và tính độc lập tương đối tác động

ngược trở lại lý luận nhận thức.

- Phương pháp so sánh: Được sử dụng nhằm tham khảo và so sánh các điểm giống

và khác nhau từ đó tìm ra những ưu điểm và hạn chế.

- Phương pháp thống kê và phân tích số liệu thống kê: dựa trên số liệu thống kê của

Tòa án nhân nhân Tối cao qua các báo cáo trong công tác xét xử và giải quyết các vụ

việc và vụ án lên quan đến chế độ tài sản của vợ chồng.

- Phương pháp tư vấn chuyên gia: trao đổi và lấy ý kiến tư vấn sau đó chọn lọc và

nghiên cứu.

- Phương pháp tham khảo các tài liệu như: sách, báo, bài viết, tạp chí, tra cứu

internet.

7. Ý nghĩa lý luận và ý nghĩa thực tiễn

- Luận văn có ý nghĩa to lớn góp phần làm rõ hơn cơ sở lý luận khoa học về chế độ

tài sản của vợ chồng theo quy định luật Hôn nhân và Gia đình. Từ đó, có cơ sở khoa học

để đi sâu nghiên cứu các nội dung của vấn đề, kiến nghị giải pháp hoàn thiện pháp luật

và nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật.

- Luận văn cung cấp cơ sở lý luận và thực tiễn cho công tác lập pháp, hành pháp

và tư pháp trong thực tiễn áp dụng pháp luật.

- Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo trong việc nghiên cứu chuyên sâu

chế độ tài sản của vợ chồng, dùng làm tài liệu để giảng dạy và cơ sở để kiến nghị sửa

đổi, bổ sung quy định pháp luật.

8. Cấu trúc của Luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo. Nội dung của luận văn được

thiết kế thành ba chương như sau:

Chương 1: Một số vấn đề lý luận vể chế độ tài sản của vợ chồng.

Chương 2: Thực trạng chế độ tài sản của vợ chồng theo quy định của luật hôn nhân

và gia đình hiện hành và thực tiễn thực hiện.

Chương 3: Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực hiện

pháp luật về chế độ tài sản vợ chồng ở Việt Nam hiện nay.

CHƯƠNG 1

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHẾ ĐỘ TÀI SẢN CỦA VỢ CHỒNG

1.1. Khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa chế độ tài sản của vợ chồng

1.1.1. Khái niệm

Tài sản đóng vai trò quan trọng trong mọi mối quan hệ xã hội nói chung và quan

hệ pháp luật nói riêng, là trung tâm trong mọi quan hệ pháp luật dân sự. Vì vậy, trong xã

hội tài sản được xem là một dạng vật chất có giá trị và có tầm ảnh hưởng rất lớn đến tất

cả các mối quan hệ xã hội và quan hệ pháp luật. Theo từ điển Luật học “Tài sản là của

cải, vật chất dùng vào mục đích sản xuất và tiêu dùng” [25]. Theo BLDS 2015 thì tài

sản được quy định như sau: “Tài sản là vật, tiền, giấy tờ có giá trị và quyền tài sản; tài

sản bao gồm bất động sản và động sản. Bất động sản và động sản có thể là tài sản hiện

có và cũng có thể là tài sản hình thành trong tương lai” [21, Điều 105]. Từ những khái

niệm trên thì ta có thể thấy khái niệm tài sản nói chung là ám chỉ vật chất có giá trị đối

với con người, đối với hoạt động sản xuất, đối với sự phát triển của xã hội. Khái niệm

tài sản là một khái niệm đa dạng và phức tạp về loại tài sản, giá trị tài sản, hình thức của

tài sản. Vì vậy, khái niệm tài sản cần phải được nghiên cứu và làm rõ trước khi đưa ra

khái niệm về tài sản của vợ chồng.

Mối quan hệ vợ chồng là một trong những mối quan hệ gắn bó giữa hai người giữa

nam và nữ sau khi kết hôn, họ cùng chung sống với nhau, cùng tham gia hoạt động sản

xuất tạo ra của cải vật chất, cùng chăm lo cho gia đình và đóng góp cho sự phát triển của

xã hội. Mối quan hệ vợ chồng được pháp luật hiện nay công nhận và bảo vệ khi họ thực

hiện thủ tục đăng ký kết hôn theo đúng theo các chế định luật định. Kết hôn là quyền của

con người được Hiến pháp 2013 ghi nhận là quyền của con người và được pháp luật

công nhận, bảo vệ “Nam, nữ có quyền kết hôn, ly hôn. Hôn nhân tự nguyện, tiến bộ, một

vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau” [18]. Mối quan hệ hôn nhân còn

được pháp luật quy định trong BLHS, BLDS và chi tiết hơn là Luật Hôn nhân và Gia

đình. Nam, nữ kết hôn với nhau là nền tảng để duy trì nòi giống, chung sức tạo ra của

cải vật chất phục vụ nhu cầu và đóng góp cho sự phát triển của xã hội. Gia đình được

xem là nền tảng của xã hội, trong đó vợ, chồng, con cái vừa là thành viên trong gia đình,

vừa là thành viên của xã hội. Vợ chồng với tư cách là một công dân của xã hội, vì vậy

họ có quyền sở hữu tài sản gồm các quyền chiếm hữu, sử dụng và quyền định đoạt tài

sản của mình. Quyền sở hữu là quyền của công dân được Hiến pháp 2013 ghi nhận và

bảo vệ. Ngoài ra quyền sở hữu của công dân còn được quy định trong BLDS, BLHS

Luật Hôn nhân và Gia đình,…Tuy nhiên, vấn đề sở hữu tài sản là một vấn đề phức tạp

và luôn có sự thay đổi cũng như thường xuyên nảy sinh mâu thuẩn, tranh chấp nên những

quy định pháp luật hiện hành đã đem lại nhiều hiệu quả tích cực trong điều chỉnh mối

quan hệ tài sản này. Tuy nhiên, pháp luật hiện nay vẫn còn những hạn chế nhất định

trong việc quy định và điều chỉnh các mối quan hệ xã hội liên quan đến chế độ sở hữu

tài sản của vợ chồng.

Vợ chồng là những công dân được pháp luật quy định và bảo vệ về quyền sở hữu

tài sản dựa trên việc xác lập mối quan hệ vợ chồng, mà đối tượng này có những quy định

cụ thể và rõ ràng hơn khác với các chủ thể có quyền sở hữu tài sản bình thường không

có mối quan hệ vợ chồng. Khi vợ chồng có quyền sở hữu tài sản thì khi đó mới có thể

tạo lập nên khối tài sản chung hoặc tài sản riêng. Như vậy, việc pháp luật quy định và

điều chỉnh chế độ tài sản của vợ chồng là chủ trương đúng đắn, phù hợp với nhu cầu con

người và tình hình thực tiễn, đúng với quy định của Hiến pháp.

Sau khi hết hôn, vợ chồng cùng nhau chung sức, góp tài sản tạo dựng và phát triển

khối tài sản chung nhằm xây dựng gia đình hạnh phúc, đầy đủ cơ sở vật chất, xây dựng

kinh tế gia đình phát triển, góp phần ổn định và phát triển của xã hội.

Theo quy định của Luật Hôn nhân và Gia đình 2014 và quy định của pháp luật liên

quan thì mối quan hệ vợ chồng được pháp luật công nhận và bảo vệ khi người vợ và

người chồng tiến hành đến cơ quan chức năng đăng ký kết hôn thì họ chính thức được

nhà nước công nhận là vợ chồng. Việc đăng ký kết hôn phải hoàn toàn tự nguyện, đúng

thủ tục và đúng quy định pháp luật. Từ việc đăng ký kết hôn đó sẽ nãy sinh nhiều quan

hệ xã hội và quan hệ pháp luật mới như: quan hệ vợ chồng, quan hệ gia đình, quan hệ tài

sản chung, quan hệ tài sản riêng, quan hệ thừa kế, nghĩa vụ tài chính,…

Từ những phân tích trên về tài sản và quan hệ vợ chồng thì khái niệm về chế độ tài

sản của vợ chồng như sau: “Chế độ tài sản của vợ chồng là tổng hợp các quy phạm pháp

luật điều chỉnh quan hệ sở hữu của vợ, chồng, bao gồm các quy định về căn cứ, nguồn

gốc xác lập tài sản chung, tài sản riêng của vợ, chồng; quyền và nghĩa vụ của vợ chồng

đối với các loại tài sản đó; các trường hợp tài sản, các nguyên tắc chia tài sản chung của

vợ chồng và nguyên tắc giải quyết tranh chấp về chế độ tài sản của vợi chồng [4, tr.8].

1.1.2. Đặc điểm của chế độ tài sản vợ, chồng

Vì tài sản của vợ chồng là tài sản thuộc quyền sở hữu chung của vợ chồng hoặc là

sở hữu riêng của vợ chồng nên chế độ tài sản có những đặc điểm riêng biệt khác với chế

độ về tài sản thông thường. Có những quy định pháp luật chuyên ngành điều chỉnh khác

với tài sản thông thường của cá nhân và tổ chức được điều chỉnh bởi BLDS mà thay vào

đó là chịu sự quy định của BLDS, Luật Hôn nhân và Gia đình, các VBQPPL có liên

quan. Chế độ tài sản của vợ chồng có nhiều vấn đề liên quan đến điều kiện kinh tế và xã

hội, truyền thống dân tộc, đạo đức, tôn giáo.

Thứ nhất: Chủ thể của quan hệ sở hữu trong chế độ tài sản của vợ chồng phải là

quan hệ hôn nhân hợp pháp, phải là vợ chồng và thỏa mãn các quy định pháp luật về

Hôn nhân và Gia đình như năng lực dân sự, độ tuổi, phải tự nguyện, không vi phạm các

quy định cấm kết hôn, không vi phạm đạo đức, thuần phong mỹ tục, phải làm đầy đủ các

thủ tục đăng ký kết hôn tại cơ quan có thẩm quyền. Thì mới đảm bảo thực hiện được chế

độ tài sản của vợ chồng theo đúng quy định pháp luật.

Thứ hai: Chế độ tài sản của vợ chồng gắn liền với mối quan hệ Hôn nhân, tồn tại

trong thời kỳ Hôn nhân, chấm dứt khi quan hệ Hôn nhân chấm dứt bằng bản án hoặc

quyết định của Tòa án có hiệu lực thi hành hoặc vợ, chồng có người chết trước. Chế độ

tài sản của vợ chồng tồn tại theo quy định của pháp luật và do pháp luật điều chỉnh.

Trong đó, quy định căn cứ xác lập, chấm dứt chế độ tài sản này phụ thuộc vào điều kiện

phát sinh và chấm dứt của quan hệ hôn nhân. Tài sản của vợ chồng trong thời kỳ Hôn

nhân là nguồn bảo đảm đối với cuộc sống về vật chất và tinh thần của vợ chồng và các

thành viên trong gia đình. Xuất phát từ quan hệ hôn nhân, quan hệ gia đình mà chế độ

tài sản của vợ chồng lệ thuộc vào sự tồn tại của mối quan hệ hôn nhân được pháp luật

công nhận và chấm dứt khi vợ hoặc chồng chết trước, hoặc có bản án, quyết định của

Tòa án tuyên vợ chồng ly hôn. Tuy nhiên, sau khi ly hôn người vợ hoặc người chồng có

thể xác lập mối quan hệ vợ chồng và tài sản của vợ chồng đối với một người khác khi

họ đăng ký kết hôn với một người khác và được pháp luật công nhận là vợ chồng.

Thứ ba: Các VBQPPL về chế độ tài sản của vợ chồng được xây dựng nhằm mục

đích trước tiên là bảo đảm quyền và lợi ích của vợ chồng trong mối quan hệ hôn nhân,

gia đình, tôn trọng truyền thống đạo đức con người, là cơ sở để vợ chồng thực hiện quyền

và nghĩa vụ của mình đối với tài sản, đối với người thân trong gia đình và đối với xã hội.

Đồng thời, các chủ thể có liên quan đến tài sản của vợ chồng phải nghiêm chỉnh tuân

theo và thực hiện các quy định pháp luật về quyền lợi, nghĩa vụ và trách nhiệm liên quan

đến tài sản của vợ chồng.

Thứ tư: Các VBQPPL về chế độ tài sản của vợ chồng là cơ sở pháp lý để thực hiện

các quyền sở hữu tài sản của vợ hoặc chồng như quyền: chiếm hữu, sử dụng và định đoạt

tài sản giữa vợ và chồng với nhau, giữ vợ chồng với với các chủ thể khác. Qua đó, góp

phần đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của mình và của gia đình trong đó có lợi ích

của cá nhân người vợ hoặc chồng hoặc chủ thể khác liên quan đến tài sản của vợ chồng

trong thời kỳ hôn nhân. Trong thời kỳ hôn nhân, vợ chồng chung sống với nhau nên có

nhiều nhiều quan hệ xã hội và quan hệ pháp luật mới về quyền và nghĩa vụ liên quan đến

tài sản. Do đó, cần phải xác định trong các giao dịch về tài sản của vợ chồng, trường hợp

nào phải có sự đồng ý thống nhất của vợ chồng, trường hợp nào được coi là đã có sự

đồng ý của vợ chồng, trường hợp nào người vợ hoặc chồng có quyền tự ý quyết định tài

sản của cả vợ chồng. Việc xác định này nhằm bảo đảm quyền lợi và nghĩa vụ của vợ

chồng liên quan đến tài sản của mình và quyền lợi của người khác trong các giao dịch

liên quan đến tài sản của vợ chồng.

Thứ năm: Các VBQPPL về chế độ tài sản của vợ chồng là căn cứ pháp lý để cơ

quan nhà nước có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp về tài sản giữa người vợ và

người chồng và với người khác có liên quan khi Tòa án tuyên ly hôn hoặc giải quyết

phân chia tài sản chung, tài sản riêng của vợ chồng.

Thứ sáu: Chế độ tài sản của vợ chồng tuy được pháp luật quy định nhưng trên thực

tế cũng phải đảm bảo các yếu tố về đạo đức, thuần phong mỹ tục, tôn giáo và truyền

thống dân tộc. Giữa quy định pháp luật và đạo đức có mối quan hệ gắn bó với nhau. Đạo

đức là cơ sở nền tảng xây dựng nên các quy định pháp luật về chế độ tài sản của vợ

chồng. Từ đó, điều chỉnh hài hòa góp phần bảo vệ mối quan hệ gia đình, bảo vệ mối

quan hệ vợ chồng, bảo vệ khối tài sản chung của vợ chồng, góp phần ổn định và phát

triển kinh tế - xã hội.

Thứ bảy: Các VBQPPL về chế độ tài sản của vợ chồng là căn cứ pháp lý để cơ

quan nhà nước có thẩm quyền điều chỉnh và giải quyết các tranh chấp về tài sản của vợ

chồng và với người liên quan. Tòa án ngoài giải quyết ly hôn, giải quyết việc nuôi con

thì nếu vợ chồng có tài sản và yêu cầu giải quyết thì Tòa án phải giải quyết phân chia tài

sản chung, tài sản riêng của vợ chồng khi có yêu cầu. Tòa án phải giải quyết phân chia

tài sản vợ chồng theo quy định của pháp luật và việc phân chia tài sản cũng có thể dựa

trên nguồn gốc, công sức đóng góp vào khối tài sản của vợ chồng.

Hiện nay tài sản của vợ chồng được chia thành các chế độ tài sản như sau:

+ Chế độ tài sản pháp định (theo quy định của pháp luật)

+ Chế độ tài sản của vợ chồng theo sự thỏa thỏa thuận của vợ chồng

Chế độ tài sản của vợ chồng phân theo quyền sở hữu thì gồm có tài sản chung của

vợ chồng và tài sản riêng của vợ hoặc chồng.

1.1.3. Nội dung của quy định pháp luật về chế độ tài sản vợ chồng

Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 quy định: “Tài sản chung của vợ, chồng gồm

tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất kinh doanh, hoa

lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng và thu nhập hợp pháp khác trong thời kỳ hôn nhân;

tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung, được tặng cho chung và tài sản khác mà vợ

chồng thỏa thuận là tài sản chung; quyền sử dụng đất mà vợ chồng có được sau khi kết

hôn là tài sản chung của vợ chồng, trừ trường hợp vợ hoặc chồng được thừa kế riêng,

được tặng cho riêng hoặc có được thông qua giao dịch bằng tài sản riêng. Điều 34 Luật

Hôn nhân và Gia đình 2014 quy định: “Trong trường hợp tài sản thuộc sở hữu chung của

vợ chồng mà pháp luật quy định phải đăng ký quyền sở hữu, quyền sử dụng, thì giấy

chứng nhận quyền sở hữu, giấy chứng nhận quyền sử dụng phải ghi tên cả hai vợ chồng,

trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác. Trong khi đó, điều 98 Luật Đất đai 2013

quy định về nguyên tắc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất: quyền sử dụng đất,

quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền với đất là tài sản chung của vợ chồng thì phải ghi

tên cả hai vợ chồng vào giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền ở hữu nhà và tài sản

gắn liền với đất, trừ trường hợp vợ và chồng có thỏa thuận ghi tên một người; cụ thể như

quy định ở thông tư số 15/2014/TT-BCA ngày 04/04/2014 của Bộ Công an về đăng ký

xe, điều 25 quy định: xe là tài sản chung của vợ, chồng thì chủ xe tự nguyện khai là tài

sản chung của vợ chồng, phải ghi đầy đủ họ tên, chữ ký của vợ, chồng trong giấy đăng

ký xe.

Như vậy, đối với những tài sản có giá trị lớn như: đất, nhà, xe thì pháp luật quy

định phải đăng ký quyền sở hữu, sử dụng, thì giấy chứng nhận quyền sở hữu, sử dụng,

chung của vợ chồng sẽ được thể hiện cả tên vợ và chồng trên giấy chứng nhận sở hữu,

sử dụng và khi thực hiện các quyền đối với những tài sản chung này thì phải có sự đồng

ý của cả hai vợ chồng.

Đối với tài sản riêng của vợ, chồng. Điều 43 Luật Hôn nhân và Gia đình 2014 quy

định: Tài sản riêng của vợ, chồng gồm tài sản mà mỗi người có trước khi kết hôn, tài sản

được thừa kế riêng, được tặng cho riêng trong thời kỳ hôn nhân, tài sản được chia riêng

cho vợ, chồng do vợ, chồng thỏa thuận chia một phần hoặc toàn bộ tài sản chung, tài sản

phục vụ nhu cầu thiết yếu của vợ, chồng và tài sản khác mà theo quy định của pháp luật

thuộc sở hữu riêng của vợ, chồng. Như vậy, tài sản riêng có hai thời điểm hình thành đó

là trước thời kỳ hôn nhân và trong thời kỳ hôn nhân.

Căn cứ xác định và phân chia tài sản của vợ chồng

- Thứ nhất: về căn cứ xác định và phân chia tài sản chung của vợ, chồng

Về căn cứ xác định tài sản chung của vợ, chồng

Điều 32 Hiến pháp 2013 quy định: “Mọi người có quyền sở hữu về thu nhập hợp

pháp, của cải để dành, nhà ở, tư liệu sinh hoạt, tư liệu sản xuất, phần vốn góp trong

doanh nghiệp hoặc trong các tổ chức kinh tế khác”. Theo đó, khi công dân có quyền sở

hữu các tài sản thì các tài sản đó được công nhận là tài sản hợp pháp của họ. Vợ, chồng

là những cá nhân và họ đương nhiên có các quyền đó. Khi có quyền sở hữu tài sản thì

mới có thể tạo lập nên khối tài sản dù là tài sản chung hay tài sản riêng của cá nhân. Về

sở hữu chung của vợ chồng:

- Sở hữu chung của vợ chồng là sở hữu chung hợp nhất có thể phân chia.

- Vợ chồng cùng nhau tạo lập, phát triển khối tài sản chung; có quyền ngang nhau

trong việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản cung.

- Vợ chồng thỏa thuận hoặc ủy quyền cho nhau chiếm hữu, sử dụng hoặc định đoạt

tài sản chung.

- Tài sản chung của vợ chồng có thể phân chia theo thỏa thuận hoặc theo quyết

định của Tòa án.

- Trường hợp vợ chồng lựa chọn chế độ tài sản theo thỏa thuận, theo quy định của

pháp luật về Hôn nhân và Gia đình thì tài sản chung của vợ chông được áp dụng theo

chế độ tài sản này.

Điều 33 Luật Hôn nhân và Gia đình 2014 lại quy định khá cụ thể về chế định tài

sản chung của vợ chồng: “Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra,

thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất kinh doanh, hoa lợi, lợi tức phát sịnh từ tài

sản riêng và thu nhập hợp pháp khác trong thời kỳ hôn nhân, trừ trường hợp được quy

định tại khoản 1 điều 40 của Luật này; Tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc

được tặng cho chung và tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung. Quyền

sử dụng đất mà vợ, chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng, trừ

trường hợp vợ hoặc chồng được thừa kế riêng, được tặng cho riêng hoặc có được thông

qua giao dịch bằng tài sản riêng”.

- Tài sản chung của vợ chồng thuộc sở hữu chung hợp nhất, được dùng để bảo đảm

nhu cầu của gia đình, thực hiện nghĩa vụ chung của vợ chồng.

- Trong trường hợp không có căn cứ để chứng minh tài sản mà vợ, chồng đang có

tranh chấp là tài sản riêng của mỗi bên thì tài sản đó được coi là tài sản chung.

Luật dân sự là một ngành luật trong hệ thống pháp luật Việt Nam, là tổng hợp các

QPPL điều chỉnh các quan hệ dân sự nói chung, quan hệ tài sản mang tính chất hàng hóa

- tiền tệ nói riêng và các quan hệ nhân thân khác trên cơ sở bình đẳng, độc lập của chủ

thể khi tham gia các quan hệ đó. BLDS và Luật Hôn nhân và Gia đình đều có chung một

đối tượng điều chỉnh là nhóm quan hệ nhân thân và tài sản trong quan hệ Hôn nhân và

Gia đình. Trong đó, BLDS 2015 có một số quy định cụ thể vấn đề sở hữu, chiếm hữu,

định đoạt và thừa kế tài sản. Qua đó, các quy định pháp luật nhằm mục đích điều chỉnh

các mối quan hệ xa hội liên quan đến chế độ tài sản của vợ chồng.

Về căn cứ phân chia tài sản chung của vợ, chồng.

Điều 38 Luật Hôn nhân và Gia đình quy định: “ Trong thời kỳ hôn nhân, vợ chồng

có quyền thỏa thuận chia một phần hoặc toàn bộ tài sản chung, trừ trường hợp quy định

tại điều 42 của Luật này, nếu không thỏa thuận được thì có quyền yêu cầu Tòa án giải

quyết. Trong trường hợp vợ, chồng có yêu cầu thì Tòa án giải quyết việc chia tài sản

chung của vợ chồng theo quy định tại điều 59 của Luật này”. Như vậy. Việc chia tài sản

chung của vợ chồng có thể được giải quyết theo thỏa thuận của vợ chồng hoặc thông qua

con đường Tòa án. Bên cạnh đó, thỏa thuận về việc phân chia tài sản chung của vợ chồng

phải được lập thành văn bản, có công chứng, chứng thực theo quy định pháp luật.

Tại thông tư số 01/2016/TTLT-TANDTC-BTP ngày 06/01/2016 của Tòa án nhân

dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ tư pháp hướng dẫn thi hành một số điều

của Luật Hôn nhân và Gia đình 2014 như sau:

“Vợ chồng khi ly hôn có quyền tự thoả thuận với nhau về toàn bộ các vấn đề, trong

đó có cả việc phân chia tài sản. Trường hợp, vợ chồng không thoả thuận được mà có yêu

cầu thì Toà án phải xem xét, quyết định việc áp dụng chế độ tài sản của vợ chồng theo

thoả thuận hay theo luật định, tuỳ từng trường hợp cụ thể mà Toà án xử lý như sau:

Trường hợp không có văn bản thoả thuận về chế độ tài sản của vợ chồng theo thoả thuận

hay theo luật định.

Trường hợp không có văn bản thoả thuận về chế độ tài sản của vợ chồng hoặc văn bản

thoả thuận về chế độ tài sản của vợ chồng và văn bản này không bị Toà án tuyên bố vô

hiệu toàn bộ thì áp dụng các nội dung của văn bản thoả thuận để chia tài sản của vợ

chồng khi ly hôn. Đối với những vấn đề không được vợ chồng thoả thuận hoặc thoả

thuận không rõ ràng hoặc bị vô hiệu thì áp dụng các quy định tương ứng tại các khoản

2, 3, 4, 5 Điều 59 và các Điều 60, 61, 62, 63 và 64 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm

2014 để chia tài sản của vợ chồng khi ly hôn.

- Khi giải quyết ly hôn, nếu có yêu cầu tuyên bố thoả thuận về chế độ tài sản của

vợ chồng bị vô hiệu thì Toà án xem xét, giải quyết đồng thời với yêu cầu chia tài sản của

vợ chồng khi ly hôn.

- Khi chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn, Toà án phải xác định vợ, chồng

có quyền, nghĩa vụ về tài sản với người thứ ba hay không để đưa người thứ ba vào tham

gia tố tụng với tư cách người có quyền lợi, nghĩa vụ về tài sản với người thứ ba mà họ

có yêu cầu giải quyết thì Toà án phải giải quyết khi chia tài sản chung của vợ chồng.

Trường hợp vợ chồng có nghĩa vụ với người thứ ba mà người thứ ba không yêu cầu giải

quyết thì Toà án hướng dẫn họ để giải quyết bằng một vụ án khác.

- Trường hợp áp dụng chế độ tài sản của vợ chồng theo luật định để chia tài sản

của vợ chồng khi ly hôn thì tài sản chung của vợ chồng về nguyên tắc được chia đôi

nhưng có tính đến các yếu tố sau:

+ Hoàn cảnh của gia đình và của vợ, chồng là tình trạng về năng lực pháp luật,

năng lực hành vi, sức khỏe, tài sản, khả năng lao động tạo ra thu nhập sau khi ly hôn của

vợ, chồng cũng như của các thành viên khác trong gia đình mà vợ chồng có quyền, nghĩa

vụ về nhân thân và tài sản theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình. Bên gặp khó

khăn hơn sau khi ly hôn được chia phần tài sản nhiều hơn so với bên kia hoặc được ưu

tiên nhận loại tài sản để bảo đảm duy trì, ổn định cuộc sống của họ nhưng phải phù hợp

với hoàn cảnh thực tế của gia đình và của vợ, chồng;

+ Công sức đóng góp của vợ, chồng vào việc tạo lập, duy trì và phát triển khối tài

sản chung là sự đóng góp về tài sản riêng, thu nhập, công việc gia đình và lao động của

vợ, chồng trong việc tạo lập, duy trì và phát triển khối tài sản chung. Người vợ hoặc

chồng ở nhà chăm sóc con, gia đình mà không đi làm được tính là lao động có thu nhập

tương đương với thu nhập của chồng hoặc vợ đi làm. Bên có công sức đóng góp nhiều

hơn sẽ được chia nhiều hơn;

+ Bảo vệ lợi ích chính đáng của mỗi bên trong sản xuất, kinh doanh và nghề nghiệp

để các bên có điều kiện tiếp tục lao động tạo thu nhập là việc chia tài sản chung của vợ

chồng phải bảo đảm cho vợ, chồng đang hoạt động nghề nghiệp được tiếp tục hành nghề;

cho vợ, chồng đang hoạt động sản xuất, kinh doanh được tiếp tục được sản xuất, kinh

doanh để tạo thu nhập và phải thanh toán cho bên kia phần giá trị tài sản chênh lệch.

Việc bảo vệ lợi ích chính đáng của mỗi bên trong sản xuất, kinh doanh và hoạt động

nghề nghiệp không được ảnh hưởng đến điều kiện sống tối thiểu của vợ, chồng và con

chưa thành niên, con đã thành niên nhưng mất năng lực hành vi dân sự;

+ Lỗi của mỗi bên trong vi phạm quyền, nghĩa vụ của vợ chồng là lỗi của vợ hoặc

chồng vi phạm quyền, nghĩa vụ về nhân thân, tài sản của vợ chồng dẫn đến ly hôn.

Về căn cứ xác định tài sản riêng của vợ, chồng

Kể từ khi luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 được ban hành và có hiệu lực, qua đó

có nhiều quy định đột phá và tích cực so với Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000 cụ

thể:

Một là, Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 đã bỏ căn cứ xác định tài sản riêng

của vợ, chồng là “đồ dùng, tư trang cá nhân”. Điều này xuất phát từ nhu cầu giải quyết

những bất cập, vướng mắc trong quá trình áp dụng pháp luật đối với căn cứ không phù

hợp nói trên. Bởi, theo quy định của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000 thì cứ là đồ

dùng, tư trang cá nhân thì đều là tài sản riêng của vợ, chồng mà không có quy định nào

hạn chế giá trị tài sản, không quy định loại tài sản nào được xem là đồ dùng, tư trang cá

nhân thuộc sở hữu riêng; bên cạnh đó, pháp luật cũng không xem xét nguồn gốc hình

thành đồ dùng, tư trang là tài sản chung hay riêng. Do vậy, có thể hiểu người nào (vợ

hoặc chồng) quản lý, sử dụng tài sản đó sẽ được xác định là tài sản riêng của người đó.

Với quy định như vậy rõ ràng là không phù hợp, vô tình đã tạo khe hở cho vợ hoặc chồng

chuyển dịch trái phép tài sản chung sang tài sản riêng, gây thiệt hại cho bên còn lại.

Ngoài ra, xuất phát từ văn hoá truyền thống của người Việt Nam trong việc tặng, cho

con cái các loại tư trang vào ngày cưới hỏi, văn hoá cất giữ tiền bạc thông qua các loại

tư trang; vì vậy, thiết nghĩ các món trang sức trong trường hợp này được ghi nhận như

một sự tích luỹ của cải vật chất của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân, mang thuộc tính

“tiền tệ”, như một phương thức cất giữ, tiết kiệm tài sản chung của gia đình. Do đó, việc

pháp luật Hôn nhân gia đình bỏ căn cứ nên trên là hoàn toàn phù hợp và được xem là

bước tiến mới trong quá trình sửa đổi luật.

Hai là, Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 xác định cụ thể khối tài sản hình

thành từ tài sản riêng của vợ, chồng chính là tài sản riêng của vợ, chồng trong thời kỳ

hôn nhân.

Trong khi đó, Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000, đưa ra những căn cứ xác định

tài sản chung, đồng thời lại vừa đưa ra những căn cứ xác định tài sản riêng của vợ, chồng.

Quy định như vậy thì về cơ bản đã khá rõ ràng cho việc áp dụng pháp luật. Tuy nhiên,

thực tế giải quyết tranh chấp vẫn xảy ra những trường hợp tài sản “mập mờ” chưa được

xác định là tài sản chung hay tài sản riêng, bởi nó không thuộc trường hợp theo quy định

tại Điều 27 và Điều 32 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000, do vậy, loại tài sản trên đã

được Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 xác định cụ thể đó là tài sản riêng của vợ,

chồng là một minh chứng cụ thể. Do đó, việc Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 xác

định tài sản hình thành từ tài sản riêng của vợ chồng đó chính là tài sản riêng của vợ,

chồng. Đây là một bước tiến bộ, đảm bảo quyền tài sản riêng của cá nhân, tạo cơ sở pháp

lý vững chắc cho quá trình áp dụng pháp luật.

Ba là, Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 đã có những căn cứ xác định tài sản

riêng còn là các “tài sản phục vụ nhu cầu thiết yếu của gia đình”. Sở dĩ, pháp luật quy

định nhóm tài sản này thuộc sở hữu riêng của vợ, chồng là dựa vào đặc điểm cũng như

tác dụng của nó. Đảm bảo được quyền tự do cá nhân cũng như các nhu cầu thiết yếu của

cuộc sống. Tuy nhiên, như thế nào được coi là “thiết yếu” thì đây là một vấn đề cần được

xem xét. Đối với những cá nhân hoặc những gia đình có mức sống khác nhau thì khái

niệm đồ dùng thiết yếu sẽ không giống nhau. Chẳng hạn như, đối với cá nhân này thì

những vật dụng như xoong, nồi, bát đĩa, giày dép, quần áo là những đồ dùng thiết yếu

hàng ngày, nhưng đối với cá nhân khác thì lại xem những vật dụng như điện thoại, laptop,

ô tô, tủ lạnh… là những đồ dùng thiết yếu của mình, do vậy nó tuỳ thuộc vào điều kiện

sống của mỗi cá nhân cụ thể là khác nhau. Việc pháp luật quy định cụ thể như vậy được

coi là một bước đột phá tiến bộ, linh hoạt và đã thể hiện rất rõ việc trao quyền tài phán

cho cơ quan xét xử (Toà án) trong việc xem xét để giải quyết vụ việc dựa trên hoàn cảnh

cụ thể của từng cá nhân, gia đình khi phát sinh quan hệ pháp luật tranh chấp.

Bốn là, tài sản riêng của vợ, chồng còn gồm các loại tài sản quy định của pháp luật

đó là tài sản riêng của vợ, chồng. Quy định này tưởng chừng chỉ là căn cứ để dự liệu cho

các trường hợp pháp luật chưa dự liệu hết nhưng thực tế nó lại có ý nghĩa đặc biệt quan

trọng và vô cùng lớn trong quá trình nhận thức và là cơ sở pháp lý vững chắn trong việc

áp dụng pháp luật – điều mà trước đây, Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000 chưa thể

hiện được. Với quy định như vậy đã giúp dẫn chiếu cho việc áp dụng các quy định của

văn bản pháp luật khác trong việc xác định cụ thể các loại tài sản, đặc biệt là tài sản thuộc

sở hữu riêng của vợ chồng được hình thành trong thời kỳ hôn nhân. Chẳng hạn như, theo

Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP TANGTC ngày 10/8/2004 của Hội đồng Thẩm phán

Toà án nhân dân tối cao, xác định tài sản mà người có công với cách mạng được nhận

trong thời kỳ hôn nhân là tài sản riêng của người đó, hay dẫn chiếu xác định tài riêng của

vợ, chồng dựa vào thoả thuận chế độ tào sản chung sống.

Năm là, Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 có quy định tài sản mà vợ, chồng

thoả thuận là tài sản riêng của mỗi bên theo thoả thuận về chế độ tài sản được lập trước

khi kết hôn là tài sản riêng của mỗi người. Đây tiếp tục lại là một bước đột phá lớn nữa

trong việc quy định chế độ tài sản của vợ, chồng, đảm bảo phù hợp theo nguyên tắc tự

thoả thuận và định đoạt của pháp luật dân sự; đảm bảo phù hợp với tình hình mới trong

quan hệ hôn nhân gia đình trong điều kiện nhu cầu ngày càng cao trong việc chủ động

đầu tư, sản xuất kinh doanh để phát triển kinh tế là tài sản của bản thân cá nhân và gia

đình; đây cũng được xem là một trong những giải pháp hữu hiệu trong việc phân định

và bảo vệ tài sản của mỗi bên vợ, chồng trong điều kiện mà khối tài sản có trước khi kết

hôn của các cặp vợ chồng ngày càng tăng. Ngoài ra, để đảm bảo giữ vững tính cộng đồng

của hôn nhân, đảm bảo cho lợi ích chung của gia đình, con cái, Luật Hôn nhân và Gia

đình năm 2014 đã đưa ra những nguyên tắc, những điều kiện có hiệu lực của thoả thuận,

đồng thời giao cho Toà án tối cao tiếp tục hoàn thiện các điều kiện có hiệu lực của thoả

thuận.

Như vậy, có thể thấy với sự phát triển mạnh mẽ của xã hội hiện nay thì các quan

hệ cũng phải thay đổi cho phù hơp với xu thế của xã hội, do đó pháp luật cũng luôn phải

thay đổi theo để bắt kịp với những thay đổi đó. Sự ra đời của Luật Hôn nhân và Gia đình

năm 2014 thay thế Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000 là một sự thay đổi tiến bộ phù

hợp với tiến trình phát triển của đất nước; phù hợp với quy luật khách quan, phù hợp với

Hiến pháp năm 2013 – một đạo luật gốc, là cơ sở, nền tảng cho việc điều chỉnh các Luật

chuyên ngành. Việc quy định chế định tài sản của vợ chồng (trong đó bao gồm cả tài sản

chung và tài sản riêng của vợ, chồng trong thời kỳ hôn nhân) là điều rất cần thiết, đáp

ứng được những yêu cầu và đòi hỏi của thực tiễn cuộc sống kinh tế, xã hội, phù hợp với

ý chí, nguyện vọng của người dân trong một xã hội mới, của một nhà nước mà quyền và

lợi ích của người dân được đặt lên trên, phu hợp với tiến trình của một nhà nước Pháp

quyền của dân, do dân và vì dân [30.tr 28 ].

1.1.4. Ý nghĩa của chế độ tài sản của vợ chồng

- Chế độ tài sản của vợ chồng ở nước ta hiện nay có ý nghĩa vô cùng quan trọng

trong việc điều chỉnh các mối quan hệ về Hôn nhân và Gia đình, điều chỉnh các mối quan

hệ về tài sản, bảo bảo tình hình an ninh trật tự an toàn xã hội, đảm bảo được truyền thống

đạo đức dân tộc.

- Chế độ tài sản vợ chồng góp phần chung vào sự phát triển và hoàn thiện của pháp

luật. Góp phần tạo ra sự công bằng, văn minh và tiến bộ trong xã hội, góp phần vào phát

triển kinh tế - xã hội Đất nước.

- Chế độ tài sản vợ chồng góp phần vào bảo vệ sự công bằng, bình đẳng giới, bảo

vệ quyền tài sản, quyền và lợi ích hợp pháp của con người.

- Chế độ tài sản vợ chồng tạo nên sự phát triển tiến bộ của xã hội, hòa nhập và phát

triển cùng thế giới

- Giúp hoàn thiện pháp luật Hôn nhân và Gia đình và pháp luật Dân sự, Đặc biệt là

các vấn đề về tài sản.

- Bảo vệ và phát triển truyền thống đạo đức, cũng như mối quan hệ vợ chồng đúng

với chuẩn mực, đúng quy định pháp luật. Góp phần vào bảo vệ Gia đình và ổn định xã

hội.

- Góp phần đảm bảo an ninh trật tự, an toàn xã hội.

- Chế độ tài sản của vợ chồng hiện nay góp phần vào phát triển kinh tế và xã hội

của Đất Nước.

1.2. Phân loại chế độ tài sản của vợ chồng theo pháp luật Việt Nam

Theo quy định pháp luật Việt Nam hiện nay thì chế độ tài sản của vợ chồng được

phân loại thành chế độ tài sản theo thỏa thuận của vợ chồng và chế độ tài sản của vợ

chồng theo Luật định, cụ thể như sau:

1.2.1. Chế độ tài sản của vợ chồng theo quy định pháp luật

Chế độ này được áp dụng trong trường hợp vợ chồng không chọn áp dụng chế độ

tài sản theo thỏa thuận hoặc có thỏa thuận về chế độ tài sản nhưng thỏa thuận này bị Tòa

án tuyên vô hiệu theo quy định điều 50 Luật Hôn nhân và Gia đình 2014 và điều 7 Nghị

định 126/2014/NĐ-CP.

Tài sản của vợ chồng theo chế độ quy định pháp luật bao gồm tài sản chung và tài

sản riêng. Cụ thể:

Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động,

hoạt động sản xuất, kinh doanh, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng và thu nhập hợp

pháp khác trong thời kỳ hôn nhân, trừ trường hợp hoa lợi, lợi túc phát sinh từ tài sản

riêng của mỗi bên sau khi chia tài sản chung được quy định tại khoản 1 điều 40 Luật Hôn

nhân và Gia đình 2014. Tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho

chung và tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung thì được pháp luật công

nhận là tài sản chung của vợ chồng và được pháp luật bảo vệ. Tài sản là quyền sử dụng

đất mà vợ, chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng, trừ trường hợp

vợ hoặc chồng được thừa kế riêng, được tặng cho riêng hoặc có được thông qua giao

dịch bằng tài sản riêng.

Tài sản riêng của vợ chồng bao gồm: tài sản mà mỗi người có trước khi kết hôn.

Tài sản được thừa kế riêng, được tặng cho riêng trong thời kỳ hôn nhân. Tài sản được

chia riêng cho vợ, chồng theoquy định Luật Hôn nhân và Gia đình. Tài sản phục vụ nhu

cầu thiết yếu của vợ, chồng và tài sản khác theo quy định của pháp luật thuộc sở hữu

riêng của vợ chồng. Tài sản được hình thành từ tài sản riêng của vợ, chồng. Hoa lợi, lợi

tức phát sinh từ tài sản riêng của mỗi bên sau khi chia tài sản chung được quy định tại

khoản 1 điều 40 của Luật Hôn nhân và Gia đình 2014.

- Thực hiện chế định tài sản vợ chồng theo luật định:

Chế độ tài sản của vợ chồng theo luật định được thực hiện theo quy định tại các

điều 33 đến điều 46 và từ điều 59 đến điều 64 của Luật Hôn nhân và Gia đình 2014. Xuất

phát từ điều kiện kinh tế - xã hội, truyền thống, văn hóa, đạo đực của mỗi Quốc gia mà

quy định pháp luật về tài sản của vợ chồng có sự kế thừa và phát huy những yếu tố trên.

Cụ thể:

+ Quan niệm thứ nhất: Đời sống chung của vợ chồng đòi hỏi cần phải có khối tài

sản cộng đồng (tài sản chung). Theo đó, chế độ tài sản của vợ chồng được thiết lập theo

tiêu chuẩn chung của cộng đồng.

+ Quan niệm thứ hai: Trong đời sống chung của vợ chồng không bắt buộc và không

cần thiết phải có một khối tài sản chung. Quan niệm này tôn trọng và bảo vệ quyền sở

hữu riêng của vợ chồng phải được độc lập. Theo đó, chế độ tài sản của vợ chồng được

thiết lập theo tiêu chuẩn phân sản (không có tài sản chung của vợ chông).

- Chế độ tài sản theo tiêu chuẩn cộng đồng gồm: chế độ cộng đồng toàn sản, chế

độ cộng đồng động sản và tạo sản

- Chế độ tài sản của vợ chồng theo tiêu chuẩn không có cộng đồng tài sản hay còn

gọi là chế độ phân sản: Chế độ phân sản là hình thức của chế độ tài sản pháp định, theo

đó, giữa vợ và chồng không tồn tại khối tài sản chung. Tất cả tài sản mà mỗi bên vợ,

chồng có từ trước khi kết hôn hoặc tạo ra được, có được do tặng cho, cho riêng, thừa kế

trong thời kỳ hôn nhân thì đều thuộc sở hữu riêng. Trong đó vợ chồng tùy theo khả năng

của mỗi bên có nghĩa vụ đóng góp vào việc chi tiêu chung của gia đình nhằm đảm bảo

lợi ích chung của gia đình [12, tr. 12 - 16].

1.2.2. Chế định tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận

Trong trường hợp hai bên kết hôn lựa chọn chế độ tài sản theo thỏa thuận thì thỏa

thuận phải được lập trước khi kết hôn, bằng hình thức văn bản có công chứng hoặc chứng

thực. Chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận được xác lập kể từ ngày đăng ký kết

hôn (điều 47 Luật hôn nhân và Gia đình 2014). Tài sản của vợ chồng theo chế độ tài sản

thỏa thuận thì vợ, chồng có thể tự thỏa thuận về xác định tài sản theo một trong các nội

dung sau đây:

- Tài sản giữa vợ và chồng bao gồm tài sản chung và tài sản riêng của vợ, chồng

- Giữa vợ và chồng có tài sản riêng của vợ, chồng mà tất cả tài sản do vợ, chồng có

được trước khi kết hôn hoặc trong thời kỳ hôn nhân đều thuộc tài sản chung

- Giữa vợ và chồng không có tài sản chung mà tất cả tài sản do vợ, chồng có được

trước khi kết hôn và trong thời kỳ hôn nhân đều thuộc sở hữu riêng của người có được

tài sản đó

- Xác định theo thỏa thuận khác của vợ chồng.

- Nội dung chế định tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận hoàn toàn đúng quy định

pháp luật, phù hợp với nguyên tắc của Bộ Luật Dân sư và thể hiện sự tôn trọng quyền và

lợi ích hợp pháp của các bên tham gia vào mối quan hệ vợ chồng liên quan đến tài sản

và lợi ích của mình.

- Nội dung thỏa thuận của vợ chồng về tài sản được quy định tại điều 48 Luật Hôn

nhân và Gia đình 2014 như sau:

+ Tài sản được xác định là tài sản chung, tài sản riêng của vợ, chồng

+ Quyền, nghĩa vụ của vợ chồng đối với tài sản chung, tài sản riêng và giao dịch

có liên quan

+ Điều kiện, thủ tục và nguyên tắc phân chia tài sản khi chấm dứt chế độ tài sản

+ Nội dung khác có liên quan

Khi thực hiện chế độ tài sản theo thỏa thuận mà phát sinh những vấn đề chưa được

vợ chồng thỏa thuận hoặc thỏa thuận không rõ ràng thì áp dụng quy định tại điều 29, 30,

31, 32 của Luật Hôn nhân và Gia đình 2014 và quy định tương ứng của chế độ tài sản

của vợ chồng theo quy định pháp luật.

- Thực hiện chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận được thực hiện theo quy

định tại điều 47, 48, 49, 50, 59 của Luật Hôn nhân và Gia đình.

1.2.3. Chế độ tài sản của vợ chồng của một số nước trên thế giới

Pháp:

Pháp là nước phát triển, nên pháp luật về Hôn nhân và Gia đình thường đề cao

quyền tự do cá nhân, tự do thỏa thuận và quyền tự định đoạt về tài sản của vợ chồng

trong mối quan hệ Hôn nhân và Gia đình. BLDS Pháp quy định “pháp luật chỉ điều chỉnh

quan hệ tài sản giữavợ chồng khi mà họ không có thỏa thuận riêng, miễn là các thỏa

thuận đó không trái với thuần phong mĩ tục hoặc với các quy định pháp luật” [11, Điều

1387]. Bên cạnh đó, thỏa thuận của vợ chồng không được gây tổn hại đến những quyền

lợi được quy định bởi Bộ luật này, các thỏa thuận của vợ chồng cũng không được làm

chấm dứt hay thay đổi trật tự thừa kế theo pháp luật [11, Điều 1389]. Về nội dung của

thỏa thuận: pháp luật của Pháp cho phép vợ chồng lựa chọn chế độ tài sản chung và chế

độ tài sản riêng dựa trên ý cí của vợ, chồng.

- Trung Quốc

Trước năm 2001, Trung Quốc chỉ áp dụng chế độ tài sản pháp định tức là mọi tài

sản của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân đều thuộc sở hữu chung theo quy định pháp

luật. Điều 13 Luật Hôn nhân năm 1980 quy định “Tài sản của vợ chồng làm ra trong

suốt thời kỳ hôn nhân là tài sản chung của vợ chồng, ngoài ra, mỗi bên có thể có tài sản

riêng ngoài quy định trên” [ 2 ].

Năm 2001, Trung Quốc sửa đổi Luật Hôn nhân, bổ sung quy định mới liên quan

đến hôn ước. “Tất cả thu nhập kiếm được và tài sản của các bên được coi là tài sản

chung ngoại trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác. Tài sản chung bao gồm: lương,

tiền thưởng, lợi nhuận từ sản xuất kinh doanh, lợi nhuận từ quyền sở hữu tài sản trí thức,

tài sản có được nhờ thừa kế, hiến tặng nhưng ngoài quy định tại điều 18 chương 3 của

Luật này. Những tài sản khác mà cần thuộc về sở hữu chung” [28, Điều 17].

Về quyền có tài sản riêng của vợ, chồng, trong đó phần tài sản thuộc về một bên

vợ hoặc chồng được quy định như sau: “Tài sản của một bên trước hôn nhân; một bên vì

thân thể có thương tích có được chi phí chữa trị, phí hỗ trợ cấp cuộc sống của người tàn

tật; những tài sản mà trong di chúc hoặc văn bản hiến tặng xác định là chỉ thuộc về một

bên vợ chồng; những nhu cầu yếu phẩm chuyên dùng của một bên; những tài sản khác

mà cần thuộc về một bên” [28, Điều 18]

Luật hôn nhân 2001 tôn trọng quyền tự định đoạt tài sản của vợ chồng, vợ chồng

có thể thỏa thuận với nhau về tài sản có được trong thời gian quan hệ hôn nhân còn duy

trì và những tài sản trước hôn nhân thuộc về sở hữu cá nhân, sở hữu chung hoặc sở hữu

cá nhân bộ phận, sở hữu chung bộ phận. Quy ước được ghi lại bằng văn bản. Nếu không

có quy ước hoặc quy ước không rõ ràng, áp dụng thích hợp theo quy định của điều 17

và điều 18 của Luật này. Quy ước về những tài sản có được trong thời gian quan hệ Hôn

nhân đang được duy trì và những tài sản trước hôn nhân có sức ràng buộc đối với cả hai

phía” [28, Điều 19].

1.3. Chế độ tài sản của vợ chồng theo luật Hôn nhân và Gia đình Việt Nam

qua các thời kỳ.

1.3.1. Chế độ tài sản của vợ chồng trong thời phong kiến

Nước ta gắn liền với chế độ phong kiến tập quyền kéo dài hàng nghìn năm đô hộ

Bắc thuộc. Vì vậy, pháp luật chịu ảnh hưởng rất lớn của phong kiến Trung Quốc. Pháp

luật về Hôn nhân và Gia đình chịu ảnh hưởng lớn bởi phong tục tập quán, đạo đức. Rất

nhiều quy định pháp luật thời kỳ phong kiến về chế độ hôn nhân gia đình bắt nguồn từ

phong tục tập quán, đi sâu vào tiềm thức, thói quen, tục lệ trong nhân dân. Chế độ tài sản

của vợ chồng ở thời kỳ này được quy định trong Luật cổ và tục lệ phong kiến. Với quan

điểm coi điền sản là chính yếu, Quốc triều hình luật đã quy định thành phần khối tài sản

chung của vợ chồng gồm ba loại:

+ Phụ tông điền sản

+ Thê điền sản

+ Tần tảo điền sản

Tất cả các loại tài sản này được đặt dưới sự quản lý của người chồng - chủ gia đình.

Tuy vậy, pháp luật thời Lê và tục lệ cũng đã dành cho người vợ được tham gia vào việc

quản trị tài sản chung của vợ chồng, nhất là đối với những nhu phục vụ cho đời sống

chung của gia đình. Nói chung chế độ tài sản của vợ chồng trong thời kỳ này vẫn còn lạc

hậu, mang yếu tố trọng nam kinh nữ, chưa có sự công bằng trong chế độ tài sản giữa

người vợ và người chồng, quy định pháp luật chịu ảnh hưởng nặng nề của pháp luật

phong kiến Trung hoa.

1.3.2. Chế độ tài sản vợ chồng trong thời kỳ Pháp thuộc

Sau khi chế độ phong kiến tan rã, triều đình nhà Nguyễn đầu hàng vô điều kiện. Để

thực hiện chính sách chia để trị, thực dân Pháp đã chia nước ta thành 3 miền và ở từng

miền cho ban hành và áp dụng các Bộ luật riêng điều chỉnh các quan hệ Hôn nhân và

Gia đình, trong đó có chế độ tài sản của vợ chồng. chế độ tài sản của vợ chồng được quy

định trong Bộ luật dân sự Bắc kỳ 1931 và Bộ luật dân sự Trung kỳ 1963 là chế độ cộng

đồng toàn sản với quyền gia trưởng của người chồng trong gia đình. Còn ở miền Nam,

tập dân luật giản yếu Nam kỳ 1883 không sự liệu cụ thể về chế độ tài sản của vợ chồng

nên được áp dụng theo án lệ, cho đến ngày ra đời của Luật gia đình 1959 dưới thời Ngô

Đình Diệm

1.3.3. Chế độ tài sản của vợ chồng trong pháp luật ở miền nam trước ngày

thống nhất đất nước (1954-1975)

Sau thắng lợi trước thực dân Pháp, nước ta bị chia thành hai miền, miền bắc tiến

lên xã hội chủ nghĩa, ở miền Nam đế quốc Mỹ thay thực dân Pháp tiến hành cuộc chiến

tranh xâm lược kiểu mới. Đất nước bị chia cắt. Trong giai đoạn này, pháp luật điều chỉnh

các quan hệ Hôn nhân và Gia đình ở miền nam dưới chế độ ngụy quyền Sài Gòn được

thể hiện thông qua ba văn bản luật đó là:

+ Luật gia đình 1959 dưới thời Ngô Đình Diệm;

+ Sắc luật số 15/64 ngày 23/7/1964 dưới chế độ Nguyễn Khánh;

+ Bộ luật dân sự ngày 20/12/1972 dưới chế độ Nguyễn Văn Thiệu.;

Nhìn chung chế độ tài sản vợ chồng thời kỳ này có sự phát triển tiến bộ được tiếp

thu từ pháp luật các nước phương tây như Pháp, Mỹ. Tuy nhiên, vẫn còn chịu ảnh hưởng

của pháp luật phong kiến với hàng nghìn năm đô hộ.

1.3.4. Chế độ tài sản của vợ chồng trong pháp luật Hôn nhân và gia đình

nước ta từ 1945 đến nay

Sau cách mạng tháng tám thắng lợi, nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời, đòi

hỏi phải có một hệ thống pháp luật mới điều chỉnh các quan hệ xã hội, bảo vệ thành quả

cách mạng, điều hành và lãnh đạo đát nước. Chính vì thế mà Luật Hôn nhân và Gia đình

1959 được ban hành. Sau đó do tình hình và nhu cầu thực tiễn xã hội có sự thay đổi để

đáp ứng nhu cầu thực tiễn thì Luật Hôn nhân và Gia đình 1986 được ban hành. Tiếp theo

đó là Luật Hôn nhân và Gia đình 2000. Hiện nay Luật Hôn nhân và Gia đình 2014 đang

có hiệu lực thi hành đã và đang góp phần vào điều chỉnh các mối quan hệ xã hội liên

quan đến vợ chồng, tài sản vợ chồng, góp phần vào bảo vệ sự công bằng, dân chủ, văn

minh, bảo đảm trật tự an toàn xã hội, góp phần vào phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội

của Đất nước.

1.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến quy định và thực hiện chế độ tài sản vợ

chồng.

1.4.1. Điều kiện kinh tế - xã hội

Điều kiện kinh tế xã hội là yếu tố đóng vai trò quan trọng ảnh hưởng tới quy định

pháp luật và thực tiễn thực hiện chế độ tài sản vợ chồng. Các yếu tố về kinh tế xã hội là

cơ sở để xây dựng và hoàn thiện các quy định pháp luật phù hợp với nhu cầu xã hội, phù

hợp với nền kinh tế của Đất Nước. Trong thực tế quy định pháp luật thì chế độ tài sản

của vợ chồng là một bộ phận của nền kinh tế xã hội đất nước. Chế độ quy định về tài sản

của cá nhân vợ, chồng, góp phần vào kinh tế gia đình, ổn định và phát triển nền kinh tế

Đất Nước. Vì vậy, điều kiện kinh tế xã hội có ảnh hưởng rất lớn đến quy định và thực

hiện chế độ tài sản của vợ chồng trong thực tiễn hiện nay.

Thứ nhất: Điều kiện kinh tế xã hội là cơ sở thực tiễn để xây dựng và phát triển quy định

pháp luật phù hợp với nhu cầu và thực tiễn kinh tế xã hội của Đất Nước, là công cụ quản

lý nhà nước trong quản lý kinh tế và xã hội trong đó có quy định pháp luật về chế độ tài

sản của vợ chồng hiện nay. Việc nền kinh tế xã hội phát triển sẽ nảy sinh nhiều quan hệ

xa hội mới phát sinh trên thực tiễn, đòi hỏi pháp luật phải có sự sửa đổi, bổ sung kịp thời

đáp ứng nhu cầu của kinh tế xã hội, tránh tình trạng pháp luật quá lạc hậu hoặc chậm

phát triển so với nền kinh tế xã hội Đất nước. Vì vậy, yếu tố kinh tế xã hội là cơ sở để

xây dựng và hoàn thiện quy định pháp luật trong đó có quy định về chế độ tài sản của vợ

chồng.

Thứ hai: Điều kiện kinh tế xã hội có ảnh hưởng rất quan trọng đến quyền và lợi

ích hợp pháp của các chủ thể trong xã hội, trong đó có quyền sở hữu tài sản, do đó tác

động đến tư tưởng, quan điểm, thái độ, niềm tin của các tầng lớp người dân đối với pháp

luật. khi nền kinh tế xã hội phát triển, đời sống vật chất và tinh thần ngày càng cao, tài

sản của cải do con người tạo ra ngày càng nhiều thì lúc đó đời sống ổn định, tư tưởng và

thái độ của người dân sẽ ổn định góp phần vào ổn định xã hội, tin tưởng vào đường lối,

chủ trương chính sách pháp luật, hoạt động thực hiện pháp luật sẽ hiệu quả hơn. Đối với

chế độ tài sản của vợ chồng hiện nay thì yếu tố kinh tế xã hội cũng đóng vai trò quan

trọng trong việc ảnh hưởng đến các quy định và thực hiện chế độ tài sản vợ chông, kinh

tế gia đình ổn định thì xã hội ổn định, xã hội ổn định thì góp phần hạn chế mâu thuẩn,

tranh chấp.

Thứ ba: Kinh tế xã hội có ảnh hưởng tới những hoạt động thực hiện pháp luật. cơ

chế tập trung, quan liêu, bao cấp trước đây đã tạo ra tâm lý thụ động. Do đó, nhận thức

pháp luật và thực hiện pháp luật thường mang tính phiến diện, một chiều. Cơ chế nền

kinh tế thị trường mang định hướng xã hội chủ nghĩa cùng với phát triển xa hội văn minh

đem lại nhiều tích cực, tạo ra sự năng động, sáng tạo từ đó tác độngt ích cực đến ý thức

pháp luật và ý thức thực hiện pháp luật. Nhưng mặt khác cũng tạo ra một số tiêu cục như

sùng bái đồng tiền, coi tiền là tất cả, bất chấp các giá trị đạo đức, thuần phong mỹ tục,

truyền thống dân tộc, các hành vi lệch lạc, trái quy định pháp luật.

Thứ 4: Việc thực hiện các chính sách xã hội sẽ đảm bảo nguyên tắc công bằng xã hội và

có ý nghĩa rất lớn trong thực hiện pháp luật. Đó là điều kiện cần thiết cho sự ổn định

chính trị, tăng cường pháp chế và tôn trọng pháp luật, củng cố ý thức của con người, tôn

trọng và chấp hành đúng pháp luật.

1.4.2. Mục đích của chế độ hôn nhân và gia đình

Mục đích của chế độ hôn nhân và gia đình cũng ảnh hưởng đến quy định về chế

độ tài sản của vợ chồng. Việc vợ chồng kết hôn và chung sống với nhau và đạt được mục

đích của hôn nhân sẽ góp phần vào ổn định gia đình, xã hội và phát triển kinh tế đất

nước, góp phần hạn chế các tranh chấp trong hôn nhân gia đình, góp phần ổn định chế

độ tài sản vợ chồng và nâng hiệu quả thực hiện chế độ tài sản vợ chồng.

Khi mục đích của hôn nhân đạt được, vợ chồng chung sống hòa thuận, hạnh phúc thì

gia đình ổn định, kinh tế xã hội phát triển, có con chung, cả vợ và chồng đều đáp ứng đủ

nhu cầu sinh hoạt hằng ngày của nhau thì cuộc sống vợ chồng sẽ hạnh phúc, bền vững,

hạn chế ly hôn, mâu thuẩn và tranh chấp giữa vợ và chồng, góp phần vào ổn định và phát

triển kinh tế, xã hội, hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả công tác áp dụng pháp

luật.

Trường hợp mục đích của chế độ hôn nhân và gia đình không đạt sẽ dẫn đến tình

trạng đời sống chung của vợ chồng không kéo dài, sống ly thân, ly hôn, tranh chấp tài

sản, nuôi con,… dẫn đến mâu thuẩn và tranh chấp trong chế độ hôn nhân và gia đình,

phát sinh nhiều mâu thuẩn tranh chấp, ảnh hưởng xấu đến kinh tế xã hội, tình hình an

ninh trật tự của Đất Nước.

Mục đích của chế độ hôn nhân và gia đình góp phần vào hoàn thiện quy định pháp luật

và nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về chế độ tài sản của vợ chồng, bảo đảm cho

quy định tài sản của vợ chồng được thực hiện đúng theo quy định pháp luật, giúp bảo vệ

mối quan hệ gia đình hạnh phúc bền vững, hạn chế mâu thuẩn và tranh chấp phát sinh

trong mối quan hệ gia đình.

1.4.3. Vị thế và địa vị pháp lý của cá nhân trong đời sống gia đình và xã hội

Trong xã hội thì vị thế và địa vị pháp lý của các nhân cũng có tác động đến quy

định và thực hiện chế độ tài sản của vợ chồng. Những gia đình mà vợ, chồng có vị thế

và địa vị xã hội họ luôn xem trọng vị thế và địa vị của mình trong xã hội, luôn có ý thức

vun đắp và xây dựng gia đình hạnh phúc, luôn có sự tôn trọng các thành viên khác trong

gia đình. Vì vậy, góp phần hạn chế ly hôn và tranh chấp trong gia đình.

Những cá nhân có vị thế và địa vị pháp lý trong đời sống gia đình và xã hội họ thường

có uy tín, có học vấn và trình độ hiểu biết về pháp luật, có đạo đức, lối sông lành mạnh

đối với những thành viên khác trong gia đình và xã hội, họ luôn nghiêm chỉnh chấp hành

quy định của pháp luật, góp phần tích cực vào quy định và thực hiện chế độ tài sản của

vợ chồng ngày càng hiệu quả.

Cá nhân có vị thế và địa vị pháp lý trong gia đình sẽ giữ vững được nề nếp gia đình, là

người định hướng cho gia đình ngày càng phát triển và hạnh phúc, giúp gia đình ổn định,

vợ chồng có sự tôn trọng nhau trong đời sống, con cái tôn trọng và hiếu thảo với bố mẹ.

Hiện nay vị thế và địa vị của vợ chồng là bình đẳng trong quan hệ gia đình và

quan hệ pháp luật, pháp luật tôn trọng quyền bình đẳng giữa vợ và chồng trong tất cả các

mối quan hệ xã hội. Từ đó, thể sự phát triển của xã hội và pháp luật hiện nay, thể hiện vị

trí, vai trò của người vợ và người chồng là bình đẳng.

1.4.4. Yếu tố văn hóa, tôn giáo và các yếu tố khác

Về văn hóa có ảnh hưởng không thể phủ nhận đối với pháp luật và thực hiện pháp

luật trong thực tiễn. Văn hóa chính là cuộc sống, do đó, việc xây dựng pháp luật phải

dựa trên những kinh nghiệm văn hóa, tức là pháp luật phải có khả năng biến thành văn

hóa để điều chỉnh các quan hệ xã hội trong đó có chế độ tài sản của vợ chồng. Góp phần

xây dựng và hoàn thiện quy định pháp luật và ấy dựng một nền văn hóa lành mạnh.

Tôn giáo tác động đến quy định và thực hiện pháp luật trong đó có quy định và

thực hiện chế độ tài sản của vợ chồng hiện nay.

Thứ nhất: Tôn giáo giúp xây dựng pháp luật, Khi xã hội phát triển đến một giai

đoạn nhất định thì rất nhiều tín điều tôn giáo được nâng lên làm nguồn của pháp luật,

chúng trở thành những quy định pháp luật được nhà nước thừa nhận và bảo đảm thực

hiện. Ví dụ như: Trong đạo thiên chua giáo có quy định về việc kết hôn “ Một vợ, một

chồng” quy định này là đúng với chuẩn mực, phù hợp với xã hội và phù hợp với quy

định Luật hôn nhân và gia đình hiện nay.

Thứ hai: Tôn giáo giúp pháp luật về chế độ tài sản vợ chồng phát triển và hoàn

thiện. Trong quá trình phát triển của tôn giáo, sẽ có lúc pháp luật dự báo được những

nguy cơ tiềm tàn mà tôn giáo đem lại đến hay phát hiện ra những kẻ hở, thiếu sót trong

pháp luật hiện hành. Sau đó, pháp luật sẽ tự điều chỉnh sao cho phù hợp với hoàn cảnh,

giảm thiểu những ảnh hưởng xấu và từ đó hoàn thiện mình hơn.

Thứ ba: Tôn giáo san sẻ một phần gánh nặng cho pháp luật vì hầu hết các quy định của

tôn giáo đều có các giáo lý, giáo điều luôn khuyên răng con người hướng thiện, góp phần

phát triển xã hội, giúp xã hội ổn định. Trong mối quan hệ vợ chồng thì luôn đề cao sự

chung thủy, vợ chồng hòa thuận, con cái hiếu thảo từ đó góp phần cùng pháp luật điều

chỉnh các mối quan hệ xã hội trong khuôn phép.

Tuy nhiên tôn giáo cũng có một vài tác động tiêu cực đến quy định và thực hiện pháp

luật các phong tục mê tín dị đoan, các giáo điều tiêu cực, lợi dụng tôn giáo để vi phạm

pháp luật, chống đối chính quyền, nhà nước,…

Ngoài ra, còn nhiều yếu tố tác động đến quy định và thực hiện chế dộ tài sản của

vợ chồng như: Đạo đức, truyền thống dân tộc, tâm sinh lý con người, độ tuổi con người,

sức khỏe con người.

KẾT LUẬN CHƯƠNG 1

Chế độ tài sản của vợ chồng là một chế định quan trọng và phức tạp trong hệ thống

pháp luật dân sự và pháp luật về hôn nhân và gia đình. Theo đó quan hệ tài sản của vợ

chồng được điều chỉnh bằng sự thỏa thuận và bằng pháp luật của nhà nước. Chế độ xã

hội hiện nay dựa trên nền tảng kinh tế, xã hội, phong tục, tập quán, truyền thống, đạo

đức,… của mỗi quốc gia. Giữa các nước có sự khác nhau và thường có những quy định

khác nahu về chế độ tài sản của vợ chồng. Tuy nhiên, về cơ bản chế độ tài sản của vợ

chồng dựa trên hai nền tảng chính đố là sự thỏa thuận và quy định pháp luật. Kể từ khi

kết hôn, chế độ tài sản của vợ chồng được quy định với những thành phần tài sản của vợ

chồng, các lợi ích và quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản. Trên cơ sở xác định

các loại tài sản này, xác định quyền và nghĩa vụ của vợ, chồng đối với các loại tài sản

của vợ chồng.

Chế độ tài sản của vợ chồng là cơ sở pháp lý để cơ quan nhà nước có thẩm quyền

giải quyết các tranh chấp về tài sản vợn chồng với nhau và với người khác có liên quan

đến tài sản đó, nhằm bảo vệ quyền lợi của vợ chồng và người thứ ba lên quan. Căn cứ

quy định pháp luật về chế độ tài sản của vợ chồng, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền

áp dụng để giải quyết các tranh chấp về tài sản của vợ chồng trong các trường hợp: Vợ

chồng ly hôn; một bên vợ hoặc chồng chết trước cần phải chia tài sản chung; giải quyết

các nghãi vụ nợ của vợ chồng.

Chương một đã khái quát và làm rõ các vấn đề lý luận khoa học về chế độ tài sản

của vợ chồng dựa trên quy định Luật Hôn nhân và Gia đình hiện nay và dựa trên sự thỏa

thuận, làm rõ các khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa của chế độ tài sản của vợ chồng, làm

rõ các vấn đề về phân loại tài sản của vợ chồng, chế độ tài sản của vợ chồng, quá trình

hình thành và phát triển của chế độ tài sản của vợ chồng theo quy định của pháp luật qua

các thời kỳ lịch sử của đất nước, so sánh chế độ tài sản của vợ chồng ở nước ta so với

các nước trên thế giới, Mối quan hệ giữa chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận và

theo luật định. Từ đó góp phần làm sáng tỏ những vấn đề lý luận chung về chế độ tài sản

của vợ chồng và làm cơ sở lý luận để nghiên cứu và làm sáng tỏ những vấn đề thực tiễn

về chế độ tài sản của vợ chồng ở chương 2.

CHƯƠNG 2: CHẾ ĐỘ TÀI SẢN CỦA VỢ CHỒNG THEO QUY ĐỊNH

CỦA LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH HIỆN HÀNH VÀ THỰC TIỄN THỰC

HIỆN

2.1 Nội dung chế độ tài sản của vợ chồng theo pháp luật hôn nhân và gia đình

Việt Nam hiện hành

Kể từ khi Luật Hôn nhân và Gia đình 2014 có hiệu lực từ ngày 01/01/2015, đã sửa

đổi, bổ sung nhiều quy định cũng như có những ưu điểm hơn so với luật Hôn nhân và

Gia đình năm 2000, đã bổ sung và sửa đổi và có nhiều quy định mới về chế độ tài sản

vợ chồng. Xuất phát từ mối quan hệ tài sản giữa vợ chồng còn nhiều bất cập trong việc

áp dụng cũng như những vấn đề trong thực tế chưa phù hợp với quy định của pháp luật.

thì luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 cũng phần nào cải thiện được có những quy

định, phân định rõ ràng hơn về chế độ tài sản của vợ chồng. Đồng thời bổ sung những

quy định phù hợp với thực tiễn. Luật Hôn nhân và gia đình đã quy rõ và có sự chuyên

biệt về quy định chế độ tài sản vợ chồng, có sự phân định tài sản theo luật định và tài sản

theo thỏa thuận.

2.1.1. Chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận

Hình thức của thỏa thuận xác lập chế độ tài sản của vợ chồng

Luật Hôn nhân và Gia đình 2014 quy định có hai chế độ tài sản của vợ chồng là

chế độ tài sản theo thỏa thuận và chế độ tài sản theo luật định, khoản 1 Điều 28 quy định

“ Vợ chồng có quyền lựa chọn áp dụng chế độ tài sản theo luật định hoặc chế độ theo

thỏa thuận”; Điều 7 NĐ số 126/2014/NĐ-CP ngày 31/12/2014 quy định hướng dẫn chi

tiết Luật Hôn nhân và Gia đình 2014 như sau “ Chế độ tài sản của vợ chồng theo Luật

định áp dụng trong các trường hợp vợ chồng không lựa chọn chế độ tài sản theo thỏa

thuận hoặc có thỏa thuận về chế độ tài sản nhưng bị Tòa án tuyên bố vô hiệu theo quy

định Điều 50 Luật Hôn nhân và Gia đình”.

Điều 47 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 quy định “ trong trường hợp hai bên

kết hôn lựa chọn chế độ tài sản theo thỏa thuận thì thỏa thuận này phải được lập trước

khi kết hôn, bằng văn bản có công chứng hoặc chứng thực. Chế độ tài sản theo thỏa

thuận được xác lập từ ngày đăng ký kết hôn” [19, Điều 47]. Theo đó, thỏa thuận xác lập

chế độ tài sản này không thể hiện ý chí, nguyên vọng, quyền lợi cũng như trách nhiệm

của vợ, chồng về vấn đề tài sản, cho nên thỏa thuận này phải được lập thành văn bản có

công chứng, chứng thực. Như vậy, Luật đã quy định rõ về hình thức, thủ tục cũng như

điều kiện hiệu lực của chế độ tài sản vợ chồng theo thỏa thuận. Tuy nhiên, văn bản thỏa

thuận chế độ tài sản của vợ chồng thực chất là giao dịch dân sự, BLDS 2015 quy định

điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự là chủ thể phải có đầy đủ năng lực hành vi

dân sự, tự nghiện, nôi dung giao dịch không trái với pháp luật và đạo đức. Vì vậy, cần

xem xét việc yêu cầu công chứng, chứng thực thì văn bản thỏa thuận của vợ chồng mới

có hiệu lực và có thể quy định không bắt bộc phải công chứng, chứng thực mà do vợ

chồng tự lựa chọn.

Nội dung của thỏa thuận chế độ tài sản của vợ chồng

Về nội dung thỏa thuận được quy định tại Điều 48 Luật Hôn nhân và Gia đình như

sau: “Tài sản được xác định là tài sản chung, tài sản riêng của vợ, chồng; quyền và

nghĩa vụ của vợ chồng với tài sản chung và tài sản riêng và giao dịch có liên quan; tài

sản để đảm bảo nhu cầu thiết yếu của gia đình; điều kiện, thủ tục và nguyên tắc phân

chia tài sản khi chấm dứt chế độ tài sản; nội dung khác có liên quan” [19, Điều 48].

Nhằm hướng dẫn quy định này, khoản 1 Điều 15 NĐ 126/2014/NĐ-CP ngày 31/12/2014

quy định chi tiết như sau:

- Trường hợp lựa chọn áp dụng chế độ tài sản vợ chồng theo thỏa thuận thì vợ

chồng có thể thỏa thuận về xác định tài sản theo một trong các nội dung sau:

+ Tài sản giữa vợ và chồng bao gồm tài sản chung và tài sản riêng của vợ, chồng.

+ Giữa vợ và chồng có tài sản riêng của vợ, chồng mà tất cả tài sản do vợ chồng có

được trước khi kết hôn hoặc trong thời kỳ hôn nhân đều thuộc tài sản chung.

+ Giữa vợ và chồng không có tài sản chung mà tất cả tài sản do vợ, chồng có được

trước khi kết hôn và trong thời kỳ hôn nhân đề thuộc sở hữu riêng của người có được tài

sản đó.

+ Xác định theo thỏa thuận khác của vợ chồng.

Trong trường hợp thực hiện chế độ tài sản vợ chồng theo thỏa thuận mà phát sinh

những vấn đề chưa được vợ chồng thỏa thuận hoặc thỏa thuận không rõ ràng thì áp dụng

quy định tương ứng của chế độ theo Luật định. Các quy định này được áp dụng không

phụ thuộc vào chế độ tài sản mà vợ, chồng đã lựa chọn là chế độ tài sản theo thỏa thuận

hay Luật định. Nếu vi phạm, người có quyền, lợi ích liên quan có quyền yêu cầu Tòa án

tuyên thỏa thuận vô hiệu theo Điều 50 Luật Hôn nhân và Gia đình, nôi dung này còn

được quy định tại khoản 2 Điều 48 Luật Hôn nhân và Gia đình 2014.

Sửa đổi, bổ sung nội dung thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng

Việc sửa đổi, bổ sung nội dung của thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng giống

như nôi dung sửa đổi, bổ sung của giao dịch dân sự, điều này thể hiện ý chí của hai bên,

cùng thống nhất sửa đổi, bổ sung các nội dụng đã thỏa thuận trước đó và phải được thể

hiện bằng văn bản có công chứng, chứng thực.

Thứ nhất, về sửa đổi, bổ sung nội dung thỏa thuận chế độ tài sản của vợ chồng.

Điều 49 Luật Hôn nhân và Gia đình 2014 quy định “Vợ chồng có quyền sửa đổi,

bổ sung thỏa thuận về chế độ tài sản; hình thức được áp dụng theo Điều 47 của Luật

Hôn nhân và Gia đình 2014” [19, Điều 49].

Điều 17 NĐ 126/2014/NĐ-CP đã cụ thể quy định này như sau: “ Trong trường hợp

chế độ tài sản vợ chồng theo thỏ thuận được áp dụng thì trong thời kỳ hôn nhân, vợ

chồng có quyền thỏa thuận sửa đổi, bổ sung một phần hoạc toàn bộ nội dung của chế độ

tài sản đó hoặc áp dụng chế độ tài sản theo luật định; Thỏa thuận sửa đổi, bổ sung về

hình thức phải được công chứng, chứng thực”

Theo các quy định trên, xuất phát từ thực tiễn và nhu cầu cuộc sống của vợ chồng,

nếu có những nội dung trong văn bản thỏa thuận chưa rõ hoặc có ảnh hưởng đế quyền

lợi vợ, chồng thì nhằm bảo vệ quyền định đoạt của vợ chồng thì pháp luật cho phép vợ

chồng có quyền sửa đổi, bổ sung nội dung thỏa thuận cho phù hợp với ý chí, nguyện

vọng và quy định pháp luật.

Thứ hai, về hậu quả pháp lý của việc sửa đổi, bổ sung thỏa thuận

Điều 18 NĐ 126/2014/NĐ-CP quy định: “Thỏa thuận sửa đổi, bổ sung nội dung

thỏa thuận vợ chồng có hiệu lực kể từ ngày được công chứng, chứng thực. Vợ chồng có

nghĩa vụ cung cấp cho người thứ ba biết về những thông tin liên quan theo quy dịnh tại

Điều 16 của NĐ này; quyền, nghĩa vụ về tài sản phát sinh trước thời điểm sửa đổi, bổ

sung có hiệu lực vẫn có giá trị pháp lý, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác”.

Theo đó, việc sửa đổi, bổ sung một phần hoặc toàn bộ nội dung thỏa thuận hoặc thậm

chí thay thế chế độ tài sản của vợ chồng thì quyền và nghĩa vụ về tài sản phát sinh trước

thời điểm sửa đổi, bổ sung có hiệu lực vẫn có giá trị pháp lý, trừ trường hợp các bên có

thỏa thuận khác.

Thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng bị vô hiệu

Điều 117 BLDS 2015 quy định về điều kiện vô hiệu của giao dịch dân sự gồm:

năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự; chủ thể tham gia giao dịch tự nguyện;

mục đích giao dịch không trái luật và đạo đức xã hội; phải bảo đảm đúng hình thức có

hiệu lực của giao dịch.

Thực chất thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng là một giao dịch dân sự, do

vậy văn bản thỏa thuận coi như vô hiệu nếu vi phạm các quy định như trong BLDS 2015,

Luật Hôn nhân và Gia đình 2014 và các văn bản hướng dẫn chi tiết thi hành.

Như vậy có thể hiểu, vợ chồng có quyền tự do thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ

chồng, tuy nhiên, việc thỏa thuận không được vi phạm các điều kiện trên. Nếu vi phạm

sẽ xâm phạm đến lợi ích của các chủ thể liên quan và pháp luật sẽ xác định thỏa thuận

đó tái luật và căn cứ để tuyên vô hiệu toàn phần hay một phần. Đây là cơ sở pháp lý để

bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của vợ, chồng trong thực hiện nội dung thỏa thuận và

hạn chế các tranh chấp xảy ra liên quan đến chế độ tài sản của vợ chồng. Việc tuyên bố

vô hiệu để lại hậu quả pháp lý như trong quy định của BLDS 2015 như:

+ Không làm thay đổi, phát sinh, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của các bên kể

từ thời điểm giao dịch được xác lập.

+ Khi giao dịch dân sự vô hiệu các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả

cho nhau những gì đã nhận.

+ Bên ngay tình trong việc thu hoa lợi, lợi tức không phải hoàn trả lại hoa lợi, lợi

tức đó.

+ Bên có lỗi gây ra thiệt hại thì phải bồi thường.

+ Việc giải quyết hậu quả của giao dịch dân sự vô hiệu liên quan đến quyền nhân

thân do BLDS quy dịnh và luật khác co liên quan.

Về hậu quả pháp lý của thỏa thuận vô hiệu, khoản 2 Điều 50 Luật hôn nhân và Gia

đình 2014 quy định “ Tòa án nhân dân tối cao chủ trì phối hợp với Viện kiển sát tối cao

và Bộ Tư Pháp hướng dẫn thi hành”. Như vậy, khi thỏa thuận chế độ tài sản của vợ chồng

vô hiệu thì thỏa thuận này không phát sinh hiệu lực ngay từ thời điểm được xác lập và

vì chế độ tài sản theo thỏa thuận không tồn tại ngay từ thời điểm xác lập quan hệ hôn

nhân nên chế độ tài sản theo luật định được áp dụng và chế độ tài sản vợ chồng theo thỏa

thuận bị vô hiệu.

Hệ quả pháp lý của thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng khi chấm dứt

quan hệ hôn nhân

Do ly hôn: Khoản 1 Điều 59 Luật Hôn nhân và Gia đình 2014 quy định về nguyên

tắc giải quyết tài sản của vợ chồng khi ly hôn là trong trường hợp chế độ tài sản của vợ

chồng theo thỏa thuận thì việc giải quyết tài sản khi ly hôn được áp dụng theo quy định

tương ứng các khoản 2, 3, 4, 5, điều này và tại Điều 60, 61, 62, 63, 64 của luật này. Bên

cạnh đó, Điều 7 TTLT 01/2016/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP hướng dẫn về

nguyên tắc giả quyết tài sản của vợ chồng khi ly hôn như sau:

+ Trường hợp không có văn bản thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng hoặc

văn bản thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng bị Tòa án tuyên bố vô hiệu toàn bộ

thì áp dụng chế độ tài sản của vợ chồng theo quy định pháp luật.

+ Trường hợp có văn bản thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng và văn bản này

không bị Tòa án tuyên bố vô hiệu hoàn toàn thì áp dụng các nội dung của văn bản thỏa

thuận. Đối với những vấn đề không được vợ chồng thỏa thuận hoặc thỏa thuận không rõ

ràng hoặc bị vô hiệu thì áp dụng theo quy định pháp luật.

+ Khi giải quyết ly hôn nếu có yêu cầu tuyên bố thỏa thuận vô hiệu thì Tòa án xem

xét, giải quyết đồng thời với yêu cầu chia tài sản của vợ chồng khi ly hôn.

+ Giá trị tài sản chung của vợ chồng, tài sản rieng của vợ, chồng được xác định

theo giá thị trường tại thời điểm giải quyết sơ thẩm vụ việc. [12, tr.45].

Do hủy kết hôn trái pháp luật: Khi chấm dút quan hệ vợ chồng do hủy kết hôn

trái pháp luật, chế độ tài sản theo thỏa thuận của vợ chồng được giải quyết theo các quy

định như hủy kết hôn trái pháp luật trong các trường hợp khác bởi các quy định về hủy

kết hôn trái pháp luật tại các Điều 10, 11, 12 được áp dụng chung cho tất cả các trường

hợp hủy kết hôn trái pháp luật, không phân ra các trường hợp khi giữa vợ chồng áp dụng

chế độ tài sản theo luật định hay chế độ tài sản theo thỏa thuận. Bên cạnh đó, việc xử lý

kết hôn trái pháp luật được Tòa án tiến hành thực hiện trên cơ sở yêu cầu của cá nhân,

cơ quan, tổ chức theo quy định của pháp luật, bất chấp ý chí của các bên trong quan hệ

Hôn nhân nên việc hủy kết hôn trái pháp luật này mang ý nghĩa chế tài [12, tr. 46].

2.2. Chế độ tài sản của vợ chồng theo Luật định

Chế độ tài sản của vợ chồng theo Luật định được áp dụng trong trường hợp vợ

chồng không lựa chọn áp dụng chế độ tài sản theo thỏa thuận hoặc có thỏa thuận chế độ

tài sản nhưng bị Tòa án tuyên bố vô hiệu toàn bộ hoặc vô hiệu một phần theo quy định

tại Điều 50 của Luật Hôn nhân và Gia đình 2014 và Điều 7 NĐ 126/2014/NĐ-CP.

Tài sản của vợ chồng theo chế độ tài sản Luật định được quy định như sau:

+ Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao

động, hoạt động sản xuất, kinh doanh, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng và thu

nhập hợp pháp khác trong thời kỳ hôn nhân, trừ trường hợp hoa lợi, lợi túc phát sinh từ

tài sản riêng của bên các bên sau khi chia tài sản chung được quy định tại khoản 1 Điều

40 của Luật Hôn nhân và Gia đình 2014; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc

được tặng cho chung và tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung. Quyền sử

dụng đất mà vợ, chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng, trừ trường

hợp vợ hoặc chồng được thừa kế riêng, được tặng cho triêng hoặc có được thông qua

giao dịch bằng tài sản riêng. Việc đăng ký tài sản chung của vợ chồng phải theo quy định

tại Điều 34 Luật Hôn nhân và Gia đình bao gồm quyền sử dụng đất, những tài sản khác

mà pháp luật quy định phải đăng ký quyền sử dụng, quyền sở hữu như nhà, đất, xe. Đối

với tài sản chung của vợ chồng đã được đăng ký và ghi tên một bên vợ hoặc chồng thì

vợ, chồng có quyền yêu cầu cơ quan có thẩm quyền cấp đổi giấy chứng nhận quyền sử

dụng, quyền sở hữu để ghi tên của cả vợ và chồng. Trong trường hợp tài sản chung được

chia trong thời kỳ hôn nhân mà trong giấy chứng nhậ quyền sở hữu, giấy chứng nhận

quyền sử dụng đất ghi tên cả vợ và chồng thì bên được chia phần tài sản bằng hiện vật

có quyền yêu cầu cơ quan đăng ký tài sản cấp lại giấy chứng nhận trên cơ sở văn abnr

thỏa thuận của vợ chồng hoặc quyết định của Tòa án.

+ Tài sản riêng của vợ chồng bao gồm: Tài sản mà mỗi người có được trước khi

kết hôn, tài sản được thừa kế riêng, được cho riêng trong thời kỳ hôn nhân, tài sản được

chia riêng cho vợ, chồng theo quy định pháp Luật, tài sản phục vụ nhu cầu thiết yếu của

vợ, chồng, tài sản khác mà luật quy định thuộc sở hữu riêng của vợ, chồng; tài sản được

hình thành từ tài sản riêng của vợ, chồng. Hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng của

mỗi bên sau khi chia tài sản chung được quy định tại khoản 1 Điều 40 Luật hôn nhân và

Gia đình 2014.

Thực hiện chế độ tài sản vợ chồng theo Luật định:

Qua thực tiễn áp dụng cho thấy việc quy định theo chế độ tài sản vợ chồng theo

luật định đã không còn phù hợp với tình hình hình kinh tế - xã hội hiện nay, đồng thời

không đảm bảo quyền của vợ chồng trong định đoạt. Vì vậy, Luật Hôn nhân và Gia đình

năm 2014 đã quy định hai loại chế độ tài sản của vợ chồng. Đây cũng chính là điểm mới

quan trọng trong việc thể hiện cải cách tư pháp của nước ta. Chế độ tài sản của vợ chồng

theo Luật định được thực hiện theo quy định tại các điều từ Điều 33 đến Điều 46 và từ

Điều 59 đến Điều 64 của Luật hôn nhân và Gia đình 2014.

Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 xác định cụ thể khối tài sản hình thành từ tài

sản riêng của vợ, chồng chính là tài sản riêng của vợ, chồng trong thời kỳ hôn nhân.

Trước đây, Luật Hôn nhân và Gia đình cũ (Luật năm 2000), đưa ra những căn cứ xác

định tài sản chung, đồng thời lại vừa đưa ra những căn cứ xác định tài sản riêng của vợ,

chồng. Quy định như vậy, thì về cơ bản đã khá rõ ràng cho việc áp dụng pháp luật. Tuy

nhiên, thực tế giải quyết tranh chấp vẫn xảy ra những trường hợp tài sản “mập mờ” chưa

được xác định là tài sản chung hay tài sản riêng, bởi nó không thuộc trường hợp theo

quy định tại Điều 27 và Điều 32 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000, do vậy, loại tài

sản trên đã được Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 xác định cụ thể đó là tài sản riêng

của vợ, chồng là một minh chứng cụ thể. Do đó, việc Luật Hôn nhân và Gia đình năm

2014 xác định tài sản hình thành từ tài sản riêng của vợ chồng đó chính là tài sản riêng

của vợ, chồng. Đây là một bước tiến bộ, đảm bảo quyền tài sản riêng của cá nhân, tạo cơ

sở pháp lý vững chắc cho quá trình áp dụng pháp luật.

Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 đã đưa ra căn cứ xác định tài sản riêng còn

là các “tài sản phục vụ nhu cầu thiết yếu của gia đình”. Sở dĩ, pháp luật quy định nhóm

tài sản này thuộc sở hữu riêng của vợ, chồng là dựa vào đặc điểm cũng như tác dụng của

nó. Đảm bảo được quyền tự do cá nhân cũng như các nhu cầu thiết yếu của cuộc sống.

Tuy nhiên, như thế nào được coi là “thiết yếu” thì đây là một vấn đề cần được xem xét.

Đối với những cá nhân hoặc những gia đình có mức sống khác nhau thì khái niệm đồ

dùng thiết yếu sẽ không giống nhau. Chẳng hạn như, đối với cá nhân này thì những vật

dụng như xoong, nồi, bát đĩa, giày dép, quần áo là những đồ dùng thiết yếu hàng ngày,

nhưng đối với cá nhân khác thì lại xem những vật dụng như điện thoại, laptop, ô tô, tủ

lạnh… là những đồ dùng thiết yếu của mình, do vậy nó tuỳ thuộc vào điều kiện sống của

mỗi cá nhân cụ thể là khác nhau. Việc pháp luật quy định cụ thể như vậy được coi là một

bước đột phá tiến bộ, linh hoạt và đã thể hiện rất rõ việc trao quyền tài phán cho cơ quan

xét xử (Toà án) trong việc xem xét để giải quyết vụ việc dựa trên hoàn cảnh cụ thể của

từng cá nhân, gia đình khi phát sinh quan hệ pháp luật tranh chấp.

Tài sản riêng của vợ, chồng còn gồm các loại tài sản mà theo quy định của pháp

luật đó là tài sản riêng của vợ, chồng. Quy định này tưởng chừng chỉ là căn cứ để dự liệu

cho các trường hợp pháp luật chưa dự liệu hết nhưng thực tế nó lại có ý nghĩa đặc biệt

quan trọng và vô cùng lớn trong quá trình nhận thức và là cơ sở pháp lý vững chắn trong

việc áp dụng pháp luật – điều mà trước đây, Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000 chưa

thể hiện được. Với quy định như vậy đã giúp dẫn chiếu cho việc áp dụng các quy định

của văn bản pháp luật khác trong việc xác định cụ thể các loại tài sản, đặc biệt là tài sản

thuộc sở hữu riêng của vợ chồng được hình thành trong thời kỳ hôn nhân. Chẳng hạn

như, Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP TANGTC ngày 10/8/2004 của Hội đồng Thẩm

phán Toà án nhân dân tối cao, xác định tài sản mà người có công với cách mạng được

nhận trong thời kỳ hôn nhân là tài sản riêng của người đó, hay dẫn chiếu xác định tài

riêng của vợ, chồng dựa vào thoả thuận chế độ tào sản chung sống [31].

Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 quy định tài sản mà vợ, chồng thoả thuận là

tài sản riêng của mỗi bên theo thoả thuận về chế độ tài sản được lập trước khi kết hôn là

tài sản riêng của mỗi người. Đây tiếp tục lại là một bước đột phá lớn nữa trong việc quy

định chế độ tài sản của vợ, chồng, đảm bảo phù hợp theo nguyên tắc tự thoả thuận và

định đoạt của pháp luật dân sự; đảm bảo phù hợp với tình hình mới trong quan hệ hôn

nhân gia đình trong điều kiện nhu cầu ngày càng cao trong việc chủ động đầu tư, sản

xuất kinh doanh để phát triển kinh tế là tài sản của bản thân cá nhân và gia đình; đây

cũng được xem là một trong những giải pháp hữu hiệu trong việc phân định và bảo vệ

tài sản của mỗi bên vợ, chồng trong điều kiện mà khối tài sản có trước khi kết hôn của

các cặp vợ chồng ngày càng tăng. Ngoài ra, để đảm bảo giữ vững tính cộng đồng của

hôn nhân, đảm bảo cho lợi ích chung của gia đình, con cái, Luật Hôn nhân và Gia đình

năm 2014 đã đưa ra những nguyên tắc, những điều kiện có hiệu lực của thoả thuận, đồng

thời giao cho Toà án tối cao tiếp tục hoàn thiện các điều kiện có hiệu lực của thoả thuận.

Qua quá trình nghiên cứu tác giả nhận thấy thực trạng chế đô tài sản của vợ, chồng

theo pháp luật Hôn nhân và Gia đình còn một số điểm hạn chế và bất cập như sau:

Một là, về hình thức văn bản của chê độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận

Theo quy định tại khoản 2, Điều 117 của Bộ luật dân sự 2015 có quy định về điều

kiện có hiệu lực “ hình thức của giao dịch dân sự là điều kiện có hiệu lực của giao dịch

dân sự trong trường hợp luật có quy định”. Và theo quy định của Luật hôn Nhân và Gia

đình năm 2014 có quy định về hình thức, khi lựa chọn chế độ tài sản của vợ chồng theo

thỏa thuận thì phải lập bằng hình thức văn bản và có công chứng chứng thực và chưa có

quy định về hình thức của thỏa thuận (thời điểm, thời gian, công chứng, chứng thực) là

điều kiện có hiệu lực của văn bản. Theo quan điểm của tác giả thì thỏa thuận chế độ tài

sản của vợ chồng thì nó là một giao dịch dân sự, liên quan đến vợ chồng và cũng có thể

liên quan đến bên thứ ba. Mà quy định pháp luật như tác giả nêu trên là chưa đầy đủ và

chặt chẽ. Trường hợp nếu vi phạm về hình thức thì Tòa án sẽ không có căn cứ để tuyên

bố thỏa thuận vô hiệu, như vậy sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền và lợi ích hợp

pháp của các bên.

Thứ hai, về sửa đổi, bổ sung thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng.

Theo Điều 49 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 có quy định thì vợ chồng có

quyền sửa đổi, bổ sung thảo thuận về chế độ tài sản. Ngoài ra, theo nghị định

126/2014/NĐ-CP quy định chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận được áp dụng

thì trong thời kỳ hôn nhân, vợ chồng có quyền sửa đổi, bổ sung nội dung của chế độ tài

sản theo luật định và thỏa thuận sửa đổi, bổ sung một phần hoặc toàn bộ nội dung của

chế độ tài sản đó hoặc áp dụng theo quy định của pháp luật. Như vậy, quy định về việc

thay đổi bổ sung thỏa thuận chế độ tài sản của vợ chồng theo luật Hôn nhân và Gia đình

2014 quy định khá rộng, trong thời kỳ hôn nhân thì bất kỳ lúc nào, vợ chồng có thể thay

đổi, bổ sung một phần hoặc toàn bộ hoặc thay thế chế độ tài sản vợ chồng theo thỏa

thuận sang chế độ tài sản theo luật định. Theo quy định luật hiện hành như vậy sẽ gây

ảnh hưởng đến tính ổn định của tài sản vợ chồng. Ngoài ra khi thay đổi, bổ sung hoặc

thay thế tài sản của cợ chồng có nghĩa vụ phải thông báo cho người thứ ba được biết

những thông tin liên quan đến việc sửa đổi bổ sung nội dung thay đổi chế độ tài sản của

vợ chồng. Mặt khác, việc sửa đổi quy định này, việc sửa đổi nội dung chế độ tài sản của

vợ chồng không bị kiểm soát bởi các cơ quan của nhà nước có thẩm quyền. Trong thời

kỳ hôn nhân, vợ chồng có thể tham gia ký kết giao dịch với người thứ ba, do vậy cần

phải có quy định cụ thể hơn để đảm bảo quyền lợi cho người thứ ba liên quan đến tài sản

của vợ chồng.

Thứ ba, nghĩa vụ cung cấp thông tin tài sản liên quan đến chế độ tài sản của vợ

chồng có giao dịch với người thứ ba.

Trên thực tế, rất nhiều trường hợp chế độ tài sản của vợ chồng có ảnh hưởng và

liên quan đến quyền lợi của người thứ ba khi giao kết các hợp đồng, giao dịch dân sự lên

quan đến chế độ tài sản của vợ chồng. Hiện nay, theo quy định của nghị định

126/2014/NĐ-CP thì khi chế độ tài sản của vợ chồng được thỏa thuận được áp dụng thì

khi xác lập, thực hiện giao dịch vợ chồng có nghĩa vụ cung cấp thông tin cho bên thứ ba

được coi là ngay tình và được bảo vệ quyền lợi theo quy định của Bộ luật Dân Sự. Trường

hợp thực hiện theo quy định như vậy sẽ gây ra nhiều bất cập lớn như đối với các giao

dịch nhỏ lẻ đảm bảo nhu cầu thiết yếu cho cuộc sống cho gia đình thì vợ chồng cũng

phải buộc thông báo cho bên thứ ba được biết về thông tin chế độ tài sản của vợ chồng.

Từ phân tích nêu trên, thì cần phải có quy định cụ thể và loại trừ trường hợp này để việc

vận dụng pháp luật mang tính thực tiễn nhiều hơn.

Một số tồn tại bất cập khác

- Việc thỏa thuận chế độ tài sản của vợ chồng đối với các cặp vợ chồng của nước

ta hiện nay là một điều khá mới mẽ, do phong tục tập quán, quan niệm cũng như tình

cảm đời sống, cho đến nay luật Hôn nhân và Gia đình đã có hiệu lực hơn 5 năm. Đã có

quy định cụ thể về chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận và chế độ tài sản của vợ

chồng theo pháp luật. Tuy nhiên, đến nay việc lựa chọn áp dụng chế độ tài sản theo thỏa

thuận rất ít người lựa chọn và áp dụng

Nguyên tắc giải quyết tài sản của vợ chồng khi ly hôn

Theo quy định Điều 59 Luật Hôn nhân và Gia đình 2014 thì khi vợ chồng ly hôn,

tài sản sẽ được phân chia theo nguyên tắc:

+ Trường hợp chế độ tài sản của vợ chồng theo Luật định thì việc giải quyết tài sản

do các bên tự thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì theo yêu cầu của vợ, chồng

hoặc của cả hai vợ chồng, Tòa án giải quyết theo quy định tại các khoản 2, 3,4, 5 Điiều

này và tại các Điều 60, 61, 62, 63, 64 của Luật này. Trong trường hợp chế độ tài sản của

vợ chồng theo thỏa thuận thì việc giải quyết tài sản khi ly hôn được áp dụng theo thỏa

thuận đó; nếu thỏa thuận không đầy đủ, rõ ràng thì áp dụng quy định tương ứng các

khoản 2, 3, 4, 5 điều này và tại các điều 60, 61, 62, 63, 64 của Luật này để giải quyết.

+ Tài sản chung của vợ chồng được chia đôi nhưng có tính đến các yếu tố sau đây:

Hoàn cảnh gia đình và của vợ, chồng; công sức đóng góp của vợ, chồng vào việc tạo lập

và phát triển khối tài sản chung. Lao động của vợ, chồng trong gia đình được coi như lao

động có thu nhập; bảo vệ lợi ích chính đáng của mỗi bên trong sản xuất, kinh doanh và

nghề nghiệp để các bên có điều kiện tiếp tục lao động tạo thu nhập; lỗi của mỗi bên trong

vi phạm quyền, nghĩa vụ của vợ chồng.

+ Tài sản chung của vợ chồng được chia bằng hiện vật, nếu không chia bằng hiện

vật thì chia theo giá trị; bên nào nhận phần tài sản bằng hiện vật có giá trị lớn hơn phần

mình được hưởng thì phải thanh toán cho bên kia phần chênh lệch.

+ Tài sản riêng của vợ, chồng thuộc quyền sở hữu của người đó, trừ trường hợp tài

sản riêng đã nhập vào tài sản chung theo quy định của Luật này. Trong trường hợp có sự

sáp nhập, trộn lẫn giữa tài sản riêng với tài sản chung mà vợ, chồng có yêu cầu về chia

tài sản thì được thanh toán phần giá trị tài sản của mình đóng góp vào khối tài sản đó,

trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác.

+ Bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của vợ, con chưa thành niên, con đã thành niên

mất năng lực hành vo dân sự không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi

mình [32].

Tóm lại, khi vợ chồng ly hôn thì về chia tài sản có thể tự thỏa thuận với nhau, nếu

không có thỏa thuận hoặc không thỏa thuận được mà vợ chồng vẫn có yêu cầu chia tài

sản thì Tòa án giải quyết chia theo quy định pháp luật. Luật Hôn nhân và Gia đình quy

định nguyên tắc chia tài sản của vợ chồng như vậy là hợp lý, giúp hạn chế tranh chấp tài

sản của vợ chồng, hạn chế tình trạng quá tải của Tòa án.

2.2 Thực tiễn thực hiện chế độ tài sản vợ chồng theo Luật định ở Việt Nam

hiện nay

Trong nhưng gần đây, hệ thống pháp luật về Hôn nhân vfa Gia đình nói chung và

quy định của pháp luật về chế độ tài sản của vợ chồng nói riêng đã đi vào cuộc sống, giải

quyết nhiều vấn đề tranh chấp về chế độ tài sản của vợ chồng, bảo vệ quyền và lợi ích

hợp pháp của người dân trong lĩnh vực Hôn nhân và Gia đình, bảo vệ sự công bằng, văn

minh của xã hội, bảo vệ bình đẳng giới, trẻ em, quyền thừa kế và phát huy truyền thống

đạo đức, văn hóa dân tộc.

Thời gian qua ngành Tòa án đã tích cực triển khai thi hành công tác áp dụng pháp

luật vào giải quyết các vụ tranh chấp về chế độ tài sản của vợ chồng và đã mang lại nhiều

hiệu quả tích cực trong giải quyết các vụ việc Hôn nhân và Gia đình. Theo Tổng kết

ngành Tòa án cho thấy, các tranh chấp dân sự và Hôn nhân Gia đình từ 2015 cho đến

nay ngày càng gia tăng về số lượng, phức tạp về tính chất tranh chấp. Trên thực tế, các

vụ việc dân sự, Hôn nhân và Gia đình luôn chiếm tỷ lệ lớn trong tổng số các vụ việc mà

Tòa án giải quyết, trong đó các tranh chấp về Hôn nhân và Gia đình thường chiếm gần

một nữa số án dân sự. Đặc biệt, số lượng án Hôn nhân và Gia đình tập trung chủ yếu vào

các loại án ly hôn, thường chiếm 90% trong số các vụ ly hôn có tranh chấp về tài sản của

vợ chồng.

Theo Báo cáo số 03/BC-TA ngày 29/01/2016 của Tòa án dân dân tối cao về công

tác năm 2015 và nhiệm vụ trọng tâm công tác năm 2016, từ ngày 01/10/2014 đến

30/9/2015, Tòa án nhân dân các cấp đã giải quyết 399.058 vụ việc các loại trong tổng số

426.728 vụ việc đã thụ lý. Về công tác giải quyết, xét xử các vụ việc dân sự (bao gồm

các tranh chấp, yêu cầu về dân sự, hôn nhân và gia điình, kinh doanh thương mại, lao

động), Tòa án nhân dân các cấp thụ lý 333.159 vụ việc, đã giải quyết, xét xử 308.585 vụ

việc, đạt 92,6%. Trong đó, về vụ việc hôn nhân và gia đình, Tòa án đã thụ lý 180.460 vụ

việc, đã giải quyết, xét xử 176.161 vụ việc, đạt 97,6%. Cụ thể: giải quyết, xét xử theo

thử tục sơ thẩm 294.555 vụ việc; thoe thủ tục phúc thẩm 13.203 vụ việc theo thủ tục

giám đốc thẩm, tái thẩm 827 vụ việc. Tỷ lệ các bản án, quyết định bị hủy là 0,83% ( do

nguyên nhân chủ quan 0,9% và do nguyên nhân khách quan 0,5%); tủ lệ các bản án,

quyết định sơ thẩm có kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm là 4,68% (giảm 0,32%); tỷ lệ

kháng nghị giám đốc thẩm là 0,28% (giảm 0,12%); tỷ lệ các bản án, quyết định bị hủy

do lỗi chủ quan giảm 0,19% và bị sửa do lỗi chủ quan giảm 0,1% so với cùng kỳ năm

trước [33].

Theo Báo cáo số 01/BC-TA ngày 27/01/2017 của Tòa án nhân dân tối cao về công

tác tổng kết năm 2016 và nhiệm vụ trọng tâm công tác năm 2017, từ ngày 01/10/2015

đến 30/9/2016 , Tòa án nhân dân các cấp đã giải quyết 432.441 vụ việc các loại trong

tổng số 463.152 vụ việc đã thụ lý. Về công tác giải quyết, xét xử các vụ việc dân sự (bao

gồm các tranh chấp, yêu cầu về dân sự, hôn nhân và gia điình, kinh doanh thương mại,

lao động), Tòa án nhân dân các cấp thụ lý 359.748 vụ việc, đã giải quyết, xét xử 332.896

vụ việc, đạt 92,5%. Trong đó, về hôn nhân và gia đình, Tòa án đã thụ lý 206.812 vụ việc;

đã giải quyết, xét xử 201.449 vụ việc, đạt 97,4%. Cụ thể: Tòa án đã giải quyết, xét xử

theo thủ tục sơ thẩm 318.676 vụ việc; theo thủ tục phúc thẩm 13.583 vụ việc và theo thủ

tục giám đốc thẩm, tái thẩm 637 vụ việc. Tỷ lệ các bản án, quyết định bị hủy là 0,75% ,

do nguyên nhân chủ quan 0,63% và do nguyên nhân khách quan 0,12%); bị sửa là 1,3%

( do nguyên nhân chủ quan 0,9% và do nguyên nhân khách quan 0,4%); tỷ lệ các bản án,

quyết định sơ thẩm có kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm là 4,79%; tỷ lệ kháng nghị giám

đốc thẩm là 0,255% (giảm 0,25%); tỷ lệ các bản án, quyết định bị hủy do lỗi chủ quan

giảm 0,20% so với cùng kỳ năm trước [34].

Theo Báo cáo số 01/BC-TA ngày 10/01/2018 của Tòa án nhân dân tối cao về tổng

kết công tác năm 2017 và nhiệm vụ trọng tâm công tác năm 2018, từ ngày 01/10/2016

đến ngày 30/9/2017. Tòa án nhân dân các cấp đã giải quyết được 438.625 vụ việc trong

tổng số 491.384 vụ việc đã thụ lý. Về công tác giải quyết, xét xử các vụ việc dân sự (bao

gồm các tranh chấp, yêu cầu về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh thương mại,

lao động); Tòa án nhân dân các cấp thụ lý 387.051 vụ việc, đã giải quyết, xét xử 338.756

vụ việc, đạt 87,5%. Trong đó, về hôn nhân và gia đình thụ lý 232.679 vụ việc, đã giải

quyết, xét xử 225.354 vụ đật 96,9%. Cụ thể: Tòa án đã thụ lý theo thủ tục sơ thẩm

372.134 vụ việc, đã giải quyết, xét xử 326.293 vụ việc; thụ lý theo thủ tục phúc thẩm

13.949 vụ việc, đã giải quyết xét xử 11.673 và thụ lý theo thủ tục giám đốc thẩm, tái

thẩm 968 vụ việc, đã giải quyết, xét xử 790 vụ việc. Tỷ lệ các bản án, quyết định bị hủy

là 0,73% (do nguyên nhân chủ quan 0,6% và do nguyên nhân khách quan 0,13%0; bị

sửa là 1,1% (do nguyên nhân chủ quan 0,7% và nguyên nhân khách quan 0,4%). Tỷ lệ

các bản án, quyết định sơ thẩm có kháng cáo, kháng nghị là 4%; tỷ lệ kháng nghị giám

đốc thẩm, tái thẩm là 0,3% [35].

Qua các số liệu thống kê của Tòa án nhân dân tối cao cho thấy, vụ việc về hôn nhân

và gia đình chiếm số lượng lớn trong tổng số các loại vụ việc mà Tòa án nhân dân đã thụ

lý giải quyết. Đặc biệt từ khi Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 có hiệu lực thi hành

cho đến nay, số lượng các vụ việc hôn nhân và gia đình mà Tòa án thụ lý giải quyết tăng

nhanh chiếm gần 50% trong tổng số vụ việc mà Tòa án nhân dân đã thụ lý giải quyết.

Trong đó, số vụ việc dân sự (bao gồm dân sự, kinh doanh thương mại, lao động, hôn

nhân gia đình) mà Tòa án thụ lý giải quyết thì vị việc hôn nhân và gia đình chiếm trên

2/3 tổng số vụ việc về dân sự.

Bên cạnh việc ban hành kế hoạch triển khai, hướng dẫn Luật Hôn nhân và Gia đình

năm 2014, Tòa án nhân dân tối cao đã tiến hành hoạt động tập huấn nâng cao trình độ,

chuyên môn, nghiệp vụ, kỹ năng giải quyết các vụ việc hôn nhân và gia đình, qua đó góp

phần nâng cao chất lượng xét xử các vụ việc hôn nhân và gia đình, giả quyết các mâu

thuẩn trang chấp, góp phần ổn định mối quan hệ gia đình, bảo vệ quyền lợi và lợi ích

hợp pháp của các thành viên trong gia đình, những người có quyền và lợi ích liên quan.

Có thể thấy, quy định của Luật Hôn nhân và Gia đình 2014 cho phép vợ, chồng có

quyền lựa chọn áp dụng chế độ tài sản theo thỏa thuận hoặc theo luật định đã đáp ứng

kịp nhu cầu của tình hình thực tiễn xã hội hiện nay. Tuy nhiên, so với chế định thảo thuận

về tài sản của vợ chồng thì hiện nay chế định Luật định về chế độ tài sản của vợ chồng

phát nhiều mẫu thuẩn mới, nhiều tranh chấp mới nên quy định pháp Luật Hôn nhân và

Gia đình hiện nay cần phải được sửa đổi, bổ sung để phù hợp với nhu cầu thực tiễn.

Thực tiễn thực hiện chế độ tài sản vợ chồng theo Luật định được thể hiện qua các

bảng số liệu thống kê:

Bảng 2.1 Số liệu thống kê của Tòa án nhân dân tối cao về công tác tổng kết

giải quyết các vụ việc Dân sự từ năm 2015 - 2018

Năm Tổng số vụ việc đã thụ lý Số vụ việc đã giải Tỉ lệ (%)

quyết

2015 426.728 399.058 93.52

2016 463.152 432.411 93.36

2017 387.051 338.756 87.52

2018 439.546 386.923 88.03

90.72 Tổng Cộng 1.716.477 1.557.148

Nguồn: Tổng hợp báo cáo thống kê của Tòa án nhân dân tối cao

+ Qua bảng thống kê cho thấy Tổng số vụ việc được Tòa án các cấp thụ lý liên tục

tăng từ 426.728vụ năm 2015 tăng lên 1.716.477 vụ năm 2018. Điều này chứng tỏ các

tranh chấp dân sự hiện nay diễn ra thường xuyên.

+ Số vụ đã giải quyết của Tòa án cũng tăng từ 399.058 vụ năm 2014 lên 1.557.148

vụ năm 2018. Điều này chúng tỏ công tác giải quyết của Tòa án rất tích cực.

Bảng 2.2 Bảng số liệu thống kê công tác xét xử ở cấp sơ thẩm, cấp phúc

thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm các vụ việc Hôn nhân và Gia đình từ năm 2015 –

2018

Năm Tổng số Số vụ Cấp sơ Cấp Theo Tỉ lệ (%)

vụ việc việc đã thẩm phúc thủ tục

đã thụ giải thẩm giám

lý quyết đốc

thẩm

(1) (2) (3) (4) (5) (2)/ (4)/ (5)/

(1) (3) (3)

2015 180.460 176.100 294.555 13.203 872 97.58 44.82 0.3

2016 206.813 201.449 318.676 136.583 637 97.4 42.86 0.2

2017 232.679 225.354 326.293 11.673 790 96.85 3.58 0.24

2018 359.849 262.906 372.154 14.049 720 73.06 3.78 0.19

Tổng 979.801 865.809 711.678 175.508 3.019 88.37 13.38 0.23

cộng

Nguồn: Tổng hợp báo cáo thống kê của Tòa án nhân dân tối cao

Bảng 2.3 Bảng số liệu thống kê vụ việc Hôn nhân – Gia đình bị hủy, sửa của

Tòa án nhân dân tối cao từ năm 2015 đến năm 2018

Năm Tổng số vụ việc đã được Số vụ việc bị hủy Số vụ việc bị sửa

giải quyết án án

883.743 733.507 12.372 2015

972.820 729.615 12.647 2016

902.866 659.092 9.931 2017

1.036.752 663.521 12.441 2018

Nguồn: Tổng hợp báo cáo thống kê của Tòa án nhân dân tối cao

Qua bảng số liệu thống kê vụ việc Hôn nhân – Gia đình bị hủy án, sửa án của Tòa

án nhân dân tối cao từ năm 2015 đến năm 2018 thì ta nhận thấy được dấu hiệu tích cực

trong hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân trong việc xét xử các vụ Hôn nhân và Gia

đình qua các năm, công tác xét xử đảm bảo đúng quy định pháp luật, nội dung vụ việc

đảm bảo, giải quyết hợp tình hợp lý nên số vụ việc bị hủy và bị sửa có xu hướng giảm

dần , mặc dù tổng số vụ việc đã được Tòa án nhân dân giải quyết tăng.

Có thể thấy quy định pháp luật hiện hành về chế độ tài sản của vợ chồng cho phép

vợ chồng có quyền áp dụng chế độ tài sản theo thỏa thuận hoặc theo luật định đã dần đáp

ứng kịp thời các yêu cầu của thực tiễn Hôn nhân và Gia đình của nước ta hiện nay. Nó

là bước tiến vượt bậc trong quy định pháp luật về chế độ tài sản của vợ chồng đảm bảo

quyền và lợi ích hợp pháp của các bên trong chế độ tài sản. Bên cạnh đó, đảm bảo sự hài

hòa và đa dang trong quyền sở hữu thể hiện sự tôn trọng quyền sở hữu, lựa chọn của cá

nhân.

Về những thành tích đã đạt được nêu trên. Tuy nhiên, trên thực tế vẫn còn nhiều

vướng mắc trong việc xử lý các vụ việc đơn cử như do ảnh hưởng của các tập quán, tâm

lý và vị thế kinh tế trong gia đình mà tỷ lệ người chồng đứng tên giấy tờ tài sản của vợ

chồng là không hiếm gặp, nó chiểm tỷ lệ cao so với vợ. Sự việc này diễn ra rất nhiều ở

địa bàn kinh tế khó khăn, các vùng miền nông thôn cùng với so tâm lý e dè khi đề cập

đến vấn đề thỏa thuận chế độ tài sản của vợ chồng trước khi kết hôn, bởi như vậy quá

rạch ròi, đề cao yếu tố vật chất nên, việc xác lập chế độ tài sản của vợ chồng chưa thể

thực hiện một cách đầy đủ.

Tác giả tìm hiểu thực tế một số văn phòng công chứng trên địa bàn thành phố Hồ

Chí Minh tại các văn phòng công chứng như: văn phòng công chứng Lý Thị Như Hòa,

Nguyễn Thị Ngọc Bích, Văn Phòng Công Chứng số 5. Và trên một số địa bàn nông thôn

như: văn phòng công chứng số 4 ở Long Thành Đồng Nai. Đến thời điểm hiện tại chưa

có trường hợp nào đến công chứng hợp đồng , văn bản được xác lập liên quan đến tài

sản của vợ chồng trước thời kỳ hôn nhân hoặc đến công chứng tại các văn phòng nêu

trên. Tại một số văn phòng luật sư trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh chỉ xuất hiện có

một vài trường hợp nhờ tư vấn về việc có nên xác lập văn bản phân chia tài sản về chế

độ tài sản của vợ chồng tiền hôn nhân, một vài trường hợp có xác lập văn bản, hợp đồng

xác định tài sản riêng của vợ chồng. Tuy nhiên, chỉ dừng lại ở việc chỉ ký tay của hai

bên vợ chồng không có công chứng chứng thực bởi cơ quan, tổ chức có thẩm quyền nên

khi sảy ra tranh chấp các văn bản này chỉ dừng lại ở việc xem xét chứ không có giá trị là

cơ sở để giải quyết tranh chấp.

Thực tế tại bản án số 257/BA-ST/HM, chị Nguyễn Thị H chuẩn bị kết hôn với Lê

Văn T (đã từng kết hôn) là chủ của một doanh nghiệp D trên địa bàn thành phố Hồ Chí

Minh. Trước khi đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật anh T cùng chị H cùng

nhau lập một văn bán hợp đồng hôn nhân do tự soạn với nội dung xác nhận tài sản của

anh T trước thời kỳ hôn nhân. Theo đó, nếu sau này các bên ly hôn thì tài sản riêng của

đôi bên trước thời kỳ hôn nhân sẽ thuộc về người đó và tài sản chung sẽ được phân chia

dựa theo công sức đóng góp của từng người. Sau đó Anh T và Chị H quyết định ly hôn

do mục đích hôn nhân không đạt, chung sống với nhau không hạnh phúc.

Thực tế, trong đời sống hiện nay có rất nhiều vụ việc liên quan đến tranh chấp tài

sản của vợ chồng kéo dài điến hình như vụ Ly hôn có tranh chấp về tài sản có giá trị lớn

nhất trong lịch sử Việt Nam giữa Bà Lê Hoàng Diệp Thảo Và Ông Đặng Lê Nguyên Vũ

vụ ly hôn tòa xác định giá trị tài sản tranh chấp là hơn 5.700 tỷ đồng. Ngày 27 tháng 3

năm 2019 Tòa án nhân dân Tp.HCM ra phán quyết chấp nhận cho vợ chồng Ông Đặng

Lê Nguyên Vũ và Bà Lê Hoàng Diệp Thảo được ly hôn. Về vấn đề tài sản HĐXX nhận

định công sức đóng góp của ông Vũ nhiều hơn nên chia theo tỷ lệ Ông Vũ 60% và Bà

Thảo 40%. Thông qua vụ việc nêu trên cho thấy việc xác định tài sản của vợ chồng trong

thời kỳ hôn nhân, trước hôn nhân các bên chưa có thể hiện việc phân chia theo thỏa thuận

nên việc áp dụng chế định tài sản của vợ chồng theo pháp luật theo tòa án nhân dân

Thành Phố Hồ Chí Minh là hoàn toàn khách quan. Có thể thấy việc phân chia tài sản sau

ly hôn là vấn đề rất khó xác định trong thực tiễn xét xử hiện nay. Hầu hết các vụ án ly

hôn việc phân chia tài sản chung tài sản riêng trước và sau kết hôn, nghĩa vụ cấp dưỡng

đối với con chung… Vì vậy cần phải xác lập thỏa thuận về chế độ tài sản là hết sức cần

thiết đó là giải pháp giúp vấn đề phân chia tài sản, trách nhiệm đóng góp và cơ sở để tòa

án giải quyết các tranh chấp một cách nhanh chóng công minh hơn. Tránh việc ảnh hưởng

đến quyền và lợi ích hợp pháp của họ.

* Về hạn chế bất cập trong thực tiễn xét xử

Qua khảo sát và tìm hiểu thực tế về giải quyết các vụ án có liên quan đến chế độ

tài sản của vợ chồng từ khi luật Hôn nhân và Gia đình 2014 có hiệu lực tác giả nhận thấy

có có rất nhiều vướng mắc, khó khăn cho Tòa án trong việc áp dụng pháp luật hoặc áp

dụng không đúng pháp luật nhưng không đánh giá đầy đủ chứng cứ, các tình tiết phát

sinh trong vụ án dẫn đến án bị hủy và sửa án còn diễn ra nhiều.

- Việc xác định tài sản riêng của vợ chồng được đưa và sử dụng nhưng chưa thông

qua thủ tục hợp pháp (bằng hợp đồng phân chia tài sản của vợ, chồng trước hôn nhân)

điển hình như:

Vụ thứ nhất: Ông Nguyễn Văn Hùng và Bà Trần Thị Tâm kết hôn vòa năm 1990.

Đến năm 2015, Ông, Bà có đơn xin ly hôn tại Tòa án nhân dân quận 3. Khi phân chia tài

sản vợ, chồng đã thỏa thuận được bao gồm tiền mặt, xe cộ, đất. Tuy nhiên, còn lại căn

nhà tập thể cấp 4 được cấp cho bố ông Hùng (thời bao cấp) có diện tích 80m2. Đến năm

1986 bố ông Hùng tặng riêng cho ông Hùng. Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và

quyền sở hữu nhà ở đứng tên ông Hùng. Sau đó, khi ông Hùng và bà Tâm kết hôn hai

người về chung sống với nhau trên căn nhà nói trên và tiến cải tạo nâng cấp xây dựng

theo hiện trạng 1 trệt, 1 lầu chi phí là 500.000.000 đồng. Tại biên bản lấy lời khai và lời

trình bàyy của bà Tâm tại phiên tòa bà cho rằng, mặc dù không có văn bản thỏa thuận

sáp nhập tài sản là căn nhà nói trên vào khối tài sản chung, tuy nhiên trên thực tế đã được

vợ chồng cải tạo nâng cấp và sử dụng hơn 25 năm. Vì vậy, đó là cơ sở chứng minh rằng

ông Hùng đã đồng ý nhập căn nhà nêu trên vào khối tài sản chung của vợ chồng.

Tại phiên tòa sơ thẩm ngày 25 tháng 6 năm 2016 của Tòa án nhân dân quận 3,

Tp.HCM tuyên:

Công nhận căn nhà có diện tích 80m2 tọa lạc tại quận 3, Tp.HCM là tài sản riêng

của Ông Hùng. Nguồn gốc do Bố ông Hùng tặng cho. Riêng về phía Bà Tâm có công

sức đóng góp trong việc cải tạo, nâng cấp căn nhà có hiện trạng 1 trệt, 1 lầu như hiện

nay. Do đó, ông Dũng phải hoàn trả lại cho bà Lan 2/4 chi phí tiền xây dựng cải tạo nâng

cấp tương ứng với số tiền là 250.000.000 đồng. Sau đó bà Tâm có đơn kháng cáo và

được Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh xem xét theo thủ tục phúc thẩm và giữ

nguyên quyết định của bản án sơ thẩm.

Thông qua vụ án nêu trên, Tòa án ở cấp sơ thẩm và cấp phúc thẩm đều xem xét vụ

án, qua góc nhìn đối với tài sản riêng của vợ, chồng đang được quản lý sử dụng chung

mà không có văn bản xác lập về nhập tài sản đó vào khối tài sản chung của vợ chồng thì

vẫn được xem là tài sản riêng của vợ, chồng. Nhìn chung việc áp dụng pháp luật vào

trường hợp nêu trên là đúng nhưng lại không phù hợp với thực tế gây ra sự bất công bằng

với bà Tâm. Nếu công nhận căn nhà nêu trên là tài sản chung lại trái với quy định của

luật Hôn nhân và Gia đình.

Vụ thứ hai: Ông Nguyễn Minh Sang và Bà Trần Thị Thu Hằng đăng ký kết hôn

vào ngày 26 tháng 9 năm 2000. Trước khi kết hôn Ông Sang khai hoang hóa được 600

m2 ruộng từ năm 1986. Đến năm 2001 thì Ông Sang được cấp giấy chứng nhận quyền

sử dụng đất. Sau đó, Ông Sang và Bà Hằng cùng nhau góp tiền xây căn nhà cấp 4, mái

ngói hai gian, có diện tích 60 m2. Đến năm 2014 vợ chồng Ông Sang và bà Hằng xảy ra

mẩu thuẩn và có đơn xin ly hôn vì mục đích hôn nhân không đạt, chung sống với nhau

không hạnh phúc, thường xuyên sẩy ra mâu thuẩn. Theo đó, ngày 30 tháng 4 năm 2014

Tòa án nhân dân Huyện Quỳnh Lưu, Tỉnh Nghệ An tuyên xử chia đôi toàn bộ tài sản nêu

trên. Ngày 3 tháng 5 năm 2014 Ông Sang có đơn kháng cáo yêu cầu xem xét lại toàn bộ

bản án của cấp sơ thẩm. Tòa án nhân dân Tỉnh nghệ An thụ lý và xem xét lại cho rằng

nguồn gốc đất là do công sức khai hoang hóa của ông Hùng tạo lập vì vậy được xem là

tài sản riêng của ông Hùng. Ngoài ra, trong quá trình giải quyết vụ án bà Hằng không có

chứng cứ chứng mình nào cho việc ông Hùng đồng ý nhập vào khối tài sản chung của

vợ chồng. Đối với căn nhà cấp 4, mái ngói, hai gian, có diện tích 60m2 tòa án nhân dân

tỉnh Nghệ An đã chấp nhận căn nhà này là tài sản chung của vợ chồng ông Hùng và bà

Hằng. Diện tích đất còn lại là tài sản riêng của ông Hùng.

Qua trường hợp nêu trên, cho thấy việc xác định tài sản chung đưa vào quản lý sử

dụng chung là tài sản chung của vợ chồng hay tài sản riêng của vợ chồng vẫn còn nhiều

quan điểm khác nhau gây khó khăn cho tòa án trong việc xác định, cũng như áp dụng

pháp luật hoặc áp dụng đúng pháp luật đúng nhưng không phù hợp với thực tế diễn biến

của vụ việc. Thực tiễn xét xử gặp nhiều vướng mắc bất cập nhưng chưa có văn bản nào

hướng dẫn một cách thống nhất, cụ thể để Tòa án các cấp có sự nhìn nhận vấn đề, áp

dụng pháp luật có sự đồng bộ và thống nhất.

- Bất cập trong chế độ tài sản của vợ chông trong thời kỳ vợ chồng ly thân.

Năm 1995 Ông Trương Lê Bảo Toàn có kết hôn với bà Đặng Thị Phượng. Tuy

nhiên đến năm 2000 Ông Trương Lê Bảo Toàn ly thân với Bà Phượng và chung sống

với bà Lê Thị Lan như vợ, chồng từ năm 2005 cho đến nay. Đầu năm 2005 Bà Lan có

đưa Ông Toàn số tiền là: 1.000.000.000 đồng đứng ra gửi tiết kiệm.

Ngày 22 tháng 5 năm 2010 Tòa án nhân dân quận Gò Vấp đưa vụ án ra xét xử và

phần nhận định cho rằng: Ông Toàn và bà Phượng kết hôn năm 1999, đến năm 2000 sảy

ra mâu thuẩn và sống ly thân với nhau từ năm 2000 cho đến nay. Giữa ông Toàn và Bà

Phượng không còn tình cảm, cũng không hề có làm ăn kinh tế với nhau. Từ năm 2001

bà Lan và Ông Toàn chung sống với nhau như vợ chồng, qua biên bản lời khai và trình

bày của bà Lan tại phiên tòa thì bà Lan cho rằng số tiền 1.000.000.000 đồng là tiền của

bà Lan nhờ Ông Toàn mở tài khoản tiết kiệm giùm, vấn đề này Ông Toàn cũng thừa

nhận. và Tại phiên Tòa bà Phượng cũng không xuất trình được chứng cứ chứng minh

nào cho là yêu cầu của mình là có cơ sở cho việc chứng minh số tiền 1.000.000.000 đồng

là tài sản chung của ông Toàn và bà Phượng do đó yêu cầu của bà Phượng không được

hội đồng xét xử chấp nhận.

Từ ví dụ, nêu trên cho ta thấy rằng Tòa án nhân dân quận Gò Vấp đã căn cứ vào

tình hình thực tế để áp dụng xem xét vụ án này, vì số tiền tiết kiệm được gửi trong thời

gian ly thân nên số tiền này không được xem là tài sản chung của vợ chồng. Nếu vụ án

này được xem xét trên góc độ của luật Hôn nhân và Gia đình thì tòa án nhân dân quận

Gò Vấp tuyên như trên là không có cơ sở. Vì trong thời gian ly thân vẫn là trong thời kỳ

hôn nhân và đối với tài sản trong thời kỳ hôn nhân thì vẫn được xem là tài sản chung của

vợ chồng.

- Bất cập trong việc xác định công sức đóng góp

Trong thực tiễn xét xử thì việc xác định công sức đóng góp của vợ chồng để tạo

lập khối tài sản chung cũng hết sức khó khăn. Chưa có văn bản nào hướng dẫn cụ thể về

vấn đề này, vì vậy trong quá trình xem xét vụ án thòa cũng không có căn cứ cụ thể để

xem xét, thực tế tòa án nhân dân các cấp xác định công sức đóng góp theo phương pháp

định tính.

Ví dụ 1: Trong vụ án ly hôn giữa ông Đặng Lê Nguyên Vũ và Bà Đặng Diệp Thảo

nêu trên Tòa án Nhân Dân Tp.HCM cho rằng ông Vũ là người trực tiếp điều hành doanh

nghiệp nên đương nhiên tạo ra thu nhập cao hơn so với bà Thảo, do đó Tòa án nhân Dân

Tp.HCM chia cho Ông Vũ 60% và bà Thảo được chia 40%. Việc xác định như vậy, tác

giả cho rằng có nhiều hạn chế và thiếu sót, cần phải có chứng cứ chứng minh xem xét

cho rằng ông Vũ trực tiếp điều hành doanh nghiệp.

Ví dụ 2 :Bản án số: 32/2017/HNGĐ-ST ngày 19 tháng 6 năm 2016 của Tòa án nhân

dân huyện Châu Đức nhận định:

Thửa đất số 132, diện tích 1970m2, tờ bản đồ số 3 thuộc xã Quảng Thành, huyện

Châu Đức, BRVT căn cứ theo tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án thì xác định nguồn

gốc đất là do bố mẹ chồng cho vợ chồng ông Long và bà Châu nên bà Châu đề nghị Tòa

xem xét chia mỗi người một nửa. Tuy nhiên, ông Long lại cho rằng tài sản nêu trên là

của bố mẹ ông nên ông không đồng ý chia tài sản này. Căn cứ vào tài liệu có trong vụ

án mà tòa đã thu thập được trong quá trình thụ lý và giải quyết vụ án tòa có căn cứ khẳng

định rằng tài sản là do bố mẹ ông Long cho riêng ông mà không phải là tài sản chung.

Như theo lời trình của bà Châu. Do vậy, theo yêu cầu của bà Châu là không có căn cứ

để tòa chấp nhận.

Về công sức đóng góp: ông Long và bà Châu kết hôn từ năm 1994 thời điểm kết

hôn cho đên khi đưa vụ án ra xét xử cũng đã hơn 23 năm. Khi chung sống với nhau, Ông

Long và bà Châu có công sức tôn tạo và duy trì khối tài sản là nhà đất, và cây cối trên

đất. Ngoài ra bà Châu còn có công chăm sóc, phụng dưỡng bố mẹ chồng, lo mai táng,

tang lễ cho bố mẹ chồng. Do vậy, yêu cầu buộc ông Long phải thanh toán công sức cho

bà là có căn cứ để chấp nhận. Xét thấy, bà Châu có nhiều công sức đóng góp trong quá

trình chung sống với ông Long và bà Châu ly hôn cũng trong trường hợp không còn chỗ

ở khác. Để đảm bảo cuộc sống cho bà Châu thì Tòa án nhân dân Huyện Châu Đức yêu

cầu ông long phải thanh toán cho bà Châu tương ứng với một phần diện tích đất là 985

m2.

Trong vụ án này, Tòa cũng xem xét thông qua phương pháp định tính không có căn

cứ chính xác.

Thực tiễn xét xử các vụ án liên quan đến vụ án Hôn nhân và Gia đình còn rất nhiều

bất cập và vướng mắc, tác giả xin được nêu phân tích cụ thể và đưa ra giải pháp ở phần

giải pháp.

KẾT LUẬN CHƯƠNG 2

Chương 2 là tổng hợp tình hình thực tiễn áp dụng pháp luật về chế độ tài sản của

vợ chồng theo Luật Hôn nhân và Gia đình hiện nay. Từ những cơ sở thực tiễn, các số

liệu, báo cáo, các bản án, Quyết dịnh của Tòa án các cấp trong quy định và áp dụng quy

định pháp luật về chế độ tài sản của vợ chồng theo quy định pháp luật hiện hành. Từ

những cơ sở số liệu cụ thể đấy tác giả đã thống kê và phân tích để làm rõ các vấn đề thực

tiễn về quy định pháp luật và thực tiến thực hiện chế độ tài sản của vợ chồng trên địa bàn

thành phố Hồ Chí Minh nói riêng và cả nước nói chung. Từ đó chỉ ra những hạn chế, bất

cập và nguyên nhân của những hạn chế bất cập đó và kiến nghị giải pháp hoàn thiện

pháp luật, nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật đối với chế độ tài sản vợ chồng hiện nay

ở nước ta.

CHƯƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ

NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ CHẾ ĐỘ TÀI SẢN VỢ

CHỒNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY.

3.1. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về chế độ tài sản vợ chồng theo quy định

pháp luật.

Từ những số liệu thống kê và những bản án, quyết điịnh của Toa án mà tác giả đã

trình bày ở chương 2, có thể thấy rất nhiều tranh chấp tài sản giữa vợ chồng ở nước ta

hiện nay ngày càng thường xuyên và phức tạp, nhưng những quy định của pháp luật khi

áp dụng vào thực tiễn vẫn còn tồn tại những khó khăn và vướng mắc làm cho công tác

xét xử chưa đem lại hiệu quả mà vẫn còn tình trạng xét xử sai dẫn đến bị hủy án, sửa án

còn diễn ra nhiều, việc áp dụng luật không thống nhất hoặc áp dụng quy định pháp luật

nhưng không phù hợp với thực tiễn, xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của công

dân, của vợ chồng, của bên thứ ba có liên quan. Trên cơ sở đó, tôi xin đưa ra một số kiến

nghị như sau nhằm hoàn thiện pháp luật về chế độ tài sản của vợ chồng hiện nay như

sau:

3.1.1. Hoàn thiện các các căn cứ pháp luật xác định tài sản chung của vợ

chồng:

Theo Điều 33 Luật Hôn nhân và Gia đình 2014 quy định về các căn cứ xác định tài

sản chung của vợ chồng tương đối cụ thể và rõ ràng. Tuy nhiên, khi áp dụng trong thực

tế thì lại nảy sinh nhiều vấn đề và mâu thuẩn. Có những quan điểm khác nhau về quy

định pháp luật của chế độ tài sản chung của vợ chồng:

- Về tài sản riêng của vợ chồng đã đưa vào quản lý và sử dụng chung thì quan điểm

thứ nhất cho rằng, đối với những tài sản có trước hoặc sau thời kỳ hôn nhân do một người

đứng tên đã và đang được đưa vào quản lý và sử dụng chung mà không có văn bản thỏa

thuận nhập tài sản đó vào khối tài sản chung của vợ chồng thì vẫn là tài sản riêng của

vợ, chồng. Quan điểm thứ 2, lại cho rằng, dù nguồn gốc tài sản là tài sản riêng của vợ

chồng, nhưng đã được đưa và quản lý, sử dụng chung thì đương nhiên trở thành tài sản

chung của vợ chồng và pháp luật công nhân và bảo vệ khối tài sản sản này là khối tài

sản chung của vợ chồng.

- Nếu căn cứ vào các quy định của pháp luật hiện nay về chế độ tài sản của vợ

chồng thì quan điểm thứ nhất hoàn toàn phù hợp với quy định của pháp luật, thể hiện

tính khoa học và có cơ sở pháp lý. Điều này có nghĩa là tài sản riêng của vợ, chồng chỉ

có thể trở thành tài sản chung khi hai vợ chồng tự thỏa thuận việc nhập tài sản riêng đó

vào khối tài sản chung. Tuy nhiên, quan điểm này lại không hợp tình hợp lý và không

phù hợp với quan hệ vợ chồng, gia đình.

- Theo tác giả, Luật Hôn nhân và Gia đình 2014 cần thiết quy định bổ sung về thời

hạn để tài sản riêng của vợ chồng đã được đưa vào sử dụng, quản lý trong thời gian dài

sẽ trở thành tài sản chung của vợ chồng, để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của vợ

chồng, gia đình và đánh giá đúng thực trạng quan hệ tài sản của vợ chồng. Giúp hoàn

thiện quy định pháp luật để dễ dàng xác định khối tài sản chung và khối tài sản riêng của

vợ chồng. Tương tự như khoản 1, Điều 247 BLDS 2005: “Người chiếm hữu, người được

lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình, liên tục, công khai trong thời

hạn mười năm đối với động sản, ba mươi năm đối với bất động sản thì trở thành chủ sở

hữu của tài sản đó, kể từ thời điểm bắt đầu chiếm hữu”.

- Liên quan đến việc xác định tài sản chung của vợ chồng còn có những khó khăn

về xác định tài sản chung của vợ chồng trong thời gian vợ chồng ly thân. Trong xã hội

ngày nay, ly thân là tình trạng thường xuyên xảy ra đối với các cặp vợ chồng, diễn ra

không ít trong các gia đình, hầu hết các cặp vợ chồng khi tiến tới ly hôn thì đã có một

khoản thời gian dài sông ly thân. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp, sau thời gian sống

ly thân vợ chồng lại trở về sống chung với nhau thì thực tế trong quảng thời gian sông

ly thân đó cả vợ và chồng có thể tạo ra tài sản của riêng mình, trong trường hợp này, nếu

vợ chồng ly hôn sẽ gây nhiều khó khăn cho Tòa án trong công tác xác định tài sản chung

của vợ chồng. Vì vây, về mặt nguyên tắc, thời gian vợ chồng ly thân vẫn được pháp luật

xem là vẫn trong thời kỳ hôn nhân và những tài sản vợ chồng tạo ra được trong thời kỳ

này phải được coi là tài sản chung của vợ chồng. Tuy nhiên nếu xét về mặt thực tế, nếu

xác định đây là tài sản chung của vợ chồng là không công bằng cho các bên, sẽ gây nên

mâu thuẩn và tranh chấp về tài sản. Vì vậy, về vấn đề ly thân cần phải bổ sung chế định

về thời gian ly thân của vợ chồng vào luật và quy định cụ thể thời gian ly thân và chế độ

tài sản trong trường hợp vợ chồng sống ly thân theo hướng ly thân là tình trạng vợ chồng

không có nghĩa vụ sống chung với nhau được cơ quan có thẩm quyền công nhận theo

yêu cầu của vợ chồng hoặc vợ, chồng. Bảo vệ quyền lợi và lợi ích hợp pháp của vợ,

chồng, con, các thành viên khác trong gia đình và người thứ ba có liên quan. Tuy nhiên,

cần nhấn mạnh rằng, quy định về ly thân không có nghĩa là bắt buộc các cặp vợ chồng

muốn sống ly thân thì phải giải quết theo quy định của pháp luật như phần kiến nghị của

tác giả, mà chỉ áp dụng khi vợ, chồng yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền công

nhận ly thân thì cơ quan có thẩm quyền mới có thẩm quyền công nhận vợ chồng đang

sống ly thân. Về chế độ tài sản của vợ chồng, kể từ ngày vợ chồng sông ly thân thì vợ

chồng có quyền sở hữu riêng đối với tài sản mà mỗi bên có được và tự chịu trách nhiệm

về nghĩa vụ tài sản mà mình xác lập, thực hiện trong thời gian sống ly thân. Đối với việc

bảo vệ quyền lợi của người thứ ba có liên quan trước việc vợ chồng ly thân và thanh toán

tài sản, cần quy định các quyền, nghĩa vụ của vợ chồng đối với người thứ ba vẫn có hiệu

lực, trừ khi các bên có thỏa thuận khác. Đồng thời, để khuyến khích vợ chồng quay trở

về sống chung với nhau, cần thiết quy định về chấm dứt ly thân và giải quyết chấm dứt

ly thân theo hướng đơn giản như vợ chồng có thỏa thuận chấm dứt ly thân và yêu cầu cơ

quan có thẩm quyền công nhận chấm dứt ly thân, khi chấm dứt ly thân, chế độ tài sản

mà vợ chồng áp dụng trước khi ly hôn sẽ đương nhiên có hiệu lực.

- Về nguyên tắc tắc suy đoán tài sản chung, đây là một quy định có ý nghĩa rất quan

trọng trong việc giải quyết những tranh chấp phát sinh trong thực tế. Trường hợp vự,

chồng cho rằng đó là tài sản riêng của mình hoặc người thứ ba muốn kê biên tài sản riêng

của vợ, chồng để thực hiện nghĩa vụ thì phải chứng minh. Tuy nhiên, nguyên tắc này

cũng tạo ra không ít trở ngại đối với vợ, chồng và đặc biệt là đối với người thứ ba có liên

quan khi thực hiện việc chứng minh. Trong khi đó, Luật Hôn nhân và Gia đình 2014

không quy định cụ thể về các loại bằng chứng được sử dụng để chứng minh trong tranh

chấp. Với việc quy định về nghĩa vụ chứng minh và bằng chứng chứng minh còn chưa

rõ ràng sẽ được hiểu tất cả các loại bằng chứng đều có thể được chấp nhận, bao gồm

bằng chững chữ viết, lời khai của nhân chứng, hóa đơn, chứng từ và thậm chí cả sự thừa

nhận của bên còn lại trong tranh chấp (nếu có). Mặc dù trong thực tiễn, Tòa án thường

xuyên vận dụng nguyên tắc ưu tiên chứng minh chứng cứ bằng văn bản, sau đó mới đến

các chững cứ khác. Tuy nhiên, việc không quy định cụ thể trong luật về nguyên tắc áp

dụng có thể gây ra sự tùy tiện, chủ quan, duy ý chí trong việc sử dụng chứng cứ, gây khó

khăn trong việc xác định bằng chứng có chính xác, khách quan và có tính thuyết phục

cao, có thể dẫn đến phán quyết không công bằng. Hoặc có trường hợp, Tòa án không

chấp nhận chững cư khác ngoài chứng cứ bằng văn bản.

- Kiến nghị pháp luật về chế độ tài sản vợ chồng cần quy định cụ thể việc chứng

minh tài sản riêng của vợ chồng trong Luật Hôn nhân và Gia đình 2014 trên cơ sở thực

tiễn xét xử, theo hướng tiếp thu, vận dụng điều 1402 BLDS Cộng hòa Pháp như sau: Mọi

tài sản, dù là động sản hay bất động sản đều được coi là tài sản chung của vợ chồng, nếu

không chứng minh được đó là tài sản riêng của vợ hoặc chồng theo quy định của pháp

luật; Nếu không có chứng cứ hoặc dấu vết về nguồn gốc của tài sản thì khi có tranh chấp,

quyền sở hữu riêng của vợ chồng phải được chứng minh bằng văn bản. Trường hợp

không có văn bản kiểm kê tài sản hoặc không có chứng cứ nào được xác lập từ trước,

thẩm phán có thể xem xét mọi loại giấy tờ, đặc biệt là các giấy tờ, sổ sách của gia đình

cũng như các tài liệu của ngân hàng và các hóa đơn thanh toán. Thẩm phán cũng có thể

chấp nhận lời khai của nhân chứng hoặc suy đoán nếu nhận thấy vợ, chồng không có khả

năng cung cấp chứng cứ bằn văn bản và ra phán quyết dựa trên cở sở tình hình thực tế

[26, tr. 82 - 86].

3.1.2. Bổ sung căn cứ xác định tài sản riêng của vợ, chồng.

Khi nghiên cứu về tài sản phục vụ nhu cầu thiết yếu của vợ, chồng, một số nhà

nghiên cứu cho rằng quy định tại khoản 20, Điều 3 Luật Hôn nhân và Gia đình 2014 giải

thích từ ngữ “Nhu cầu thiết yếu là nhu cầu sinh hoạt thông thường về ăn, mặc, ở, học

tập, khám bệnh, và nhu cầu sinh hoạt thông thường khác không thể thiếu cho cuộc sống

của mỗi người, mỗi gia đình”. Và khoản 1 Điều 44 luật Hôn nhân và Gia đình: “Tài sản

phục vụ cho nhu cầu thiết yếu của vợ, chồng và tài sản khác mà theo quy định của pháp

luật thuộc sở hữu riêng của vợ, chồng”, không rõ như thế nào là “thiết yếu” vì:

+ Đối với những người, những gia đình với mức sống khác nhau thì khái niệm đồ

dùng thiết yếu sẽ khác nhau.

Ví dụ: đối với một người, gia đình này thì nhu nhu cầu thiết yếu hằng ngày như:

Giày, dép, mũ, áo,… là đồ dùng thiết yếu, nhưng đối với những người khác, gia đình

khác thì nhu cầu thiết yếu có thể là xe máy, máy tính, điện thoại, tiền,… Việc pháp luật

quy định như vậy phải chăng tạo nên sự linh hoạt, linh động và đồng thời trao quyền tài

phán cho cơ quan Tòa án trong việc xem xét giải quyết dựa trên hoàn cảnh, điều kiện cụ

thể của từng gia đình khi phát sinh tranh chấp.

Tuy nhiên, việc quy định không rõ ràng lại gây khó khăn khi áp dụng trong thực

tiễn hoặc áp dụng pháp luật không thống nhất, không đảm bảo công bằng. Do đó, tôi

đồng ý với quan điểm cần thiết phải có có hướng dẫn và quy định chi tiết về tài sản phục

vụ nhu cầu thiết yếu để việc áp dụng pháp luật được thống nhất. Theo tôi, có thể hướng

dẫn theo hướng định lượng rõ ràng giá trị của tài sản phục vụ nhu cầu thiết yếu, trường

hợp tài sản phục vụ nhu cầu thiết yếu như khám, chữa bệnh. Cụ thể: “Tài sản phục vụ

nhu cầu thiết yếu là những tài sản phục vụ nhu cầu sinh hoạt thông thường về ăn mặc, ở,

học tập và nhu cầu sinh hoạt bình thường khác không thể thiếu cho cuộc sống có giá trị

dưới 5.000.000 đồng và tài sản để phục vụ nhu cầu khám bệnh, chữa bệnh của mỗi người,

mỗi gia đình”.

3.1.3. Hoàn thiện quy định về hạn chế quyền tài sản riêng của vợ, chồng

Theo tôi, quy định “ vợ , chồng có tài sản riêng mà hoa lợi, lợi tức từ tài sản riêng

đó là nguồn sống duy nhất của gia đình thì việc định đoạt tài sản này phải có sự đồng ý

của vợ, chồng” Khoản 19 điều 4 Luật Hôn nhân và Gia đình 2014 sử dụng khái niệm

“Nguồn sống duy nhất” là chưa hợp lý, vì kể cả khi hoa lợi, lợi tức phát sịnh từ tài sản

riêng chiếm tới 99% nguồn sống của gia điình, thì cũng không phải là nguồn sống duy

nhất. do đó, đề nghị xem xét, chỉnh sửa cụm từ “nguồn sống duy nhất” thành “nguồn

sống chủ yếu” của gia đình, tương tự như quy định “ Việc định đoạt tài sản chung phải

có sự thỏa thuận bằng văn bản của vợ, chồng trong những trường hợp tài sản đang là

nguồn tạo ra thu nhập chủ yếu của gia đình”

3.1.4. Sửa đổi, bổ sung về quy định chia tài sản chung của vợ chồng trong

thời kỳ hôn nhân

Luật Hôn nhân và Gia đình 2014 quy định vợ, chồng hoặc cả hai vợ, chồng có

quyền khởi kiện yêu cầu Tòa án chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân, nhưng lại

không có quy định người thứ ba có quyền yêu cầu Tòa án chia tài sản chung của vợ

chồng trong thời kỳ hôn nhân, tôi cho rằng điều này là chưa hợp lý và chưa phù hợp với

nhu cầu thực tế khi trong chế độ tài sản của vợ chồng hiện nay nảy sinh những mâu thuẩn

mới và này sinh nhiều quan hệ pháp luật giữa chế độ tài sản của vợ chồng đối với bên

thứ ba có liên quan. Bởi lẽ, khoản 3 điều 44 Luật Hôn nhân và Gia đình 2014 quy định:

“ nghĩa vụ riêng về tài sản của mỗi người được thanh toán từ tài sản riêng của người đó”.

Tuy nhiên có trường hợp vợ hoặc chồng không có tài sản riêng hoặc tài sản riêng không

đủ để thực hiện nghãi vụ tài sản riêng của mình nhưng không yêu cầu chia tài sản chung

của vợ chồng như: yêu cầu của người thứ ba có liên quan không được công nhận trong

trường hợp việc chia tài sản chung ảnh hưởng nghiêm trọng đến lợi ích của gia đình hoặc

bản thân vợ, chồng có nghĩa vụ có đủ tài sản riêng để thanh toán các khoản nợ và các

khoản nghĩa vụ tài chính.

Bên cạnh đó, Luật cũng không quy định về người có quyền yêu cầu Tòa án tuyên

bố việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân bị vô hiệu theo quy định tại Điều 42

BLDS và hậu quả pháp lý của việc tòa án tuyên vô hiệu đó. Vì vậy, tội cho rằng, cần

xem xét bổ sung những quy định này nhằm mục đích tạo hành lang cơ sở pháp lý trong

giải quyết vấn đề phát sinh góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật về chế độ tài sản của

vợ chồng.

3.1.5. Sửa đổi, bổ sung về nguyên tắc giải quyết tài sản chung của vợ

chồng khi ly hôn

Về quy định cần phải xét và tính đến yếu tố công sức đóng góp của vợ, chồng vào

việc tạo lập, duy trì và phát triển của khối tài sản chung, thực tiễn xét xử phân chia tài

sản chung của vợ chồng khi ly hôn còn nhiều vướng mắc. Cụ thể, khi xác định công sức

đóng góp trước hết phải xác định vợ, chồng có công sức đóng góp hay không ,nếu có thì

công sức đóng góp bao nhiêu, chiếm bao nhiêu phần trăm của khối tài sản chung. Trong

khi đó công sức đống góp có nhiều loại như công sức tạo lập tài sản, công sức quản lý

tài sản, công sức tôn tạo, phát triển, làm tăng giá trị của tài sản, công sức chăm sóc, nuôi

dưỡng người để lại di sản,… Ngoài ra, xác định công sức đóng góp phải phân biệt với

các chi phí. Chi phí là khoản tiền đã bỏ ra để tôn tạo tài sản như thuê người, mua vật tư,

vật liệu sửa nhà, cải tạo nhà, chi phí chăm sóc, nuôi dưỡng người để lại di sản như: tiền,

ăn, mặc, nước uống, thuốc, chi phí,… đối với các khoản chi phí tính được cụ thể và

thường có hóa đơn, chứng từ chứng minh. Công sức là sức lực, thời gian, tâm huyết,…

mà con người bỏ ra để tôn tạo tài sản, quản lý, giữ gìn tài sản hoặc chăm sóc người đề

lại di sản,… Và công sức không tính toán được cụ thể. Như vậy, nếu chỉ có duy nhất một

quy định là việc phân chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn việc có tính đến yếu tố

công sức đóng góp của vợ, chồng vào việc tạo lập, duy trì và phát triển khối tài sản chung

thì khi áp dụng trong thực tiễn sẽ rất khó khăn trong việc xác định công sức đóng góp

thực tế của vợ, chồng. Do đó, thiết nghĩ nên ban hành quy định hướng dẫn thi hành chi

tiết việc xác định công sức đóng góp của vợ, chồng vào việc tạo lập, duy trì và phát triển

khối tài sản chung thực hiện như thế nào, căn cứ xác định như thế nào thì cần phải sửa

đổi, bổ sung quy định pháp luật cho hợp lý và phù hợp với nhu cầu thực tiễn hiện nay.

3.1.5. Pháp luật về chế độ tài sản cả vợ chồng cần phải sửa đổi, bổ sung có

chọn lọc các quy định pháp luật về chế độ tài sản của vợ chồng của các nước phát

triển trên thế giới

Hiện nay quy định về chế độ tài sản của vợ chồng theo quy định của Luật Hôn nhân

và Gia đình 2014 đã và đang đêm lại nhiều hiệu quả tích cực góp phần nần cáo hiệu quả

công tác áp dụng pháp luật trong thực tiện hiện nay. Tuy nhiên, xã hội luôn không ngừng

phát triển và luôn nãy sinh nhiều quan hệ xã hội mới và phức tạp trong đó có quan hệ về

chế độ tài sản của vợ chồng hiện nay, dù đã được quy định trong luật nhưng hiện nay

chế độ này có nhiều vấn đề phát sinh mà luật chưa quy định chi tiết, rõ ràng, dẫn đến

tình trạng chưa có cơ sở, hành lang pháp lý để giải quyết tranh chấp khi phát sinh. Vì

vậy, thông qua nghiên cứu quy định pháp luật và thực tiễn thực hiện chế độ tài sản của

vợ chồng hiện nay thì tác giả kiến nghị nên sửa đổi, bổ sung có chọn lọc những quy định

tiến bộ của các nước trên thế giới để xem xét áp dụng, nhằm hoàn thiện quy định pháp

luật về Hôn nhân và Gia đình hiện nay.

3.1.6. Ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành và hướng dẫn chi tiết nội

dung điều luật hoặc chỉ dẫn, dẫn chiếu đến quy định pháp luật có liên quan

Hiện nay Luật Hôn nhân và Gia đình tuy đem lại nhiều hiệu quả trong công tác giải

quyết chế độ tài sản của vợ chồng, nhưng hiện nay Luật vẫn còn nhiều thiếu sót và quy

định chưa rõ ràng chi tiết. Vì vậy, tác giả kiến nghị các cơ quan lập pháp, cơ quan có

thẩm quyền trong quản lý và xử lý vấn đề tài sản của vợ chồng ban hành các văn bản

hướng dẫn thi hành Luật Hôn nhân và Gia đình, hướng dẫn về quy định chế độ tài sản,

hướng dẫn về xác định tài sản, hướng dẫn về cách giải quyết tranh chấp tài sản của vợ

chồng đêm lại hiêu quả. Ngoài ra các vấn đề có liên quan trong mối quan hệ tài sản của

vợ chồng mà Luật Hôn nhân Và Gia đình không có quy định nhưng pháp luật khác có

quy định và điều chỉnh thì nên bổ sung hướng dẫn, dẫn chiếu đến quy định hoặc văn bản

quy phạm pháp luật có liên quan để có cở pháp lý giải quyết các tranh chấp tài sản vợ

chồng trong thực tiễn hiện nay.

3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiên chế độ tài sản vợ chồng theo Luật

Hôn nhân và Gia đình hiện nay.

3.2.1. Tổng kết thực tiễn áp dụng Luật Hôn nhân và Gia đình 2014

Công tác tổng kết là công tác vô cùng quan trọng để đánh giá được hiệu quả hay

không hiệu quả những công việc đã làm, đánh giá hiệu quả của Luật Hôn nhân và Gia

đình 2014. Việc tổ chức các hội thảo nghiên cứu, các chuyên đề nghiên cứu có sự tham

gia và tư vấn của các nhà nghiên cứu khoa học pháp luật nhằm tổng kết, phân tích, làm

rõ tình hình thực tiễn, những hạn chế khó khăn và tìm ra những biện pháp khắc phục. Vì

vậy, cần phải thực hiện công tác tổng kết, đánh giá thường xuyên những công việc đã

thực hiện để chủ động tìm ra nguyên nhân và kiến nghị giải pháp giải quyết vấn đề.

Trong giai đoạn hiện nay, nền kinh tế càng ngày càng phát triển, đời sống xã hội ngày

càng nâng cao, tài sản vật chất ngày càng nhiều đáp ứng nhu cầu của con người và xã

hội. Tuy nhiên, cùng với sự phát triển thì quy định pháp luật về chế độ tài sản của vợ

chồng hiện nay thể hiện nhiều thiếu sót cần phải được sữa đổi, bổ sung để đáp ứng nhu

cầu thực tiễn. Vì vậy, công tác tổng kết đánh giá thực tiễn là cơ sở để có những sửa đổi,

bổ sung Luật phù hợp với thực tiễn.

3.2.2. Nâng cao năng lực, đạo đức, chuyên môn nghiệp vụ, hiểu biết pháp

luật của lực lượng áp dụng pháp luật.

Pháp luật là hoạt động xuyên suốt từ lập pháp, hành pháp và tư pháp. Vì vậy, để

pháp luật từ lức ban hành đến khi áp dụng trong thực tế đem lại hiệu quả thì trước tiên

đội ngủ cán bộ, công chức, viên chức trong hoạt động tư pháp phải am hiểu pháp luật,

có chuyên môn nghiệp vụ, năng lực và đạo đức nghề nghiệp thì công tác áp dụng pháp

luật về chế độ tài sản của vợ chồng mới đem lại hiệu quả. Xây dựng chính sách khuyến

khích cán bộ, công chức, viên chức học tập và nâng cao trình độ hiểu biết pháp luật để

áp dụng trong thực tiễn công tác.

3.2.3. Các biện pháp khác

Tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật về Hôn nhân và Gia đình,

đặc biệt là về chế độ tài sản của vợ chồng rộng rãi trong công chúng, để mọi người được

biết và hiểu về quy định pháp luật, từ đó hạn vợ chồng có sự thỏa thuận hợp lý về phân

chia tài sản, hạn chế tình trạng tranh chấp và xét xử quá tài của Tòa án hiện nay.

Tăng cường giáo dục về đạo đức, lối sống, truyền thống dân tộc trong mối quan hệ

Hôn nhân và Gia đình. Từ đó, hạn chế trường hợp các cặp vợ chồng sông ly thân và ly

hôn, hạn chế việc yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn, chia tài sản và các vấn đề liên quan

đến giải quyết tranh chấp trong Hôn nhân và Gia đình.

Xây dựng chính sách về chế độ hôn nhân và gia đình cũng như chế độ tài sản của

vợ chồng phải phù hợp với quy định của BLDS, Luật Hôn nhân và Gia đình, phù hợp

với truyền thống đạo đức dân tộc, phù hợp với nhu cầu thực tiễn của xã hội, xây dựng

nếp sống văn hóa gia đình Việt. Từ đó, làm cơ sở để gia đình ổn định và bảo vệ hạnh

phúc gia đình, hạn chế các vụ ly hôn và tranh chấp tài sản của vợ chồng, ổn định an ninh

trật tự, an toàn xã hội.

KẾT LUẬN CHƯƠNG 3

Dựa vào những lý luận khoa học và cơ sở thực tiễn áp dụng quy định Luật Hôn

nhân và Gia đình về chế độ tài sản của vợ chồng hiện nay. Tác giả đã nghiên cứu và đề

xuất những kiến nghị, giải pháp nhằm hoàn thiện quy định pháp luật Hôn nhân và Gia

đình, góp phần nâng cao hiệu quả áp dụng Luật Hôn nhân và Gia đình hiện nay, hạn chế

các tranh chấp về tài sản của vợ chồng yêu cầu Tòa án giải quyết, giúp hoạt động của tòa

án trong công tác xét xử đêm lại hiệu quả, giúp bảo vệ mối quan hệ vợ chồng, quyền và

nghĩa vụ hợp pháp của vợ chồng trong quan hệ hôn nhân và gia đình hiện nay.

KẾT LUẬN

Chế độ tài sản của vợ chồng hiện nay đã trở thành một chế định hết sức quan trọng

trong Luật Hôn nhân và Gia đình hiện nay và cần phải được xây dựng, hoàn thiện và

nâng cáo hiệu quả công tác áp dụng pháp luật về chế độ tài sản vợ chồng trong thực tiễn.

Do đó, việc phân tích những vấn đề lý luận và nội dung cơ bản của chế độ tài sản của vợ

chồng theo quy định Luật hôn nhân và gia đình 2014 là một vấn đề mang tính khách

quan và cấp thiết hiện nay khi mà Tòa án xét xử các vụ án hôn nhân và gia đình có tranh

chấp về tài sản vợ chồng gặp nhiều khó khăn về quy định pháp luật hiện hành chưa rõ

ràng và hướng dẫn thi hành. Vì vậy, pháp luật về chế độ tài sản vợ chồng cần phải được

nghiên cứu kĩ và dưới nhiều góc độ khoa học để làm rõ chế độ này, từ đó góp phần hoàn

thiện pháp luật về chế độ tài sản của vợ chồng nói riêng và hoàn thiện pháp luật Hôn

nhan và Gia đình Việt Nam nói chung. Qua đó, góp phần xây dựng và phát triển gia đình

hạnh phúc, bền vững.

Với đề tài “Chế độ tài sản của vợ chồng theo quy định pháp Luật Hôn nhân và Gia

đình hiện nay”, luận văn đã nghiên cứu và làm rõ các vấn đề của chế độ tài sản của vợ

chồng theo quy định của pháp luật như sau:

Làm rõ các vấn đề về khái niệm chế độ tài sản vợ chồng dưới nhiều góc độ lý luận

và khoa học, phân tích những đặc điểm, ý nghĩa, cơ sở pháp lý và thực tiễn của chế độ

tài sản vợ chồng theo quy định của Luật hiện hành.

Khái quát chế độ tài sản của vợ chồng theo quy định pháp luật Việt Nam qua các

thời kỳ lịch sử và so sánh chế độ tài sản của vợ chồng ở Việt Nam so với quy định chế

độ tài sản vợ chồng của một số nước trên thế giới như: Pháp, Trung Quốc,... để từ đó có

sự so sánh đánh giá giữa quy định pháp luật Việt Nam và pháp luật của các nước trên

thế giới có điểm gì giống nhau và khác nhau. Từ đó, tiếp thu có chọn lọc và áp dụng

trong thực tiễn.

Phân tích nội dung chế độ tài sản của vợ chồng theo quy định Luật Hôn nhân và

Gia đình 2014. Trên cơ sở kế thừa, phát triển hệ thống pháp luật Hôn nhân và Gia đình

trước đây và đảm bảo sự phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế-xã hội, Luật Hôn nhân

và Gia đình 2014 cũng dự liệu chế độ tài sản vợ chồng theo quy định là chế độ cộng

đồng tạo sản, quy định trong quan hệ tài sản giữa vợ và chồng tồn tạ ba khối tài sản: tài

sản chung của vợ chồng; tài sản riêng của chồng; tài sản riêng của vợ. Luận văn phân

tích các căn cứ xác lập tài sản chung, tài sản riêng của vợ chồng; quyền và nghĩa vụ của

vợ chồng đối với các loại tài sản; quy định về phân chia tài sản chung của vợ chồng khi

ly hôn hoặc một bên vợ, chồng chết trước, phân chia tài sản chung trong thời kỳ hôn

nhân.

Luận văn đã khái quát được tình hình thực tiễn công tác xét xử các vụ án tranh chấp

tài sản vợ chồng ở Tòa án nhân dân. Từ đó, chỉ ra thực trạng gia tăng về số lượng vụ

việc, tính phức tạp về nội dụng, đặc biệt là các tranh chấp về tài sản giữa vợ chồng. Trong

khi đó, những quy định của pháp luật khi áp dụng vào thực tiễn vẫn còn tồn tại tình trạng

áp dụng luật không thống nhất, xâm phạm đến quyền lợi và lợi ích hợp pháp của vợ,

chồng và người thứ ba có liên quan.

Trên cơ sở những nghiên cứu, phân tích, đánh giá nêu trên của luận văn, tác giả đã

chỉ ra thực trạng công tác áp dụng pháp luật về chế độ tài sản của vợ chồng trong thực

tiễn, đặc biệt là trong công tác xét xử của Tòa án về các trang chấp tài sản của vợ chồng.

Từ đó, đưa ra một số kiến nghị nhằm hoàn thiện chế độ tài sản của vợ chồng theo quy

định pháp luật Hôn nhân và Gia đình 2014, góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật và

nâng cao hiệu quả công tác áp dụng pháp luật.

Đây là công trình tác giả nghiên cứu dựa trên những kiến thức lý luận và thực tiễn,

các số liệu tác giả thu thập sau đó tổng hợp và phân tích. Tác giả đã cố gắng, nhưng do

vấn đề nghiên cứu phức tạp, khả năng và kinh nghiệm nghiên cứu còn hạn chế, số liệu

thu thập thực tế còn ít nên khó tránh khỏi những thiếu sót. Thông qua việc nghiên cứu

luận văn này tác giả mong nhận được sự góp ý chân thành của các nhà khoa học và

những người quan tâm đến vấn đề về chế độ tài sản vợ chồng theo quy định Luật Hôn

nhân và Gia đình hiện nay cùng chia sẻ kinh nghiệm và phê bình những thiếu sót để tác

giả rút kinh nghiệm và sửa đổi, sớm hoàn thiện hơn đề tài nghiên cứu./.