ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
–––––––o0o–––––––
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
PHẠM THỊ THU HƢƠNG
MÙA XUÂN TRONG THƠ THIỀN LÝ –TRẦN
LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Hà Nội, 2014
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
–––––––o0o–––––––
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
PHẠM THỊ THU HƢƠNG
MÙA XUÂN TRONG THƠ THIỀN LÝ –TRẦN
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 60 22 01 21
LUẬN VĂN THẠC SĨ
Người hướng dẫn khoa học: GS. TS. Trần Ngọc Vƣơng
Hà Nội, 2014
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin bày tỏ lòng tri ân sâu sắc tới GS.TS Trần Ngọc Vương -
người hướng dẫn nhiệt tâm - đã động viên, chỉ bảo, giúp đỡ tôi hoàn
thành luận văn và trưởng thành hơn trong nghiên cứu khoa học.
Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành tới các thầy cô Khoa Ngữ
văn - Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nh ân văn đã tận tình giảng dạy, trang bị cho tôi vốn kiến thức quý báu.
Cảm ơn bạn bè , ngườ i thân luôn ủng hộ và tin tưởng sự lựa
chọn của tôi.
Hà Nội, tháng 12 năm 2014
Tác giả luận văn
Phạm Thị Thu Hương
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
1. Lí do chọn đề tài ............................................................................................ 1
2. Lịch sử vấn đề ............................................................................................... 2
3. Mục đích, đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................ 9
4. Phương pháp nghiên cứ u ............................................................................... 9 5. Ý nghĩa của luận văn ................................................................................... 10
6. Cấu trúc luận văn ........................................................................................ 10
CHƢƠNG 1 CẢM THỨC MÙA XUÂN VÀ THI CA PHƢƠNG ĐÔNG .... 11
1.1. Cảm thức mùa xuân.................................................................................. 11
1.1.1. Mùa xuân trong tự nhiên ....................................................................... 11
1.1.2. Mùa xuân trong văn hóa ....................................................................... 12
1.1.3. Mùa xuân trong Thiền tông ................................................................... 15
1.2. Mùa xuân trong thi ca phương Đông ....................................................... 19
1.2.1. Mùa xuân trong thơ Đường và thơ Haiku ............................................. 19
1.2.2. Mùa xuân trong thơ ca trung đại Việt Nam .......................................... 27
CHƢƠNG 2 CHỦ ĐỀ MÙA XUÂN TRONG THƠ THIỀN LÝ – TRẦN
......................................................................................................................... 39
2.1. Chủ đề mùa xuân trong thơ Thiền Lý – Trần .......................................... 39
2.1.1. Thiên nhiên mùa xuân ........................................................................... 39
2.1.2. Con người mùa xuân ............................................................................. 44
2.2. Hình tượng mùa xuân ............................................................................... 51
2.2.1. Hoa ........................................................................................................ 51
2.2.2. Thanh âm mùa xuân .............................................................................. 55
2.2.3. Các hình tượng khác ............................................................................. 58
2.3. Triết lí Thiền trong thơ thiền mùa xuân ................................................... 63
2.3.1. Mùa xuân – cảnh giới của Thiền........................................................... 63
2.3.2. Mùa xuân và triết lí vô thường .............................................................. 67
2.3.3. Mùa xuân và triết lí sắc – không ........................................................... 71
CHƢƠNG 3 NGHỆ THUẬT THỂ HIỆN MÙA XUÂN TRONG THƠ
THIỀN LÝ – TRẦN ...................................................................................... 75
3.1. Nghệ thuật miêu tả mùa xuân trong thơ Thiền Lý – Trần ....................... 75
3.1.1. Miêu tả khái quát .................................................................................. 75
3.1.2. Miêu tả chấm phá .................................................................................. 78
3.2. Nghệ thuật tượng trưng về mùa xuân trong thơ Thiền Lý – Trần ................... 82
3.2.1. Tượng trưng của mùa xuân vận hành theo quy luật ............................. 85
3.2.2. Tượng trưng của mùa xuân mang tính phủ đi ̣nh .................................. 89 3.3. Nghệ thuật ẩn dụ về mùa xuân trong thơ Thiền Lý – Trần...................... 91
3.3.1. Ẩn dụ cho “bản thể chân như” ............................................................. 92
3.3.2. Ẩn dụ cho con đường ngộ đạo .............................................................. 95
KẾT LUẬN .................................................................................................... 99
TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................... 102
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Văn học Lý – Trần đặc biệt là phần thơ Thiền có đóng góp lớn lao cho
sự phát triển của nền văn học dân tộc buổi đầu tự chủ. Là kết tinh của một
thời đại văn hóa mà Phật giáo phát triển đến cao độ, thơ Thiền trở thành
phương tiện để truyền tải triết lý Thiền tông. Bên cạnh đó, không chỉ giới hạn
trong nội dung tôn giáo, sự nhạy cảm và tài năng của các bậc Thiền sư đã tạo
nên nhiều tác phẩm độc đáo dung hòa đạo với đời bằng hình tượng đẹp đẽ.
Với những đặc trưng riêng, thơ Thiền Lý – Trần trở thành dòng nước nhỏ hòa
chung với nguồn chảy lớn của văn học trung đại Việt Nam, tạo nên một nền
văn học đa dạng, đặc sắc.
Thiên nhiên là nguồn mạch bất tận gợi hứng cho người nghệ sĩ bao đời,
từ cổ đến kim. Thơ ca thâu nhận thiên nhiên như một lẽ tất yếu bởi sự giao
cảm giữa con người – vũ trụ được xem như một hằng số bất biến của muôn
đời. Qua bức tranh cảnh vật, thi sĩ gửi gắm xúc cảm trước biến chuyển của đất
trời, hay ẩn ngụ tình cảm riêng tư cùng những chiêm nghiệm sâu sắc về cuộc
đời. Trong văn học trung đại, thiên nhiên đóng vai trò quan trọng: đề tài vịnh
vật, vịnh cảnh cùng các thủ pháp “tả cảnh ngụ tình”, “thi trung hữu họa”... trở
thành một sự quy chiếu có tính chất bắt buộc. Như vậy, thiên nhiên đã trở
thành một yếu tố có tính quy phạm của văn chương. Không nằm ngoài quy
luật chung, hình ảnh thiên nhiên trong thơ Thiền Lý – Trần xuất hiện với tần
số cao, ẩn chứa những ý niệm sâu sắc. Tuy nhiên, cảnh vật được soi chiếu
dưới ánh quang của Thiền nên vẫn mang sắc thái riêng biệt. Nó không chỉ là
khách thể bên ngoài mà được chuyển thành chủ thể bên trong. Các tác giả sử
dụng thiên nhiên như một phương tiện để truyền tải Thiền lý, đưa người tu
học tìm được bản thể chân như, hay biểu hiện những xúc cảm thế sự mang ý
1
vị Thiền.
Mùa xuân trong thơ Thiền vừa mang ý nghĩa thời gian chảy trôi của tạo
hóa, vừa gợi cảm thức không gian biến chuyển không ngừng của muôn vật.
Nó kết đọng cao độ tinh thần ngộ đạo, thể hiện triết lí sâu sắc của Phật pháp
và trong nhiều trường hợp đem đến những rung động tinh tế, hấp dẫn, đậm đà
tính nhân văn.
Có thể thấy mùa xuân có vị trí quan trọng trong giáo lý Thiền học và
thơ Thiền Lý – Trần, song lại chưa được nghiên cứu một cách chỉnh thể. Do
đó, chúng tôi chọn đề tài “Mùa xuân trong thơ Thiền Lý – Trần”, với
mong muốn góp một phần nhỏ trong việc khai mở ý vị uyên áo của Thiền về
mùa xuân – đối tượng được thể nghiệm và chứng ngộ trong thi ca.
2. Lịch sử vấn đề
2.1. Nghiên cứu về thơ Thiền Lý – Trần
Trong dòng chảy văn học trung đại Việt Nam nói chung, văn học Lý –
Trần nói riêng, thơ Thiền là bộ phận quan trọng, có đóng góp không nhỏ cho
diện mạo văn học thời đại và dân tộc. Trên thực tế, có không ít giáo trình,
chuyên luận, bài viết... tìm hiểu đặc điểm, giá trị, ý nghĩa của thể loại văn học
độc đáo này. Do giới hạn thời gian, chúng tôi chưa có điều kiện bao quát tất
cả các công trình nghiên cứu đã có. Ở phần này, chúng tôi chỉ điểm qua mấy
nét chính về tình hình nghiên cứu thơ Thiền Lý – Trần thông qua những tài
liệu thu thập được.
Ở góc độ khảo cứu, sưu tầm, văn học Lý – Trần và thơ Thiền giai đoạn
này được ghi chép từ sớm, từ Tinh tuyển chư gia luật thi (Dương Đức Nhan),
Trích diễm thi tập (Hoàng Đức Lương) ở thế kỉ XV, tiếp đó là Khóa hư Lục
(Trần Thái Tông), Thiền uyển tập anh ngữ lục (khuyết danh)... ở thế kỉ XVI –
XVIII... Sang thế kỉ XX, việc sưu tầm, giới thiệu thơ Thiền ghi dấu ấn quan
trọng bằng việc ra đời bộ Thơ văn Lý Trần (ba tập) do nhóm tác giả Viện Văn
học thực hiện. Trong bộ sách, phần khảo luận văn bản của Nguyễn Huệ Chi
2
có đóng góp lớn cho việc thu thập tác phẩm văn học Lý – Trần. Tác giả đã thu
thập được gần 1000 bài thơ và trích đoạn thơ, gần 250 bài văn và trích đoạn
văn, thông qua đó, giới thuyết diện mạo văn học giai đoạn này trên các
phương diện nội dung và thể loại văn học. Đến năm 2004, thơ văn Lý – Trần
được tuyển chọn và sưu tầm lại trong cuốn Tinh tuyển văn học Việt Nam (tập
3) do Nguyễn Đăng Na chủ biên.
Nghiên cứu Thơ Thiền Lý – Trần đã có một quá trình lâu dài, được đề
cập qua các ý kiến nhận định trong các công trình khái quát như Việt Nam văn
học sử yếu (1941) của Dương Quảng Hàm, Việt Nam cổ học văn sử (1942)
của Nguyễn Đổng Chi, Văn học đời Lý và đời Trần của Ngô Tất Tố... hay các
bài viết như Tìm hiểu thơ văn các nhà sư Lý – Trần (1965) của Kiều Thu
Hoạch... Tuy nhiên, phải từ sau năm 1975, thơ Thiền mới được xem như một
đối tượng thẩm mĩ, một loại hình nghệ thuật độc đáo, được tiếp cận, đánh giá
ở nhiều góc độ khác nhau.
Về loại hình tác giả, Nguyễn Phạm Hùng quan tâm tới tính loại biệt:
“tác giả thơ Thiền chủ yếu là các thiền sư và những người am hiểu sâu sắc về
đạo Phật” [24; 33]. Trần Nho Thìn trong Văn học Việt Nam từ thế kỉ X đến hết
thế kỉ XIX khẳng định: “các nhà sư – thi tăng – chiếm một tỉ lệ lớn trong đội
ngũ tác giả văn học giai đoạn đầu của văn học trung đại Việt Nam” [66; 179],
“Các thiền sư còn là những thi sĩ tài năng, học vấn uyên bác, có tầm quan sát,
hiểu biết cuộc sống, nắm vững các học thuyết, tư tưởng triết học và tôn giáo,
sử dụng ngôn ngữ linh hoạt” [66; 187]. Còn tác giả Đỗ Thu Hiền qua Các loại
hình tác giả trong văn học thời Lý – Trần (in trong cuốn Văn học Việt Nam
thế kỉ X – XIX – những vấn đề lí luận và lịch sử) thì phân tích diện mạo tác
giả văn học Lý – Trần theo hai hướng: “Thiền sư – những nhà trí thức đầu
tiên của thời độc lập” [84; 385] và quý tộc nhà Trần: “thay thế địa vị của các
nhà sư trong buổi ban đầu là tầng lớp quý tộc, võ tướng” [84; 389].
Ở phương diện nội dung, Phạm Ngọc Lan quan tâm đến Chất trữ tình
3
trong thơ Thiền đời Lý qua việc “ghi lại những giờ phút êm đềm, những
khoảnh khắc xao động trong tâm hồn của các nhà sư – thi sĩ trước cuộc sống”
[34; 92]. Khái quát hơn, các tác giả giáo trình Văn học Việt Nam (thế kỉ X
– nửa đầu thế kỉ XVIII) nhận định thơ Thiền đời Lý “gắn với triết lý Phật
giáo” [32; 60], tuy nhiên có khi “nội dung vượt ra khỏi phạm vi giáo lý”,
thể hiện cái nhìn tinh tế và đầy xúc động đối với thiên nhiên” [32; 60] của
các thiền sư.
Cuốn Thơ Thiền Việt Nam – Những vấn đề lịch sử và tư tưởng nghệ
thuật của Nguyễn Phạm Hùng là chuyên luận mang tính tổng quát nghiên cứu
thơ Thiền Việt Nam, trong đó có thơ Thiền Lý – Trần. Đặc điểm chung của
thơ Thiền xét về giá trị tư tưởng được đề cập tới thông qua hai bộ phận thơ
Thiền thiên về triết lí và thiên về trữ tình, tư tưởng “hòa quang đồng trần”
cũng như tinh thần “tam giáo”. Bên cạnh đó, tác giả nhận định thơ Thiền đời
Lý “chủ yếu đi vào giải thích, triết lý về các tư tưởng Phật giáo, ca ngợi nhà
Phật” và “ít nhiều là những cảm xúc trước thiên nhiên, cuộc sống...” [24; 89].
Còn thơ Thiền đời Trần “vừa mang tính triết lý, vừa mang tính trữ tình, mang
tinh thần nhập thế tích cực” [24; 133]. Sau này, trong cuốn Các khuynh hướng
văn học thời Lý – Trần, Nguyễn Phạm Hùng nhấn mạnh thêm thơ Thiền “như
một sự tổng kết toàn bộ nhận thức, tri thức và cả xúc cảm của nhà tu hành
trong cuộc đời hành đạo” [24; 46].
Trong Những sáng tác văn học của các Thiền sư thời Lý – Trần [68],
Thích Giác Toàn không tách thơ Thiền thành thể loại riêng mà xem xét giá trị
tư tưởng trong sáng tác văn học nói chung của các Thiền sư trên phương diện
tinh thần nhân bản và tinh thần dân tộc. Tác giả nghiên cứu “sự hiện hữu của
con người và cảm nhận về thân phận con người trong cuộc sống”, cảm nhận
về thiên nhiên, “giáo lý giác ngộ quy luật sanh tử” cũng như “tính truyền
thống dân tộc trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước”, “tinh thần độc lập tự
do” và “tinh thần phụng sự lí tưởng hòa bình”. Chuyên luận đề cập tới thơ
4
Thiền như một bộ phận trong sự khái quát văn học Lý – Trần còn phải kể đến
Văn học Phật giáo Lý – Trần – Diện mạo vào đặc điểm của Nguyễn Công Lý
[37]. Trong chương ba (Đặc điểm văn học Phật giáo Lý – Trần), tác giả đề
cập đến “kiểu tư duy trực cảm tâm linh”, “tinh thần dung hợp các hệ tư
tưởng”, nội dung “thể hiện giáo lý nhà Phật”, cảm hứng về đất nước, quan
niệm con người và cảm hứng thiên nhiên, góp phần khẳng định giá trị nội
dung – tư tưởng của văn học Phật giáo Lý – Trần nói chung, thơ Thiền giai
đoạn này nói riêng.
Xét về nghệ thuật, Trần Nho Thìn cho rằng: “Nhiều Thiền sư Việt Nam
một mặt dùng thi kệ, kể cả hình thức thơ sấm vĩ để tuyên truyền giác ngộ, kể
cả sử dụng cho phục vụ chính trị; mặt khác cũng sáng tác nên những bài thơ,
những hình tượng đẹp, có tính chất nghệ thuật cao, thiên về sử dụng các hình
ảnh sinh động đầy thi ý làm ngôn ngữ biểu hiện đạo lý” [66; 186]. Nguyễn
Phạm Hùng quan tâm đến tượng trưng, ước lệ: “hình ảnh tượng trưng, ước lệ
trong thơ Thiền là kết quả của những cảm xúc bột phát, tức thời”, “làm nên
cái đẹp của thơ Thiền” [24; 64]. Đặc biệt, Khảo sát đặc trưng nghệ thuật của
thơ Thiền Việt Nam thế kỉ X – XIV [77] của Đoàn Thị Thu Vân đã đi sâu khai
thác phần nghệ thuật thơ Thiền trên cơ sở những đặc điểm: ngôn ngữ, thể loại,
thế giới hình tượng, không gian, thời gian, giọng điệu...
Ở góc độ thi pháp, các nhà nghiên cứu, phê bình chú ý nhiều tới quan
niệm nghệ thuật về con người trong thơ Thiền Lý – Trần. Nguyễn Phạm Hùng
khái quát “con người trong thơ Thiền là con người lưỡng thể, nó là sự hòa
nhập của con người Phật giáo và con người cá nhân” [24; 65]. Đoàn Thị Thu
Vân trong bài viết Quan niệm con người trong thơ Thiền Lý – Trần [76] đưa
ra các luận điểm “con người tự do”, “con người – vô ngã”, “con người vô
ngôn”, “có xu hướng muốn đạt đến con người – vũ trụ”. Nguyễn Viết Ngoạn
trong chuyên luận khái quát Văn chương Việt Nam truyền thống với sự phản
ánh con người nhận định: “Con người trong thơ Thiền Lý – Trần, bên cạnh
5
nét chung của con người cộng đồng yêu nước, thượng võ, nó còn là biểu
tượng một hoài niệm, một cảm nhận sâu sắc trước sự hư huyễn cuộc đời” [42;
48]. Với công trình Mấy vấn đề thi pháp văn học trung đại Việt Nam [55],
Trần Đình Sử cũng nhận xét khái quát: con người “coi biến đổi như không,
không sợ hãi, không kinh ngạc...”, “con người Thiền học còn khao khát được
tiêu dao tự tại, giải thoát mọi hữu hạn trần tục để đạt được cái tuyệt đối của
thế giới”. Bên cạnh đó, tác giả còn đề cập đến thời gian vũ trụ bất biến”,
không gian “thanh nhàn”, “thoát tục” trong thơ Thiền.
Những hướng nghiên cứu khác nhau đã đem đến các cách giải mã
phong phú, góp phần phát hiện vẻ đẹp cũng như giá trị của thơ Thiền Lý –
Trần. Ngoài phương diện như trên, giới nghiên cứu còn nhìn nhận thơ Thiền ở
góc độ văn hóa – tư tưởng như Trần Nho Thìn trong Văn học trung đại Việt
Nam dưới góc nhìn văn hóa [65], Tầm Vu trong Tìm hiểu đặc điểm của tư
tưởng Phật giáo Việt Nam trong thời đại Lý – Trần qua các tác phẩm văn
học, Nguyễn Huệ Chi trong Các yếu tố Nho – Phật – Đạo được tiếp thu và
chuyển hóa như thế nào trong đời sống tư tưởng và văn học thời Lý – Trần
[9]; từ sự đối sánh với thơ Thiền của các nền văn học khác như Lê Từ Hiển
trong bài viết Basho (1644 - 1694) và Huyền Quang (1254 – 1334) – Sự gặp
gỡ mùa thu hay sự tương hợp về cảm thức thẩm mĩ [18], Trịnh Thị Tâm trong
Thơ hai – cư Nhật Bản và thơ Thiền Việt Nam – Những tương đồng và dị biệt
[58], Đoàn Thị Thu Vân trong chương 3 của công trình Khảo sát đặc trưng
nghệ thuật của thơ Thiền Việt Nam thế kỉ X – XIV [77] so sánh thơ Thiền Lý –
Trần với thơ Thiền Trung Quốc và Nhật Bản, Tăng Kim Huệ trong luận văn
Thạc sĩ Thơ Thiền Việt Nam thời Lý – Trần trong so sánh với thơ Thiền Nhật
Bản...
Bên cạnh đó, thơ Thiền còn được nghiên cứu ở góc độ tác giả, tác phẩm
với số lượng bài viết đa dạng, phong phú như: Câu chuyện Huyền Quang và
cách đọc thơ thiền của Đỗ Văn Hỷ [30]; Trần Tung – một gương mặt lạ trong
6
làng thơ thiền thời Lý - Trần [8], Mãn Giác và bài thơ nổi tiếng của ông [11]
của Nguyễn Huệ Chi, Huyền Quang – nhà thơ, thi sĩ của Nguyễn Phương Chi
[12], Thiền sư Huyền Quang và con đường trầm lặng của mùa thu của
Thích Phước An [1], Trần Nhân Tông và cảm hứng Thiền trong thơ của
Phạm Ngọc Lan [35], Sự đan xen các khuynh hướng thẩm mĩ trong thơ
Huyền Quang – nghiên cứu trường hợp sáu bài thơ vịnh cúc của Nguyễn
Kim Sơn [53]... Các bài viết đề cập, lí giải về con người, tư tưởng cũng
như giá trị thơ văn của các thiền sư, cung cấp cho người đọc cái nhìn cụ thể
về tác giả, tác phẩm tiêu biểu.
Nhìn chung, thơ Thiền Lý – Trần được tiếp cận, soi chiếu ở nhiều
góc độ, phương diện khác nhau. Đây sẽ là những gợi ý quý báu giúp chúng
tôi có cái nhìn bao quát về giá trị cũng như ý nghĩa của thể loại văn học
độc đáo này.
2.2. Nghiên cứu về mùa xuân trong thơ Thiền Lý – Trần
Mùa xuân trong Thơ Thiền Lý – Trần bước đầu đã được đề cập tới.
Đánh giá chung về mùa xuân trong thơ Thiền Lý – Trần phải kể đến Khảo sát
nghệ thuật thơ Thiền Việt Nam từ thế kỉ X – XIV của Đoàn Thị Thu Vân. Ở
góc độ thi liệu, mùa xuân gắn kết, song hành với mùa thu: “cặp hình ảnh xuân
– thu thường đi liền với nhau để biểu tượng cho quy luật sinh trưởng và tàn
lụi của vạn vật” [77; 88]. Ở hai mùa này, “sinh vật đang phát triển theo hai
hướng ngược nhau nhưng chưa phải đến tột độ để dừng lại và sắp biến đổi về
chất” [77; 94]. Trong bài viết Tản mạn Xuân – Thu và triết lí thơ thiên nhiên
thời Lý – Trần đăng trên tạp chí Nghiên cứu tôn giáo, số 4 – 2009, Hà Thúc
Minh cũng không tách rời mùa xuân khỏi mối quan hệ với thu. Xuân – Thu
gắn với cảm thức thời gian, thông qua đó thể hiện triết lí Phật giáo. Theo tác
giả, “thi sĩ Thiền tông trước hết vẫn là con người “thế gian” nhưng lại là “xuất
thế gian” của “thế gian”, cho nên càng cảm nhận được Xuân – Thu của Đất,
Trời, Xuân – Thu của con người, của nhân tình thế thái nhưng lại từ triết lí
7
của “đạo” chứ không phải của đời” [39; 7].
Mùa xuân trong thơ Thiền không nằm ngoài mạch chảy thiên nhiên,
cảnh vật. Các bài viết, công trình nghiên cứu thường dẫn các ý thơ, các thi
phẩm viết về thiên nhiên, mùa xuân làm minh chứng cho các luận điểm được
nêu ra. Trong Thi kệ và thủ pháp văn học, Nguyễn Phạm Hùng nhắc tới Cáo
tật thị chúng của Thiền sư mãn Giác như là minh chứng cho việc “sử dụng rất
thành công các thủ pháp tượng trưng, ước lệ để trình bày một cách sinh động
cái bất biến của bản thể trước sự vạn biến của đời người và cảnh vật” [28; 31].
Nguyễn Kim Sơn – Trần Thị Mỹ Hòa trong Mấy phương diện thẩm mĩ của
thơ Nho gia và Thiền gia (in trong Văn học Việt Nam thế kỉ X – XIX – những
vấn đề lí luận và lịch sử), qua hai bài thơ xuân của Trần Nhân Tông (Mộ xuân
tức sự, Xuân vãn) cho rằng mùa xuân ở đây là “mùa xuân vĩnh cửu”, “không
gian siêu thế, an tĩnh, hằng nhiên”, thể hiện “con người trong trạng thái vô
ngôn, vô sự” [84; 370]. Trong Thiền Trúc Lâm qua văn thơ chữ Hán (in trong
cuốn Thiền học đời Trần), Thích Thanh Từ dẫn bài thơ Xuân cảnh của Trần
Nhân Tông để chứng minh “cảnh trí được diễn tả và cảm nhận lý thiền một
cách thâm trầm” [45; 45]. “Với bốn câu thơ, Trúc Lâm đã khéo đưa cảnh
xuân vào đạo Thiền một cách nhuần nhuyễn” [45; 46]...
Mùa xuân trong thơ Thiền Lý – Trần còn được đề cập tới ở qua sự phân
tích tác phẩm cụ thể. Cáo tật thị chúng là bài thơ hay viết về mùa xuân của
Mãn Giác Thiền sư. Nguyễn Huệ Chi trong bài viết Mãn Giác và bài thơ
Thiền nhận định: “Tác giả khéo hình tượng hóa thời gian và đời người bằng
hai đại lượng rất giàu thi hứng xuân và hoa”.
Nghiên cứu Trần Nhân Tông với cảm hứng mùa xuân, Nguyễn Công
Lý nhận định thơ xuân Trần Nhân Tông có khi là “những ý xuân, cảnh xuân
bất chợt”; có khi là “những vần thơ trực tiếp tả cảnh mùa xuân, bộc lộ tình
xuân”... Tác giả giới thiệu, đánh giá về ba bài thơ Xuân hiểu, Xuân cảnh và
Xuân vãn gắn với những chặng đời quan trọng của vị Tổ Thiền phái Trúc
8
Lâm để đưa ra kết luận: “Thơ là tiếng lòng, là tiếng nói của thi nhân trước
hiện thực... Cảm hứng mùa xuân trong thơ của nhà vua – thi nhân – Thiền sư
– vị Phật hoàng Trần Nhân Tông là như thế” [38].
Nhìn chung, vấn đề mùa xuân trong thơ Thiền Lý – Trần được đề cập,
soi chiếu từ góc độ triết lí Thiền tông hoặc từ góc độ nghệ thuật (thi liệu). Tuy
nhiên, đó mới chỉ là những nhận định mang tính khái quát trong các bài giới
thiệu tác phẩm cụ thể hoặc trong các công trình nghiên cứu thơ Thiền nói
chung. Chúng tôi nhận thấy chưa có công trình, bài viết nào nghiên cứu mùa
xuân trong thơ Thiền Lý – Trần như một đối tượng khoa học thực sự. Vì vậy,
thực hiện đề tài này, chúng tôi hi vọng góp thêm một cách tiếp cận giá trị thơ
Thiền và có thêm tri thức quý báu cho sự nghiệp hoằng pháp độ sinh.
3. Mục đích, đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Thực hiện đề tài này, chúng tôi tập trung tìm hiểu mùa xuân trong thơ
Thiền Lý – Trần ở hai bình diện: chủ đề, đề tài và nghệ thuật thể hiện mùa
xuân, từ đó góp phần khẳng định đóng góp độc đáo của thơ Thiền Lý – Trần
trong văn học trung đại nói chung, đồng thời có thêm hiểu biết về triết lí và
một vài nét đặc sắc củ a Phật giáo dân tộc. 3.2. Đối tượng nghiên cứu
Chúng tôi tìm hiểu mùa xuân trong thơ Thiền Lý – Trần ở các biểu
hiện: mùa xuân trong thiên nhiên và trong Thiền, hình tượng mùa xuân, qua
đó thấy được những triết lí Phật giáo được tác giả gửi gắm. Bên cạnh đó, tìm
hiểu các phương diện như nghệ thuật miêu tả, ước lệ, tượng trưng, so sánh...
thể hiện nội dung trên.
3.3. Phạm vi nghiên cứu
Về phạm vi tư liệu, chúng tôi khảo sát các bài thơ viết về mùa xuân củ a các Thiền sư thời Lý – Trần (khoảng từ thế kỉ XI – XIV) có trong Thơ văn Lý
– Trần (3 tập) của Viện Văn học, Nxb Khoa học xã hội, năm 1977 - 1988.
9
4. Phƣơng phá p nghiên cƣ́ u Chúng tôi sử du ̣ng mô ̣t số phương pháp nghiên cứ u cơ bản sau:
– tổng hơ ̣p : được dùng trong việc phân - Phương pháp phân tích
tích các luận chứng, từ đó có những đánh giá và kết luận khách quan và
khoa học.
- Phương pháp so sánh: nhằm tìm ra những nét chung phổ quát của
mùa xuân trong thi ca phương Đông cũng như nét riêng độc đáo của mùa
xuân trong thơ Lý – Trần.
- Phương pháp liên ngành: mùa xuân trong thơ Thiền không tách rời
văn hóa tư tưởng phương Đông và có liên quan chặt chẽ đến Phật giáo. Vì
vậy, khi thực hiện đề tài, chúng tôi kết hợp với phương pháp của các ngành
khoa học khác như: triết học, tôn giáo, văn hóa học...
5. Ý nghĩa của luận văn
Trên cơ sở tìm hiểu các biểu hiện của mùa xuân trong thơ Thiền ở
phương diện chủ đề, đề tài và những nét đặc sắc nghệ thuật, chúng tôi muốn
góp thêm một cái nhìn, cách tiếp cận bộ phận thơ Thiền Lý – Trần Việt Nam.
Đây cũng là luận văn chuyên biệt đầu tiên khai thác mùa xuân trong thơ Thiền
Lý – Trần một cách hệ thống.
6. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần Mở đầu , Kết luâ ̣n, Tài liệu tham khảo, nô ̣i dung củ a luâ ̣n
văn gồm ba chương:
Chương 1: Cảm thức mùa xuân và thi ca phương Đông
Chương 2: Chủ đề mùa xuân trong thơ Thiền Lý – Trần
10
Chương 3: Nghệ thuật thể hiện mùa xuân trong thơ Thiền Lý – Trần
CHƢƠNG 1
CẢM THỨC MÙA XUÂN VÀ THI CA PHƢƠNG ĐÔNG
1.1. Cảm thức mùa xuân
1.1.1. Mùa xuân trong tự nhiên
Mùa xuân là mùa đầu tiên trong năm, mang những đặc điểm chuyên
biệt về khí hậu thời tiết, gắn liền với sự sinh trưởng và phát triển của các loài
động thực vật. Mùa xuân ở Việt Nam có những nét riêng về mặt địa lí so với
mùa xuân của các nước thuộc vùng khí hậu ôn đới, với bốn mùa rõ rệt và mùa
đông băng giá.
Mùa xuân là một trong bốn mùa trong năm (xuân, hạ, thu, đông), vốn
được phân chia để tách biệt về sự thay đổi thời tiết và chuyển biến của các
loài động vật và thực vật. Trong thiên văn học, mùa xuân được xem là bắt đầu
từ thời điểm diễn ra xuân phân (khoảng 21 tháng 3 ở Bắc bán cầu và 23 tháng
9 ở Nam bán cầu) và kết thúc vào thời điểm diễn ra tiết hạ chí (khoảng ngày
21 tháng 6 ở Bắc bán cầu và 21 tháng 12 ở Nam bán cầu). Ở Việt Nam cũng
như các nước chịu ảnh hưởng của nền văn minh Trung Hoa (Nhật Bản, Triều
Tiên) người ta tính mùa xuân bắt đầu từ thời điểm diễn ra tiết lập xuân và kết
thúc vào thời điểm diễn ra tiết lập hạ (khoảng từ tháng 2 đến tháng 5).
Khí hậu mùa xuân tương đối ôn hòa, ấm áp, gió mưa điều hòa. Vào
mùa xuân, Trái đất nghiêng dần về phía mặt trời, nên nơi bán cầu đang có
mùa xuân sẽ được sưởi ấm, cung cấp đủ ánh nắng cần thiết làm cho các loài
cây đâm chồi, nở hoa, chim muông cầm thú sinh sản thuận lợi.
Mùa xuân là mùa nở hoa của đa số các loài thảo mộc. Các loài hoa tiêu
biểu của mùa xuân: thủy tiên, hoa mai, hoa đào,… Các loài hoa này thường
nở rực rỡ vào mùa xuân khi tiết trời ấm áp. Bởi nở vào mùa xuân, vượt qua
được gió tuyết của mùa đông nên các loài hoa này thường là dấu hiệu của
11
mùa xuân, của sự hồi sinh, mang ý nghĩa của lời chúc may mắn, thịnh vượng.
Các loài động vật tuy có thể sinh sản vào các mùa khác trong năm (nhất
là các loài có tần số sinh sản cao và chu kì sinh sản ngắn), nhưng nhìn chung
mùa xuân vẫn là mùa sinh sản mạnh nhất. Mùa xuân có đủ các điều kiện
thuận lợi cho sự sinh sản và sinh trưởng như khí hậu ấm áp, thảm thực vật
phát triển tạo nên nguồn thức ăn dồi dào. Sau một mùa đông băng giá, khan
hiếm thức ăn, các loài động vật chờ đợi cho mùa xuân đến để nạp nguồn năng
lượng tràn trề và sinh sản, tiếp tục phát triển giống loài. Từ các loài thú như
hổ, báo… cho đến các loài chim như: én, oanh,… đều sinh sản mạnh vào mùa
xuân. Vào mùa xuân chim én chao lượn, ngược xuôi làm tổ và tìm thức ăn
cho chim con, do đó cũng được xem là biểu tượng báo hiệu mùa xuân về.
Chim oanh cũng là loài có sự sinh sản mạnh trong mùa xuân, rộn ràng cất
tiếng hót sau những lùm cây. Sự xuất hiện của những loài chim là dấu hiệu rõ
ràng hơn cả cho thấy sự sinh sôi của các loài vật trong sự phát triển của hoa
cỏ xuân.
Trong sự hòa quyện của khí hậu ấm áp, muôn hoa khoe sắc, cây cối
đâm chồi nảy lộc, chim muông rộn ràng, mùa xuân của đất trời tươi mới, con
người cũng theo nhịp của muôn loài mà bừng dậy sức xuân với sự háo hức,
hoan ca cùng những nghi lễ vui chơi truyền thống và chuẩn bị cho một mùa
sản xuất nông nghiệp mới.
Như vậy, mùa xuân về mặt tự nhiên là mùa của khí hậu ấm áp, ôn hòa,
với sự sinh trưởng và phát triển mạnh mẽ của các loài cả động vật và thực vật.
Sự đổi thay của thiên nhiên trong mùa xuân cũng góp phần cho sự đổi thay
vui mừng háo hức của tâm hồn con người trước tiết xuân.
1.1.2. Mùa xuân trong văn hóa
Trong sự chuyển biến của muôn vật qua bốn mùa, người xưa đã có ý
niệm về thời gian chảy trôi, quy luật tuần hoàn của thiên địa. Bốn mùa xuân,
hạ, thu, đông vạn vật đổi thay từ sinh đến diệt, là nền tảng khái quát nên
12
những tư tưởng, học thuyết về con người, vũ trụ và nhân sinh. Xuân là thời
gian của sự sinh, bắt đầu của một chu trình sinh diệt mới trong năm. Ý niệm
về khởi đầu, những điều tốt đẹp cùng sự sinh sôi luôn được gắn với mùa xuân.
Có thể tìm thấy ý niệm cảm quan về mùa xuân qua việc tìm hiểu về cấu
tạo từ, và ngũ hành âm dương – học thuyết về sự sinh biến của vạn vật. Về
mặt từ nguyên, “xuân” trong chữ Hán phồn thể ( ) “gồm có bộ Thảo (thực
vật), chữ Đồn ( ) có nghĩa là mọc, sinh trưởng, và chữ Nhật là mặt trời. Có
nghĩa là mùa mà cây cỏ sinh sôi nảy nở dưới ánh mặt trời”. [Tản mạn Xuân –
Thu và triết lí thơ thiên nhiên thời Lý – Trần, Hà Thúc Minh; 8]. Còn theo
Hán Việt tự điển, xuân là “đầu bốn mùa, muôn vật đều có cái cảnh tượng hớn
hở tốt tươi” [14; 323]. Từ “xuân” cho thấy cảm quan của người xưa về tính
chất sinh sôi của muôn vật trong mùa. Trong ngũ hành, sự sinh hóa của vạn
vật dựa trên năm nguyên tố cơ bản (kim, mộc, thủy, hỏa, thổ), mùa xuân được
cho thuộc hành Mộc, do yếu tố trưởng sinh rõ nét của cây cối sau mùa đông
gió tuyết. Như vậy, mùa xuân trong nhận thức chung của người xưa là sự sinh
sôi của cây cỏ. Từ đó, phái sinh các ý niệm khác như sự khởi đầu của chu
trình, sự trưởng sinh tốt lành, gắn với xúc cảm hân hoan của con người.
Phương Tây gặp gỡ với phương Đông cùng với những ý niệm về mùa
xuân. Trong thần thoại Hi Lạp, nữ thần mùa xuân Persephone là con gái của
thần mùa màng Demeter và là vợ của thần âm phủ Hades. Nữ thần mùa xuân
chỉ ở với chồng một phần ba hoặc một nửa thời gian của năm. Đó là thời gian
của mùa đông băng giá, mùa của sự diệt. Sau đó Persephone trở về mặt đất,
được mẹ là thần mùa màng vui mừng đón chào, làm muôn vật tốt tươi. Đó là
mùa xuân, gắn với niềm vui trong sự giao hòa, sinh sôi của mùa màng, cây
cỏ. Con người phương Đông và phương Tây đều có chung những ý niệm về
mùa xuân, với sự sinh sôi, niềm vui của thiên nhiên, đất trời và lòng người.
Đối với văn hóa phương Đông, mùa xuân có ý nghĩa quan trọng, đánh
dấu cho sự bắt đầu của một năm, mang theo mong muốn khởi đầu tốt đẹp của
13
con người. Lễ hội truyền thống được tổ chức vào mùa xuân tương đối phổ
biến: Tết Nguyên Đán của Trung Hoa hay Việt Nam, hoặc ở Nhật Bản (lễ hội
hoa anh đào). Đây là những lễ hội quan trọng trong năm, nhằm cầu mong
một năm mới an lành. Như vậy, mùa xuân có vai trò quan trọng trong đời
sống văn hóa, tín ngưỡng cũng như cảm quan chung của con người Á
Đông. Nó chi phối sâu rộng và lan tỏa mạnh mẽ, trở thành nguồn cảm hứng
bất tận cho văn chương.
Cảm thức về bốn mùa là nhận thức về sự vận động của thời gian và sự
đổi thay của cảnh vật. Thời gian mang tính tuần hoàn. Thiên nhiên tùy các
mùa mà có sự khác biệt rõ rệt. Đó là sự bắt đầu sinh sôi của cỏ cây muôn loài
trong mùa xuân, xanh tươi trong mùa hạ, chuyển màu, rụng lá vào mùa thu và
héo úa trong mùa đông. Bốn mùa là biểu trưng cho sự sinh thành, phát triển
và diệt vong của muôn loài trong một chu trình, được khái quát thành quy luật
sinh diệt của tạo hóa. Con người đặt ra các mùa từ sự quan sát quy luật đổi
thay của thiên nhiên đất trời chứ không phải từ sự quy ước mang tính chất võ
đoán. Mùa xuân ở Nhật Bản được tính từ khi những cây mận đầu tiên ra hoa
và kết thúc khi những bông hoa anh đào cuối cùng ở phía bắc rơi xuống
(khoảng từ tháng ba đến tháng năm). Thiên nhiên trở thành thước đo quan
trọng nhận diện thời gian. Sự đổi thay của cảnh sắc thiên nhiên gắn liền với
chuyển biến của mùa như một lẽ tất yếu. Ý niệm về bốn mùa trong năm bởi
vậy gắn với ý niệm về sự tuần hoàn của thời gian và đổi thay của cảnh vật.
Trong sự tương quan giữa các mùa trong năm, mùa xuân giữ vai trò
khởi đầu quá trình từ sinh đến diệt. Bốn mùa xuân hạ thu đông theo quy luật
“thành, thịnh, suy, hủy” được quan niệm “xuân sinh, hạ trưởng, thu thu, đông
tàn”. Mùa xuân và mùa thu là cặp mùa thường đi liền với nhau, bởi xu hướng
tiến triển mang tính chất đối cực của chúng. Mùa xuân mang tính dương, là sự
sinh ở giai đoạn khởi đầu hưng thịnh, còn mùa thu mang tính âm, là bắt đầu
của quá trình tàn lụi chuyển dịch về phía diệt. Xuân thu là âm dương đang
14
trong quá trình phát triển, tăng tiến, chưa dừng lại. Chúng có tính chất của sự
vận động, khác với mùa hạ là tột cùng của sự thịnh, mùa đông là tột cùng của
sự diệt. Do đó, xuân thu được dùng để biểu thị cho sự vận động không ngừng
của tự nhiên.
Tóm lại, mùa xuân là mùa khởi đầu sinh sôi, hưng thịnh, có vị trí quan
trọng đối với đời sống văn hóa tinh thần của người Á Đông. Ý niệm về mùa
xuân in dấu ấn trong cả các lễ hội truyền thống, các học thuyết lớn, và là nền
tảng để khái quát quy luật sinh diệt trong vũ trụ. Những cảm thức chung về
mùa xuân ấy sẽ đi vào thơ ca một cách tự nhiên và gửi gắm trong đó những
triết lí về nhân sinh và lẽ đạo.
1.1.3. Mùa xuân trong Thiền tông
Ý niệm về mùa xuân là ý niệm chung, trở thành cảm thức văn hóa
phương Đông. Mùa xuân thâu nhận vào Thiền tông cũng mang những đặc
trưng của mùa, song có những giá trị biểu trưng riêng, nhằm truyền đạt và
giác ngộ những triết lí thiền học.
Trần Thái Tông khi bàn đến Tứ sơn trong Khóa hư lục đã luận về bốn
trái núi (Tứ sơn) tượng trưng cho bốn giai đoạn sinh, lão, bệnh, tử của đời
người, tương ứng với bốn mùa trong năm: “Nhân chi sinh tướng tuế nãi xuân
thì” (Tướng sinh của con người là mùa xuân trong năm), “Nhân chi lão tướng,
tuế nãi hạ thì” (Tướng già của con người là mùa hạ trong năm) “Nhân chi
bệnh tướng tuế nãi thu thì” (Tướng bệnh của người là mùa thu trong năm),
“Nhân chi tử tướng, tuế nãi đông thì” (Tướng chết của con người là mùa đông
trong năm). Thời gian của bốn mùa cùng sự đổi thay của thiên nhiên vạn vật
được thâu nhận và bàn luận thành quy luật, chu trình sinh diệt của con người.
Trong đó, mùa xuân được xem là mùa của sinh: “Nhân chi sinh tướng, tuế nãi
xuân thì. Tráng tam dương chỉ hanh thái; tân vạn vật chỉ tuy vinh. Nhất thiên
minh mị, thôn thôn liễu lục hoa hồng; vạn lí phong quang, xứ xứ oanh đề điệp
vũ” (Tướng sinh của người là mùa xuân trong năm. Khỏe khoắn thay sự thịnh
15
vượng của dương xuân, mới mẻ thay sự tốt tươi của muôn vật. Một trời sáng
đẹp, xóm thôn liễu biếc đào hồng; muôn dặm phong quang, chốn chốn oanh
ca, bướm múa) [80; 42]. Với cảm thức chung của mùa xuân về sự hưng thịnh
của muôn loài, Thiền tông hình thành quy luật tương ứng về sự sinh của con
người. Chu trình sinh diệt được quy chiếu từ chu trình của tự nhiên là một
cách thức quen thuộc trong tâm thức phương Đông. Quy luật của con người,
tạo hóa được đúc rút từ quá trình quan sát tự nhiên, soi chiếu và tìm điểm
đồng dạng giữa các hiện tượng.
Thiền tông khi khái quát và truyền đạt triết lí, thường sử dụng hình ảnh
của thiên nhiên bốn mùa. Quan niệm Niết bàn không phải ở một thế giới
khác, bên ngoài thế gian này, nơi con người có thể rũ bỏ khỏi những sinh trụ
dị diệt, thoát khỏi vòng luân hồi bất tận như Phật giáo Tiểu thừa, có thể dẫn
giải một câu chuyện về một vị thiền sư và một người nọ trong Thiền tông:
“Một người kia hỏi vị thiền sư:
- Hạ đã qua rồi, đông sẽ tới, vậy làm sao tránh khỏi?
- Tại sao anh không tìm một chỗ nào không có mùa hạ và mùa đông?
Vị thiền sư hỏi lại người kia.
- Làm sao tìm ra được một nơi như thế?
- Vậy thì đông đến anh hãy cứ run, hạ đến anh hãy cứ để mồ hôi đổ như
mọi người” [dẫn theo 84 ;353]
Qua câu chuyện trên có thể thấy, tìm một Niết bàn bên ngoài cõi trần
gian là điều không tưởng. Thiền học không hướng con người vào một cõi
khác sau khi chết mà hướng con người đến một thái độ an nhiên trước thực tại
đổi thay. Câu chuyện trên cũng là một dẫn chứng cho thấy phương tiện, cách
thức của Thiền khi truyền đạt những luận thuyết của mình là dựa trên những
hình tượng bốn mùa. Trong câu chuyện bàn về Niết bàn này, mùa hạ và mùa
đông là hai mùa có tính chất đối nghịch. Vòng tuần hoàn của thời gian qua
thiên nhiên biến chuyển hai mùa được dùng để thay thế cho sự thay đổi của
16
con người. Thiền học lấy cái vĩ mô, lẽ tất nhiên để truyền đạt cái vi mô.
Dùng quy luật thiên nhiên để biểu đạt quy luật con người là một cách
thức đã tồn tại lâu đời. Khái niệm ban đầu của âm dương cũng đến từ sự quan
sát tự nhiên. “Âm” trong nghĩa ban đầu là bên râm của sườn núi, “Dương” là
phía bên kia nhiều nắng. Trong Thiền học, phương thức soi chiếu quy luật của
đạo bằng hình tượng thiên nhiên có nguồn gốc từ triết lí “thiên nhân hợp
nhất” của Đạo giáo và “vạn vật nhất thể” của Thiền. Ngay từ xưa các học
thuyết nói chung đều đặt con người trong vị trí giao hòa với tự nhiên, là một
phần của tự nhiên. Tư tưởng “thiên nhân hợp nhất” của Chu Dịch có ảnh
hưởng lớn đến cách ứng xử của con người trước tự nhiên, là nguồn cảm hứng
của văn hóa phương Đông. Con người là một phần của tự nhiên, giữa con
người và thiên nhiên có mối tương giao, dung hòa với nhau. Trời đất với ta
cùng sinh, vạn vật với ta là một. Con người cần hành động hợp lẽ theo quy
luật của tự nhiên. “Thiên nhiên và hoạt động tự nhiên, sự âm thầm diễn ra các
biến cố đời đời kiếp kiếp, sự tuần hoàn của bốn mùa, sự vận chuyển uy nghi
của tinh tú, đó là cái đạo mà ta thấy trong mỗi dòng suối, mỗi phiến đá, mỗi
ngôi sao, đó là cái luật của vũ trụ, vô tư, vô ngã, mà lại hợp lí, và loài người
phải hành động theo luật ấy nếu muốn sống khôn ngoan và yên ổn” (Dẫn theo
44; 146). Con người là một tiểu thiên địa, một phần của vũ trụ, trời và người
là một. Thái độ của con người trước thiên nhiên là sống hòa đồng, hợp lẽ.
Quan niệm “vạn vật nhất thể” cho rằng, một sinh ra tất cả và tất cả cũng
là một “Mặt trời mặt trăng chứa đựng trong một hạt cải” (Đáp Pháp Dung sắc
không phàm thánh chi vấn). Mỗi sự vật trong thế giới đều chỉ là các hình
tướng khác nhau của cùng một bản thể duy nhất. Do đó, trong đất trời cần có
sự tương giao hòa hợp của muôn vật, mọi sự biến chuyển đổi thay cũng chỉ là
biến dịch của sắc tướng bên ngoài, biểu thị cho một bản thể duy nhất, chân
như bất diệt. Quan niệm như vậy cho thấy vị trí của con người trước thiên
nhiên. Con người, thiên nhiên cũng như tất cả tạo vật nói chung đều có chung
17
một cội, cái này có thể là phản chiếu cho cái kia. Trong tâm thức phương
Đông nói chung, thiên nhiên không phải làm nền cho con người mà có sự giao
hòa, gắn bó giữa con người và thiên nhiên. Quy luật của thiên nhiên có thể soi
chiếu để khái quát quy luật của con người, tạo vật. Với phương pháp truyền
đạo “trực chỉ nhân tâm”, chỉ có thể thông qua những hình ảnh trực quan, dùng
trực giác để thấu đạt lẽ đạo, thì thiên nhiên là một chất liệu cho việc tu trấn,
khai mở cho người tu học. Như vậy, thiên nhiên trở thành một phương tiện,
cách thức giúp khái quát và truyền đạt các triết lí thiền học.
Xuân - thu có vai trò quan trọng đối với việc gửi gắm và truyền tải các
triết lí của Thiền. Đây là hai mùa có xu hướng tiến triển đối nghịch nhau và
đều ở dạng bắt đầu, vận động, không phải ở trạng thái vận động đến tột độ
như mùa hạ và mùa đông. Do đó, xuân và thu biểu thị cho quy luật vận động
và phát triển của tự nhiên, được khái quát trở thành quy luật biến đổi vô
thường của vạn vật trong trạng thái soi chiếu với con người. Mùa xuân là mùa
của trưởng sinh, vạn vật đổi thay theo hướng phát triển hưng thịnh. Bởi thế,
mùa xuân được khái quát chứa đựng những ý niệm Thiền học hàm chứa về
sắc tướng, hư huyễn của vạn vật, sự mong manh đổi thay vô thường. Mùa
xuân với ý niệm gắn với niềm vui, sự trưởng sinh, chuyển tải ý niệm về Niết
bàn – xuân của đạo, cũng như xuân của trời. Thiên nhiên mùa phản chiếu quy
luật của tạo hóa. Sự sinh tử của con người cũng như một số quy luật khác đều
được quy chiếu về quy luật thiên nhiên mùa. Dễ dàng nhận thấy sự đồng dạng
giữa các sự vật và quy luật chu trình phát triển của chúng. Trong đó, thiên
nhiên được xem như điểm quy chiếu quan trọng bởi thiên nhiên gắn với sự tất
yếu, hợp lẽ trời, không gì có thể thay đổi được.
Như vậy, trong Thiền tông thiên nhiên bốn mùa nói chung và thiên
nhiên xuân nói riêng có vai trò quan trọng trong đạt đạo và truyền đạo. Mùa
xuân – mùa của sự sinh được khái quát thành tư tưởng triết lí về sự tất yếu đổi
thay vô thường của tạo hóa, ý niệm về mùa xuân bất diệt của chân như vạn
18
pháp, và đi vào thơ Thiền với ý nghĩa trực tiếp và ý nghĩa triết lí.
Tóm lại, mùa xuân trong tâm thức phương Đông là mùa của sự khởi
đầu sinh sôi, gắn với những điều tốt đẹp. Do đó có vai trò đặc biệt quan trọng,
vừa đi vào đời sống văn hóa tinh thần truyền thống, vừa mang sức lan tỏa lớn
đối với nguồn cảm hứng văn chương. Mùa xuân đối với Thiền tông là sự khái
quát và phản ánh quy luật sinh diệt đổi thay, một trong hai đối cực quan trọng
của sự vận động vạn vật.
1.2. Mùa xuân trong thi ca phƣơng Đông
1.2.1. Mùa xuân trong thơ Đường và thơ Haiku
Cảm thức mùa có vị trí quan trọng trong văn học. Thiên nhiên bốn mùa
là yếu tố trung tâm trong tâm thức của con người phương Đông. Trong văn
học truyền thống, hình tượng của thiên nhiên xoay vần trong bốn mùa trở nên
phổ biến, đôi khi là bắt buộc (thơ haiku). Cùng trong dòng chảy chung ấy,
mùa xuân với cảnh sắc tươi đẹp luôn là nguồn cảm hứng bất tận cho thi nhân.
Những xúc cảm, quan niệm triết lí được các thi nhân mã hóa bằng các
hình ảnh của tự nhiên. Thơ ca phương Đông truyền thống nói chung, thơ
Đường Trung Hoa hay thơ haiku Nhật Bản nói riêng đều xuất hiện những
hình ảnh về thiên nhiên mùa xuân với nguồn xúc cảm đặc biệt. Trong Đường
thi – nền thi ca có ảnh hưởng sâu rộng đến nền thi ca nói chung ở khu vực
Đông Á (như Triều Tiên, Nhật Bản, Việt Nam), mùa xuân vẫn giành được
xúc cảm của các thi nhân. Các nhà thơ lớn như Lí Bạch, Đỗ Phủ cảm khái
mùa xuân và gửi gắm trong đó những ý tứ riêng “dung tình ư cảnh vật chi
trung, thác tứ ư phong vân chi ý” (dung hòa tình trong cảnh vật, kí thác tứ ở
áo gió mây).
Qua những bài thơ Đường, bức tranh thiên nhiên mùa xuân tươi đẹp,
đầy tình tứ, trong sự tương giao, hòa quyện giữa con người và muôn vật. Mùa
xuân với mỗi nhà thơ lại được cảm nhận ở những sắc độ khác nhau. Đôi khi
chỉ một cành hoa ẩn sau tán lá rậm, một tiếng chim kêu cũng có thể cảm được
19
cả sắc xuân đang về, bởi “Động nhân xuân sắc bất tu đa” (Sắc xuân làm rung
động lòng người bất tất phải nhiều) (Vương An Thạch). Trong thơ Vương
Duy – thi Phật đời Đường, ý vị thiền luôn hiển hiện trong những bài thơ viết
về mùa xuân. Đó có thể là một mùa xuân được cảm nhận qua tảng đá bên
suối, nhành liễu chạm vào chén rượu, để thi nhân tỏ bày nỗi băn khoăn:
“Nhược đạo xuân phong bất giải ý/ Hà nhân xuy tống lạc hoa lai” (Nếu bảo
rằng gió xuân không biết bày tỏ ý/ Thì ai thổi hoa rụng bay đến đây) trong Hí
đề bàn thạch; hay một ý niệm về lẽ tử sinh của đời qua sự đến đi của xuân:
“Nhật nhật nhân tông lão/ Niên niên xuân cánh quy” (Ngày lại ngày người cứ
già đi/ Năm theo năm xuân vẫn đến hoài) trong Tống xuân từ. Quang cảnh
mùa xuân trong thơ Vương Duy thanh nhã, u tịch với hình ảnh của con người
tự tại, nhàn tản. Điểu minh giản cho thấy ý niệm về sức sống mùa xuân trong
sự tĩnh lặng vô biên:
Nhân nhàn hoa quế lạc
Dạ tĩnh xuân sơn không
Nguyệt xuất kinh sơn điểu
Thì minh xuân giản trung
(Người nhàn, hoa quế rụng
Đêm yên tĩnh, xuân non vắng không
Trăng lên làm chim núi giật mình
Thỉnh thoảng cất tiếng kêu trong khe núi)
Màu sắc thiền học nằm khuất lấp sau sự tịch lặng của cảnh sắc và hồn
người. Trong đêm xuân vạn vật đều rơi vào trạng thái tĩnh mịch, người nhàn
tịnh nghe được âm thanh của hoa quế rụng, của tiếng chim hót trong khe núi.
Cảnh cô tịch nhưng lại thấy được sức sống của xuân, trong tĩnh có động, tạo
nên sự cộng hưởng, giao quyện giữa tâm và cảnh trong sự trầm mặc của thiền.
Mùa xuân trong thơ thiền Vương Duy là một đề tài quen thuộc với những ý
20
tượng cảnh sắc riêng biệt, thấm đẫm ý vị của đạo.
Đỗ Phủ nhà thơ tự coi mình như hạt bụi lăn lóc dưới gầm trời, trải lòng
cho nỗi thống khổ của muôn dân, cũng có những bài thơ vô cùng tình tứ về
mùa xuân. Xuân dạ hỷ vũ là niềm vui trước cảnh sắc thiên nhiên xuân tươi
đẹp, trong trẻo:
Hảo vũ tri thời tiết,
Đương xuân nãi phát sinh
Tùy phong tiềm nhập dạ
Nhuận vật tế vô thanh
(Mưa lành biết được tiết trời
Đang lúc xuân về mà phát sinh ra
Theo gió hây hây vào đêm tối
Tưới mát muôn vật mà không nghe thấy)
(Xuân dạ hỷ vũ)
Thiên nhiên có sự giao hòa trong thinh lặng, làn mưa âm thầm tưới mát
cỏ cây. Tưới mát muôn vật bằng "vô thanh" nhưng lay động được tâm hồn thi
nhân. Đỗ Phủ lắng nghe sự tương giao của đất trời, muôn vật cùng sự sinh sôi
đang dần hiện hữu.
Tuyệt cú cũng là bức tranh thiên nhiên nhưng không phải sự giao hòa
trong "vô thanh" mà đầy sinh động, đa thanh, đa ảnh. Thi nhân thu vào tầm
mắt cả bầu trời, cả sông núi với màu trắng thanh khiết trên nền trời xanh biếc,
sắc vàng rực rỡ của đôi chim oanh trong lá liễu.
Lưỡng cá hoàng ly minh thúy liễu
Nhất hàng bạch lộ thướng thanh thiên
Song hàm Tây Lĩnh thiên thu tuyết
Môn bạc Đông Ngô vạn lý thuyền
(Hai cái oanh vàng kêu liễu biếc
Một hàng cò trắng vút trời xanh
Nghìn năm núi tuyết song in sắc
21
Muôn dặm thuyền Ngô cửa rập rình)
Cảnh sắc trước hết hiện lên với sự sinh động, trong trẻo, tràn đầy sức
sống. Muôn vật trong sự vận hòa của đất trời vào xuân quyến luyến, giao hòa.
Những hình ảnh quen thuộc của mùa xuân như: mưa, gió, núi, mây… đi vào
thi ca với tài năng và tâm hồn thi nhân đã tạo nên những tứ thơ đa tình, đa ảnh
về thiên nhiên xuân.
Trong sự sinh sôi của cỏ cây, sự giao hòa của đất trời có cả sự tình tứ
của lòng người. Con người trước thiên nhiên kết giao, gặp gỡ cũng sinh ý,
sinh tình. Thôi Hộ đã đưa vào thơ xuân cả câu chuyện tình yêu trong Đề Đô
thành Nam trang, và hình ảnh hoa đào mùa xuân trở thành một hoài niệm
vĩnh cửu: “Đào hoa y cựu tiếu đông phong” (Hoa đào năm ngoái còn cười gió
đông). Đỗ Phủ lại cho thấy sự quyến luyến, kết giao tình tứ giữa thiên nhiên
và con người với Giang bạn độc bộ tầm hoa. Hoa xuân, bướm xuân nở rộ,
lượn quanh bên nhà người con gái đẹp khiến ý xuân, tình xuân tràn đầy: “Lưu
liên hí điệp thời thời vũ/ Tự tại kiều oanh kháp kháp đề” (Lưu luyến quẩn
quanh vờn lũ bướm/ Ung dung thánh thót hót hoàng anh).
Không gian mùa xuân rộn rã, vui tươi, tràn đầy nhựa sống. Nỗi lòng
của con người cùng bao khát khao tình tứ được gửi gắm vào thiên nhiên mùa
xuân. Đó là nỗi lòng biệt li của con người ẩn trong cảnh xuân: “Xuân phong
tri biệt khổ/ Bất khiển liễu điều thanh” (Gió xuân thấu nỗi biệt/ Chẳng cho
liễu xanh cành) (Lao Lao đình – Lý Bạch). Nỗi nhớ thương của người vợ
trong cảnh li biệt cũng xuất hiện trong nhiều bài thơ như Xuân tứ (Lý Bạch),
Xuân oán (Kim Xương Tự)... Thiên nhiên mùa xuân cùng sự sinh sôi, giao
hòa của muôn vật nảy sinh ở con người khát vọng yêu đương.
Đương quân hoài quy nhật
Thị thiếp đoạn trường thì
Xuân phong bất tương thức
Hà sự nhập la vi
22
(Đương khi chàng mong nhớ muốn về
Là lúc thiếp cũng đau lòng nhớ chàng
Ngọn gió xuân kia chả hiểu gì nhau
Cớ sao lọt vào trong bức màn the của ta)
(Xuân tứ, Lý Bạch)
Ngọn gió xuân lay động tấm mành, vô tình mà lại hữu tình gợi nhớ về
người chồng nơi xa. Người thiếu phụ càng vờ như không biết, không hay
càng thêm đau lòng, xót xa, giày vò trong nỗi nhớ.
Mùa xuân không chỉ tươi đẹp trong cảnh sắc, đắm say trong nhân tình
mà còn hiện hữu một cái nhìn về nhân sinh, nhân thế. Mùa xuân gắn với cảnh
loạn li, thống khổ của nhân dân cũng mang màu ảm đạm, thê lương. Đỗ Phủ -
tác giả nhiều bài thơ mang tinh thần phản chiến đã có những vần thơ viết về
mùa xuân trong loạn lạc:
Quốc phá sơn hà tại
Thành xuân thảo mộc thâm
Cảm thời hoa tiễn lệ
Hận biệt điểu kinh tâm
(Nước phá tan, núi sông còn đó
Đầy thành xuân cây cỏ rậm sâu
Cảm thời hoa rỏ dòng châu
Biệt li tủi giận chim đau nỗi lòng)
(Xuân vọng, Trần Trọng Kim dịch)
Cảnh xuân không phải là cảnh hoa cỏ xanh tươi mà là sự rậm rạp,
hoang sơ, tiêu điều. Nhà thơ nhìn hoa mà lệ rơi, nghe chim kêu mà xót lòng.
Đây là mùa xuân buồn bã thê lương với tâm trạng cô đơn, sầu tủi của con
người tiếc thương cho tình cảnh đất nước loạn li.
Người chinh phụ trong Khuê oán của Vương Xương Linh ngắm nhìn
23
sắc xuân bỗng hối hận để chồng đi chinh chiến:
Hốt kiến mạch đầu dương liễu sắc
Hối giao phu tế mịch phong hầu
(Chợt thấy sắc xuân của dương liễu bên đường
Hối hận đã để chồng tòng quân kiếm ấn phong hầu)
Cảnh thiên nhiên mùa xuân, với sắc xuân của cây liễu bên đường khiến
người vợ thức nhận về tình cảnh của bản thân, nuối tiếc cho mùa xuân, tuổi
trẻ đang qua. Ấn phong hầu trở nên vô nghĩa đối với sự đoàn tụ, khát khao
hạnh phúc lứa đôi.
Mùa xuân trong thơ Đường hiện lên với đủ gam màu từ tươi sáng, trong
trẻo đến ảm đạm, bi thương. Đất trời lúc xuân sang gợi thức nỗi lòng riêng
của con người, từ tình tứ đắm say, đến nhớ nhung li biệt. Thiên nhiên và con
người gắn bó, hòa hợp hữu tình.
Nằm trong dòng chảy của văn chương truyền thống phương Đông,
haiku – quốc thi của xứ sở Phù Tang chọn cho mình một hình thức nghệ thuật
với thức cảm riêng, song vẫn dành vị trí trang trọng cho thiên nhiên . Thơ
haiku không kiếm tìm s ự cân bằng và đ ối xứ ng như Trung Hoa , mà tôn xưng cái đẹp giản dị và đơn sơ t ừ những thiếu hụt, những khoảng trống trong cái hòa điệu rung cảm của thiên nhiên – vũ trụ – con ngườ i.
Với dung lượng 17 âm tiết ít ỏi, thơ haiku thể hiện cảm quan tinh tế
trước sự đổi thay của vạn vật. Đề tài của thơ haiku là thiên nhiên, với những
sự vật đơn sơ, nhỏ bé. Trong các bài thơ haiku, quý ngữ (kigo - từ chỉ mùa) là
yếu tố không thể thiếu. Đó có thể là từ trực tiếp về các mùa xuân, hạ, thu,
đông hoặc các hình ảnh, hoạt động mang đặc trưng của mùa. Bốn mùa đi qua
đều để lại dấu ấn trong thơ, dù là một cánh hoa xuân, một cơn mưa, một ánh
trăng thu hay một vùng tuyết trắng. Tất cả đều không phân biệt sang hèn,
được nâng niu và trân trọng bởi sự chi phối của tư tưởng vô sai biệt của
Thiền. Trong bức tranh tứ bình ấy, mùa xuân xuất hiện với những hiện hữu
mang sắc thái riêng của gió, của hoa, của cây hay đơn giản là một tiếng
24
chuông chùa trong buổi chiều xuân.
Cảnh sắc thiên nhiên mùa xuân trong thơ haiku trong trẻo, tươi sáng
với những khung cảnh bình dị: bông hoa triêu nhan bên giếng, chú chuột nhỏ
uống nước bên sông, hoa anh đào rụng rơi… Mỗi sự vật đều được miêu tả
trong sự hồn nhiên, tồn tại với bản thể nguyên sơ của nó. Đó là khung cảnh
chiều xuân trong thơ Basho:
Từ phương trời xa
Cánh hoa đào lả tả
Gợn sóng hồ Biwa
hay
Một đám mây hoa
Chuông đền Ueno vang vọng
Hay đền Asakusa
Hoa anh đào là biểu trưng cho mùa xuân. Trong tiết xuân ấm áp, nhà
thơ cảm nhận vẻ đẹp của tự nhiên từ những bông hoa anh đào rơi rụng, từ
tiếng chuông vang vọng trước thời khắc ngày tàn. Bài thơ thứ nhất là mùa
xuân có sự tương giao trong thinh lặng, tinh tế giữa cánh hoa và mặt hồ. Mặt
hồ gợn sóng bởi hoa rơi, hoặc bởi làn gió đưa hoa đến. Bài thơ thứ hai có sự
quyện hòa giữa âm thanh (chuông chùa) và cảnh sắc (hoa anh đào). Buổi
chiều xuân lắng đọng trong tiếng chuông chùa ngân vang.
Thiên nhiên mùa xuân hiện hữu những sinh vật bé nhỏ, bình dị, gần
gũi. Tình yêu và sự bình đẳng cho muôn vật luôn bao trùm những bài thơ
haiku. Trong thơ haiku, những sự vật bình dị nhất cũng được sống hồn nhiên,
tự tại và nâng niu trân trọng như bất kì tạo vật nào khác.
Thiên nhiên mùa xuân trong thơ haiku có hình ảnh chú chuột uống
nước bên sông trong thơ Issa đầy tự tại, tận hưởng đất trời xuân:
Bên dòng Sumida Chú chuột kia uống nước
25
Mưa mù a xuân pha
Chú chuột nhỏ giữa bao la đất trờ i vẫn tự ta ̣i, thong thả uống từ ng ngu ̣m nướ c mù a xuân – tă ̣ng vâ ̣t củ a th ế gian. Bức tranh xuân có sự giản dị thanh b́ nh của thiên nhiên, tự tại, thảnh thơi của những con vật bé nhỏ.
Bức tranh xuân không chỉ có cỏ cây và muôn vật. Thơ haiku còn có sự
tương giao, hòa hợp đầy vi diệu giữa muôn loài và con người:
Triêu nhan
Níu dây gàu
Nhà bên xin nước
(Chiyo)
Nữ sĩ nhâ ̣n ra sự tương giao củ a va ̣n vâ ̣t trong vũ tru ̣ vào mô ̣t buổi sớ m mai qua đóa triêu nhan níu xuống dây gàu . Sự tương giao đó vi diê ̣u mong
manh, khiến ta chẳng muốn phá vỡ . Nữ sĩ sang nhà bên xin nước để giữ vẹn toàn khoảnh khắc diệu kì. Buổi sáng mùa xuân cũng hiện lên tinh khôi, đẹp đẽ
cùng sự tương giao hòa hợp của tạo vật.
Buson – thi sĩ của mùa xuân đưa vào bức tranh xuân hình ảnh của
những con người trần thế. Đôi khi là những con người vất vả, lam lũ:
Trong giông bão
Áo rơm người chèo chống
Hóa áo hoa đào
Hay của những du nữ điểm trang cùng mùa xuân:
Hoa mơ tưng bừng
Bên lầu, du nữ
Mua sắm đai lưng
Bức tranh xuân không mang sự u huyền sâu thẳm mà thấm đẫm sắc
màu của thế gian. Chiếc áo rơm của người chèo chiếc thuyền trong cơn bão
hóa thành một chiếc áo đẹp đẽ bởi hoa đào theo gió bám đầy. Sự khó khăn
của con người bỗng trở nên đẹp đẽ dưới đôi mắt thi nhân. Hay những du nữ
26
cũng bình đẳng như mùa xuân tươi đẹp cùng trau chuốt. Mùa xuân trở nên
trần thế hay du nữ xinh đẹp và đáng quý như xuân. Những tạo vật với haiku
đều được nâng niu và trân trọng.
Khoảnh khắc giao hòa của con người được giữ lại với bao tình tứ:
Mưa xuân thầm thì
Bên nhau đôi bóng
Ô và áo tơi
Đôi trai gái cùng nhau trò chuyện thì thầm dưới mưa khiến bức tranh
xuân mang một màu sắc mới, đời thực hơn. Mùa xuân hiện hữu qua mưa xuân
hòa với lòng người đắm say.
Như vậy, mùa xuân trong thơ haiku là bức tranh đầy ý vị thiền. Đó là
sự trong trẻo trong cảnh vật, sự quyến luyến giữa con người - con người hay
sự tương giao vi diệu của con người - thiên nhiên. Vẻ đẹp thiên nhiên tùy
thuộc vào sự cảm nhận riêng của mỗi độc giả bởi haiku “là mô ̣t bàn tay vẫy , mô ̣t cánh cử a mở …” (R.H. Blith).
Trong văn học truyền thống phương Đông nói chung mà tiêu biểu là
Đường thi Trung Hoa và haiku Nhật Bản, mùa xuân là một đề tài cốt yếu, có
vị trí quan trọng. Mỗi thể loại có cách cảm và thể hiện mùa xuân với những
đặc trưng riêng. Xuân trong Đường thi là thiên nhiên cân xứng, hài hòa, gửi
gắm nỗi lòng thi nhân. Xuân trong haiku là bức tranh chứa đựng những
khoảng trống, thiếu hụt, thể hiện những sự vật nhỏ bé, bình dị nhưng toát lên
nét đẹp sự hồn nhiên của bản thể nguyên sơ và sự tương giao giữa con người
với vũ trụ. Có thể nói, thiên nhiên xuân là mạch chảy xuyên suốt đối với tâm
thức con người và văn học phương Đông.
1.2.2. Mùa xuân trong thơ ca trung đại Việt Nam
Mùa xuân có thể coi là đề tài phổ biến trong văn học trung đại Việt
Nam. Mùa xuân không chỉ là đề tài, cảm hứng mà còn là thi liệu mang tính
chất quy phạm đối với văn học trung đại. Trải khắp cả ngàn năm của nền
27
văn học trung đại, cảm hứng về mùa xuân luôn ẩn hiện trong trang thơ của
thi nhân, với những cảm khái về sự đổi thay của đất trời hay tâm sự trước thời
cuộc.
Mùa xuân với tất cả những biến chuyển tinh tế đầy sức sống của đất
trời luôn là nguồn thi hứng bất tận trở thành đề tài quen thuộc của văn học
trung đại. Trong bức tranh về thiên nhiên bốn mùa với sự chuyển vần từng
nhịp của thời gian, mùa xuân là mùa khởi đầu cùng với mùa thu là mùa đánh
dấu sự hoàn tác là hai mùa được đi vào thơ ca trung đại nhiều hơn cả.
Trong văn học Á Đông truyền thống, mùa xuân trở thành mối duyên
huyền diệu của đất trời và thi nhân. Điểm qua sáng tác của các thi nhân trong
văn học trung đại Việt Nam có thể thấy mùa xuân xuất hiện với tần suất khác
nhau trong thơ như Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Du, và cả
Nguyễn Khuyến ở giai đoạn cuối của văn học trung đại.
Tính quy phạm là một đặc trưng quan trọng của văn học trung đại Việt
Nam. Khuôn mẫu được biểu hiện trên các mặt từ quan niệm về ý thức nghệ
thuật cho đến phương tiện diễn đạt. Sự quy định chặt chẽ về niêm luật và các
chủ đề, đề tài của thơ. Chịu ảnh hưởng của văn học Trung Hoa, đề tài mùa
xuân nằm trong công thức của “tứ thời, tứ dân, tứ bình”. Bốn mùa trong năm
trở thành một công thức ước lệ không chỉ về phạm vi thể hiện mà còn trong
các hình ảnh và phương tiện biểu hiện. Các hình ảnh về phong, hoa, tuyết,
nguyệt hay tùng, cúc, trúc, mai gắn với các mùa là biểu hiện của thiên nhiên
mang tính chất ước lệ. Mùa xuân gắn với các hình ảnh về cỏ cây, núi sông với
những cách thể hiện khác nhau. Nằm trong dòng chảy chung của văn học Á
Đông, văn học trung đại Việt Nam cũng có các quy định chặt chẽ về thể tài
hay cách thức thể hiện. Song trong khuôn mẫu chung ấy, các nhà thơ vẫn tạo
được cho riêng mình khoảng trời và sắc xuân với những nỗi niềm riêng.
Mùa xuân không chỉ là đề tài mà còn là đối tượng được phản ánh. Mùa
xuân trước hết hiện hữu là mùa xuân thiên nhiên với sự sống sinh sôi, tràn đầy
28
cùng bước đi của thời gian in dấu. Trong sắc xuân của đất trời Nam Việt, các
thi nhân vẽ nên trong thi ca với quy định bó hẹp những bức tranh xuân mang
hồn Việt. Nguồn hứng về mùa xuân luôn chảy dài bất tận trong trang thơ của
các thi gia. Những nhà thơ tiêu biểu như Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Nguyễn
Khuyến… đều miêu tả về sắc xuân, cảnh xuân với những biến thái tinh tế.
Trong thơ ca Nguyễn Trãi, bên cạnh những bài thơ tỏ chí, thơ thiên
nhiên giữ một vai trò quan trọng. Nguyễn Trãi hòa mình với thiên nhiên đất
Việt, hòa mình cùng chốn quê dân dã, mộc mạc, lắng nghe từng nhịp mùa
qua. Mùa xuân với những biến chuyển của đất trời, sự khởi đầu và sinh sôi
của vạn vật đi vào thơ ông một cách tự nhiên. Thơ chữ Hán và chữ Nôm của
Nguyễn Trãi đều có bài viết về mùa xuân. Có những khoảnh khắc thi nhân
khép lòng trước cuộc đời trần thế thị phi để lắng nghe hơi thở của cỏ cây vào
xuân như trong Trại đầu xuân độ:
Độ đầu xuân thảo lục như yên
Xuân vũ thiêm lai thủy phách thiên
Dã kính hoang lương hành khách thiểu
Cô châu trấn nhật các sa miên
(Cỏ xuân như khói bến xuân tươi
Lại có mưa xuân nước vỗ trời
Quạnh quẽ đường đồng thưa vắng khách
Con đò gối bãi suốt ngày ngơi)
Khung cảnh xuân nhòe mờ trong làn mưa, không gian thưa vắng và
tĩnh mịch nhưng không gợi lên vẻ cô lẻ của cảnh vật. Hiện hữu là một mùa
xuân đầy sức sống ẩn chứa trong màu xanh của cỏ xuân, cơn mưa tưới mát cả
đất trời và vẻ thanh bình sau sự tĩnh lặng của con đò nằm ngơi bên bến nước.
Phong thái ung dung, tự tại bình tâm trước thế sự để hòa lòng với thiên nhiên,
cảm nhận vẻ thanh bình của cảnh vật trong làn mưa xuân. Trong Mộ xuân tức
29
sự, mùa xuân đã đánh thức một con người tưởng đã tách mình khỏi tạo vật:
Nhàn trung tận nhật bế thư trai
Môn ngoại toàn vô tục khách lai
Đỗ vũ thanh trung xuân hướng lão
Nhất đình sơ vũ luyện hoa khai
(Suốt ngày nhàn nhã khép phòng văn
Khách tục không ai bén mảng gần
Trong tiếng cuốc kêu xuân đã muộn
Đầy sân mưa bụi nở hoa xoan)
Con người yêu thiên nhiên được đánh thức bởi tiếng cuốc kêu, ngỡ
ngàng nhận ra mùa xuân sắp qua. Bước đi của mùa xuân được hiện hữu trong
tiếng cuốc cuối xuân, làm bừng tỉnh cả thi nhân. Hình ảnh dân dã của làng
quê Việt được Nguyễn Trãi đưa vào thơ một cách tự nhiên. Trang thơ Hán tự
vốn nhiều quy định nghiêm ngặt lại nở một màu tím biếc hoa xoan bình dị.
Khoảnh khắc khi âm thanh (tiếng cuốc) và hình ảnh (hoa xoan nở) hòa làm
một cũng là lúc ý xuân, tình xuân viên mãn. Thi nhân đã rời mình khỏi phòng
trai tĩnh mịch để hòa lòng với thiên nhiên, cảnh vật.
So với thơ chữ Hán, mùa xuân trong thơ Nôm Nguyễn Trãi được thể
hiện rõ nét với tần số cao hơn. Nhà thơ tạo nên bức tranh thiên nhiên với màu
sắc tươi vui của cỏ cây, sự chuyển mình của đất trời. Thi nhân hòa mình vào
thiên nhiên và dõi theo bước đi thời gian trên tạo vật. Trong chùm thơ Môn
hoa mộc, bên cạnh những hình ảnh hoa mai, hoa đào đã quen thuộc (Mai, Hoa
đào), những hình ảnh dân dã cũng được đưa vào trong thơ một cách tự nhiên:
Tự bén hơi xuân tốt lại thêm
Đầy buồng lạ, mùi thâu đêm
Tình thư một bức phong còn kín
Gió nơi đâu gượng mở xem
30
(Cây chuối)
Cây chuối bình dị bừng sức sống từ khi đón nhận hơi thở của mùa
xuân. Lá non cuộn lại như bức thư tình còn phong kín. Bức tranh xuân thấm
đượm xúc cảm của thi nhân. Mùa xuân trở nên thơ mộng và sâu lắng tình.
Khoảnh khắc mùa xuân được Ức Trai nắm bắt với tất cả những chuyển
biến tinh tế, từ đầu xuân (Đầu xuân đắc ý, Đêm trừ tịch), đến Cuối xuân. Mỗi
thời khắc của xuân được cảm nhận với sự nhạy cảm trước thiên nhiên và cuộc
sống. Thơ Nôm Nguyễn Trãi, bởi thế có cả những cảnh sinh hoạt thường nhật
giản đơn:
Chong đèn chực tuổi cay con mắt
Đốt trúc khuya na đắng lỗ tai
(Đêm trừ tịch)
Mùa xuân với Nguyễn Trãi mang nhiều ý tứ, không chỉ là mùa của sự
sống, của sự viên mãn tròn đầy, ông còn cảm nhận được bước đi nhanh chóng
của thời gian. Thi nhân muốn níu bước thời gian, để giữ lại cho mình những
khoảnh khắc xuân. Xuân sắp qua mà Nguyễn Trãi vẫn còn hi vọng:
Cầm đuốc chơi đêm này khách nói
Tiếng chuông chưa dóng ắt còn xuân
(Cuối xuân)
Đó là tấm lòng của một thi nhân trân quý từng nhịp của thời gian và sự
sống của vạn vật trong tiết xuân. Cảm quan chung trong thơ xuân Nguyễn
Trãi là một mùa xuân viên mãn, căng tràn nhựa sống với sự cựa mình của vạn
vật, sự chuyển nhịp tinh tế của thời gian. Thi nhân cảm nhận thiên nhiên bằng
tình yêu tha thiết và gắn bó: “Cò nằm hạc lặn nên bầu bạn/ ủ ấp cùng ta làm
cái con”.
Sang thế kỉ XVIII, mùa xuân trong Chinh phụ ngâm gắn với bốn mùa
thể hiện thời gian vũ trụ tuần hoàn:
Thuở lâm hành oanh chưa bén liễu
31
Hỏi ngày về ước nẻo quyên ca
Nay quyên đã giục oanh già
Ý nhi lại gáy trước nhà líu lo
Thuở đăng đồ mai chưa dạn gió
Hỏi ngày về chỉ độ đào bông
Nay đào đã quyến gió đông
Phù dung lại rã bên sông ba xoà
Bước đi của thời gian được thể hiện qua những hình ảnh biểu tượng.
Chim oanh, ý nhi (chim gáy), hoa đào chỉ mùa xuân, chim quyên gắn với mùa
hạ và hoa phù dung gắn với thu. Thời gian tuần hoàn, chảy trôi vô tận đối sánh
với sự chờ đợi mỏi mòn của người chinh phụ. Thời gian vũ trụ vô thủy vô chung
mà con người thì hữu hạn. Tâm trạng nhân vật trữ tình được tạo bởi hai mạch
cảm xúc: hi vọng vào lời hứa trở về của người chinh phu và sự thất vọng vì thực
tế cay đắng, càng đợi chờ thì sự thất vọng càng chất chồng, bi đát.
Nguyễn Du cũng là thi gia nặng lòng với thiên nhiên. Mùa xuân trong
thơ ông hiện lên với nhiều sắc thái, đa ảnh đa hình. Đó là một mùa xuân tràn
đầy sức sống, trong trẻo, vui tươi trong Truyện Kiều:
Ngày xuân con én đưa thoi
Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi
Cỏ non xanh tận chân trời
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa
Bức tranh xuân của đất trời là sự hòa điệu của màu sắc, của cỏ và hoa
trong đôi mắt tinh tế của thi nhân. Khí xuân, tiết xuân hiện lên thanh nhã, bình
dị hòa cùng với cảnh hội xuân đông vui “Ngựa xe như nước, áo quần như
nêm”.
Mùa xuân còn là sự gợi nhắc về sự đổi thay của thời gian, xoay vần của
tạo vật, bởi thế, thưởng xuân cũng là cảm về quy luật của thời gian:
Sen tàn cúc lại nở hoa
32
Sầu dài ngày ngắn đông đà sang xuân
Thơ Nguyễn Du không chỉ là những sắc điệu vui tươi, bên cạnh một
hồn quê trong sáng với khí xuân chan hòa, xuân cũng mang cả cái nhìn u
hoài, đầy suy nghiệm. Những đêm trăng xuân lưu lạc nơi đất khách, cảnh sắc
vẫn làm rung cảm hồn thơ, hòa vào cảnh trăng gợi bao thi hứng:
Nguyệt dạ không đình nguyệt mãn thiên
Y y bất cải cựu thuyền quyên
(Đêm nguyên tiêu sân vắng trăng đầy trời
Trăng vẫn không đổi thay vẻ đẹp cũ)
Đêm trăng tháng giêng trăng đầy trời và thanh vắng, chan hòa muôn
nơi, nhà thơ bỗng tự hỏi “Nhất thiên xuân hứng thùy gia lạc” (Cái hứng xuân
cả một trời rơi xuống nhà nào). Trăng xuân chính là cảm hứng của mùa xuân,
là cái hồn của xuân, của đất trời trong sự tạo sinh ở thời điểm khởi đầu vẹn
nguyên.
Thơ Nguyễn Du bên cạnh trăng xuân còn có hoa xuân. Hoa đào và hoa
mai là hai loại hoa tiêu biểu cho mùa xuân. Hình ảnh của hoa trong thơ ông
không mang sắc điệu của mùa xuân tươi vui mà lại là cảnh hoa rụng, gợi lên
sự tàn úa, nuối tiếc, cảm thương: “Đào hoa, đào diệp lạc phân phân” (Hoa
đào, lá đào rụng tơi bời) (U cư I) hay là “Lạc hoa vô số hạ thương đài” (Thấy
vô số hoa rụng trên rêu xanh) (Đối tửu). Từ sự tàn úa của hoa, thi nhân tiếc
cho kiếp hoa, thương cho kiếp người.
Nguyễn Khuyến cũng là con người ưu thời mẫn thế, cáo quan về ở ẩn,
gắn bó với làng quê Việt Nam. Xuân qua lăng kính của con người từng nếm
trải bao trái ngang của cuộc đời mang nhiều sắc thái. Đó có thể là mùa xuân
với ngày tết rộn ràng hoan ca “Trong nhà rộn rịp gói bánh chưng/ Ngoài ngõ
bi bô rủ chung thịt” (Cảnh tết), hay một khóm hoa nhỏ còn ướt đẫm sương
đêm và nét vẽ của núi sông trong làn mây:
Tiểu cúc tân tài lô vị can
33
Hà xứ cô hồng thê dã thủ
Vô cùng thủy cáo nhập gian can
Âm vân vị áp thiên sơn họa
(Khóm cúc nhỏ mới trồng sương hãy chưa khô
Con chim hồng lẻ loi ở chốn nào về, đậu trên cây ngoài nội
Cỏ non xanh mơn mởn ngút mắt trải rộng tới bờ sông
Mây mù chưa lấp được đường nét như vẽ của ngàn núi sông
(Xuân hứng)
Bức tranh mùa xuân qua những cảm nghiệm khác nhau của nhà thơ ở
các thời đại khác nhau đem đến những cảm xúc mới. Sự khác biệt ấy là hồn cảm
của mỗi nhà thơ song có thể khẳng định mùa xuân luôn là nguồn cảm hứng dạt
dào không ngừng chảy gợi thi hứng qua bao nhiêu đổi dời của thời gian.
Đằng sau bức tranh thiên nhiên xuân luôn có sự ẩn chứa tâm sự thi
nhân, hiện hữu mùa xuân lòng người. Con người cảm khái trước thiên nhiên
để suy nghiệm về thân phận, lẽ đời. Bức tranh xuân xuất hiện hình ảnh của
con người với nỗi lòng thường trực vì dân vì nước của Nguyễn Trãi, nỗi cảm
thương cho thân phận tha hương của Nguyễn Du, nỗi lo cho nỗi khổ của nhân
dân trong thơ Nguyễn Khuyến. Mỗi thi nhân một cảm thức và một nỗi lòng
trải cùng mùa xuân.
Thơ của Nguyễn Trãi hiện diện một tâm hồn thanh thản nhưng đằng
sau đó, vẫn lắng lại chút suy tư về thế sự. Ức Trai rời bỏ chốn quan trường thị
phi, tạm trở về hòa mình với thiên nhiên nhưng con người nguyện làm “ngựa
đến tuổi già còn kham rong ruổi” ấy luôn thường trực nỗi lo nước thương dân
chưa bao giờ nguôi. Thơ Ức Trai ẩn chứa một nỗi niềm sâu thẳm đằng sau
bức tranh xuân vui tươi, đầy sức sống. Đó là nỗi niềm nuối tiếc thời gian, nuối
tiếc tuổi xuân:
Xuân xanh chưa dễ hai phen lại
Thấy cảnh càng thêm tiếc thiếu niên
34
(Thơ tiếc cảnh III)
Tiếc xuân cầm đuốc mảng chơi đêm
Những lệ xuân qua tuổi tác thêm
(Thơ tiếc cảnh VII)
Nguyễn Trãi là con người suốt đời nặng lòng với dân nước, bởi thế ước
vọng được cống hiến nhiều hơn luôn đau đáu trong ông. Mỗi mùa xuân trôi
qua là thời gian đời người ngắn lại. Bởi thế, thi nhân nuối tiếc thời gian, nuối
tiếc mùa xuân và tuổi xuân.
Bốn mùa là sự nhận thức về quy luật của thời gian:
Thân nhàn đến chốn dầu tự tại
Xuân muộn nào hoa chẳng rụng rời
Những thấy Ngu công tua sá hỏi
Non từ nay mựa tốn công dời
(Thuật hứng 14)
Nhận ra quy luật dời đổi của tự nhiên cũng là lúc thi nhân chiêm nghiệm
về sự đổi thay của kiếp người, để xem công danh, phú quý chỉ là phù du:
Thuyền chèo đêm nguyệt sông biếc
Cây đến ngày xuân tốt tươi
Phú quý chẳng tham thanh tựa nước
Lòng nào vạy vọ hơi hơi
(Ngôn chí 21)
Nguyễn Trãi dù đã có lúc cuộc đời gặp nhiều trắc trở nhưng với tất cả tấm
lòng một đời “trí quân trạch dân”, không lúc nào nguôi khát khao với cuộc đời.
Bởi thế, ánh nhìn của ông với thiên nhiên, cuộc sống con người luôn là ánh nhìn
vui tươi, tràn đầy nhựa sống. Mùa xuân – mùa của khởi sinh được nhà thơ cảm
nhận và tỏ bày nỗi lòng với tất cả niềm chứa chan với cuộc đời, tuy có những
lắng sâu nhưng cũng không nguội lạnh niềm hăng say với thời cuộc.
Nếu như trong thơ Nguyễn Trãi ta luôn thấy hình ảnh của một mùa
35
xuân tràn đầy sinh khí với con người luôn gắng sức không mệt mỏi “trí quân
trạch dân” bởi “Khó bền mới phải người quân tử/ Mạnh gắng thì nên kẻ
trượng phu” thì trong thơ Nguyễn Du lại thấy không chỉ là cảnh sắc mùa xuân
tươi đẹp (Xuân nhật ngẫu hứng, Ngẫu hứng 3) mà còn cả những mùa xuân
lạnh lẽo, tàn tạ (Sơn cư mạn hứng, Ngẫu thư công quán bích, U cư 1).
Với Nguyễn Du, mùa xuân tươi đẹp chỉ làm cho lòng người thêm sầu u.
Nhà thơ lưu lạc nơi đất khách, trong tâm trạng của kẻ lữ thứ, mùa xuân đâu
thể chỉ là sự tươi vui của đất trời, nó gợi nhắc ông về phận của mình:
Cộng chỉ mai hoa báo tiêu tức
Xuân hòa tằng đạo dị hương nhân!
(Cùng chỉ hoa mai báo tin xuân
Nhưng xuân có bao giờ đến với người từ nơi đất khách)
(An Huy đạo trung)
Hình ảnh của thi nhân nơi đất khách, đón xuân trong tâm trạng sầu u là
hình ảnh thường thấy trong thơ Thanh Hiên. Đôi khi là một đêm xuân u tịch,
nhà thơ khát khao tìm được ánh sáng xuân như một niềm hi vọng, nhưng lại
chỉ thấy bóng liễu trong đêm:
Hắc dạ thiều quang hà xứ tầm?
Tiểu song khai xứ liễu âm âm
(Đêm tối đen, tìm đâu ánh sáng mùa xuân?
Trước song cửa sổ mở chỉ thấy bóng liễu âm u)
(Xuân dạ)
Thi nhân cảm nhận mùa xuân bằng trái tim với bao xúc cảm, nhưng
mùa xuân tươi đẹp có khi lại làm kẻ lữ thứ thêm sầu bi:
Phù thế công danh khan điểu quá
Nhàn đình tiết tự đái oanh thiên
(Công danh ở đời nào khác cánh chim bay vút
Trước sân vắng, thời tiết cũng theo chim oanh mà thay đổi)
36
(Mộ xuân mạn hứng)
Mùa xuân là sự suy nghiệm của con người đã trải qua cuộc đời nhiều
đổi thay bao dâu bể. Công danh cũng chỉ như một cánh chim bay vút, như
cánh chim oanh báo hiệu mùa thay. Thiên nhiên với sự đổi thay qua các mùa
chính là sự gợi nhắc bao nhiêu nghiệm suy về cuộc đời về kiếp người giữa
cuộc đời bể dâu.
Mùa xuân đến đất trời với bao đổi thay mà con người vẫn thế. Vì thế
mà thưởng xuân lại trở thành đẫm lệ:
Nhân tự tiêu điều xuân tự hảo
Đoàn Thành thành hạ nhất triêm cân
(Người thì tiều tụy nhưng xuân vẫn cứ đẹp
Đứng dưới Đoàn Thành nước mắt đẫm khăn)
Cảnh xuân càng tươi đẹp lại càng khắc sâu thêm tình cảnh của con
người. Thưởng xuân cũng là tâm sự của con người về thế sự đổi dời, chiêm
nghiệm về lẽ đời.
Nguyễn Du đã gặp nhiều trắc trở trong cuộc đời, giữa chốn đời nhiều
thị phi, ước nguyện không thành,… nên khó để thi nhân đón nhận thiên nhiên
với tất cả sự tươi mới tràn đầy của thời khắc hồi sinh tạo vật. Lòng thi nhân đã
nặng trĩu những trang thơ xuân, nhuốm lên xuân cả sắc thái u hoài.
Nguyễn Khuyến cũng không chỉ hòa mình vào không gian thiên nhiên
của đất trời vào xuân, mà còn suy ngẫm về tình cảnh cô độc: “Bán chẩm quan
không thiên địa khoát/ Nhất sang cao ngọa tính tình cô” (Gối đầu lên nửa gối,
ngó thấy trời đất bao la/ Nằm khểnh bên cửa sổ, tính tình trở nên cô độc)
(Xuân bệnh 1). Cảm được phong vị xuân của đất trời nhưng vẫn hướng đôi
mắt về phía nhân dân, hòa vào kiếp sống lầm than chốn quê nghèo để lo nỗi lo
mất mùa “Tân thiều đán đán mãn thiên sương/ Thán cúc nhân cùng tuế hựu
hoang” (Mới sang xuân, sớm sớm trời đầy sương/ Than nỗi người nghèo đã
37
mùa lại mất) (Xuân bệnh 2). Mùa xuân trong thơ Nguyễn Khuyến có sự tươi
vui trong trẻo của đất trời, cũng có nỗi lòng riêng của thi nhân – nỗi lòng đau
đáu với cuộc sống thôn quê còn nhiều gian khó.
Qua những bức tranh thiên nhiên mùa xuân, các thi nhân gửi gắm cả
những tâm sự, nghiệm suy về con người và nhân thế. Mùa xuân do đó không
chỉ là mùa xuân của thiên nhiên mà còn là mùa xuân của lòng người với bao
ưu tư, muộn phiền.
Như vậy, mùa xuân là nguồn cảm hứng bất tận trong dòng chảy của
văn học truyền thống phương Đông nói chung và văn học trung đại Việt Nam
nói riêng. Qua những bức tranh về mùa xuân, có thể thấy được cảnh sắc thiên
nhiên tươi đẹp với những ý niệm riêng và hình ảnh của con người cũng như
tâm trạng của thi nhân. Sự cảm khái về cảnh sắc thiên nhiên cũng là để kí thác
tâm sự, tỏ bày nỗi lòng nhân thế.
Tiểu kết:
Thiên nhiên bốn mùa nói chung và thiên nhiên xuân nói riêng có ý
nghĩa quan trọng trong tự nhiên , trong văn hóa và là nguồn thi hứng bất tận
của thi ca phương Đông. Mỗi nền văn học đều có những ý niệm và cách thể
hiện riêng về cảnh xuân, tình xuân, nhưng không ngoài dòng chảy chung.
Mùa xuân đối với thi ca trung đại Việt Nam cũng được thể hiện dưới nhiều
sắc thái, kí thác tâm sự của thi nhân. Với Thiền tông, thiên nhiên mùa xuân
được nhận diện và hàm chứa những ý niệm khác biệt, vừa biểu thị ý nghĩa
38
trực tiếp vừa ẩn tàng triết lí thiền học.
CHƢƠNG 2
CHỦ ĐỀ MÙA XUÂN TRONG
THƠ THIỀN LÝ – TRẦN
2.1. Chủ đề mùa xuân trong thơ Thiền Lý – Trần
2.1.1. Thiên nhiên mùa xuân
Thiên nhiên luôn là một chủ đề lớn trong văn học Việt Nam. Trong mĩ
cảm phương Đông, con người là một phần của đại vũ trụ, bởi thế con người
luôn có mối tâm giao sâu nặng với thiên nhiên. Cách thức tiếp cận của Đạo
gia, Nho gia và Thiền gia đều có những đặc sắc riêng. Thiền gia không nương
nhờ vào thiên nhiên để cầu sự yên tĩnh như Đạo gia, coi sự tương thông cảm
ứng giữa thế giới và con người làm trọng như Nho gia, mà coi thiên nhiên
như một công cụ để ngoại hóa triết lí, nguồn cảm hứng để ngộ đạo.
Thơ Thiền thường mượn những hình ảnh thế giới vật chất để thể hiện
thiền lý. Đó là hình ảnh ngoại giới các thiền sư bất ngờ nắm bắt được trong
khoảnh khắc bừng ngộ. Thiên nhiên là một trong các hình ảnh ngoại giới có
vai trò quan trọng trong truyền đạo và ngộ đạo của các thiền gia. Hình ảnh
thiên nhiên nổi bật là cảnh sắc luân chuyển bốn mùa, trong đó xuân ẩn chứa
nhiều ý vị Thiền.
Thiên nhiên mùa xuân là sự kết đọng của nhiều ý vị Thiền, mà trước
hết là mùa xuân chuyên chở triết lí. Mùa xuân chỉ là vỏ bề ngoài, là sắc tướng
để bao chứa những ẩn ý thiền đạo, là “ngón tay chỉ trăng”, có ý nghĩa tượng
trưng hơn là hiện thực. Những triết lí của Thiền về vô thường, sắc không,…
đều được mã hóa bằng các hình ảnh về mùa xuân.
Cặp xuân – thu là diễn trình về quy luật sinh trưởng và lụi tàn của
muôn vật. Mùa xuân mang tính dương, là bắt đầu hưng thịnh, nhưng chưa ở
giai đoạn viên mãn. Mùa thu lại là thời gian của quá trình tàn lụi, cho thấy sự
39
chóng tàn và ngắn ngủi của vạn vật. Thơ Thiền nhận thấy ở đó triết lí về sự vô
thường, cái “không” đối lập với cái “có”. Bởi vậy, thiên nhiên biến dịch xuân
thu trong thơ Thiền được dùng để biểu hiện quy luật tạo sinh và thành diệt tất
yếu của tạo hóa.
Ly hạ trùng dương cúc
Chi đầu thục khí oanh
(Trùng dương đến cúc vàng dưới dậu
Xuân ấm về, oanh náu đầu cành)
(Tham đồ hiển quyết) [79; 274]
Xuân hoa sắc đóa đóa hồng tiêu
Thu nguyệt ảnh đoàn đoàn viên diệu
(Sắc hoa xuân đóa đóa tươi hồng
Bóng trăng thu tròn đầy viên diệu)
(Trữ từ tự cảnh văn) [80; 296]
Trong các câu trả lời đệ tử (Đáp đệ tử diệu đạo chi vấn) hoặc đối đáp
giữa sư và tăng (Tham đồ hiển quyết), hoặc vua và sư (Ngữ lục vấn đáp môn
hạ) thiên nhiên xuân thu, hoặc mùa xuân với những trạng hình cụ thể được
khái quát từ mùa xuân tự nhiên biểu thị cho một ý niệm thiền học. Hình tượng
mùa xuân mang tính chất biểu trưng, là lớp nền thứ nhất cho sự biểu đạt của
một mục đích cao hơn: chứa đựng triết lý.
Sự biến chuyển tuần hoàn của thiên nhiên trong thơ Thiền dung chứa ý
nghĩa về đạo. Thiền tông quan niệm Phật tính có trong mỗi con người, và mỗi
người đều cần “Tự thức bản tâm, tự kiến bản tính” để thức nhận chân lí nội
tại. “Kiến tính thành Phật” cũng như quy luật của tự nhiên, xuân đến hoa nở.
Khô mộc phùng xuân hoa cạnh phát
Phong xuy thiên lý phức thần hương
(Hoa rợp cành khô lúc tiết xuân
Gió đưa nghìn dặm nức hương thần)
40
(Tham đồ hiển quyết) [79; 278]
Xuân lai tự thị xuân hoa tiếu
Thu đáo vô phi thu thủy ngâm
(Mùa xuân tới hoa xuân cười
Mùa thu về không chỗ nào là nước thu không sâu)
(Phật tâm ca) [80; 271]
Những hình tướng bên ngoài chỉ là sắc, hư ảo, mong manh, con người
cần gạt bỏ tâm vọng niệm về chúng để tìm chân như của vạn pháp, chân tính
trong sự nở tàn của quy luật:
Xuân lai xuân khứ nghi xuân tận
Hoa lạc, hoa khai chỉ thị xuân
(Xuân qua lại ngỡ xuân tàn
Hoa dù rụng nở, vẫn hoàn tiết xuân)
(Đáp đệ tử diệu đạo chi vấn) [79; 301]
Hồng đào thụ thượng chân thời tiết
Hoàng cúc li biên bất thị xuân
(Trên cây đào thắm đúng kì
Cúc vàng bên dậu chắc gì đã xuân)
(Đối cơ) [80; 315]
Người học đạo không nên chấp nê vào khái niệm khô cứng, gạt bỏ vẻ
bề ngoài giả tướng để nhìn sâu vào nội tâm siêu việt, tìm thấy chân như.
Thiên nhiên tạo vật nở tàn là sự thức nhận về quy luật, cái "không" lại hàm
chứa cái "có" (Đáp đệ tử diệu đạo chi vấn), cái "có" ẩn tàng cái "không" (Đối
cơ).
Được quang chiếu bởi tâm thiền an định, thiên nhiên mùa xuân là thiên
nhiên hư tĩnh. Sự hư tĩnh, lặng trầm của thiên nhiên mùa xuân kết đọng trong
từng ý thơ. Mùa xuân thiên nhiên như được họa trong một khoảnh khắc ngắn
ngủi mà chứa đựng cả mênh mông của vũ trụ, ngưng tụ vĩnh hằng của thời
41
gian.
Cảnh xuân trong Đăng Bảo đài sơn được họa sơ giản, ít đường nét và
màu sắc. Mọi tạp âm, chuyển động dư thừa đều bị lược bỏ, chỉ còn lại một
bức tranh xuân bình đạm, nhưng đủ cảm nghiệm hết khí xuân trong trẻo, qua
cái nhìn trầm mặc của hành giả:
Địa tịch đài du cổ
Thời lai xuân vị thâm
Vân sơn tương viễn cận
Hoa kính bán tình âm
(Đất hẻo lánh đài thêm cổ kính
Theo thời tiết, mùa xuân về chưa lâu
Núi mây như xa như gần
Ngõ hoa nửa rợp nửa nắng)
[80; 456]
Cảnh vật nằm trong trạng thái nửa hư nửa thực, núi mây như xa lại như
gần, ngõ hoa nửa rợp, nửa nắng, lại thêm đền đài cổ tịch, thanh u. Bức tranh
không có một âm thanh hay chuyển động, chỉ thấy những đường nét phác họa
về núi, đài, ngõ hoa, sơ lược, hư ảo tăng thêm sự tĩnh mịch của cảnh xuân,
nhưng lại cho người đọc thẩm nhận một mùa xuân mang ý vị thiền, trầm mặc,
u huyền.
Đề Gia lâm tự là bức tranh mang đủ âm thanh, màu sắc nhưng vẫn là
cảnh vật trong trạng thái tĩnh:
Xuân vãn hoa dung bạc
Lâm u thiền vận trường
(Xuân muộn, dáng hoa mỏng mảnh
Rừng sâu, tiếng ve ngắn dài)
[80; 614]
Bức tranh xuân có tiếng ve kêu song chỉ làm tăng thêm cảnh u tịch của
42
khung cảnh. Mùa xuân trong sáng, sinh động, đa hình, đa thanh vẫn kết đọng
ý niệm về sự an định của tâm, vô ngã vô ý, loại bỏ vọng niệm, hòa nhập vào
thiên nhiên vĩnh hằng, cảm hết cái đẹp của tạo hóa trong sự vô thường.
Thiên nhiên mùa xuân trong thơ Thiền còn là thiên nhiên mang vẻ đẹp
tự tính. Thiên nhiên mùa xuân tàn nở theo chu trình sinh diệt của tạo hóa.
Hành giả với tâm thiền đạt ngộ nhận diện vẻ đẹp thiên nhiên mùa xuân trong
sự nở tàn vô thường ấy.
Hình ảnh thiên nhiên mùa xuân của sự vô thường trong thơ Thiền mang
cảm thức về cái đẹp bản nguyên, khác với nỗi niềm bi cảm trước cái đẹp lụi
tàn của thơ haiku. Cành hoa mai trong thơ của Trần Nhân Tông là cành mai
của quy luật vô thường:
Cá tam đông bạch chi tiền diện
Tá nhất biện hương xuân thượng đầu
Cam lộ lưu phương si điệp tỉnh
Dạ quang như thủy khát cầm sầu
(Cánh hoa trắng xóa suốt trong ba tháng đông
Sang đầu xuân chỉ còn loáng thoáng một vài cánh thơm nhẹ
Móc ngọt chảy mùi thơm làm chú bướm si ngây tỉnh giấc
Ánh sáng ban đêm như nước khiến con chim khát buồn rầu)
(Tảo mai 1) [80; 470]
Hoa mai trong tiết xuân vừa sang chỉ còn “vài cánh thơm nhẹ”. Trước
công năng phá hủy của thời gian, hoa nở và tàn theo quy luật, nhưng hương
hoa vẫn có sức gắn bó tác sinh cho muôn loài. Trong hương hoa thơm nhẹ,
muôn vật cựa mình trong mối tương giao vi diệu, giọt sương sớm ngọt lành
đánh thức chú bướm nhỏ, ánh sáng ban đêm trong lành đủ làm chú chim khát
buồn rầu. Cảm xúc về mai tàn bởi thế không hàm ý bi thương mà mang ấn
tượng tinh khôi, thanh khiết. Hoa đẹp trong sự tàn nở vô thường của chính nó.
Cũng mang cảm khái về thiên nhiên trong quy luật, trong Xuân vãn,
43
thiền gia cho thấy sự an nhiên của con người trước lẽ dời đổi của tạo vật:
Niên thiếu hà tằng liễu sắc không
Nhất xuân tâm tại bách hoa trung
Như kim kham phá đông hoàng diện
Thiền bản bồ đoàn khán trụy hồng
(Thuở trẻ chưa từng hiểu rõ sắc với không
Mỗi khi xuân đến vẫn gửi lòng trong trăm hoa
Ngày nay đã khám phá được bộ mặt chúa xuân
Ngồi trên nệm cỏ giữa tấm phản nhà chùa ngắm cánh hoa rụng)
[80; 463]
Với tâm thiền đã thấu đạt lẽ sắc không, thiền gia không chỉ gửi mình
nơi trăm hoa đua nở trong tiết xuân sang, mà an nhiên trước sự lụi tàn của hoa
trong cảnh xuân tàn. Thiên nhiên hiển lộ cái đẹp trong sự nở tàn tự nhiên,
trong bản tính nguyên sơ của tạo vật.
Như vậy, thiên nhiên xuân được quang chiếu qua đôi mắt của một tâm
thiền an tịnh là thiên nhiên chuyên chở thiền lý, thiên nhiên hư tĩnh và thiên
nhiên mang vẻ đẹp tự tính. Mùa xuân vừa mang ý nghĩa ẩn tàng triết lí thiền,
vừa mang vẻ đẹp của sự giao hòa, trong sáng, ban sơ, thấm đẫm sự mặc trầm
của ý vị Thiền.
2.1.2. Con người mùa xuân
Trong thơ Thiền, con người được thể hiện qua những quang ảnh khác
nhau về cuộc sống, mà đặc sắc hơn cả là những bức tranh thiên nhiên mùa
xuân đa sắc với một cành mai nở sớm, một không gian thoang thoảng hương
thông,… Văn chương Thiền không ca ngợi con người nhân sinh với những
khát vọng riêng, trăn trở về thân phận, lẽ đời như văn học trung đại (con
người trong thơ Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, …) mà hướng đến nhận
diện con người với sức mạnh trí huệ trong khát vọng tu cầu giải thoát. Con
người thơ Thiền mùa xuân hiển lộ với những phong cách riêng: tinh thần sám
44
hối trong thơ Trần Thái Tông, Trần Nhân Tông nhập cuộc với tinh thần "cư
trần lạc đạo", con người phóng cuồng trong thơ Trần Tung… Nhưng đều là
những con người gần gũi với cuộc sống trần thế, không ngừng truy tìm con
đường giải thoát, với tinh thần phá chấp triệt để, vô ngã, vô ý…
Trước hết đó là con người tự do phá chấp triệt để với mục tiêu đạt đến
cái tâm trống không “ưng vô sở trụ”. Các thiền giả hướng đến phá bỏ sự câu
chấp thường tình của người đời, phá bỏ cái nhìn nhị nguyên phân biệt các sự
vật, hiện tượng như: sinh – tử, hữu – vô, phàm – thánh, mê – ngộ… Đó chỉ là
“cảnh tự tâm sinh”, sự đối lập giả tạo, do ý chủ quan của con người tạo nên.
Cái nhìn nhị nguyên là “vọng kiến”, vòng dây trói buộc con người trong sự
đau khổ. Bởi thế, Trần Tung khuyên người tu học không cần “trì giới nhẫn
nhục” vì “Trì giới và nhẫn nhục/ Chuốc tội chẳng chuốc phúc” (Trì giới và
nhẫn nhục) [tập 2; 291]
Con người muốn tự do với tinh thần phá chấp cần buông bỏ hết mọi sự
phụ thuộc vào những giáo điều, kể cả chấp nê vào giáo lí kinh điển của nhà
Phật, tự tạo cho mình một cách sống, một đường hướng riêng đạt ngộ với tinh
thần tự chủ, tự tại. Trần Tung ngạo nghễ, phóng túng với tinh thần phá chấp
khi không câu nệ vào kinh kệ Phật học, như cách ông nói về pháp thân thanh
tịnh: “Ra vào trong nước đái trâu, chui rúc giữa đống phân ngựa” (Đối cơ).
Trần Nhân Tông hướng vào phá chấp hữu – vô bởi đó đều là vô minh, do tâm
định kiến sai lầm mà thành. Tranh cãi về hữu vô, hay phi hữu vô đều là những
ngả đường sai lầm, cũng như “Chấp chỉ vong nguyệt” (Chỉ “chấp” ngón tay
mà quên vầng trăng), hay “Lạp tuyết hài hoa” (Chóng tan như tuyết làm nón,
như hoa mai làm hài) (Hữu cú vô cú) [tập 2; 487]. Chỉ có buông bỏ định kiến
về hữu – vô mới có thể đi đến chân lí.
Khi tâm không còn vướng mắc, lệ thuộc vào bất cứ điều gì, thì những
chuyện thịnh suy, sống chết của đời người… không vướng lụy. Con người với
tâm “như gương sáng vốn không đài”, an nhiên trước mọi sự đổi thay của tạo
hóa. Đó là lúc hiển lộ con người “vô úy”, tự chủ, ung dung tự tại. Vạn Hạnh
45
thiền sư thản nhiên đón nhận mọi lẽ thịnh suy:
Nhậm vận thịnh suy vô bố úy
Thịnh suy như lộ thảo đầu phô
(Mặc cho vận đời dù thịnh hay suy đừng sợ hãi
Vì sự thịnh suy (cũng mong manh) như giọt sương đầu ngọn cỏ)
(Thị đệ tử) [79; 218]
Tinh thần “vô úy” của con người đã phá chấp triệt để, đạt đến tâm
không. Sự thịnh suy vốn làm con người vướng bận, sợ hãi. Với hành giả đã
phá chấp, tâm thanh tịnh, lẽ thịnh suy dời đổi của vũ trụ thu về nơi giọt sương
mong manh đầu ngọn cỏ.
Trần Nhân Tông thể hiện tâm trong sáng, an nhiên tự tại, đã dẹp bỏ
được vô minh để bản tính thanh tịnh hiện ra.
Thị phi niệm trục triêu hoa lạc
Danh lợi tâm tùy dạ vũ hàn
Hoa tận vũ tình sơn tịch tịch
Nhất thanh đề điểu hựu xuân tàn
(Niềm thị phi rụng theo hoa buổi sớm
Lòng danh lợi lạnh theo trận mưa đêm
Hoa rụng hết, mưa đã tạnh, núi non tịch mịch
Một tiếng chim kêu, lại cảnh xuân tàn)
(Sơn phòng mạn hứng 2) [80; 469]
Con người mang tâm an nhiên hư rỗng buông bỏ mọi thị phi của trần
thế vào thiên nhiên mùa xuân “hoa buổi sớm”, “trận mưa đêm”. Lắng đọng
sau sự diệt bỏ vọng niệm chỉ còn lại sự tĩnh mịch của núi non, sự thâm trầm
của cảnh xuân tàn, cũng là tâm an tĩnh, nguyên sơ của con người. Với tâm thế
mới, không vọng niệm, con người ấy sẵn sàng đón đợi cho một chu trình, một
vòng luân hồi mới đang khởi phát.
Trong thơ Thiền mùa xuân còn xuất hiện hình tượng của con người vô
46
ngã. Ngã là một trở ngại lớn trên con đường tu học. Chỉ có “vật ngã câu
vong”, quên cả ta và vật mới có thể hòa làm một với vũ trụ vĩnh hằng, xóa đi
khoảng cách chủ thể - khách thể, mới có được Niết bàn nơi thế gian này. Đây
cũng là một khía cạnh của tinh thần phá chấp, là cái chấp khó từ bỏ nhất của
con người trong muôn vàn cái chấp khác nhau. Con người luôn ôm giữ lấy cái
tôi với những sai lầm nhị kiến, không chịu từ bỏ những u mê, lầm lạc. Thơ
Huyền Quang với những sự “quên” thường được dẫn dụ để nói về tinh thần
vô ngã: quên ngày tháng và ở mức cao độ là quên đi sự tồn tại của bản thân:
“vong thân, vong thế, dĩ đô vong” (Quên mình, quên đời, quên hết tất cả)
(Cúc hoa 3).
Hình ảnh con người vô ngã trong những bài thơ Thiền mùa xuân hiện
hữu qua những chủ thể hòa nhập tuyệt đối vào thiên nhiên, vũ trụ vô biên.
Trong Nhị nguyệt thập nhất nhật dạ hay Đăng Bảo Đài sơn của Trần Nhân
Tông đều xuất hiện những con người với bản tâm xóa nhòa, tan biến cùng bao
la của vũ trụ vĩnh hằng.
Nhất thiên như thủy, nguyệt như trú
Hoa ảnh mãn song, xuân mộng trường
(Trời trong như nước, trăng sáng như ban ngày
Bóng hoa tràn ngập cửa sổ, giấc mộng đêm xuân triền miên)
(Nhị nguyệt thập nhất nhật dạ) [80; 460]
Trong đêm xuân, khung cảnh thiên nhiên vô tận vô biên với trời trong,
trăng sáng, bóng hoa ngập tràn. Lòng người thanh tịnh, khinh an tan hòa trong
sự thanh khiết, tĩnh lặng của xuân, trong giấc mộng dài. Con người quên đi
mọi lẽ đổi thay của đời để nhập hòa tuyệt đối cùng thiên nhiên sáng trong, vi
diệu.
Con người vô ngã có khi là con người trong trạng thái “không” tuyệt
đối, quên đi tất cả, vô vi, hòa trong thiên nhiên với bản tâm tĩnh lặng:
Vân sơn tương viễn cận
47
Hoa kính bán tình âm
Vạn sự thủy lưu thủy
Bách niên tâm ngữ tâm
Ỷ lan hoành ngọc địch
Minh nguyệt mãn hung khâm
(Núi mây như xa như gần
Ngõ hoa nửa rợp nửa nắng
Muôn việc như nước tuôn nước
Trăm năm lòng lại nhủ lòng
Tựa lan can nâng ngang chiếc sáo ngọc
Ánh trăng sáng chan hòa trước ngực)
(Đăng Bảo Đài sơn) [80; 456]
Trong cảnh xuân nửa hư nửa thực, con người bỏ qua những sự thị phi
của trần thế, “thủy lưu thủy” để tuyệt đối tĩnh lặng trong khoảng thinh không
của vũ trụ, hòa mình vào thiên nhiên với “ánh trăng sáng chan hòa trước
ngực”. Khoảng cách giữa chủ thể - con người và khách thể - tự nhiên đã bị
xóa bỏ, chỉ còn một tan biến trong thái không vĩnh hằng của xuân đang sang.
Vô ngã không phải là sự phủ định, xóa bỏ con người, mà là sự giải
phóng con người ở mức độ tuyệt đối, khỏi ngoại cảnh và cả bản thân. Con
người với tinh thần vô ngã vượt qua giới hạn của đời người để trường tồn
cùng vô hạn của đại vũ trụ.
Trong thơ Thiền mùa xuân còn có một con người khác là con người vô
ngôn. Thiền tông chủ trương “bất lập văn tự”, với phương thức tu đạo “dĩ tâm
truyền tâm”, “trực chỉ nhân tâm” đã xem khinh suy luận lý trí và ngôn ngữ.
Bởi ngôn ngữ là hữu hạn trước chân lí vô cùng. Thiền học đề cao sự trực cảm
thông qua suy luận của lí trí, khẳng định con đường tự chứng nghiệm của bản
thân mới là con đường đạt đến chân lí. Đức Phật khai ngộ cho Ca Diếp chỉ
bằng cành hoa mà không dùng một lời. Những câu nói ngắn gọn, hành động
48
của các thiền sư khi hướng dẫn học đạo chỉ xem như “ngón tay chỉ trăng” –
phương tiện dẫn giải người tu học. Như vậy, hình tượng con người vô ngôn,
xuất hiện với nhiều dạng thức trong thơ Thiền mùa xuân có căn nguyên từ
triết thuyết “vô ngôn” của Thiền học.
Im lặng là trạng thái ngộ được vô hạn của chân lí. Trong thơ Thiền hiện
hữu những khoảnh khắc con người lặng im không nói. Thi nhân đứng trước
cảnh xuân mang tâm thế giao hòa trong cảnh huống vô ngôn của thiền. Trần
Nhân Tông đắm say trước thiên nhiên, không triết lí về cuộc đời “vạn sự thủy
lưu thủy” mà chỉ: “Ỷ lan hoành ngọc địch/ Minh nguyệt mãn hung khâm”
(Tựa lan can nâng ngang chiếc sáo ngọc/ Ánh trăng sáng chan hòa trước
ngực) trong Đăng Bảo Đài sơn. Thiền gia cũng hòa bản thể vào vũ trụ vĩnh
hằng, trong trạng thái vô tâm vô ý trong Xuân cảnh:
Dương liễu hoa thâm điểu ngữ trì
Họa đường thiềm ảnh mộ vân phi
Khách lai bất vấn nhân gian sự
Cộng ỷ lan can khán thúy vi
(Trong khóm hoa dương liễu rậm, chim hót chậm rãi
Dưới bóng thềm ngôi nhà chạm vẽ, mây chiều lướt bay
Khách đến chơi không hỏi việc đời
Cùng đứng tựa lan can ngắm màu xanh mờ mịt ở chân trời)
[80; 460]
Trước khung cảnh xuân tươi đẹp, chim hót chậm rãi trong khóm hoa,
mây lướt bay trên bầu trời cao vợi, người khách đến chơi không hỏi việc đời,
chỉ duy nhất phút giây lặng im. Đây là khoảnh khắc thiên nhiên mùa xuân
đang hiển lộ vẻ đẹp tự nhiên và ban sơ, còn lòng người thanh tịnh, hòa điệu
cùng trời đất. Khoảnh khắc tương giao tuyệt diệu này không thể nói thành lời.
Chủ và khách kết nối với nhau không phải bằng ngữ ngôn hữu hạn mà bằng
49
tâm đạo vô cùng. Im lặng mà ý tứ không cùng.
Trần Quang Triều cũng mang đến một mùa xuân trong trẻo và một
trạng thái vô ngôn của Thiền trong Đề Gia Lâm tự:
Vũ thu thiên nhất bích
Trì tịnh nguyệt phân lương
Khách khứ tăng vô ngữ
Tùng hoa mãn địa hương
(Mưa tạnh, trời xanh biếc một màu
Ao trong, trăng mát dịu tỏa xuống
Khách ra về, sư chẳng nói
Mặt đất thơm ngát mùi hoa thông)
[80; 614]
Con người đứng trước cảnh xuân thanh khiết, sáng trong như được
thanh tẩy bụi trần, ưu tư, muộn phiền, để đắm chìm trong cảnh. Khách ra về
sư chẳng nói, chỉ còn thoang thoảng mùi hoa thông vương trên đất. Không khí
lặng im không lời là phút giây con người, trời và đất cùng hòa điệu, tương
giao. Bài thơ chỉ tả cảnh, sự việc, không hề có một lời bình luận hay từ ngữ
biểu đạt xúc cảm nhưng dư ba trong lòng người là vô hạn.
Trong thơ Thiền, con người vô ngôn đối diện với cảnh bằng tâm bản
thể hư rỗng. Bỏ quên việc đời với những lẽ suy vi, biến đổi khôn lường, con
người chìm trong sự im lặng “bất vấn nhân gian sự”, nhưng là sự thấu suốt
của tâm hòa nhập tuyệt đối vào chân như bất diệt của pháp. Chủ thể hòa nhập
khách thể thiên nhiên xuân bằng tâm thế “đối cảnh vô tâm”, dùng bản thể cảm
và hòa với cái vi diệu của đất trời.
Như vậy, con người mùa xuân trong thơ Thiền là con người với tinh
thần phá chấp triệt để, con người vô ngã và con người vô ngôn. Đây cũng là
những hình tượng con người nói chung trong thơ Thiền Lý – Trần. Song con
người trong cảnh sắc mùa xuân được thể hiện với những đặc sắc riêng, vượt
50
khỏi giới hạn và mang tinh thần tự chủ trên con đường tu học.
2.2. Hình tƣợng mùa xuân
2.2.1. Hoa
Hoa có ý nghĩa chung “là biểu tượng của bản thể thụ động” [5; 426],
tiếp nhận tinh túy của đất trời mà sinh tồn. Trong Phật giáo, hoa mang tính
biểu tượng cao và ẩn tàng ý nghĩa đối với việc tu đạo. Hình tượng “hoa vàng”
trong Mật tông là “biểu tượng của sự đắc đạo: sự nở hoa là kết quả của cuộc
luyện đan bên trong, của sự thống hợp giữa tinh thần (tinh) và hơi thở (khí),
giữa nước và lửa” [5; 427]. Các kinh điển nhà Phật nhắc tới điển “niêm hoa vi
tiếu” nói về việc Đức Phật Thích Ca truyền pháp cho ngài Ca Diếp, ẩn ngụ
phương pháp “dĩ tâm truyền tâm” trong Thiền tông. Hoa mang một ý nghĩa
quan trọng đối với truyền đạo và ý nghĩa biểu trưng riêng trong đạo Thiền.
Hoa xuân trong thơ Thiền không nằm ngoài những ý nghĩa chung của
biểu tượng hoa trong Thiền tông, là biểu trưng cho bản chất và quy luật vận
động của vũ trụ, nở tàn theo quy luật của tạo hóa. Dưới ánh nhìn của tâm
thiền, hoa trong sự sinh diệt là con đường thức nhận đến chân như, bến viên
giác của đạo. Hoa xuân xuất hiện với tần số cao trong các bài thơ Thiền, trở
thành một dấu hiệu của mùa xuân, với các chu trình đối cực của sự sống: hoa
khai – hoa lạc, với các dạng thức khác nhau: hoa ảnh, hoa dung, các loài hoa
xuân: mai, đào hồng, lý bạch… Những bức tranh mùa xuân với muôn vàn
dạng thể, trạng thức không chỉ đơn thuần là xúc cảm của thi nhân trước thiên
nhiên mà còn là sự gửi gắm của giáo lý Thiền học, mượn hoa để nói về đạo.
Hoa đẹp nhưng chóng tàn trước tác động của ngoại cảnh và sức công
phá của thời gian. Do đó, trong thơ nói chung, hoa biểu trưng cho cái đẹp
mong manh. Cảm thức về hoa là ngợi ca cảnh sắc, cái đẹp, sự nuối tiếc cho
cái đẹp mong manh, hay mượn hoa để nói về phù du cuộc đời. Hoa trong thơ
Thiền cũng mang tính chất chung ấy song chứa đựng đặc trưng riêng. Thông
qua hình tượng hoa, hành giả biểu đạt sự hư ảo, mong manh, phần "sắc" giả
51
tướng của bản thể. Trong Xuân vãn, Trần Nhân Tông cho thấy hình ảnh hoa
dưới ánh nhìn của tâm thế con người đã đắc đạo, thấu suốt lẽ chân như, bản
lai diện mục.
Niên thiếu hà tằng liễu sắc không
Nhất xuân tâm tại bách hoa trung
Như kim kham phá đông hoàng diện
Thiền bản bồ đoàn khán trụy hồng
(Thuở trẻ chưa từng hiểu rõ "sắc" với "không"
Mỗi khi xuân đến vẫn gửi lòng trong trăm hoa
Ngày nay đã khám phá được bộ mặt chúa xuân
Ngồi trên nệm cỏ giữa tấm phản nhà chùa ngắm cánh hoa rụng)
[80; 463]
Bằng sự nghiệm suy của cuộc đời, hành giả đã thấu triệt về sắc tướng,
nhận chân bản thể của vạn pháp, để hòa mình vào thiên nhiên trong tư thế an
tịnh của Thiền. Khi đã thức nhận được “bộ mặt chúa xuân” thì cái đẹp trong
sự sinh hay trong tàn lụi không còn vướng bận với người tu đạo. Sự mong
manh và hư ảo của hoa cuối xuân bởi thế không mang cái nhìn bi quan mà là
sự an nhiên tự tại, trước lẽ dời đổi của tạo vật, trước quy luật của tự nhiên,
bình thản đón nhận lẽ sinh tử.
Hoa đôi khi xuất hiện chỉ dưới dạng “hoa ảnh”, “hoa dung” gợi lên sự
mong manh, hư ảo. Nhị nguyệt thập nhất nhật dạ là một đêm trăng tĩnh mịch,
nhuốm một màn sương mờ, hư hư thực thực. Hư ảo của bóng hoa xuân trùm
lên hư ảo của mộng xuân. Cảnh xuân đem đến một sự u tịch, tĩnh tại của
không gian, ngừng lại của thời gian, được bao phủ bởi ý vị thiền:
Nhất thiên như thủy, nguyệt như trú
Hoa ảnh mãn song, xuân mộng trường
(Trời trong như nước, trăng sáng như ban ngày
52
Bóng hoa tràn ngập cửa sổ, giấc mộng đêm xuân triền miên)
Sơn phòng mạn hứng 2 có sự tịch lặng của thiên nhiên, có sự tàn lụi của
cảnh xuân. con người trước cảnh xuân ấy, thả trôi tất cả vướng bận thị phi, lợi
danh của bụi trần theo hoa buổi sớm, theo trận mưa đêm.
Thị phi niệm trục triêu hoa lạc
Danh lợi tâm tùy dạ vũ hàn
Hoa tận vũ tình sơn tịch tịch
Nhất thanh đề điểu hựu xuân tàn
(Niềm thị phi rụng theo hoa buổi sớm
Lòng danh lợi lạnh theo trận mưa đêm
Hoa rụng hết, mưa đã tạnh, núi non tịch mịch
Một tiếng chim kêu, lại cảnh xuân tàn)
[80; 469]
Cảnh xuân tuy có sự vận động của cảnh nhưng cuối cùng đọng lại ở sự
tĩnh lặng của cảnh và của tâm. Bài thơ có hai hình ảnh của hoa: “hoa lạc” và
“hoa tận”. Từ “hoa lạc” (hoa rụng) đến “hoa tận” (hoa rụng hết) là một chu
trình nhanh chóng mong manh của sự tàn úa. Từng cánh hoa rụng rơi là sự
phôi phai của cái đẹp tạo hóa. Sự đổi thay của hoa là sự vô thường của tạo
vật. Nhưng con người hiển lộ trong tâm thế an nhiên trút bỏ lợi danh thị phi
vào sự đổi thay. Đó là tâm cảnh của con người đã thấu hiểu lẽ đời, nhận ra
được sự vô thường của vạn pháp.
Trong thơ viết về mùa xuân, hoa mai được coi là hình ảnh tiêu biểu
mang giá trị biểu trưng cao độ. Hoa mai trong thơ Thiền được sử dụng để biểu
trưng cho sự thanh khiết, sức sống mãnh liệt, cho "kim cương" của tâm.
Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận
Đình tiền tạc dạ nhất chi mai
(Đừng cho rằng xuân tàn thì hoa rụng hết
53
Đêm qua một cành mai đã nở trước sân)
Giữa cảnh nở tàn cùng mùa xuân với “bách hoa khai”, “bách hoa lạc”,
cành mai của tâm thức đạt ngộ, tâm thiền đã giác vẫn khai hoa. Như vậy, hoa
mai trong Cáo tật thị chúng của Mãn Giác thiền sư là biểu trưng của chân như
bất diệt.
Những hình ảnh về sự gắn kết, giao hòa giữa muôn vật luôn xuất hiện
thường trực trong thơ viết về mùa xuân. Hoa và điệp đi liền, gắn bó, quấn
quýt biểu trưng cho sự gắn kết trong thiên nhiên mùa xuân. Nhưng hoa - điệp
không chỉ là thiên nhiên thực tại, đó còn là hoa điệp của triết lí thiền. Nhiều
thiền sư đã dùng hình ảnh gắn kết giữa hoa và điệp để dẫn dắt đệ tử đến với
con đường giải ngộ.
Trong Tham đồ hiển quyết, khi trả lời câu hỏi của tăng về ngọc quý Ma
– ni, sư đáp bằng câu thơ có hình ảnh của hoa bướm:
Xuân hoa dữ hồ điệp
Cơ luyến cơ tương vi
(Hãy xem bướm dỡn hoa xuân
Mấy phần quyến luyến, mấy phần lìa xa?)
[79; 278]
Bài thơ Hoa điệp của thiền sư Nguyễn Giác Hải mượn hình tượng của
hoa và bướm trong cảnh xuân sang để giác ngộ cho để tử về sự hư ảo.
Xuân lai hoa điệp thiện tri thì
Hoa điệp ưng tu cộng ứng kỳ
Hoa điệp bản lai giai thị huyễn
Mạc tu hoa điệp hướng tâm trì
(Xuân sang hoa và bướm khéo quen với thời tiết
Hoa bướm đều cần phải thích ứng với kì hạn của chúng
Nhưng hoa với bướm vốn dĩ đều là hư ảo
Chớ nên bận tâm về hoa với bướm)
54
[79; 444]
Hoa và bướm là những vật bên ngoài thân, và vốn bên ngoài nhau, có
sự biến đổi của riêng chúng, song cũng là giả tướng, bởi hoa bướm vốn dĩ là
huyễn ảo. Chỉ do vọng tâm tục niệm mà con người để tâm nhìn thấy rồi quy
kết giá trị, ý nghĩa cho những thứ hư vô ấy, bởi thế đừng nên bận tâm về hoa
và bướm. Triết lí Thiền học được truyền tải một cách trực tiếp.
Qua đôi mắt thiền quán của Trần Nhân Tông, hoa và bướm là sự quyến
luyến của mùa xuân đầy sức sống:
Nhất song bạch hồ điệp
Phách phách sấn hoa phi
(Kìa một đôi bướm trắng
Nhằm hoa, phơi phới bay)
(Xuân hiểu) [80; 453]
Với hình ảnh quấn quýt của hoa và bướm, bức tranh xuân trở nên sống
động, tươi vui, ý niệm về sức xuân tươi vui nhuốm trọn cảnh thơ. Mùa xuân
được nhận ra bởi đôi bướm trắng và hoa xuân bởi "bất tri" (không biết) của
thi nhân – thiền sư. Cặp hoa – bướm không còn là hình ảnh ám dụ truyền tải
giáo lý mà là sự tương giao hòa hợp của chúng sinh. Hoa và bướm vừa là biểu
trưng cho sự hư huyễn của sắc mà còn là sự đan quyện gắn bó của sức xuân
đang thịnh.
Như vậy, hình tượng hoa mang nhiều giá trị biểu trưng. Hoa là hình ảnh
của thiên nhiên mùa xuân tươi đẹp, của sức sống đang sinh cũng là hình
ảnh ẩn tàng những ý vị triết lí Thiền thâm áo. Hoa với những đặc trưng
riêng biệt là biểu trưng cho sự hư huyễn của sắc, giả tướng của vạn pháp,
vô thường của tạo hóa, cũng là biểu tượng cho mùa xuân bất diệt – bản thể
của tâm thiền đạt ngộ.
2.2.2. Thanh âm mùa xuân
Thiền tông phủ nhận việc chấp nê vào ngôn ngữ, coi đó như là thứ “giả
55
tướng” cản trở người tu hành tri kiến được Phật tính trong mình. Chủ trương
“bất lập văn tự”, coi giáo pháp của mình là “vô ngôn chi giáo”. Ngôn từ chỉ là
“ngón tay chỉ trăng”, phương tiện để đạt được thành quả, không phải là mục
đích cuối cùng. Để thức nhận được bản tính chân như trong mình từ “trực chỉ
nhân tâm”, cần có sự thức nhận của nội lực siêu việt, “tự thức bản tâm, tự
kiến bản tính”. Âm thanh được xem như một phương pháp bừng ngộ chân
như. Một trong những phương pháp của thiền là dùng âm thanh để đạt ngộ
cho đệ tử. “Lâm Tế xuất thế, chỉ dùng phương pháp đánh gậy và quát tháo để
dạy học trò” (Niêm tụng kệ). Một âm thanh vang vọng, đột ngột có tác dụng
thức tỉnh người tu học tâm còn u minh, chưa tỏ chân tính. Trong mật tông,
bản thể của vũ trụ được biểu đạt qua âm thanh mật chú. Âm thanh của chính
giác có thể làm cho niết bàn và luân hồi hợp nhất.
Vai trò của âm thanh đối với hành giả được thể hiện ở nhiều dạng thể
khác nhau trong Thiền tông. Tiếng chuông là một dạng âm thanh quan trọng,
giá trị biểu trưng cho sự thức tỉnh tâm mê. Chuông vốn được xem là một
trong những pháp khí quan trọng của chùa. Tiếng chuông không chỉ được coi
như hiệu lệnh của chùa chiền trong Phật giáo, nhắc nhở thời gian tu luyện mà
còn mang ý nghĩa đối với sự thức tỉnh tâm thiền người tu học. Âm thanh tiếng
chuông có tác dụng nhắc nhở con người về sự vô thường của cuộc đời và việc
cần trấn chỉnh tu hành: “Kinh tỉnh thế gian danh lợi khách, hoán hồi khổ hải
mộng mê nhân” (Khiến con người thế gian chạy theo danh lợi bừng tỉnh, kêu
gọi mọi người mau thoát khỏi bể khổ mênh mông). Trong âm thanh ấy chứa
đựng cả những ý vị thâm trầm sâu xa của đạo Thiền. Tiếng chuông chùa có
khả năng làm bừng vỡ, thức tỉnh tâm hồn những điều tốt đẹp, xua đuổi điều
xấu: “Mỗi khi tiếng chuông chùa ngân vang thì những hình phạt trong ác đạo
được tạm thời ngừng nghỉ, chúng sinh chịu hình phạt được tạm thời an vui”
[Phật ở trong lòng, HT Thích Thiện Siêu, nxb Tôn giáo, 2003; 339].Với
những ý nghĩa thâm sâu của âm thanh vang vọng, tiếng chuông vang ngân
56
xuất hiện trong thơ Thiền phá tan không gian tĩnh lặng để có được tâm thức
ngộ: “Thấp vân như mộng viễn chung thanh” (Mây ướt giăng như mộng,
tiếng chuông xa vẳng) (Vũ lâm thu vãn)
Bởi tiếng chuông mang ý nghĩa của sự an vui, tốt lành, nên được dùng
để ví tiếng sấm mùa xuân báo hiệu sức sống cho muôn vật.
Thượng đế liên sầm tịch
Thái thanh thì nhất chung
(Thượng đế thương hiu quạnh
Thỉnh thoảng điểm một tiếng chuông giữa tầng biếc)
(Động Thiên hồ thượng) [80; 455]
Âm thanh trong tu thiền có giá trị thức tỉnh tâm hành giả, giải thoát tâm
khỏi thể xác hư rỗng, giả tướng, nhìn thấy chân như bất diệt. Không Lộ thiền
sư với “Trường khiếu nhất thanh hàn thái hư” (Ngôn hoài) làm rung động cả
không gian cô tịch. Đó là tiếng thét cho sự giải thoát bản thể khỏi xác thân,
hòa nhập với vũ trụ không cùng. Chỉ với “nhất thanh” ấy đã xáo động cả thái
hư vĩnh hằng, chứng tỏ bản lĩnh, tâm thế của người đạt đạo.
Vang vọng trong không gian tĩnh lặng, dưới những dạng thức khác
nhau, âm thanh mang giá trị đồng đẳng đánh thức tâm mê của hành giả.
Nhập môn tiên át dục hà hành?
Dẫn đắc nhi tôn túy lý tinh
Bất thị xuân lôi thanh nhất chấn
Tranh giao hàm giáp tận khai manh?
(Đến nhà là quát cớ sao đây?
Vì muốn con cháu tỉnh lại ngay
Có phải sấm xuân rền một tiếng
Thì muôn hạt giống nảy mầm cây?)
Tiếng sấm rền mùa xuân làm hạt giống nảy mầm cây. Âm thanh của
tiếng sấm trong thiên nhiên xuân cũng như tiếng quát của thiền sư đối với đệ
57
tử, có tác dụng khai ngộ tâm mê. Thức tỉnh của Phật tính vốn có trong mỗi
người, cần có sự chấn động, dồn ép mới phát lộ. Triết lý của đạo về Phật tính
và phương pháp ngộ đạo được hiển lộ qua sự trực diện của âm thanh vang
vọng.
Âm thanh vang trong không gian xuân là sự nhận thức, thức ngộ những
quy luật của muôn vật, để tâm thiền an định, an nhiên đón nhận đổi thay vô
thường:
Hoa tận vũ tình sơn tịch tịch
Nhất thanh đề điểu hựu xuân tàn
(Hoa rụng hết, mưa đã tạnh, núi non tịch mịch
Một tiếng chim kêu, lại cảnh xuân tàn)
(Sơn phòng mạn hứng 2) [80; 469]
Cảnh xuân chìm trong trạng thái hư không, tĩnh mịch, lòng người dẹp
bỏ thị phi, trút bày vào thiên nhiên. Lòng thiền an định, thiên nhiên u tịch. Tất
cả không gian nội tâm và ngoại cảnh đều chìm trong trạng thái của sự tĩnh
lặng, trầm lắng. Tiến trình tàn lụi của cảnh xuân đã hoàn thành. Một tiếng
chim kêu “nhất thanh đề điểu” làm xáo động không gian tĩnh mịch, làm thức
tỉnh tâm thiền tĩnh lặng, báo hiệu một chu trình mới của vũ trụ. Âm thanh
mang giá trị thức tỉnh ấy đem đến cho người thiền một tâm thế an nhiên đón
nhận quy luật vô thường tạo vật.
Như vậy, âm thanh có một vai trò không nhỏ đối với việc tu thiền của
người học đạo. Dưới những dạng thức khác nhau: âm thanh tiếng chuông,
tiếng sấm mùa xuân, tiếng chim kêu, trong những trạng huống riêng đem đến
sự thức cảm mang đậm ý vị thiền. Đó là sự giải thoát bừng ngộ của tâm thiền
đạt đạo, báo hiệu cho niềm vui an lạc hay sự nhận thức quy luật tự nhiên, để
người tu học đón nhận với tâm an định.
2.2.3. Các hình tượng khác
Mùa xuân không chỉ được nhận diện qua hình tượng hoa xuân mà còn
58
được hiện hữu qua sự giao quyện của trời xuân, núi xuân, trăng xuân, gió
xuân, tạo nên một bức tranh thiên nhiên tươi đẹp mà thấm đậm ý vị thiền.
Trong quan niệm của Thiền tông, con người và thiên nhiên cũng chỉ là sự biến
hóa của một pháp chân duy nhất. Từ thiên nhiên, nhà tu hành thức nhận được
chân lí của đạo, tìm thấy Phật tính ở tiếng suối reo hay nơi sắc núi. Tô Đông
Pha nhà thơ Trung Quốc đời Tống tìm thấy Phật ở thiên nhiên như vậy: “Khê
thanh tiện thị quảng trường thiệt/ Sơn sắc khởi phi thanh tịnh thân” (Tiếng
suối chính là Phật diệu âm/ Màu non hiện thì pháp thân tịnh) (Tặng Đông
Lâm trưởng lão). Những hình tượng thiên nhiên mùa xuân không chỉ là đối
tượng thẩm mĩ trực tiếp thức gợi ở thi nhân – thiền gia xúc cảm, mà còn tri
nhận triết lí của đạo.
Thiên nhiên mùa xuân trong thơ Thiền được hiện hữu trong không gian
khoáng đạt, rộng lớn. Trời xuân được mở rộng đến vô cùng bởi trạng thái hòa
nhập tuyệt đối vào vũ trụ vĩnh hằng của tâm thiền đạt đạo. Hình ảnh xuất hiện
trong thơ Thiền là bầu trời cao rộng, mang vẻ đẹp thanh khiết của mùa xuân.
Trần Nhân Tông đối diện với cảnh bằng trạng thái vô ngôn “bất vấn nhân gian
sự” để đắm mình vào khung cảnh mùa xuân hiển lộ trong sắc xanh mờ của
chân trời xa: “Cộng ỷ lan can khán thúy vi” (Cùng đứng tựa lan can ngắm
màu xanh mờ mịt ở chân trời) (Xuân cảnh). Hiện hữu trong bức tranh xuân
của Trần Quang Triều cũng là một bầu trời xuân xanh trong, bao la và tĩnh
lặng: “Vũ thu thiên nhất bích” (Mưa tạnh, trời xanh biếc một màu) (Đề Gia
Lâm tự). Trời xuân còn gắn với đêm xuân, cộng hưởng cùng ánh trăng chan
hòa. Trăng càng tăng thêm vẻ cao xa của trời, quyện hòa cho đêm trăng xuân
tĩnh mịch và một không gian mở rộng đến vô cùng. Đó là đêm trăng sáng
trong Nhị nguyệt thập nhất nhật dạ cùng: “Nhất thiên như thủy, nguyệt như
trú” (Trời trong như nước, trăng sáng như ban ngày), hay sự tĩnh lặng đến vô
cùng của đêm trăng thanh sau mưa với bầu trời quang mây trong Thiên
Trường phủ: “Tễ vân thôn vũ thổ hoa tiêu” (Mây quang, mưa tạnh ngấn bùn
59
đất cũng mất sạch). Trời xuân trong thơ thiền được tạc hình trong sự rộng lớn
về chiều kích, khoáng đạt về không gian và tĩnh tại đến vô cùng. Không gian
xuân được tạc nên từ bầu trời xuân một màu xanh thẳm, hay cao rộng, sáng
trong với ánh trăng vời vợi, chìm trong sự tĩnh lặng đến tuyệt đối. Trời xuân
được quang chiếu qua đôi mắt thiền, mang sự thanh u, bình lặng và vẻ trầm
mặc của Thiền đạo.
Núi xuân cũng là một hình ảnh xuất hiện thường trực trong những bức
tranh thiên nhiên mùa xuân. Núi xuân trong thế tương hợp với những hình
ảnh về hoa, trời, nước, mây… tạo nên bức tranh xuân hài hòa, với ý vị Thiền
riêng. Núi mang ý nghĩa riêng đối với Thiền tông. Núi là nơi yên tĩnh, nơi có
thể trông thấu và bao quát mọi sự, biểu tượng cho sự hiện hữu và tĩnh lặng
vĩnh cửu. Bởi thế, núi được chọn là nơi để tầm đạo, nuôi dưỡng chân tính, có
ý nghĩa quan trọng đối với tu tập trong Thiền. Hình ảnh núi trong thơ Thiền
do đó vừa là cái nhìn về thiên nhiên cảnh sắc vừa kí thác ý niệm đạo học. Núi
xuân trong khung cảnh thiên nhiên tươi đẹp thấm đẫm ý vị Thiền mang vẻ hư
thực, như có như không: “Vân sơn tương viễn cận/ Hoa kính bán tình âm”
(Núi mây như xa như gần/Ngõ hoa nửa rợp nửa nắng) (Đăng Bảo Đài sơn).
Hình ảnh của núi trong thơ Thiền thường mang vẻ cô tịch, tĩnh mịch, xa xôi.
Trong Sơn phòng mạn hứng là cảnh núi xuân tịch lặng, thấm đẫm ý vị thiền:
“Hoa tận vũ tình sơn tịch tịch/Nhất thanh đề điểu hựu xuân tàn” (Hoa rụng
hết, mưa đã tạnh, núi non tịch mịch/Một tiếng chim kêu, lại cảnh xuân tàn).
Tâm thiền đã an định cùng với sự trút bỏ thị phi cùng thiên nhiên xuân, chỉ
còn lại sự tĩnh mịch của núi. Mọi cảnh vật đều trong trạng thái của sự hoàn
kết. Và đọng lại ở không gian yên tĩnh của núi non. Và tiếng chim kêu phá vỡ
cảnh yên tĩnh đó là sự thức tỉnh đối với tâm thiền, để bắt đầu một vòng mới
của quy luật sinh diệt với tâm thế an nhiên. Núi xuân trong bức tranh mùa
xuân hòa quyện cùng các hình ảnh khác tạo nên một sự hài hòa và hơn hết là
sự cô tịch, thấm đẫm ý vị của đạo. Hình ảnh núi non cô tịch thức gợi về mùa
60
xuân thiền thanh vắng và một tâm thiền an định của thi nhân – thiền gia.
Trăng xuân là hình ảnh mang giá trị biểu trưng và biểu cảm lớn trong
thơ Thiền. Trăng vốn mang tính âm, thường tượng trưng cho ánh sáng tâm
linh. Ánh trăng biểu trưng cho trí huệ bát nhã, cho sự viên giác. Cũng như các
hình ảnh khác, trăng trong thơ Thiền mang ý nghĩa biểu thị trực tiếp và ý
nghĩa chuyển tải triết lí Thiền. Trăng được xem như chân như của vạn pháp,
là cái còn trong cái mất: “Thủy lưu nguyên tại hải/ Nguyệt lạc bất li thiên”
(Nước trôi ắt về biển/ Trăng lặn chẳng lìa trời) (Niêm tụng kệ), hoặc là hình
ảnh của cái “có” trong cái “không”: “Vô vân sinh lĩnh thượng/ Hữu nguyệt lạc
ba tâm” (Mây “không” sinh đỉnh núi/ Trăng “có” rơi đáy sông) (Niêm tụng
kệ). Hình ảnh của trăng trong nước biểu trưng cho sự giác ngộ. Mặt trăng
trong nước nhưng không thể phá vỡ mặt nước, là cái hiện hữu nhưng không
thể nắm bắt: “Thu nguyệt ảnh đoàn đoàn viên diệu” (Ánh trăng thu tròn đầy
viên diệu) (Trữ từ tự cảnh văn) là chính giác viên mãn của người đạt đạo.
Hình ảnh trăng xuân trong thơ Thiền Lý – Trần thường xuất hiện trong
một khoảng vô tận, không giới hạn, trong sự tĩnh mịch vô biên. Trăng làm
tăng thêm sự thanh tịch cho cảnh xuân. Đó là những đêm xuân ánh trăng
chiếu sáng vô ngần, tạo nên sự giao hòa quyến luyến của cảnh vật trong Nhị
nguyệt thập nhất nhật dạ: “Nhất thiên như thủy, nguyệt như trú/ Hoa ảnh mãn
song, xuân mộng trường” (Trời trong như nước, trăng sáng như ban ngày/
Bóng hoa tràn ngập cửa sổ, giấc mộng đêm xuân triền miên), hay ánh trăng
sáng thêm vẻ cô tịch cho đêm xuân tâm thiền đã tịnh của Thiên Trường phủ:
“Trai đường giảng hậu tăng quy viện/ Giang quán canh sơ nguyệt thượng
kiều” (Trên trai đường, giảng kinh xong các sư về viện/ Quán bên sông, mới
canh đầu trăng đã lên cầu). Đăng Bảo Đài sơn lại cho thấy một tâm thiền “đối
cảnh vô tâm”, giao hòa tuyệt đối cùng thiên nhiên vũ trụ vĩnh hằng:
Ỷ lan hoành ngọc địch
Minh nguyệt mãn hung khâm
Tựa lan can nâng ngang chiếc sáo ngọc
Ánh trăng sáng chan hòa trước ngực)
61
[80; 456]
Thi nhân – thiền gia nâng ngang chiếc sáo ngọc, hòa mình vào thiên
nhiên dưới ánh trăng sáng chan hòa. Đó là sự hòa mình một cách tuyệt đối
trong trạng thái vô ngôn của Thiền. Ánh trăng sáng bao la giữa trời gợi cảm
nhận về chân lí duy nhất, tuyệt đối, thường hằng, bừng ngộ triết lí đạo. Trăng
mùa xuân trong thơ Thiền là ánh trăng của đạo, là biểu trưng cho Phật tính,
chân tâm, cũng là xúc cảm của thi nhân – thiền gia trước thiên nhiên xuân.
Gió cũng như những yếu tố thiên nhiên khác: núi, trăng, mưa,… tạo
thành bức tranh về mùa xuân có sự giao hòa tinh tế của muôn vật. Đây là một
trong bốn yếu tố cơ bản cấu thành của muôn vật (địa, thủy, hỏa, phong). Gió
mang tính động, luân chuyển, mang đặc tính về sự vô hình, chỉ có thể cảm mà
không thể nắm bắt. Bởi vậy, gió được quan niệm như một biểu hiện của giả
tướng bên ngoài, phi thực. Trong thơ Thiền, hình tượng gió xuân mang nhiều
ý niệm thâm áo. Trả lời cho câu hỏi về gia phong của Phật Thích Ca: “Như hà
thị hiện tại Phật gia phong ?”, gió xuân được dùng để biểu ý cho sự đổi thay,
tương giao của muôn vật: “Bạch thủy gia phong mê hiểu yến/ Hồng đào tiên
uyển túy xuân phong” (Nước trắng thêm gió vào làm mê chim én sáng/ Đào
hồng trong vườn tiên làm say gió xuân) (Sư đệ vấn đáp). Gió xuân là dấu hiệu
đầu tiên của mùa xuân, đem đến sự đổi thay cho muôn vật. Trong Tảo mai 2
của Trần Nhân Tông, gió xuân đem đến sự đổi thay diệu kì. Bắt đầu từ làn gió
xuân thổi đến “Đông phong tiên dĩ đáo cô côn” (Mà gió xuân đã sớm đến với
gốc cây cô đơn) đã làm muôn vật đổi thay “Ảnh hoành thủy diện băng sơ bạn/
Hoa áp chi đầu noãn vị phân” (Bóng ngả trên mặt nước, băng giá bắt đầu tan/
Hoa trĩu nặng đầu cành, hơi ấm chưa định rõ). Ngọn đông phong thổi làm tan
chảy băng giá của mùa đông, hoa bắt đầu trĩu trên cành. Cảnh xuân vừa sang,
tiết ấm chưa rõ hẳn, ngọn gió xuân đã đem đến bao tươi mới cho cảnh vật.
Gió xuân còn là biểu trưng cho yếu tố đem đến sự đạt ngộ. Từ đặc tính
về sự đổi thay trong sắc khí mùa, mang lại sự sinh sôi cho vạn vật, gió được
62
xem như yếu tố quan trọng cho sự tạo sinh. Xuất phát từ sự đổi thay ấy,
khung cảnh mùa xuân với hoa nở trong gió trở thành hình ảnh biểu trưng cho
bừng nở của đạo. Trong Nhập trần, gió xuân là yếu tố biểu trưng cho sự đạt
đạo: “Tự đắc nhất triêu phong giải đống/ Bách hoa nhưng cựu lệ xuân đài”
(Một sớm gió đông thổi tan băng giá/Trăm hoa như cũ reo trước gió xuân).
Hoa cùng gió xuân tương tác trong mối quan hệ nhân quả, hòa hợp. Gió xuân
thanh tẩy những vọng niệm tâm tục của con người để đạt đến sự giải thoát,
như trăm hoa nở trong gió xuân.
Gió tuy có thể cảm được nhưng không thể thâu tóm một cách cụ thể,
hữu hình nhưng lại vô hình như “gió cành thông lòng sông trăng sáng” (Tầm
hưởng, Minh Trí). Gió được Trần Tung ví với tâm hư rỗng, có mà không
trong Vạn sự quy như: “Tâm nhược thanh phong tính nhược bồng” (Tâm như
gió mát, tính như cỏ bồng). Sự vô hình và hữu hình, tính chất khó nắm bắt cụ
thể của gió được thể hiện yếu tố siêu thoát của tâm thiền. Đối với sự miêu tả
về cảnh sắc, gió xuân không nắm bắt được bằng thị giác song có thể thẩm
nhận bằng xúc giác, tâm cảm. Gió xuân mang đến sự đổi thay cho cảnh sắc,
gắn với những giá trị biểu trưng trong những trạng huống cụ thể.
Như vậy, sự hòa quyện giữa các hình tượng trời, núi, trăng, gió xuân
đem đến cho bức tranh thiên nhiên mùa xuân sự đa sắc tươi mới và những ý
niệm Thiền riêng trong từng khung cảnh cụ thể. Những hình tượng thiên
nhiên này không chỉ có ý nghĩa biểu hiện trực tiếp đem đến cho thi nhân –
thiền gia xúc cảm mà còn cảm được triết lí thâm áo của Thiền đạo.
2.3. Triết lí Thiền trong thơ thiền mùa xuân
2.3.1. Mùa xuân – cảnh giới của Thiền
Cảnh giới là sự đạt đến cõi nào đó trong đạo Thiền. Trong Thiền học, sự
giác ngộ với những tầng bậc nông sâu chính là các cảnh giới khác nhau của
Thiền, cao nhất là cảnh giới của bậc chứng quả, tức là đã từ bỏ mọi vọng niệm,
hiển lộ bản tính chân như. Cảnh giới của sự khai ngộ không nằm ngoài thực tại
mà trong tâm tính của mỗi người và phụ thuộc vào cách thức của mỗi người.
63
Con người cần rũ bỏ tạp niệm để trở về với bản tâm, căn nguyên vốn có.
Mùa xuân trong quan niệm văn chương thường mang ý niệm về thời
gian còn trong Thiền, biểu tượng mùa xuân mang một sắc thái khác, không
chỉ là vòng tuần hoàn, là quy luật của vũ trụ, vần xoay của đất trời. Mùa xuân
trong đạo Thiền là một cảnh giới cao độ, khoảnh khắc ngộ đạo mà người tu
hành đạt tới. Đối với thiền sư, tìm được nơi an trú của tâm hồn, sự an lành
trong khoảnh khắc hay miên viễn chính là mùa xuân của đạo. Đó là mùa xuân
của sự tỉnh thức, ngời sáng thế giới tâm linh, mùa xuân của một bản thể
không còn chấp mê, bất ngộ, tạo sinh cho một bản thể mới đã tìm về với
“chân diện mục”.
Thiền quan niệm Phật tính tự nhiên đã có trong mỗi con người, chỉ khi
con người tự tìm thấy được bản nguyên chân thật, trong sáng của mình mới có
thể đốn ngộ. Bởi vậy mới nói “kiến tính thành Phật”. Quá trình để tìm được
chân tính trong mỗi con người là khác nhau. Mỗi người tu hành thể ngộ và
đốn ngộ bằng những phương pháp riêng như “Xuân vũ vô cao hạ/ Hoa chi
hữu đoản trường” (Mưa xuân không cao thấp/ Cành hoa có ngắn dài) (Ngữ
lục vấn đáp môn hạ). Khoảnh khắc đốn ngộ là khi con người nhận ra chân
tính, sự vô thường của vạn vật, an nhiên trước lẽ đổi thay của con tạo.
Để đạt đến cảnh giới cần có sự giác ngộ. Thiền học chủ trương giác ngộ
bằng “trực chỉ nhân tâm”, “dĩ tâm truyền tâm”, trong đó có sự dẫn giải bằng
trực giác, chú trọng đến các hình tượng sinh động, giàu hình ảnh. Mùa xuân
với tất cả những sắc thái biến chuyển, ẩn tàng quy luật của tạo hóa, chảy trôi
của thời gian là sự biểu trưng cho cảnh giới của Thiền. Như sự cảnh giới trong
Thị đệ tử của Vạn Hạnh từ sự giác ngộ về sự vô thường của cuộc đời hiện hữu
trong sự đổi khác của muôn vật:
Thân như điện ảnh hữu hoàn vô
Vạn mộc xuân vinh thu hựu khô
Nhậm vận thịnh suy vô bố úy
64
Thịnh suy như lộ thảo đầu phô
(Người đời như bóng chớp, có rồi không
Như cây cối mùa xuân tốt tươi, mùa thu khô héo
Mặc cho vận đời dù thịnh hay suy đừng sợ hãi
Vì sự thịnh suy như giọt sương đầu ngọn cỏ)
[79; 218]
Sự nhận thức từ quy luật của mùa xuân, muôn vật bừng ngộ được sắc -
không của cuộc đời. Thân xác con người như một bóng chớp, có rồi không
ngắn ngủi giữa sự vĩnh hằng của tạo hóa, cũng như quy luật đổi thay của
muôn vật “xuân vinh thu hựu khô”, thịnh suy là một lẽ hằng thường, bất biến.
Từ quy luật của tự nhiên để nhận chân thái độ trước cuộc đời, thản nhiên
không chút sợ hãi. Chỉ có chân tâm là tồn tại vĩnh hằng. Giọt sương đầu ngọn
cỏ “lộ thảo đầu phô” là kết tinh cho tâm người tu thiền đã thể ngộ và đốn ngộ.
Đó là sự thản nhiên của tâm Thiền trước cái vạn biến của tạo vật.
Cành mai trong bài thơ Cáo tật thị chúng của thiền sư Mãn Giác là hình
ảnh của mùa xuân, cũng mang giá trị biểu trưng cho cảnh giới Thiền. Vị thiền
sư đã thấu hiểu sự vô thường của cuộc đời, thấy được bằng tâm thiền sự bất
biến trong vạn biến của tạo hóa.
Xuân khứ bách hoa lạc
Xuân đáo bách hoa khai
Sự trục nhãn tiền quá
Lão tòng đầu thượng lai
Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận
Đình tiền tạc dạ nhất chi mai
(Xuân đi trăm hoa rụng
Xuân đến trăm hoa lại nở
Việc đời theo nhau ruổi qua trước mắt
Tuổi già hiện đến từ trên mái đầu
Đừng cho rằng xuân tàn thì hoa rụng hết
Đêm qua một cành mai đã nở trước sân)
65
[79; 298]
Vạn biến của muôn vật được thể hiện trong mùa xuân với sự đổi thay
của muôn hoa. Tương ứng với sự đáo – khứ (đến – đi ) của mùa xuân là sự
khai – lạc (nở – tàn) của hoa cỏ. Đó là sự biến chuyển của muôn vật trước
công năng của thời gian. Thân sắc con người cũng không nằm ngoài quy luật
ấy: “lão tòng đầu thượng lai”. Sự vạn biến của tạo hóa là quy luật hằng biến
không thể thay đổi. Nhưng thiền sư vẫn nhìn thấy sự bất biến trong cái vạn
biến. Sự bất biến không phải ở bên ngoài mà ở bên trong, là tinh thần tư
tưởng của con người, vững vàng vượt qua được mọi bến đổi của thời gian và
vần xoay của tạo hóa. Đó là cành mai của sự thức ngộ, khi tâm đã tìm được
chân tính, để an nhiên không chuyển suy trước cuộc đời. Giá trị biểu trưng
của “nhất chi mai” – mùa xuân cho cảnh giới đạo Thiền chính là sức mạnh
của bản thể trường tồn đang hằng thường trong muôn vật, mang ý chí bất diệt
của nhà Phật.
Thơ thiền của Trần Tung – “gương mặt lạ” của văn học Lý – Trần có
sự dung hợp giáo lý Thiền tông, tư tưởng Lão Trang và hòa quyện cùng các
yếu tố của Nho gia. Sự đốn ngộ “minh tâm kiến tính” được thể hiện trong bài
thơ Thị học:
Học giả phân phân bất nại hà
Đồ tương linh đích khổ tương ma
Báo quân hưu ỷ tha môn hộ
Nhất điểm xuân quang xứ xứ hoa
(Người học đạo rối bời, chẳng biết làm sao đây
Luống công đem viên gạch mài vào nhau một cách khổ sở
Bảo cho anh biết đừng có dựa vào cổng ngõ nhà khác
Chỉ một chấm sáng mùa xuân vừa lóe hiện thì khắp chốn đều nở hoa)
[80; 232]
Bài thơ là lời khuyên dành cho người tu học không nên câu chấp vào
66
sách vở chữ nghĩa, vì không trực cảm được tâm linh của Thiền. Dựa vào tha
lực cũng như “đem viên gạch mài vào nhau” hay “dựa vào cổng ngõ nhà
khác”, đều là những việc uổng công. Phật tính tồn tại trong bản tâm tự nhiên
của mỗi người, chỉ có thể dựa vào nội tâm của chính mình mới có thể ngộ
đạo. “Nhất điểm xuân quang xứ xứ hoa” là biểu trưng cho sự ngộ đạo. Mầm
hoa đã có sẵn trong muôn cây, chỉ chờ làn gió xuân thổi đến để được bung nở.
Phật tính cũng như mầm hoa, tự nhiên trong con người, chỉ có thể dùng tâm
nỗ lực mới tìm thấy điểm sáng để khai mở chân tính. “Nhất điểm xuân quang”
(Một chấm sáng mùa xuân lóe lên) là điểm đốn ngộ mà người tu học cần tìm
được. Mùa xuân với “xứ xứ hoa” cũng là cảnh giới khi tìm được Phật tính.
Xuân trong ý nghĩa của Thiền không chỉ còn là phương tiện để dẫn dắt
người tu đạo đạt ngộ, mà còn là sự thể nghiệm, là biểu trưng của tâm thiền
đắc đạo, như nhành mai trong gió tuyết của Mãn Giác thiền sư hay khoảnh
khắc bừng ngộ Phật tính của “chấm sáng mùa xuân” qua những vần thơ của
Trần Tung thượng sĩ. Mùa xuân là biểu trưng cho bản thể của con người đã
tìm được chân tính, là con người thể ngộ và đốn ngộ đạo Thiền.
2.3.2. Mùa xuân và triết lí vô thường
Vô thường phản ánh một quan điểm cơ bản của triết học Phật giáo, cho
rằng mọi sự vật trong thế giới hữu vi đều không ngừng vận động theo chu
trình sinh, trụ, dị, diệt. Đây là sự khẳng định “vô thường chư pháp hành”,
tất cả mọi vật đều luôn luôn biến diệt, không trường tồn. Sự vô thường,
biến động là tất yếu của tạo hóa, cũng chính là tính tất yếu của pháp tướng,
nhưng con người vô minh không nhận thức được, mà chấp nê vào những
thứ hiện hữu.
Con đường của sự tu học cũng là nhận thức được thế giới bên ngoài và
tự thân. Vô thường là chân tướng của đời người cho nên con người chỉ nên
chấp nhận mà không nên cưỡng cầu. Bởi “chấp nhận vô thường cũng là để
thoát khỏi luật vô thường, bằng cách thoát li sự “chấp trước”” [31; 180].
67
Trong quán chiếu vô thường, hành giả đi từ cái biệt thể đến cái tổng thể và
ngược lại, để đạt được trí huệ viên mãn, nhận thức sâu sắc về sự biến đổi và
tính chất tạm thời của tạo vật. Tri thức về sự vô thường có được giúp người tu
học đạt đến một tâm an nhiên khi hiểu thấu tính chất tạm thời trong sinh diệt
của muôn vật.
Tri nhận về sự đổi thay "hoại diệt là bản chất của chư hành", được
thông qua sự tương ứng với quy luật của thiên nhiên. Muôn vật thay đổi cùng
sự xoay chuyển của bốn mùa trong năm, cũng như con người cùng sinh, lão,
bệnh, tử, hay lẽ thịnh suy của đời người. Lẽ vô thường được nhận diện và
chứng ngộ từ sự vạn biến của quy luật tự nhiên. Chu Hy, triết gia đời Nam
Tống, Trung Hoa thức nhận về sự chóng vánh đổi thay của đời người tương
hợp với sự biến đổi của tự nhiên: “Thiếu niên dị lão học nan thành/ Nhất thốn
quang âm bất khả khinh/ Vị giác chì đường xuân thảo mộng/ Giai tiền ngô
diệp dĩ thu thanh” (Tuổi già dễ đến học nan thành/ Một tấc quang âm chẳng
dám khinh/ Giấc mộng ngày xuân chưa kịp tỉnh/ Lá ngô trước mắt chẳng còn
xanh). Đời người trôi qua nhanh chóng cũng như thiên nhiên xuân chuyển
sang thu chỉ trong một khoảnh khắc.
Mùa xuân trong thơ Thiền Lý – Trần cũng là sự thể nghiệm của những
chứng ngộ về sự đổi thay vô thường. Những quy luật của tự nhiên, nhất là sự
biến đổi của vạn vật theo mùa với hai cặp đối chọi xuân – thu xuất hiện với
tần số cao trong kiến giải về vô thường. Lẽ vô thường không được phát biểu
dưới dạng trực tiếp mà đến với người tu học bằng con đường trực cảm, dĩ tâm
truyền tâm. Hình ảnh mùa xuân được dùng như một phương tiện biểu đạt cho
triết lí vô thường của tạo vật. Các thiền gia nhận diện, thức ngộ thông qua các
thi ảnh là các hình ảnh thiên nhiên quen thuộc (hoa nở, hoa tàn,…). Vô
thường được nhận diện từ những hiện tượng loại biệt, từ đó khái quát, chứng
ngộ cho cái tổng thể:
Ly hạ trùng dương cúc
68
Chi đầu thục khí oanh
(Trùng dương đến cúc vàng dưới dậu
Xuân ấm về oanh náu đầu cành)
(Tham đồ hiển quyết) [79; 477]
Xuân khứ bách hoa lạc
Xuân đáo bách hoa khai
(Xuân đi, trăm hoa rụng
Xuân đến, trăm hoa lại nở)
(Cáo tật thị chúng) [79; 299]
Xuân đến mang lại khuôn mặt mới cho muôn vật, oanh náu đầu cành,
muôn hoa đua nở. Xuân tàn chỉ còn lại sự rụng rơi, héo úa của cảnh. Sự đến
và đi của xuân như là sự hiển lộ của quá trình sinh, trụ, dị, diệt theo quy luật
thời gian. Trước lẽ đổi thay vạn hình của muôn vật, thơ Thiền thâu nhận và tỏ
bày về suy thịnh của tạo vần, sự suy nghiệm của thi nhân về lẽ thịnh suy của
tự nhiên và con người.
Thấu triệt về bản chất vô thường, các thiền gia đối diện với vô thường
bằng một tâm thế an nhiên, điềm tĩnh, “vô úy”. Người tu hành đạt đến “nhậm
vận” sẽ trở về với tự tính, an nhiên trong sự vận động vĩnh cửu trường tồn của
bản thể. Trần Thái Tông thức ngộ đời người chỉ như một khoảnh khắc, mà sự
thịnh suy chỉ như cây nấm nhỏ:
Thức hốt hoa âm trùng phục đảo
Tuần tuần khuẩn mệnh thịnh hoàn suy
(Phút chốc bóng hoa lại nghiêng ngả
Mệnh như cây nấm tuần tự thịnh rồi suy)
(Thử thời vô thường kệ) [80; 182]
Thiền sư Vạn Hạnh dẫn dắt đệ tử về sự đổi thay cuộc đời trong bài kệ
Thị đệ tử: “Vạn mộc xuân vinh thu hựu khô” (Như cây cối mùa xuân tốt tươi,
mùa thu khô héo). Lẽ tất nhiên của tạo hóa, lẽ thịnh suy của muôn vật là quy
69
luật phát triển tất yếu, nên cũng mong manh “Thịnh suy như lộ thảo đầu phô”
(Vì sự thịnh suy như giọt sương đầu ngọn cỏ). Với tâm thiền ngộ được lẽ vô
thường sinh tử của đời người trở thành giản đơn: “Sinh như trước sam/ Tử
như thoát khổ” (Sinh tử) [80; 415]. Thi nhân – thiền gia thâm ngộ chân lý từ
sự biến chuyển của tự nhiên, và có thái độ hợp lẽ trước đổi thay vô thường
của tạo vật.
Con người khi có được trí huệ viên mãn, soi thấu lẽ vô thường của vạn
vật, đạt đến tâm an định, không còn chấp nê vào ngoại cảnh – những yếu tố
luôn đổi thay. Trần Nhân Tông rũ bỏ mọi ý niệm về lợi danh cùng sự suy tàn
của tự nhiên:
Thị phi niệm trục triêu hoa lạc
Danh lợi tâm tùy dạ vũ hàn
(Niềm thị phi rụng theo hoa buổi sớm
Lòng danh lợi lạnh theo trận mưa đêm)
(Sơn phòng mạn hứng 2) [80; 469]
Ý niệm vô thường nằm trong thức cảm về sự suy vi của thiên nhiên:
hoa rụng, mưa tạnh… Con người mang tâm thiền an định, nhận thức được lẽ
sinh diệt tự nhiên ấy, trút bỏ gánh nặng lợi danh vào thiên nhiên. Đó cũng là
lúc con người đạt ngộ về vô thường, mang tâm thế sẵn sàng cho một vòng
luân hồi mới: “Nhất thanh đề điểu hựu xuân tàn” (Một tiếng chim kêu lại cảnh
xuân tàn). Cũng như Thiền Lão trả lời vua Lý Thái Tông khi đến thăm chùa:
Đãn tri kim nhật nguyệt
Thùy thức cựu xuân thu
(Chỉ biết ngày tháng đang diễn ra trước mắt
Nào ai hay những mùa xuân mùa thu đã trôi qua)
Bởi vô thường là tự nhiên của muôn vật, cũng như xuân thu trôi qua
trước mắt, nên hành giả chỉ cần biết ngày tháng của hiện tại, không chấp nê
70
vào ngoại giới, trải cuộc đời với sự khinh an.
Triết lí vô thường được thể nghiệm và đạt ngộ từ quy luật vận hành bên
ngoài thân để chứng ngộ cho lẽ đạo. Con người khai mở tri kiến về lẽ sinh
diệt của tự nhiên sẽ ngộ được chân đạo. Thái độ ung dung, tự tại và an nhiên,
"vô úy" trước mọi suy thịnh của vạn vật là thái độ sống mà Thiền tông hướng
người tu học đạt đến.
2.3.3. Mùa xuân và triết lí sắc – không
“Sắc” bao hàm thế giới có hình danh, thể dạng nhưng chỉ là những
dạng tướng khác nhau của pháp, giả tướng, không phải là thật. “Không” là
trạng thái bất biến đằng sau các sự vật hiện tượng. Thiền học khẳng định các
hiện tượng chỉ là ảo ảnh của một bản thể duy nhất, nhưng có mối quan hệ
chuyển biến liên tục, trong đó không là nơi tạo sinh và trở về trạng thái diệt
vong của các hiện tượng đó. "Không" không phải là sự phủ nhận thế giới
quan tuyệt đối bởi "chân không diệu hữu", cái chân thật là cái có vi diệu. Sắc
và không có mối quan hệ mật thiết, không tách rời nhau, sắc là không, không
cũng là sắc: “Sắc thị không, không tức sắc/ Không thị sắc, sắc tức không”
(Sắc không, Lê Thị Ỷ Lan).
Triết lí về sắc không là triết lí về cái hữu hình, luôn biến chuyển và cái
vô hình song lại bất biến. Nhận chân bản thể của sắc để tri kiến uyên áo của
thân chính là chứng ngộ của thiền. Triết lí sắc không cũng như các triết lí cơ
bản khác của Thiền học, được ẩn chứa trong những hình ảnh của thiên nhiên.
Từ thực tại ngoại cảnh, đúc rút triết lí và thấu suốt về bản tâm nội tại:
Thúy trúc hoàng hoa phi ngoại cảnh
Bạch vân minh nguyệt lộ toàn chân
(Trúc biếc hoa vàng chẳng phải là cảnh bên ngoài
Mây trắng trăng trong lộ rõ cái chân toàn vẹn)
(Nhật nguyệt) [79; 239]
Hồng đào thụ thượng chân thời tiết
71
Hoàng cúc ly biên bất thị xuân
(Trên cây đào thắm đúng kì
Cúc vàng bên dậu chắc gì đã xuân)
(Đối cơ) [80; 315]
Thiền Lão, Trần Tung nhìn thấy không trong sắc, chân như trong lẽ tự
nhiên của vạn vật. Cúc vàng, đào thắm nở cũng chỉ là vẻ ngoài của sắc tướng.
Vẻ ngoài không phải là chân như của pháp. Triết lí sắc không nói chung ngoài
các phát biểu luận giải trực tiếp bằng điển cố, từ ngữ Phật giáo, được hiển lộ
qua quy luật biến dịch của thiên nhiên. Ở đây, xuân, thu, muôn vật với sự hiện
hữu rõ ràng của sự chuyển biến ám tàng cho giả tướng của ngoại giới.
Sắc là thứ ngoài thân không cần xét đến, chỉ có vọng niệm của tâm
chưa bỏ mới trông thấy hình hài của giả tướng ấy. Trong các bài thơ Thiền Lý
– Trần đều chứa đựng thái độ cần có của người tu học trước sắc không của
cuộc đời.
Nguyễn Giác Hải dùng hình ảnh của hoa và bướm để truyền tải ý niệm
về sự hư ảo, giả tướng của sắc:
Xuân lai hoa điệp thiện tri thì
Hoa điệp ưng tu cộng ứng kỳ
Hoa điệp bản lai giai thị huyễn
Mạc tu hoa điệp hướng tâm trì
(Xuân sang hoa và bướm khéo quen với thời tiết
Hoa bướm đều cần phải thích ứng với kì hạn của chúng
Nhưng hoa với bướm vốn dĩ đều hư ảo
Chớ nên bận tâm về hoa với bướm)
(Hoa điệp) [79; 444]
Cảnh hoa và bướm trong tiết xuân sang là sự khởi đầu của sinh trong sự
hoàn tác chuyển dịch về phía diệt. Nhưng tất cả chỉ là phần sắc tướng bên
ngoài, mong manh, hư ảo, con người cần dùng tâm hư rỗng để đối diện giả
72
tướng và mục diện chân như.
Trần Nhân Tông cũng nhận rõ sắc không cùng với sự trải nghiệm cuộc
đời :
Niên thiếu hà tằng liễu sắc không
Nhất xuân tâm tại bách hoa trung
Như kim kham phá đông hoàng diện
Thiền bản bồ đoàn khán trụy hồng
(Thuở trẻ chưa từng hiểu rõ sắc với không
Một khi xuân đến vẫn gửi lòng trong trăm hoa
Ngày nay đã khám phá bộ mặt của chúa xuân
Ngồi trên nệm cỏ giữa tấm phản nhà chùa ngắm cảnh)
(Xuân vãn) [80; 263]
Khi còn trẻ, chỉ chú tâm đến hình hài của sắc tướng của ngoại cảnh mà
gửi lòng trong trăm hoa. Hiểu được lẽ sắc không của đời "khám phá bộ mặt
của chúa xuân", con người an nhiên, tự tại trong tâm thế của Thiền, bình thản
đón nhận sự dời đổi, biến ảo sắc tướng của muôn vật. Tâm thiền không chỉ
thấu vẻ đẹp trong sự sinh "bách hoa trung" mà còn trong sự diệt "khán trụy
hồng". Thái độ an nhiên trước sắc không cũng là tri kiến về chân như, hiểu
thấu lẽ đổi dời của vạn pháp.
Lẽ sắc không của đời trong Thiền học được thể hiện một cách ẩn ý qua
hình ảnh của mùa xuân với muôn sắc của trăm hoa. Triết lí về sắc không đem
đến cho người tu học thẩm nhận bản chất của sự vật, hướng từ cái nhìn ngoại
cảnh vào bên trong tâm cảnh, đạt đến tâm an định và thái độ an lạc trước sắc
không của cuộc đời vô thủy vô chung luôn dời đổi.
Tiểu kết:
Mùa xuân trong thơ Thiền Lý – Trần được biểu đạt với ý nghĩa trực
tiếp và cả ý nghĩa biểu trưng, hàm chứa triết lí của đạo. Cảnh xuân quang
chiếu qua đôi mắt thiền thanh giản, tương giao giữa muôn vật, đồng thời ẩn
73
hiện trong đó tâm cảnh của con người vô ý “đối cảnh vô tâm” nhưng gần với
thế tục, mang tư tưởng “hòa quang đồng trần”, gần đời mà không xa rời lẽ
đạo. Thiên nhiên mùa xuân được gắn với những hình tượng tiêu biểu như hoa
xuân, trời, núi, trăng, gió xuân, âm thanh mùa xuân cùng những giá trị biểu
trưng mang ý vị của Thiền. Triết lí Thiền học ẩn chứa trong những hình ảnh
đa sắc và quy luật tuần hoàn đổi thay của vạn vật. Mùa xuân cùng những đặc
tính riêng thẩm nhận vào thơ Thiền trở thành phương tiện để dẫn dắt người tu
74
học đến được với lẽ chân như, tìm thấy Phật tính trong nội tại.
CHƢƠNG 3
NGHỆ THUẬT THỂ HIỆN MÙA XUÂN TRONG THƠ
THIỀN LÝ – TRẦN
3.1. Nghệ thuật miêu tả mùa xuân trong thơ Thiền Lý – Trần
Trong thơ Thiền Lý – Trần hiện hữu mùa xuân mang ý nghĩa trực tiếp
và mùa xuân biểu trưng cho lẽ đạo. Sự đánh giá này chỉ mang tính chất tương
đối, song lại nhận diện được mùa xuân với sức nặng lý thiền khác nhau trong
vai trò là phương tiện để truyền tải triết lý và là khách thể thẩm mĩ thực sự.
3.1.1. Miêu tả khái quát
Thơ Thiền Lý – Trần có những hình ảnh mùa xuân chủ yếu mang giá trị
của phương tiện thuyết giảng về đạo chứ không nhằm miêu tả như một khách
thể. Những câu thơ về mùa xuân như vậy ẩn chứa sức nặng thiền lý. Mùa
xuân được miêu tả với những hình ảnh quen thuộc, trang nhã như: hoa (mai,
đào, mận,…), gió, trăng, núi,… xuất hiện mang mục đích biểu đạt, chuyên
chở triết lí. Mùa xuân do đó được miêu tả ở dạng khái quát, tức là miêu tả, gợi
dẫn về mùa xuân với cảnh sắc trong quy luật tự nhiên của nó, không phải
dạng cá biệt trong một trạng huống cụ thể.
Cảnh sắc mùa xuân là thiên nhiên nói chung, của quy luật bốn mùa.
Những bức tranh thiên nhiên tươi đẹp cùng nước trắng mênh mông, đào say
trong gió, hữu tình, diễm lệ, lại không đem đến một thức cảm về sự cụ thể. Sự
tươi đẹp của cảnh sắc ẩn chứa triết lí thiền học.
Viên tâm tịch mịch vô nhân quản
Lý bạch đào hồng tự tại hoa
(Rừng vườn vắng vẻ không ai quản
75
Mận trắng đào hồng riêng tự hoa)
Bạch thủy gia phong mê hiểu yếu
Hồng đào tiên uyển túy xuân phong
(Nước trắng mênh mông chim én bạc
Vườn tiên đào thắm gió xuân say)
(Sư đệ vấn đáp) [80; 494]
Những hình ảnh thiên nhiên quen thuộc, trang nhã như: lý bạch, đào
hồng, bạch thủy,… trong một bức tranh xuân hữu tình, muôn hoa khoe sắc,
tràn đầy sức sống nhằm kí thác cho câu trả lời về gia phong của Di Đà và
Thích Ca. Thiên nhiên xuân như vậy là thiên nhiên đã được khái quát từ
những hình ảnh nói chung, biểu thị cho mùa xuân của quy luật tự nhiên.
Muôn vật trong mùa xuân có nét tự nhiên, được trừu xuất những nét
chung, đặc trưng và thể hiện được rõ nét sự vận hành của tạo hóa theo lẽ
thường, cũng như “hoa nở vào tháng ba, gà gáy vào canh năm”.
Sơn vân dã hữu xuất sơn thế
Giản thủy chung vô đầu giản thanh
Tuế tuế hoa tùy tam nguyệt tiếu
Triêu triêu kê hướng ngũ canh minh
(Mây núi đã có cái thế bay ra khỏi núi
Nước suối không tiếng nào không phải là tiếng nước gieo vào
lòng suối
Hàng năm hoa vẫn nở vào tháng ba
Sáng sớm gà vẫn gáy vào canh năm)
(An định thời tiết) [80; 246]
Trần Tung miêu tả bức tranh thiên nhiên một cách khái quát với những
đặc trưng tiêu biểu cho sự vận hành của quy luật tạo hóa. Tất cả sự vật đều
nằm trong thế hiển nhiên, tất yếu: mây bay ra khỏi núi, tiếng nước gieo vào
lòng suối… Từ việc miêu tả khái quát các hiện tượng thiên nhiên biểu thị cho
76
đổi dời tất nhiên của tạo hóa.
Thiền sư Mãn Giác nhìn thấy một mùa xuân trường tồn bất biến của
đạo bên mùa xuân vạn biến của đời.
Xuân khứ bách hoa lạc
Xuân đáo bách hoa khai
Sự trục nhãn tiền quá
Lão tòng đầu thượng lai
Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận
Đình tiền tạc dạ nhất chi mai
(Xuân đi trăm hoa rụng
Xuân đến trăm hoa lại nở
Việc đời theo nhau ruổi qua trước mắt
Tuổi già hiện đến từ trên mái đầu
Đừng cho rằng xuân tàn thì hoa rụng hết
Đêm qua một nhành mai đã nở trước sân)
(Cáo tật thị chúng) [79; 299]
Mùa xuân ở đây được miêu tả từ khái quát cho đến cụ thể. Mùa xuân
trước hết là mùa xuân của tạo hóa với sự nở tàn của hoa trong một chu trình
sinh diệt tất yếu. Trong đó, con người không tránh khỏi quy luật sinh tử cùng
thời gian. Sự biến chuyển vô thường chi phối vạn vật từ thiên nhiên đến con
người. Nhưng bên mùa xuân của tự nhiên ấy còn là mùa xuân bất diệt cụ thể
của con người mang tâm thiền đạt đạo, khẳng định lẽ chân như trường tồn.
Mùa xuân được miêu tả từ khái quát đến cụ thể, từ tất yếu đến khác biệt.
Ngoài ra, sự đối lập mùa xuân của vô thường và mùa xuân của hằng thường,
tạo nên ấn tượng khẳng định sự vĩnh hằng mùa xuân của đạo, bản thể chân
như.
Quá trình lĩnh hội bức tranh mùa xuân chứa đựng thiền ý là quá trình
“giải mã” các hình tượng tự nhiên được thiền gia sử dụng. Mùa xuân với sự
77
biến đổi của ngoại cảnh chỉ là vỏ bên ngoài bao chứa nội dung triết lí bên
trong. Triết lí thiền luôn được chú tâm nhiều hơn trong các hình ảnh xuân.
Những lẽ tất nhiên của tạo vật là mã khóa để lí giải cho các vấn đề sinh tử, vô
thường, sắc tướng, những khái niệm cơ bản của Thiền học.
Như vậy, có thể nói, mùa xuân mang ý nghĩa biểu trưng giáo lí trong
thơ Thiền Lý – Trần thường được miêu tả khái quát với những đặc trưng
chung có tính chất quy luật. Hiện hữu những hình ảnh xuân quen thuộc, trang
nhã trong thơ như: hoa, gió, trăng,… song là mùa xuân nói chung, không phải
là mùa xuân của trạng huống cụ thể. Giá trị biểu đạt nằm ở triết lí giáo huấn
được thể hiện một cách sinh động qua những hình ảnh xuân.
3.1.2. Miêu tả chấm phá
Trong thơ Thiền Lý – Trần không chỉ có mùa xuân với ý nghĩa chuyên
chở giáo lý mà còn có những bức tranh mùa xuân với ý nghĩa trực tiếp, được
miêu tả với tư cách là khách thể thẩm mĩ. Thi nhân – thiền sư hòa nhập vào
thiên nhiên xuân để thấu cảm và gửi gắm, kí thác về lẽ đời, nhưng thấm đẫm
ý vị của đạo.
Miêu tả chấm phá là một thủ pháp miêu tả quen thuộc trong văn học
trung đại, tạo nên những nét đẹp sơ giản kết đọng được hết vẻ đẹp và tạo nên
khoảng trống trong thơ. Với mùa xuân được miêu tả trong thơ Thiền Lý -
Trần, bút pháp chấm phá tạo nên được những nét đẹp xuân mang Thiền ý giản
dị mà sâu sắc. Nét đẹp của mùa xuân thu về trong một vài đường nét sơ giản
nhưng hội tụ đủ hồn xuân, tất cả kết đọng trong một, từ một mà thấy được tất
cả. Phương cách miêu tả này cho thấy thẩm mĩ về khoảng trống, thiếu khuyết
của mĩ học phương Đông, cũng như sự “vô ngôn” trong Thiền tông.
Thiên nhiên mùa xuân được miêu tả chấm phá với những đường nét sơ
giản, tạo nên những bức tranh bình đạm, thấm đẫm ý vị thiền. Thiền gia
thường mang tư tưởng “đối cảnh vô tâm”, từ bỏ mọi vọng niệm, hòa nhập cao
độ trong cảnh sắc mùa xuân – hòa bản thể vào vũ trụ không cùng. Mùa xuân
78
hiện lên với sự tĩnh lặng, đơn sơ, trong trẻo và hiển lộ vẻ thâm trầm của đạo.
Mùa xuân được hiện hữu đôi khi chỉ qua những nét chấm phá sơ lược,
như hình ảnh đôi bướm trong bài thơ Xuân hiểu của Trần Nhân Tông, hay
hình ảnh của người con gái đẹp ngồi thêu gấm dưới bụi tử kinh đang nở trong
Xuân nhật tức sự của Huyền Quang thiền sư. Chỉ với vài nét chấm phá trong
cảnh, nhưng làm phát lộ ý vị trong trẻo, sáng tươi của khung cảnh mùa xuân.
Thụy khởi khải song phi
Bất tri xuân dĩ quy
Nhất song bạch hồ điệp
Phách phách sấn hoa phi
(Ngủ dậy mở cánh cửa sổ
Không ngờ mùa xuân đã về
Một đôi bướm trắng
Phần phật cánh, bay đến với hoa)
(Xuân hiểu) [80; 453]
Qua đôi mắt thiền Trần Nhân Tông, cả một mùa xuân đầy sức sống
được ẩn hiện qua hình ảnh của đôi bướm trắng quyến luyến đang bay đến với
hoa. Cảnh vật đơn giản, chứa đựng trong đó ý vị sâu sắc về sự giao hòa của
muôn vật trong cảnh đất trời sang xuân. Hiện hữu trong đó ánh nhìn thiền hòa
mình vào thiên nhiên, cảm thấu sự quyện hòa của muôn vật với tinh thần “hòa
quang đồng trần”.
Thiền sư Huyền Quang lại phác họa bức tranh xuân với cảnh xuân, tình
xuân chỉ với hình ảnh của người con gái thêu gấm:
Nhị bát giai nhân thích tú trì
Tử kinh hoa hạ chuyển hoàng ly
Khả liên vô hạn thương xuân ý
Tận tại đình châm bất ngữ thì
(Người đẹp tuổi vừa đôi tám, ngồi thêu gấm chậm rãi
79
Dưới lùm hoa tử kinh đang nở, líu lo tiếng chim oanh vàng
Thương biết bao nhiêu cái ý thương xuân của nàng
Cùng dồn lại ở một giây phút, dừng kim và im phắc)
(Xuân nhật tức sự) [80; 681]
Bút pháp chấm phá, điểm nhãn đem lại hiệu quả trong miêu tả bức
tranh thiên nhiên xuân sơ giản nhưng giàu ý vị. Cả sắc xuân tình tứ được thu
về trong hình ảnh của người con gái trẻ ngồi thêu gấm giữa tiếng hót của chim
và lùm hoa đang nở rộ. Tất cả đều đang trong trạng thái của sự trưởng sinh,
hân hoan, rộn rã. Nhưng nét đặc sắc của bức tranh xuân này là khoảnh khắc
dừng kim của người con gái cùng ý thương xuân. Một khoảnh khắc nhưng
dồn tụ cả ý xuân, tình xuân của người con gái và của thiền gia, giao hòa, kết
đọng. Đó là khoảnh khắc của sự bừng ngộ về lẽ vô thường biến dịch của mùa
xuân, tuổi trẻ trong sự trường tồn của vũ trụ.
Không gian mùa xuân là không gian khoáng đạt, cao vợi, bởi ánh nhìn
thiền gia hướng về miêu tả mùa xuân từ gần đến xa, từ thấp đến cao. Không
gian do đó có xu hướng mở rộng về chiều kích, hòa biến trong vũ trụ mênh
mông. Chẳng hạn bài thơ Xuân cảnh:
Dương liễu hoa thâm điểu ngữ trì
Họa đường thiềm ảnh mộ vân phi
Khách lai bất vấn nhân gian sự
Cộng ỷ lan can khán thúy vi
(Trong khóm hoa dương liễu rậm, chim hót chậm rãi
Dưới bóng thềm ngôi nhà chạm vẽ, mây chiều lướt bay
Khách đến chơi không hỏi việc đời
Cùng đứng tựa lan can ngắm màu xanh mờ mịt ở chân trời
[80; 460]
Khung cảnh mùa xuân được miêu tả với vài đường nét từ khóm hoa,
ngôi nhà, mây chiều. Không gian sơ giản, thanh tĩnh, được rộng mở về chiều
80
kích. Ánh nhìn hướng từ gần đến xa lắng nghe tiếng chim trong khóm hoa
dương liễu rậm, hướng lên bầu trời với mây chiều lướt bay in bóng trên thềm
nhà, cuối cùng dừng lại trong màu xanh thẳm ở chân trời. Cả một vũ trụ bao
la tan hòa trong ánh mắt thiền gia. Thi nhân "đối cảnh vô tâm", trong trạng
thái vô ngôn nhiều ý vị thâm áo của thiền, nhập bản thể vào vũ trụ không
cùng. Khung cảnh thiên nhiên mùa xuân bởi thế với vài đường nét, sự tĩnh
lặng nhưng có cái cao rộng không cùng, kết đọng cùng sự trường tồn của vũ
trụ.
Bài thơ Tảo mai 2 cũng miêu tả mùa xuân với bút pháp chấm phá một
cách tinh tế:
Ngũ nhật kim hàn lãn xuất môn
Đông phong tiên dĩ đáo cô côn
Ảnh hoành thủy diện băng sơ bạn
Hoa áp chi đầu noãn vị phân
Thúy vũ ca trầm sơn điếm nguyệt
Họa long xuy thấp Ngọc quan vân
Nhất chi mê nhập cố nhân mộng
Giác hậu bất kham trì tặng quân
(Chỉ có năm ngày sợ rét lười ra khỏi cửa
Mà gió xuân đã sớm đến với gốc cây cô đơn
Bóng ngả trên mặt nước, băng giá bắt đầu tan
Hoa trĩu nặng đầu cành, hơi ấm chưa định rõ
Giọng ca Thúy vũ lắng chìm mặt trăng xóm núi
Tiếng sáo Họa long ẩm ướt đám mây Ngọc quan
Một cành hoa lạc vào giấc mộng cố nhân
Tỉnh dậy không thể đem tặng anh được
[80; 470]
Cảnh vật được hiện hữu từ một nét phác của cành cây đơn sơ ngả bên
81
mặt nước còn đóng băng. Nhưng dưới đôi mắt thiền gia tinh tế, mùa xuân ẩn
hiện trong sự tương giao của cảnh vật với bông hoa trĩu nặng cùng hơi ấm gió
xuân. Thiên nhiên cũng được miêu tả theo xu hướng mở rộng không gian từ
gần đến xa. Thiền gia nhận ra sự hiển lộ của xuân từ cành cây đơn sơ, hướng
đến mặt trăng xóm núi, mây ải ngọc quan, mở rộng không gian cao rộng.
Không gian khoáng đạt chìm trong sự tĩnh lặng của tâm thiền, vừa hư vừa
thực.
Với thủ pháp chấm phá, thiền gia đã họa nên bức tranh xuân với đường
nét sơ giản nhưng giàu ý vị, thể hiện được thần thái của sắc xuân, ý xuân, tình
xuân. Kết tụ trong một vài đường nét hiển lộ một cách tập trung cao độ ý vị
xuân. Miêu tả cảnh vật theo xu hướng mở rộng chiều kích từ gần đến xa tạo
dựng một không gian khoáng đạt, tĩnh lặng, hiện hữu hình ảnh thiền gia hòa
tâm trong vũ trụ vĩnh hằng.
Như vậy, nghệ thuật miêu tả mùa xuân trong thơ thiền Lý – Trần có thể
khái quát thành hai dạng thức chính. Thiền gia miêu tả một cách khái quát, sơ
lược mùa xuân với những đặc tính chung mang tính quy luật trong thơ miêu tả
mùa xuân nặng về chuyên chở Thiền lý. Những triết lí thiền chứa đựng được
thể hiện một cách sinh động qua các hình ảnh xuân. Ngoài ra còn có bút pháp
miêu tả chấm phá đối với thơ miêu tả mùa xuân như một đối tượng thẩm mĩ.
Với bút pháp này, mùa xuân thể hiện cảnh sắc tự nhiên, chan hòa ý vị thiền.
Cảnh xuân sơ giản, tĩnh lặng trong tâm, khoáng đạt trong không gian, hiển lộ
rõ nét ý vị chan hòa của Thiền lý.
3.2. Nghệ thuật tƣợng trƣng về mùa xuân trong thơ Thiền Lý – Trần
Trong quan niệm về sự giới hạn của ngôn từ đối với việc thể hiện
những ý niệm sâu xa không cùng, thi ca phương Đông mang đặc trưng về sự
kiệm lời, tập trung vào sức gợi lớn của ngôn ngữ hơn biểu ý: “thư bất tận
ngôn, ngôn bất tận ý” (Kinh dịch), “ngôn vô ngôn” (Đạo đức kinh), “thính hồ
vô thanh” (Nam hoa kinh). Chủ trương về sự cô đúc trong từ ngữ, lời ít ý
82
nhiều trở thành truyền thống trong văn học. Mặt khác, tinh thần biện chứng
của triết học chủ yếu là sự biến dịch ảo diệu, tìm được vẹn toàn trong cái bất
toàn: “khúc tắc toàn, uổng tắc trực…” (cái gì khuyết sẽ tròn, cong sẽ thẳng…)
của Đạo đức kinh. Bởi thế, thức cảm nói chung là tìm thấy sự vẹn toàn trong
cái bất toàn, trong sự khuyết thiếu. Có thể thấy được xu hướng tạo khoảng
trống trong ngôn từ trong thể thơ haiku vốn được xem là “thơ một góc”, hay
“ý tại ngôn ngoại” trong thơ Đường. Khoảng trống của ngôn từ tạo nên sức
gợi lớn, tạo trường liên tưởng, suy nghiệm cho người thưởng thức.
Ngôn ngữ Thiền mang tính hàm súc cao độ, thể hiện đặc trưng rõ nét
của văn học trung đại phương Đông. Ngôn ngữ trở nên giới hạn trước những
chân lí vô cùng, biến hóa ảo diệu, nhất là những biến chuyển không cùng của
vạn pháp, thường mà biến, hư mà thực. Cố công để theo đuổi cũng có nghĩa
không bao giờ thể hiện được chân lý trọn vẹn. Vì ngôn ngữ là hữu hạn với
những ý biểu là vô hạn nên ngôn ngữ Thiền học là “ngôn ngữ đạo đoạn” (cắt
đứt con đường của ngôn ngữ). Thiền sư Viên Chiếu khi trả lời về ngôn ngữ
đạo đoạn đã đề cập đến hình ảnh tiếng sừng theo gió và vầng trăng vượt núi:
“Giốc hưởng tùy phong xuyên trúc đáo/ Sơn nham đáo nguyệt quá tường lai”
(Tiếng sừng theo gió xuyên rặng trúc/ Vầng trăng vượt núi đến bên tường)
(Tham đồ hiển quyết). Ngôn ngữ cũng như gió, núi là phương tiện để khai mở
chân lý thiền. Ngôn ngữ ấy chỉ là phương tiện như chiếc bè đưa người qua
sông – phương tiện để khai mở chân lí Thiền, không phải là thành quả cuối
cùng. Để đạt được ý muốn truyền tải Thiền lý, vốn bị chi phối bởi “trực chỉ
nhân tâm”, “dĩ tâm truyền tâm” – lối truyền đạt không phụ thuộc vào ngôn
ngữ, ngôn ngữ cần đạt được yêu cầu về sự hàm súc, có sức gợi lớn đối với
người tu học. Ngôn ngữ trong thơ Thiền do đó, đạt đến tột cùng của tính hàm
súc và cô đúc. Tính hàm súc này không chỉ là lời ít ý nhiều mà còn gắn với
khả năng liên tưởng. Người tu học có thể thâu nhận được giá trị biểu ý trong
lời nhờ cơ chế liên tưởng, nhưng đôi khi giá trị biểu ý từ sự hàm súc của ngôn
83
ngữ lại là nền tảng để thấu suốt một vấn đề khác không liên quan đến sự việc
được thể hiện trong lời. Liên tưởng từ sự hàm súc của thơ Thiền là sự liên
tưởng phi logic. Ngôn ngữ như vậy bổ khuyết cho sự bất toàn của ngôn ngữ
trong phản ánh những giới hạn và biến hóa không cùng của đạo thiền, gợi mở
và khai thông tâm trí hành giả.
Thơ Thiền do yêu cầu truyền đạt và kiến giải đạo pháp, cần ngôn ngữ
có sức gợi và khai mở vô tận đối với người tu học. Do đó, Thiền thơ sử dụng
nhiều các biện pháp tu từ như ẩn dụ, tượng trưng để đạt được giá trị biểu cảm
và sức ám gợi cao. Đây là các biện pháp tu từ trong văn học trung đại song
được thể hiện trong thơ Thiền với những nét khu biệt.
Tượng trưng hiểu theo nghĩa hẹp là “là một dạng chuyển nghĩa (cùng
loại với phúng dụ). Sự tiếp hợp của hai bình diện - nội dung “vật thể” của
hình tượng và nghĩa bóng của nó – có thể hoặc là hiển nhiên (khi hai bình
diện đều có mặt trong văn bản) khi đó sẽ có một đối sánh tượng trưng; hoặc là
ẩn kín, khi đó sự ám chỉ sẽ nằm ở mạch ngầm văn bản và toàn bộ tác phẩm sẽ
mang ý nghĩa tượng trưng” [19; 1910]. Tượng trưng là một thủ pháp quen
thuộc trong văn học trung đại, diễn đạt cái trừu tượng bằng hình ảnh cụ thể,
gần gũi. Thơ Thiền sử dụng tượng trưng như một thủ pháp quan trọng trong
truyền tải triết lí. Thơ Thiền chú trọng tính trực giác, thể hiện ngộ giải về
Thiền lý thông qua những hình ảnh bất ngờ nắm bắt được. Đó là mặt vật chất
được kí gửi bằng ngôn ngữ, tượng trưng cho những triết lý Thiền. Một “cái
được tượng trưng” (tức là triết lí Thiền) được thể hiện bằng nhiều “cái tượng
trưng” (hình ảnh được thể hiện bằng ngôn ngữ). Tượng trưng trong thơ Thiền
phần lớn mang tính đơn lẻ, loại biệt nên khó khăn trong việc giải mã.
Không chỉ chú ý đến “cái được tượng trưng”, thơ Thiền còn trau chuốt
đến “cái tượng trưng”. Thơ Thiền dùng thiên nhiên như một yếu tố quan trọng
trong mã khóa các triết lí về nhân thế và lẽ đạo. Thiên nhiên có thể bị xem
nhẹ và là phương tiện chính yếu trong truyền tải thiền, nhưng đôi khi lại được
84
chú trọng trong kí thác tư tưởng và tình cảm của thi sĩ – thiền sư. Thiên nhiên
mùa xuân cũng không nằm ngoài quy luật đó. Mùa xuân được dùng như một
phương tiện cho truyền tải những triết lí; hay được xem như một khách thể
thẩm mĩ, ẩn tàng tâm tư con người và thấm đẫm ý vị thiền.
Những triết lí Thiền được truyền tải thông qua những hình ảnh sinh
động của thiên nhiên mùa xuân. Sự giác ngộ triết lí được phát biểu thông qua
miêu tả thiên nhiên mùa xuân (với những tính chất tượng trưng tương ứng).
Mùa xuân với sự đổi thay và biến chuyển của vạn vật được khái quát biểu thị
cho đạo lí tạo hóa, nhân sinh. Các triết lí được biểu đạt đều là những hình ảnh
được sử dụng riêng lẻ. Các hình ảnh được tượng trưng là những hình ảnh
quen thuộc của thiên nhiên, có thể mang tính ước lệ, được biểu đạt bằng từ
ngữ thanh nhã, trang trọng: mây, núi, trăng, hoa,… Dựa vào phương thức
tượng trưng có thể nhận diện một cách tổng hợp sự tương ứng giữa "cái tượng
trưng" và "cái được tượng trưng".
3.2.1. Tượng trưng của mùa xuân vận hành theo quy luật
Các hình ảnh thiên nhiên được hiện diện cho thấy sự vận hành của
thời gian. Trong thơ Thiền mùa xuân, sự vận hành ấy thể hiện qua cặp
chuyển vần xuân – thu, hoặc bước chuyển của cảnh vật trong thiên nhiên
mùa xuân. Mùa xuân theo quy luật được dùng để truyền tải thiền lí với
những nội dung tương ứng.
Các giáo lí của Thiền đều được ẩn tàng thông qua các hình ảnh về thiên
nhiên với quy luật tự nhiên của nó. Trong các câu trả lời đệ tử, thiền sư sử
dụng hình ảnh tự nhiên mùa xuân như một sự lí giải tất yếu cho lẽ đạo, thức
ngộ ở người tu học triết lí thiền. Trả lời về sự khác nhau giữa Phật và Thánh,
Viên Chiếu thiền sư không dùng lời lẽ trực tiếp mà dùng hình ảnh thiên nhiên
trong tiết xuân thu. Sự khác nhau trong biểu hiện nhưng giống nhau trong bản
chất của Phật và Thánh được thể hiện thông qua hình ảnh hoa cúc trong tiết
85
trùng dương, oanh vàng trong tiết xuân:
Ly hạ trùng dương cúc
Chi đầu thục khí oanh
(Trùng dương đến cúc vàng dưới dậu
Xuân ấm về oanh náu đầu cành)
(Tham đồ hiển quyết) [79; 274]
Các giáo lí thâm áo của Thiền tông được hiện hữu một cách sinh động
qua những bức tranh thiên nhiên mùa xuân. Như câu trả lời về gia phong của
Phật quá khứ và hiện tại:
Viên tâm tịch mịch vô nhân quản
Lý bạch đào hồng tự tại hoa
(Rừng vườn vắng vẻ không ai quản
Bạch thủy gia phong mê hiểu yếu
Mận trắng đào hồng riêng tự hoa)
Hồng đào tiên uyển túy xuân phong
(Nước trắng mênh mông chim én bạc
Vườn tiên đào thắm gió xuân say)
(Sư đệ vấn đáp) [tập 2; 494]
Hoặc trả lời cho câu hỏi về nhất pháp, kiến tính thành Phật:
Bất kiến xuân sinh kiêm hạ trưởng
Hựu phùng thu thục cập đông tàng
(Xuân sinh hè trưởng biết đâu
Khô mộc phùng xuân hoa cạnh phát
Chỉ hay thu chín đông mau nhặt về?)
Phong xuy thiên lí phức thần hương
(Hoa rợp cành khô lúc tiết xuân
Gió đưa nghìn dặm nức hương thần)
86
(Tham đồ hiển quyết) [tập 1; 274]
Trả lời cho câu hỏi thế nào là xuất thế, bản ý:
Xuân chức hoa như cẩm
Thu lai diệp tự hoàng
(Xuân dệt muôn hoa như gấm thêu
Thu sang ngàn lá tựa vàng gieo)
(Tham đồ hiển quyết) [tập 1; 280]
Như vậy, các giáo lí của Phật được thuyết giảng thông qua những hình
ảnh tự nhiên sinh động. Những bức tranh thiên nhiên mùa xuân không phải là
điều chính yếu. Đó chỉ là việc mượn các yếu tố thiên nhiên, những yếu tố có
sự tương đồng với con người, hòa đồng thiên nhiên và con người để lí giải
cho những khái niệm trừu tượng và khó luận giải bằng suy biện lí tính của
Thiền học.
Không chỉ những quan niệm Thiền học đơn lẻ được lí giải thông qua
hình tượng thiên nhiên với quy luật nguyên sơ của nó, mà cả những tư tưởng,
triết lí cũng được đúc rút và ẩn tàng sau những hình ảnh thiên nhiên xuân.
Chẳng hạn, triết lí về tư tưởng vô phân biệt của Thiền:
Khiết thảo dữ khiết nhục
Chủng sinh các sở thực
Xuân lai bách thảo sinh
Hà xứ kiến tội phúc?
(Ăn thịt và ăn cỏ,
Chúng sinh loài nào có thói quen của loài đó
Như mùa xuân đến, trăm hoa cỏ sinh sôi
Có chỗ nào nhìn thấy tội hay phúc đâu?)
( Trì giới kiêm nhẫn nhục) [80; 290]
Tư tưởng vô phân biệt của Thiền là “cái được tượng trưng” thông qua
87
“cái tượng trưng” là hình ảnh về mùa xuân với sự sinh sôi nảy nở của vạn vật.
Triết lí sắc không không chỉ được thể hiện một cách trực tiếp thông qua
những lời lẽ suy biện như Sắc không của Lê Thị Ỷ Lan mà ẩn tàng dưới sự
quyến luyến của hoa và bướm trong thơ Nguyễn Giác Hải hay con người an
nhiên trước cảnh xuân tàn của Trần Nhân Tông:
Hoa điệp bản lai giai thị huyễn
Mạc tu hoa điệp hướng tâm trì
(Nhưng hoa với bướm vốn dĩ đều là hư ảo
Chớ nên bận tâm về hoa với bướm
(Hoa điệp) [79; 444]
Niên thiếu hà tằng liễu sắc không
Nhất xuân tâm tại bách hoa trung
Như kim kham phá đông hoàng diện
Thiền bản bồ đoàn khán trụy hồng
(Thuở trẻ chưa từng hiểu rõ sắc với không
Mỗi khi xuân đến vẫn gửi lòng trong trăm hoa
Ngày nay đã khám phá được bộ mặt chúa xuân
Ngồi trên nệm cỏ giữa tấm phản nhà chùa ngắm cánh hoa
rụng)
(Xuân vãn)[80; 463]
Mùa xuân đến với trăm hoa đua nở, mùa thu với lá chuyển vàng, sự
biến chuyển từ sinh đến diệt hiện hữu rõ ràng. Thiền sư thẩm nhận ở đó quy
luật của thiên nhiên cho đến thức nhận về quy luật vô thường luôn biến
chuyển. Vạn Hạnh thiền sư đã khái quát về sự hữu hạn của đời người từ thiên
nhiên xuân thu:
Thân như điện ảnh hữu hoàn vô
Vạn mộc xuân vinh thu hựu khô
(Người đời như chớp bóng có rồi không
Như cây cối, mùa xuân tốt tươi, mùa thu khô héo)
88
(Thị đệ tử) [79; 218]
Đời người chỉ như một ánh chớp giữa vô cùng và vĩnh hằng của vũ trụ,
cũng như sự đổi thay của cây cối qua xuân thu. Từ sự khái quát quy luật của
tự nhiên để đưa đến thái độ sống "vô úy" trước lẽ thịnh suy đã trở thành quy
luật.
Như vậy, có thể thấy các khái niệm riêng biệt, hay các tư tưởng triết lí
của Thiền không chỉ được thể hiện dưới dạng trực tiếp mà chủ yếu được
thông qua khái quát các quy luật của tự nhiên. Do đó những khái niệm trừu
tượng của Thiền tông được lí giải với các hình ảnh sinh động, thức nhận trực
giác của người học đạo.
3.2.2. Tượng trưng của mùa xuân mang tính phủ đi ̣nh Mùa xuân trong thơ Thiền không chỉ là những hình ảnh thiên nhiên
tuần hoàn sinh diệt theo quy luật vũ trụ. Trong đó còn hiện hữu những hình
ảnh thiên nhiên tồn tại ngoài quy luật, hoặc các hình ảnh thiên nhiên được
diễn đạt theo lối nghịch ngôn, phi logic nhằm đưa đến những giác ngộ đột phá
về lẽ chân như. Với tượng trưng, ý nghĩa “là cái không thể giải mã chỉ bằng
nỗ lực lí trí, nó đòi hỏi sự thâm nhập” [19; 1909]. Trong Thiền học, sự thâm
nhập của người tu học là điều cần thiết cho sự khai mở chân tâm. Những ý
nghĩa tượng trưng của mùa xuân nằm ngoài quy luật tạo hóa thúc đẩy sự giác
ngộ mạnh mẽ trong việc truy nguyên, thấu đạt lẽ đạo.
Với hình ảnh thiên nhiên theo quy luật nhưng cùng lối diễn đạt mang
tính phủ định, thiền sư đưa đến những thức nhận mới, buộc người tu học phải
chứng ngộ về bản tính bên trong, không phải là sắc tướng đổi thay bên ngoài:
Xuân lai xuân khứ nghi xuân tận
Hoa lạc hoa khai chỉ thị xuân
(Xuân qua lại ngỡ xuân tàn
Hoa dù rụng nở vẫn hoàn tiết xuân)
89
(Đáp đệ tử diệu đạo chi vấn) [79; 302]
Hồng đào thụ thượng châu thời tiết
Hoàng cúc ly biên bất thị xuân
(Trên cây đào thắm đúng kì
Cúc vàng bên dậu chắc gì đã xuân)
( Đối cơ) [80; 315]
Thúy trúc, hoàng hoa phi ngoại cảnh
Bạch vân, minh nguyệt lộ toàn chân
(Trúc biếc, hoa vàng chẳng phải là cảnh bên ngoài
Mây trắng, trăng trong lộ rõ cái chân toàn vẹn)
(Nhật nguyệt) [79; 239]
Những lối diễn dạt mang tính phủ định như vậy dồn ép người học đạo,
truy nguyên đến nguồn gốc để bừng ngộ về triết lí thâm áo của Thiền.
Mãn Giác thiền sư tìm thấy một mùa xuân bên ngoài quy luật của xuân
tạo hóa, kết đọng trong hình ảnh cành mai trong buổi xuân tàn:
Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận
Đình tiền tạc dạ nhất chi mai
(Đừng cho rằng xuân tàn thì hoa rụng hết
Đêm qua một nhành mai đã nở trước sân
(Cáo tật thị chúng) [79; 299]
Trong cái vạn biến của tạo hóa từ đến và đi của xuân, nở và tàn của
hoa, tồn tại cái bất biến, vượt lên sự vô thường của bản thể. Cành mai nở
trong tiết xuân tàn tượng trưng cho bản thể chân như, con người đạt đạo thấu
suốt sự biến dịch của lẽ đời.
Những thông điệp, triết lí của Thiền thể hiện một cách sâu sắc, tạo
được ấn tượng mạnh thông qua những hiện tượng thiên nhiên khác thường
nằm ngoài quy luật. Đó là tinh thần “Dĩ nghịch vi thuận” , ung dung tự tại
90
trước những đổi dời.
Tóm lại, với thủ pháp tượng trưng, các triết lí thiền đã được thể hiện
một cách sinh động giàu hình ảnh, cụ thể. Tượng trưng tạo nên mối liên hệ
giữa hình ảnh thiên nhiên tương ứng với triết lí Thiền học, song cũng tạo nên
một khoảng trống, truy bức người tu học nghiệm suy, thức nhận về lẽ tất
nhiên từ cái bất thường. Thiên nhiên theo quy luật hay trái với quy luật được
dùng biểu đạt những luận lí khác nhau của Thiền dưới dạng đơn lẻ, đòi hỏi sự
thâm nhập sâu sắc của người tu học trong khai mở Thiền ý.
3.3. Nghệ thuật ẩn dụ về mùa xuân trong thơ Thiền Lý – Trần
Ẩn dụ là một biện pháp tu từ quen thuộc trong văn học nói chung. Biện
pháp tu từ này nhấn mạnh đến việc “chuyển đặc tính của đối tượng (sự vật
hiện tượng này sang cho đối tượng khác, theo nguyên tắc có sự tương đồng
hoặc tương phản về một mặt nào đó giữa chúng” [19; 70]. Trong thơ ca
phương Đông, ẩn dụ được sử dụng phổ biến, và thâu nhận trở thành thi liệu
văn chương. Đối với thẩm mĩ Á Đông đòi hỏi sự hàm súc, lời hết ý nhiều
trong ngôn ngữ, ẩn dụ chứa đựng và mở ra khả năng liên tưởng vô hạn.
Trong thơ Thiền, ẩn dụ cũng là một biện pháp tu từ được thiền gia sử
dụng đa dạng và linh hoạt, đem lại hiệu quả cao trong việc khơi gợi cho người
đọc. Ẩn dụ trong thơ Thiền mang những nét đặc sắc riêng, gắn với nội dung
Thiền học. Biện pháp này tu sức cho việc thể hiện tính chất ám dụ nhiều tầng
bậc của thơ Thiền. Người tu học phải thực hiện giác ngộ thông qua nỗ lực
thâm nhập kiến giải các triết lí ẩn tàng trong những ẩn dụ ngôn từ đó.
Trong Thiền, bừng ngộ là một hành động tức thời, được thể hiện dưới
những hình ảnh thiên nhiên mà thiền sư nắm bắt được trong khoảnh khắc ngộ
đạo. Mỗi thiền gia nhận thấy ở những hình ảnh của thiên nhiên những đạo lí
khác nhau. Do đó, ẩn dụ mang tính hiện tượng, chỉ mang giá trị trong một vài
trạng huống nhất định.
Hình ảnh mùa xuân trong thơ Thiền Lý – Trần được dùng để ẩn dụ cho
91
nhiều triết lí Thiền. Đôi khi, một triết lí được biểu trưng bằng nhiều ẩn dụ
khác nhau. Do ẩn dụ thơ Thiền có tính chất đơn lẻ, chúng tôi tạm phân chia
tìm hiểu theo phạm vi triết lí được ẩn dụ thể hiện.
3.3.1. Ẩn dụ cho “bản thể chân như”
Vạn pháp luôn biến chuyển, hiện hữu với muôn hình vạn trạng, song
chỉ là biểu hiện khác nhau của bản thể duy nhất. Trong các bài thuyết giảng
về Thiền học, bản thể chân như được bàn đến với sự bất diệt, trường tồn, khác
với biến dịch của vạn pháp. Người tu học trong con đường ngộ đạo đều cố
gắng kiến giải minh triết về bản thể chân như bất diệt. Bản thể chân như được
thể hiện bằng nhiều hình ảnh ẩn dụ khác nhau, nhất là hình ảnh của thiên
nhiên mùa xuân.
Mùa xuân bất diệt qua hình ảnh hoa mai là bản thể chân như của vạn pháp:
Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận
Đình tiền tạc dạ nhất chi mai
(Đừng cho rằng xuân tàn thì hoa rụng hết
Đêm qua một nhành mai đã nở trước sân)
(Cáo tật thị chúng) [79; 299]
Cành mai trong buổi xuân tàn là hình ảnh ẩn dụ có giá trị biểu trưng
cao độ cho sự trường tồn bất diệt của chân như. Cành mai trong hoàn cảnh cụ
thể này ẩn dụ bản tính chân như đã ngộ đạo của thiền gia.
Giọt sương trong buổi sớm trong Thị đệ tử lại có giá trị biểu trưng cho
tinh thần “vô úy” của đạo:
Thịnh suy như lộ thảo đầu phô
(Vì sự thịnh suy (cũng mong manh) như giọt sương đầu ngọn cỏ)
(Thị đệ tử) [79; 218]
Với thủ pháp ẩn dụ, so sánh thiền sư thu về trong giọt sương sớm nơi
đầu ngọn cỏ (lộ thảo đầu phô) một tư tưởng. Trong giọt sương nhỏ bé mong
manh hàm chứa cả vũ trụ vĩnh hằng, bởi ẩn tàng tinh thần vô úy của con
92
người lĩnh hội được lẽ tất yếu của vạn vật.
Thiền tông quan niệm mọi vật đều là biểu hiện khác nhau của cùng một
bản thể duy nhất. Các hình thức khác nhau chỉ là hiện hữu bên ngoài với
những sắc thái riêng biệt, cần tìm bản thể chân như trong những biểu hiện bề
ngoài đó, không cần truy ở đâu xa:
Thúy trúc, hoàng hoa phi ngoại cảnh
Bạch vân, minh nguyệt lộ toàn chân
(Trúc biếc, hoa vàng chẳng phải là cảnh bên ngoài
Mây trắng, trăng trong lộ rõ cái chân toàn vẹn)
(Nhật nguyệt) [79; 239]
“Thúy trúc, hoàng hoa” là biểu tượng cho hiện tượng sắc tướng của
chân như. Người tu học cần nhận chân và thấu đạt bản thể ngay từ hiện tượng
đơn lẻ biến hình muôn trạng của vạn pháp.
“Hoa điệp” trong Tham đồ hiển quyết cũng ẩn dụ cho các sắc tướng
khác nhau của bản thể:
Xuân hoa dữ hồ điệp
Cơ luyến cơ tương vi
(Hãy xem bướm giỡn hoa xuân
Mấy phần quyến luyến, mấy phần lìa xa)
Hình ảnh ẩn dụ “hoa điệp” được dùng trong đối đáp câu nói của tăng về
ngọc Mani (Mani cùng mọi sắc màu/ Khác nhau không khác gần nhau chẳng
gần). Tương ứng với ngọc mani vốn tượng trưng cho bản tâm trong sáng của
con người, sự quyến luyến rời xa của hoa điệp cũng chỉ là những biểu hiện
khác nhau cho cùng một bản thể duy nhất.
Như thế, một ý niệm về biểu hiện vô cùng của bản thể được thể hiện
bằng ẩn dụ qua những hình ảnh khác nhau của mùa xuân. Những cách biểu
hiện như vậy cho thấy sự phong phú, đa dạng và sinh động của triết lí Thiền.
Với những hình ảnh thiên nhiên xuân, triết lí Thiền vốn trừu tượng được ẩn
93
dụ biểu hiện bằng sự hình dung mới, đem lại sự sắc bén và sáng rõ. Bản chất
đa nghĩa của ẩn dụ tạo nên tính ngụ ý và những hình dung mới cho triết lí
Thiền học, tạo nên trường liên tưởng ở hành giả.
Cùng một ý niệm về các hiện tượng của bản thể, Nguyễn Giác Hải lại
nhấn mạnh đến việc bỏ qua sắc tướng để nhận chân bản thể:
Xuân lai hoa điệp thiện tri thì
Hoa điệp ưng tu cộng ứng kì
Hoa điệp bản lai giai thị huyễn
Mạc tu hoa điệp hướng tâm trì
(Xuân sang hoa và bướm khéo quen với thời tiết
Hoa bướm đều cần phải thích ứng với kì hạn của chúng
Nhưng hoa với bướm vốn dĩ đều là hư ảo
Chớ nên bận tâm về hoa với bướm)
(Hoa điệp) [79; 444]
Hình ảnh “hoa điệp” (hoa bướm) với bản chất về sự mong manh, dễ
biến đổi, ẩn dụ cho sắc tướng huyễn ảo của sự vật. Từ một ý niệm về các hiện
tượng khác nhau của bản thể, có nhiều thuyết giảng liên quan, có thể nhấn
mạnh đến việc tìm thấy nguồn gốc của các hiện tượng – bản thể (Nhật
nguyệt), hoặc phủ định biểu hiện bên ngoài – sắc tướng hư huyễn (Hoa điệp).
Những lí giải dù khác nhau nhưng đều chung một mục đích cuối cùng là
hướng về bản thể chân như bất diệt, bỏ qua biểu hiện của sắc tướng.
Mùa xuân với trăm hoa đua nở thường được dùng ẩn dụ về sự đạt thành của
đạo Thiền. Hoa reo trong mùa xuân biểu hiện sự hưng thịnh, sinh sôi của muôn vật.
Do đó, hoa trong mùa xuân và ngộ đạo có những tính chất tương đồng. Có thể thấy
nhiều hình ảnh hoa xuân thể hiện cho sự kiến giải đạo Thiền:
Xuân chức hoa như cẩm
Thu lai diệp tự hoàng
(Xuân dệt muôn hoa như gấm thêu
Thu sang ngàn lá tựa vàng gieo)
94
(Tham đồ hiển quyết) [79; 280]
Tự đắc nhất triêu phong giải đống
Bách hoa nhưng cựu lệ xuân đài
(Một sớm gió đông thổi tan băng giá
Trăm hoa như cũ gieo trước gió xuân)
(Nhập trần) [80; 247]
Hoa reo trong gió xuân đối lập với hình ảnh héo úa của muôn vật trong
mùa đông cũng như người còn chấp mê và con người trong khoảnh khắc ngộ
đạo.
Như vậy có thể thấy việc trình bày thuyết giảng cho bản thể chân như
bất diệt – vốn là mục đích người tu học cần khai ngộ, được ẩn dụ bằng nhiều
hình ảnh mùa xuân khác nhau. Một ý niệm triết lí có thể được lí giải với nhiều
góc độ và bằng những hình ảnh ẩn dụ khác nhau. Triết lí Thiền học như vậy
được thể hiện một cách biểu cảm, sinh động, đem lại trường liên tưởng, sức
gợi mở lớn cho người tu học.
3.3.2. Ẩn dụ cho con đường ngộ đạo
Thiền tông chủ ý ngộ đạo trong tiếp cận Thiền lý. Đó là sự bừng ngộ
trong một khoảnh khắc của người tu học. Sự ngộ đạo không thể dựa vào tha
lực mà cần nỗ lực dùng đến nội tâm siêu việt bên trong “tự thức bản tâm, tự
kiến bản tính”. Trong một số trường hợp cần có tác động của bên ngoài như
tiếng thét, quát của thiền sư, làm bừng ngộ tâm thức của người học đạo nhưng
đó chỉ là “ngón tay chỉ trăng”, chủ yếu vẫn nhấn mạnh đến sự tự ý thức và
tinh thần tự chủ.
Con đường ngộ đạo là thức tỉnh, bừng ngộ trong một khoảnh khắc, khi
người học trực tiếp thấu đạt lẽ đạo bằng tâm thức. Tâm thức được bừng tỉnh
không nhờ đến sự chấp nê thái quá vào những khái niệm khô cứng sách vở,
gạt bỏ đi vọng niệm để tập trung vào nội tâm, tìm thấy bản tính tự nhiên của
mình, nhờ nỗ lực và cơ duyên. Quan niệm Phật tính có trong mỗi người, nếu
95
có cơ duyên sẽ giác ngộ:
Khô mộc phùng xuân hoa cạnh phát
Phong xuy thiên lí phức thần hương
(Hoa rợp cành khô lúc tiết xuân
Gió đưa nghìn dặm nức hương thần)
(Tham đồ hiển quyết) [79; 278]
Hình ảnh hoa rợp cành khô ẩn dụ cho Phật tính được phát lộ, với tự lực
và cơ duyên. "Kiến tính thành Phật", con người tìm thấy bản tính chân như
của chính mình cũng là ngộ được chân ý của Phật pháp.
Hàm ý thức ngộ chân tính, khai mở được đạo pháp của Thiền học cũng
được ẩn dụ qua hình ảnh của hạt giống nảy mầm cây:
Bất thị xuân lôi thanh nhất chấn
Tranh giao hàm giáp tận khai manh
(Có phải sấm xuân rền một tiếng
Thì muôn hạt giống nảy mầm cây?)
(Niêm tụng kệ) [80; 127]
Nhưng trong sự giác ngộ này, đề cập đến yếu tố bên ngoài, tha lực –
"xuân lôi", tác động làm bừng ngộ ở người tu học. Hình ảnh "xuân lôi" khẳng
định sự khai thị khoảnh khắc đạt ngộ trong Thiền học. Khoảnh khắc khai ngộ
bằng âm thanh bên ngoài cũng được ẩn dụ qua tiếng chim kêu trong Sơn
phòng mạn hứng:
Hoa tận vũ tình sơn tịch tịch
Nhất thanh đề điểu hựu xuân tàn
(Hoa rụng hết, mưa đã tạnh, núi non tịch mịch
Một tiếng chim kêu, lại cảnh xuân tàn)
[79; 469]
Ẩn dụ tiếng chim kêu là sự thức nhận cho thiền giả về sự kết thúc của
một chu trình tạo hóa và khởi phát cho một chu trình mới. Thiền giả được
bừng tỉnh trong một khoảnh khắc khai ngộ về ý vị thiền lắng sâu trong cảnh
96
xuân tàn.
Trên con đường tu đạo nhấn mạnh đến tự chủ, nội lực của bản thân của
hành giả. Sự khác biệt trong con đường đạt đến ngộ giải các chân lý Thiền
được đề cập như một điều chính yếu:
Xuân vũ vô cao hạ
Hoa chi hữu đoản trường
(Mưa xuân không cao thấp
Cành hoa có ngắn dài)
(Ngữ lục vấn đáp môn hạ) [80; 103]
Cành hoa ngắn dài là hình ảnh ẩn dụ cho sự khác nhau của con đường
tu học. Hoa cùng được hưởng chung một làn mưa xuân nhưng dài ngắn khác
nhau. Đó là sự khác biệt từ nội lực, bản thân, và cách lĩnh hội của người tu
học. Vì thế sự giác ngộ không thể dựa vào bên ngoài mà cần chú trọng đến
khai mở nội tâm trí huệ bên trong.
Con người đạt ngộ nhờ sự chú tâm đến nội lực, không còn chấp nê vào
ngoại cảnh cũng như nội tâm. Khoảnh khắc đạt đạo của người tu học là lẽ
hiển nhiên, tất yếu, khi khóa chặt được nội tâm trước ngoại giới:
Thế số nhất sách mạc
Thời tình lưỡng hải ngân
Ma cung hồn quản thậm
Phật quốc bất thăng xuân
(Số đời hoàn toàn mờ mịt
Tình người đổi thay qua đôi mắt
Khi cung ma bị quản chặt
Thì cõi Phật tràn ngập màu xuân)
(Đề Cổ Châu hương thôn tự) [80; 454]
Con đường đạt ngộ cho người tu học phong phú và linh hoạt, vừa phụ
thuộc vào nội lực, vừa có cơ duyên, đôi khi là sự tác động của bên ngoài
97
(mang tính chất hỗ trợ). Những con đường tu học khác nhau được thể hiện
thông qua những hình ảnh ẩn dụ đặc sắc, gợi liên tưởng cho người tu đạo.
Đốn ngộ trong khoảnh khắc của Thiền được thể hiện một cách sâu sắc, đầy
ẩn ý.
Tiểu kết:
Tóm lại, với các biện pháp nghệ thuật miêu tả, tượng trưng, ẩn dụ, mùa
xuân trong thơ Thiền Lý – Trần trở thành các phương tiện truyền tải Thiền lý
với nhiều tầng ý thâm sâu, gợi mở trường liên tưởng, vừa tạo nên được những
bức tranh xuân chan chứa ý vị thiền. Nghệ thuật miêu tả với bút pháp khái
quát và chấm phá tạo dựng hình ảnh xuân với ý nghĩa biểu trưng và ý nghĩa
trực tiếp phong phú sinh động, lắng sâu ý vị Thiền. Bức họa xuân qua thơ
Thiền bình đạm sơ giản song khoáng đạt, thanh thoát thâm trầm của sắc cảnh
thiền. Nghệ thuật tượng trưng, ẩn dụ biểu đạt triết lí Thiền một cách sinh
động, biến những luận lí khô khan gần gũi trở nên gần gũi, biểu cảm và có
tính gợi mở. Các biện pháp nghệ thuật có nguồn chung trong văn học trung
đại nhưng thể hiện trong thơ Thiền với những đặc sắc riêng đem lại hiệu quả
98
biểu đạt lớn lao.
KẾT LUẬN
Trong ba chương của luận văn, chúng tôi tập trung giải quyết các vấn
đề sau:
1. Khái lược quan niệm chung về mùa xuân, mùa xuân đối với Thiền
tông và mùa xuân trong cội nguồn thi ca phương Đông. Có thể thấy, trong mĩ
cảm phương Đông, con người là một phần của vũ trụ, nên thiên nhiên bốn
mùa có ý nghĩa quan trọng. Trong đó, mùa xuân mang ý niệm về sự khởi đầu
hưng thịnh, in dấu ấn đậm nét đối với văn hóa Á Đông, đặc biệt ở các học
thuyết lớn. Trong Thiền tông, mùa xuân là nền tảng khái quát nên các tư
tưởng triết lí về sự đổi thay tất yếu của tạo hóa, cũng như biểu tượng cho chân
như bất diệt. Với những ý nghĩa như vậy, mùa xuân, một cách tự nhiên, trở
thành đề tài không thể thiếu trong thơ ca phương Đông. Trong dòng chảy đó,
chúng tôi đề cập đến đề tài mùa xuân trong thơ Đường Trung Quốc, thơ haiku
Nhật Bản – những nền thơ ca có nhiều nét chung đối với thơ Thiền Lý – Trần
của Việt Nam cả về mĩ cảm chi phối và nghệ thuật thể hiện, nhận diện thiên
nhiên bốn mùa và mùa xuân như một đề tài chính yếu được thể hiện cùng
những đặc sắc riêng của nền văn học. Văn học trung đại Việt Nam, vốn nằm
trên trục mĩ cảm văn hóa và văn học phương Đông, thể hiện mùa xuân mang
cảm thức của tâm hồn Việt. Mùa xuân được hiện hữu như một dòng chảy
không thể thiếu, trải dài theo tiến trình văn học (với các tác giả tiêu biểu:
Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Nguyễn Khuyến,…), ẩn chứa trong bức tranh
phong cảnh thiên nhiên những kí thác về thân phận, lẽ đời của thi nhân.
2. Thơ Thiền Lý – Trần nằm trong mạch chảy của văn học trung đại
Việt Nam, nhưng đề tài mùa xuân được thể hiện mang những đặc sắc riêng do
sự chi phối của tinh thần Thiền học. Các khía cạnh đặc sắc của khu biệt thơ
Thiền mùa xuân trong mạch chảy chung là chủ đề, hình tượng và các triết lí
thiền học được ẩn tàng. Chủ đề được nhận diện qua hai dòng mạch chính là
99
thiên nhiên và con người thấu triệt đạo Thiền. Thiên nhiên mùa xuân được
quang chiếu dưới đôi mắt nhìn thiền quán luôn mang thấm đẫm ý vị thiền. Đó
là thiên nhiên hư tĩnh, phát lộ vẻ đẹp tự tính và thiên nhiên mang giá trị biểu
trưng chuyên chở triết lí. Hiện hữu trong khung cảnh thiên nhiên ấy là con
người của tâm thiền đạt đạo với tinh thần phá chấp triệt để, vô ngã, vô ngôn,
tự do tuyệt đối, vượt khỏi những giới hạn thông thường. Về các hình tượng
mùa xuân, chủ yếu nhận diện qua các hình tượng tiêu biểu là hoa xuân, trời,
núi, trăng, gió xuân và các thanh âm mùa xuân. Đây là những hình ảnh xuất
hiện với tần xuất lớn và mang giá trị biểu trưng cao, là "công cụ ngoại hóa"
cho triết lí đạo Thiền. Đặc biệt, thơ Thiền với mục đích chính là truyền đạo và
đạt đạo, xem khinh vỏ ngôn từ, thì việc gửi gắm triết lí mới là thiết yếu. Các
triết lí Thiền học được thể hiện phong phú: vô thường, sắc không, cho thấy
những tư tưởng và ý vị thâm áo trong cái nhìn về vũ trụ và nhân thế.
3. Về nghệ thuật thể hiện mùa xuân trong thơ Thiền Lý – Trần, chủ yếu
dùng các thủ pháp của văn học trung đại, nhưng với những lí do và cách sử
dụng riêng. Với nghệ thuật miêu tả, thơ Thiền Lý – Trần dùng hai thủ pháp
chính là miêu tả khái quát về thiên nhiên mùa xuân mang ý nghĩa biểu tượng
với mục đích truyền tải thiền lý, và thủ pháp miêu tả chấm phá tạo nên những
bức tranh xuân hư tĩnh, trầm mặc, thanh giản. Các thủ pháp tượng trưng và ẩn
dụ được sử dụng góp phần tạo nên tính hàm súc của ngôn ngữ thiền. Các triết
lí ẩn tàng trong thơ Thiền do đó cũng được thể hiện một cách sinh động, biểu
cảm và có giá trị gợi mở với người tu học.
Luận văn với hi vọng có được cái nhìn toàn diện hơn về mùa xuân thơ
Thiền Lý – Trần, là bước khởi đầu trong nhận diện ở những giá trị cơ bản của
đề tài chủ đề và nghệ thuật thể hiện. Để hiểu sâu sắc hơn về vấn đề mùa xuân
trong thơ Thiền, có thể tiến hành các hướng nghiên cứu mới: so sánh mùa
xuân trong tương quan với các mùa khác, đặc biệt là mùa thu trong thơ Thiền
Lý – Trần để thấy được thức cảm khác biệt của thi sĩ – thiền gia trước hai
100
mùa sinh – diệt; hoặc so sánh mùa xuân trong thơ Thiền Lý – Trần với mùa
xuân trong các dòng thơ ca khác như haiku hay thơ Đường, từ đó nhận diện
những nét chung và khác biệt giữa hai nền văn học…
Do thời gian có hạn, luận văn chúng tôi không tránh khỏi những thiếu
sót, sai lệch. Chúng tôi mong nhận được sự đóng góp để luận văn được hoàn
101
thiện hơn.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Thích Phước An (1992), “Thiền sư Huyền Quang và con đường trầm
lặng của mùa thu”, Văn học, số 4.
2. Dương Ngọc Anh (2011), Chữ hòa trong thơ Thiền thời đại Lý – Trần,
Luận văn Thạc sĩ khoa học Ngữ văn, Đại học Sư phạm Hà Nội.
3. Đỗ Tùng Bách (1999), Thơ Thiền Đường Tống, Nxb Đồng Nai.
4. Thích Minh Châu (2008), Hiểu và hà nh chá nh phá p , Nxb Văn hóa sài
Gòn.
5. J.Chevalier, A.Gheerbrant (2002), Từ điển biểu tượng văn hó a thế giớ i ,
Trườ ng viết văn Nguyễn Du, Nxb Đà Nẵng.
6. Minh Chi (2003), “Vua Trần Nhân Tông và phái Trúc Lâm Yên Tử”,
Thiền học đời Trần (tái bản), Nxb Tôn giáo, Hà Nội.
7. Minh Chi (2003), “Thơ Huyền Quang”, Thiền học đời Trần (tái bản),
Nxb Tôn giáo, Hà Nội.
8. Nguyễn Huệ Chi (1977), “Trần Tung – một gương mặt lạ trong làng
thơ thiền thời Lý - Trần”, Nghiên cứu văn học, số 4, tr.116-135.
9. Nguyễn Huệ Chi (1978), “Các yếu tố Nho – Phật – Đạo được tiếp thu
và chuyển hóa như thế nào trong đời sống tư tưởng và văn học thời Lý
– Trần”, Văn học, số 6.
10. Nguyễn Huệ Chi (1983), Mấy vẻ mặt thi ca Việt Nam, Nxb Tác phẩm
mới, Hà Nội.
11. Nguyễn Huệ Chi (1987), “Mãn Giác và bài thơ nổi tiếng của ông”,
Văn học, số 5, tr.67-72.
12. Nguyễn Phương Chi (1982), “Huyền Quang – nhà thơ, thi sĩ”, Văn
học, tr.75-81.
13. Nguyễn Đình Chú (1999), “Vấn đề “ngã” và “phi ngã” trong văn học
102
trung cận đại”, Văn học, số 5, tr.38-43.
14. Thiều Chửu (2009), Hán Việt tự điển, Nxb Thanh niên.
15. Đỗ Thanh Dương (2003), Trần Nhân Tông – Nhân cách văn hoá lỗi
lạc, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.
16. Nguyễn Thế Đăng (2003), “Ý nghĩa tích cực của đời sống trong cái
nhìn của các Thiền sư đời Trần”, Thiền học đời Trần (tái bản), Nxb Tôn
giáo, Hà Nội.
17. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (đồng chủ biên) (2006),
Từ điển thuật ngữ văn học (tái bản), Nxb Giáo dục.
18. Lê Từ Hiển (2007), “Basho (1644 – 1694) và Huyền Quang (1254 –
1334) – Sự gặp gỡ với mùa thu hay sự tương hợp về cảm thức thẩm
mĩ”, Haikư – Hoa thời gian, Nxb Giáo dục.
19. Đỗ Đức Hiểu (chủ biên) (2004), Từ điển văn học (bộ mới), Nxb Thế
giới.
20. Nguyễn Duy Hinh (1992), “Phật giáo với văn học Việt Nam”, Văn
học, số 4, tr.4-6.
21. Nguyễn Duy Hinh (1999), Tư tưởng Phật giáo Việt Nam, Nxb Hội Nhà
văn.
22. Nguyễn Phạm Hùng (1992), “Thơ thiền và việc lĩnh hội thơ thiền đời
Lý”, Văn học, số 4.
23. Nguyễn Phạm Hùng (1993), Văn học Lý – Trần (chuyên khảo), Nxb
Giáo dục.
24. Nguyễn Phạm Hùng (1998), Thơ thiền Việt Nam – Những vấn đề lịch
sử và tư tưởng nghệ thuật, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
25. Nguyễn Phạm Hùng (2006), “Thiền sư Đỗ Pháp Thuận - Người mở
đầu lịch sử văn học Việt Nam thời tự chủ”, Nghiên cứu Phật học, số 2,
tr.47-51.
26. Nguyễn Phạm Hùng (2007), “Phổ chiêu thiền sư Phạm Thái và những
103
sáng tác văn học đặc sắc của ông”, Nghiên cứu Phật học, số 4, tr.44-47.
27. Nguyễn Phạm Hùng (2008), Các khuynh hướng văn học thời Lý –
Trần, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.
28. Nguyễn Phạm Hùng (2009), “Thi kê ̣ và các thủ pháp văn ho ̣c” , Nghiên
cứ u Phật học, số 6, tr.28-33.
29. Nguyễn Phạm Hùng (2011), Văn học cổ Việt Nam tìm tòi và suy nghĩ,
Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.
30. Đỗ Văn Hỷ (1976), “Câu chuyện Huyền Quang và cách đọc thơ thiền”,
Văn học, số 1, tr.62-70.
31. Thu Giang, Nguyễn Duy Cần (2014), Phật học tinh hoa, Nxb Trẻ.
32. Đinh Gia Khánh (chủ biên) (2006), Văn học Việt Nam từ thế kỉ X –
nửa đầu thế kỉ XVIII (tái bản), Nxb Giáo dục.
33. N.I.Konrad (2007), Phương Đông học , Trịnh Bá Dĩnh (tuyển cho ̣n và giớ i thiê ̣u), Trịnh Bá Dĩnh , Trần Đình Hươ ̣u , Từ Thi ̣ Loan , Trần Ngo ̣c Vương (dịch), Nxb Văn ho ̣c.
34. Phạm Ngọc Lan (1986), “Chất trữ tình trong thơ Thiền đời Lý”, Văn
học, số 4, tr.92-97.
35. Phạm Ngọc Lan (1992), “Trần Nhân Tông và cảm hứng Thiền trong
thơ”, Văn học, số 4, tr.44-47.
36. Phùng Hữu Lan (2010), Tinh thần triết học Trung Quốc, Lê Anh Minh
(dịch), Nxb Đa ̣i ho ̣c Sư pha ̣m TP Hồ Chí Minh.
37. Nguyễn Công Lý (2000), Văn học Phật giáo thời Lý – Trần – Diện
mạo vào đặc điểm, LATS Ngữ văn, Đại học Sư phạm Hà Nội.
38. Nguyễn Công Lý (2011), Trần Nhân Tông với cảm hứng mùa xuân,
http://khoavanhoc-ngonngu.edu.vn
39. Hà Thúc Minh (2009), “Tản mạn Xuân – Thu và triết lý thơ Thiền thời
Lý – Trần”, Nghiên cứu tôn giáo, số 4 (70), tr.7-16.
40. Tiểu Trúc Phan Minh (2003), Vài nét tinh hoa phật học trong dòng
104
chảy cuộc đời, Nxb Khoa học xã hội, TP. Hồ Chí Minh.
41. Nguyễn Đình Nghĩa (2009), Huyền Quang Tôn giả từ cuộc đời vào tác
phẩm, Luận văn Thạc sĩ khoa học Ngữ văn, Trường Đại học Khoa học
xã hội và Nhân văn Hà Nội.
42. Nguyễn Viết Ngoạn (2010), Văn chương Việt Nam truyền thống với sự
phản ánh con người (chuyên luận và tuyển chọn), Nxb Đại học Quốc
gia thành phố Hồ Chí Minh.
43. Bùi Văn Nguyên (1975), “Bàn về một khía cạnh trong thơ trữ tình đời
Trần”, Văn học, số 1, tr.54-61.
44. Trần Thị Ánh Nguyệt (2014), “Thiên nhiên – nguồn cảm hứng bất tận
của văn chương phương Đông”, Tạp chí khoa học Đại học Sư phạm
thành phố Hồ Chí Minh, số 6.
45. Nhiều tác giả (2003), Thiền học đời Trần, Nxb Tôn giáo.
46. Nhiều tác giả (2010), Về con người cá nhân trong văn học cổ Việt
Nam, Nxb Giáo dục.
47. Nguyễn Khắc Phi (2006), Tuyển tập, Nxb Giáo du ̣c, Hà Nội. 48. Nguyễn Thu Phương (2008), “Xuân trong thơ Đường”, Nghiên cứu
Trung Quốc, số 1 (80), tr.73-77.
49. Thích Trí Quảng (2004), Tư Tưởng Phật giáo, Nxb Tôn giáo.
50. Trần Văn Sáng (2007), “Biểu trưng của mùa xuân trong thơ ca”, Ngôn
ngữ và đời sống, số 6, tr.32-38.
51. Thích Thiện Siêu (2003), Phật ở trong lò ng, Nxb Tôn giáo. 52. Nguyễn Hữu Sơn (1993), “Vấn đề con người cá nhân trong văn học cổ
nhìn từ góc độ lý thuyết”, Văn học, số 3, tr.7-11.
53. Nguyễn Kim Sơn (2009), “Sự đan xen các khuynh hướng thẩm mĩ
trong thơ Huyền Quang – nghiên cứu trường hợp sáu bài thơ vịnh cúc”,
Nghiên cứu văn học, số 4, tr.75-89.
54. Dusetzteitaro Suzuki (2001), Thiền Luận (Quyển thượng, quyển trung,
105
quyển hạ), NXB TP. Hồ Chí Minh.
55. Trần Đình Sử (1999), Mấy vấn đề thi pháp văn học trung đại Việt
Nam, Nxb Giáo dục.
56. Trần Đình Sử (2008), Lý luận và phê bình văn học , Nxb Giáo du ̣c, Hà
Nô ̣i.
57. Lê Thị Thanh Tâm (2006), “Con người hành hương trong thơ Thiền
Lý - Trần và Đường - Tống”, Nghiên cứu văn học, số 3, tr.70-81.
58. Trịnh Thị Tâm (2012), “Thơ hai – kư Nhật Bản và thơ Thiền Việt Nam
– Những tương đồng và dị biệt”, Giáo dục, số 295 (kì 1 – tháng 10),
tr.27-28, tr.54.
59. Hà Văn Tấn (1992), “Vấn đề văn bản học các tác phẩm văn học Phật
giáo Việt Nam”, Văn học, số 4, tr.7-12.
60. Trần Thị Băng Thanh (1994), “Huyền Quang và những trang đời nhiều
huyền thoại, những vẫn thơ nhiều hàm nghĩa”, Văn học, số 4, tr. 26-30.
61. Trần Thị Băng Thanh (1999), Những nghĩ suy từ văn học trung đại,
Nxb Khoa học xã hội.
, 62. Trần Thi ̣ Băng Thanh (2009), “Cảm nghĩ về thơ Trần Nhân Tông”
Hán Nôm, số 4, tr.3-14.
63. Trần Thi ̣ Thanh (2008), “Triết lí Thiền tông – mô ̣t nô ̣i dung quan tro ̣ng đươ ̣c chuyển tải trong thơ Thiền thờ i Đườ ng Tống Trung Quốc và thơ Thiền Viê ̣t Nam thời Lý Trần”, Tạp chí Khoa học, Đa ̣i ho ̣c Huế số 6.
64. Lê Ma ̣nh Thát (2006), Toàn tập Trần Nhân Tông, NXB Tổng Hợp TP.
HCM.
65. Trần Nho Thìn (2007), Văn học trung đại Việt Nam dưới góc nhìn văn
hóa, Nxb Giáo dục.
66. Trần Nho Thìn (2012), Văn học Việt Nam từ thế kỉ X đến hết thế kỉ
XIX, Nxb Giáo dục.
67. Nguyễn Đăng Thu ̣c (2006), Lịch sử triết học phương Đông , Nxb Từ
106
Điển Bách Khoa, Hà Nội.
68. Thích Giác Toàn (2010), Những sáng tác văn học của các thiền sư thời
Lý – Trần, Nxb Tổng hợp TP. Hồ Chí Minh.
69. Lê Viết Trườ ng (2014), “Ý nghĩa củ a hoa sen trong đa ̣o Phâ ̣t” , Nghiên
cứ u Phật học, số 2, tr.27-28.
70. Trầm Thanh Tuấn (2011), “Mã Đường thi trong thơ thiên nhiên đời
Trần”, Nghiên cứu văn học, số 3, tr.25-33.
71. Thích Thanh Từ (1997), Tam tổ Trúc Lâm giảng giải , Thiền viê ̣n
Thườ ng Chiếu, Tp Hồ Chí Minh.
72. Thích Thanh Từ (1997), Tam tổ Trú c Tham đồ hiển quyết và thi tụng các Thiền sư đời Lý giảng giải , Thiền viê ̣n Thườ ng Chiếu , Tp Hồ Chí Minh.
73. Thích Thanh Từ (2003), “Thiền Trúc Lâm qua văn thơ chữ Hán” ,
Thiền học đời Trần (tái bản), Nxb Tôn giáo.
74. Đoàn Thị Thu Vân (1992), “Một vài nhận xét về ngôn ngữ thơ thiền
Lý – Trần”, Văn học, số 2, tr.13-21.
75. Đoàn Thị Thu Vân (1998), “Khoảnh khắc quên trong thơ Thiền”, Văn
học, số 4, tr.90-93.
76. Đoàn Thị Thu Vân (1993), “Quan niệm về con người trong thơ Thiền
thời Lý - Trần”, Văn học, số 3, tr.12-15.
77. Đoàn Thị Thu Vân (1995), Khảo sát đặc trưng nghệ thuật của thơ
Thiền Việt Nam thế kỉ X – XIV, Luận án PTS Ngữ văn, Trường Đại học
Sư phạm Hồ Chí Minh.
78. Lê Trí Viễn (1996), Đặc trưng văn học trung đại Việt Nam, Nxb Khoa
học xã hội.
79. Viện Văn học (1977), Thơ văn Lý – Trần, tập 1, Nxb KHXH.
80. Viện Văn học (1988), Thơ văn Lý – Trần, tập 2, Nxb KHXH.
81. Viện Văn học (1978), Thơ văn Lý – Trần, tập 3, Nxb KHXH.
107
82. Trần Ngo ̣c Vương (1999), Văn học Viê ̣t Nam , dòng riêng giữa nguồn
chung, Nxb Đa ̣i ho ̣c Quốc gia Hà Nô ̣i.
83. Trần Ngọc Vương (2009), “Nghiên cứu thơ Thiền ở Việt Nam – Đôi
điều suy ngẫm”, Nghiên cứu văn học, số 4, tr.105-110.
84. Trần Ngọc Vương (chủ biên) (2007), Văn học Việt Nam thế kỉ X – XIX
những vẫn đề lí luận và lịch sử, Nxb Giáo dục.
85. Lê Thu Yến (chủ biên) (2002), Văn học Việt Nam, văn học trung đại
108
những công trình nghiên cứu (tái bản), Nxb Giáo dục.