ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

–––––––o0o–––––––

TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

PHẠM THỊ THU HƢƠNG

MÙA XUÂN TRONG THƠ THIỀN LÝ –TRẦN

LUẬN VĂN THẠC SĨ

Chuyên ngành: Văn học Việt Nam

Hà Nội, 2014

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

–––––––o0o–––––––

TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

PHẠM THỊ THU HƢƠNG

MÙA XUÂN TRONG THƠ THIỀN LÝ –TRẦN

Chuyên ngành: Văn học Việt Nam

Mã số: 60 22 01 21

LUẬN VĂN THẠC SĨ

Người hướng dẫn khoa học: GS. TS. Trần Ngọc Vƣơng

Hà Nội, 2014

LỜI CẢM ƠN

Tôi xin bày tỏ lòng tri ân sâu sắc tới GS.TS Trần Ngọc Vương -

người hướng dẫn nhiệt tâm - đã động viên, chỉ bảo, giúp đỡ tôi hoàn

thành luận văn và trưởng thành hơn trong nghiên cứu khoa học.

Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành tới các thầy cô Khoa Ngữ

văn - Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nh ân văn đã tận tình giảng dạy, trang bị cho tôi vốn kiến thức quý báu.

Cảm ơn bạn bè , ngườ i thân luôn ủng hộ và tin tưởng sự lựa

chọn của tôi.

Hà Nội, tháng 12 năm 2014

Tác giả luận văn

Phạm Thị Thu Hương

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1

1. Lí do chọn đề tài ............................................................................................ 1

2. Lịch sử vấn đề ............................................................................................... 2

3. Mục đích, đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................ 9

4. Phương pháp nghiên cứ u ............................................................................... 9 5. Ý nghĩa của luận văn ................................................................................... 10

6. Cấu trúc luận văn ........................................................................................ 10

CHƢƠNG 1 CẢM THỨC MÙA XUÂN VÀ THI CA PHƢƠNG ĐÔNG .... 11

1.1. Cảm thức mùa xuân.................................................................................. 11

1.1.1. Mùa xuân trong tự nhiên ....................................................................... 11

1.1.2. Mùa xuân trong văn hóa ....................................................................... 12

1.1.3. Mùa xuân trong Thiền tông ................................................................... 15

1.2. Mùa xuân trong thi ca phương Đông ....................................................... 19

1.2.1. Mùa xuân trong thơ Đường và thơ Haiku ............................................. 19

1.2.2. Mùa xuân trong thơ ca trung đại Việt Nam .......................................... 27

CHƢƠNG 2 CHỦ ĐỀ MÙA XUÂN TRONG THƠ THIỀN LÝ – TRẦN

......................................................................................................................... 39

2.1. Chủ đề mùa xuân trong thơ Thiền Lý – Trần .......................................... 39

2.1.1. Thiên nhiên mùa xuân ........................................................................... 39

2.1.2. Con người mùa xuân ............................................................................. 44

2.2. Hình tượng mùa xuân ............................................................................... 51

2.2.1. Hoa ........................................................................................................ 51

2.2.2. Thanh âm mùa xuân .............................................................................. 55

2.2.3. Các hình tượng khác ............................................................................. 58

2.3. Triết lí Thiền trong thơ thiền mùa xuân ................................................... 63

2.3.1. Mùa xuân – cảnh giới của Thiền........................................................... 63

2.3.2. Mùa xuân và triết lí vô thường .............................................................. 67

2.3.3. Mùa xuân và triết lí sắc – không ........................................................... 71

CHƢƠNG 3 NGHỆ THUẬT THỂ HIỆN MÙA XUÂN TRONG THƠ

THIỀN LÝ – TRẦN ...................................................................................... 75

3.1. Nghệ thuật miêu tả mùa xuân trong thơ Thiền Lý – Trần ....................... 75

3.1.1. Miêu tả khái quát .................................................................................. 75

3.1.2. Miêu tả chấm phá .................................................................................. 78

3.2. Nghệ thuật tượng trưng về mùa xuân trong thơ Thiền Lý – Trần ................... 82

3.2.1. Tượng trưng của mùa xuân vận hành theo quy luật ............................. 85

3.2.2. Tượng trưng của mùa xuân mang tính phủ đi ̣nh .................................. 89 3.3. Nghệ thuật ẩn dụ về mùa xuân trong thơ Thiền Lý – Trần...................... 91

3.3.1. Ẩn dụ cho “bản thể chân như” ............................................................. 92

3.3.2. Ẩn dụ cho con đường ngộ đạo .............................................................. 95

KẾT LUẬN .................................................................................................... 99

TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................... 102

MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài

Văn học Lý – Trần đặc biệt là phần thơ Thiền có đóng góp lớn lao cho

sự phát triển của nền văn học dân tộc buổi đầu tự chủ. Là kết tinh của một

thời đại văn hóa mà Phật giáo phát triển đến cao độ, thơ Thiền trở thành

phương tiện để truyền tải triết lý Thiền tông. Bên cạnh đó, không chỉ giới hạn

trong nội dung tôn giáo, sự nhạy cảm và tài năng của các bậc Thiền sư đã tạo

nên nhiều tác phẩm độc đáo dung hòa đạo với đời bằng hình tượng đẹp đẽ.

Với những đặc trưng riêng, thơ Thiền Lý – Trần trở thành dòng nước nhỏ hòa

chung với nguồn chảy lớn của văn học trung đại Việt Nam, tạo nên một nền

văn học đa dạng, đặc sắc.

Thiên nhiên là nguồn mạch bất tận gợi hứng cho người nghệ sĩ bao đời,

từ cổ đến kim. Thơ ca thâu nhận thiên nhiên như một lẽ tất yếu bởi sự giao

cảm giữa con người – vũ trụ được xem như một hằng số bất biến của muôn

đời. Qua bức tranh cảnh vật, thi sĩ gửi gắm xúc cảm trước biến chuyển của đất

trời, hay ẩn ngụ tình cảm riêng tư cùng những chiêm nghiệm sâu sắc về cuộc

đời. Trong văn học trung đại, thiên nhiên đóng vai trò quan trọng: đề tài vịnh

vật, vịnh cảnh cùng các thủ pháp “tả cảnh ngụ tình”, “thi trung hữu họa”... trở

thành một sự quy chiếu có tính chất bắt buộc. Như vậy, thiên nhiên đã trở

thành một yếu tố có tính quy phạm của văn chương. Không nằm ngoài quy

luật chung, hình ảnh thiên nhiên trong thơ Thiền Lý – Trần xuất hiện với tần

số cao, ẩn chứa những ý niệm sâu sắc. Tuy nhiên, cảnh vật được soi chiếu

dưới ánh quang của Thiền nên vẫn mang sắc thái riêng biệt. Nó không chỉ là

khách thể bên ngoài mà được chuyển thành chủ thể bên trong. Các tác giả sử

dụng thiên nhiên như một phương tiện để truyền tải Thiền lý, đưa người tu

học tìm được bản thể chân như, hay biểu hiện những xúc cảm thế sự mang ý

1

vị Thiền.

Mùa xuân trong thơ Thiền vừa mang ý nghĩa thời gian chảy trôi của tạo

hóa, vừa gợi cảm thức không gian biến chuyển không ngừng của muôn vật.

Nó kết đọng cao độ tinh thần ngộ đạo, thể hiện triết lí sâu sắc của Phật pháp

và trong nhiều trường hợp đem đến những rung động tinh tế, hấp dẫn, đậm đà

tính nhân văn.

Có thể thấy mùa xuân có vị trí quan trọng trong giáo lý Thiền học và

thơ Thiền Lý – Trần, song lại chưa được nghiên cứu một cách chỉnh thể. Do

đó, chúng tôi chọn đề tài “Mùa xuân trong thơ Thiền Lý – Trần”, với

mong muốn góp một phần nhỏ trong việc khai mở ý vị uyên áo của Thiền về

mùa xuân – đối tượng được thể nghiệm và chứng ngộ trong thi ca.

2. Lịch sử vấn đề

2.1. Nghiên cứu về thơ Thiền Lý – Trần

Trong dòng chảy văn học trung đại Việt Nam nói chung, văn học Lý –

Trần nói riêng, thơ Thiền là bộ phận quan trọng, có đóng góp không nhỏ cho

diện mạo văn học thời đại và dân tộc. Trên thực tế, có không ít giáo trình,

chuyên luận, bài viết... tìm hiểu đặc điểm, giá trị, ý nghĩa của thể loại văn học

độc đáo này. Do giới hạn thời gian, chúng tôi chưa có điều kiện bao quát tất

cả các công trình nghiên cứu đã có. Ở phần này, chúng tôi chỉ điểm qua mấy

nét chính về tình hình nghiên cứu thơ Thiền Lý – Trần thông qua những tài

liệu thu thập được.

Ở góc độ khảo cứu, sưu tầm, văn học Lý – Trần và thơ Thiền giai đoạn

này được ghi chép từ sớm, từ Tinh tuyển chư gia luật thi (Dương Đức Nhan),

Trích diễm thi tập (Hoàng Đức Lương) ở thế kỉ XV, tiếp đó là Khóa hư Lục

(Trần Thái Tông), Thiền uyển tập anh ngữ lục (khuyết danh)... ở thế kỉ XVI –

XVIII... Sang thế kỉ XX, việc sưu tầm, giới thiệu thơ Thiền ghi dấu ấn quan

trọng bằng việc ra đời bộ Thơ văn Lý Trần (ba tập) do nhóm tác giả Viện Văn

học thực hiện. Trong bộ sách, phần khảo luận văn bản của Nguyễn Huệ Chi

2

có đóng góp lớn cho việc thu thập tác phẩm văn học Lý – Trần. Tác giả đã thu

thập được gần 1000 bài thơ và trích đoạn thơ, gần 250 bài văn và trích đoạn

văn, thông qua đó, giới thuyết diện mạo văn học giai đoạn này trên các

phương diện nội dung và thể loại văn học. Đến năm 2004, thơ văn Lý – Trần

được tuyển chọn và sưu tầm lại trong cuốn Tinh tuyển văn học Việt Nam (tập

3) do Nguyễn Đăng Na chủ biên.

Nghiên cứu Thơ Thiền Lý – Trần đã có một quá trình lâu dài, được đề

cập qua các ý kiến nhận định trong các công trình khái quát như Việt Nam văn

học sử yếu (1941) của Dương Quảng Hàm, Việt Nam cổ học văn sử (1942)

của Nguyễn Đổng Chi, Văn học đời Lý và đời Trần của Ngô Tất Tố... hay các

bài viết như Tìm hiểu thơ văn các nhà sư Lý – Trần (1965) của Kiều Thu

Hoạch... Tuy nhiên, phải từ sau năm 1975, thơ Thiền mới được xem như một

đối tượng thẩm mĩ, một loại hình nghệ thuật độc đáo, được tiếp cận, đánh giá

ở nhiều góc độ khác nhau.

Về loại hình tác giả, Nguyễn Phạm Hùng quan tâm tới tính loại biệt:

“tác giả thơ Thiền chủ yếu là các thiền sư và những người am hiểu sâu sắc về

đạo Phật” [24; 33]. Trần Nho Thìn trong Văn học Việt Nam từ thế kỉ X đến hết

thế kỉ XIX khẳng định: “các nhà sư – thi tăng – chiếm một tỉ lệ lớn trong đội

ngũ tác giả văn học giai đoạn đầu của văn học trung đại Việt Nam” [66; 179],

“Các thiền sư còn là những thi sĩ tài năng, học vấn uyên bác, có tầm quan sát,

hiểu biết cuộc sống, nắm vững các học thuyết, tư tưởng triết học và tôn giáo,

sử dụng ngôn ngữ linh hoạt” [66; 187]. Còn tác giả Đỗ Thu Hiền qua Các loại

hình tác giả trong văn học thời Lý – Trần (in trong cuốn Văn học Việt Nam

thế kỉ X – XIX – những vấn đề lí luận và lịch sử) thì phân tích diện mạo tác

giả văn học Lý – Trần theo hai hướng: “Thiền sư – những nhà trí thức đầu

tiên của thời độc lập” [84; 385] và quý tộc nhà Trần: “thay thế địa vị của các

nhà sư trong buổi ban đầu là tầng lớp quý tộc, võ tướng” [84; 389].

Ở phương diện nội dung, Phạm Ngọc Lan quan tâm đến Chất trữ tình

3

trong thơ Thiền đời Lý qua việc “ghi lại những giờ phút êm đềm, những

khoảnh khắc xao động trong tâm hồn của các nhà sư – thi sĩ trước cuộc sống”

[34; 92]. Khái quát hơn, các tác giả giáo trình Văn học Việt Nam (thế kỉ X

– nửa đầu thế kỉ XVIII) nhận định thơ Thiền đời Lý “gắn với triết lý Phật

giáo” [32; 60], tuy nhiên có khi “nội dung vượt ra khỏi phạm vi giáo lý”,

thể hiện cái nhìn tinh tế và đầy xúc động đối với thiên nhiên” [32; 60] của

các thiền sư.

Cuốn Thơ Thiền Việt Nam – Những vấn đề lịch sử và tư tưởng nghệ

thuật của Nguyễn Phạm Hùng là chuyên luận mang tính tổng quát nghiên cứu

thơ Thiền Việt Nam, trong đó có thơ Thiền Lý – Trần. Đặc điểm chung của

thơ Thiền xét về giá trị tư tưởng được đề cập tới thông qua hai bộ phận thơ

Thiền thiên về triết lí và thiên về trữ tình, tư tưởng “hòa quang đồng trần”

cũng như tinh thần “tam giáo”. Bên cạnh đó, tác giả nhận định thơ Thiền đời

Lý “chủ yếu đi vào giải thích, triết lý về các tư tưởng Phật giáo, ca ngợi nhà

Phật” và “ít nhiều là những cảm xúc trước thiên nhiên, cuộc sống...” [24; 89].

Còn thơ Thiền đời Trần “vừa mang tính triết lý, vừa mang tính trữ tình, mang

tinh thần nhập thế tích cực” [24; 133]. Sau này, trong cuốn Các khuynh hướng

văn học thời Lý – Trần, Nguyễn Phạm Hùng nhấn mạnh thêm thơ Thiền “như

một sự tổng kết toàn bộ nhận thức, tri thức và cả xúc cảm của nhà tu hành

trong cuộc đời hành đạo” [24; 46].

Trong Những sáng tác văn học của các Thiền sư thời Lý – Trần [68],

Thích Giác Toàn không tách thơ Thiền thành thể loại riêng mà xem xét giá trị

tư tưởng trong sáng tác văn học nói chung của các Thiền sư trên phương diện

tinh thần nhân bản và tinh thần dân tộc. Tác giả nghiên cứu “sự hiện hữu của

con người và cảm nhận về thân phận con người trong cuộc sống”, cảm nhận

về thiên nhiên, “giáo lý giác ngộ quy luật sanh tử” cũng như “tính truyền

thống dân tộc trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước”, “tinh thần độc lập tự

do” và “tinh thần phụng sự lí tưởng hòa bình”. Chuyên luận đề cập tới thơ

4

Thiền như một bộ phận trong sự khái quát văn học Lý – Trần còn phải kể đến

Văn học Phật giáo Lý – Trần – Diện mạo vào đặc điểm của Nguyễn Công Lý

[37]. Trong chương ba (Đặc điểm văn học Phật giáo Lý – Trần), tác giả đề

cập đến “kiểu tư duy trực cảm tâm linh”, “tinh thần dung hợp các hệ tư

tưởng”, nội dung “thể hiện giáo lý nhà Phật”, cảm hứng về đất nước, quan

niệm con người và cảm hứng thiên nhiên, góp phần khẳng định giá trị nội

dung – tư tưởng của văn học Phật giáo Lý – Trần nói chung, thơ Thiền giai

đoạn này nói riêng.

Xét về nghệ thuật, Trần Nho Thìn cho rằng: “Nhiều Thiền sư Việt Nam

một mặt dùng thi kệ, kể cả hình thức thơ sấm vĩ để tuyên truyền giác ngộ, kể

cả sử dụng cho phục vụ chính trị; mặt khác cũng sáng tác nên những bài thơ,

những hình tượng đẹp, có tính chất nghệ thuật cao, thiên về sử dụng các hình

ảnh sinh động đầy thi ý làm ngôn ngữ biểu hiện đạo lý” [66; 186]. Nguyễn

Phạm Hùng quan tâm đến tượng trưng, ước lệ: “hình ảnh tượng trưng, ước lệ

trong thơ Thiền là kết quả của những cảm xúc bột phát, tức thời”, “làm nên

cái đẹp của thơ Thiền” [24; 64]. Đặc biệt, Khảo sát đặc trưng nghệ thuật của

thơ Thiền Việt Nam thế kỉ X – XIV [77] của Đoàn Thị Thu Vân đã đi sâu khai

thác phần nghệ thuật thơ Thiền trên cơ sở những đặc điểm: ngôn ngữ, thể loại,

thế giới hình tượng, không gian, thời gian, giọng điệu...

Ở góc độ thi pháp, các nhà nghiên cứu, phê bình chú ý nhiều tới quan

niệm nghệ thuật về con người trong thơ Thiền Lý – Trần. Nguyễn Phạm Hùng

khái quát “con người trong thơ Thiền là con người lưỡng thể, nó là sự hòa

nhập của con người Phật giáo và con người cá nhân” [24; 65]. Đoàn Thị Thu

Vân trong bài viết Quan niệm con người trong thơ Thiền Lý – Trần [76] đưa

ra các luận điểm “con người tự do”, “con người – vô ngã”, “con người vô

ngôn”, “có xu hướng muốn đạt đến con người – vũ trụ”. Nguyễn Viết Ngoạn

trong chuyên luận khái quát Văn chương Việt Nam truyền thống với sự phản

ánh con người nhận định: “Con người trong thơ Thiền Lý – Trần, bên cạnh

5

nét chung của con người cộng đồng yêu nước, thượng võ, nó còn là biểu

tượng một hoài niệm, một cảm nhận sâu sắc trước sự hư huyễn cuộc đời” [42;

48]. Với công trình Mấy vấn đề thi pháp văn học trung đại Việt Nam [55],

Trần Đình Sử cũng nhận xét khái quát: con người “coi biến đổi như không,

không sợ hãi, không kinh ngạc...”, “con người Thiền học còn khao khát được

tiêu dao tự tại, giải thoát mọi hữu hạn trần tục để đạt được cái tuyệt đối của

thế giới”. Bên cạnh đó, tác giả còn đề cập đến thời gian vũ trụ bất biến”,

không gian “thanh nhàn”, “thoát tục” trong thơ Thiền.

Những hướng nghiên cứu khác nhau đã đem đến các cách giải mã

phong phú, góp phần phát hiện vẻ đẹp cũng như giá trị của thơ Thiền Lý –

Trần. Ngoài phương diện như trên, giới nghiên cứu còn nhìn nhận thơ Thiền ở

góc độ văn hóa – tư tưởng như Trần Nho Thìn trong Văn học trung đại Việt

Nam dưới góc nhìn văn hóa [65], Tầm Vu trong Tìm hiểu đặc điểm của tư

tưởng Phật giáo Việt Nam trong thời đại Lý – Trần qua các tác phẩm văn

học, Nguyễn Huệ Chi trong Các yếu tố Nho – Phật – Đạo được tiếp thu và

chuyển hóa như thế nào trong đời sống tư tưởng và văn học thời Lý – Trần

[9]; từ sự đối sánh với thơ Thiền của các nền văn học khác như Lê Từ Hiển

trong bài viết Basho (1644 - 1694) và Huyền Quang (1254 – 1334) – Sự gặp

gỡ mùa thu hay sự tương hợp về cảm thức thẩm mĩ [18], Trịnh Thị Tâm trong

Thơ hai – cư Nhật Bản và thơ Thiền Việt Nam – Những tương đồng và dị biệt

[58], Đoàn Thị Thu Vân trong chương 3 của công trình Khảo sát đặc trưng

nghệ thuật của thơ Thiền Việt Nam thế kỉ X – XIV [77] so sánh thơ Thiền Lý –

Trần với thơ Thiền Trung Quốc và Nhật Bản, Tăng Kim Huệ trong luận văn

Thạc sĩ Thơ Thiền Việt Nam thời Lý – Trần trong so sánh với thơ Thiền Nhật

Bản...

Bên cạnh đó, thơ Thiền còn được nghiên cứu ở góc độ tác giả, tác phẩm

với số lượng bài viết đa dạng, phong phú như: Câu chuyện Huyền Quang và

cách đọc thơ thiền của Đỗ Văn Hỷ [30]; Trần Tung – một gương mặt lạ trong

6

làng thơ thiền thời Lý - Trần [8], Mãn Giác và bài thơ nổi tiếng của ông [11]

của Nguyễn Huệ Chi, Huyền Quang – nhà thơ, thi sĩ của Nguyễn Phương Chi

[12], Thiền sư Huyền Quang và con đường trầm lặng của mùa thu của

Thích Phước An [1], Trần Nhân Tông và cảm hứng Thiền trong thơ của

Phạm Ngọc Lan [35], Sự đan xen các khuynh hướng thẩm mĩ trong thơ

Huyền Quang – nghiên cứu trường hợp sáu bài thơ vịnh cúc của Nguyễn

Kim Sơn [53]... Các bài viết đề cập, lí giải về con người, tư tưởng cũng

như giá trị thơ văn của các thiền sư, cung cấp cho người đọc cái nhìn cụ thể

về tác giả, tác phẩm tiêu biểu.

Nhìn chung, thơ Thiền Lý – Trần được tiếp cận, soi chiếu ở nhiều

góc độ, phương diện khác nhau. Đây sẽ là những gợi ý quý báu giúp chúng

tôi có cái nhìn bao quát về giá trị cũng như ý nghĩa của thể loại văn học

độc đáo này.

2.2. Nghiên cứu về mùa xuân trong thơ Thiền Lý – Trần

Mùa xuân trong Thơ Thiền Lý – Trần bước đầu đã được đề cập tới.

Đánh giá chung về mùa xuân trong thơ Thiền Lý – Trần phải kể đến Khảo sát

nghệ thuật thơ Thiền Việt Nam từ thế kỉ X – XIV của Đoàn Thị Thu Vân. Ở

góc độ thi liệu, mùa xuân gắn kết, song hành với mùa thu: “cặp hình ảnh xuân

– thu thường đi liền với nhau để biểu tượng cho quy luật sinh trưởng và tàn

lụi của vạn vật” [77; 88]. Ở hai mùa này, “sinh vật đang phát triển theo hai

hướng ngược nhau nhưng chưa phải đến tột độ để dừng lại và sắp biến đổi về

chất” [77; 94]. Trong bài viết Tản mạn Xuân – Thu và triết lí thơ thiên nhiên

thời Lý – Trần đăng trên tạp chí Nghiên cứu tôn giáo, số 4 – 2009, Hà Thúc

Minh cũng không tách rời mùa xuân khỏi mối quan hệ với thu. Xuân – Thu

gắn với cảm thức thời gian, thông qua đó thể hiện triết lí Phật giáo. Theo tác

giả, “thi sĩ Thiền tông trước hết vẫn là con người “thế gian” nhưng lại là “xuất

thế gian” của “thế gian”, cho nên càng cảm nhận được Xuân – Thu của Đất,

Trời, Xuân – Thu của con người, của nhân tình thế thái nhưng lại từ triết lí

7

của “đạo” chứ không phải của đời” [39; 7].

Mùa xuân trong thơ Thiền không nằm ngoài mạch chảy thiên nhiên,

cảnh vật. Các bài viết, công trình nghiên cứu thường dẫn các ý thơ, các thi

phẩm viết về thiên nhiên, mùa xuân làm minh chứng cho các luận điểm được

nêu ra. Trong Thi kệ và thủ pháp văn học, Nguyễn Phạm Hùng nhắc tới Cáo

tật thị chúng của Thiền sư mãn Giác như là minh chứng cho việc “sử dụng rất

thành công các thủ pháp tượng trưng, ước lệ để trình bày một cách sinh động

cái bất biến của bản thể trước sự vạn biến của đời người và cảnh vật” [28; 31].

Nguyễn Kim Sơn – Trần Thị Mỹ Hòa trong Mấy phương diện thẩm mĩ của

thơ Nho gia và Thiền gia (in trong Văn học Việt Nam thế kỉ X – XIX – những

vấn đề lí luận và lịch sử), qua hai bài thơ xuân của Trần Nhân Tông (Mộ xuân

tức sự, Xuân vãn) cho rằng mùa xuân ở đây là “mùa xuân vĩnh cửu”, “không

gian siêu thế, an tĩnh, hằng nhiên”, thể hiện “con người trong trạng thái vô

ngôn, vô sự” [84; 370]. Trong Thiền Trúc Lâm qua văn thơ chữ Hán (in trong

cuốn Thiền học đời Trần), Thích Thanh Từ dẫn bài thơ Xuân cảnh của Trần

Nhân Tông để chứng minh “cảnh trí được diễn tả và cảm nhận lý thiền một

cách thâm trầm” [45; 45]. “Với bốn câu thơ, Trúc Lâm đã khéo đưa cảnh

xuân vào đạo Thiền một cách nhuần nhuyễn” [45; 46]...

Mùa xuân trong thơ Thiền Lý – Trần còn được đề cập tới ở qua sự phân

tích tác phẩm cụ thể. Cáo tật thị chúng là bài thơ hay viết về mùa xuân của

Mãn Giác Thiền sư. Nguyễn Huệ Chi trong bài viết Mãn Giác và bài thơ

Thiền nhận định: “Tác giả khéo hình tượng hóa thời gian và đời người bằng

hai đại lượng rất giàu thi hứng xuân và hoa”.

Nghiên cứu Trần Nhân Tông với cảm hứng mùa xuân, Nguyễn Công

Lý nhận định thơ xuân Trần Nhân Tông có khi là “những ý xuân, cảnh xuân

bất chợt”; có khi là “những vần thơ trực tiếp tả cảnh mùa xuân, bộc lộ tình

xuân”... Tác giả giới thiệu, đánh giá về ba bài thơ Xuân hiểu, Xuân cảnh và

Xuân vãn gắn với những chặng đời quan trọng của vị Tổ Thiền phái Trúc

8

Lâm để đưa ra kết luận: “Thơ là tiếng lòng, là tiếng nói của thi nhân trước

hiện thực... Cảm hứng mùa xuân trong thơ của nhà vua – thi nhân – Thiền sư

– vị Phật hoàng Trần Nhân Tông là như thế” [38].

Nhìn chung, vấn đề mùa xuân trong thơ Thiền Lý – Trần được đề cập,

soi chiếu từ góc độ triết lí Thiền tông hoặc từ góc độ nghệ thuật (thi liệu). Tuy

nhiên, đó mới chỉ là những nhận định mang tính khái quát trong các bài giới

thiệu tác phẩm cụ thể hoặc trong các công trình nghiên cứu thơ Thiền nói

chung. Chúng tôi nhận thấy chưa có công trình, bài viết nào nghiên cứu mùa

xuân trong thơ Thiền Lý – Trần như một đối tượng khoa học thực sự. Vì vậy,

thực hiện đề tài này, chúng tôi hi vọng góp thêm một cách tiếp cận giá trị thơ

Thiền và có thêm tri thức quý báu cho sự nghiệp hoằng pháp độ sinh.

3. Mục đích, đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu

Thực hiện đề tài này, chúng tôi tập trung tìm hiểu mùa xuân trong thơ

Thiền Lý – Trần ở hai bình diện: chủ đề, đề tài và nghệ thuật thể hiện mùa

xuân, từ đó góp phần khẳng định đóng góp độc đáo của thơ Thiền Lý – Trần

trong văn học trung đại nói chung, đồng thời có thêm hiểu biết về triết lí và

một vài nét đặc sắc củ a Phật giáo dân tộc. 3.2. Đối tượng nghiên cứu

Chúng tôi tìm hiểu mùa xuân trong thơ Thiền Lý – Trần ở các biểu

hiện: mùa xuân trong thiên nhiên và trong Thiền, hình tượng mùa xuân, qua

đó thấy được những triết lí Phật giáo được tác giả gửi gắm. Bên cạnh đó, tìm

hiểu các phương diện như nghệ thuật miêu tả, ước lệ, tượng trưng, so sánh...

thể hiện nội dung trên.

3.3. Phạm vi nghiên cứu

Về phạm vi tư liệu, chúng tôi khảo sát các bài thơ viết về mùa xuân củ a các Thiền sư thời Lý – Trần (khoảng từ thế kỉ XI – XIV) có trong Thơ văn Lý

– Trần (3 tập) của Viện Văn học, Nxb Khoa học xã hội, năm 1977 - 1988.

9

4. Phƣơng phá p nghiên cƣ́ u Chúng tôi sử du ̣ng mô ̣t số phương pháp nghiên cứ u cơ bản sau:

– tổng hơ ̣p : được dùng trong việc phân - Phương pháp phân tích

tích các luận chứng, từ đó có những đánh giá và kết luận khách quan và

khoa học.

- Phương pháp so sánh: nhằm tìm ra những nét chung phổ quát của

mùa xuân trong thi ca phương Đông cũng như nét riêng độc đáo của mùa

xuân trong thơ Lý – Trần.

- Phương pháp liên ngành: mùa xuân trong thơ Thiền không tách rời

văn hóa tư tưởng phương Đông và có liên quan chặt chẽ đến Phật giáo. Vì

vậy, khi thực hiện đề tài, chúng tôi kết hợp với phương pháp của các ngành

khoa học khác như: triết học, tôn giáo, văn hóa học...

5. Ý nghĩa của luận văn

Trên cơ sở tìm hiểu các biểu hiện của mùa xuân trong thơ Thiền ở

phương diện chủ đề, đề tài và những nét đặc sắc nghệ thuật, chúng tôi muốn

góp thêm một cái nhìn, cách tiếp cận bộ phận thơ Thiền Lý – Trần Việt Nam.

Đây cũng là luận văn chuyên biệt đầu tiên khai thác mùa xuân trong thơ Thiền

Lý – Trần một cách hệ thống.

6. Cấu trúc luận văn

Ngoài phần Mở đầu , Kết luâ ̣n, Tài liệu tham khảo, nô ̣i dung củ a luâ ̣n

văn gồm ba chương:

Chương 1: Cảm thức mùa xuân và thi ca phương Đông

Chương 2: Chủ đề mùa xuân trong thơ Thiền Lý – Trần

10

Chương 3: Nghệ thuật thể hiện mùa xuân trong thơ Thiền Lý – Trần

CHƢƠNG 1

CẢM THỨC MÙA XUÂN VÀ THI CA PHƢƠNG ĐÔNG

1.1. Cảm thức mùa xuân

1.1.1. Mùa xuân trong tự nhiên

Mùa xuân là mùa đầu tiên trong năm, mang những đặc điểm chuyên

biệt về khí hậu thời tiết, gắn liền với sự sinh trưởng và phát triển của các loài

động thực vật. Mùa xuân ở Việt Nam có những nét riêng về mặt địa lí so với

mùa xuân của các nước thuộc vùng khí hậu ôn đới, với bốn mùa rõ rệt và mùa

đông băng giá.

Mùa xuân là một trong bốn mùa trong năm (xuân, hạ, thu, đông), vốn

được phân chia để tách biệt về sự thay đổi thời tiết và chuyển biến của các

loài động vật và thực vật. Trong thiên văn học, mùa xuân được xem là bắt đầu

từ thời điểm diễn ra xuân phân (khoảng 21 tháng 3 ở Bắc bán cầu và 23 tháng

9 ở Nam bán cầu) và kết thúc vào thời điểm diễn ra tiết hạ chí (khoảng ngày

21 tháng 6 ở Bắc bán cầu và 21 tháng 12 ở Nam bán cầu). Ở Việt Nam cũng

như các nước chịu ảnh hưởng của nền văn minh Trung Hoa (Nhật Bản, Triều

Tiên) người ta tính mùa xuân bắt đầu từ thời điểm diễn ra tiết lập xuân và kết

thúc vào thời điểm diễn ra tiết lập hạ (khoảng từ tháng 2 đến tháng 5).

Khí hậu mùa xuân tương đối ôn hòa, ấm áp, gió mưa điều hòa. Vào

mùa xuân, Trái đất nghiêng dần về phía mặt trời, nên nơi bán cầu đang có

mùa xuân sẽ được sưởi ấm, cung cấp đủ ánh nắng cần thiết làm cho các loài

cây đâm chồi, nở hoa, chim muông cầm thú sinh sản thuận lợi.

Mùa xuân là mùa nở hoa của đa số các loài thảo mộc. Các loài hoa tiêu

biểu của mùa xuân: thủy tiên, hoa mai, hoa đào,… Các loài hoa này thường

nở rực rỡ vào mùa xuân khi tiết trời ấm áp. Bởi nở vào mùa xuân, vượt qua

được gió tuyết của mùa đông nên các loài hoa này thường là dấu hiệu của

11

mùa xuân, của sự hồi sinh, mang ý nghĩa của lời chúc may mắn, thịnh vượng.

Các loài động vật tuy có thể sinh sản vào các mùa khác trong năm (nhất

là các loài có tần số sinh sản cao và chu kì sinh sản ngắn), nhưng nhìn chung

mùa xuân vẫn là mùa sinh sản mạnh nhất. Mùa xuân có đủ các điều kiện

thuận lợi cho sự sinh sản và sinh trưởng như khí hậu ấm áp, thảm thực vật

phát triển tạo nên nguồn thức ăn dồi dào. Sau một mùa đông băng giá, khan

hiếm thức ăn, các loài động vật chờ đợi cho mùa xuân đến để nạp nguồn năng

lượng tràn trề và sinh sản, tiếp tục phát triển giống loài. Từ các loài thú như

hổ, báo… cho đến các loài chim như: én, oanh,… đều sinh sản mạnh vào mùa

xuân. Vào mùa xuân chim én chao lượn, ngược xuôi làm tổ và tìm thức ăn

cho chim con, do đó cũng được xem là biểu tượng báo hiệu mùa xuân về.

Chim oanh cũng là loài có sự sinh sản mạnh trong mùa xuân, rộn ràng cất

tiếng hót sau những lùm cây. Sự xuất hiện của những loài chim là dấu hiệu rõ

ràng hơn cả cho thấy sự sinh sôi của các loài vật trong sự phát triển của hoa

cỏ xuân.

Trong sự hòa quyện của khí hậu ấm áp, muôn hoa khoe sắc, cây cối

đâm chồi nảy lộc, chim muông rộn ràng, mùa xuân của đất trời tươi mới, con

người cũng theo nhịp của muôn loài mà bừng dậy sức xuân với sự háo hức,

hoan ca cùng những nghi lễ vui chơi truyền thống và chuẩn bị cho một mùa

sản xuất nông nghiệp mới.

Như vậy, mùa xuân về mặt tự nhiên là mùa của khí hậu ấm áp, ôn hòa,

với sự sinh trưởng và phát triển mạnh mẽ của các loài cả động vật và thực vật.

Sự đổi thay của thiên nhiên trong mùa xuân cũng góp phần cho sự đổi thay

vui mừng háo hức của tâm hồn con người trước tiết xuân.

1.1.2. Mùa xuân trong văn hóa

Trong sự chuyển biến của muôn vật qua bốn mùa, người xưa đã có ý

niệm về thời gian chảy trôi, quy luật tuần hoàn của thiên địa. Bốn mùa xuân,

hạ, thu, đông vạn vật đổi thay từ sinh đến diệt, là nền tảng khái quát nên

12

những tư tưởng, học thuyết về con người, vũ trụ và nhân sinh. Xuân là thời

gian của sự sinh, bắt đầu của một chu trình sinh diệt mới trong năm. Ý niệm

về khởi đầu, những điều tốt đẹp cùng sự sinh sôi luôn được gắn với mùa xuân.

Có thể tìm thấy ý niệm cảm quan về mùa xuân qua việc tìm hiểu về cấu

tạo từ, và ngũ hành âm dương – học thuyết về sự sinh biến của vạn vật. Về

mặt từ nguyên, “xuân” trong chữ Hán phồn thể ( ) “gồm có bộ Thảo (thực

vật), chữ Đồn ( ) có nghĩa là mọc, sinh trưởng, và chữ Nhật là mặt trời. Có

nghĩa là mùa mà cây cỏ sinh sôi nảy nở dưới ánh mặt trời”. [Tản mạn Xuân –

Thu và triết lí thơ thiên nhiên thời Lý – Trần, Hà Thúc Minh; 8]. Còn theo

Hán Việt tự điển, xuân là “đầu bốn mùa, muôn vật đều có cái cảnh tượng hớn

hở tốt tươi” [14; 323]. Từ “xuân” cho thấy cảm quan của người xưa về tính

chất sinh sôi của muôn vật trong mùa. Trong ngũ hành, sự sinh hóa của vạn

vật dựa trên năm nguyên tố cơ bản (kim, mộc, thủy, hỏa, thổ), mùa xuân được

cho thuộc hành Mộc, do yếu tố trưởng sinh rõ nét của cây cối sau mùa đông

gió tuyết. Như vậy, mùa xuân trong nhận thức chung của người xưa là sự sinh

sôi của cây cỏ. Từ đó, phái sinh các ý niệm khác như sự khởi đầu của chu

trình, sự trưởng sinh tốt lành, gắn với xúc cảm hân hoan của con người.

Phương Tây gặp gỡ với phương Đông cùng với những ý niệm về mùa

xuân. Trong thần thoại Hi Lạp, nữ thần mùa xuân Persephone là con gái của

thần mùa màng Demeter và là vợ của thần âm phủ Hades. Nữ thần mùa xuân

chỉ ở với chồng một phần ba hoặc một nửa thời gian của năm. Đó là thời gian

của mùa đông băng giá, mùa của sự diệt. Sau đó Persephone trở về mặt đất,

được mẹ là thần mùa màng vui mừng đón chào, làm muôn vật tốt tươi. Đó là

mùa xuân, gắn với niềm vui trong sự giao hòa, sinh sôi của mùa màng, cây

cỏ. Con người phương Đông và phương Tây đều có chung những ý niệm về

mùa xuân, với sự sinh sôi, niềm vui của thiên nhiên, đất trời và lòng người.

Đối với văn hóa phương Đông, mùa xuân có ý nghĩa quan trọng, đánh

dấu cho sự bắt đầu của một năm, mang theo mong muốn khởi đầu tốt đẹp của

13

con người. Lễ hội truyền thống được tổ chức vào mùa xuân tương đối phổ

biến: Tết Nguyên Đán của Trung Hoa hay Việt Nam, hoặc ở Nhật Bản (lễ hội

hoa anh đào). Đây là những lễ hội quan trọng trong năm, nhằm cầu mong

một năm mới an lành. Như vậy, mùa xuân có vai trò quan trọng trong đời

sống văn hóa, tín ngưỡng cũng như cảm quan chung của con người Á

Đông. Nó chi phối sâu rộng và lan tỏa mạnh mẽ, trở thành nguồn cảm hứng

bất tận cho văn chương.

Cảm thức về bốn mùa là nhận thức về sự vận động của thời gian và sự

đổi thay của cảnh vật. Thời gian mang tính tuần hoàn. Thiên nhiên tùy các

mùa mà có sự khác biệt rõ rệt. Đó là sự bắt đầu sinh sôi của cỏ cây muôn loài

trong mùa xuân, xanh tươi trong mùa hạ, chuyển màu, rụng lá vào mùa thu và

héo úa trong mùa đông. Bốn mùa là biểu trưng cho sự sinh thành, phát triển

và diệt vong của muôn loài trong một chu trình, được khái quát thành quy luật

sinh diệt của tạo hóa. Con người đặt ra các mùa từ sự quan sát quy luật đổi

thay của thiên nhiên đất trời chứ không phải từ sự quy ước mang tính chất võ

đoán. Mùa xuân ở Nhật Bản được tính từ khi những cây mận đầu tiên ra hoa

và kết thúc khi những bông hoa anh đào cuối cùng ở phía bắc rơi xuống

(khoảng từ tháng ba đến tháng năm). Thiên nhiên trở thành thước đo quan

trọng nhận diện thời gian. Sự đổi thay của cảnh sắc thiên nhiên gắn liền với

chuyển biến của mùa như một lẽ tất yếu. Ý niệm về bốn mùa trong năm bởi

vậy gắn với ý niệm về sự tuần hoàn của thời gian và đổi thay của cảnh vật.

Trong sự tương quan giữa các mùa trong năm, mùa xuân giữ vai trò

khởi đầu quá trình từ sinh đến diệt. Bốn mùa xuân hạ thu đông theo quy luật

“thành, thịnh, suy, hủy” được quan niệm “xuân sinh, hạ trưởng, thu thu, đông

tàn”. Mùa xuân và mùa thu là cặp mùa thường đi liền với nhau, bởi xu hướng

tiến triển mang tính chất đối cực của chúng. Mùa xuân mang tính dương, là sự

sinh ở giai đoạn khởi đầu hưng thịnh, còn mùa thu mang tính âm, là bắt đầu

của quá trình tàn lụi chuyển dịch về phía diệt. Xuân thu là âm dương đang

14

trong quá trình phát triển, tăng tiến, chưa dừng lại. Chúng có tính chất của sự

vận động, khác với mùa hạ là tột cùng của sự thịnh, mùa đông là tột cùng của

sự diệt. Do đó, xuân thu được dùng để biểu thị cho sự vận động không ngừng

của tự nhiên.

Tóm lại, mùa xuân là mùa khởi đầu sinh sôi, hưng thịnh, có vị trí quan

trọng đối với đời sống văn hóa tinh thần của người Á Đông. Ý niệm về mùa

xuân in dấu ấn trong cả các lễ hội truyền thống, các học thuyết lớn, và là nền

tảng để khái quát quy luật sinh diệt trong vũ trụ. Những cảm thức chung về

mùa xuân ấy sẽ đi vào thơ ca một cách tự nhiên và gửi gắm trong đó những

triết lí về nhân sinh và lẽ đạo.

1.1.3. Mùa xuân trong Thiền tông

Ý niệm về mùa xuân là ý niệm chung, trở thành cảm thức văn hóa

phương Đông. Mùa xuân thâu nhận vào Thiền tông cũng mang những đặc

trưng của mùa, song có những giá trị biểu trưng riêng, nhằm truyền đạt và

giác ngộ những triết lí thiền học.

Trần Thái Tông khi bàn đến Tứ sơn trong Khóa hư lục đã luận về bốn

trái núi (Tứ sơn) tượng trưng cho bốn giai đoạn sinh, lão, bệnh, tử của đời

người, tương ứng với bốn mùa trong năm: “Nhân chi sinh tướng tuế nãi xuân

thì” (Tướng sinh của con người là mùa xuân trong năm), “Nhân chi lão tướng,

tuế nãi hạ thì” (Tướng già của con người là mùa hạ trong năm) “Nhân chi

bệnh tướng tuế nãi thu thì” (Tướng bệnh của người là mùa thu trong năm),

“Nhân chi tử tướng, tuế nãi đông thì” (Tướng chết của con người là mùa đông

trong năm). Thời gian của bốn mùa cùng sự đổi thay của thiên nhiên vạn vật

được thâu nhận và bàn luận thành quy luật, chu trình sinh diệt của con người.

Trong đó, mùa xuân được xem là mùa của sinh: “Nhân chi sinh tướng, tuế nãi

xuân thì. Tráng tam dương chỉ hanh thái; tân vạn vật chỉ tuy vinh. Nhất thiên

minh mị, thôn thôn liễu lục hoa hồng; vạn lí phong quang, xứ xứ oanh đề điệp

vũ” (Tướng sinh của người là mùa xuân trong năm. Khỏe khoắn thay sự thịnh

15

vượng của dương xuân, mới mẻ thay sự tốt tươi của muôn vật. Một trời sáng

đẹp, xóm thôn liễu biếc đào hồng; muôn dặm phong quang, chốn chốn oanh

ca, bướm múa) [80; 42]. Với cảm thức chung của mùa xuân về sự hưng thịnh

của muôn loài, Thiền tông hình thành quy luật tương ứng về sự sinh của con

người. Chu trình sinh diệt được quy chiếu từ chu trình của tự nhiên là một

cách thức quen thuộc trong tâm thức phương Đông. Quy luật của con người,

tạo hóa được đúc rút từ quá trình quan sát tự nhiên, soi chiếu và tìm điểm

đồng dạng giữa các hiện tượng.

Thiền tông khi khái quát và truyền đạt triết lí, thường sử dụng hình ảnh

của thiên nhiên bốn mùa. Quan niệm Niết bàn không phải ở một thế giới

khác, bên ngoài thế gian này, nơi con người có thể rũ bỏ khỏi những sinh trụ

dị diệt, thoát khỏi vòng luân hồi bất tận như Phật giáo Tiểu thừa, có thể dẫn

giải một câu chuyện về một vị thiền sư và một người nọ trong Thiền tông:

“Một người kia hỏi vị thiền sư:

- Hạ đã qua rồi, đông sẽ tới, vậy làm sao tránh khỏi?

- Tại sao anh không tìm một chỗ nào không có mùa hạ và mùa đông?

Vị thiền sư hỏi lại người kia.

- Làm sao tìm ra được một nơi như thế?

- Vậy thì đông đến anh hãy cứ run, hạ đến anh hãy cứ để mồ hôi đổ như

mọi người” [dẫn theo 84 ;353]

Qua câu chuyện trên có thể thấy, tìm một Niết bàn bên ngoài cõi trần

gian là điều không tưởng. Thiền học không hướng con người vào một cõi

khác sau khi chết mà hướng con người đến một thái độ an nhiên trước thực tại

đổi thay. Câu chuyện trên cũng là một dẫn chứng cho thấy phương tiện, cách

thức của Thiền khi truyền đạt những luận thuyết của mình là dựa trên những

hình tượng bốn mùa. Trong câu chuyện bàn về Niết bàn này, mùa hạ và mùa

đông là hai mùa có tính chất đối nghịch. Vòng tuần hoàn của thời gian qua

thiên nhiên biến chuyển hai mùa được dùng để thay thế cho sự thay đổi của

16

con người. Thiền học lấy cái vĩ mô, lẽ tất nhiên để truyền đạt cái vi mô.

Dùng quy luật thiên nhiên để biểu đạt quy luật con người là một cách

thức đã tồn tại lâu đời. Khái niệm ban đầu của âm dương cũng đến từ sự quan

sát tự nhiên. “Âm” trong nghĩa ban đầu là bên râm của sườn núi, “Dương” là

phía bên kia nhiều nắng. Trong Thiền học, phương thức soi chiếu quy luật của

đạo bằng hình tượng thiên nhiên có nguồn gốc từ triết lí “thiên nhân hợp

nhất” của Đạo giáo và “vạn vật nhất thể” của Thiền. Ngay từ xưa các học

thuyết nói chung đều đặt con người trong vị trí giao hòa với tự nhiên, là một

phần của tự nhiên. Tư tưởng “thiên nhân hợp nhất” của Chu Dịch có ảnh

hưởng lớn đến cách ứng xử của con người trước tự nhiên, là nguồn cảm hứng

của văn hóa phương Đông. Con người là một phần của tự nhiên, giữa con

người và thiên nhiên có mối tương giao, dung hòa với nhau. Trời đất với ta

cùng sinh, vạn vật với ta là một. Con người cần hành động hợp lẽ theo quy

luật của tự nhiên. “Thiên nhiên và hoạt động tự nhiên, sự âm thầm diễn ra các

biến cố đời đời kiếp kiếp, sự tuần hoàn của bốn mùa, sự vận chuyển uy nghi

của tinh tú, đó là cái đạo mà ta thấy trong mỗi dòng suối, mỗi phiến đá, mỗi

ngôi sao, đó là cái luật của vũ trụ, vô tư, vô ngã, mà lại hợp lí, và loài người

phải hành động theo luật ấy nếu muốn sống khôn ngoan và yên ổn” (Dẫn theo

44; 146). Con người là một tiểu thiên địa, một phần của vũ trụ, trời và người

là một. Thái độ của con người trước thiên nhiên là sống hòa đồng, hợp lẽ.

Quan niệm “vạn vật nhất thể” cho rằng, một sinh ra tất cả và tất cả cũng

là một “Mặt trời mặt trăng chứa đựng trong một hạt cải” (Đáp Pháp Dung sắc

không phàm thánh chi vấn). Mỗi sự vật trong thế giới đều chỉ là các hình

tướng khác nhau của cùng một bản thể duy nhất. Do đó, trong đất trời cần có

sự tương giao hòa hợp của muôn vật, mọi sự biến chuyển đổi thay cũng chỉ là

biến dịch của sắc tướng bên ngoài, biểu thị cho một bản thể duy nhất, chân

như bất diệt. Quan niệm như vậy cho thấy vị trí của con người trước thiên

nhiên. Con người, thiên nhiên cũng như tất cả tạo vật nói chung đều có chung

17

một cội, cái này có thể là phản chiếu cho cái kia. Trong tâm thức phương

Đông nói chung, thiên nhiên không phải làm nền cho con người mà có sự giao

hòa, gắn bó giữa con người và thiên nhiên. Quy luật của thiên nhiên có thể soi

chiếu để khái quát quy luật của con người, tạo vật. Với phương pháp truyền

đạo “trực chỉ nhân tâm”, chỉ có thể thông qua những hình ảnh trực quan, dùng

trực giác để thấu đạt lẽ đạo, thì thiên nhiên là một chất liệu cho việc tu trấn,

khai mở cho người tu học. Như vậy, thiên nhiên trở thành một phương tiện,

cách thức giúp khái quát và truyền đạt các triết lí thiền học.

Xuân - thu có vai trò quan trọng đối với việc gửi gắm và truyền tải các

triết lí của Thiền. Đây là hai mùa có xu hướng tiến triển đối nghịch nhau và

đều ở dạng bắt đầu, vận động, không phải ở trạng thái vận động đến tột độ

như mùa hạ và mùa đông. Do đó, xuân và thu biểu thị cho quy luật vận động

và phát triển của tự nhiên, được khái quát trở thành quy luật biến đổi vô

thường của vạn vật trong trạng thái soi chiếu với con người. Mùa xuân là mùa

của trưởng sinh, vạn vật đổi thay theo hướng phát triển hưng thịnh. Bởi thế,

mùa xuân được khái quát chứa đựng những ý niệm Thiền học hàm chứa về

sắc tướng, hư huyễn của vạn vật, sự mong manh đổi thay vô thường. Mùa

xuân với ý niệm gắn với niềm vui, sự trưởng sinh, chuyển tải ý niệm về Niết

bàn – xuân của đạo, cũng như xuân của trời. Thiên nhiên mùa phản chiếu quy

luật của tạo hóa. Sự sinh tử của con người cũng như một số quy luật khác đều

được quy chiếu về quy luật thiên nhiên mùa. Dễ dàng nhận thấy sự đồng dạng

giữa các sự vật và quy luật chu trình phát triển của chúng. Trong đó, thiên

nhiên được xem như điểm quy chiếu quan trọng bởi thiên nhiên gắn với sự tất

yếu, hợp lẽ trời, không gì có thể thay đổi được.

Như vậy, trong Thiền tông thiên nhiên bốn mùa nói chung và thiên

nhiên xuân nói riêng có vai trò quan trọng trong đạt đạo và truyền đạo. Mùa

xuân – mùa của sự sinh được khái quát thành tư tưởng triết lí về sự tất yếu đổi

thay vô thường của tạo hóa, ý niệm về mùa xuân bất diệt của chân như vạn

18

pháp, và đi vào thơ Thiền với ý nghĩa trực tiếp và ý nghĩa triết lí.

Tóm lại, mùa xuân trong tâm thức phương Đông là mùa của sự khởi

đầu sinh sôi, gắn với những điều tốt đẹp. Do đó có vai trò đặc biệt quan trọng,

vừa đi vào đời sống văn hóa tinh thần truyền thống, vừa mang sức lan tỏa lớn

đối với nguồn cảm hứng văn chương. Mùa xuân đối với Thiền tông là sự khái

quát và phản ánh quy luật sinh diệt đổi thay, một trong hai đối cực quan trọng

của sự vận động vạn vật.

1.2. Mùa xuân trong thi ca phƣơng Đông

1.2.1. Mùa xuân trong thơ Đường và thơ Haiku

Cảm thức mùa có vị trí quan trọng trong văn học. Thiên nhiên bốn mùa

là yếu tố trung tâm trong tâm thức của con người phương Đông. Trong văn

học truyền thống, hình tượng của thiên nhiên xoay vần trong bốn mùa trở nên

phổ biến, đôi khi là bắt buộc (thơ haiku). Cùng trong dòng chảy chung ấy,

mùa xuân với cảnh sắc tươi đẹp luôn là nguồn cảm hứng bất tận cho thi nhân.

Những xúc cảm, quan niệm triết lí được các thi nhân mã hóa bằng các

hình ảnh của tự nhiên. Thơ ca phương Đông truyền thống nói chung, thơ

Đường Trung Hoa hay thơ haiku Nhật Bản nói riêng đều xuất hiện những

hình ảnh về thiên nhiên mùa xuân với nguồn xúc cảm đặc biệt. Trong Đường

thi – nền thi ca có ảnh hưởng sâu rộng đến nền thi ca nói chung ở khu vực

Đông Á (như Triều Tiên, Nhật Bản, Việt Nam), mùa xuân vẫn giành được

xúc cảm của các thi nhân. Các nhà thơ lớn như Lí Bạch, Đỗ Phủ cảm khái

mùa xuân và gửi gắm trong đó những ý tứ riêng “dung tình ư cảnh vật chi

trung, thác tứ ư phong vân chi ý” (dung hòa tình trong cảnh vật, kí thác tứ ở

áo gió mây).

Qua những bài thơ Đường, bức tranh thiên nhiên mùa xuân tươi đẹp,

đầy tình tứ, trong sự tương giao, hòa quyện giữa con người và muôn vật. Mùa

xuân với mỗi nhà thơ lại được cảm nhận ở những sắc độ khác nhau. Đôi khi

chỉ một cành hoa ẩn sau tán lá rậm, một tiếng chim kêu cũng có thể cảm được

19

cả sắc xuân đang về, bởi “Động nhân xuân sắc bất tu đa” (Sắc xuân làm rung

động lòng người bất tất phải nhiều) (Vương An Thạch). Trong thơ Vương

Duy – thi Phật đời Đường, ý vị thiền luôn hiển hiện trong những bài thơ viết

về mùa xuân. Đó có thể là một mùa xuân được cảm nhận qua tảng đá bên

suối, nhành liễu chạm vào chén rượu, để thi nhân tỏ bày nỗi băn khoăn:

“Nhược đạo xuân phong bất giải ý/ Hà nhân xuy tống lạc hoa lai” (Nếu bảo

rằng gió xuân không biết bày tỏ ý/ Thì ai thổi hoa rụng bay đến đây) trong Hí

đề bàn thạch; hay một ý niệm về lẽ tử sinh của đời qua sự đến đi của xuân:

“Nhật nhật nhân tông lão/ Niên niên xuân cánh quy” (Ngày lại ngày người cứ

già đi/ Năm theo năm xuân vẫn đến hoài) trong Tống xuân từ. Quang cảnh

mùa xuân trong thơ Vương Duy thanh nhã, u tịch với hình ảnh của con người

tự tại, nhàn tản. Điểu minh giản cho thấy ý niệm về sức sống mùa xuân trong

sự tĩnh lặng vô biên:

Nhân nhàn hoa quế lạc

Dạ tĩnh xuân sơn không

Nguyệt xuất kinh sơn điểu

Thì minh xuân giản trung

(Người nhàn, hoa quế rụng

Đêm yên tĩnh, xuân non vắng không

Trăng lên làm chim núi giật mình

Thỉnh thoảng cất tiếng kêu trong khe núi)

Màu sắc thiền học nằm khuất lấp sau sự tịch lặng của cảnh sắc và hồn

người. Trong đêm xuân vạn vật đều rơi vào trạng thái tĩnh mịch, người nhàn

tịnh nghe được âm thanh của hoa quế rụng, của tiếng chim hót trong khe núi.

Cảnh cô tịch nhưng lại thấy được sức sống của xuân, trong tĩnh có động, tạo

nên sự cộng hưởng, giao quyện giữa tâm và cảnh trong sự trầm mặc của thiền.

Mùa xuân trong thơ thiền Vương Duy là một đề tài quen thuộc với những ý

20

tượng cảnh sắc riêng biệt, thấm đẫm ý vị của đạo.

Đỗ Phủ nhà thơ tự coi mình như hạt bụi lăn lóc dưới gầm trời, trải lòng

cho nỗi thống khổ của muôn dân, cũng có những bài thơ vô cùng tình tứ về

mùa xuân. Xuân dạ hỷ vũ là niềm vui trước cảnh sắc thiên nhiên xuân tươi

đẹp, trong trẻo:

Hảo vũ tri thời tiết,

Đương xuân nãi phát sinh

Tùy phong tiềm nhập dạ

Nhuận vật tế vô thanh

(Mưa lành biết được tiết trời

Đang lúc xuân về mà phát sinh ra

Theo gió hây hây vào đêm tối

Tưới mát muôn vật mà không nghe thấy)

(Xuân dạ hỷ vũ)

Thiên nhiên có sự giao hòa trong thinh lặng, làn mưa âm thầm tưới mát

cỏ cây. Tưới mát muôn vật bằng "vô thanh" nhưng lay động được tâm hồn thi

nhân. Đỗ Phủ lắng nghe sự tương giao của đất trời, muôn vật cùng sự sinh sôi

đang dần hiện hữu.

Tuyệt cú cũng là bức tranh thiên nhiên nhưng không phải sự giao hòa

trong "vô thanh" mà đầy sinh động, đa thanh, đa ảnh. Thi nhân thu vào tầm

mắt cả bầu trời, cả sông núi với màu trắng thanh khiết trên nền trời xanh biếc,

sắc vàng rực rỡ của đôi chim oanh trong lá liễu.

Lưỡng cá hoàng ly minh thúy liễu

Nhất hàng bạch lộ thướng thanh thiên

Song hàm Tây Lĩnh thiên thu tuyết

Môn bạc Đông Ngô vạn lý thuyền

(Hai cái oanh vàng kêu liễu biếc

Một hàng cò trắng vút trời xanh

Nghìn năm núi tuyết song in sắc

21

Muôn dặm thuyền Ngô cửa rập rình)

Cảnh sắc trước hết hiện lên với sự sinh động, trong trẻo, tràn đầy sức

sống. Muôn vật trong sự vận hòa của đất trời vào xuân quyến luyến, giao hòa.

Những hình ảnh quen thuộc của mùa xuân như: mưa, gió, núi, mây… đi vào

thi ca với tài năng và tâm hồn thi nhân đã tạo nên những tứ thơ đa tình, đa ảnh

về thiên nhiên xuân.

Trong sự sinh sôi của cỏ cây, sự giao hòa của đất trời có cả sự tình tứ

của lòng người. Con người trước thiên nhiên kết giao, gặp gỡ cũng sinh ý,

sinh tình. Thôi Hộ đã đưa vào thơ xuân cả câu chuyện tình yêu trong Đề Đô

thành Nam trang, và hình ảnh hoa đào mùa xuân trở thành một hoài niệm

vĩnh cửu: “Đào hoa y cựu tiếu đông phong” (Hoa đào năm ngoái còn cười gió

đông). Đỗ Phủ lại cho thấy sự quyến luyến, kết giao tình tứ giữa thiên nhiên

và con người với Giang bạn độc bộ tầm hoa. Hoa xuân, bướm xuân nở rộ,

lượn quanh bên nhà người con gái đẹp khiến ý xuân, tình xuân tràn đầy: “Lưu

liên hí điệp thời thời vũ/ Tự tại kiều oanh kháp kháp đề” (Lưu luyến quẩn

quanh vờn lũ bướm/ Ung dung thánh thót hót hoàng anh).

Không gian mùa xuân rộn rã, vui tươi, tràn đầy nhựa sống. Nỗi lòng

của con người cùng bao khát khao tình tứ được gửi gắm vào thiên nhiên mùa

xuân. Đó là nỗi lòng biệt li của con người ẩn trong cảnh xuân: “Xuân phong

tri biệt khổ/ Bất khiển liễu điều thanh” (Gió xuân thấu nỗi biệt/ Chẳng cho

liễu xanh cành) (Lao Lao đình – Lý Bạch). Nỗi nhớ thương của người vợ

trong cảnh li biệt cũng xuất hiện trong nhiều bài thơ như Xuân tứ (Lý Bạch),

Xuân oán (Kim Xương Tự)... Thiên nhiên mùa xuân cùng sự sinh sôi, giao

hòa của muôn vật nảy sinh ở con người khát vọng yêu đương.

Đương quân hoài quy nhật

Thị thiếp đoạn trường thì

Xuân phong bất tương thức

Hà sự nhập la vi

22

(Đương khi chàng mong nhớ muốn về

Là lúc thiếp cũng đau lòng nhớ chàng

Ngọn gió xuân kia chả hiểu gì nhau

Cớ sao lọt vào trong bức màn the của ta)

(Xuân tứ, Lý Bạch)

Ngọn gió xuân lay động tấm mành, vô tình mà lại hữu tình gợi nhớ về

người chồng nơi xa. Người thiếu phụ càng vờ như không biết, không hay

càng thêm đau lòng, xót xa, giày vò trong nỗi nhớ.

Mùa xuân không chỉ tươi đẹp trong cảnh sắc, đắm say trong nhân tình

mà còn hiện hữu một cái nhìn về nhân sinh, nhân thế. Mùa xuân gắn với cảnh

loạn li, thống khổ của nhân dân cũng mang màu ảm đạm, thê lương. Đỗ Phủ -

tác giả nhiều bài thơ mang tinh thần phản chiến đã có những vần thơ viết về

mùa xuân trong loạn lạc:

Quốc phá sơn hà tại

Thành xuân thảo mộc thâm

Cảm thời hoa tiễn lệ

Hận biệt điểu kinh tâm

(Nước phá tan, núi sông còn đó

Đầy thành xuân cây cỏ rậm sâu

Cảm thời hoa rỏ dòng châu

Biệt li tủi giận chim đau nỗi lòng)

(Xuân vọng, Trần Trọng Kim dịch)

Cảnh xuân không phải là cảnh hoa cỏ xanh tươi mà là sự rậm rạp,

hoang sơ, tiêu điều. Nhà thơ nhìn hoa mà lệ rơi, nghe chim kêu mà xót lòng.

Đây là mùa xuân buồn bã thê lương với tâm trạng cô đơn, sầu tủi của con

người tiếc thương cho tình cảnh đất nước loạn li.

Người chinh phụ trong Khuê oán của Vương Xương Linh ngắm nhìn

23

sắc xuân bỗng hối hận để chồng đi chinh chiến:

Hốt kiến mạch đầu dương liễu sắc

Hối giao phu tế mịch phong hầu

(Chợt thấy sắc xuân của dương liễu bên đường

Hối hận đã để chồng tòng quân kiếm ấn phong hầu)

Cảnh thiên nhiên mùa xuân, với sắc xuân của cây liễu bên đường khiến

người vợ thức nhận về tình cảnh của bản thân, nuối tiếc cho mùa xuân, tuổi

trẻ đang qua. Ấn phong hầu trở nên vô nghĩa đối với sự đoàn tụ, khát khao

hạnh phúc lứa đôi.

Mùa xuân trong thơ Đường hiện lên với đủ gam màu từ tươi sáng, trong

trẻo đến ảm đạm, bi thương. Đất trời lúc xuân sang gợi thức nỗi lòng riêng

của con người, từ tình tứ đắm say, đến nhớ nhung li biệt. Thiên nhiên và con

người gắn bó, hòa hợp hữu tình.

Nằm trong dòng chảy của văn chương truyền thống phương Đông,

haiku – quốc thi của xứ sở Phù Tang chọn cho mình một hình thức nghệ thuật

với thức cảm riêng, song vẫn dành vị trí trang trọng cho thiên nhiên . Thơ

haiku không kiếm tìm s ự cân bằng và đ ối xứ ng như Trung Hoa , mà tôn xưng cái đẹp giản dị và đơn sơ t ừ những thiếu hụt, những khoảng trống trong cái hòa điệu rung cảm của thiên nhiên – vũ trụ – con ngườ i.

Với dung lượng 17 âm tiết ít ỏi, thơ haiku thể hiện cảm quan tinh tế

trước sự đổi thay của vạn vật. Đề tài của thơ haiku là thiên nhiên, với những

sự vật đơn sơ, nhỏ bé. Trong các bài thơ haiku, quý ngữ (kigo - từ chỉ mùa) là

yếu tố không thể thiếu. Đó có thể là từ trực tiếp về các mùa xuân, hạ, thu,

đông hoặc các hình ảnh, hoạt động mang đặc trưng của mùa. Bốn mùa đi qua

đều để lại dấu ấn trong thơ, dù là một cánh hoa xuân, một cơn mưa, một ánh

trăng thu hay một vùng tuyết trắng. Tất cả đều không phân biệt sang hèn,

được nâng niu và trân trọng bởi sự chi phối của tư tưởng vô sai biệt của

Thiền. Trong bức tranh tứ bình ấy, mùa xuân xuất hiện với những hiện hữu

mang sắc thái riêng của gió, của hoa, của cây hay đơn giản là một tiếng

24

chuông chùa trong buổi chiều xuân.

Cảnh sắc thiên nhiên mùa xuân trong thơ haiku trong trẻo, tươi sáng

với những khung cảnh bình dị: bông hoa triêu nhan bên giếng, chú chuột nhỏ

uống nước bên sông, hoa anh đào rụng rơi… Mỗi sự vật đều được miêu tả

trong sự hồn nhiên, tồn tại với bản thể nguyên sơ của nó. Đó là khung cảnh

chiều xuân trong thơ Basho:

Từ phương trời xa

Cánh hoa đào lả tả

Gợn sóng hồ Biwa

hay

Một đám mây hoa

Chuông đền Ueno vang vọng

Hay đền Asakusa

Hoa anh đào là biểu trưng cho mùa xuân. Trong tiết xuân ấm áp, nhà

thơ cảm nhận vẻ đẹp của tự nhiên từ những bông hoa anh đào rơi rụng, từ

tiếng chuông vang vọng trước thời khắc ngày tàn. Bài thơ thứ nhất là mùa

xuân có sự tương giao trong thinh lặng, tinh tế giữa cánh hoa và mặt hồ. Mặt

hồ gợn sóng bởi hoa rơi, hoặc bởi làn gió đưa hoa đến. Bài thơ thứ hai có sự

quyện hòa giữa âm thanh (chuông chùa) và cảnh sắc (hoa anh đào). Buổi

chiều xuân lắng đọng trong tiếng chuông chùa ngân vang.

Thiên nhiên mùa xuân hiện hữu những sinh vật bé nhỏ, bình dị, gần

gũi. Tình yêu và sự bình đẳng cho muôn vật luôn bao trùm những bài thơ

haiku. Trong thơ haiku, những sự vật bình dị nhất cũng được sống hồn nhiên,

tự tại và nâng niu trân trọng như bất kì tạo vật nào khác.

Thiên nhiên mùa xuân trong thơ haiku có hình ảnh chú chuột uống

nước bên sông trong thơ Issa đầy tự tại, tận hưởng đất trời xuân:

Bên dòng Sumida Chú chuột kia uống nước

25

Mưa mù a xuân pha

Chú chuột nhỏ giữa bao la đất trờ i vẫn tự ta ̣i, thong thả uống từ ng ngu ̣m nướ c mù a xuân – tă ̣ng vâ ̣t củ a th ế gian. Bức tranh xuân có sự giản dị thanh b́ nh của thiên nhiên, tự tại, thảnh thơi của những con vật bé nhỏ.

Bức tranh xuân không chỉ có cỏ cây và muôn vật. Thơ haiku còn có sự

tương giao, hòa hợp đầy vi diệu giữa muôn loài và con người:

Triêu nhan

Níu dây gàu

Nhà bên xin nước

(Chiyo)

Nữ sĩ nhâ ̣n ra sự tương giao củ a va ̣n vâ ̣t trong vũ tru ̣ vào mô ̣t buổi sớ m mai qua đóa triêu nhan níu xuống dây gàu . Sự tương giao đó vi diê ̣u mong

manh, khiến ta chẳng muốn phá vỡ . Nữ sĩ sang nhà bên xin nước để giữ vẹn toàn khoảnh khắc diệu kì. Buổi sáng mùa xuân cũng hiện lên tinh khôi, đẹp đẽ

cùng sự tương giao hòa hợp của tạo vật.

Buson – thi sĩ của mùa xuân đưa vào bức tranh xuân hình ảnh của

những con người trần thế. Đôi khi là những con người vất vả, lam lũ:

Trong giông bão

Áo rơm người chèo chống

Hóa áo hoa đào

Hay của những du nữ điểm trang cùng mùa xuân:

Hoa mơ tưng bừng

Bên lầu, du nữ

Mua sắm đai lưng

Bức tranh xuân không mang sự u huyền sâu thẳm mà thấm đẫm sắc

màu của thế gian. Chiếc áo rơm của người chèo chiếc thuyền trong cơn bão

hóa thành một chiếc áo đẹp đẽ bởi hoa đào theo gió bám đầy. Sự khó khăn

của con người bỗng trở nên đẹp đẽ dưới đôi mắt thi nhân. Hay những du nữ

26

cũng bình đẳng như mùa xuân tươi đẹp cùng trau chuốt. Mùa xuân trở nên

trần thế hay du nữ xinh đẹp và đáng quý như xuân. Những tạo vật với haiku

đều được nâng niu và trân trọng.

Khoảnh khắc giao hòa của con người được giữ lại với bao tình tứ:

Mưa xuân thầm thì

Bên nhau đôi bóng

Ô và áo tơi

Đôi trai gái cùng nhau trò chuyện thì thầm dưới mưa khiến bức tranh

xuân mang một màu sắc mới, đời thực hơn. Mùa xuân hiện hữu qua mưa xuân

hòa với lòng người đắm say.

Như vậy, mùa xuân trong thơ haiku là bức tranh đầy ý vị thiền. Đó là

sự trong trẻo trong cảnh vật, sự quyến luyến giữa con người - con người hay

sự tương giao vi diệu của con người - thiên nhiên. Vẻ đẹp thiên nhiên tùy

thuộc vào sự cảm nhận riêng của mỗi độc giả bởi haiku “là mô ̣t bàn tay vẫy , mô ̣t cánh cử a mở …” (R.H. Blith).

Trong văn học truyền thống phương Đông nói chung mà tiêu biểu là

Đường thi Trung Hoa và haiku Nhật Bản, mùa xuân là một đề tài cốt yếu, có

vị trí quan trọng. Mỗi thể loại có cách cảm và thể hiện mùa xuân với những

đặc trưng riêng. Xuân trong Đường thi là thiên nhiên cân xứng, hài hòa, gửi

gắm nỗi lòng thi nhân. Xuân trong haiku là bức tranh chứa đựng những

khoảng trống, thiếu hụt, thể hiện những sự vật nhỏ bé, bình dị nhưng toát lên

nét đẹp sự hồn nhiên của bản thể nguyên sơ và sự tương giao giữa con người

với vũ trụ. Có thể nói, thiên nhiên xuân là mạch chảy xuyên suốt đối với tâm

thức con người và văn học phương Đông.

1.2.2. Mùa xuân trong thơ ca trung đại Việt Nam

Mùa xuân có thể coi là đề tài phổ biến trong văn học trung đại Việt

Nam. Mùa xuân không chỉ là đề tài, cảm hứng mà còn là thi liệu mang tính

chất quy phạm đối với văn học trung đại. Trải khắp cả ngàn năm của nền

27

văn học trung đại, cảm hứng về mùa xuân luôn ẩn hiện trong trang thơ của

thi nhân, với những cảm khái về sự đổi thay của đất trời hay tâm sự trước thời

cuộc.

Mùa xuân với tất cả những biến chuyển tinh tế đầy sức sống của đất

trời luôn là nguồn thi hứng bất tận trở thành đề tài quen thuộc của văn học

trung đại. Trong bức tranh về thiên nhiên bốn mùa với sự chuyển vần từng

nhịp của thời gian, mùa xuân là mùa khởi đầu cùng với mùa thu là mùa đánh

dấu sự hoàn tác là hai mùa được đi vào thơ ca trung đại nhiều hơn cả.

Trong văn học Á Đông truyền thống, mùa xuân trở thành mối duyên

huyền diệu của đất trời và thi nhân. Điểm qua sáng tác của các thi nhân trong

văn học trung đại Việt Nam có thể thấy mùa xuân xuất hiện với tần suất khác

nhau trong thơ như Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Du, và cả

Nguyễn Khuyến ở giai đoạn cuối của văn học trung đại.

Tính quy phạm là một đặc trưng quan trọng của văn học trung đại Việt

Nam. Khuôn mẫu được biểu hiện trên các mặt từ quan niệm về ý thức nghệ

thuật cho đến phương tiện diễn đạt. Sự quy định chặt chẽ về niêm luật và các

chủ đề, đề tài của thơ. Chịu ảnh hưởng của văn học Trung Hoa, đề tài mùa

xuân nằm trong công thức của “tứ thời, tứ dân, tứ bình”. Bốn mùa trong năm

trở thành một công thức ước lệ không chỉ về phạm vi thể hiện mà còn trong

các hình ảnh và phương tiện biểu hiện. Các hình ảnh về phong, hoa, tuyết,

nguyệt hay tùng, cúc, trúc, mai gắn với các mùa là biểu hiện của thiên nhiên

mang tính chất ước lệ. Mùa xuân gắn với các hình ảnh về cỏ cây, núi sông với

những cách thể hiện khác nhau. Nằm trong dòng chảy chung của văn học Á

Đông, văn học trung đại Việt Nam cũng có các quy định chặt chẽ về thể tài

hay cách thức thể hiện. Song trong khuôn mẫu chung ấy, các nhà thơ vẫn tạo

được cho riêng mình khoảng trời và sắc xuân với những nỗi niềm riêng.

Mùa xuân không chỉ là đề tài mà còn là đối tượng được phản ánh. Mùa

xuân trước hết hiện hữu là mùa xuân thiên nhiên với sự sống sinh sôi, tràn đầy

28

cùng bước đi của thời gian in dấu. Trong sắc xuân của đất trời Nam Việt, các

thi nhân vẽ nên trong thi ca với quy định bó hẹp những bức tranh xuân mang

hồn Việt. Nguồn hứng về mùa xuân luôn chảy dài bất tận trong trang thơ của

các thi gia. Những nhà thơ tiêu biểu như Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Nguyễn

Khuyến… đều miêu tả về sắc xuân, cảnh xuân với những biến thái tinh tế.

Trong thơ ca Nguyễn Trãi, bên cạnh những bài thơ tỏ chí, thơ thiên

nhiên giữ một vai trò quan trọng. Nguyễn Trãi hòa mình với thiên nhiên đất

Việt, hòa mình cùng chốn quê dân dã, mộc mạc, lắng nghe từng nhịp mùa

qua. Mùa xuân với những biến chuyển của đất trời, sự khởi đầu và sinh sôi

của vạn vật đi vào thơ ông một cách tự nhiên. Thơ chữ Hán và chữ Nôm của

Nguyễn Trãi đều có bài viết về mùa xuân. Có những khoảnh khắc thi nhân

khép lòng trước cuộc đời trần thế thị phi để lắng nghe hơi thở của cỏ cây vào

xuân như trong Trại đầu xuân độ:

Độ đầu xuân thảo lục như yên

Xuân vũ thiêm lai thủy phách thiên

Dã kính hoang lương hành khách thiểu

Cô châu trấn nhật các sa miên

(Cỏ xuân như khói bến xuân tươi

Lại có mưa xuân nước vỗ trời

Quạnh quẽ đường đồng thưa vắng khách

Con đò gối bãi suốt ngày ngơi)

Khung cảnh xuân nhòe mờ trong làn mưa, không gian thưa vắng và

tĩnh mịch nhưng không gợi lên vẻ cô lẻ của cảnh vật. Hiện hữu là một mùa

xuân đầy sức sống ẩn chứa trong màu xanh của cỏ xuân, cơn mưa tưới mát cả

đất trời và vẻ thanh bình sau sự tĩnh lặng của con đò nằm ngơi bên bến nước.

Phong thái ung dung, tự tại bình tâm trước thế sự để hòa lòng với thiên nhiên,

cảm nhận vẻ thanh bình của cảnh vật trong làn mưa xuân. Trong Mộ xuân tức

29

sự, mùa xuân đã đánh thức một con người tưởng đã tách mình khỏi tạo vật:

Nhàn trung tận nhật bế thư trai

Môn ngoại toàn vô tục khách lai

Đỗ vũ thanh trung xuân hướng lão

Nhất đình sơ vũ luyện hoa khai

(Suốt ngày nhàn nhã khép phòng văn

Khách tục không ai bén mảng gần

Trong tiếng cuốc kêu xuân đã muộn

Đầy sân mưa bụi nở hoa xoan)

Con người yêu thiên nhiên được đánh thức bởi tiếng cuốc kêu, ngỡ

ngàng nhận ra mùa xuân sắp qua. Bước đi của mùa xuân được hiện hữu trong

tiếng cuốc cuối xuân, làm bừng tỉnh cả thi nhân. Hình ảnh dân dã của làng

quê Việt được Nguyễn Trãi đưa vào thơ một cách tự nhiên. Trang thơ Hán tự

vốn nhiều quy định nghiêm ngặt lại nở một màu tím biếc hoa xoan bình dị.

Khoảnh khắc khi âm thanh (tiếng cuốc) và hình ảnh (hoa xoan nở) hòa làm

một cũng là lúc ý xuân, tình xuân viên mãn. Thi nhân đã rời mình khỏi phòng

trai tĩnh mịch để hòa lòng với thiên nhiên, cảnh vật.

So với thơ chữ Hán, mùa xuân trong thơ Nôm Nguyễn Trãi được thể

hiện rõ nét với tần số cao hơn. Nhà thơ tạo nên bức tranh thiên nhiên với màu

sắc tươi vui của cỏ cây, sự chuyển mình của đất trời. Thi nhân hòa mình vào

thiên nhiên và dõi theo bước đi thời gian trên tạo vật. Trong chùm thơ Môn

hoa mộc, bên cạnh những hình ảnh hoa mai, hoa đào đã quen thuộc (Mai, Hoa

đào), những hình ảnh dân dã cũng được đưa vào trong thơ một cách tự nhiên:

Tự bén hơi xuân tốt lại thêm

Đầy buồng lạ, mùi thâu đêm

Tình thư một bức phong còn kín

Gió nơi đâu gượng mở xem

30

(Cây chuối)

Cây chuối bình dị bừng sức sống từ khi đón nhận hơi thở của mùa

xuân. Lá non cuộn lại như bức thư tình còn phong kín. Bức tranh xuân thấm

đượm xúc cảm của thi nhân. Mùa xuân trở nên thơ mộng và sâu lắng tình.

Khoảnh khắc mùa xuân được Ức Trai nắm bắt với tất cả những chuyển

biến tinh tế, từ đầu xuân (Đầu xuân đắc ý, Đêm trừ tịch), đến Cuối xuân. Mỗi

thời khắc của xuân được cảm nhận với sự nhạy cảm trước thiên nhiên và cuộc

sống. Thơ Nôm Nguyễn Trãi, bởi thế có cả những cảnh sinh hoạt thường nhật

giản đơn:

Chong đèn chực tuổi cay con mắt

Đốt trúc khuya na đắng lỗ tai

(Đêm trừ tịch)

Mùa xuân với Nguyễn Trãi mang nhiều ý tứ, không chỉ là mùa của sự

sống, của sự viên mãn tròn đầy, ông còn cảm nhận được bước đi nhanh chóng

của thời gian. Thi nhân muốn níu bước thời gian, để giữ lại cho mình những

khoảnh khắc xuân. Xuân sắp qua mà Nguyễn Trãi vẫn còn hi vọng:

Cầm đuốc chơi đêm này khách nói

Tiếng chuông chưa dóng ắt còn xuân

(Cuối xuân)

Đó là tấm lòng của một thi nhân trân quý từng nhịp của thời gian và sự

sống của vạn vật trong tiết xuân. Cảm quan chung trong thơ xuân Nguyễn

Trãi là một mùa xuân viên mãn, căng tràn nhựa sống với sự cựa mình của vạn

vật, sự chuyển nhịp tinh tế của thời gian. Thi nhân cảm nhận thiên nhiên bằng

tình yêu tha thiết và gắn bó: “Cò nằm hạc lặn nên bầu bạn/ ủ ấp cùng ta làm

cái con”.

Sang thế kỉ XVIII, mùa xuân trong Chinh phụ ngâm gắn với bốn mùa

thể hiện thời gian vũ trụ tuần hoàn:

Thuở lâm hành oanh chưa bén liễu

31

Hỏi ngày về ước nẻo quyên ca

Nay quyên đã giục oanh già

Ý nhi lại gáy trước nhà líu lo

Thuở đăng đồ mai chưa dạn gió

Hỏi ngày về chỉ độ đào bông

Nay đào đã quyến gió đông

Phù dung lại rã bên sông ba xoà

Bước đi của thời gian được thể hiện qua những hình ảnh biểu tượng.

Chim oanh, ý nhi (chim gáy), hoa đào chỉ mùa xuân, chim quyên gắn với mùa

hạ và hoa phù dung gắn với thu. Thời gian tuần hoàn, chảy trôi vô tận đối sánh

với sự chờ đợi mỏi mòn của người chinh phụ. Thời gian vũ trụ vô thủy vô chung

mà con người thì hữu hạn. Tâm trạng nhân vật trữ tình được tạo bởi hai mạch

cảm xúc: hi vọng vào lời hứa trở về của người chinh phu và sự thất vọng vì thực

tế cay đắng, càng đợi chờ thì sự thất vọng càng chất chồng, bi đát.

Nguyễn Du cũng là thi gia nặng lòng với thiên nhiên. Mùa xuân trong

thơ ông hiện lên với nhiều sắc thái, đa ảnh đa hình. Đó là một mùa xuân tràn

đầy sức sống, trong trẻo, vui tươi trong Truyện Kiều:

Ngày xuân con én đưa thoi

Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi

Cỏ non xanh tận chân trời

Cành lê trắng điểm một vài bông hoa

Bức tranh xuân của đất trời là sự hòa điệu của màu sắc, của cỏ và hoa

trong đôi mắt tinh tế của thi nhân. Khí xuân, tiết xuân hiện lên thanh nhã, bình

dị hòa cùng với cảnh hội xuân đông vui “Ngựa xe như nước, áo quần như

nêm”.

Mùa xuân còn là sự gợi nhắc về sự đổi thay của thời gian, xoay vần của

tạo vật, bởi thế, thưởng xuân cũng là cảm về quy luật của thời gian:

Sen tàn cúc lại nở hoa

32

Sầu dài ngày ngắn đông đà sang xuân

Thơ Nguyễn Du không chỉ là những sắc điệu vui tươi, bên cạnh một

hồn quê trong sáng với khí xuân chan hòa, xuân cũng mang cả cái nhìn u

hoài, đầy suy nghiệm. Những đêm trăng xuân lưu lạc nơi đất khách, cảnh sắc

vẫn làm rung cảm hồn thơ, hòa vào cảnh trăng gợi bao thi hứng:

Nguyệt dạ không đình nguyệt mãn thiên

Y y bất cải cựu thuyền quyên

(Đêm nguyên tiêu sân vắng trăng đầy trời

Trăng vẫn không đổi thay vẻ đẹp cũ)

Đêm trăng tháng giêng trăng đầy trời và thanh vắng, chan hòa muôn

nơi, nhà thơ bỗng tự hỏi “Nhất thiên xuân hứng thùy gia lạc” (Cái hứng xuân

cả một trời rơi xuống nhà nào). Trăng xuân chính là cảm hứng của mùa xuân,

là cái hồn của xuân, của đất trời trong sự tạo sinh ở thời điểm khởi đầu vẹn

nguyên.

Thơ Nguyễn Du bên cạnh trăng xuân còn có hoa xuân. Hoa đào và hoa

mai là hai loại hoa tiêu biểu cho mùa xuân. Hình ảnh của hoa trong thơ ông

không mang sắc điệu của mùa xuân tươi vui mà lại là cảnh hoa rụng, gợi lên

sự tàn úa, nuối tiếc, cảm thương: “Đào hoa, đào diệp lạc phân phân” (Hoa

đào, lá đào rụng tơi bời) (U cư I) hay là “Lạc hoa vô số hạ thương đài” (Thấy

vô số hoa rụng trên rêu xanh) (Đối tửu). Từ sự tàn úa của hoa, thi nhân tiếc

cho kiếp hoa, thương cho kiếp người.

Nguyễn Khuyến cũng là con người ưu thời mẫn thế, cáo quan về ở ẩn,

gắn bó với làng quê Việt Nam. Xuân qua lăng kính của con người từng nếm

trải bao trái ngang của cuộc đời mang nhiều sắc thái. Đó có thể là mùa xuân

với ngày tết rộn ràng hoan ca “Trong nhà rộn rịp gói bánh chưng/ Ngoài ngõ

bi bô rủ chung thịt” (Cảnh tết), hay một khóm hoa nhỏ còn ướt đẫm sương

đêm và nét vẽ của núi sông trong làn mây:

Tiểu cúc tân tài lô vị can

33

Hà xứ cô hồng thê dã thủ

Vô cùng thủy cáo nhập gian can

Âm vân vị áp thiên sơn họa

(Khóm cúc nhỏ mới trồng sương hãy chưa khô

Con chim hồng lẻ loi ở chốn nào về, đậu trên cây ngoài nội

Cỏ non xanh mơn mởn ngút mắt trải rộng tới bờ sông

Mây mù chưa lấp được đường nét như vẽ của ngàn núi sông

(Xuân hứng)

Bức tranh mùa xuân qua những cảm nghiệm khác nhau của nhà thơ ở

các thời đại khác nhau đem đến những cảm xúc mới. Sự khác biệt ấy là hồn cảm

của mỗi nhà thơ song có thể khẳng định mùa xuân luôn là nguồn cảm hứng dạt

dào không ngừng chảy gợi thi hứng qua bao nhiêu đổi dời của thời gian.

Đằng sau bức tranh thiên nhiên xuân luôn có sự ẩn chứa tâm sự thi

nhân, hiện hữu mùa xuân lòng người. Con người cảm khái trước thiên nhiên

để suy nghiệm về thân phận, lẽ đời. Bức tranh xuân xuất hiện hình ảnh của

con người với nỗi lòng thường trực vì dân vì nước của Nguyễn Trãi, nỗi cảm

thương cho thân phận tha hương của Nguyễn Du, nỗi lo cho nỗi khổ của nhân

dân trong thơ Nguyễn Khuyến. Mỗi thi nhân một cảm thức và một nỗi lòng

trải cùng mùa xuân.

Thơ của Nguyễn Trãi hiện diện một tâm hồn thanh thản nhưng đằng

sau đó, vẫn lắng lại chút suy tư về thế sự. Ức Trai rời bỏ chốn quan trường thị

phi, tạm trở về hòa mình với thiên nhiên nhưng con người nguyện làm “ngựa

đến tuổi già còn kham rong ruổi” ấy luôn thường trực nỗi lo nước thương dân

chưa bao giờ nguôi. Thơ Ức Trai ẩn chứa một nỗi niềm sâu thẳm đằng sau

bức tranh xuân vui tươi, đầy sức sống. Đó là nỗi niềm nuối tiếc thời gian, nuối

tiếc tuổi xuân:

Xuân xanh chưa dễ hai phen lại

Thấy cảnh càng thêm tiếc thiếu niên

34

(Thơ tiếc cảnh III)

Tiếc xuân cầm đuốc mảng chơi đêm

Những lệ xuân qua tuổi tác thêm

(Thơ tiếc cảnh VII)

Nguyễn Trãi là con người suốt đời nặng lòng với dân nước, bởi thế ước

vọng được cống hiến nhiều hơn luôn đau đáu trong ông. Mỗi mùa xuân trôi

qua là thời gian đời người ngắn lại. Bởi thế, thi nhân nuối tiếc thời gian, nuối

tiếc mùa xuân và tuổi xuân.

Bốn mùa là sự nhận thức về quy luật của thời gian:

Thân nhàn đến chốn dầu tự tại

Xuân muộn nào hoa chẳng rụng rời

Những thấy Ngu công tua sá hỏi

Non từ nay mựa tốn công dời

(Thuật hứng 14)

Nhận ra quy luật dời đổi của tự nhiên cũng là lúc thi nhân chiêm nghiệm

về sự đổi thay của kiếp người, để xem công danh, phú quý chỉ là phù du:

Thuyền chèo đêm nguyệt sông biếc

Cây đến ngày xuân tốt tươi

Phú quý chẳng tham thanh tựa nước

Lòng nào vạy vọ hơi hơi

(Ngôn chí 21)

Nguyễn Trãi dù đã có lúc cuộc đời gặp nhiều trắc trở nhưng với tất cả tấm

lòng một đời “trí quân trạch dân”, không lúc nào nguôi khát khao với cuộc đời.

Bởi thế, ánh nhìn của ông với thiên nhiên, cuộc sống con người luôn là ánh nhìn

vui tươi, tràn đầy nhựa sống. Mùa xuân – mùa của khởi sinh được nhà thơ cảm

nhận và tỏ bày nỗi lòng với tất cả niềm chứa chan với cuộc đời, tuy có những

lắng sâu nhưng cũng không nguội lạnh niềm hăng say với thời cuộc.

Nếu như trong thơ Nguyễn Trãi ta luôn thấy hình ảnh của một mùa

35

xuân tràn đầy sinh khí với con người luôn gắng sức không mệt mỏi “trí quân

trạch dân” bởi “Khó bền mới phải người quân tử/ Mạnh gắng thì nên kẻ

trượng phu” thì trong thơ Nguyễn Du lại thấy không chỉ là cảnh sắc mùa xuân

tươi đẹp (Xuân nhật ngẫu hứng, Ngẫu hứng 3) mà còn cả những mùa xuân

lạnh lẽo, tàn tạ (Sơn cư mạn hứng, Ngẫu thư công quán bích, U cư 1).

Với Nguyễn Du, mùa xuân tươi đẹp chỉ làm cho lòng người thêm sầu u.

Nhà thơ lưu lạc nơi đất khách, trong tâm trạng của kẻ lữ thứ, mùa xuân đâu

thể chỉ là sự tươi vui của đất trời, nó gợi nhắc ông về phận của mình:

Cộng chỉ mai hoa báo tiêu tức

Xuân hòa tằng đạo dị hương nhân!

(Cùng chỉ hoa mai báo tin xuân

Nhưng xuân có bao giờ đến với người từ nơi đất khách)

(An Huy đạo trung)

Hình ảnh của thi nhân nơi đất khách, đón xuân trong tâm trạng sầu u là

hình ảnh thường thấy trong thơ Thanh Hiên. Đôi khi là một đêm xuân u tịch,

nhà thơ khát khao tìm được ánh sáng xuân như một niềm hi vọng, nhưng lại

chỉ thấy bóng liễu trong đêm:

Hắc dạ thiều quang hà xứ tầm?

Tiểu song khai xứ liễu âm âm

(Đêm tối đen, tìm đâu ánh sáng mùa xuân?

Trước song cửa sổ mở chỉ thấy bóng liễu âm u)

(Xuân dạ)

Thi nhân cảm nhận mùa xuân bằng trái tim với bao xúc cảm, nhưng

mùa xuân tươi đẹp có khi lại làm kẻ lữ thứ thêm sầu bi:

Phù thế công danh khan điểu quá

Nhàn đình tiết tự đái oanh thiên

(Công danh ở đời nào khác cánh chim bay vút

Trước sân vắng, thời tiết cũng theo chim oanh mà thay đổi)

36

(Mộ xuân mạn hứng)

Mùa xuân là sự suy nghiệm của con người đã trải qua cuộc đời nhiều

đổi thay bao dâu bể. Công danh cũng chỉ như một cánh chim bay vút, như

cánh chim oanh báo hiệu mùa thay. Thiên nhiên với sự đổi thay qua các mùa

chính là sự gợi nhắc bao nhiêu nghiệm suy về cuộc đời về kiếp người giữa

cuộc đời bể dâu.

Mùa xuân đến đất trời với bao đổi thay mà con người vẫn thế. Vì thế

mà thưởng xuân lại trở thành đẫm lệ:

Nhân tự tiêu điều xuân tự hảo

Đoàn Thành thành hạ nhất triêm cân

(Người thì tiều tụy nhưng xuân vẫn cứ đẹp

Đứng dưới Đoàn Thành nước mắt đẫm khăn)

Cảnh xuân càng tươi đẹp lại càng khắc sâu thêm tình cảnh của con

người. Thưởng xuân cũng là tâm sự của con người về thế sự đổi dời, chiêm

nghiệm về lẽ đời.

Nguyễn Du đã gặp nhiều trắc trở trong cuộc đời, giữa chốn đời nhiều

thị phi, ước nguyện không thành,… nên khó để thi nhân đón nhận thiên nhiên

với tất cả sự tươi mới tràn đầy của thời khắc hồi sinh tạo vật. Lòng thi nhân đã

nặng trĩu những trang thơ xuân, nhuốm lên xuân cả sắc thái u hoài.

Nguyễn Khuyến cũng không chỉ hòa mình vào không gian thiên nhiên

của đất trời vào xuân, mà còn suy ngẫm về tình cảnh cô độc: “Bán chẩm quan

không thiên địa khoát/ Nhất sang cao ngọa tính tình cô” (Gối đầu lên nửa gối,

ngó thấy trời đất bao la/ Nằm khểnh bên cửa sổ, tính tình trở nên cô độc)

(Xuân bệnh 1). Cảm được phong vị xuân của đất trời nhưng vẫn hướng đôi

mắt về phía nhân dân, hòa vào kiếp sống lầm than chốn quê nghèo để lo nỗi lo

mất mùa “Tân thiều đán đán mãn thiên sương/ Thán cúc nhân cùng tuế hựu

hoang” (Mới sang xuân, sớm sớm trời đầy sương/ Than nỗi người nghèo đã

37

mùa lại mất) (Xuân bệnh 2). Mùa xuân trong thơ Nguyễn Khuyến có sự tươi

vui trong trẻo của đất trời, cũng có nỗi lòng riêng của thi nhân – nỗi lòng đau

đáu với cuộc sống thôn quê còn nhiều gian khó.

Qua những bức tranh thiên nhiên mùa xuân, các thi nhân gửi gắm cả

những tâm sự, nghiệm suy về con người và nhân thế. Mùa xuân do đó không

chỉ là mùa xuân của thiên nhiên mà còn là mùa xuân của lòng người với bao

ưu tư, muộn phiền.

Như vậy, mùa xuân là nguồn cảm hứng bất tận trong dòng chảy của

văn học truyền thống phương Đông nói chung và văn học trung đại Việt Nam

nói riêng. Qua những bức tranh về mùa xuân, có thể thấy được cảnh sắc thiên

nhiên tươi đẹp với những ý niệm riêng và hình ảnh của con người cũng như

tâm trạng của thi nhân. Sự cảm khái về cảnh sắc thiên nhiên cũng là để kí thác

tâm sự, tỏ bày nỗi lòng nhân thế.

Tiểu kết:

Thiên nhiên bốn mùa nói chung và thiên nhiên xuân nói riêng có ý

nghĩa quan trọng trong tự nhiên , trong văn hóa và là nguồn thi hứng bất tận

của thi ca phương Đông. Mỗi nền văn học đều có những ý niệm và cách thể

hiện riêng về cảnh xuân, tình xuân, nhưng không ngoài dòng chảy chung.

Mùa xuân đối với thi ca trung đại Việt Nam cũng được thể hiện dưới nhiều

sắc thái, kí thác tâm sự của thi nhân. Với Thiền tông, thiên nhiên mùa xuân

được nhận diện và hàm chứa những ý niệm khác biệt, vừa biểu thị ý nghĩa

38

trực tiếp vừa ẩn tàng triết lí thiền học.

CHƢƠNG 2

CHỦ ĐỀ MÙA XUÂN TRONG

THƠ THIỀN LÝ – TRẦN

2.1. Chủ đề mùa xuân trong thơ Thiền Lý – Trần

2.1.1. Thiên nhiên mùa xuân

Thiên nhiên luôn là một chủ đề lớn trong văn học Việt Nam. Trong mĩ

cảm phương Đông, con người là một phần của đại vũ trụ, bởi thế con người

luôn có mối tâm giao sâu nặng với thiên nhiên. Cách thức tiếp cận của Đạo

gia, Nho gia và Thiền gia đều có những đặc sắc riêng. Thiền gia không nương

nhờ vào thiên nhiên để cầu sự yên tĩnh như Đạo gia, coi sự tương thông cảm

ứng giữa thế giới và con người làm trọng như Nho gia, mà coi thiên nhiên

như một công cụ để ngoại hóa triết lí, nguồn cảm hứng để ngộ đạo.

Thơ Thiền thường mượn những hình ảnh thế giới vật chất để thể hiện

thiền lý. Đó là hình ảnh ngoại giới các thiền sư bất ngờ nắm bắt được trong

khoảnh khắc bừng ngộ. Thiên nhiên là một trong các hình ảnh ngoại giới có

vai trò quan trọng trong truyền đạo và ngộ đạo của các thiền gia. Hình ảnh

thiên nhiên nổi bật là cảnh sắc luân chuyển bốn mùa, trong đó xuân ẩn chứa

nhiều ý vị Thiền.

Thiên nhiên mùa xuân là sự kết đọng của nhiều ý vị Thiền, mà trước

hết là mùa xuân chuyên chở triết lí. Mùa xuân chỉ là vỏ bề ngoài, là sắc tướng

để bao chứa những ẩn ý thiền đạo, là “ngón tay chỉ trăng”, có ý nghĩa tượng

trưng hơn là hiện thực. Những triết lí của Thiền về vô thường, sắc không,…

đều được mã hóa bằng các hình ảnh về mùa xuân.

Cặp xuân – thu là diễn trình về quy luật sinh trưởng và lụi tàn của

muôn vật. Mùa xuân mang tính dương, là bắt đầu hưng thịnh, nhưng chưa ở

giai đoạn viên mãn. Mùa thu lại là thời gian của quá trình tàn lụi, cho thấy sự

39

chóng tàn và ngắn ngủi của vạn vật. Thơ Thiền nhận thấy ở đó triết lí về sự vô

thường, cái “không” đối lập với cái “có”. Bởi vậy, thiên nhiên biến dịch xuân

thu trong thơ Thiền được dùng để biểu hiện quy luật tạo sinh và thành diệt tất

yếu của tạo hóa.

Ly hạ trùng dương cúc

Chi đầu thục khí oanh

(Trùng dương đến cúc vàng dưới dậu

Xuân ấm về, oanh náu đầu cành)

(Tham đồ hiển quyết) [79; 274]

Xuân hoa sắc đóa đóa hồng tiêu

Thu nguyệt ảnh đoàn đoàn viên diệu

(Sắc hoa xuân đóa đóa tươi hồng

Bóng trăng thu tròn đầy viên diệu)

(Trữ từ tự cảnh văn) [80; 296]

Trong các câu trả lời đệ tử (Đáp đệ tử diệu đạo chi vấn) hoặc đối đáp

giữa sư và tăng (Tham đồ hiển quyết), hoặc vua và sư (Ngữ lục vấn đáp môn

hạ) thiên nhiên xuân thu, hoặc mùa xuân với những trạng hình cụ thể được

khái quát từ mùa xuân tự nhiên biểu thị cho một ý niệm thiền học. Hình tượng

mùa xuân mang tính chất biểu trưng, là lớp nền thứ nhất cho sự biểu đạt của

một mục đích cao hơn: chứa đựng triết lý.

Sự biến chuyển tuần hoàn của thiên nhiên trong thơ Thiền dung chứa ý

nghĩa về đạo. Thiền tông quan niệm Phật tính có trong mỗi con người, và mỗi

người đều cần “Tự thức bản tâm, tự kiến bản tính” để thức nhận chân lí nội

tại. “Kiến tính thành Phật” cũng như quy luật của tự nhiên, xuân đến hoa nở.

Khô mộc phùng xuân hoa cạnh phát

Phong xuy thiên lý phức thần hương

(Hoa rợp cành khô lúc tiết xuân

Gió đưa nghìn dặm nức hương thần)

40

(Tham đồ hiển quyết) [79; 278]

Xuân lai tự thị xuân hoa tiếu

Thu đáo vô phi thu thủy ngâm

(Mùa xuân tới hoa xuân cười

Mùa thu về không chỗ nào là nước thu không sâu)

(Phật tâm ca) [80; 271]

Những hình tướng bên ngoài chỉ là sắc, hư ảo, mong manh, con người

cần gạt bỏ tâm vọng niệm về chúng để tìm chân như của vạn pháp, chân tính

trong sự nở tàn của quy luật:

Xuân lai xuân khứ nghi xuân tận

Hoa lạc, hoa khai chỉ thị xuân

(Xuân qua lại ngỡ xuân tàn

Hoa dù rụng nở, vẫn hoàn tiết xuân)

(Đáp đệ tử diệu đạo chi vấn) [79; 301]

Hồng đào thụ thượng chân thời tiết

Hoàng cúc li biên bất thị xuân

(Trên cây đào thắm đúng kì

Cúc vàng bên dậu chắc gì đã xuân)

(Đối cơ) [80; 315]

Người học đạo không nên chấp nê vào khái niệm khô cứng, gạt bỏ vẻ

bề ngoài giả tướng để nhìn sâu vào nội tâm siêu việt, tìm thấy chân như.

Thiên nhiên tạo vật nở tàn là sự thức nhận về quy luật, cái "không" lại hàm

chứa cái "có" (Đáp đệ tử diệu đạo chi vấn), cái "có" ẩn tàng cái "không" (Đối

cơ).

Được quang chiếu bởi tâm thiền an định, thiên nhiên mùa xuân là thiên

nhiên hư tĩnh. Sự hư tĩnh, lặng trầm của thiên nhiên mùa xuân kết đọng trong

từng ý thơ. Mùa xuân thiên nhiên như được họa trong một khoảnh khắc ngắn

ngủi mà chứa đựng cả mênh mông của vũ trụ, ngưng tụ vĩnh hằng của thời

41

gian.

Cảnh xuân trong Đăng Bảo đài sơn được họa sơ giản, ít đường nét và

màu sắc. Mọi tạp âm, chuyển động dư thừa đều bị lược bỏ, chỉ còn lại một

bức tranh xuân bình đạm, nhưng đủ cảm nghiệm hết khí xuân trong trẻo, qua

cái nhìn trầm mặc của hành giả:

Địa tịch đài du cổ

Thời lai xuân vị thâm

Vân sơn tương viễn cận

Hoa kính bán tình âm

(Đất hẻo lánh đài thêm cổ kính

Theo thời tiết, mùa xuân về chưa lâu

Núi mây như xa như gần

Ngõ hoa nửa rợp nửa nắng)

[80; 456]

Cảnh vật nằm trong trạng thái nửa hư nửa thực, núi mây như xa lại như

gần, ngõ hoa nửa rợp, nửa nắng, lại thêm đền đài cổ tịch, thanh u. Bức tranh

không có một âm thanh hay chuyển động, chỉ thấy những đường nét phác họa

về núi, đài, ngõ hoa, sơ lược, hư ảo tăng thêm sự tĩnh mịch của cảnh xuân,

nhưng lại cho người đọc thẩm nhận một mùa xuân mang ý vị thiền, trầm mặc,

u huyền.

Đề Gia lâm tự là bức tranh mang đủ âm thanh, màu sắc nhưng vẫn là

cảnh vật trong trạng thái tĩnh:

Xuân vãn hoa dung bạc

Lâm u thiền vận trường

(Xuân muộn, dáng hoa mỏng mảnh

Rừng sâu, tiếng ve ngắn dài)

[80; 614]

Bức tranh xuân có tiếng ve kêu song chỉ làm tăng thêm cảnh u tịch của

42

khung cảnh. Mùa xuân trong sáng, sinh động, đa hình, đa thanh vẫn kết đọng

ý niệm về sự an định của tâm, vô ngã vô ý, loại bỏ vọng niệm, hòa nhập vào

thiên nhiên vĩnh hằng, cảm hết cái đẹp của tạo hóa trong sự vô thường.

Thiên nhiên mùa xuân trong thơ Thiền còn là thiên nhiên mang vẻ đẹp

tự tính. Thiên nhiên mùa xuân tàn nở theo chu trình sinh diệt của tạo hóa.

Hành giả với tâm thiền đạt ngộ nhận diện vẻ đẹp thiên nhiên mùa xuân trong

sự nở tàn vô thường ấy.

Hình ảnh thiên nhiên mùa xuân của sự vô thường trong thơ Thiền mang

cảm thức về cái đẹp bản nguyên, khác với nỗi niềm bi cảm trước cái đẹp lụi

tàn của thơ haiku. Cành hoa mai trong thơ của Trần Nhân Tông là cành mai

của quy luật vô thường:

Cá tam đông bạch chi tiền diện

Tá nhất biện hương xuân thượng đầu

Cam lộ lưu phương si điệp tỉnh

Dạ quang như thủy khát cầm sầu

(Cánh hoa trắng xóa suốt trong ba tháng đông

Sang đầu xuân chỉ còn loáng thoáng một vài cánh thơm nhẹ

Móc ngọt chảy mùi thơm làm chú bướm si ngây tỉnh giấc

Ánh sáng ban đêm như nước khiến con chim khát buồn rầu)

(Tảo mai 1) [80; 470]

Hoa mai trong tiết xuân vừa sang chỉ còn “vài cánh thơm nhẹ”. Trước

công năng phá hủy của thời gian, hoa nở và tàn theo quy luật, nhưng hương

hoa vẫn có sức gắn bó tác sinh cho muôn loài. Trong hương hoa thơm nhẹ,

muôn vật cựa mình trong mối tương giao vi diệu, giọt sương sớm ngọt lành

đánh thức chú bướm nhỏ, ánh sáng ban đêm trong lành đủ làm chú chim khát

buồn rầu. Cảm xúc về mai tàn bởi thế không hàm ý bi thương mà mang ấn

tượng tinh khôi, thanh khiết. Hoa đẹp trong sự tàn nở vô thường của chính nó.

Cũng mang cảm khái về thiên nhiên trong quy luật, trong Xuân vãn,

43

thiền gia cho thấy sự an nhiên của con người trước lẽ dời đổi của tạo vật:

Niên thiếu hà tằng liễu sắc không

Nhất xuân tâm tại bách hoa trung

Như kim kham phá đông hoàng diện

Thiền bản bồ đoàn khán trụy hồng

(Thuở trẻ chưa từng hiểu rõ sắc với không

Mỗi khi xuân đến vẫn gửi lòng trong trăm hoa

Ngày nay đã khám phá được bộ mặt chúa xuân

Ngồi trên nệm cỏ giữa tấm phản nhà chùa ngắm cánh hoa rụng)

[80; 463]

Với tâm thiền đã thấu đạt lẽ sắc không, thiền gia không chỉ gửi mình

nơi trăm hoa đua nở trong tiết xuân sang, mà an nhiên trước sự lụi tàn của hoa

trong cảnh xuân tàn. Thiên nhiên hiển lộ cái đẹp trong sự nở tàn tự nhiên,

trong bản tính nguyên sơ của tạo vật.

Như vậy, thiên nhiên xuân được quang chiếu qua đôi mắt của một tâm

thiền an tịnh là thiên nhiên chuyên chở thiền lý, thiên nhiên hư tĩnh và thiên

nhiên mang vẻ đẹp tự tính. Mùa xuân vừa mang ý nghĩa ẩn tàng triết lí thiền,

vừa mang vẻ đẹp của sự giao hòa, trong sáng, ban sơ, thấm đẫm sự mặc trầm

của ý vị Thiền.

2.1.2. Con người mùa xuân

Trong thơ Thiền, con người được thể hiện qua những quang ảnh khác

nhau về cuộc sống, mà đặc sắc hơn cả là những bức tranh thiên nhiên mùa

xuân đa sắc với một cành mai nở sớm, một không gian thoang thoảng hương

thông,… Văn chương Thiền không ca ngợi con người nhân sinh với những

khát vọng riêng, trăn trở về thân phận, lẽ đời như văn học trung đại (con

người trong thơ Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, …) mà hướng đến nhận

diện con người với sức mạnh trí huệ trong khát vọng tu cầu giải thoát. Con

người thơ Thiền mùa xuân hiển lộ với những phong cách riêng: tinh thần sám

44

hối trong thơ Trần Thái Tông, Trần Nhân Tông nhập cuộc với tinh thần "cư

trần lạc đạo", con người phóng cuồng trong thơ Trần Tung… Nhưng đều là

những con người gần gũi với cuộc sống trần thế, không ngừng truy tìm con

đường giải thoát, với tinh thần phá chấp triệt để, vô ngã, vô ý…

Trước hết đó là con người tự do phá chấp triệt để với mục tiêu đạt đến

cái tâm trống không “ưng vô sở trụ”. Các thiền giả hướng đến phá bỏ sự câu

chấp thường tình của người đời, phá bỏ cái nhìn nhị nguyên phân biệt các sự

vật, hiện tượng như: sinh – tử, hữu – vô, phàm – thánh, mê – ngộ… Đó chỉ là

“cảnh tự tâm sinh”, sự đối lập giả tạo, do ý chủ quan của con người tạo nên.

Cái nhìn nhị nguyên là “vọng kiến”, vòng dây trói buộc con người trong sự

đau khổ. Bởi thế, Trần Tung khuyên người tu học không cần “trì giới nhẫn

nhục” vì “Trì giới và nhẫn nhục/ Chuốc tội chẳng chuốc phúc” (Trì giới và

nhẫn nhục) [tập 2; 291]

Con người muốn tự do với tinh thần phá chấp cần buông bỏ hết mọi sự

phụ thuộc vào những giáo điều, kể cả chấp nê vào giáo lí kinh điển của nhà

Phật, tự tạo cho mình một cách sống, một đường hướng riêng đạt ngộ với tinh

thần tự chủ, tự tại. Trần Tung ngạo nghễ, phóng túng với tinh thần phá chấp

khi không câu nệ vào kinh kệ Phật học, như cách ông nói về pháp thân thanh

tịnh: “Ra vào trong nước đái trâu, chui rúc giữa đống phân ngựa” (Đối cơ).

Trần Nhân Tông hướng vào phá chấp hữu – vô bởi đó đều là vô minh, do tâm

định kiến sai lầm mà thành. Tranh cãi về hữu vô, hay phi hữu vô đều là những

ngả đường sai lầm, cũng như “Chấp chỉ vong nguyệt” (Chỉ “chấp” ngón tay

mà quên vầng trăng), hay “Lạp tuyết hài hoa” (Chóng tan như tuyết làm nón,

như hoa mai làm hài) (Hữu cú vô cú) [tập 2; 487]. Chỉ có buông bỏ định kiến

về hữu – vô mới có thể đi đến chân lí.

Khi tâm không còn vướng mắc, lệ thuộc vào bất cứ điều gì, thì những

chuyện thịnh suy, sống chết của đời người… không vướng lụy. Con người với

tâm “như gương sáng vốn không đài”, an nhiên trước mọi sự đổi thay của tạo

hóa. Đó là lúc hiển lộ con người “vô úy”, tự chủ, ung dung tự tại. Vạn Hạnh

45

thiền sư thản nhiên đón nhận mọi lẽ thịnh suy:

Nhậm vận thịnh suy vô bố úy

Thịnh suy như lộ thảo đầu phô

(Mặc cho vận đời dù thịnh hay suy đừng sợ hãi

Vì sự thịnh suy (cũng mong manh) như giọt sương đầu ngọn cỏ)

(Thị đệ tử) [79; 218]

Tinh thần “vô úy” của con người đã phá chấp triệt để, đạt đến tâm

không. Sự thịnh suy vốn làm con người vướng bận, sợ hãi. Với hành giả đã

phá chấp, tâm thanh tịnh, lẽ thịnh suy dời đổi của vũ trụ thu về nơi giọt sương

mong manh đầu ngọn cỏ.

Trần Nhân Tông thể hiện tâm trong sáng, an nhiên tự tại, đã dẹp bỏ

được vô minh để bản tính thanh tịnh hiện ra.

Thị phi niệm trục triêu hoa lạc

Danh lợi tâm tùy dạ vũ hàn

Hoa tận vũ tình sơn tịch tịch

Nhất thanh đề điểu hựu xuân tàn

(Niềm thị phi rụng theo hoa buổi sớm

Lòng danh lợi lạnh theo trận mưa đêm

Hoa rụng hết, mưa đã tạnh, núi non tịch mịch

Một tiếng chim kêu, lại cảnh xuân tàn)

(Sơn phòng mạn hứng 2) [80; 469]

Con người mang tâm an nhiên hư rỗng buông bỏ mọi thị phi của trần

thế vào thiên nhiên mùa xuân “hoa buổi sớm”, “trận mưa đêm”. Lắng đọng

sau sự diệt bỏ vọng niệm chỉ còn lại sự tĩnh mịch của núi non, sự thâm trầm

của cảnh xuân tàn, cũng là tâm an tĩnh, nguyên sơ của con người. Với tâm thế

mới, không vọng niệm, con người ấy sẵn sàng đón đợi cho một chu trình, một

vòng luân hồi mới đang khởi phát.

Trong thơ Thiền mùa xuân còn xuất hiện hình tượng của con người vô

46

ngã. Ngã là một trở ngại lớn trên con đường tu học. Chỉ có “vật ngã câu

vong”, quên cả ta và vật mới có thể hòa làm một với vũ trụ vĩnh hằng, xóa đi

khoảng cách chủ thể - khách thể, mới có được Niết bàn nơi thế gian này. Đây

cũng là một khía cạnh của tinh thần phá chấp, là cái chấp khó từ bỏ nhất của

con người trong muôn vàn cái chấp khác nhau. Con người luôn ôm giữ lấy cái

tôi với những sai lầm nhị kiến, không chịu từ bỏ những u mê, lầm lạc. Thơ

Huyền Quang với những sự “quên” thường được dẫn dụ để nói về tinh thần

vô ngã: quên ngày tháng và ở mức cao độ là quên đi sự tồn tại của bản thân:

“vong thân, vong thế, dĩ đô vong” (Quên mình, quên đời, quên hết tất cả)

(Cúc hoa 3).

Hình ảnh con người vô ngã trong những bài thơ Thiền mùa xuân hiện

hữu qua những chủ thể hòa nhập tuyệt đối vào thiên nhiên, vũ trụ vô biên.

Trong Nhị nguyệt thập nhất nhật dạ hay Đăng Bảo Đài sơn của Trần Nhân

Tông đều xuất hiện những con người với bản tâm xóa nhòa, tan biến cùng bao

la của vũ trụ vĩnh hằng.

Nhất thiên như thủy, nguyệt như trú

Hoa ảnh mãn song, xuân mộng trường

(Trời trong như nước, trăng sáng như ban ngày

Bóng hoa tràn ngập cửa sổ, giấc mộng đêm xuân triền miên)

(Nhị nguyệt thập nhất nhật dạ) [80; 460]

Trong đêm xuân, khung cảnh thiên nhiên vô tận vô biên với trời trong,

trăng sáng, bóng hoa ngập tràn. Lòng người thanh tịnh, khinh an tan hòa trong

sự thanh khiết, tĩnh lặng của xuân, trong giấc mộng dài. Con người quên đi

mọi lẽ đổi thay của đời để nhập hòa tuyệt đối cùng thiên nhiên sáng trong, vi

diệu.

Con người vô ngã có khi là con người trong trạng thái “không” tuyệt

đối, quên đi tất cả, vô vi, hòa trong thiên nhiên với bản tâm tĩnh lặng:

Vân sơn tương viễn cận

47

Hoa kính bán tình âm

Vạn sự thủy lưu thủy

Bách niên tâm ngữ tâm

Ỷ lan hoành ngọc địch

Minh nguyệt mãn hung khâm

(Núi mây như xa như gần

Ngõ hoa nửa rợp nửa nắng

Muôn việc như nước tuôn nước

Trăm năm lòng lại nhủ lòng

Tựa lan can nâng ngang chiếc sáo ngọc

Ánh trăng sáng chan hòa trước ngực)

(Đăng Bảo Đài sơn) [80; 456]

Trong cảnh xuân nửa hư nửa thực, con người bỏ qua những sự thị phi

của trần thế, “thủy lưu thủy” để tuyệt đối tĩnh lặng trong khoảng thinh không

của vũ trụ, hòa mình vào thiên nhiên với “ánh trăng sáng chan hòa trước

ngực”. Khoảng cách giữa chủ thể - con người và khách thể - tự nhiên đã bị

xóa bỏ, chỉ còn một tan biến trong thái không vĩnh hằng của xuân đang sang.

Vô ngã không phải là sự phủ định, xóa bỏ con người, mà là sự giải

phóng con người ở mức độ tuyệt đối, khỏi ngoại cảnh và cả bản thân. Con

người với tinh thần vô ngã vượt qua giới hạn của đời người để trường tồn

cùng vô hạn của đại vũ trụ.

Trong thơ Thiền mùa xuân còn có một con người khác là con người vô

ngôn. Thiền tông chủ trương “bất lập văn tự”, với phương thức tu đạo “dĩ tâm

truyền tâm”, “trực chỉ nhân tâm” đã xem khinh suy luận lý trí và ngôn ngữ.

Bởi ngôn ngữ là hữu hạn trước chân lí vô cùng. Thiền học đề cao sự trực cảm

thông qua suy luận của lí trí, khẳng định con đường tự chứng nghiệm của bản

thân mới là con đường đạt đến chân lí. Đức Phật khai ngộ cho Ca Diếp chỉ

bằng cành hoa mà không dùng một lời. Những câu nói ngắn gọn, hành động

48

của các thiền sư khi hướng dẫn học đạo chỉ xem như “ngón tay chỉ trăng” –

phương tiện dẫn giải người tu học. Như vậy, hình tượng con người vô ngôn,

xuất hiện với nhiều dạng thức trong thơ Thiền mùa xuân có căn nguyên từ

triết thuyết “vô ngôn” của Thiền học.

Im lặng là trạng thái ngộ được vô hạn của chân lí. Trong thơ Thiền hiện

hữu những khoảnh khắc con người lặng im không nói. Thi nhân đứng trước

cảnh xuân mang tâm thế giao hòa trong cảnh huống vô ngôn của thiền. Trần

Nhân Tông đắm say trước thiên nhiên, không triết lí về cuộc đời “vạn sự thủy

lưu thủy” mà chỉ: “Ỷ lan hoành ngọc địch/ Minh nguyệt mãn hung khâm”

(Tựa lan can nâng ngang chiếc sáo ngọc/ Ánh trăng sáng chan hòa trước

ngực) trong Đăng Bảo Đài sơn. Thiền gia cũng hòa bản thể vào vũ trụ vĩnh

hằng, trong trạng thái vô tâm vô ý trong Xuân cảnh:

Dương liễu hoa thâm điểu ngữ trì

Họa đường thiềm ảnh mộ vân phi

Khách lai bất vấn nhân gian sự

Cộng ỷ lan can khán thúy vi

(Trong khóm hoa dương liễu rậm, chim hót chậm rãi

Dưới bóng thềm ngôi nhà chạm vẽ, mây chiều lướt bay

Khách đến chơi không hỏi việc đời

Cùng đứng tựa lan can ngắm màu xanh mờ mịt ở chân trời)

[80; 460]

Trước khung cảnh xuân tươi đẹp, chim hót chậm rãi trong khóm hoa,

mây lướt bay trên bầu trời cao vợi, người khách đến chơi không hỏi việc đời,

chỉ duy nhất phút giây lặng im. Đây là khoảnh khắc thiên nhiên mùa xuân

đang hiển lộ vẻ đẹp tự nhiên và ban sơ, còn lòng người thanh tịnh, hòa điệu

cùng trời đất. Khoảnh khắc tương giao tuyệt diệu này không thể nói thành lời.

Chủ và khách kết nối với nhau không phải bằng ngữ ngôn hữu hạn mà bằng

49

tâm đạo vô cùng. Im lặng mà ý tứ không cùng.

Trần Quang Triều cũng mang đến một mùa xuân trong trẻo và một

trạng thái vô ngôn của Thiền trong Đề Gia Lâm tự:

Vũ thu thiên nhất bích

Trì tịnh nguyệt phân lương

Khách khứ tăng vô ngữ

Tùng hoa mãn địa hương

(Mưa tạnh, trời xanh biếc một màu

Ao trong, trăng mát dịu tỏa xuống

Khách ra về, sư chẳng nói

Mặt đất thơm ngát mùi hoa thông)

[80; 614]

Con người đứng trước cảnh xuân thanh khiết, sáng trong như được

thanh tẩy bụi trần, ưu tư, muộn phiền, để đắm chìm trong cảnh. Khách ra về

sư chẳng nói, chỉ còn thoang thoảng mùi hoa thông vương trên đất. Không khí

lặng im không lời là phút giây con người, trời và đất cùng hòa điệu, tương

giao. Bài thơ chỉ tả cảnh, sự việc, không hề có một lời bình luận hay từ ngữ

biểu đạt xúc cảm nhưng dư ba trong lòng người là vô hạn.

Trong thơ Thiền, con người vô ngôn đối diện với cảnh bằng tâm bản

thể hư rỗng. Bỏ quên việc đời với những lẽ suy vi, biến đổi khôn lường, con

người chìm trong sự im lặng “bất vấn nhân gian sự”, nhưng là sự thấu suốt

của tâm hòa nhập tuyệt đối vào chân như bất diệt của pháp. Chủ thể hòa nhập

khách thể thiên nhiên xuân bằng tâm thế “đối cảnh vô tâm”, dùng bản thể cảm

và hòa với cái vi diệu của đất trời.

Như vậy, con người mùa xuân trong thơ Thiền là con người với tinh

thần phá chấp triệt để, con người vô ngã và con người vô ngôn. Đây cũng là

những hình tượng con người nói chung trong thơ Thiền Lý – Trần. Song con

người trong cảnh sắc mùa xuân được thể hiện với những đặc sắc riêng, vượt

50

khỏi giới hạn và mang tinh thần tự chủ trên con đường tu học.

2.2. Hình tƣợng mùa xuân

2.2.1. Hoa

Hoa có ý nghĩa chung “là biểu tượng của bản thể thụ động” [5; 426],

tiếp nhận tinh túy của đất trời mà sinh tồn. Trong Phật giáo, hoa mang tính

biểu tượng cao và ẩn tàng ý nghĩa đối với việc tu đạo. Hình tượng “hoa vàng”

trong Mật tông là “biểu tượng của sự đắc đạo: sự nở hoa là kết quả của cuộc

luyện đan bên trong, của sự thống hợp giữa tinh thần (tinh) và hơi thở (khí),

giữa nước và lửa” [5; 427]. Các kinh điển nhà Phật nhắc tới điển “niêm hoa vi

tiếu” nói về việc Đức Phật Thích Ca truyền pháp cho ngài Ca Diếp, ẩn ngụ

phương pháp “dĩ tâm truyền tâm” trong Thiền tông. Hoa mang một ý nghĩa

quan trọng đối với truyền đạo và ý nghĩa biểu trưng riêng trong đạo Thiền.

Hoa xuân trong thơ Thiền không nằm ngoài những ý nghĩa chung của

biểu tượng hoa trong Thiền tông, là biểu trưng cho bản chất và quy luật vận

động của vũ trụ, nở tàn theo quy luật của tạo hóa. Dưới ánh nhìn của tâm

thiền, hoa trong sự sinh diệt là con đường thức nhận đến chân như, bến viên

giác của đạo. Hoa xuân xuất hiện với tần số cao trong các bài thơ Thiền, trở

thành một dấu hiệu của mùa xuân, với các chu trình đối cực của sự sống: hoa

khai – hoa lạc, với các dạng thức khác nhau: hoa ảnh, hoa dung, các loài hoa

xuân: mai, đào hồng, lý bạch… Những bức tranh mùa xuân với muôn vàn

dạng thể, trạng thức không chỉ đơn thuần là xúc cảm của thi nhân trước thiên

nhiên mà còn là sự gửi gắm của giáo lý Thiền học, mượn hoa để nói về đạo.

Hoa đẹp nhưng chóng tàn trước tác động của ngoại cảnh và sức công

phá của thời gian. Do đó, trong thơ nói chung, hoa biểu trưng cho cái đẹp

mong manh. Cảm thức về hoa là ngợi ca cảnh sắc, cái đẹp, sự nuối tiếc cho

cái đẹp mong manh, hay mượn hoa để nói về phù du cuộc đời. Hoa trong thơ

Thiền cũng mang tính chất chung ấy song chứa đựng đặc trưng riêng. Thông

qua hình tượng hoa, hành giả biểu đạt sự hư ảo, mong manh, phần "sắc" giả

51

tướng của bản thể. Trong Xuân vãn, Trần Nhân Tông cho thấy hình ảnh hoa

dưới ánh nhìn của tâm thế con người đã đắc đạo, thấu suốt lẽ chân như, bản

lai diện mục.

Niên thiếu hà tằng liễu sắc không

Nhất xuân tâm tại bách hoa trung

Như kim kham phá đông hoàng diện

Thiền bản bồ đoàn khán trụy hồng

(Thuở trẻ chưa từng hiểu rõ "sắc" với "không"

Mỗi khi xuân đến vẫn gửi lòng trong trăm hoa

Ngày nay đã khám phá được bộ mặt chúa xuân

Ngồi trên nệm cỏ giữa tấm phản nhà chùa ngắm cánh hoa rụng)

[80; 463]

Bằng sự nghiệm suy của cuộc đời, hành giả đã thấu triệt về sắc tướng,

nhận chân bản thể của vạn pháp, để hòa mình vào thiên nhiên trong tư thế an

tịnh của Thiền. Khi đã thức nhận được “bộ mặt chúa xuân” thì cái đẹp trong

sự sinh hay trong tàn lụi không còn vướng bận với người tu đạo. Sự mong

manh và hư ảo của hoa cuối xuân bởi thế không mang cái nhìn bi quan mà là

sự an nhiên tự tại, trước lẽ dời đổi của tạo vật, trước quy luật của tự nhiên,

bình thản đón nhận lẽ sinh tử.

Hoa đôi khi xuất hiện chỉ dưới dạng “hoa ảnh”, “hoa dung” gợi lên sự

mong manh, hư ảo. Nhị nguyệt thập nhất nhật dạ là một đêm trăng tĩnh mịch,

nhuốm một màn sương mờ, hư hư thực thực. Hư ảo của bóng hoa xuân trùm

lên hư ảo của mộng xuân. Cảnh xuân đem đến một sự u tịch, tĩnh tại của

không gian, ngừng lại của thời gian, được bao phủ bởi ý vị thiền:

Nhất thiên như thủy, nguyệt như trú

Hoa ảnh mãn song, xuân mộng trường

(Trời trong như nước, trăng sáng như ban ngày

52

Bóng hoa tràn ngập cửa sổ, giấc mộng đêm xuân triền miên)

Sơn phòng mạn hứng 2 có sự tịch lặng của thiên nhiên, có sự tàn lụi của

cảnh xuân. con người trước cảnh xuân ấy, thả trôi tất cả vướng bận thị phi, lợi

danh của bụi trần theo hoa buổi sớm, theo trận mưa đêm.

Thị phi niệm trục triêu hoa lạc

Danh lợi tâm tùy dạ vũ hàn

Hoa tận vũ tình sơn tịch tịch

Nhất thanh đề điểu hựu xuân tàn

(Niềm thị phi rụng theo hoa buổi sớm

Lòng danh lợi lạnh theo trận mưa đêm

Hoa rụng hết, mưa đã tạnh, núi non tịch mịch

Một tiếng chim kêu, lại cảnh xuân tàn)

[80; 469]

Cảnh xuân tuy có sự vận động của cảnh nhưng cuối cùng đọng lại ở sự

tĩnh lặng của cảnh và của tâm. Bài thơ có hai hình ảnh của hoa: “hoa lạc” và

“hoa tận”. Từ “hoa lạc” (hoa rụng) đến “hoa tận” (hoa rụng hết) là một chu

trình nhanh chóng mong manh của sự tàn úa. Từng cánh hoa rụng rơi là sự

phôi phai của cái đẹp tạo hóa. Sự đổi thay của hoa là sự vô thường của tạo

vật. Nhưng con người hiển lộ trong tâm thế an nhiên trút bỏ lợi danh thị phi

vào sự đổi thay. Đó là tâm cảnh của con người đã thấu hiểu lẽ đời, nhận ra

được sự vô thường của vạn pháp.

Trong thơ viết về mùa xuân, hoa mai được coi là hình ảnh tiêu biểu

mang giá trị biểu trưng cao độ. Hoa mai trong thơ Thiền được sử dụng để biểu

trưng cho sự thanh khiết, sức sống mãnh liệt, cho "kim cương" của tâm.

Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận

Đình tiền tạc dạ nhất chi mai

(Đừng cho rằng xuân tàn thì hoa rụng hết

53

Đêm qua một cành mai đã nở trước sân)

Giữa cảnh nở tàn cùng mùa xuân với “bách hoa khai”, “bách hoa lạc”,

cành mai của tâm thức đạt ngộ, tâm thiền đã giác vẫn khai hoa. Như vậy, hoa

mai trong Cáo tật thị chúng của Mãn Giác thiền sư là biểu trưng của chân như

bất diệt.

Những hình ảnh về sự gắn kết, giao hòa giữa muôn vật luôn xuất hiện

thường trực trong thơ viết về mùa xuân. Hoa và điệp đi liền, gắn bó, quấn

quýt biểu trưng cho sự gắn kết trong thiên nhiên mùa xuân. Nhưng hoa - điệp

không chỉ là thiên nhiên thực tại, đó còn là hoa điệp của triết lí thiền. Nhiều

thiền sư đã dùng hình ảnh gắn kết giữa hoa và điệp để dẫn dắt đệ tử đến với

con đường giải ngộ.

Trong Tham đồ hiển quyết, khi trả lời câu hỏi của tăng về ngọc quý Ma

– ni, sư đáp bằng câu thơ có hình ảnh của hoa bướm:

Xuân hoa dữ hồ điệp

Cơ luyến cơ tương vi

(Hãy xem bướm dỡn hoa xuân

Mấy phần quyến luyến, mấy phần lìa xa?)

[79; 278]

Bài thơ Hoa điệp của thiền sư Nguyễn Giác Hải mượn hình tượng của

hoa và bướm trong cảnh xuân sang để giác ngộ cho để tử về sự hư ảo.

Xuân lai hoa điệp thiện tri thì

Hoa điệp ưng tu cộng ứng kỳ

Hoa điệp bản lai giai thị huyễn

Mạc tu hoa điệp hướng tâm trì

(Xuân sang hoa và bướm khéo quen với thời tiết

Hoa bướm đều cần phải thích ứng với kì hạn của chúng

Nhưng hoa với bướm vốn dĩ đều là hư ảo

Chớ nên bận tâm về hoa với bướm)

54

[79; 444]

Hoa và bướm là những vật bên ngoài thân, và vốn bên ngoài nhau, có

sự biến đổi của riêng chúng, song cũng là giả tướng, bởi hoa bướm vốn dĩ là

huyễn ảo. Chỉ do vọng tâm tục niệm mà con người để tâm nhìn thấy rồi quy

kết giá trị, ý nghĩa cho những thứ hư vô ấy, bởi thế đừng nên bận tâm về hoa

và bướm. Triết lí Thiền học được truyền tải một cách trực tiếp.

Qua đôi mắt thiền quán của Trần Nhân Tông, hoa và bướm là sự quyến

luyến của mùa xuân đầy sức sống:

Nhất song bạch hồ điệp

Phách phách sấn hoa phi

(Kìa một đôi bướm trắng

Nhằm hoa, phơi phới bay)

(Xuân hiểu) [80; 453]

Với hình ảnh quấn quýt của hoa và bướm, bức tranh xuân trở nên sống

động, tươi vui, ý niệm về sức xuân tươi vui nhuốm trọn cảnh thơ. Mùa xuân

được nhận ra bởi đôi bướm trắng và hoa xuân bởi "bất tri" (không biết) của

thi nhân – thiền sư. Cặp hoa – bướm không còn là hình ảnh ám dụ truyền tải

giáo lý mà là sự tương giao hòa hợp của chúng sinh. Hoa và bướm vừa là biểu

trưng cho sự hư huyễn của sắc mà còn là sự đan quyện gắn bó của sức xuân

đang thịnh.

Như vậy, hình tượng hoa mang nhiều giá trị biểu trưng. Hoa là hình ảnh

của thiên nhiên mùa xuân tươi đẹp, của sức sống đang sinh cũng là hình

ảnh ẩn tàng những ý vị triết lí Thiền thâm áo. Hoa với những đặc trưng

riêng biệt là biểu trưng cho sự hư huyễn của sắc, giả tướng của vạn pháp,

vô thường của tạo hóa, cũng là biểu tượng cho mùa xuân bất diệt – bản thể

của tâm thiền đạt ngộ.

2.2.2. Thanh âm mùa xuân

Thiền tông phủ nhận việc chấp nê vào ngôn ngữ, coi đó như là thứ “giả

55

tướng” cản trở người tu hành tri kiến được Phật tính trong mình. Chủ trương

“bất lập văn tự”, coi giáo pháp của mình là “vô ngôn chi giáo”. Ngôn từ chỉ là

“ngón tay chỉ trăng”, phương tiện để đạt được thành quả, không phải là mục

đích cuối cùng. Để thức nhận được bản tính chân như trong mình từ “trực chỉ

nhân tâm”, cần có sự thức nhận của nội lực siêu việt, “tự thức bản tâm, tự

kiến bản tính”. Âm thanh được xem như một phương pháp bừng ngộ chân

như. Một trong những phương pháp của thiền là dùng âm thanh để đạt ngộ

cho đệ tử. “Lâm Tế xuất thế, chỉ dùng phương pháp đánh gậy và quát tháo để

dạy học trò” (Niêm tụng kệ). Một âm thanh vang vọng, đột ngột có tác dụng

thức tỉnh người tu học tâm còn u minh, chưa tỏ chân tính. Trong mật tông,

bản thể của vũ trụ được biểu đạt qua âm thanh mật chú. Âm thanh của chính

giác có thể làm cho niết bàn và luân hồi hợp nhất.

Vai trò của âm thanh đối với hành giả được thể hiện ở nhiều dạng thể

khác nhau trong Thiền tông. Tiếng chuông là một dạng âm thanh quan trọng,

giá trị biểu trưng cho sự thức tỉnh tâm mê. Chuông vốn được xem là một

trong những pháp khí quan trọng của chùa. Tiếng chuông không chỉ được coi

như hiệu lệnh của chùa chiền trong Phật giáo, nhắc nhở thời gian tu luyện mà

còn mang ý nghĩa đối với sự thức tỉnh tâm thiền người tu học. Âm thanh tiếng

chuông có tác dụng nhắc nhở con người về sự vô thường của cuộc đời và việc

cần trấn chỉnh tu hành: “Kinh tỉnh thế gian danh lợi khách, hoán hồi khổ hải

mộng mê nhân” (Khiến con người thế gian chạy theo danh lợi bừng tỉnh, kêu

gọi mọi người mau thoát khỏi bể khổ mênh mông). Trong âm thanh ấy chứa

đựng cả những ý vị thâm trầm sâu xa của đạo Thiền. Tiếng chuông chùa có

khả năng làm bừng vỡ, thức tỉnh tâm hồn những điều tốt đẹp, xua đuổi điều

xấu: “Mỗi khi tiếng chuông chùa ngân vang thì những hình phạt trong ác đạo

được tạm thời ngừng nghỉ, chúng sinh chịu hình phạt được tạm thời an vui”

[Phật ở trong lòng, HT Thích Thiện Siêu, nxb Tôn giáo, 2003; 339].Với

những ý nghĩa thâm sâu của âm thanh vang vọng, tiếng chuông vang ngân

56

xuất hiện trong thơ Thiền phá tan không gian tĩnh lặng để có được tâm thức

ngộ: “Thấp vân như mộng viễn chung thanh” (Mây ướt giăng như mộng,

tiếng chuông xa vẳng) (Vũ lâm thu vãn)

Bởi tiếng chuông mang ý nghĩa của sự an vui, tốt lành, nên được dùng

để ví tiếng sấm mùa xuân báo hiệu sức sống cho muôn vật.

Thượng đế liên sầm tịch

Thái thanh thì nhất chung

(Thượng đế thương hiu quạnh

Thỉnh thoảng điểm một tiếng chuông giữa tầng biếc)

(Động Thiên hồ thượng) [80; 455]

Âm thanh trong tu thiền có giá trị thức tỉnh tâm hành giả, giải thoát tâm

khỏi thể xác hư rỗng, giả tướng, nhìn thấy chân như bất diệt. Không Lộ thiền

sư với “Trường khiếu nhất thanh hàn thái hư” (Ngôn hoài) làm rung động cả

không gian cô tịch. Đó là tiếng thét cho sự giải thoát bản thể khỏi xác thân,

hòa nhập với vũ trụ không cùng. Chỉ với “nhất thanh” ấy đã xáo động cả thái

hư vĩnh hằng, chứng tỏ bản lĩnh, tâm thế của người đạt đạo.

Vang vọng trong không gian tĩnh lặng, dưới những dạng thức khác

nhau, âm thanh mang giá trị đồng đẳng đánh thức tâm mê của hành giả.

Nhập môn tiên át dục hà hành?

Dẫn đắc nhi tôn túy lý tinh

Bất thị xuân lôi thanh nhất chấn

Tranh giao hàm giáp tận khai manh?

(Đến nhà là quát cớ sao đây?

Vì muốn con cháu tỉnh lại ngay

Có phải sấm xuân rền một tiếng

Thì muôn hạt giống nảy mầm cây?)

Tiếng sấm rền mùa xuân làm hạt giống nảy mầm cây. Âm thanh của

tiếng sấm trong thiên nhiên xuân cũng như tiếng quát của thiền sư đối với đệ

57

tử, có tác dụng khai ngộ tâm mê. Thức tỉnh của Phật tính vốn có trong mỗi

người, cần có sự chấn động, dồn ép mới phát lộ. Triết lý của đạo về Phật tính

và phương pháp ngộ đạo được hiển lộ qua sự trực diện của âm thanh vang

vọng.

Âm thanh vang trong không gian xuân là sự nhận thức, thức ngộ những

quy luật của muôn vật, để tâm thiền an định, an nhiên đón nhận đổi thay vô

thường:

Hoa tận vũ tình sơn tịch tịch

Nhất thanh đề điểu hựu xuân tàn

(Hoa rụng hết, mưa đã tạnh, núi non tịch mịch

Một tiếng chim kêu, lại cảnh xuân tàn)

(Sơn phòng mạn hứng 2) [80; 469]

Cảnh xuân chìm trong trạng thái hư không, tĩnh mịch, lòng người dẹp

bỏ thị phi, trút bày vào thiên nhiên. Lòng thiền an định, thiên nhiên u tịch. Tất

cả không gian nội tâm và ngoại cảnh đều chìm trong trạng thái của sự tĩnh

lặng, trầm lắng. Tiến trình tàn lụi của cảnh xuân đã hoàn thành. Một tiếng

chim kêu “nhất thanh đề điểu” làm xáo động không gian tĩnh mịch, làm thức

tỉnh tâm thiền tĩnh lặng, báo hiệu một chu trình mới của vũ trụ. Âm thanh

mang giá trị thức tỉnh ấy đem đến cho người thiền một tâm thế an nhiên đón

nhận quy luật vô thường tạo vật.

Như vậy, âm thanh có một vai trò không nhỏ đối với việc tu thiền của

người học đạo. Dưới những dạng thức khác nhau: âm thanh tiếng chuông,

tiếng sấm mùa xuân, tiếng chim kêu, trong những trạng huống riêng đem đến

sự thức cảm mang đậm ý vị thiền. Đó là sự giải thoát bừng ngộ của tâm thiền

đạt đạo, báo hiệu cho niềm vui an lạc hay sự nhận thức quy luật tự nhiên, để

người tu học đón nhận với tâm an định.

2.2.3. Các hình tượng khác

Mùa xuân không chỉ được nhận diện qua hình tượng hoa xuân mà còn

58

được hiện hữu qua sự giao quyện của trời xuân, núi xuân, trăng xuân, gió

xuân, tạo nên một bức tranh thiên nhiên tươi đẹp mà thấm đậm ý vị thiền.

Trong quan niệm của Thiền tông, con người và thiên nhiên cũng chỉ là sự biến

hóa của một pháp chân duy nhất. Từ thiên nhiên, nhà tu hành thức nhận được

chân lí của đạo, tìm thấy Phật tính ở tiếng suối reo hay nơi sắc núi. Tô Đông

Pha nhà thơ Trung Quốc đời Tống tìm thấy Phật ở thiên nhiên như vậy: “Khê

thanh tiện thị quảng trường thiệt/ Sơn sắc khởi phi thanh tịnh thân” (Tiếng

suối chính là Phật diệu âm/ Màu non hiện thì pháp thân tịnh) (Tặng Đông

Lâm trưởng lão). Những hình tượng thiên nhiên mùa xuân không chỉ là đối

tượng thẩm mĩ trực tiếp thức gợi ở thi nhân – thiền gia xúc cảm, mà còn tri

nhận triết lí của đạo.

Thiên nhiên mùa xuân trong thơ Thiền được hiện hữu trong không gian

khoáng đạt, rộng lớn. Trời xuân được mở rộng đến vô cùng bởi trạng thái hòa

nhập tuyệt đối vào vũ trụ vĩnh hằng của tâm thiền đạt đạo. Hình ảnh xuất hiện

trong thơ Thiền là bầu trời cao rộng, mang vẻ đẹp thanh khiết của mùa xuân.

Trần Nhân Tông đối diện với cảnh bằng trạng thái vô ngôn “bất vấn nhân gian

sự” để đắm mình vào khung cảnh mùa xuân hiển lộ trong sắc xanh mờ của

chân trời xa: “Cộng ỷ lan can khán thúy vi” (Cùng đứng tựa lan can ngắm

màu xanh mờ mịt ở chân trời) (Xuân cảnh). Hiện hữu trong bức tranh xuân

của Trần Quang Triều cũng là một bầu trời xuân xanh trong, bao la và tĩnh

lặng: “Vũ thu thiên nhất bích” (Mưa tạnh, trời xanh biếc một màu) (Đề Gia

Lâm tự). Trời xuân còn gắn với đêm xuân, cộng hưởng cùng ánh trăng chan

hòa. Trăng càng tăng thêm vẻ cao xa của trời, quyện hòa cho đêm trăng xuân

tĩnh mịch và một không gian mở rộng đến vô cùng. Đó là đêm trăng sáng

trong Nhị nguyệt thập nhất nhật dạ cùng: “Nhất thiên như thủy, nguyệt như

trú” (Trời trong như nước, trăng sáng như ban ngày), hay sự tĩnh lặng đến vô

cùng của đêm trăng thanh sau mưa với bầu trời quang mây trong Thiên

Trường phủ: “Tễ vân thôn vũ thổ hoa tiêu” (Mây quang, mưa tạnh ngấn bùn

59

đất cũng mất sạch). Trời xuân trong thơ thiền được tạc hình trong sự rộng lớn

về chiều kích, khoáng đạt về không gian và tĩnh tại đến vô cùng. Không gian

xuân được tạc nên từ bầu trời xuân một màu xanh thẳm, hay cao rộng, sáng

trong với ánh trăng vời vợi, chìm trong sự tĩnh lặng đến tuyệt đối. Trời xuân

được quang chiếu qua đôi mắt thiền, mang sự thanh u, bình lặng và vẻ trầm

mặc của Thiền đạo.

Núi xuân cũng là một hình ảnh xuất hiện thường trực trong những bức

tranh thiên nhiên mùa xuân. Núi xuân trong thế tương hợp với những hình

ảnh về hoa, trời, nước, mây… tạo nên bức tranh xuân hài hòa, với ý vị Thiền

riêng. Núi mang ý nghĩa riêng đối với Thiền tông. Núi là nơi yên tĩnh, nơi có

thể trông thấu và bao quát mọi sự, biểu tượng cho sự hiện hữu và tĩnh lặng

vĩnh cửu. Bởi thế, núi được chọn là nơi để tầm đạo, nuôi dưỡng chân tính, có

ý nghĩa quan trọng đối với tu tập trong Thiền. Hình ảnh núi trong thơ Thiền

do đó vừa là cái nhìn về thiên nhiên cảnh sắc vừa kí thác ý niệm đạo học. Núi

xuân trong khung cảnh thiên nhiên tươi đẹp thấm đẫm ý vị Thiền mang vẻ hư

thực, như có như không: “Vân sơn tương viễn cận/ Hoa kính bán tình âm”

(Núi mây như xa như gần/Ngõ hoa nửa rợp nửa nắng) (Đăng Bảo Đài sơn).

Hình ảnh của núi trong thơ Thiền thường mang vẻ cô tịch, tĩnh mịch, xa xôi.

Trong Sơn phòng mạn hứng là cảnh núi xuân tịch lặng, thấm đẫm ý vị thiền:

“Hoa tận vũ tình sơn tịch tịch/Nhất thanh đề điểu hựu xuân tàn” (Hoa rụng

hết, mưa đã tạnh, núi non tịch mịch/Một tiếng chim kêu, lại cảnh xuân tàn).

Tâm thiền đã an định cùng với sự trút bỏ thị phi cùng thiên nhiên xuân, chỉ

còn lại sự tĩnh mịch của núi. Mọi cảnh vật đều trong trạng thái của sự hoàn

kết. Và đọng lại ở không gian yên tĩnh của núi non. Và tiếng chim kêu phá vỡ

cảnh yên tĩnh đó là sự thức tỉnh đối với tâm thiền, để bắt đầu một vòng mới

của quy luật sinh diệt với tâm thế an nhiên. Núi xuân trong bức tranh mùa

xuân hòa quyện cùng các hình ảnh khác tạo nên một sự hài hòa và hơn hết là

sự cô tịch, thấm đẫm ý vị của đạo. Hình ảnh núi non cô tịch thức gợi về mùa

60

xuân thiền thanh vắng và một tâm thiền an định của thi nhân – thiền gia.

Trăng xuân là hình ảnh mang giá trị biểu trưng và biểu cảm lớn trong

thơ Thiền. Trăng vốn mang tính âm, thường tượng trưng cho ánh sáng tâm

linh. Ánh trăng biểu trưng cho trí huệ bát nhã, cho sự viên giác. Cũng như các

hình ảnh khác, trăng trong thơ Thiền mang ý nghĩa biểu thị trực tiếp và ý

nghĩa chuyển tải triết lí Thiền. Trăng được xem như chân như của vạn pháp,

là cái còn trong cái mất: “Thủy lưu nguyên tại hải/ Nguyệt lạc bất li thiên”

(Nước trôi ắt về biển/ Trăng lặn chẳng lìa trời) (Niêm tụng kệ), hoặc là hình

ảnh của cái “có” trong cái “không”: “Vô vân sinh lĩnh thượng/ Hữu nguyệt lạc

ba tâm” (Mây “không” sinh đỉnh núi/ Trăng “có” rơi đáy sông) (Niêm tụng

kệ). Hình ảnh của trăng trong nước biểu trưng cho sự giác ngộ. Mặt trăng

trong nước nhưng không thể phá vỡ mặt nước, là cái hiện hữu nhưng không

thể nắm bắt: “Thu nguyệt ảnh đoàn đoàn viên diệu” (Ánh trăng thu tròn đầy

viên diệu) (Trữ từ tự cảnh văn) là chính giác viên mãn của người đạt đạo.

Hình ảnh trăng xuân trong thơ Thiền Lý – Trần thường xuất hiện trong

một khoảng vô tận, không giới hạn, trong sự tĩnh mịch vô biên. Trăng làm

tăng thêm sự thanh tịch cho cảnh xuân. Đó là những đêm xuân ánh trăng

chiếu sáng vô ngần, tạo nên sự giao hòa quyến luyến của cảnh vật trong Nhị

nguyệt thập nhất nhật dạ: “Nhất thiên như thủy, nguyệt như trú/ Hoa ảnh mãn

song, xuân mộng trường” (Trời trong như nước, trăng sáng như ban ngày/

Bóng hoa tràn ngập cửa sổ, giấc mộng đêm xuân triền miên), hay ánh trăng

sáng thêm vẻ cô tịch cho đêm xuân tâm thiền đã tịnh của Thiên Trường phủ:

“Trai đường giảng hậu tăng quy viện/ Giang quán canh sơ nguyệt thượng

kiều” (Trên trai đường, giảng kinh xong các sư về viện/ Quán bên sông, mới

canh đầu trăng đã lên cầu). Đăng Bảo Đài sơn lại cho thấy một tâm thiền “đối

cảnh vô tâm”, giao hòa tuyệt đối cùng thiên nhiên vũ trụ vĩnh hằng:

Ỷ lan hoành ngọc địch

Minh nguyệt mãn hung khâm

Tựa lan can nâng ngang chiếc sáo ngọc

Ánh trăng sáng chan hòa trước ngực)

61

[80; 456]

Thi nhân – thiền gia nâng ngang chiếc sáo ngọc, hòa mình vào thiên

nhiên dưới ánh trăng sáng chan hòa. Đó là sự hòa mình một cách tuyệt đối

trong trạng thái vô ngôn của Thiền. Ánh trăng sáng bao la giữa trời gợi cảm

nhận về chân lí duy nhất, tuyệt đối, thường hằng, bừng ngộ triết lí đạo. Trăng

mùa xuân trong thơ Thiền là ánh trăng của đạo, là biểu trưng cho Phật tính,

chân tâm, cũng là xúc cảm của thi nhân – thiền gia trước thiên nhiên xuân.

Gió cũng như những yếu tố thiên nhiên khác: núi, trăng, mưa,… tạo

thành bức tranh về mùa xuân có sự giao hòa tinh tế của muôn vật. Đây là một

trong bốn yếu tố cơ bản cấu thành của muôn vật (địa, thủy, hỏa, phong). Gió

mang tính động, luân chuyển, mang đặc tính về sự vô hình, chỉ có thể cảm mà

không thể nắm bắt. Bởi vậy, gió được quan niệm như một biểu hiện của giả

tướng bên ngoài, phi thực. Trong thơ Thiền, hình tượng gió xuân mang nhiều

ý niệm thâm áo. Trả lời cho câu hỏi về gia phong của Phật Thích Ca: “Như hà

thị hiện tại Phật gia phong ?”, gió xuân được dùng để biểu ý cho sự đổi thay,

tương giao của muôn vật: “Bạch thủy gia phong mê hiểu yến/ Hồng đào tiên

uyển túy xuân phong” (Nước trắng thêm gió vào làm mê chim én sáng/ Đào

hồng trong vườn tiên làm say gió xuân) (Sư đệ vấn đáp). Gió xuân là dấu hiệu

đầu tiên của mùa xuân, đem đến sự đổi thay cho muôn vật. Trong Tảo mai 2

của Trần Nhân Tông, gió xuân đem đến sự đổi thay diệu kì. Bắt đầu từ làn gió

xuân thổi đến “Đông phong tiên dĩ đáo cô côn” (Mà gió xuân đã sớm đến với

gốc cây cô đơn) đã làm muôn vật đổi thay “Ảnh hoành thủy diện băng sơ bạn/

Hoa áp chi đầu noãn vị phân” (Bóng ngả trên mặt nước, băng giá bắt đầu tan/

Hoa trĩu nặng đầu cành, hơi ấm chưa định rõ). Ngọn đông phong thổi làm tan

chảy băng giá của mùa đông, hoa bắt đầu trĩu trên cành. Cảnh xuân vừa sang,

tiết ấm chưa rõ hẳn, ngọn gió xuân đã đem đến bao tươi mới cho cảnh vật.

Gió xuân còn là biểu trưng cho yếu tố đem đến sự đạt ngộ. Từ đặc tính

về sự đổi thay trong sắc khí mùa, mang lại sự sinh sôi cho vạn vật, gió được

62

xem như yếu tố quan trọng cho sự tạo sinh. Xuất phát từ sự đổi thay ấy,

khung cảnh mùa xuân với hoa nở trong gió trở thành hình ảnh biểu trưng cho

bừng nở của đạo. Trong Nhập trần, gió xuân là yếu tố biểu trưng cho sự đạt

đạo: “Tự đắc nhất triêu phong giải đống/ Bách hoa nhưng cựu lệ xuân đài”

(Một sớm gió đông thổi tan băng giá/Trăm hoa như cũ reo trước gió xuân).

Hoa cùng gió xuân tương tác trong mối quan hệ nhân quả, hòa hợp. Gió xuân

thanh tẩy những vọng niệm tâm tục của con người để đạt đến sự giải thoát,

như trăm hoa nở trong gió xuân.

Gió tuy có thể cảm được nhưng không thể thâu tóm một cách cụ thể,

hữu hình nhưng lại vô hình như “gió cành thông lòng sông trăng sáng” (Tầm

hưởng, Minh Trí). Gió được Trần Tung ví với tâm hư rỗng, có mà không

trong Vạn sự quy như: “Tâm nhược thanh phong tính nhược bồng” (Tâm như

gió mát, tính như cỏ bồng). Sự vô hình và hữu hình, tính chất khó nắm bắt cụ

thể của gió được thể hiện yếu tố siêu thoát của tâm thiền. Đối với sự miêu tả

về cảnh sắc, gió xuân không nắm bắt được bằng thị giác song có thể thẩm

nhận bằng xúc giác, tâm cảm. Gió xuân mang đến sự đổi thay cho cảnh sắc,

gắn với những giá trị biểu trưng trong những trạng huống cụ thể.

Như vậy, sự hòa quyện giữa các hình tượng trời, núi, trăng, gió xuân

đem đến cho bức tranh thiên nhiên mùa xuân sự đa sắc tươi mới và những ý

niệm Thiền riêng trong từng khung cảnh cụ thể. Những hình tượng thiên

nhiên này không chỉ có ý nghĩa biểu hiện trực tiếp đem đến cho thi nhân –

thiền gia xúc cảm mà còn cảm được triết lí thâm áo của Thiền đạo.

2.3. Triết lí Thiền trong thơ thiền mùa xuân

2.3.1. Mùa xuân – cảnh giới của Thiền

Cảnh giới là sự đạt đến cõi nào đó trong đạo Thiền. Trong Thiền học, sự

giác ngộ với những tầng bậc nông sâu chính là các cảnh giới khác nhau của

Thiền, cao nhất là cảnh giới của bậc chứng quả, tức là đã từ bỏ mọi vọng niệm,

hiển lộ bản tính chân như. Cảnh giới của sự khai ngộ không nằm ngoài thực tại

mà trong tâm tính của mỗi người và phụ thuộc vào cách thức của mỗi người.

63

Con người cần rũ bỏ tạp niệm để trở về với bản tâm, căn nguyên vốn có.

Mùa xuân trong quan niệm văn chương thường mang ý niệm về thời

gian còn trong Thiền, biểu tượng mùa xuân mang một sắc thái khác, không

chỉ là vòng tuần hoàn, là quy luật của vũ trụ, vần xoay của đất trời. Mùa xuân

trong đạo Thiền là một cảnh giới cao độ, khoảnh khắc ngộ đạo mà người tu

hành đạt tới. Đối với thiền sư, tìm được nơi an trú của tâm hồn, sự an lành

trong khoảnh khắc hay miên viễn chính là mùa xuân của đạo. Đó là mùa xuân

của sự tỉnh thức, ngời sáng thế giới tâm linh, mùa xuân của một bản thể

không còn chấp mê, bất ngộ, tạo sinh cho một bản thể mới đã tìm về với

“chân diện mục”.

Thiền quan niệm Phật tính tự nhiên đã có trong mỗi con người, chỉ khi

con người tự tìm thấy được bản nguyên chân thật, trong sáng của mình mới có

thể đốn ngộ. Bởi vậy mới nói “kiến tính thành Phật”. Quá trình để tìm được

chân tính trong mỗi con người là khác nhau. Mỗi người tu hành thể ngộ và

đốn ngộ bằng những phương pháp riêng như “Xuân vũ vô cao hạ/ Hoa chi

hữu đoản trường” (Mưa xuân không cao thấp/ Cành hoa có ngắn dài) (Ngữ

lục vấn đáp môn hạ). Khoảnh khắc đốn ngộ là khi con người nhận ra chân

tính, sự vô thường của vạn vật, an nhiên trước lẽ đổi thay của con tạo.

Để đạt đến cảnh giới cần có sự giác ngộ. Thiền học chủ trương giác ngộ

bằng “trực chỉ nhân tâm”, “dĩ tâm truyền tâm”, trong đó có sự dẫn giải bằng

trực giác, chú trọng đến các hình tượng sinh động, giàu hình ảnh. Mùa xuân

với tất cả những sắc thái biến chuyển, ẩn tàng quy luật của tạo hóa, chảy trôi

của thời gian là sự biểu trưng cho cảnh giới của Thiền. Như sự cảnh giới trong

Thị đệ tử của Vạn Hạnh từ sự giác ngộ về sự vô thường của cuộc đời hiện hữu

trong sự đổi khác của muôn vật:

Thân như điện ảnh hữu hoàn vô

Vạn mộc xuân vinh thu hựu khô

Nhậm vận thịnh suy vô bố úy

64

Thịnh suy như lộ thảo đầu phô

(Người đời như bóng chớp, có rồi không

Như cây cối mùa xuân tốt tươi, mùa thu khô héo

Mặc cho vận đời dù thịnh hay suy đừng sợ hãi

Vì sự thịnh suy như giọt sương đầu ngọn cỏ)

[79; 218]

Sự nhận thức từ quy luật của mùa xuân, muôn vật bừng ngộ được sắc -

không của cuộc đời. Thân xác con người như một bóng chớp, có rồi không

ngắn ngủi giữa sự vĩnh hằng của tạo hóa, cũng như quy luật đổi thay của

muôn vật “xuân vinh thu hựu khô”, thịnh suy là một lẽ hằng thường, bất biến.

Từ quy luật của tự nhiên để nhận chân thái độ trước cuộc đời, thản nhiên

không chút sợ hãi. Chỉ có chân tâm là tồn tại vĩnh hằng. Giọt sương đầu ngọn

cỏ “lộ thảo đầu phô” là kết tinh cho tâm người tu thiền đã thể ngộ và đốn ngộ.

Đó là sự thản nhiên của tâm Thiền trước cái vạn biến của tạo vật.

Cành mai trong bài thơ Cáo tật thị chúng của thiền sư Mãn Giác là hình

ảnh của mùa xuân, cũng mang giá trị biểu trưng cho cảnh giới Thiền. Vị thiền

sư đã thấu hiểu sự vô thường của cuộc đời, thấy được bằng tâm thiền sự bất

biến trong vạn biến của tạo hóa.

Xuân khứ bách hoa lạc

Xuân đáo bách hoa khai

Sự trục nhãn tiền quá

Lão tòng đầu thượng lai

Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận

Đình tiền tạc dạ nhất chi mai

(Xuân đi trăm hoa rụng

Xuân đến trăm hoa lại nở

Việc đời theo nhau ruổi qua trước mắt

Tuổi già hiện đến từ trên mái đầu

Đừng cho rằng xuân tàn thì hoa rụng hết

Đêm qua một cành mai đã nở trước sân)

65

[79; 298]

Vạn biến của muôn vật được thể hiện trong mùa xuân với sự đổi thay

của muôn hoa. Tương ứng với sự đáo – khứ (đến – đi ) của mùa xuân là sự

khai – lạc (nở – tàn) của hoa cỏ. Đó là sự biến chuyển của muôn vật trước

công năng của thời gian. Thân sắc con người cũng không nằm ngoài quy luật

ấy: “lão tòng đầu thượng lai”. Sự vạn biến của tạo hóa là quy luật hằng biến

không thể thay đổi. Nhưng thiền sư vẫn nhìn thấy sự bất biến trong cái vạn

biến. Sự bất biến không phải ở bên ngoài mà ở bên trong, là tinh thần tư

tưởng của con người, vững vàng vượt qua được mọi bến đổi của thời gian và

vần xoay của tạo hóa. Đó là cành mai của sự thức ngộ, khi tâm đã tìm được

chân tính, để an nhiên không chuyển suy trước cuộc đời. Giá trị biểu trưng

của “nhất chi mai” – mùa xuân cho cảnh giới đạo Thiền chính là sức mạnh

của bản thể trường tồn đang hằng thường trong muôn vật, mang ý chí bất diệt

của nhà Phật.

Thơ thiền của Trần Tung – “gương mặt lạ” của văn học Lý – Trần có

sự dung hợp giáo lý Thiền tông, tư tưởng Lão Trang và hòa quyện cùng các

yếu tố của Nho gia. Sự đốn ngộ “minh tâm kiến tính” được thể hiện trong bài

thơ Thị học:

Học giả phân phân bất nại hà

Đồ tương linh đích khổ tương ma

Báo quân hưu ỷ tha môn hộ

Nhất điểm xuân quang xứ xứ hoa

(Người học đạo rối bời, chẳng biết làm sao đây

Luống công đem viên gạch mài vào nhau một cách khổ sở

Bảo cho anh biết đừng có dựa vào cổng ngõ nhà khác

Chỉ một chấm sáng mùa xuân vừa lóe hiện thì khắp chốn đều nở hoa)

[80; 232]

Bài thơ là lời khuyên dành cho người tu học không nên câu chấp vào

66

sách vở chữ nghĩa, vì không trực cảm được tâm linh của Thiền. Dựa vào tha

lực cũng như “đem viên gạch mài vào nhau” hay “dựa vào cổng ngõ nhà

khác”, đều là những việc uổng công. Phật tính tồn tại trong bản tâm tự nhiên

của mỗi người, chỉ có thể dựa vào nội tâm của chính mình mới có thể ngộ

đạo. “Nhất điểm xuân quang xứ xứ hoa” là biểu trưng cho sự ngộ đạo. Mầm

hoa đã có sẵn trong muôn cây, chỉ chờ làn gió xuân thổi đến để được bung nở.

Phật tính cũng như mầm hoa, tự nhiên trong con người, chỉ có thể dùng tâm

nỗ lực mới tìm thấy điểm sáng để khai mở chân tính. “Nhất điểm xuân quang”

(Một chấm sáng mùa xuân lóe lên) là điểm đốn ngộ mà người tu học cần tìm

được. Mùa xuân với “xứ xứ hoa” cũng là cảnh giới khi tìm được Phật tính.

Xuân trong ý nghĩa của Thiền không chỉ còn là phương tiện để dẫn dắt

người tu đạo đạt ngộ, mà còn là sự thể nghiệm, là biểu trưng của tâm thiền

đắc đạo, như nhành mai trong gió tuyết của Mãn Giác thiền sư hay khoảnh

khắc bừng ngộ Phật tính của “chấm sáng mùa xuân” qua những vần thơ của

Trần Tung thượng sĩ. Mùa xuân là biểu trưng cho bản thể của con người đã

tìm được chân tính, là con người thể ngộ và đốn ngộ đạo Thiền.

2.3.2. Mùa xuân và triết lí vô thường

Vô thường phản ánh một quan điểm cơ bản của triết học Phật giáo, cho

rằng mọi sự vật trong thế giới hữu vi đều không ngừng vận động theo chu

trình sinh, trụ, dị, diệt. Đây là sự khẳng định “vô thường chư pháp hành”,

tất cả mọi vật đều luôn luôn biến diệt, không trường tồn. Sự vô thường,

biến động là tất yếu của tạo hóa, cũng chính là tính tất yếu của pháp tướng,

nhưng con người vô minh không nhận thức được, mà chấp nê vào những

thứ hiện hữu.

Con đường của sự tu học cũng là nhận thức được thế giới bên ngoài và

tự thân. Vô thường là chân tướng của đời người cho nên con người chỉ nên

chấp nhận mà không nên cưỡng cầu. Bởi “chấp nhận vô thường cũng là để

thoát khỏi luật vô thường, bằng cách thoát li sự “chấp trước”” [31; 180].

67

Trong quán chiếu vô thường, hành giả đi từ cái biệt thể đến cái tổng thể và

ngược lại, để đạt được trí huệ viên mãn, nhận thức sâu sắc về sự biến đổi và

tính chất tạm thời của tạo vật. Tri thức về sự vô thường có được giúp người tu

học đạt đến một tâm an nhiên khi hiểu thấu tính chất tạm thời trong sinh diệt

của muôn vật.

Tri nhận về sự đổi thay "hoại diệt là bản chất của chư hành", được

thông qua sự tương ứng với quy luật của thiên nhiên. Muôn vật thay đổi cùng

sự xoay chuyển của bốn mùa trong năm, cũng như con người cùng sinh, lão,

bệnh, tử, hay lẽ thịnh suy của đời người. Lẽ vô thường được nhận diện và

chứng ngộ từ sự vạn biến của quy luật tự nhiên. Chu Hy, triết gia đời Nam

Tống, Trung Hoa thức nhận về sự chóng vánh đổi thay của đời người tương

hợp với sự biến đổi của tự nhiên: “Thiếu niên dị lão học nan thành/ Nhất thốn

quang âm bất khả khinh/ Vị giác chì đường xuân thảo mộng/ Giai tiền ngô

diệp dĩ thu thanh” (Tuổi già dễ đến học nan thành/ Một tấc quang âm chẳng

dám khinh/ Giấc mộng ngày xuân chưa kịp tỉnh/ Lá ngô trước mắt chẳng còn

xanh). Đời người trôi qua nhanh chóng cũng như thiên nhiên xuân chuyển

sang thu chỉ trong một khoảnh khắc.

Mùa xuân trong thơ Thiền Lý – Trần cũng là sự thể nghiệm của những

chứng ngộ về sự đổi thay vô thường. Những quy luật của tự nhiên, nhất là sự

biến đổi của vạn vật theo mùa với hai cặp đối chọi xuân – thu xuất hiện với

tần số cao trong kiến giải về vô thường. Lẽ vô thường không được phát biểu

dưới dạng trực tiếp mà đến với người tu học bằng con đường trực cảm, dĩ tâm

truyền tâm. Hình ảnh mùa xuân được dùng như một phương tiện biểu đạt cho

triết lí vô thường của tạo vật. Các thiền gia nhận diện, thức ngộ thông qua các

thi ảnh là các hình ảnh thiên nhiên quen thuộc (hoa nở, hoa tàn,…). Vô

thường được nhận diện từ những hiện tượng loại biệt, từ đó khái quát, chứng

ngộ cho cái tổng thể:

Ly hạ trùng dương cúc

68

Chi đầu thục khí oanh

(Trùng dương đến cúc vàng dưới dậu

Xuân ấm về oanh náu đầu cành)

(Tham đồ hiển quyết) [79; 477]

Xuân khứ bách hoa lạc

Xuân đáo bách hoa khai

(Xuân đi, trăm hoa rụng

Xuân đến, trăm hoa lại nở)

(Cáo tật thị chúng) [79; 299]

Xuân đến mang lại khuôn mặt mới cho muôn vật, oanh náu đầu cành,

muôn hoa đua nở. Xuân tàn chỉ còn lại sự rụng rơi, héo úa của cảnh. Sự đến

và đi của xuân như là sự hiển lộ của quá trình sinh, trụ, dị, diệt theo quy luật

thời gian. Trước lẽ đổi thay vạn hình của muôn vật, thơ Thiền thâu nhận và tỏ

bày về suy thịnh của tạo vần, sự suy nghiệm của thi nhân về lẽ thịnh suy của

tự nhiên và con người.

Thấu triệt về bản chất vô thường, các thiền gia đối diện với vô thường

bằng một tâm thế an nhiên, điềm tĩnh, “vô úy”. Người tu hành đạt đến “nhậm

vận” sẽ trở về với tự tính, an nhiên trong sự vận động vĩnh cửu trường tồn của

bản thể. Trần Thái Tông thức ngộ đời người chỉ như một khoảnh khắc, mà sự

thịnh suy chỉ như cây nấm nhỏ:

Thức hốt hoa âm trùng phục đảo

Tuần tuần khuẩn mệnh thịnh hoàn suy

(Phút chốc bóng hoa lại nghiêng ngả

Mệnh như cây nấm tuần tự thịnh rồi suy)

(Thử thời vô thường kệ) [80; 182]

Thiền sư Vạn Hạnh dẫn dắt đệ tử về sự đổi thay cuộc đời trong bài kệ

Thị đệ tử: “Vạn mộc xuân vinh thu hựu khô” (Như cây cối mùa xuân tốt tươi,

mùa thu khô héo). Lẽ tất nhiên của tạo hóa, lẽ thịnh suy của muôn vật là quy

69

luật phát triển tất yếu, nên cũng mong manh “Thịnh suy như lộ thảo đầu phô”

(Vì sự thịnh suy như giọt sương đầu ngọn cỏ). Với tâm thiền ngộ được lẽ vô

thường sinh tử của đời người trở thành giản đơn: “Sinh như trước sam/ Tử

như thoát khổ” (Sinh tử) [80; 415]. Thi nhân – thiền gia thâm ngộ chân lý từ

sự biến chuyển của tự nhiên, và có thái độ hợp lẽ trước đổi thay vô thường

của tạo vật.

Con người khi có được trí huệ viên mãn, soi thấu lẽ vô thường của vạn

vật, đạt đến tâm an định, không còn chấp nê vào ngoại cảnh – những yếu tố

luôn đổi thay. Trần Nhân Tông rũ bỏ mọi ý niệm về lợi danh cùng sự suy tàn

của tự nhiên:

Thị phi niệm trục triêu hoa lạc

Danh lợi tâm tùy dạ vũ hàn

(Niềm thị phi rụng theo hoa buổi sớm

Lòng danh lợi lạnh theo trận mưa đêm)

(Sơn phòng mạn hứng 2) [80; 469]

Ý niệm vô thường nằm trong thức cảm về sự suy vi của thiên nhiên:

hoa rụng, mưa tạnh… Con người mang tâm thiền an định, nhận thức được lẽ

sinh diệt tự nhiên ấy, trút bỏ gánh nặng lợi danh vào thiên nhiên. Đó cũng là

lúc con người đạt ngộ về vô thường, mang tâm thế sẵn sàng cho một vòng

luân hồi mới: “Nhất thanh đề điểu hựu xuân tàn” (Một tiếng chim kêu lại cảnh

xuân tàn). Cũng như Thiền Lão trả lời vua Lý Thái Tông khi đến thăm chùa:

Đãn tri kim nhật nguyệt

Thùy thức cựu xuân thu

(Chỉ biết ngày tháng đang diễn ra trước mắt

Nào ai hay những mùa xuân mùa thu đã trôi qua)

Bởi vô thường là tự nhiên của muôn vật, cũng như xuân thu trôi qua

trước mắt, nên hành giả chỉ cần biết ngày tháng của hiện tại, không chấp nê

70

vào ngoại giới, trải cuộc đời với sự khinh an.

Triết lí vô thường được thể nghiệm và đạt ngộ từ quy luật vận hành bên

ngoài thân để chứng ngộ cho lẽ đạo. Con người khai mở tri kiến về lẽ sinh

diệt của tự nhiên sẽ ngộ được chân đạo. Thái độ ung dung, tự tại và an nhiên,

"vô úy" trước mọi suy thịnh của vạn vật là thái độ sống mà Thiền tông hướng

người tu học đạt đến.

2.3.3. Mùa xuân và triết lí sắc – không

“Sắc” bao hàm thế giới có hình danh, thể dạng nhưng chỉ là những

dạng tướng khác nhau của pháp, giả tướng, không phải là thật. “Không” là

trạng thái bất biến đằng sau các sự vật hiện tượng. Thiền học khẳng định các

hiện tượng chỉ là ảo ảnh của một bản thể duy nhất, nhưng có mối quan hệ

chuyển biến liên tục, trong đó không là nơi tạo sinh và trở về trạng thái diệt

vong của các hiện tượng đó. "Không" không phải là sự phủ nhận thế giới

quan tuyệt đối bởi "chân không diệu hữu", cái chân thật là cái có vi diệu. Sắc

và không có mối quan hệ mật thiết, không tách rời nhau, sắc là không, không

cũng là sắc: “Sắc thị không, không tức sắc/ Không thị sắc, sắc tức không”

(Sắc không, Lê Thị Ỷ Lan).

Triết lí về sắc không là triết lí về cái hữu hình, luôn biến chuyển và cái

vô hình song lại bất biến. Nhận chân bản thể của sắc để tri kiến uyên áo của

thân chính là chứng ngộ của thiền. Triết lí sắc không cũng như các triết lí cơ

bản khác của Thiền học, được ẩn chứa trong những hình ảnh của thiên nhiên.

Từ thực tại ngoại cảnh, đúc rút triết lí và thấu suốt về bản tâm nội tại:

Thúy trúc hoàng hoa phi ngoại cảnh

Bạch vân minh nguyệt lộ toàn chân

(Trúc biếc hoa vàng chẳng phải là cảnh bên ngoài

Mây trắng trăng trong lộ rõ cái chân toàn vẹn)

(Nhật nguyệt) [79; 239]

Hồng đào thụ thượng chân thời tiết

71

Hoàng cúc ly biên bất thị xuân

(Trên cây đào thắm đúng kì

Cúc vàng bên dậu chắc gì đã xuân)

(Đối cơ) [80; 315]

Thiền Lão, Trần Tung nhìn thấy không trong sắc, chân như trong lẽ tự

nhiên của vạn vật. Cúc vàng, đào thắm nở cũng chỉ là vẻ ngoài của sắc tướng.

Vẻ ngoài không phải là chân như của pháp. Triết lí sắc không nói chung ngoài

các phát biểu luận giải trực tiếp bằng điển cố, từ ngữ Phật giáo, được hiển lộ

qua quy luật biến dịch của thiên nhiên. Ở đây, xuân, thu, muôn vật với sự hiện

hữu rõ ràng của sự chuyển biến ám tàng cho giả tướng của ngoại giới.

Sắc là thứ ngoài thân không cần xét đến, chỉ có vọng niệm của tâm

chưa bỏ mới trông thấy hình hài của giả tướng ấy. Trong các bài thơ Thiền Lý

– Trần đều chứa đựng thái độ cần có của người tu học trước sắc không của

cuộc đời.

Nguyễn Giác Hải dùng hình ảnh của hoa và bướm để truyền tải ý niệm

về sự hư ảo, giả tướng của sắc:

Xuân lai hoa điệp thiện tri thì

Hoa điệp ưng tu cộng ứng kỳ

Hoa điệp bản lai giai thị huyễn

Mạc tu hoa điệp hướng tâm trì

(Xuân sang hoa và bướm khéo quen với thời tiết

Hoa bướm đều cần phải thích ứng với kì hạn của chúng

Nhưng hoa với bướm vốn dĩ đều hư ảo

Chớ nên bận tâm về hoa với bướm)

(Hoa điệp) [79; 444]

Cảnh hoa và bướm trong tiết xuân sang là sự khởi đầu của sinh trong sự

hoàn tác chuyển dịch về phía diệt. Nhưng tất cả chỉ là phần sắc tướng bên

ngoài, mong manh, hư ảo, con người cần dùng tâm hư rỗng để đối diện giả

72

tướng và mục diện chân như.

Trần Nhân Tông cũng nhận rõ sắc không cùng với sự trải nghiệm cuộc

đời :

Niên thiếu hà tằng liễu sắc không

Nhất xuân tâm tại bách hoa trung

Như kim kham phá đông hoàng diện

Thiền bản bồ đoàn khán trụy hồng

(Thuở trẻ chưa từng hiểu rõ sắc với không

Một khi xuân đến vẫn gửi lòng trong trăm hoa

Ngày nay đã khám phá bộ mặt của chúa xuân

Ngồi trên nệm cỏ giữa tấm phản nhà chùa ngắm cảnh)

(Xuân vãn) [80; 263]

Khi còn trẻ, chỉ chú tâm đến hình hài của sắc tướng của ngoại cảnh mà

gửi lòng trong trăm hoa. Hiểu được lẽ sắc không của đời "khám phá bộ mặt

của chúa xuân", con người an nhiên, tự tại trong tâm thế của Thiền, bình thản

đón nhận sự dời đổi, biến ảo sắc tướng của muôn vật. Tâm thiền không chỉ

thấu vẻ đẹp trong sự sinh "bách hoa trung" mà còn trong sự diệt "khán trụy

hồng". Thái độ an nhiên trước sắc không cũng là tri kiến về chân như, hiểu

thấu lẽ đổi dời của vạn pháp.

Lẽ sắc không của đời trong Thiền học được thể hiện một cách ẩn ý qua

hình ảnh của mùa xuân với muôn sắc của trăm hoa. Triết lí về sắc không đem

đến cho người tu học thẩm nhận bản chất của sự vật, hướng từ cái nhìn ngoại

cảnh vào bên trong tâm cảnh, đạt đến tâm an định và thái độ an lạc trước sắc

không của cuộc đời vô thủy vô chung luôn dời đổi.

Tiểu kết:

Mùa xuân trong thơ Thiền Lý – Trần được biểu đạt với ý nghĩa trực

tiếp và cả ý nghĩa biểu trưng, hàm chứa triết lí của đạo. Cảnh xuân quang

chiếu qua đôi mắt thiền thanh giản, tương giao giữa muôn vật, đồng thời ẩn

73

hiện trong đó tâm cảnh của con người vô ý “đối cảnh vô tâm” nhưng gần với

thế tục, mang tư tưởng “hòa quang đồng trần”, gần đời mà không xa rời lẽ

đạo. Thiên nhiên mùa xuân được gắn với những hình tượng tiêu biểu như hoa

xuân, trời, núi, trăng, gió xuân, âm thanh mùa xuân cùng những giá trị biểu

trưng mang ý vị của Thiền. Triết lí Thiền học ẩn chứa trong những hình ảnh

đa sắc và quy luật tuần hoàn đổi thay của vạn vật. Mùa xuân cùng những đặc

tính riêng thẩm nhận vào thơ Thiền trở thành phương tiện để dẫn dắt người tu

74

học đến được với lẽ chân như, tìm thấy Phật tính trong nội tại.

CHƢƠNG 3

NGHỆ THUẬT THỂ HIỆN MÙA XUÂN TRONG THƠ

THIỀN LÝ – TRẦN

3.1. Nghệ thuật miêu tả mùa xuân trong thơ Thiền Lý – Trần

Trong thơ Thiền Lý – Trần hiện hữu mùa xuân mang ý nghĩa trực tiếp

và mùa xuân biểu trưng cho lẽ đạo. Sự đánh giá này chỉ mang tính chất tương

đối, song lại nhận diện được mùa xuân với sức nặng lý thiền khác nhau trong

vai trò là phương tiện để truyền tải triết lý và là khách thể thẩm mĩ thực sự.

3.1.1. Miêu tả khái quát

Thơ Thiền Lý – Trần có những hình ảnh mùa xuân chủ yếu mang giá trị

của phương tiện thuyết giảng về đạo chứ không nhằm miêu tả như một khách

thể. Những câu thơ về mùa xuân như vậy ẩn chứa sức nặng thiền lý. Mùa

xuân được miêu tả với những hình ảnh quen thuộc, trang nhã như: hoa (mai,

đào, mận,…), gió, trăng, núi,… xuất hiện mang mục đích biểu đạt, chuyên

chở triết lí. Mùa xuân do đó được miêu tả ở dạng khái quát, tức là miêu tả, gợi

dẫn về mùa xuân với cảnh sắc trong quy luật tự nhiên của nó, không phải

dạng cá biệt trong một trạng huống cụ thể.

Cảnh sắc mùa xuân là thiên nhiên nói chung, của quy luật bốn mùa.

Những bức tranh thiên nhiên tươi đẹp cùng nước trắng mênh mông, đào say

trong gió, hữu tình, diễm lệ, lại không đem đến một thức cảm về sự cụ thể. Sự

tươi đẹp của cảnh sắc ẩn chứa triết lí thiền học.

Viên tâm tịch mịch vô nhân quản

Lý bạch đào hồng tự tại hoa

(Rừng vườn vắng vẻ không ai quản

75

Mận trắng đào hồng riêng tự hoa)

Bạch thủy gia phong mê hiểu yếu

Hồng đào tiên uyển túy xuân phong

(Nước trắng mênh mông chim én bạc

Vườn tiên đào thắm gió xuân say)

(Sư đệ vấn đáp) [80; 494]

Những hình ảnh thiên nhiên quen thuộc, trang nhã như: lý bạch, đào

hồng, bạch thủy,… trong một bức tranh xuân hữu tình, muôn hoa khoe sắc,

tràn đầy sức sống nhằm kí thác cho câu trả lời về gia phong của Di Đà và

Thích Ca. Thiên nhiên xuân như vậy là thiên nhiên đã được khái quát từ

những hình ảnh nói chung, biểu thị cho mùa xuân của quy luật tự nhiên.

Muôn vật trong mùa xuân có nét tự nhiên, được trừu xuất những nét

chung, đặc trưng và thể hiện được rõ nét sự vận hành của tạo hóa theo lẽ

thường, cũng như “hoa nở vào tháng ba, gà gáy vào canh năm”.

Sơn vân dã hữu xuất sơn thế

Giản thủy chung vô đầu giản thanh

Tuế tuế hoa tùy tam nguyệt tiếu

Triêu triêu kê hướng ngũ canh minh

(Mây núi đã có cái thế bay ra khỏi núi

Nước suối không tiếng nào không phải là tiếng nước gieo vào

lòng suối

Hàng năm hoa vẫn nở vào tháng ba

Sáng sớm gà vẫn gáy vào canh năm)

(An định thời tiết) [80; 246]

Trần Tung miêu tả bức tranh thiên nhiên một cách khái quát với những

đặc trưng tiêu biểu cho sự vận hành của quy luật tạo hóa. Tất cả sự vật đều

nằm trong thế hiển nhiên, tất yếu: mây bay ra khỏi núi, tiếng nước gieo vào

lòng suối… Từ việc miêu tả khái quát các hiện tượng thiên nhiên biểu thị cho

76

đổi dời tất nhiên của tạo hóa.

Thiền sư Mãn Giác nhìn thấy một mùa xuân trường tồn bất biến của

đạo bên mùa xuân vạn biến của đời.

Xuân khứ bách hoa lạc

Xuân đáo bách hoa khai

Sự trục nhãn tiền quá

Lão tòng đầu thượng lai

Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận

Đình tiền tạc dạ nhất chi mai

(Xuân đi trăm hoa rụng

Xuân đến trăm hoa lại nở

Việc đời theo nhau ruổi qua trước mắt

Tuổi già hiện đến từ trên mái đầu

Đừng cho rằng xuân tàn thì hoa rụng hết

Đêm qua một nhành mai đã nở trước sân)

(Cáo tật thị chúng) [79; 299]

Mùa xuân ở đây được miêu tả từ khái quát cho đến cụ thể. Mùa xuân

trước hết là mùa xuân của tạo hóa với sự nở tàn của hoa trong một chu trình

sinh diệt tất yếu. Trong đó, con người không tránh khỏi quy luật sinh tử cùng

thời gian. Sự biến chuyển vô thường chi phối vạn vật từ thiên nhiên đến con

người. Nhưng bên mùa xuân của tự nhiên ấy còn là mùa xuân bất diệt cụ thể

của con người mang tâm thiền đạt đạo, khẳng định lẽ chân như trường tồn.

Mùa xuân được miêu tả từ khái quát đến cụ thể, từ tất yếu đến khác biệt.

Ngoài ra, sự đối lập mùa xuân của vô thường và mùa xuân của hằng thường,

tạo nên ấn tượng khẳng định sự vĩnh hằng mùa xuân của đạo, bản thể chân

như.

Quá trình lĩnh hội bức tranh mùa xuân chứa đựng thiền ý là quá trình

“giải mã” các hình tượng tự nhiên được thiền gia sử dụng. Mùa xuân với sự

77

biến đổi của ngoại cảnh chỉ là vỏ bên ngoài bao chứa nội dung triết lí bên

trong. Triết lí thiền luôn được chú tâm nhiều hơn trong các hình ảnh xuân.

Những lẽ tất nhiên của tạo vật là mã khóa để lí giải cho các vấn đề sinh tử, vô

thường, sắc tướng, những khái niệm cơ bản của Thiền học.

Như vậy, có thể nói, mùa xuân mang ý nghĩa biểu trưng giáo lí trong

thơ Thiền Lý – Trần thường được miêu tả khái quát với những đặc trưng

chung có tính chất quy luật. Hiện hữu những hình ảnh xuân quen thuộc, trang

nhã trong thơ như: hoa, gió, trăng,… song là mùa xuân nói chung, không phải

là mùa xuân của trạng huống cụ thể. Giá trị biểu đạt nằm ở triết lí giáo huấn

được thể hiện một cách sinh động qua những hình ảnh xuân.

3.1.2. Miêu tả chấm phá

Trong thơ Thiền Lý – Trần không chỉ có mùa xuân với ý nghĩa chuyên

chở giáo lý mà còn có những bức tranh mùa xuân với ý nghĩa trực tiếp, được

miêu tả với tư cách là khách thể thẩm mĩ. Thi nhân – thiền sư hòa nhập vào

thiên nhiên xuân để thấu cảm và gửi gắm, kí thác về lẽ đời, nhưng thấm đẫm

ý vị của đạo.

Miêu tả chấm phá là một thủ pháp miêu tả quen thuộc trong văn học

trung đại, tạo nên những nét đẹp sơ giản kết đọng được hết vẻ đẹp và tạo nên

khoảng trống trong thơ. Với mùa xuân được miêu tả trong thơ Thiền Lý -

Trần, bút pháp chấm phá tạo nên được những nét đẹp xuân mang Thiền ý giản

dị mà sâu sắc. Nét đẹp của mùa xuân thu về trong một vài đường nét sơ giản

nhưng hội tụ đủ hồn xuân, tất cả kết đọng trong một, từ một mà thấy được tất

cả. Phương cách miêu tả này cho thấy thẩm mĩ về khoảng trống, thiếu khuyết

của mĩ học phương Đông, cũng như sự “vô ngôn” trong Thiền tông.

Thiên nhiên mùa xuân được miêu tả chấm phá với những đường nét sơ

giản, tạo nên những bức tranh bình đạm, thấm đẫm ý vị thiền. Thiền gia

thường mang tư tưởng “đối cảnh vô tâm”, từ bỏ mọi vọng niệm, hòa nhập cao

độ trong cảnh sắc mùa xuân – hòa bản thể vào vũ trụ không cùng. Mùa xuân

78

hiện lên với sự tĩnh lặng, đơn sơ, trong trẻo và hiển lộ vẻ thâm trầm của đạo.

Mùa xuân được hiện hữu đôi khi chỉ qua những nét chấm phá sơ lược,

như hình ảnh đôi bướm trong bài thơ Xuân hiểu của Trần Nhân Tông, hay

hình ảnh của người con gái đẹp ngồi thêu gấm dưới bụi tử kinh đang nở trong

Xuân nhật tức sự của Huyền Quang thiền sư. Chỉ với vài nét chấm phá trong

cảnh, nhưng làm phát lộ ý vị trong trẻo, sáng tươi của khung cảnh mùa xuân.

Thụy khởi khải song phi

Bất tri xuân dĩ quy

Nhất song bạch hồ điệp

Phách phách sấn hoa phi

(Ngủ dậy mở cánh cửa sổ

Không ngờ mùa xuân đã về

Một đôi bướm trắng

Phần phật cánh, bay đến với hoa)

(Xuân hiểu) [80; 453]

Qua đôi mắt thiền Trần Nhân Tông, cả một mùa xuân đầy sức sống

được ẩn hiện qua hình ảnh của đôi bướm trắng quyến luyến đang bay đến với

hoa. Cảnh vật đơn giản, chứa đựng trong đó ý vị sâu sắc về sự giao hòa của

muôn vật trong cảnh đất trời sang xuân. Hiện hữu trong đó ánh nhìn thiền hòa

mình vào thiên nhiên, cảm thấu sự quyện hòa của muôn vật với tinh thần “hòa

quang đồng trần”.

Thiền sư Huyền Quang lại phác họa bức tranh xuân với cảnh xuân, tình

xuân chỉ với hình ảnh của người con gái thêu gấm:

Nhị bát giai nhân thích tú trì

Tử kinh hoa hạ chuyển hoàng ly

Khả liên vô hạn thương xuân ý

Tận tại đình châm bất ngữ thì

(Người đẹp tuổi vừa đôi tám, ngồi thêu gấm chậm rãi

79

Dưới lùm hoa tử kinh đang nở, líu lo tiếng chim oanh vàng

Thương biết bao nhiêu cái ý thương xuân của nàng

Cùng dồn lại ở một giây phút, dừng kim và im phắc)

(Xuân nhật tức sự) [80; 681]

Bút pháp chấm phá, điểm nhãn đem lại hiệu quả trong miêu tả bức

tranh thiên nhiên xuân sơ giản nhưng giàu ý vị. Cả sắc xuân tình tứ được thu

về trong hình ảnh của người con gái trẻ ngồi thêu gấm giữa tiếng hót của chim

và lùm hoa đang nở rộ. Tất cả đều đang trong trạng thái của sự trưởng sinh,

hân hoan, rộn rã. Nhưng nét đặc sắc của bức tranh xuân này là khoảnh khắc

dừng kim của người con gái cùng ý thương xuân. Một khoảnh khắc nhưng

dồn tụ cả ý xuân, tình xuân của người con gái và của thiền gia, giao hòa, kết

đọng. Đó là khoảnh khắc của sự bừng ngộ về lẽ vô thường biến dịch của mùa

xuân, tuổi trẻ trong sự trường tồn của vũ trụ.

Không gian mùa xuân là không gian khoáng đạt, cao vợi, bởi ánh nhìn

thiền gia hướng về miêu tả mùa xuân từ gần đến xa, từ thấp đến cao. Không

gian do đó có xu hướng mở rộng về chiều kích, hòa biến trong vũ trụ mênh

mông. Chẳng hạn bài thơ Xuân cảnh:

Dương liễu hoa thâm điểu ngữ trì

Họa đường thiềm ảnh mộ vân phi

Khách lai bất vấn nhân gian sự

Cộng ỷ lan can khán thúy vi

(Trong khóm hoa dương liễu rậm, chim hót chậm rãi

Dưới bóng thềm ngôi nhà chạm vẽ, mây chiều lướt bay

Khách đến chơi không hỏi việc đời

Cùng đứng tựa lan can ngắm màu xanh mờ mịt ở chân trời

[80; 460]

Khung cảnh mùa xuân được miêu tả với vài đường nét từ khóm hoa,

ngôi nhà, mây chiều. Không gian sơ giản, thanh tĩnh, được rộng mở về chiều

80

kích. Ánh nhìn hướng từ gần đến xa lắng nghe tiếng chim trong khóm hoa

dương liễu rậm, hướng lên bầu trời với mây chiều lướt bay in bóng trên thềm

nhà, cuối cùng dừng lại trong màu xanh thẳm ở chân trời. Cả một vũ trụ bao

la tan hòa trong ánh mắt thiền gia. Thi nhân "đối cảnh vô tâm", trong trạng

thái vô ngôn nhiều ý vị thâm áo của thiền, nhập bản thể vào vũ trụ không

cùng. Khung cảnh thiên nhiên mùa xuân bởi thế với vài đường nét, sự tĩnh

lặng nhưng có cái cao rộng không cùng, kết đọng cùng sự trường tồn của vũ

trụ.

Bài thơ Tảo mai 2 cũng miêu tả mùa xuân với bút pháp chấm phá một

cách tinh tế:

Ngũ nhật kim hàn lãn xuất môn

Đông phong tiên dĩ đáo cô côn

Ảnh hoành thủy diện băng sơ bạn

Hoa áp chi đầu noãn vị phân

Thúy vũ ca trầm sơn điếm nguyệt

Họa long xuy thấp Ngọc quan vân

Nhất chi mê nhập cố nhân mộng

Giác hậu bất kham trì tặng quân

(Chỉ có năm ngày sợ rét lười ra khỏi cửa

Mà gió xuân đã sớm đến với gốc cây cô đơn

Bóng ngả trên mặt nước, băng giá bắt đầu tan

Hoa trĩu nặng đầu cành, hơi ấm chưa định rõ

Giọng ca Thúy vũ lắng chìm mặt trăng xóm núi

Tiếng sáo Họa long ẩm ướt đám mây Ngọc quan

Một cành hoa lạc vào giấc mộng cố nhân

Tỉnh dậy không thể đem tặng anh được

[80; 470]

Cảnh vật được hiện hữu từ một nét phác của cành cây đơn sơ ngả bên

81

mặt nước còn đóng băng. Nhưng dưới đôi mắt thiền gia tinh tế, mùa xuân ẩn

hiện trong sự tương giao của cảnh vật với bông hoa trĩu nặng cùng hơi ấm gió

xuân. Thiên nhiên cũng được miêu tả theo xu hướng mở rộng không gian từ

gần đến xa. Thiền gia nhận ra sự hiển lộ của xuân từ cành cây đơn sơ, hướng

đến mặt trăng xóm núi, mây ải ngọc quan, mở rộng không gian cao rộng.

Không gian khoáng đạt chìm trong sự tĩnh lặng của tâm thiền, vừa hư vừa

thực.

Với thủ pháp chấm phá, thiền gia đã họa nên bức tranh xuân với đường

nét sơ giản nhưng giàu ý vị, thể hiện được thần thái của sắc xuân, ý xuân, tình

xuân. Kết tụ trong một vài đường nét hiển lộ một cách tập trung cao độ ý vị

xuân. Miêu tả cảnh vật theo xu hướng mở rộng chiều kích từ gần đến xa tạo

dựng một không gian khoáng đạt, tĩnh lặng, hiện hữu hình ảnh thiền gia hòa

tâm trong vũ trụ vĩnh hằng.

Như vậy, nghệ thuật miêu tả mùa xuân trong thơ thiền Lý – Trần có thể

khái quát thành hai dạng thức chính. Thiền gia miêu tả một cách khái quát, sơ

lược mùa xuân với những đặc tính chung mang tính quy luật trong thơ miêu tả

mùa xuân nặng về chuyên chở Thiền lý. Những triết lí thiền chứa đựng được

thể hiện một cách sinh động qua các hình ảnh xuân. Ngoài ra còn có bút pháp

miêu tả chấm phá đối với thơ miêu tả mùa xuân như một đối tượng thẩm mĩ.

Với bút pháp này, mùa xuân thể hiện cảnh sắc tự nhiên, chan hòa ý vị thiền.

Cảnh xuân sơ giản, tĩnh lặng trong tâm, khoáng đạt trong không gian, hiển lộ

rõ nét ý vị chan hòa của Thiền lý.

3.2. Nghệ thuật tƣợng trƣng về mùa xuân trong thơ Thiền Lý – Trần

Trong quan niệm về sự giới hạn của ngôn từ đối với việc thể hiện

những ý niệm sâu xa không cùng, thi ca phương Đông mang đặc trưng về sự

kiệm lời, tập trung vào sức gợi lớn của ngôn ngữ hơn biểu ý: “thư bất tận

ngôn, ngôn bất tận ý” (Kinh dịch), “ngôn vô ngôn” (Đạo đức kinh), “thính hồ

vô thanh” (Nam hoa kinh). Chủ trương về sự cô đúc trong từ ngữ, lời ít ý

82

nhiều trở thành truyền thống trong văn học. Mặt khác, tinh thần biện chứng

của triết học chủ yếu là sự biến dịch ảo diệu, tìm được vẹn toàn trong cái bất

toàn: “khúc tắc toàn, uổng tắc trực…” (cái gì khuyết sẽ tròn, cong sẽ thẳng…)

của Đạo đức kinh. Bởi thế, thức cảm nói chung là tìm thấy sự vẹn toàn trong

cái bất toàn, trong sự khuyết thiếu. Có thể thấy được xu hướng tạo khoảng

trống trong ngôn từ trong thể thơ haiku vốn được xem là “thơ một góc”, hay

“ý tại ngôn ngoại” trong thơ Đường. Khoảng trống của ngôn từ tạo nên sức

gợi lớn, tạo trường liên tưởng, suy nghiệm cho người thưởng thức.

Ngôn ngữ Thiền mang tính hàm súc cao độ, thể hiện đặc trưng rõ nét

của văn học trung đại phương Đông. Ngôn ngữ trở nên giới hạn trước những

chân lí vô cùng, biến hóa ảo diệu, nhất là những biến chuyển không cùng của

vạn pháp, thường mà biến, hư mà thực. Cố công để theo đuổi cũng có nghĩa

không bao giờ thể hiện được chân lý trọn vẹn. Vì ngôn ngữ là hữu hạn với

những ý biểu là vô hạn nên ngôn ngữ Thiền học là “ngôn ngữ đạo đoạn” (cắt

đứt con đường của ngôn ngữ). Thiền sư Viên Chiếu khi trả lời về ngôn ngữ

đạo đoạn đã đề cập đến hình ảnh tiếng sừng theo gió và vầng trăng vượt núi:

“Giốc hưởng tùy phong xuyên trúc đáo/ Sơn nham đáo nguyệt quá tường lai”

(Tiếng sừng theo gió xuyên rặng trúc/ Vầng trăng vượt núi đến bên tường)

(Tham đồ hiển quyết). Ngôn ngữ cũng như gió, núi là phương tiện để khai mở

chân lý thiền. Ngôn ngữ ấy chỉ là phương tiện như chiếc bè đưa người qua

sông – phương tiện để khai mở chân lí Thiền, không phải là thành quả cuối

cùng. Để đạt được ý muốn truyền tải Thiền lý, vốn bị chi phối bởi “trực chỉ

nhân tâm”, “dĩ tâm truyền tâm” – lối truyền đạt không phụ thuộc vào ngôn

ngữ, ngôn ngữ cần đạt được yêu cầu về sự hàm súc, có sức gợi lớn đối với

người tu học. Ngôn ngữ trong thơ Thiền do đó, đạt đến tột cùng của tính hàm

súc và cô đúc. Tính hàm súc này không chỉ là lời ít ý nhiều mà còn gắn với

khả năng liên tưởng. Người tu học có thể thâu nhận được giá trị biểu ý trong

lời nhờ cơ chế liên tưởng, nhưng đôi khi giá trị biểu ý từ sự hàm súc của ngôn

83

ngữ lại là nền tảng để thấu suốt một vấn đề khác không liên quan đến sự việc

được thể hiện trong lời. Liên tưởng từ sự hàm súc của thơ Thiền là sự liên

tưởng phi logic. Ngôn ngữ như vậy bổ khuyết cho sự bất toàn của ngôn ngữ

trong phản ánh những giới hạn và biến hóa không cùng của đạo thiền, gợi mở

và khai thông tâm trí hành giả.

Thơ Thiền do yêu cầu truyền đạt và kiến giải đạo pháp, cần ngôn ngữ

có sức gợi và khai mở vô tận đối với người tu học. Do đó, Thiền thơ sử dụng

nhiều các biện pháp tu từ như ẩn dụ, tượng trưng để đạt được giá trị biểu cảm

và sức ám gợi cao. Đây là các biện pháp tu từ trong văn học trung đại song

được thể hiện trong thơ Thiền với những nét khu biệt.

Tượng trưng hiểu theo nghĩa hẹp là “là một dạng chuyển nghĩa (cùng

loại với phúng dụ). Sự tiếp hợp của hai bình diện - nội dung “vật thể” của

hình tượng và nghĩa bóng của nó – có thể hoặc là hiển nhiên (khi hai bình

diện đều có mặt trong văn bản) khi đó sẽ có một đối sánh tượng trưng; hoặc là

ẩn kín, khi đó sự ám chỉ sẽ nằm ở mạch ngầm văn bản và toàn bộ tác phẩm sẽ

mang ý nghĩa tượng trưng” [19; 1910]. Tượng trưng là một thủ pháp quen

thuộc trong văn học trung đại, diễn đạt cái trừu tượng bằng hình ảnh cụ thể,

gần gũi. Thơ Thiền sử dụng tượng trưng như một thủ pháp quan trọng trong

truyền tải triết lí. Thơ Thiền chú trọng tính trực giác, thể hiện ngộ giải về

Thiền lý thông qua những hình ảnh bất ngờ nắm bắt được. Đó là mặt vật chất

được kí gửi bằng ngôn ngữ, tượng trưng cho những triết lý Thiền. Một “cái

được tượng trưng” (tức là triết lí Thiền) được thể hiện bằng nhiều “cái tượng

trưng” (hình ảnh được thể hiện bằng ngôn ngữ). Tượng trưng trong thơ Thiền

phần lớn mang tính đơn lẻ, loại biệt nên khó khăn trong việc giải mã.

Không chỉ chú ý đến “cái được tượng trưng”, thơ Thiền còn trau chuốt

đến “cái tượng trưng”. Thơ Thiền dùng thiên nhiên như một yếu tố quan trọng

trong mã khóa các triết lí về nhân thế và lẽ đạo. Thiên nhiên có thể bị xem

nhẹ và là phương tiện chính yếu trong truyền tải thiền, nhưng đôi khi lại được

84

chú trọng trong kí thác tư tưởng và tình cảm của thi sĩ – thiền sư. Thiên nhiên

mùa xuân cũng không nằm ngoài quy luật đó. Mùa xuân được dùng như một

phương tiện cho truyền tải những triết lí; hay được xem như một khách thể

thẩm mĩ, ẩn tàng tâm tư con người và thấm đẫm ý vị thiền.

Những triết lí Thiền được truyền tải thông qua những hình ảnh sinh

động của thiên nhiên mùa xuân. Sự giác ngộ triết lí được phát biểu thông qua

miêu tả thiên nhiên mùa xuân (với những tính chất tượng trưng tương ứng).

Mùa xuân với sự đổi thay và biến chuyển của vạn vật được khái quát biểu thị

cho đạo lí tạo hóa, nhân sinh. Các triết lí được biểu đạt đều là những hình ảnh

được sử dụng riêng lẻ. Các hình ảnh được tượng trưng là những hình ảnh

quen thuộc của thiên nhiên, có thể mang tính ước lệ, được biểu đạt bằng từ

ngữ thanh nhã, trang trọng: mây, núi, trăng, hoa,… Dựa vào phương thức

tượng trưng có thể nhận diện một cách tổng hợp sự tương ứng giữa "cái tượng

trưng" và "cái được tượng trưng".

3.2.1. Tượng trưng của mùa xuân vận hành theo quy luật

Các hình ảnh thiên nhiên được hiện diện cho thấy sự vận hành của

thời gian. Trong thơ Thiền mùa xuân, sự vận hành ấy thể hiện qua cặp

chuyển vần xuân – thu, hoặc bước chuyển của cảnh vật trong thiên nhiên

mùa xuân. Mùa xuân theo quy luật được dùng để truyền tải thiền lí với

những nội dung tương ứng.

Các giáo lí của Thiền đều được ẩn tàng thông qua các hình ảnh về thiên

nhiên với quy luật tự nhiên của nó. Trong các câu trả lời đệ tử, thiền sư sử

dụng hình ảnh tự nhiên mùa xuân như một sự lí giải tất yếu cho lẽ đạo, thức

ngộ ở người tu học triết lí thiền. Trả lời về sự khác nhau giữa Phật và Thánh,

Viên Chiếu thiền sư không dùng lời lẽ trực tiếp mà dùng hình ảnh thiên nhiên

trong tiết xuân thu. Sự khác nhau trong biểu hiện nhưng giống nhau trong bản

chất của Phật và Thánh được thể hiện thông qua hình ảnh hoa cúc trong tiết

85

trùng dương, oanh vàng trong tiết xuân:

Ly hạ trùng dương cúc

Chi đầu thục khí oanh

(Trùng dương đến cúc vàng dưới dậu

Xuân ấm về oanh náu đầu cành)

(Tham đồ hiển quyết) [79; 274]

Các giáo lí thâm áo của Thiền tông được hiện hữu một cách sinh động

qua những bức tranh thiên nhiên mùa xuân. Như câu trả lời về gia phong của

Phật quá khứ và hiện tại:

Viên tâm tịch mịch vô nhân quản

Lý bạch đào hồng tự tại hoa

(Rừng vườn vắng vẻ không ai quản

Bạch thủy gia phong mê hiểu yếu

Mận trắng đào hồng riêng tự hoa)

Hồng đào tiên uyển túy xuân phong

(Nước trắng mênh mông chim én bạc

Vườn tiên đào thắm gió xuân say)

(Sư đệ vấn đáp) [tập 2; 494]

Hoặc trả lời cho câu hỏi về nhất pháp, kiến tính thành Phật:

Bất kiến xuân sinh kiêm hạ trưởng

Hựu phùng thu thục cập đông tàng

(Xuân sinh hè trưởng biết đâu

Khô mộc phùng xuân hoa cạnh phát

Chỉ hay thu chín đông mau nhặt về?)

Phong xuy thiên lí phức thần hương

(Hoa rợp cành khô lúc tiết xuân

Gió đưa nghìn dặm nức hương thần)

86

(Tham đồ hiển quyết) [tập 1; 274]

Trả lời cho câu hỏi thế nào là xuất thế, bản ý:

Xuân chức hoa như cẩm

Thu lai diệp tự hoàng

(Xuân dệt muôn hoa như gấm thêu

Thu sang ngàn lá tựa vàng gieo)

(Tham đồ hiển quyết) [tập 1; 280]

Như vậy, các giáo lí của Phật được thuyết giảng thông qua những hình

ảnh tự nhiên sinh động. Những bức tranh thiên nhiên mùa xuân không phải là

điều chính yếu. Đó chỉ là việc mượn các yếu tố thiên nhiên, những yếu tố có

sự tương đồng với con người, hòa đồng thiên nhiên và con người để lí giải

cho những khái niệm trừu tượng và khó luận giải bằng suy biện lí tính của

Thiền học.

Không chỉ những quan niệm Thiền học đơn lẻ được lí giải thông qua

hình tượng thiên nhiên với quy luật nguyên sơ của nó, mà cả những tư tưởng,

triết lí cũng được đúc rút và ẩn tàng sau những hình ảnh thiên nhiên xuân.

Chẳng hạn, triết lí về tư tưởng vô phân biệt của Thiền:

Khiết thảo dữ khiết nhục

Chủng sinh các sở thực

Xuân lai bách thảo sinh

Hà xứ kiến tội phúc?

(Ăn thịt và ăn cỏ,

Chúng sinh loài nào có thói quen của loài đó

Như mùa xuân đến, trăm hoa cỏ sinh sôi

Có chỗ nào nhìn thấy tội hay phúc đâu?)

( Trì giới kiêm nhẫn nhục) [80; 290]

Tư tưởng vô phân biệt của Thiền là “cái được tượng trưng” thông qua

87

“cái tượng trưng” là hình ảnh về mùa xuân với sự sinh sôi nảy nở của vạn vật.

Triết lí sắc không không chỉ được thể hiện một cách trực tiếp thông qua

những lời lẽ suy biện như Sắc không của Lê Thị Ỷ Lan mà ẩn tàng dưới sự

quyến luyến của hoa và bướm trong thơ Nguyễn Giác Hải hay con người an

nhiên trước cảnh xuân tàn của Trần Nhân Tông:

Hoa điệp bản lai giai thị huyễn

Mạc tu hoa điệp hướng tâm trì

(Nhưng hoa với bướm vốn dĩ đều là hư ảo

Chớ nên bận tâm về hoa với bướm

(Hoa điệp) [79; 444]

Niên thiếu hà tằng liễu sắc không

Nhất xuân tâm tại bách hoa trung

Như kim kham phá đông hoàng diện

Thiền bản bồ đoàn khán trụy hồng

(Thuở trẻ chưa từng hiểu rõ sắc với không

Mỗi khi xuân đến vẫn gửi lòng trong trăm hoa

Ngày nay đã khám phá được bộ mặt chúa xuân

Ngồi trên nệm cỏ giữa tấm phản nhà chùa ngắm cánh hoa

rụng)

(Xuân vãn)[80; 463]

Mùa xuân đến với trăm hoa đua nở, mùa thu với lá chuyển vàng, sự

biến chuyển từ sinh đến diệt hiện hữu rõ ràng. Thiền sư thẩm nhận ở đó quy

luật của thiên nhiên cho đến thức nhận về quy luật vô thường luôn biến

chuyển. Vạn Hạnh thiền sư đã khái quát về sự hữu hạn của đời người từ thiên

nhiên xuân thu:

Thân như điện ảnh hữu hoàn vô

Vạn mộc xuân vinh thu hựu khô

(Người đời như chớp bóng có rồi không

Như cây cối, mùa xuân tốt tươi, mùa thu khô héo)

88

(Thị đệ tử) [79; 218]

Đời người chỉ như một ánh chớp giữa vô cùng và vĩnh hằng của vũ trụ,

cũng như sự đổi thay của cây cối qua xuân thu. Từ sự khái quát quy luật của

tự nhiên để đưa đến thái độ sống "vô úy" trước lẽ thịnh suy đã trở thành quy

luật.

Như vậy, có thể thấy các khái niệm riêng biệt, hay các tư tưởng triết lí

của Thiền không chỉ được thể hiện dưới dạng trực tiếp mà chủ yếu được

thông qua khái quát các quy luật của tự nhiên. Do đó những khái niệm trừu

tượng của Thiền tông được lí giải với các hình ảnh sinh động, thức nhận trực

giác của người học đạo.

3.2.2. Tượng trưng của mùa xuân mang tính phủ đi ̣nh Mùa xuân trong thơ Thiền không chỉ là những hình ảnh thiên nhiên

tuần hoàn sinh diệt theo quy luật vũ trụ. Trong đó còn hiện hữu những hình

ảnh thiên nhiên tồn tại ngoài quy luật, hoặc các hình ảnh thiên nhiên được

diễn đạt theo lối nghịch ngôn, phi logic nhằm đưa đến những giác ngộ đột phá

về lẽ chân như. Với tượng trưng, ý nghĩa “là cái không thể giải mã chỉ bằng

nỗ lực lí trí, nó đòi hỏi sự thâm nhập” [19; 1909]. Trong Thiền học, sự thâm

nhập của người tu học là điều cần thiết cho sự khai mở chân tâm. Những ý

nghĩa tượng trưng của mùa xuân nằm ngoài quy luật tạo hóa thúc đẩy sự giác

ngộ mạnh mẽ trong việc truy nguyên, thấu đạt lẽ đạo.

Với hình ảnh thiên nhiên theo quy luật nhưng cùng lối diễn đạt mang

tính phủ định, thiền sư đưa đến những thức nhận mới, buộc người tu học phải

chứng ngộ về bản tính bên trong, không phải là sắc tướng đổi thay bên ngoài:

Xuân lai xuân khứ nghi xuân tận

Hoa lạc hoa khai chỉ thị xuân

(Xuân qua lại ngỡ xuân tàn

Hoa dù rụng nở vẫn hoàn tiết xuân)

89

(Đáp đệ tử diệu đạo chi vấn) [79; 302]

Hồng đào thụ thượng châu thời tiết

Hoàng cúc ly biên bất thị xuân

(Trên cây đào thắm đúng kì

Cúc vàng bên dậu chắc gì đã xuân)

( Đối cơ) [80; 315]

Thúy trúc, hoàng hoa phi ngoại cảnh

Bạch vân, minh nguyệt lộ toàn chân

(Trúc biếc, hoa vàng chẳng phải là cảnh bên ngoài

Mây trắng, trăng trong lộ rõ cái chân toàn vẹn)

(Nhật nguyệt) [79; 239]

Những lối diễn dạt mang tính phủ định như vậy dồn ép người học đạo,

truy nguyên đến nguồn gốc để bừng ngộ về triết lí thâm áo của Thiền.

Mãn Giác thiền sư tìm thấy một mùa xuân bên ngoài quy luật của xuân

tạo hóa, kết đọng trong hình ảnh cành mai trong buổi xuân tàn:

Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận

Đình tiền tạc dạ nhất chi mai

(Đừng cho rằng xuân tàn thì hoa rụng hết

Đêm qua một nhành mai đã nở trước sân

(Cáo tật thị chúng) [79; 299]

Trong cái vạn biến của tạo hóa từ đến và đi của xuân, nở và tàn của

hoa, tồn tại cái bất biến, vượt lên sự vô thường của bản thể. Cành mai nở

trong tiết xuân tàn tượng trưng cho bản thể chân như, con người đạt đạo thấu

suốt sự biến dịch của lẽ đời.

Những thông điệp, triết lí của Thiền thể hiện một cách sâu sắc, tạo

được ấn tượng mạnh thông qua những hiện tượng thiên nhiên khác thường

nằm ngoài quy luật. Đó là tinh thần “Dĩ nghịch vi thuận” , ung dung tự tại

90

trước những đổi dời.

Tóm lại, với thủ pháp tượng trưng, các triết lí thiền đã được thể hiện

một cách sinh động giàu hình ảnh, cụ thể. Tượng trưng tạo nên mối liên hệ

giữa hình ảnh thiên nhiên tương ứng với triết lí Thiền học, song cũng tạo nên

một khoảng trống, truy bức người tu học nghiệm suy, thức nhận về lẽ tất

nhiên từ cái bất thường. Thiên nhiên theo quy luật hay trái với quy luật được

dùng biểu đạt những luận lí khác nhau của Thiền dưới dạng đơn lẻ, đòi hỏi sự

thâm nhập sâu sắc của người tu học trong khai mở Thiền ý.

3.3. Nghệ thuật ẩn dụ về mùa xuân trong thơ Thiền Lý – Trần

Ẩn dụ là một biện pháp tu từ quen thuộc trong văn học nói chung. Biện

pháp tu từ này nhấn mạnh đến việc “chuyển đặc tính của đối tượng (sự vật

hiện tượng này sang cho đối tượng khác, theo nguyên tắc có sự tương đồng

hoặc tương phản về một mặt nào đó giữa chúng” [19; 70]. Trong thơ ca

phương Đông, ẩn dụ được sử dụng phổ biến, và thâu nhận trở thành thi liệu

văn chương. Đối với thẩm mĩ Á Đông đòi hỏi sự hàm súc, lời hết ý nhiều

trong ngôn ngữ, ẩn dụ chứa đựng và mở ra khả năng liên tưởng vô hạn.

Trong thơ Thiền, ẩn dụ cũng là một biện pháp tu từ được thiền gia sử

dụng đa dạng và linh hoạt, đem lại hiệu quả cao trong việc khơi gợi cho người

đọc. Ẩn dụ trong thơ Thiền mang những nét đặc sắc riêng, gắn với nội dung

Thiền học. Biện pháp này tu sức cho việc thể hiện tính chất ám dụ nhiều tầng

bậc của thơ Thiền. Người tu học phải thực hiện giác ngộ thông qua nỗ lực

thâm nhập kiến giải các triết lí ẩn tàng trong những ẩn dụ ngôn từ đó.

Trong Thiền, bừng ngộ là một hành động tức thời, được thể hiện dưới

những hình ảnh thiên nhiên mà thiền sư nắm bắt được trong khoảnh khắc ngộ

đạo. Mỗi thiền gia nhận thấy ở những hình ảnh của thiên nhiên những đạo lí

khác nhau. Do đó, ẩn dụ mang tính hiện tượng, chỉ mang giá trị trong một vài

trạng huống nhất định.

Hình ảnh mùa xuân trong thơ Thiền Lý – Trần được dùng để ẩn dụ cho

91

nhiều triết lí Thiền. Đôi khi, một triết lí được biểu trưng bằng nhiều ẩn dụ

khác nhau. Do ẩn dụ thơ Thiền có tính chất đơn lẻ, chúng tôi tạm phân chia

tìm hiểu theo phạm vi triết lí được ẩn dụ thể hiện.

3.3.1. Ẩn dụ cho “bản thể chân như”

Vạn pháp luôn biến chuyển, hiện hữu với muôn hình vạn trạng, song

chỉ là biểu hiện khác nhau của bản thể duy nhất. Trong các bài thuyết giảng

về Thiền học, bản thể chân như được bàn đến với sự bất diệt, trường tồn, khác

với biến dịch của vạn pháp. Người tu học trong con đường ngộ đạo đều cố

gắng kiến giải minh triết về bản thể chân như bất diệt. Bản thể chân như được

thể hiện bằng nhiều hình ảnh ẩn dụ khác nhau, nhất là hình ảnh của thiên

nhiên mùa xuân.

Mùa xuân bất diệt qua hình ảnh hoa mai là bản thể chân như của vạn pháp:

Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận

Đình tiền tạc dạ nhất chi mai

(Đừng cho rằng xuân tàn thì hoa rụng hết

Đêm qua một nhành mai đã nở trước sân)

(Cáo tật thị chúng) [79; 299]

Cành mai trong buổi xuân tàn là hình ảnh ẩn dụ có giá trị biểu trưng

cao độ cho sự trường tồn bất diệt của chân như. Cành mai trong hoàn cảnh cụ

thể này ẩn dụ bản tính chân như đã ngộ đạo của thiền gia.

Giọt sương trong buổi sớm trong Thị đệ tử lại có giá trị biểu trưng cho

tinh thần “vô úy” của đạo:

Thịnh suy như lộ thảo đầu phô

(Vì sự thịnh suy (cũng mong manh) như giọt sương đầu ngọn cỏ)

(Thị đệ tử) [79; 218]

Với thủ pháp ẩn dụ, so sánh thiền sư thu về trong giọt sương sớm nơi

đầu ngọn cỏ (lộ thảo đầu phô) một tư tưởng. Trong giọt sương nhỏ bé mong

manh hàm chứa cả vũ trụ vĩnh hằng, bởi ẩn tàng tinh thần vô úy của con

92

người lĩnh hội được lẽ tất yếu của vạn vật.

Thiền tông quan niệm mọi vật đều là biểu hiện khác nhau của cùng một

bản thể duy nhất. Các hình thức khác nhau chỉ là hiện hữu bên ngoài với

những sắc thái riêng biệt, cần tìm bản thể chân như trong những biểu hiện bề

ngoài đó, không cần truy ở đâu xa:

Thúy trúc, hoàng hoa phi ngoại cảnh

Bạch vân, minh nguyệt lộ toàn chân

(Trúc biếc, hoa vàng chẳng phải là cảnh bên ngoài

Mây trắng, trăng trong lộ rõ cái chân toàn vẹn)

(Nhật nguyệt) [79; 239]

“Thúy trúc, hoàng hoa” là biểu tượng cho hiện tượng sắc tướng của

chân như. Người tu học cần nhận chân và thấu đạt bản thể ngay từ hiện tượng

đơn lẻ biến hình muôn trạng của vạn pháp.

“Hoa điệp” trong Tham đồ hiển quyết cũng ẩn dụ cho các sắc tướng

khác nhau của bản thể:

Xuân hoa dữ hồ điệp

Cơ luyến cơ tương vi

(Hãy xem bướm giỡn hoa xuân

Mấy phần quyến luyến, mấy phần lìa xa)

Hình ảnh ẩn dụ “hoa điệp” được dùng trong đối đáp câu nói của tăng về

ngọc Mani (Mani cùng mọi sắc màu/ Khác nhau không khác gần nhau chẳng

gần). Tương ứng với ngọc mani vốn tượng trưng cho bản tâm trong sáng của

con người, sự quyến luyến rời xa của hoa điệp cũng chỉ là những biểu hiện

khác nhau cho cùng một bản thể duy nhất.

Như thế, một ý niệm về biểu hiện vô cùng của bản thể được thể hiện

bằng ẩn dụ qua những hình ảnh khác nhau của mùa xuân. Những cách biểu

hiện như vậy cho thấy sự phong phú, đa dạng và sinh động của triết lí Thiền.

Với những hình ảnh thiên nhiên xuân, triết lí Thiền vốn trừu tượng được ẩn

93

dụ biểu hiện bằng sự hình dung mới, đem lại sự sắc bén và sáng rõ. Bản chất

đa nghĩa của ẩn dụ tạo nên tính ngụ ý và những hình dung mới cho triết lí

Thiền học, tạo nên trường liên tưởng ở hành giả.

Cùng một ý niệm về các hiện tượng của bản thể, Nguyễn Giác Hải lại

nhấn mạnh đến việc bỏ qua sắc tướng để nhận chân bản thể:

Xuân lai hoa điệp thiện tri thì

Hoa điệp ưng tu cộng ứng kì

Hoa điệp bản lai giai thị huyễn

Mạc tu hoa điệp hướng tâm trì

(Xuân sang hoa và bướm khéo quen với thời tiết

Hoa bướm đều cần phải thích ứng với kì hạn của chúng

Nhưng hoa với bướm vốn dĩ đều là hư ảo

Chớ nên bận tâm về hoa với bướm)

(Hoa điệp) [79; 444]

Hình ảnh “hoa điệp” (hoa bướm) với bản chất về sự mong manh, dễ

biến đổi, ẩn dụ cho sắc tướng huyễn ảo của sự vật. Từ một ý niệm về các hiện

tượng khác nhau của bản thể, có nhiều thuyết giảng liên quan, có thể nhấn

mạnh đến việc tìm thấy nguồn gốc của các hiện tượng – bản thể (Nhật

nguyệt), hoặc phủ định biểu hiện bên ngoài – sắc tướng hư huyễn (Hoa điệp).

Những lí giải dù khác nhau nhưng đều chung một mục đích cuối cùng là

hướng về bản thể chân như bất diệt, bỏ qua biểu hiện của sắc tướng.

Mùa xuân với trăm hoa đua nở thường được dùng ẩn dụ về sự đạt thành của

đạo Thiền. Hoa reo trong mùa xuân biểu hiện sự hưng thịnh, sinh sôi của muôn vật.

Do đó, hoa trong mùa xuân và ngộ đạo có những tính chất tương đồng. Có thể thấy

nhiều hình ảnh hoa xuân thể hiện cho sự kiến giải đạo Thiền:

Xuân chức hoa như cẩm

Thu lai diệp tự hoàng

(Xuân dệt muôn hoa như gấm thêu

Thu sang ngàn lá tựa vàng gieo)

94

(Tham đồ hiển quyết) [79; 280]

Tự đắc nhất triêu phong giải đống

Bách hoa nhưng cựu lệ xuân đài

(Một sớm gió đông thổi tan băng giá

Trăm hoa như cũ gieo trước gió xuân)

(Nhập trần) [80; 247]

Hoa reo trong gió xuân đối lập với hình ảnh héo úa của muôn vật trong

mùa đông cũng như người còn chấp mê và con người trong khoảnh khắc ngộ

đạo.

Như vậy có thể thấy việc trình bày thuyết giảng cho bản thể chân như

bất diệt – vốn là mục đích người tu học cần khai ngộ, được ẩn dụ bằng nhiều

hình ảnh mùa xuân khác nhau. Một ý niệm triết lí có thể được lí giải với nhiều

góc độ và bằng những hình ảnh ẩn dụ khác nhau. Triết lí Thiền học như vậy

được thể hiện một cách biểu cảm, sinh động, đem lại trường liên tưởng, sức

gợi mở lớn cho người tu học.

3.3.2. Ẩn dụ cho con đường ngộ đạo

Thiền tông chủ ý ngộ đạo trong tiếp cận Thiền lý. Đó là sự bừng ngộ

trong một khoảnh khắc của người tu học. Sự ngộ đạo không thể dựa vào tha

lực mà cần nỗ lực dùng đến nội tâm siêu việt bên trong “tự thức bản tâm, tự

kiến bản tính”. Trong một số trường hợp cần có tác động của bên ngoài như

tiếng thét, quát của thiền sư, làm bừng ngộ tâm thức của người học đạo nhưng

đó chỉ là “ngón tay chỉ trăng”, chủ yếu vẫn nhấn mạnh đến sự tự ý thức và

tinh thần tự chủ.

Con đường ngộ đạo là thức tỉnh, bừng ngộ trong một khoảnh khắc, khi

người học trực tiếp thấu đạt lẽ đạo bằng tâm thức. Tâm thức được bừng tỉnh

không nhờ đến sự chấp nê thái quá vào những khái niệm khô cứng sách vở,

gạt bỏ đi vọng niệm để tập trung vào nội tâm, tìm thấy bản tính tự nhiên của

mình, nhờ nỗ lực và cơ duyên. Quan niệm Phật tính có trong mỗi người, nếu

95

có cơ duyên sẽ giác ngộ:

Khô mộc phùng xuân hoa cạnh phát

Phong xuy thiên lí phức thần hương

(Hoa rợp cành khô lúc tiết xuân

Gió đưa nghìn dặm nức hương thần)

(Tham đồ hiển quyết) [79; 278]

Hình ảnh hoa rợp cành khô ẩn dụ cho Phật tính được phát lộ, với tự lực

và cơ duyên. "Kiến tính thành Phật", con người tìm thấy bản tính chân như

của chính mình cũng là ngộ được chân ý của Phật pháp.

Hàm ý thức ngộ chân tính, khai mở được đạo pháp của Thiền học cũng

được ẩn dụ qua hình ảnh của hạt giống nảy mầm cây:

Bất thị xuân lôi thanh nhất chấn

Tranh giao hàm giáp tận khai manh

(Có phải sấm xuân rền một tiếng

Thì muôn hạt giống nảy mầm cây?)

(Niêm tụng kệ) [80; 127]

Nhưng trong sự giác ngộ này, đề cập đến yếu tố bên ngoài, tha lực –

"xuân lôi", tác động làm bừng ngộ ở người tu học. Hình ảnh "xuân lôi" khẳng

định sự khai thị khoảnh khắc đạt ngộ trong Thiền học. Khoảnh khắc khai ngộ

bằng âm thanh bên ngoài cũng được ẩn dụ qua tiếng chim kêu trong Sơn

phòng mạn hứng:

Hoa tận vũ tình sơn tịch tịch

Nhất thanh đề điểu hựu xuân tàn

(Hoa rụng hết, mưa đã tạnh, núi non tịch mịch

Một tiếng chim kêu, lại cảnh xuân tàn)

[79; 469]

Ẩn dụ tiếng chim kêu là sự thức nhận cho thiền giả về sự kết thúc của

một chu trình tạo hóa và khởi phát cho một chu trình mới. Thiền giả được

bừng tỉnh trong một khoảnh khắc khai ngộ về ý vị thiền lắng sâu trong cảnh

96

xuân tàn.

Trên con đường tu đạo nhấn mạnh đến tự chủ, nội lực của bản thân của

hành giả. Sự khác biệt trong con đường đạt đến ngộ giải các chân lý Thiền

được đề cập như một điều chính yếu:

Xuân vũ vô cao hạ

Hoa chi hữu đoản trường

(Mưa xuân không cao thấp

Cành hoa có ngắn dài)

(Ngữ lục vấn đáp môn hạ) [80; 103]

Cành hoa ngắn dài là hình ảnh ẩn dụ cho sự khác nhau của con đường

tu học. Hoa cùng được hưởng chung một làn mưa xuân nhưng dài ngắn khác

nhau. Đó là sự khác biệt từ nội lực, bản thân, và cách lĩnh hội của người tu

học. Vì thế sự giác ngộ không thể dựa vào bên ngoài mà cần chú trọng đến

khai mở nội tâm trí huệ bên trong.

Con người đạt ngộ nhờ sự chú tâm đến nội lực, không còn chấp nê vào

ngoại cảnh cũng như nội tâm. Khoảnh khắc đạt đạo của người tu học là lẽ

hiển nhiên, tất yếu, khi khóa chặt được nội tâm trước ngoại giới:

Thế số nhất sách mạc

Thời tình lưỡng hải ngân

Ma cung hồn quản thậm

Phật quốc bất thăng xuân

(Số đời hoàn toàn mờ mịt

Tình người đổi thay qua đôi mắt

Khi cung ma bị quản chặt

Thì cõi Phật tràn ngập màu xuân)

(Đề Cổ Châu hương thôn tự) [80; 454]

Con đường đạt ngộ cho người tu học phong phú và linh hoạt, vừa phụ

thuộc vào nội lực, vừa có cơ duyên, đôi khi là sự tác động của bên ngoài

97

(mang tính chất hỗ trợ). Những con đường tu học khác nhau được thể hiện

thông qua những hình ảnh ẩn dụ đặc sắc, gợi liên tưởng cho người tu đạo.

Đốn ngộ trong khoảnh khắc của Thiền được thể hiện một cách sâu sắc, đầy

ẩn ý.

Tiểu kết:

Tóm lại, với các biện pháp nghệ thuật miêu tả, tượng trưng, ẩn dụ, mùa

xuân trong thơ Thiền Lý – Trần trở thành các phương tiện truyền tải Thiền lý

với nhiều tầng ý thâm sâu, gợi mở trường liên tưởng, vừa tạo nên được những

bức tranh xuân chan chứa ý vị thiền. Nghệ thuật miêu tả với bút pháp khái

quát và chấm phá tạo dựng hình ảnh xuân với ý nghĩa biểu trưng và ý nghĩa

trực tiếp phong phú sinh động, lắng sâu ý vị Thiền. Bức họa xuân qua thơ

Thiền bình đạm sơ giản song khoáng đạt, thanh thoát thâm trầm của sắc cảnh

thiền. Nghệ thuật tượng trưng, ẩn dụ biểu đạt triết lí Thiền một cách sinh

động, biến những luận lí khô khan gần gũi trở nên gần gũi, biểu cảm và có

tính gợi mở. Các biện pháp nghệ thuật có nguồn chung trong văn học trung

đại nhưng thể hiện trong thơ Thiền với những đặc sắc riêng đem lại hiệu quả

98

biểu đạt lớn lao.

KẾT LUẬN

Trong ba chương của luận văn, chúng tôi tập trung giải quyết các vấn

đề sau:

1. Khái lược quan niệm chung về mùa xuân, mùa xuân đối với Thiền

tông và mùa xuân trong cội nguồn thi ca phương Đông. Có thể thấy, trong mĩ

cảm phương Đông, con người là một phần của vũ trụ, nên thiên nhiên bốn

mùa có ý nghĩa quan trọng. Trong đó, mùa xuân mang ý niệm về sự khởi đầu

hưng thịnh, in dấu ấn đậm nét đối với văn hóa Á Đông, đặc biệt ở các học

thuyết lớn. Trong Thiền tông, mùa xuân là nền tảng khái quát nên các tư

tưởng triết lí về sự đổi thay tất yếu của tạo hóa, cũng như biểu tượng cho chân

như bất diệt. Với những ý nghĩa như vậy, mùa xuân, một cách tự nhiên, trở

thành đề tài không thể thiếu trong thơ ca phương Đông. Trong dòng chảy đó,

chúng tôi đề cập đến đề tài mùa xuân trong thơ Đường Trung Quốc, thơ haiku

Nhật Bản – những nền thơ ca có nhiều nét chung đối với thơ Thiền Lý – Trần

của Việt Nam cả về mĩ cảm chi phối và nghệ thuật thể hiện, nhận diện thiên

nhiên bốn mùa và mùa xuân như một đề tài chính yếu được thể hiện cùng

những đặc sắc riêng của nền văn học. Văn học trung đại Việt Nam, vốn nằm

trên trục mĩ cảm văn hóa và văn học phương Đông, thể hiện mùa xuân mang

cảm thức của tâm hồn Việt. Mùa xuân được hiện hữu như một dòng chảy

không thể thiếu, trải dài theo tiến trình văn học (với các tác giả tiêu biểu:

Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Nguyễn Khuyến,…), ẩn chứa trong bức tranh

phong cảnh thiên nhiên những kí thác về thân phận, lẽ đời của thi nhân.

2. Thơ Thiền Lý – Trần nằm trong mạch chảy của văn học trung đại

Việt Nam, nhưng đề tài mùa xuân được thể hiện mang những đặc sắc riêng do

sự chi phối của tinh thần Thiền học. Các khía cạnh đặc sắc của khu biệt thơ

Thiền mùa xuân trong mạch chảy chung là chủ đề, hình tượng và các triết lí

thiền học được ẩn tàng. Chủ đề được nhận diện qua hai dòng mạch chính là

99

thiên nhiên và con người thấu triệt đạo Thiền. Thiên nhiên mùa xuân được

quang chiếu dưới đôi mắt nhìn thiền quán luôn mang thấm đẫm ý vị thiền. Đó

là thiên nhiên hư tĩnh, phát lộ vẻ đẹp tự tính và thiên nhiên mang giá trị biểu

trưng chuyên chở triết lí. Hiện hữu trong khung cảnh thiên nhiên ấy là con

người của tâm thiền đạt đạo với tinh thần phá chấp triệt để, vô ngã, vô ngôn,

tự do tuyệt đối, vượt khỏi những giới hạn thông thường. Về các hình tượng

mùa xuân, chủ yếu nhận diện qua các hình tượng tiêu biểu là hoa xuân, trời,

núi, trăng, gió xuân và các thanh âm mùa xuân. Đây là những hình ảnh xuất

hiện với tần xuất lớn và mang giá trị biểu trưng cao, là "công cụ ngoại hóa"

cho triết lí đạo Thiền. Đặc biệt, thơ Thiền với mục đích chính là truyền đạo và

đạt đạo, xem khinh vỏ ngôn từ, thì việc gửi gắm triết lí mới là thiết yếu. Các

triết lí Thiền học được thể hiện phong phú: vô thường, sắc không, cho thấy

những tư tưởng và ý vị thâm áo trong cái nhìn về vũ trụ và nhân thế.

3. Về nghệ thuật thể hiện mùa xuân trong thơ Thiền Lý – Trần, chủ yếu

dùng các thủ pháp của văn học trung đại, nhưng với những lí do và cách sử

dụng riêng. Với nghệ thuật miêu tả, thơ Thiền Lý – Trần dùng hai thủ pháp

chính là miêu tả khái quát về thiên nhiên mùa xuân mang ý nghĩa biểu tượng

với mục đích truyền tải thiền lý, và thủ pháp miêu tả chấm phá tạo nên những

bức tranh xuân hư tĩnh, trầm mặc, thanh giản. Các thủ pháp tượng trưng và ẩn

dụ được sử dụng góp phần tạo nên tính hàm súc của ngôn ngữ thiền. Các triết

lí ẩn tàng trong thơ Thiền do đó cũng được thể hiện một cách sinh động, biểu

cảm và có giá trị gợi mở với người tu học.

Luận văn với hi vọng có được cái nhìn toàn diện hơn về mùa xuân thơ

Thiền Lý – Trần, là bước khởi đầu trong nhận diện ở những giá trị cơ bản của

đề tài chủ đề và nghệ thuật thể hiện. Để hiểu sâu sắc hơn về vấn đề mùa xuân

trong thơ Thiền, có thể tiến hành các hướng nghiên cứu mới: so sánh mùa

xuân trong tương quan với các mùa khác, đặc biệt là mùa thu trong thơ Thiền

Lý – Trần để thấy được thức cảm khác biệt của thi sĩ – thiền gia trước hai

100

mùa sinh – diệt; hoặc so sánh mùa xuân trong thơ Thiền Lý – Trần với mùa

xuân trong các dòng thơ ca khác như haiku hay thơ Đường, từ đó nhận diện

những nét chung và khác biệt giữa hai nền văn học…

Do thời gian có hạn, luận văn chúng tôi không tránh khỏi những thiếu

sót, sai lệch. Chúng tôi mong nhận được sự đóng góp để luận văn được hoàn

101

thiện hơn.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Thích Phước An (1992), “Thiền sư Huyền Quang và con đường trầm

lặng của mùa thu”, Văn học, số 4.

2. Dương Ngọc Anh (2011), Chữ hòa trong thơ Thiền thời đại Lý – Trần,

Luận văn Thạc sĩ khoa học Ngữ văn, Đại học Sư phạm Hà Nội.

3. Đỗ Tùng Bách (1999), Thơ Thiền Đường Tống, Nxb Đồng Nai.

4. Thích Minh Châu (2008), Hiểu và hà nh chá nh phá p , Nxb Văn hóa sài

Gòn.

5. J.Chevalier, A.Gheerbrant (2002), Từ điển biểu tượng văn hó a thế giớ i ,

Trườ ng viết văn Nguyễn Du, Nxb Đà Nẵng.

6. Minh Chi (2003), “Vua Trần Nhân Tông và phái Trúc Lâm Yên Tử”,

Thiền học đời Trần (tái bản), Nxb Tôn giáo, Hà Nội.

7. Minh Chi (2003), “Thơ Huyền Quang”, Thiền học đời Trần (tái bản),

Nxb Tôn giáo, Hà Nội.

8. Nguyễn Huệ Chi (1977), “Trần Tung – một gương mặt lạ trong làng

thơ thiền thời Lý - Trần”, Nghiên cứu văn học, số 4, tr.116-135.

9. Nguyễn Huệ Chi (1978), “Các yếu tố Nho – Phật – Đạo được tiếp thu

và chuyển hóa như thế nào trong đời sống tư tưởng và văn học thời Lý

– Trần”, Văn học, số 6.

10. Nguyễn Huệ Chi (1983), Mấy vẻ mặt thi ca Việt Nam, Nxb Tác phẩm

mới, Hà Nội.

11. Nguyễn Huệ Chi (1987), “Mãn Giác và bài thơ nổi tiếng của ông”,

Văn học, số 5, tr.67-72.

12. Nguyễn Phương Chi (1982), “Huyền Quang – nhà thơ, thi sĩ”, Văn

học, tr.75-81.

13. Nguyễn Đình Chú (1999), “Vấn đề “ngã” và “phi ngã” trong văn học

102

trung cận đại”, Văn học, số 5, tr.38-43.

14. Thiều Chửu (2009), Hán Việt tự điển, Nxb Thanh niên.

15. Đỗ Thanh Dương (2003), Trần Nhân Tông – Nhân cách văn hoá lỗi

lạc, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.

16. Nguyễn Thế Đăng (2003), “Ý nghĩa tích cực của đời sống trong cái

nhìn của các Thiền sư đời Trần”, Thiền học đời Trần (tái bản), Nxb Tôn

giáo, Hà Nội.

17. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (đồng chủ biên) (2006),

Từ điển thuật ngữ văn học (tái bản), Nxb Giáo dục.

18. Lê Từ Hiển (2007), “Basho (1644 – 1694) và Huyền Quang (1254 –

1334) – Sự gặp gỡ với mùa thu hay sự tương hợp về cảm thức thẩm

mĩ”, Haikư – Hoa thời gian, Nxb Giáo dục.

19. Đỗ Đức Hiểu (chủ biên) (2004), Từ điển văn học (bộ mới), Nxb Thế

giới.

20. Nguyễn Duy Hinh (1992), “Phật giáo với văn học Việt Nam”, Văn

học, số 4, tr.4-6.

21. Nguyễn Duy Hinh (1999), Tư tưởng Phật giáo Việt Nam, Nxb Hội Nhà

văn.

22. Nguyễn Phạm Hùng (1992), “Thơ thiền và việc lĩnh hội thơ thiền đời

Lý”, Văn học, số 4.

23. Nguyễn Phạm Hùng (1993), Văn học Lý – Trần (chuyên khảo), Nxb

Giáo dục.

24. Nguyễn Phạm Hùng (1998), Thơ thiền Việt Nam – Những vấn đề lịch

sử và tư tưởng nghệ thuật, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

25. Nguyễn Phạm Hùng (2006), “Thiền sư Đỗ Pháp Thuận - Người mở

đầu lịch sử văn học Việt Nam thời tự chủ”, Nghiên cứu Phật học, số 2,

tr.47-51.

26. Nguyễn Phạm Hùng (2007), “Phổ chiêu thiền sư Phạm Thái và những

103

sáng tác văn học đặc sắc của ông”, Nghiên cứu Phật học, số 4, tr.44-47.

27. Nguyễn Phạm Hùng (2008), Các khuynh hướng văn học thời Lý –

Trần, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.

28. Nguyễn Phạm Hùng (2009), “Thi kê ̣ và các thủ pháp văn ho ̣c” , Nghiên

cứ u Phật học, số 6, tr.28-33.

29. Nguyễn Phạm Hùng (2011), Văn học cổ Việt Nam tìm tòi và suy nghĩ,

Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.

30. Đỗ Văn Hỷ (1976), “Câu chuyện Huyền Quang và cách đọc thơ thiền”,

Văn học, số 1, tr.62-70.

31. Thu Giang, Nguyễn Duy Cần (2014), Phật học tinh hoa, Nxb Trẻ.

32. Đinh Gia Khánh (chủ biên) (2006), Văn học Việt Nam từ thế kỉ X –

nửa đầu thế kỉ XVIII (tái bản), Nxb Giáo dục.

33. N.I.Konrad (2007), Phương Đông học , Trịnh Bá Dĩnh (tuyển cho ̣n và giớ i thiê ̣u), Trịnh Bá Dĩnh , Trần Đình Hươ ̣u , Từ Thi ̣ Loan , Trần Ngo ̣c Vương (dịch), Nxb Văn ho ̣c.

34. Phạm Ngọc Lan (1986), “Chất trữ tình trong thơ Thiền đời Lý”, Văn

học, số 4, tr.92-97.

35. Phạm Ngọc Lan (1992), “Trần Nhân Tông và cảm hứng Thiền trong

thơ”, Văn học, số 4, tr.44-47.

36. Phùng Hữu Lan (2010), Tinh thần triết học Trung Quốc, Lê Anh Minh

(dịch), Nxb Đa ̣i ho ̣c Sư pha ̣m TP Hồ Chí Minh.

37. Nguyễn Công Lý (2000), Văn học Phật giáo thời Lý – Trần – Diện

mạo vào đặc điểm, LATS Ngữ văn, Đại học Sư phạm Hà Nội.

38. Nguyễn Công Lý (2011), Trần Nhân Tông với cảm hứng mùa xuân,

http://khoavanhoc-ngonngu.edu.vn

39. Hà Thúc Minh (2009), “Tản mạn Xuân – Thu và triết lý thơ Thiền thời

Lý – Trần”, Nghiên cứu tôn giáo, số 4 (70), tr.7-16.

40. Tiểu Trúc Phan Minh (2003), Vài nét tinh hoa phật học trong dòng

104

chảy cuộc đời, Nxb Khoa học xã hội, TP. Hồ Chí Minh.

41. Nguyễn Đình Nghĩa (2009), Huyền Quang Tôn giả từ cuộc đời vào tác

phẩm, Luận văn Thạc sĩ khoa học Ngữ văn, Trường Đại học Khoa học

xã hội và Nhân văn Hà Nội.

42. Nguyễn Viết Ngoạn (2010), Văn chương Việt Nam truyền thống với sự

phản ánh con người (chuyên luận và tuyển chọn), Nxb Đại học Quốc

gia thành phố Hồ Chí Minh.

43. Bùi Văn Nguyên (1975), “Bàn về một khía cạnh trong thơ trữ tình đời

Trần”, Văn học, số 1, tr.54-61.

44. Trần Thị Ánh Nguyệt (2014), “Thiên nhiên – nguồn cảm hứng bất tận

của văn chương phương Đông”, Tạp chí khoa học Đại học Sư phạm

thành phố Hồ Chí Minh, số 6.

45. Nhiều tác giả (2003), Thiền học đời Trần, Nxb Tôn giáo.

46. Nhiều tác giả (2010), Về con người cá nhân trong văn học cổ Việt

Nam, Nxb Giáo dục.

47. Nguyễn Khắc Phi (2006), Tuyển tập, Nxb Giáo du ̣c, Hà Nội. 48. Nguyễn Thu Phương (2008), “Xuân trong thơ Đường”, Nghiên cứu

Trung Quốc, số 1 (80), tr.73-77.

49. Thích Trí Quảng (2004), Tư Tưởng Phật giáo, Nxb Tôn giáo.

50. Trần Văn Sáng (2007), “Biểu trưng của mùa xuân trong thơ ca”, Ngôn

ngữ và đời sống, số 6, tr.32-38.

51. Thích Thiện Siêu (2003), Phật ở trong lò ng, Nxb Tôn giáo. 52. Nguyễn Hữu Sơn (1993), “Vấn đề con người cá nhân trong văn học cổ

nhìn từ góc độ lý thuyết”, Văn học, số 3, tr.7-11.

53. Nguyễn Kim Sơn (2009), “Sự đan xen các khuynh hướng thẩm mĩ

trong thơ Huyền Quang – nghiên cứu trường hợp sáu bài thơ vịnh cúc”,

Nghiên cứu văn học, số 4, tr.75-89.

54. Dusetzteitaro Suzuki (2001), Thiền Luận (Quyển thượng, quyển trung,

105

quyển hạ), NXB TP. Hồ Chí Minh.

55. Trần Đình Sử (1999), Mấy vấn đề thi pháp văn học trung đại Việt

Nam, Nxb Giáo dục.

56. Trần Đình Sử (2008), Lý luận và phê bình văn học , Nxb Giáo du ̣c, Hà

Nô ̣i.

57. Lê Thị Thanh Tâm (2006), “Con người hành hương trong thơ Thiền

Lý - Trần và Đường - Tống”, Nghiên cứu văn học, số 3, tr.70-81.

58. Trịnh Thị Tâm (2012), “Thơ hai – kư Nhật Bản và thơ Thiền Việt Nam

– Những tương đồng và dị biệt”, Giáo dục, số 295 (kì 1 – tháng 10),

tr.27-28, tr.54.

59. Hà Văn Tấn (1992), “Vấn đề văn bản học các tác phẩm văn học Phật

giáo Việt Nam”, Văn học, số 4, tr.7-12.

60. Trần Thị Băng Thanh (1994), “Huyền Quang và những trang đời nhiều

huyền thoại, những vẫn thơ nhiều hàm nghĩa”, Văn học, số 4, tr. 26-30.

61. Trần Thị Băng Thanh (1999), Những nghĩ suy từ văn học trung đại,

Nxb Khoa học xã hội.

, 62. Trần Thi ̣ Băng Thanh (2009), “Cảm nghĩ về thơ Trần Nhân Tông”

Hán Nôm, số 4, tr.3-14.

63. Trần Thi ̣ Thanh (2008), “Triết lí Thiền tông – mô ̣t nô ̣i dung quan tro ̣ng đươ ̣c chuyển tải trong thơ Thiền thờ i Đườ ng Tống Trung Quốc và thơ Thiền Viê ̣t Nam thời Lý Trần”, Tạp chí Khoa học, Đa ̣i ho ̣c Huế số 6.

64. Lê Ma ̣nh Thát (2006), Toàn tập Trần Nhân Tông, NXB Tổng Hợp TP.

HCM.

65. Trần Nho Thìn (2007), Văn học trung đại Việt Nam dưới góc nhìn văn

hóa, Nxb Giáo dục.

66. Trần Nho Thìn (2012), Văn học Việt Nam từ thế kỉ X đến hết thế kỉ

XIX, Nxb Giáo dục.

67. Nguyễn Đăng Thu ̣c (2006), Lịch sử triết học phương Đông , Nxb Từ

106

Điển Bách Khoa, Hà Nội.

68. Thích Giác Toàn (2010), Những sáng tác văn học của các thiền sư thời

Lý – Trần, Nxb Tổng hợp TP. Hồ Chí Minh.

69. Lê Viết Trườ ng (2014), “Ý nghĩa củ a hoa sen trong đa ̣o Phâ ̣t” , Nghiên

cứ u Phật học, số 2, tr.27-28.

70. Trầm Thanh Tuấn (2011), “Mã Đường thi trong thơ thiên nhiên đời

Trần”, Nghiên cứu văn học, số 3, tr.25-33.

71. Thích Thanh Từ (1997), Tam tổ Trúc Lâm giảng giải , Thiền viê ̣n

Thườ ng Chiếu, Tp Hồ Chí Minh.

72. Thích Thanh Từ (1997), Tam tổ Trú c Tham đồ hiển quyết và thi tụng các Thiền sư đời Lý giảng giải , Thiền viê ̣n Thườ ng Chiếu , Tp Hồ Chí Minh.

73. Thích Thanh Từ (2003), “Thiền Trúc Lâm qua văn thơ chữ Hán” ,

Thiền học đời Trần (tái bản), Nxb Tôn giáo.

74. Đoàn Thị Thu Vân (1992), “Một vài nhận xét về ngôn ngữ thơ thiền

Lý – Trần”, Văn học, số 2, tr.13-21.

75. Đoàn Thị Thu Vân (1998), “Khoảnh khắc quên trong thơ Thiền”, Văn

học, số 4, tr.90-93.

76. Đoàn Thị Thu Vân (1993), “Quan niệm về con người trong thơ Thiền

thời Lý - Trần”, Văn học, số 3, tr.12-15.

77. Đoàn Thị Thu Vân (1995), Khảo sát đặc trưng nghệ thuật của thơ

Thiền Việt Nam thế kỉ X – XIV, Luận án PTS Ngữ văn, Trường Đại học

Sư phạm Hồ Chí Minh.

78. Lê Trí Viễn (1996), Đặc trưng văn học trung đại Việt Nam, Nxb Khoa

học xã hội.

79. Viện Văn học (1977), Thơ văn Lý – Trần, tập 1, Nxb KHXH.

80. Viện Văn học (1988), Thơ văn Lý – Trần, tập 2, Nxb KHXH.

81. Viện Văn học (1978), Thơ văn Lý – Trần, tập 3, Nxb KHXH.

107

82. Trần Ngo ̣c Vương (1999), Văn học Viê ̣t Nam , dòng riêng giữa nguồn

chung, Nxb Đa ̣i ho ̣c Quốc gia Hà Nô ̣i.

83. Trần Ngọc Vương (2009), “Nghiên cứu thơ Thiền ở Việt Nam – Đôi

điều suy ngẫm”, Nghiên cứu văn học, số 4, tr.105-110.

84. Trần Ngọc Vương (chủ biên) (2007), Văn học Việt Nam thế kỉ X – XIX

những vẫn đề lí luận và lịch sử, Nxb Giáo dục.

85. Lê Thu Yến (chủ biên) (2002), Văn học Việt Nam, văn học trung đại

108

những công trình nghiên cứu (tái bản), Nxb Giáo dục.