BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH Trịnh Thị Minh Hương

TÍNH BIỂU TRƯNG CỦA TỪ NGỮ CHỈ MÀU SẮC TRONG TIẾNG VIỆT (dựa trên ngữ liệu là những văn bản thuộc phong cách ngôn ngữ văn chương)

Chuyên ngành Mã số

: Ngôn ngữ học : 60 22 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

PGS.TS DƯ NGỌC NGÂN

Thành phố Hồ Chí Minh - 2009

LỜI CẢM ƠN

Học viên Trịnh Thị Minh Hương kính lời tri ân sâu sắc

đến cô Dư Ngọc Ngân – người đã hết lòng động viên, dẫn

dắt trong quá trình thực hiện đề tài.

Người viết trân trọng cảm ơn quý thầy cô đã truyền

đạt kiến thức cùng những kinh nghiệm quý báu trong suốt

thời gian qua.

Cuối cùng, xin chân thành cảm ơn gia đình, nhà

trường và bạn bè đã ủng hộ và tạo mọi điều kiện học tập,

nghiên cứu.

Xin chân thành cảm ơn và trân trọng kính chào.

Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 09/09/2009

Tác giả

Trịnh Thị Minh Hương

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Ngày nay khi khoa sắc học (Colour science) đã phát triển mạnh mẽ với

những tên tuổi như Kandinsky, Herbin và Henri Pfeiffer thì hệ ý nghĩa biểu

tượng về màu sắc càng được nâng cao giá trị. Mỗi dân tộc, mỗi nền văn hóa

khác nhau sẽ có những cách xem xét màu sắc theo các cách khác nhau. Trong

hầu hết các nền văn hóa châu Á, màu vàng được xem như màu của vua chúa,

hoàng đế; còn phương Tây là màu tím. Đối với Trung Quốc, màu đỏ là biểu

tượng cho lễ tết, sự may mắn, thịnh vượng; màu trắng tượng trưng cho sự

tang tóc, chết chóc. Ở Châu Âu, màu sắc được liên tưởng mạnh mẽ đến các

đảng phái chính trị. Nhiều nước xem màu đen là biểu tượng của Đảng Bảo

thủ, màu đỏ là biểu tượng của Đảng Cộng sản, màu nâu là biểu tượng của

Phát xít. Trong một số ngôn ngữ, màu xanh dương được dùng với rất nhiều

nghĩa tích cực. Các cuộc nghiên cứu cho thấy hầu hết màu sắc có sự liên

tưởng theo hướng tích cực nhiều hơn theo hướng tiêu cực; thậm chí khi nó có

hướng liên tưởng tiêu cực thì cũng chỉ được sử dụng trong những ngữ cảnh

đặc biệt.

Vì vậy, màu sắc là một trong những biểu tượng mang tính phổ quát,

không chỉ ở phương diện địa lý mà còn ở mọi khía cạnh nhận thức: vũ trụ,

tâm lý, tôn giáo, ngôn ngữ,… [38:561].

Gần đây nhất, Paul Kay – nhà nghiên cứu ngôn ngữ thuộc trường Đại

học California ở Berkeley - đã đặt vấn đề và nghiên cứu: Liệu ngôn ngữ có

thêm sắc thái cho nhận thức về màu sắc của chúng ta hay không? Hay nó ảnh

hưởng theo cách khác? Và ông đã có những kết luận vô cùng thú vị: Quá trình

nhận biết màu sắc bắt đầu từ phần não bên phải và truyền sang bên trái thông

qua sự tiến triển của ngôn ngữ đồng thời những nhận thức màu sắc của chúng

ta được liên kết chặt chẽ với ngôn ngữ của chúng ta.

Mặt khác, dựa vào lý thuyết tri nhận, người ta nhận thấy mỗi dân tộc

với những bức tranh ý niệm khác nhau sẽ hình thành những bức tranh ngôn

ngữ thế giới khác nhau. Và như thế, từ ngữ về màu sắc sẽ không nằm ngoài

qui luật chung đó.

Lớp từ ngữ chỉ màu sắc có số lượng không nhỏ và mang ý nghĩa vô

cùng đa dạng trong nhiều phong cách văn bản, đặc biệt là trong phong cách

ngôn ngữ văn chương. Vì thế, lớp từ chỉ màu sắc trở thành đối tượng được

ngôn ngữ học quan tâm nghiên cứu từ nhiều góc độ, trên nhiều bình diện, nhất

là về đặc điểm ngữ nghĩa, tính biểu trưng hay về đặc điểm tri nhận.

Với những lí do trên, người viết chọn đề tài: Tính biểu trưng của từ

ngữ chỉ màu sắc trong tiếng Việt (dựa trên ngữ liệu là những văn bản

thuộc phong cách ngôn ngữ văn chương).

Đề tài có những ý nghĩa sau:

- Về mặt lí luận: Đề tài vận dụng được lí thuyết của nhiều bộ môn

khoa học: Ngữ nghĩa học sẽ giúp lí giải ý nghĩa từ ngữ chỉ màu sắc, các

phương thức chuyển nghĩa của từ ngữ chỉ màu sắc, phát hiện “bức tranh

màu sắc” của tiếng Việt; Ngôn ngữ và văn hóa giải thích mỹ cảm của người

bản ngữ về màu sắc; Kí hiệu học làm rõ những cơ chế hình thành biểu tượng

màu sắc và Ngôn ngữ - văn học giúp phân tích những điểm hay của từ ngữ

chỉ màu sắc trong các văn bản văn học. Kết quả nghiên cứu của luận văn có

thể góp phần làm rõ về một số vấn đề kí hiệu ngôn ngữ, tính biểu trưng,

nghĩa của từ ngữ và mối quan hệ giữa ngôn ngữ và văn hóa, ngôn ngữ và

văn chương.

- Về mặt thực tiễn: Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể có giá trị

tham khảo đối với những ai quan tâm đến vấn đề này.

2. Lịch sử vấn đề

Khi đề cập về lịch sử phát triển của màu sắc, trang web “liệu pháp chữa

bệnh của màu sắc” (colourtherapyhealing.com) đã khẳng định màu sắc được

nhận biết và sử dụng trên 2000 năm nay; trong quá trình đó, có những mốc sự

kiện quan trọng của lịch sử phát triển màu sắc:

- Khoảng năm 1550 trước Công nguyên, những người thợ xây dựng

của Ai Cập đã biết sử dụng màu sắc trong xây dựng đền đài. Hai màu họ dùng

lúc bấy giờ là xanh lá cây và xanh da trời.

- Đến thời kì của Aristoteles, ông khám phá ra cách trộn lẫn 2 màu

vàng và xanh da trời cho ra xanh lá cây. Và lần đầu tiên, màu sắc được đưa

vào nội dung giảng dạy trong nhà trường.

- Năm 1672, Issac Newton khám phá sự phát tán từ ánh sáng trắng ra 7

màu: đỏ, cam, vàng, xanh lá cây, xanh da trời, chàm, tím và ngược lại.

- Đến thời nữ hoàng Victoria (1819 – 1901), bà đã đưa ra thông điệp

“màu đen không phải là màu tồi tệ”; người ta bắt đầu có cái nhìn khách quan

hơn về vị trí các màu.

“Có lẽ, màu sắc là một trong những dạng thức đầu tiên được ghi lại và

hệ thống hóa. Trong mối liên hệ với văn hóa, màu sắc không chỉ đóng vai trò

đơn giản là một thuộc tính không thể tách rời của môi trường thiên nhiên và

nghệ thuật, mà còn là một phương diện kinh nghiệm tinh thần cơ bản và đặc

sắc của loài người” [84: 61]. Về từ ngữ chỉ màu sắc, nhân loại đã trải qua

chặng đường hàng thế kỷ để phân biệt và gọi tên được các màu. Theo Từ điển

bách khoa tiếng Anh (The Oxford Encyclopedic English Dictionary) [90],

năm 1493 mới xuất hiện những từ chỉ màu sắc dựa theo cây cỏ, như màu cỏ,

màu rêu; năm 1497 mới có những từ chỉ màu các vật trong giới vô sinh như

màu lửa, màu than, màu khói... và mãi đến năm 1778, mới có các màu của đồ

vật do con người làm ra, như màu mực, màu vỏ chai. Thời hiện đại, thời kỳ

của xã hội công nghiệp, vốn từ màu sắc bổ sung thêm những từ như màu xanh

côban, màu đỏ hung.

Ngôn ngữ của mỗi một dân tộc có khả năng nhất định trong việc xây

dựng các từ chỉ màu sắc. Như trong tiếng Pháp có 178 từ ngữ chỉ màu sắc

được sử dụng tích cực; trong tiếng Anh có 154 từ ngữ; tiếng Nga là 133 từ ;

tiếng Đức là 120, tiếng Nhật là 45 từ,…[Dẫn theo 98]. Trên thực tế có một số

từ ngữ chỉ màu sắc từng xuất hiện, sau đó mất dần đi do không hợp thời,

chẳng hạn trong tiếng Việt là: màu xanh công nhân, màu hồ thuỷ.

2.1 Việc nghiên cứu từ ngữ chỉ màu sắc trên thế giới

Những người đầu tiên đưa ra ý tưởng về sự khác biệt của hệ thống màu

sắc với nguồn gốc văn hóa xã hội là những nhà tâm lí học nổi tiếng người

Anh G. Alen và U.Mac, Dugan. H (người Mỹ). Họ đã đi đến kết luận rằng

mối quan tâm đến màu sắc nảy sinh ở loài người nhất định phải qua quá trình

lao động và sinh hoạt cộng đồng, và những từ ngữ chỉ màu sắc chỉ xuất hiện

trong ngôn ngữ khi nào chúng bắt đầu bao hàm nhu cầu thực tế. Họ đã tiên

đoán về sự qui ước từ điển những màu sắc chủ yếu của thiên nhiên. Trên cơ

sở đó, G. Alen kết luận: “Tất cả những dân tộc văn minh nhất và hoang dã

nhất đều tiếp nhận màu sắc một cách tương đồng” [84: 62].

Những kết quả nghiên cứu về từ ngữ chỉ màu sắc của mỗi dân tộc góp

phần xác định đặc điểm văn hóa của dân tộc ấy. Và một số nhà nghiên cứu

như M. Luise, M. Hecovit (dù nghiên cứu ở những khía cạnh khác nhau) đã

khẳng định vai trò quan trọng của từ ngữ chỉ màu sắc trong từng nền văn hóa

[84].

Ở một phương diện khác, B. Belin và P. Key đã xác lập “phương pháp

giai đoạn tiến hóa đối với sự xuất hiện những từ ngữ chỉ màu sắc”. Gần như

toàn bộ phương pháp này đã được trình bày vào năm 1969 với “Những thuật

ngữ màu cơ sở” (Basic Color Terme, Berkeley, 1969) 1. Công trình nghiên

cứu này đã tổng kết toàn bộ tư liệu, kinh nghiệm về từ ngữ chỉ màu sắc trong

ngôn ngữ của các dân tộc khác nhau trên thế giới. Hai tác giả này đã kết hợp

giữa tính khái niệm và tính thực tiễn, liên quan đến vấn đề mối quan hệ giữa

màu sắc và văn hóa. Từ sự khái quát thực tế 78 ngôn ngữ khác nhau, B.Belin

và P. Key kết luận: Mọi ngôn ngữ ít nhất cũng có 2 từ chỉ màu đen và màu

trắng, có 3 từ thì có thêm màu đỏ, có 4 từ thì có thêm màu xanh lá hoặc vàng,

có 5 từ thì thêm cả màu xanh lá và vàng, có 6 từ thì thêm màu xanh da trời,

có 7 từ thì có thêm màu nâu, có trên 7 từ thì có thêm màu tím, hồng, da cam,

xám hoặc hỗn hợp những màu này. Ở một mức độ nhất định, có thể coi đó là

chìa khóa mở ra nhiều công trình nghiên cứu và thực tế đã có rất nhiều công

trình nghiên cứu trên cơ sở tư tưởng của B. Belin và P. Key.

Sau đó, tác giả Micheal Quinion trong bài viết “Những tên gọi nhất thời

của màu sắc” (The fugitive names of hues) đăng trên trang English in the

Bristish viewpoint đã nghiên cứu từ ngữ chỉ màu sắc tiếng Anh bằng phương

pháp từ nguyên học. Ông đã xác định màu từ màu xanh da trời (blue) bắt

nguồn từ tiếng Pháp, xanh lá cây (green) có cùng gốc với “grow” và xuất xứ

từ tiếng Đức, màu đỏ (red) được vay mượn từ tiếng Hy Lạp, màu hồng (pink)

cùng gốc từ với tiếng Hà Lan,… Cách nghiên cứu của tác giả đã mở ra thêm

một hướng tiếp cận khác trong tiến trình nghiên cứu từ ngữ chỉ màu sắc trên

thế giới nói chung và tiếng Anh nói riêng.

Đặc biệt, trong công trình đồ sộ Dictionnaire des symboles: mythes,

rêves, coutumes, gestes, formes, figures, couleurs, nombres (Từ điển biểu

1 Tái bản lần gần đây nhất là năm 1999 với tiêu đề Basic Color Terms Their Universality and Evolution, Center

for Study of Language and Information, the United State.

tượng văn hóa thế giới) [38], Jean Chevalier và Alain Gheerbrant đã trình bày

khá chi tiết về biểu tượng màu sắc của các nước trên thế giới, chủ yếu là

phương Tây.

2.2 Việc nghiên cứu từ ngữ chỉ màu sắc ở Việt Nam

Như đã nói, bàn về từ ngữ chỉ màu sắc không phải là vấn đề mới. Tuy

nhiên các bài viết chỉ dừng lại ở một số màu tiêu biểu, có thể kể:

- Trần Thị Thu Huyền với bài Hoa cỏ và màu sắc trong thành ngữ- tục

ngữ tiếng Anh và tiếng Việt (Ngôn ngữ và Đời sống số 12), 2001

- Phạm Văn Tình với các bài viết: Hai từ xanh và xanh xanh; Phấn

trắng, bảng đen, tóc trắng- hình tượng đẹp về người thầy (Tiếng Việt từ cuộc

sống), 2004

- Lê Thị Vy với Đặc trưng văn hóa dân tộc thể hiện qua các từ chỉ màu

sắc (Ngôn ngữ và Đời sống số 6), 2006

Các bài viết này đã đề cập đến một màu (hoặc nhiều màu) như biểu

tượng của văn hóa hoặc nét đặc thù của dân tộc. Tuy nhiên, các tác giả chỉ

điểm qua mà chưa lí giải rõ.

Bên cạnh đó, có thể dẫn ra một số công trình có liên quan trực tiếp đến

đối tượng của luận văn như sau:

- Trong Đặc trưng âm thanh và màu sắc trong thơ Xuân Diệu trước

Cách mạng tháng Tám (khóa luận tốt nghiệp ĐH Sư phạm TPHCM 1996), Lê

Thị Thanh Điệp đã bàn về ý nghĩa của các từ chỉ màu sắc trong thơ Xuân

Diệu.

- Biện Minh Điền với bài viết “Về tính từ chỉ màu sắc trong thơ Nguyễn

Khuyến” (Ngôn ngữ số 7- 2000) đã thống kê tỉ lệ từ ngữ chỉ màu sắc trong

thơ và câu đối của Nguyễn Khuyến và đã xác định tỉ lệ màu sắc tươi chiếm ưu

thế, đặc biệt là cách dùng màu xanh và màu trong.

- Tương tự, Màu xanh trong thơ Nguyễn Bính, Nguyễn Thị Thành Thắng

(Ngôn ngữ số 11-2001) khái quát được sự đa dạng về nghĩa của cùng một

màu xanh, từ đó, nêu bật vài điểm trong phong cách nghệ thuật của Nguyễn

Bính

- Trịnh Thị Thu Hiền với bài viết Một vài đặc điểm của các từ chỉ màu

phụ trong tiếng Việt (Những vấn đề về Ngôn ngữ học, Hội nghị khoa học của

Viện Ngôn ngữ) năm 2004; đã nghiên cứu về đặc điểm cấu tạo đến khả năng

hoạt động của hệ thống từ chỉ màu phụ trong tiếng Việt.

- Năm 2005, trong công trình Một số vấn đề về kí hiệu học (Đề tài khoa

học cấp Đại học Quốc gia), Nguyễn Đức Dân có một phần đề cập đến màu

sắc như một biểu tượng mang tính phổ quát trong một số nghi thức văn hóa,

tôn giáo trên thế giới.

- Trên Ngôn ngữ và Đời sống số 8 năm 2006, Hà Thị Thu Hoài viết “Từ

chỉ màu sắc để miêu tả thiên nhiên trong tác phẩm Truyện Tây Bắc của nhà

văn Tô Hoài”. Qua khảo sát, tác giả bài viết đã phân tích nét đặc sắc sáng tạo

trong việc tạo ra nhiều sắc độ của màu trắng, đỏ, vàng trên những trang văn

Tô Hoài.

- Cũng trên Ngôn ngữ và Đời sống (số 8- 2007), Đinh Trí Dũng- Lê Thu

Giang nghiên cứu từ chỉ màu sắc trong thơ Thế Lữ qua bài viết “Thế Lữ-

người vẽ tranh ngôn từ thi ca”. Trong bài viết này, hai tác giả đã chứng minh

rằng “màu xanh là màu Thế Lữ ưu tiên nhất”, “minh chứng cho đôi mắt đa

tình, lòng yêu đời nồng nàn tha thiết”.

Những bài viết, công trình nghiên cứu trên là những gợi ý quan trọng

cho người viết khi thực hiện đề tài: Tính biểu trưng của từ ngữ chỉ màu sắc

trong tiếng Việt (dựa trên ngữ liệu là những văn bản thuộc phong cách

ngôn ngữ văn chương).

3. Mục đích, nhiệm vụ, phạm vi nghiên cứu

Mục đích của đề tài là tìm hiểu về ngữ nghĩa, tính biểu trưng của từ ngữ

chỉ màu sắc trong tiếng Việt qua khảo sát một số văn bản (chủ yếu trong

phong cách ngôn ngữ văn chương).

Để thực hiện mục đích đó, luận văn đề ra những nhiệm vụ sau:

- Thu thập, tập hợp các từ ngữ chỉ màu sắc trong từ điển và trong các

văn bản khảo sát.

- Thống kê và phân tích đặc điểm cấu tạo, đặc điểm ngữ nghĩa, tính

biểu trưng của các từ ngữ chỉ màu sắc trong tiếng Việt.

- Bước đầu tìm hiểu những giá trị về mặt ngữ dụng của từ ngữ chỉ

màu sắc trong tiếng Việt.

Như vậy, chúng tôi xác định phạm vi nghiên cứu chính của luận văn là

nghĩa biểu trưng của từ ngữ chỉ màu sắc trong tiếng Việt, đặc biệt trong các

văn bản thuộc phong cách ngôn ngữ văn chương.

4. Phương pháp nghiên cứu và nguồn ngữ liệu

4.1 Phương pháp nghiên cứu

Để thực hiện nhiệm vụ của luận văn, người viết sử dụng các phương

pháp nghiên cứu sau:

- Phương pháp phân tích ngôn ngữ học: Người viết sử dụng phương

pháp này để phân tích, khái quát đặc điểm ngữ nghĩa, ngữ dụng, tính biểu

trưng của lớp từ ngữ chỉ màu sắc trong tiếng Việt.

- Phương pháp thống kê: Phương pháp này được dùng để khảo sát tần

số xuất hiện của từ ngữ chỉ màu sắc.

- Phương pháp hệ thống: Khi tập hợp các từ ngữ chỉ màu sắc, cần thiết

phải phân loại, sắp xếp các đơn vị theo hệ thống những tiêu chí nhất định, chủ

yếu là về ngữ nghĩa.

4.2 Nguồn ngữ liệu

Để thực hiện đề tài, luận văn thu thập, khảo sát từ ngữ chỉ màu sắc trong

Từ điển tiếng Việt do Hoàng Phê (chủ biên) (tái bản 2003, NXB Đà Nẵng) và

một số văn bản sau:

- Thành ngữ tiếng Việt (Nguyễn Lực)

- Kho tàng ca dao người Việt (Nguyễn Xuân Kính chủ biên)

- Truyện Kiều của Nguyễn Du

- Thơ Thơ và Gửi hương cho gió của Xuân Diệu

- Gió lộng của Tố Hữu

- Tùy bút Hà Nội ta đánh Mỹ giỏi của Nguyễn Tuân.

Ngoài ra, khi cần đối chiếu làm rõ, luận văn có khảo sát thêm một số

tác phẩm của Hồ Xuân Hương, Nguyễn Khuyến, Thế Lữ,… ở những phần

liên quan.

5. Cấu trúc luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, phần nội

dung gồm có 3 chương:

Chương 1: Chương này trình bày những lí luận cơ sở về khái niệm tính

biểu trưng của từ ngữ, khái niệm màu sắc và từ ngữ chỉ màu sắc; đặc điểm

cấu tạo, ngữ nghĩa của từ ngữ chỉ màu sắc trong tiếng Việt. Đây là chương

làm tiền đề cho việc khảo sát và phân tích nghĩa biểu trưng của từ ngữ chỉ

màu sắc trong tiếng Việt ở chương sau.

Chương 2: Chúng tôi tiến hành khảo sát nghĩa biểu trưng của từng

nhóm màu trong từ điển và trong các văn bản thuộc phong cách ngôn ngữ văn

chương. Thông qua kết quả khảo sát ngữ liệu, trong chương này, luận văn nêu

bật những ý nghĩa biểu trưng của từng nhóm màu, góp phần làm rõ nghĩa của

lớp từ chỉ màu sắc trong tiếng Việt.

Chương 3: Chương này khảo sát và phân tích ý nghĩa biểu trưng của từ

ngữ chỉ màu sắc trong thành ngữ tiếng Việt (có đối chiếu với tiếng Anh). Sự

đối chiếu này có thể góp phần làm sáng tỏ những ý nghĩa biểu trưng của từ

ngữ chỉ màu sắc trong tiếng Việt.

Chương 1: CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ ĐẶC ĐIỂM CỦA

TỪ NGỮ CHỈ MÀU SẮC TRONG TIẾNG VIỆT

1.1 Nghĩa và tính biểu trưng của từ ngữ

1.1.1 Nghĩa của từ

“Từ là đơn vị nhỏ nhất của ngôn ngữ, độc lập về ý nghĩa và hình thức”,

nói cách khác, từ là đơn vị có nghĩa.

Theo Nguyễn Thiện Giáp [22:76], ta có một tam giác ngữ nghĩa có tính

khái quát: một đỉnh là ngữ âm, một đỉnh là cái sở chỉ (đối tượng biểu thị), một

đỉnh là cái sở biểu (ý niệm)

Gọi tên

Biểu hiện

Từ ngữ âm

Phản ánh

Cái sở chỉ Cái sở biểu

Sơ đồ 1.1: Tam giác ngữ nghĩa của từ

Cái sở chỉ là đối tượng mà từ biểu hiện, gọi tên. Cái sở chỉ có thể gồm

những đối tượng ngoài ngôn ngữ như: sự vật, hiện tượng trong thực tế khách

quan, tư duy và người sử dụng và những đối tượng trong ngôn ngữ như: chức

năng tín hiệu học, hệ thống (cấu trúc) của ngôn ngữ.

Cái sở biểu là sự phản ánh của đối tượng trong nhận thức con người.

Nó phản ánh sự vật, hiện tượng trong nhận thức con người. Cần phân biệt cái

được biểu hiện với nghĩa của đơn vị ngôn ngữ. Nghĩa của từ (cũng như của

các đơn vị ngôn ngữ khác) là quan hệ của từ với khái niệm về sự vật hiện

tượng nằm ngoài bản thân nó. Hiểu nghĩa của một đơn vị nào đó là hiểu đơn

vị ấy có quan hệ với cái gì, tức là nó biểu thị cái gì.

Vì từ có quan hệ rất đa dạng với các hiện tượng khác cho nên nghĩa của

từ cũng là một hiện tượng phức tạp, bao gồm một số thành tố chính như:

a. Nghĩa sở chỉ: là mối quan hệ của từ với đối tượng mà từ biểu thị.

Đối tượng mà từ biểu thị không phải chỉ là những sự vật, mà còn là các quá

trình, tính chất hoặc hiện tượng thực tế nào đó. Những sự vật, quá trình, tính

chất hoặc hiện tượng mà từ biểu thị được gọi là cái sở chỉ của từ. Mối quan hệ

của từ với sở chỉ được gọi là nghĩa sở chỉ.

b. Nghĩa sở biểu: là quan hệ của từ với ý, tức là khái niệm hoặc

biểu tượng mà từ biểu hiện. Khái niệm hoặc biểu tượng có quan hệ với từ

được gọi là cái sở biểu và quan hệ của từ với cái sở biểu được gọi là nghĩa sở

biểu. Thuật ngữ ý nghĩa thích hợp nhất để dùng chỉ nghĩa sở biểu.

Cái sở biểu và cái sở chỉ của một từ có quan hệ chặt chẽ với nhau. Cái

sở biểu chính là sự phản ánh của cái sở chỉ trong nhận thức con người. Tuy

nhiên giữa cái sở biểu và cái sở chỉ vẫn có sự khác nhau rất lớn. Mỗi cái sở

biểu có thể ứng với nhiều cái sở chỉ khác nhau vì nó có quan hệ với cả một

lớp hạng đối tượng trong thực tế. Ngược lại, một cái sở chỉ có thể thuộc vào

những cái sở biểu khác nhau, bởi vì cùng một sự vật, tùy theo đặc trưng có thể

tham gia vào một số lớp, hạng khác nhau, bắt chéo nhau.

Nghĩa sở chỉ thể hiện ra khi sử dụng các từ trong lời nói. Nó không có

tính ổn định, bởi vì bản thân mối quan hệ của từ với cái sở chỉ có thể thay đổi

tùy theo hoàn cảnh nói năng cụ thể.

Quan hệ giữa ngữ âm của từ với cái sở biểu, tức là nghĩa sở biểu của từ

đó, trong một giai đoạn lịch sử nhất định là cái có tính chất ổn định. Vì vậy,

nghĩa sở biểu thuộc vào hệ thống ngôn ngữ. Khi nói đến ý nghĩa hay nghĩa từ

vựng của các từ, trước hết người ta muốn nói đến chính nghĩa này.

c. Nghĩa sở dụng: là quan hệ của từ với người sử dụng (người nói,

người viết, người nghe, người đọc). Người sử dụng phải chú ý đến từ ngữ

được dùng. Họ có thể bộc lộ thái độ, cảm xúc của mình với từ ngữ và qua đó

tới cái sở chỉ và cái sở biểu của từ ngữ. Quan hệ của từ với người sử dụng

được gọi là nghĩa sở dụng.

d. Nghĩa kết cấu: là quan hệ giữa từ với những từ khác trong hệ

thống từ vựng được gọi là nghĩa kết cấu. Nghĩa sở chỉ và nghĩa sở biểu trong

các ngôn ngữ đều có quan hệ với việc nhận thức hiện thực khách quan.

Nhưng sự hình thành của những cái sở biểu lại được diễn ra trên cơ sở ngôn

ngữ, bằng những phương tiện có sẵn, cho nên có thể đạt đến các cái sở biểu

bằng những con đường khác nhau, bởi vì bản thân quá trình nhận thức được

thực hiện bằng những biện pháp ngôn ngữ khác nhau. Khi các biện pháp ngôn

ngữ thay đổi thì cái sở biểu cũng thay đổi. Chính vì vậy, cái sở biểu của

những từ tương ứng trong các ngôn ngữ không hoàn toàn giống nhau. Sự khác

nhau là do quan hệ nội tại lẫn nhau giữa các từ trong từng ngôn ngữ qui định.

Quan hệ giữa từ này với từ khác thể hiện trên hai trục: trục đối vị và

trục ngữ đoạn. Quan hệ của từ đối với từ khác trên trục đối vị được gọi là

nghĩa khu biệt hay giá trị. Quan hệ của từ với các từ khác trên trục ngữ đoạn

được gọi là nghĩa cú pháp hay ngữ trị. Nghĩa cú pháp hay ngữ trị của từ chính

là khả năng kết hợp từ vựng và khả năng kết hợp cú pháp của từ đó. Khả năng

kết hợp từ vựng là khả năng kết hợp của các nghĩa, còn khả năng kết hợp cú

pháp là khả năng dùng các từ trong những cấu trúc nào đó.

Theo Đỗ Hữu Châu, ý nghĩa của từ là một tập hợp một số thành phần

nhất định, bao gồm các ý nghĩa sau:

- Ý nghĩa biểu vật ứng với chức năng biểu vật: Ý nghĩa biểu vật là sự

phản ánh sự vật, hiện tượng, trong thực tế vào ngôn ngữ. Đó là những mẩu,

những mảnh, những đoạn cắt của thực tế nhưng không hoàn toàn trùng với

thực tế.

- Ý nghĩa biểu niệm ứng với chức năng biểu niệm: Sự vật, hiện tượng

trong thực tế khách quan được phản ánh vào tư duy thành các khái niệm, được

phản ánh vào ngôn ngữ thành các ý nghĩa biểu vật và từ ý nghĩa biểu vật có ý

nghĩa biểu niệm tương ứng. Các ý nghĩa biểu niệm một mặt thông qua các ý

nghĩa biểu vật mà liên hệ với thực tế khách quan, mặt khác lại có liên hệ khái

niệm, qua khái niệm mà liên hệ với các sự vật, hiện tượng bên ngoài.

- Ý nghĩa biểu thái ứng với chức năng biểu thái: Ý nghĩa biểu thái là

những nhân tố đánh giá (to, nhỏ, cao, lớn,…), nhân tố cảm xúc (dễ chịu, khó

chịu, sợ hãi), nhân tố thái độ (trọng, khinh, yêu, ghét,)… mà từ gợi ra cho

người nói và người nghe.

- Ý nghĩa ngữ pháp ứng với chức năng ngữ pháp

Tính biểu trưng là sự biểu hiện một cách tượng trưng và tiêu biểu nhất.

Như vậy tính biểu trưng thuộc thành phần ý nghĩa biểu niệm của từ.

Ngoài những quan niệm về nghĩa của từ đã trình bày trên đây, một số

nhà nghiên cứu Việt ngữ học còn có quan điểm khác về nghĩa của từ. Đó là

quan niệm nghĩa của từ chỉ là nghĩa biểu niệm (nghĩa sở biểu).

1.1.2 Nghĩa biểu trưng

Mỗi sự vật, thông qua tên gọi, thường gợi lên trong ý thức người bản

ngữ một liên tưởng nào đó, gắn liền với một đặc điểm, thuộc tính của sự vật.

Quá trình liên tưởng dẫn tới sự ra đời của nghĩa bóng, nghĩa phái sinh bằng

phương thức chuyển nghĩa ẩn dụ, hoán dụ. Đó cũng là quá trình hình thành

nghĩa biểu trưng. Những nghĩa chuyển được dùng để biểu hiện một cách

tượng trưng, ước lệ cho yếu tố có tính khái quát, trừu tượng, nghĩa đó là nghĩa

biểu trưng.

John Lyons [46: 21] phân tích: Một sự vật được coi là tín hiệu (sign)

của một cái khác được gọi là biểu trưng. Nhờ sự hiện diện của những tín hiệu

mà người khác có thể suy đoán nghĩa biểu thị. Khi đó, biểu trưng (symbol)

được xác lập.

Theo Từ điển giải thích thuật ngữ ngôn ngữ học [85], thì cái biểu trưng

(symbol) là “kí hiệu, dấu hiệu mà nội dung khái niệm do nó biểu đạt được biết

nhờ vào tri giác suy luận từ chính bản thân cái đặc trưng, cái thuộc tính của

bản thể và hình thái cấu tạo của nó” [85: 30].

Theo quan niệm trên thì từ ngữ là cái biểu trưng và những nghĩa phái

sinh (derivative meaning) như nghĩa ẩn dụ (metaphor), nghĩa hoán dụ

(metonymy) đều là nghĩa biểu trưng bởi đều được suy ra từ những nghĩa cơ sở

(nghĩa gốc) dựa trên tính tương đồng và tương cận. Ví dụ như: “cáo” là tên

của một loại thú ăn thịt, sống ở rừng, gần với chó nhưng chân thấp, tai to,

mõm nhọn. Thế nhưng “cáo” trong câu “Thằng cha đó cáo lắm.” thì có nghĩa

là tinh ranh, gian xảo.

Nghĩa biểu trưng cũng được tạo ra theo quy luật hoán dụ. Chẳng hạn từ

“chân” (danh từ) có nghĩa gốc là “bộ phận dưới cùng của cơ thể người hay

động vật, dùng để đi, đứng; thường được coi là biểu tượng của hoạt động đi

lại của con người” [53: 240]. Trên cơ sở nghĩa gốc nêu trên, từ “chân” còn có

thể dùng với nghĩa phái sinh hoán dụ là “cương vị, phận sự của một người với

tư cách là thành viên của một tổ chức: có chân trong hội đồng, thiếu một chân

tổ tôm,…

Từ điển tiếng Việt [53] giải thích: biểu trưng (động từ và danh từ) “là

biểu hiện một cách tượng trưng và tiêu biểu nhất”. Từ điển Oxford Advanced Leaner (7th edition) định nghĩa: biểu trưng là biểu tượng của thứ gì đó. Từ

điển Từ Hải (Trung Quốc) thì cho rằng biểu trưng là dùng sự vật cụ thể biểu

hiện các ý nghĩa trừu tượng nào đó. Ví dụ: con rồng là biểu trưng cho một tín

ngưỡng hay những biểu trưng nghệ thuật thời nguyên thủy. Theo quan niệm

này thì ngoài loại biểu trưng bằng từ ngữ còn có biểu trưng bằng hình ảnh gọi

là biểu tượng. Trong tiếng Anh gọi là symbol. Những biểu trưng bằng hình

ảnh như: cây thánh giá biểu trưng, biểu tượng cho Thiên Chúa giáo, cái cân là

biểu tượng của công lí, búa- liềm trong cờ Đảng là biểu tượng cho sự đoàn kết

gắn bó của giai cấp công nhân và nông dân, cây măng trong huy hiệu nhi

đồng là biểu trưng cho sự lớn nhanh của thiếu nhi,…

Như vậy, các từ ngữ với nghĩa gốc có thể làm cơ sở tạo nên một nghĩa

phái sinh được coi là có tính biểu trưng. Các nghĩa phái sinh (ẩn dụ, hoán dụ)

được tạo ra trên cơ sở nghĩa gốc theo cách này được coi là nghĩa biểu trưng.

Theo đó, có thể hình dung nghĩa biểu trưng theo sơ đồ:

Ý thức bền vững

Các phương thức chuyển nghĩa

Nghĩa phái sinh Nghĩa gốc của từ Nghĩa biểu trưng

Sơ đồ 1.2: Quá trình hình thành nghĩa biểu trưng

1.2 Từ ngữ chỉ màu sắc

1.2.1 Khái niệm về màu sắc

Màu sắc là một thuộc tính của vật thể, tồn tại một cách khách quan

trong thế giới vật chất mà thị giác con người có thể nhận biết được. Sự vật có

màu khác nhau là do chúng có tần số ánh sáng khác nhau, còn sắc tức là

trạng thái màu của sự vật, mỗi màu có một sắc thái riêng.

Trang web wikipedia định nghĩa: Màu sắc là đặc tính giác quan của thị

giác con người. Màu sắc có được do ánh sáng quang phổ tác động vào mắt

bằng các trực giác quang phổ của cơ quan hấp thụ ánh sáng [95].

Các loại màu sắc và các chỉ định về vật lí của màu sắc cũng có liên

quan đến các vật thể, vật liệu, các nguồn ánh sáng,…;chúng được dựa vào các

đặc tính tự nhiên như sự hấp thụ, sự phản chiếu hoặc là sự phát ra quang phổ.

Như vậy, có thể tạm mượn định nghĩa về màu sắc của Đào Thản để làm

cơ sở cho luận văn: Màu sắc là một thuộc tính của vật thể, tồn tại một cách

khách quan trong thế giới vật chất, mà thị giác con người có thể nhận biết

được [60].

1.2.2 Từ ngữ chỉ màu sắc

Sự nhận thức và phân biệt màu sắc hoàn toàn có tính chất chủ quan đối

với từng cộng đồng người nhất định. Trong các ngôn ngữ khác nhau, người ta

phân chia dải màu và ghi nhận các sắc độ, sắc thái về màu sắc theo những

cách riêng khác nhau. Vì thế hệ thống tên gọi màu sắc của các ngôn ngữ cũng

không giống nhau. Vấn đề này đã được nhiều nhà khoa học quan tâm nghiên

cứu và có cả những nhà ngôn ngữ học. Màu sắc được thể hiện bằng danh từ

và tính từ trong hệ thống từ loại. Trong đó, tính từ chỉ màu sắc được sử dụng

rộng rãi hơn cả.

Qua khảo sát 78 ngôn ngữ, B.Berlin và P.Kay đã có nhận xét về các

màu cơ bản (primary colour) một cách phổ quát như sau [Dẫn theo 59]:

- Mọi ngôn ngữ ít nhất cũng có hai từ chỉ màu đen và màu trắng.

- Nếu có ba từ thì có thêm màu đỏ.

- Nếu có bốn từ thì có thêm xanh lá hoặc vàng.

- Nếu có năm từ thì có thêm cả xanh lá và vàng.

- Nếu có sáu từ thì có thêm màu xanh da trời.

- Nếu có bảy từ thì có thêm màu nâu.

- Nếu có trên bảy từ thì có thêm tím, hồng, da cam, xám hoặc hỗn hợp

những màu này.

Từ các kết luận trên, có thể thấy rằng trong sự ghi nhận màu sắc, vấn đề

xác định màu cơ bản (màu chính) và màu phụ là một thực tế đặt ra đối với

nhiều ngôn ngữ. Tính hệ thống của các từ ngữ chỉ màu đòi hỏi phải chỉ ra

được trong một ngôn ngữ những màu nào được coi là màu cơ bản, những màu

nào là màu phụ và ứng với chúng là những từ ngữ nào. Đồng thời, cũng có thể

suy ra: Số lượng từ chỉ màu trong các ngôn ngữ nói chung không có sự tương

đương nhau, do sự ghi nhận và gọi tên màu sắc không giống nhau. Có ngôn

ngữ chỉ biết có hai màu lại có những ngôn ngữ lại phân biệt đến bảy màu.

Như vậy chỉ có thể nói đến việc xác định màu cơ bản ở từng ngôn ngữ cụ thể.

Hơn nữa, vấn đề này cũng quan trọng ở những ngôn ngữ có từ chỉ màu phong

phú như tiếng Việt.

Sự nhận thức về màu và phân chia dải màu để gọi tên các màu ở các

ngôn ngữ thường dựa trên cảm nhận thị giác và quan điểm truyền thống của

từng cộng đồng người. Vì lẽ đó, một số màu được coi là cơ bản ở ngôn ngữ

này lại có thể không phải là màu cơ bản ở ngôn ngữ khác. Chẳng hạn, thời

xưa, ông cha ta không xem màu xanh da trời, xanh lá cây và màu da cam là

màu cơ bản trong tiếng Việt. Trong khi đó, ở tiếng Anh, theo Berlin va Kay,

các màu cơ bản lại là: trắng, đen, đỏ, xanh lá cây, vàng, xanh nước biển, nâu

tím hồng, da cam, xám; còn ở tiếng Nga, các màu cơ bản lại là hồng, nâu,

trắng, đen, xám cộng với bảy màu có trong quang phổ cầu vồng [Dẫn theo16:

16].

Trong tài liệu phổ quát trên, bảy từ chỉ màu được đưa ra không nhất

thiết là những từ chỉ màu sắc của riêng một ngôn ngữ nào; cũng không phải là

những màu của cầu vồng (đỏ, cam, vàng, lục, lam, chàm, tím). Nói cách khác,

bảy màu cầu vồng không có sự liên quan với nhóm màu cơ bản của từng ngôn

ngữ hay với bảy màu của tài liệu trên. Cũng có trường hợp như tiếng Nga,

nhóm màu cơ bản được các nhà nghiên cứu xác định gồm bảy màu cầu vồng

cộng thêm một số màu. Nhưng có một điểm tương đồng giữa các ngôn ngữ là

màu sắc được thể hiện bằng tính từ và danh từ trong hệ thống từ loại.

Nhân đây, chúng tôi cũng muốn phân biệt từ chỉ màu sắc với các từ

đồng âm với nó nhằm mục đích không xét đến các trường hợp có vỏ ngữ âm

giống với từ chỉ màu sắc.

Theo Nguyễn Thiện Giáp, hiện tượng đồng âm là hiện tượng trùng

nhau về ngữ âm nhưng khác nhau về nghĩa của hai hoặc hơn hai đơn vị ngôn

ngữ khác nhau. Đây là hiện tượng phổ biến trong các ngôn ngữ, nhưng mỗi

ngôn ngữ lại có những biểu hiện khác nhau. Tiếng Việt là ngôn ngữ không

biến hình nên các trường hợp từ đồng âm rất rõ. Trong đó, từ ngữ chỉ màu sắc

cũng có dạng đồng âm. Ví dụ như: xanh “màu xanh” và xanh “dụng cụ làm

bếp” hay vàng “màu vàng” với vàng là “cái vung”, là “kim loại”…

Qua khảo sát các từ ngữ chỉ màu sắc trong tiếng Việt, chúng tôi có

bảng thống kê các từ đồng âm sau:

Bảng 1.1: Phân biệt từ chỉ màu sắc với các từ đồng âm

Từ chỉ màu sắc Nghĩa của từ đồng âm

Trắng

Đỏ: làm cho cháy

Đỏ Hồng2 Hồng: lớn – hồng phúc

Xanh Xanh: dụng cụ làm bếp

Vàng Vàng: kim loại quý/ vung

Đen

Nâu Nâu: củ nâu

Tím

2 Màu hồng là màu phụ của đỏ, nhưng người viết xếp riêng để tiện quan sát. Ở đây, luận văn không xét các trường hợp bạc với màu bạc, đồng với màu đồng,… vì đây là trường hợp chuyển nghĩa sẽ phân tích ở sau.

Xám

1.2.3 Tính biểu trưng của từ chỉ màu sắc trên thế giới

Từ xa xưa, con người đã biết dùng màu sắc để tạo thành các biểu tượng

biểu trưng cho những giá trị tâm linh trong đời sống văn hóa, xã hội. Dùng

màu sắc để biểu trưng có thể theo hai cách:

- Dùng riêng từng màu: một số màu biểu trưng cho các nguyên tố hóa

học, biểu trưng cho không gian, biểu trưng cho thời gian, biểu trưng cho vũ

trụ.

- Dùng kết hợp các màu: các biểu tượng tôn giáo, quốc kì, văn hóa

các dân tộc,…

Theo Từ điển biểu tượng thế giới [38], quan niệm về màu sắc của các

nước được giới thiệu như sau:

(1) Màu da cam (orange): ở nửa chừng vàng và đỏ, màu da cam có

tính quang hóa nhất trong các màu sắc. Giữa màu vàng kim loại của trời và

màu đỏ son của đất, màu da cam tượng trưng trước hết cho điểm cân bằng

giữa trí tuệ và dục năng. Thế nhưng sự cân bằng này có xu thế bị phá vỡ theo

hướng này hay hướng kia thì nó trở thành biểu trưng cho thánh thiện hoặc

dâm dục.

- Theo hướng biểu trưng cho sự thánh thiện: Màu cây thánh giá bọc

nhung của những Hiệp sĩ của Chúa Thánh thần. Đá quý hyacinthe màu da

cam được xem là biểu tượng của lòng chung thủy. Nó biểu trưng cho một

trong mười hai bộ tộc của Israel trên miếng bố tử của vị Đại tư tế thành

Jérusalem. Màu này cũng xuất hiện trên vương miện của vua nước Anh,

tượng trưng cho đức tiết độ và điềm đạm của các bậc đế vương.

- Theo hướng tượng trưng cho sự không chung thủy và tà dâm: theo

những truyền thống bắt nguồn từ sự thờ bái Đất- Mẹ, màu da cam đã được sử

dụng trong các lễ hội truy hoan. Và theo thần thoại, thần Dionysos mặc áo

quần màu da cam.

(2) Màu đen (black):

- Màu đen hay được cảm nhận trước tiên ở mặt lạnh lùng, tiêu cực của

nó. Màu đen gợi liên tưởng đến bóng tối thuở hồng hoang, đến trạng thái bất

phân nguyên thủy. Một số dân tộc xem màu đen tượng trưng cho địa ngục, âm ti (người da đỏ Pueblo, người Algonkin,…). 3

- Màu đen biểu thị tính thụ động tuyệt đối, trạng thái chết hoàn toàn và

bất di bất dịch. Màu đen là màu tang tóc nhưng nặng nề và khủng khiếp hơn

màu trắng (màu tang trắng chỉ sự trống vắng nhất thời, sẽ được tái sinh):

Adam và Eva của đạo Zoroastre, bị Ahriman phỉnh lừa, mặc đồ đen rời khỏi

thiên đàng.

- Là màu của sự tuyên phạt, từ chối mọi hư danh nơi trần thế này: áo

choàng đen của tu sĩ đạo Kitô và đạo Hồi; ở Ai Cập, hình con bồ câu đen chỉ

người quả phụ ở vậy cho đến chết hay ý nghĩa định mệnh của con tàu buồm

đen trong sử thi Hy Lạp và tình sử Tristan.

- Màu đen khởi nguyên là một biểu tượng phồn thực. Ở Ai Cập cổ

cũng như ở Bắc Phi, đây là màu của đất đai màu mỡ, của đám mây sắp mưa.

Vì vậy, màu đen của đất đai phì nhiêu được ngợi ca trong các cuộc hiến tế thần Địa ngục. 4

- Màu đen gắn với cái ác, cái vô thức. Trong tiếng Pháp, người đáng

ghét được gọi là bête noire (con thú đen). Học sinh ở Anh gọi ngày thứ hai

phải trở lại lớp học là Black Monday (Thứ hai Đen) và người La Mã đánh dấu

các ngày xấu bằng một cục đá đen.

- Màu đen còn tương ứng với khí âm Trung Hoa, thuộc nữ tính, bản

3 Các dân tộc khác xem địa ngục thuộc màu trắng. 4 Lễ hiến tế các súc vật màu đen, được trang trí bằng những dải vải cùng màu. Các cuộc tế thần này chỉ được diễn ra trong bóng tối và đầu con vật tế thần phải chúc xuống đất.

năng và thuộc về người mẹ: nhiều Thánh mẫu; nhiều Đức Mẹ Đồng Trinh da

đen; các nữ thần Diane ở Éphèse, Kali của đạo Hinđu hoặc Isis ở Ai Cập được

thể hiện với màu đen; một tảng đá đen tượng trưng cho Magna Mater (Mẹ Vĩ

Đại),…

(3) Màu đỏ (red): được coi là biểu tượng cơ bản của bản nguyên

sống, với sức mạnh quyền năng; tuy nhiên nó cũng mang tính biểu trưng

nhiều mặt.

- Màu đỏ sẫm là màu của âm tính, kín đáo và bí ẩn. Vì thế, trong một

thời gian có những đối tượng như đao phủ vận quần áo đỏ, là một người

không được đụng đến vì anh ta đã chạm đến chính cái bí mật của sự sống là

màu đỏ của máu.

- Màu đỏ tươi, màu của ban ngày, kích thích hoạt động, nó là hình ảnh

của sự hăng say, của tuổi trẻ, của chinh chiến, của sức khỏe và sự giàu có:

nam nữ thổ dân châu Mỹ bôi màu đỏ lên mặt xem như kích thích sức mạnh và

gợi dục; ở các nước như Nga, Nhật Bản, Trung Quốc đều sử dụng màu đỏ

trong các lễ hội dân gian, lễ cưới, sinh nhật,…

- Màu đỏ tía còn hiện thân cho màu quyền lực. Ở La Mã, nó là màu

của các tướng lĩnh, của hoàng tộc, của Hoàng đế: Bộ luật Justinien kết tội tử

hình những ai mua bán vải màu đỏ tía.

(4) Màu tím (purple, violet):

- Màu tím được tạo thành bằng hai lượng bằng nhau của màu đỏ và

màu xanh lam. Vì thế nó được xem là màu tiết độ, của sự tỉnh táo, của cách

hành động có suy nghĩ, có sự cân bằng giữa trời và đất, giữa cảm giác và trí

tuệ, giữa đam mê và sự khôn ngoan: các giám mục mặc áo chùng màu tím;

những cuộc giao hợp mang tính nghi lễ của người luyện yoga (nghi thức của

đạo Mật tông) được tiến hành trong những căn phòng có ánh sáng tím.

- Màu tím còn là giai đoạn chuyển tiếp của sự sống sang cái chết, sự

biến hóa. Vì vậy, các công trình kiến trúc thời Trung đại thường tạc hình

Chúa Jesus mặc áo dài tím trong ngày khổ nạn; dàn đồng ca trong nhà thờ

mặc áo màu tím vào ngày thứ sáu của Tuần lễ thánh. Muộn hơn một chút,

phương Tây cũng dùng màu tím làm màu tang hoặc nửa tang.

(5) Màu vàng (yellow):

- Màu vàng là màu nóng nhất, cởi mở nhất trong tất cả các màu. Vì thế

nó mang tính chất thần thánh: Thần Mặt trời, chư thần của người Aztèque,…

- Màu vàng kim trở thành biểu hiện uy quyền của các vị vương công,

các vị vua, các vị hoàng đế. Theo hệ biểu tượng của Trung Hoa, vàng là màu

của hoàng đế vì ông ta đứng ở trung tâm vũ trụ, như mặt trời nằm giữa trung

tâm bầu trời.

- Màu vàng khi đi vào cuộc sống thường bị gắn với tội ngoại tình, sự

dối trá, lừa phỉnh: Từ thế kỉ XVI và XVII, người ta sơn màu vàng lên nhà

những kẻ phản bội; màu vàng tái trong đạo Hồi là sự phản trắc và thất vọng;

trong sân khấu truyền thống Trung Quốc diễn viên hóa trang màu vàng biểu thị tính tàn bạo, giả dối, vô liêm sĩ. 5

(6) Màu xám (grey):

- Trong hệ biểu tượng của Kitô giáo, màu xám chỉ sự phục sinh của

người chết. Các nghệ sĩ thời Trung cổ đã khoác cho Chúa Kitô chiếc áo

choàng xám khi Chúa chủ tọa cuộc phán xử cuối cùng.

- Màu xám là màu của tro và sương mù. Người Do Thái cổ phủ tro lên

người để biểu lộ niềm đau đớn dữ dội. Ở châu Âu, màu xám tro là màu nửa

sau kì tang chế.

(7) Màu xanh

 Xanh da trời (blue) là màu sâu nhất, lạnh nhất, phi vật chất nhất

trong tất cả các màu. 5 Tuy nhiên, cũng trong sân khấu truyền thống đó, y phục màu vàng của vương tôn, hoàng đế biểu thị địa vị xã hội (chứ không phải tính cách). Cách sử dụng như thế cho thấy rõ tính hai mặt đặc thù của màu này, khiến nó vừa là màu sắc của thần thánh vừa là màu sắc của trần tục. [Kandinsky, Dẫn theo 38: 981]

- Màu xanh khiến cho hình dạng của đồ vật thanh thoát, cởi mở, nhạt

nhòe. Ở một số vùng của Ba Lan, vẫn còn phong tục sơn xanh nhà các cô gái

chưa chồng.

- Màu xanh là màu của chân lý: Thần Zeus ngự trị trên nền xanh da

trời; Quốc huy hoàng gia Pháp mang màu xanh da trời. Trong Phật giáo Tây

Tạng, màu xanh là màu của Vairocana, của sự hiền minh siêu nghiệm.

 Màu xanh lá cây (green) là màu của điềm tốt lành, biểu trưng

cho sự tăng trưởng. Tặng ai đó một vật màu xanh lá cây vào buổi sáng tức là

đem lại sự tốt lành cho người đó. Người ta tung lá cỏ về phía trăng non để làm

cho tháng mới tốt lành. Ở một số vùng của Maroc, người ta lót cành nguyệt

quế hoặc lá cọ xuống đáy mộ vì xem cây cỏ là ngọn nguồn của sự sống có thể

truyền nguồn sinh lực cho người chết.

(8) Màu trắng (white): có giá trị tuyệt đối, nằm ở mút của gam màu.

Tùy theo sắc độ của nó mà màu trắng là sự tổng hợp màu sắc hay không có

màu. Có khá nhiều ý nghĩa biểu trưng của màu trắng. Ở đây chỉ tạm khái quát

những ý nghĩa cơ bản nhất.

- Là màu của ánh sáng và sự sáng chói, biểu hiện một điềm lành. Vì

thế, trong ngày cưới, các cô dâu Nhật Bản thường mặc Kimono shiromuku

màu trắng với mong muốn hòa nhập với gia đình chồng; còn áo cưới màu

trắng của các cô dâu phương Tây lại thể hiện cho sự trong trắng, tinh khiết

của người con gái.

- Là màu của nguồn sức mạnh và sức khỏe. Ở Fez, khi một người nào

đó mắc bệnh thì bệnh nhân phải biếu thầy thuốc hoặc thầy cúng vật gì đó màu

trắng.

- Theo quan niệm truyền thống của các nước phương Đông, màu trắng

tượng trưng cho âm ti, màu tang tóc hay màu của Thần chết, người chết.

Con người xưa nay vẫn tìm cách cụ thể hóa màu sắc. Thái độ tiếp nhận

màu sắc của con người sẽ thay đổi tùy vào điều kiện, tính cách, cuộc sống của

họ. Như vậy, mỗi con người đều “quay” xung quanh khu vực màu sắc của

mình. Màu sắc có ý nghĩa đối với mỗi con người, mỗi dân tộc và cả nhân loại

vẫn còn là bí ẩn chưa khám phá hết.

1.2.4 Tính biểu trưng của từ chỉ màu sắc trong văn hóa Việt

Ở mỗi dân tộc việc vận dụng màu sắc có tập quán khác nhau. Ở Việt

Nam có những đặc trưng văn hóa về màu sắc thuộc phương Đông.

Trong tín ngưỡng tứ phủ6 của văn hóa dân gian, màu sắc chứa đựng cả

một hệ ý nghĩa biểu tượng trong tâm thức, tâm linh của người Việt. Ở đó,

người ta tuân thủ những qui định nghiêm ngặt về màu sắc của trang phục: Phủ

Đệ Nhất: Màu đỏ; Phủ Đệ Nhị: Màu xanh; Phủ Đệ Tam: Màu trắng; Phủ Đệ

Tứ: Màu vàng.

Từ xa xưa, màu sắc mang đặc trưng sắc thái của các tầng lớp xã hội

khác nhau: màu vàng là của vua, từ các quan đại thần cho đến thường dân,

cấm không ai được mặc quần áo hoặc xây dựng nhà cửa màu vàng. Màu tím

là sắc phục của các quan đại thần. Màu điều, màu đỏ dành riêng để tế thần và

làm sắc phục cho các cụ thượng thọ. Màu nâu sòng là của cửa Thiền dành cho

những kẻ quy y Phật tổ, cũng như màu đen là sắc phục của linh mục đạo Ki-

Tô. Màu xanh là của những người còn theo đòi Cửa Khổng sân Trình, của học

trò chưa đỗ đạt. Màu đen, màu nâu là trang phục rẻ tiền nhất của quần chúng

6 Tín ngưỡng tứ phủ xuất phát từ thế giới quan của người Việt cho rằng mỗi thế giới hữu hình luôn tồn tại song song với một thế giới vô hình. Người Việt cổ cho rằng có bốn thế giới: Thế giới trên trời (ở nước nông

nghiệp như ta chỉ đơn thuần coi thế giới trời là nơi trú ngụ các tác nhân gây mưa); thế giới dưới nước; thế

giới rừng (nơi sinh ra, nơi quần tụ của tổ tiên ta); thế giới người. Điểm đặc biệt ở VN là các thế giới này đều

do các bà mẹ (Mẫu) cai quản.

nông dân. Màu xanh nhập nội từ đất nước Trung Hoa sau giải phóng gọi là

xanh công nhân. Vì thế, màu đỏ, màu vàng, màu hồng, dùng trong trướng đối

dành để chúc tụng, khao lão, mừng rỡ, còn trong lễ tang chỉ có thể dùng màu

trắng, màu xanh, màu đen, màu tím...

Tuy nhiên, người Việt lại dùng quan tài quàn người chết có màu đỏ vì

họ quan niệm chết là sự mất đi chỗ này và thác sinh về chỗ khác. Các miếng

vải tắm tượng trong lễ mộc dục hay phủ bài vị đều có màu đỏ. Và tấm vải đỏ

này khi thay áo tượng thường được cắt nhỏ ban cho những em bé hay đau ốm,

khó nuôi.

Như vậy ta có thể thấy rằng trong mối quan hệ giữa ngôn ngữ và thực

tại khách quan, ngôn ngữ được coi là công cụ để cấu trúc hóa, mô hình hóa

thực tại khách quan. Cùng một hiện tượng thiên nhiên như quang phổ mặt

trời, cùng một khả năng cảm thụ thị giác nhưng ở mỗi cộng đồng người, mỗi

ngôn ngữ có một số lượng từ chỉ màu sắc khác nhau. Sự khác nhau này là do

sự khác biệt về những điều kiện, những nhu cầu về văn hóa vật chất và văn

hóa tinh thần ở mỗi cộng đồng người.

1.3 Từ ngữ chỉ màu sắc trong tiếng Việt

1.3.1 Đặc điểm cấu tạo của từ ngữ chỉ màu sắc trong tiếng Việt

1.3.1.1 Cấu tạo đơn tiết

Những đơn vị này có số lượng là 43/341 từ ngữ 7, chiếm tỉ lệ 13%. Cấu

tạo đơn tiết của từ chỉ màu sắc được tìm thấy không chỉ trong tên gọi của 8

nhóm màu chính: trắng, đỏ, xanh, vàng, đen, nâu, tím, xám mà còn xuất hiện

với những màu phụ của từng nhóm màu. Ví dụ: bạc, ngà, đào, điều, lơ, cốm,

nghệ, chanh, thâm, ô, gạch, đất, sim, tro, khói, ghi,…

1.3.1.2 Cấu tạo từ hình thức ghép

Những đơn vị này chiếm số lượng nhiều, gồm 276/341 từ ngữ, chiếm tỉ

7 Xem chi tiết danh sách ở Phụ lục 1.

lệ 81% và tất cả đều là ghép chính phụ. Yếu tố cấu tạo thứ nhất trong tổ hợp

ghép này thường là từ chỉ màu cơ bản và một số từ chỉ màu phụ đơn âm tiết

dạng: thâm, ghi, tái,… Yếu tố thứ hai đi sau phụ nghĩa, giải thích thêm về sắc

thái, mức độ. Có thể khái quát các kiểu như sau:

a. Các màu cơ bản kết hợp với nhau: nâu đen, xanh xám, trắng

xanh, tím đen, tím đỏ, đỏ nâu,… Các từ chỉ màu cơ bản đều có khả năng làm

một yếu tố cấu tạo nên từ mới. Chúng có thể kết hợp với nhau tạo ra một từ

chỉ màu mới, từ chỉ màu phụ. Mặc dù cả hai yếu tố đều là từ chỉ màu cơ bản,

nhưng chỉ có yếu tố thứ nhất mới thật sự là màu chủ đạo, còn yếu tố thứ hai

chỉ có tính phụ nghĩa thêm về sắc thái của màu chính, khu biệt nó với các

mức độ, sắc thái màu cùng nhóm, chức năng giống hệt như những yếu tố thứ

hai của các loại khác.

b. Màu cơ bản kết hợp với màu phụ: Loại này có hai dạng:

* Màu cơ bản + màu phụ:

- Yếu tố thứ nhất là màu cơ bản, yếu tố thứ hai thường là từ chỉ màu

phụ được vay mượn từ các ngôn ngữ khác: đỏ hồng, xanh lơ, xanh dương,

trắng bạch,…

- Yếu tố thứ nhất là màu cơ bản, yếu tố thứ hai là những từ chỉ màu

phụ có tên gọi từ những sự vật, hiện tượng trong thế giới tự nhiên như: vàng

cam, xanh lá mạ, xanh nõn chuối, trắng sữa, nâu đất, xám chì,… Yếu tố thứ

hai nhằm biểu thị sắc thái màu riêng biệt của từng loại màu tương ứng với sự

vật, hiện tượng có thật trong thực tế. Dạng này chiếm số lượng khá nhiều.

* Màu phụ + màu cơ bản: trường hợp này chiếm số lượng không nhiều

như: ghi xám, tái xanh, thâm đen,… nhằm chỉ sắc thái màu trung gian nhưng

màu cơ bản ở đây không phải là yếu tố chính.

c. Màu cơ bản kết hợp yếu tố phụ:

* Tổ hợp song tiết kiểu “A+ x” (theo tác giả Hoàng Văn Hành- 1992).

Trong những tổ hợp này, yếu tố thứ nhất “A” là một màu cơ bản hoặc từ chỉ

màu phụ đơn tiết; “x” thuộc nhóm phụ nghĩa biểu thị mức độ của màu sắc.

Xét về nguồn gốc, yếu tố thứ hai này là những đơn vị chỉ màu của các ngôn

ngữ thân thuộc với tiếng Việt như: trắng bong, trắng bóc, xanh lè,… (bong,

bóc, lè,… trong tiếng Chàm, Chăm, Êđê); hoặc là sản phẩm của quá trình rút

gọn thành ngữ so sánh: đen như thui=> đen thui, đỏ như gấc => đỏ gấc,…;

hoặc chúng là kết quả của quá trình nhược hóa ngữ nghĩa của yếu tố thứ hai

trong tổ hợp ghép phụ nghĩa như đỏ tươi thành đỏ au.

* Màu cơ bản + yếu tố không có nghĩa chỉ màu

Dạng này, yếu tố thứ hai trong tổ hợp này đều là những thực từ không

được dùng để chỉ màu nhưng có tính chất bổ sung thêm về sắc thái của màu.

Ví dụ: chói, đục, rực, bợt, mọng, thắm, nhạt,… đều là những thực từ chỉ các

kiểu tính chất, sắc thái của sự vật, hiện tượng trong tiếng Việt. Nhưng khi kết

hợp với từ chỉ màu sắc, chúng có tác dụng làm tăng hoặc giảm các mức độ về

sắc cho các từ chỉ màu với tư cách là một yếu tố phụ nghĩa. Điểm đặc biệt là

các từ này có khả năng phụ nghĩa cho nhiều từ chỉ màu cùng lúc như: đỏ rực,

vàng rực; trắng nõn, xanh nõn,…; tuy nhiên cũng có những từ chỉ bổ sung

cho những từ chỉ màu nhất định như: tím chết, xanh rờn, tím than, trắng

đục,…

* Ngoài yếu tố phụ nghĩa nói trên, yếu tố thứ hai của loại này còn có

những thực từ có tác dụng phụ nghĩa ẩn dụ: tím huế (vì người Huế thường

mặc áo dài tím), xanh công nhân (màu xanh đặc trưng của bộ quần áo công

nhân Việt Nam), xanh hòa bình (người ta thường liên tưởng hòa bình với màu

xanh),…

1.3.1.3 Cấu tạo từ hình thức láy

Có thể nói, trong tiếng Việt, hầu như các từ chỉ màu cơ bản và những từ

chỉ màu phụ đơn âm tiết đều có khả năng cấu tạo nên những từ chỉ màu phụ

theo phương thức láy, gồm hai kiểu láy hoàn toàn và láy bộ phận. Những đơn

vị này có số lượng 22/341 từ ngữ, chiếm số lượng 6%.

a. Láy hoàn toàn: xanh xanh, đỏ đỏ, hồng hồng, tím tím, trăng trắng,

vàng vàng,… Những từ có hình thức này được gọi là láy toàn bộ (có thể biến

đổi về thanh điệu). Đặc điểm của loại này là các màu sắc thường bị giảm đi

mức độ, kèm theo sự loang ra của màu sắc đó nên chúng thường là những

màu nhạt. Song phạm vi biểu vật của những màu phụ này khá rộng.

b. Láy bộ phận: xanh xao, trắng trẻo, đen đúa, đỏ đọc, vàng vọt, xám

xịt, đỏ đắn,… Những đơn vị láy này hầu hết là láy phụ âm đầu. Với dạng láy

này, phạm vi biểu vật của các từ chỉ màu này thường bị thu hẹp lại, ví dụ: đỏ

đọc chỉ dùng cho mắt, vàng võ chỉ dùng cho da người,… Cũng chính vì thế,

những từ chỉ màu phụ loại này dễ gợi cho người ta những hình ảnh cụ thể của

cái biểu vật đó.

Sau đây là biểu đồ thể hiện tỉ lệ cấu tạo của từ ngữ chỉ màu sắc trong

0

13%

6%

Đơn tiết

Ngữ láy

Ngữ ghép

81%

tiếng Việt.

Biểu đồ 1.1: Tỉ lệ cấu tạo của từ ngữ chỉ màu sắc trong tiếng Việt

1.3.2 Đặc điểm ngữ nghĩa của từ ngữ chỉ màu sắc trong tiếng Việt

1.3.2.1 Ngữ nghĩa của từ ngữ chỉ màu sắc cơ bản trong tiếng Việt

Theo Từ điển tiếng Việt (Viện Ngôn ngữ học), từ ngữ chỉ màu sắc

được giải thích nghĩa như sau:

(1) Đen:

- Có màu của than, của mực tàu.

- Có màu tối, không sáng, trái với trắng: da đen, mây đen.

- Không được may mắn do một sự ngẫu nhiên nào đó, trái với đỏ: số

đen.

- (Dùng phụ sau danh từ, hạn chế sau một số tổ hợp); nghĩa là được giữ

kín, không công khai cho mọi người biết, thường có tính chất phi pháp: quỹ

đen, chợ đen.

- Đông (kín người) đến mức không có chỗ hở và tạo nên một màu tối:

xúm đen lại, đen đặc người.

- (Nốt nhạc) có độ dài bằng nửa nốt trắng hay một phần tư nốt tròn.

(2) Trắng:

- Có màu của vôi, của bông: vải trắng, giấy trắng.

- Có màu sáng, phân biệt với những cái cùng loại mà sẫm màu hoặc

màu khác: đường cát trắng, rượu trắng.

- (Kết hợp hạn chế); hoàn toàn không có gì cả: mất trắng, bàn tay trắng.

- Nói rõ sự thật, không che giấu gì: nói trắng ra.

- (Nốt nhạc) có độ dài bằng hai nốt đen hoặc nửa nốt tròn.

(3) Xanh:

- Có màu như màu lá cây, nước biển: lũy tre xanh, non xanh nước biếc.

- (Quả cây) chưa chín, còn non: chuối xanh, đu đủ xanh.

- (Kết hợp hạn chế, dùng trong văn chương); người tuổi đời còn trẻ: đầu

xanh, tuổi xanh.

(4) Đỏ:

- Có màu như màu của son, của máu: mặt đỏ, khăn quàng đỏ.

- Ở trạng thái cháy hoặc làm cho ở trạng thái cháy (nói về lửa): đỏ lửa.

- Thuộc về cách mạng vô sản, tượng trưng cho cách mạng vô sản: Công

hội đỏ, Đội tự vệ đỏ.

- Có được sự may mắn ngẫu nhiên nào đó, trái nghĩa với đen: số đỏ, gặp

vận đỏ.

(5) Vàng:

- Có màu như màu của hoa mướp, của nghệ: lá vàng, lúa chín vàng.

- (Kết hợp hạn chế): nhạc vàng (nhạc bi lụy).

(6) Tím:

- Có màu như màu của đỏ và xanh hợp thành, như màu của quả cà dài:

mực tím.

- Có màu tím thẫm do bị dồn ứ đột ngột (da, thịt): bầm tím.

(7) Nâu: có màu trung gian giữa đen và đỏ hoặc giữa vàng và đỏ sẫm,

tương tự màu của nước củ nâu: áo nâu, mắt nâu.

(8) Xám: có màu trung gian giữa đen và trắng, như màu của tro bếp:

bầu trời xám.

1.3.2.2 Sự biến đổi ý nghĩa của từ ngữ chỉ màu sắc

Từ vựng của một ngôn ngữ lúc đầu thường thô sơ, nghèo nàn. Để phát

triển vốn từ của dân tộc, ngoài việc tạo ra những từ mới, người ta còn có cách

dùng từ có sẵn, bổ sung thêm, thêm bớt vài nét nghĩa nào đấy trong các từ cũ

để diễn đạt những nội dung mới xuất hiện trong cuộc sống. Việc này dựa trên

cơ sở tương đồng hoặc tương cận giữa các sự vật và tạo nên hiện tượng biến

đổi nghĩa của từ. Sự biến đổi nghĩa của từ là hiện tượng vỏ ngữ âm không

thay đổi nhưng nội dung của từ đổi khác đi bằng cách thêm hoặc bớt vài nét

nghĩa [Nguyễn Thiện Giáp]. Kết quả là tạo ra hiện tượng đa nghĩa của từ. Có

những cách để biến đổi nghĩa:

a. Mở rộng ý nghĩa các từ chỉ màu sắc

Mở rộng ý nghĩa là quá trình phát triển từ cái riêng đến cái chung, từ cụ

thể đến trừu tượng. Ý nghĩa được hình thành từ quá trình này gọi là nghĩa

rộng. Xét những ví dụ sau:

- Từ xanh ban đầu dùng để chỉ màu nhưng đã phát triển theo hướng mở

rộng: để chỉ sự khiếp sợ như xanh mặt, xanh mắt,…; chỉ môi trường như vành

đai xanh, cách mạng xanh,…; chỉ tuổi trẻ như đầu xanh, tóc xanh,…

- Đỏ cũng là từ chỉ màu sắc nhưng mở rộng chỉ trạng thái con người

như: đỏ con mắt, đỏ mặt tía tai; biểu trưng sự nguy hiểm: đèn đỏ, báo động

đỏ, danh sách đỏ,…; biểu trưng cho cách mạng: cờ đỏ, linh mục đỏ,…

- Từ trắng được mở rộng để chỉ sự trong sáng, hồn nhiên: áo trắng,

trong trắng,…; hay ám chỉ không có gì như trắng tay, trắng án,…

- Từ đen được người Việt biểu trưng cho sự không may mắn, xấu xa

như vận đen, tim đen,…; hoặc ám chỉ sự không công khai như hộp đen, chợ

đen,…

b. Thu hẹp ý nghĩa các từ chỉ màu sắc

Thu hẹp ý nghĩa là quá trình ngược lại của mở rộng ý nghĩa. Phạm vi ý

nghĩa của từ được phát triển từ cái chung đến cái riêng, từ cái trừu tượng tới

cái cụ thể. Ví dụ:

- Từ màu tím chung, dẫn đến những màu tím được thu hẹp như: tím

than, tím cà, tím bầm,…

- Từ vàng chung ta có thêm những màu vàng cụ thể: vàng hoe, vàng

khè, vàng chanh, vàng cúc,…

c. Ẩn dụ

Ẩn dụ là phép gọi tên sự vật bằng tên của một sự vật khác trên cơ sở

giữa chúng có mối quan hệ tương đồng [5: 54].

Trong tiếng Việt, những đơn vị chỉ màu sắc cấu tạo theo phương thức

trên chiếm số lượng khá nhiều (30%), là cách gọi tên các màu sắc tương ứng

bằng tên gọi của các sự vật, hiện tượng mang màu sắc đó: da cam, rêu, cánh

gián, lông chuột, mỡ gà, cổ vịt, da lươn, cà rốt, lá cẩm, nho, gạch non, …

d. Hoán dụ

Đây là một trong những phương thức cấu tạo từ rất phổ biến trong

nhiều ngôn ngữ. Hoán dụ là hiện tượng chuyển hóa tên của đối tượng này

được dùng để gọi tên đối tượng kia dựa trên qui luật liên tưởng tương cận.

Qui luật tâm lí này hoạt động như sau: nếu hai sự vật A và B có mặt đồng thời

gần nhau trong không gian hoặc trong thời gian thì khi nhắc đến sự vật A,

người ta nghĩ ngay đến sự vật B và ngược lại. Ví dụ: Cây bút trẻ Nguyễn Văn

A đã đoạt giải nhất cuộc thi. Ở đây, “cây bút” dùng thay cho nhà văn. Vậy

“cây bút” là từ dùng với nghĩa hoán dụ.

Trong quá trình nhận thức của con người, những nổi bật về đặc điểm

nào đó, cụ thể là đặc điểm về màu sắc, của những đơn vị có sẵn trong ngôn

ngữ (sự vật, hiện tượng có trong thế giới tự nhiên) có thể được tách ra để sử

dụng. Những điểm nổi bật đó có mối liên hệ chặt chẽ với các đơn vị (sự vật,

hiện tượng) nên tên gọi của những đơn vị mang đặc điểm được chuyển sang

gọi cả tên những đặc điểm nổi bật.

Trong từ ngữ chỉ màu sắc, ta có thể khái quát được các kiểu hoán dụ

như sau:

- Lấy màu sắc thay cho tuổi trẻ: đầu xanh, tóc xanh, con đỏ, hồng nhan,

má hồng,…

- Lấy màu sắc kết hợp với trang phục thay cho chức vụ, địa vị trong xã

hội: khố xanh (lính Việt Nam phục vụ trong quân đội Pháp thời Pháp thuộc),

khố nâu (người nghèo khổ), khố son (theo nghĩa cổ, chỉ người giàu có), áo

xanh (theo nghĩa cổ, chỉ người hầu gái nhưng ngày nay được dùng để chỉ

công nhân),….

- Lấy màu sắc thay cho trạng thái con người: xanh mặt, đỏ con mắt,

bầm gan tím ruột,…

- Lấy màu sắc thay cho lòng dạ con người: đen bạc, đổi trắng thay

đen,…

- Lấy màu sắc thay cho sức khỏe: xanh xao, hồng hào, vàng vọt,…

- Lấy màu sắc thay cho sự chết chóc: xương trắng, xanh cỏ,…

- Lấy màu sắc thay cho sự may rủi: số đỏ, số đen,…

- Lấy màu sắc thay cho sự không công khai: quỹ đen, chợ đen, hộp

đen,…

Qua đó ta thấy một từ có thể được chuyển nghĩa theo nhiều phương

thức. Các từ có ý nghĩa biểu vật cùng một phạm vi hoặc có ý nghĩa biểu niệm

cùng một cấu trúc thì sự chuyển nghĩa theo cùng một hướng.

1.3.3 Phân loại

Để phân loại từ ngữ chỉ màu sắc trong tiếng Việt, ta có thể dựa vào các

tiêu chí như sau:

1.3.3.1 Phân loại theo chức năng

a. Các từ ngữ chỉ màu sắc chính trong tiếng Việt

Tiếp thu những công trình đi trước, theo quan điểm của chúng tôi, tiếng

Việt hợp lí nhất có tám từ chỉ màu cơ bản, gồm có: đen, trắng, xanh, đỏ,

vàng, tím, nâu, xám. Những từ này có nét chung và điểm riêng biệt với những

đặc trưng phổ quát của những từ chỉ màu cơ bản nói chung. Trong đó, điểm

quan trọng nhất là mỗi từ này đều mang tên gọi chung cho cả nhóm màu phụ

của chính nó; nói cách khác, nó có thể làm trung tâm cho một nhóm màu. Vì

từ một màu cơ bản này, một người bản ngữ với thị giác lành mạnh có thể gọi

tên nhiều màu phụ khác nhau của nó; ngược lại, từ vô số màu phụ ta có thể

qui ra thành các nhóm màu với màu cơ bản làm chủ đạo. Như vậy, nếu chấp nhận có tám từ chỉ màu cơ bản thì cũng sẽ có tám nhóm màu đi cùng với nó. 8

b. Các từ ngữ chỉ màu sắc phụ trong tiếng Việt

Như đã trình bày ở trên, khái niệm về màu sắc không chỉ dừng lại ở

màu cơ bản - kết quả của sự trải ra những gam độ khác nhau từ đậm đến nhạt

mà đồng thời có sự pha trộn các gam màu với nhau, để từ đó tạo nên những

màu sắc phong phú và đa dạng, đó chính là các màu phụ.

b1 .Các màu phụ được gọi tên từ các màu cơ bản

Ví dụ: xanh lè, đỏ chót, tím ngắt, trắng ngần, vàng khè,…

Theo quan điểm của A.Wierzbicka [Dẫn theo 30: 59], sự hỗn hợp các

màu cơ bản tạo nên những màu sắc mới; nói cách khác, những màu sắc mới

có được từ sự pha trộn những màu cơ bản. Như vậy, những màu phụ đã được

con người nhận thức và qui về các màu cơ bản tương ứng nhất định nào đó

nhưng khác với các màu cơ bản về mức độ cũng như sắc thái. Chúng được qui

cho những đối tượng nhất định nào đó và được gọi tên một cách có tính chất

mô tả nhất định. Ví dụ: vàng khè, đỏ chót đều mang những đặc trưng màu

tương tự như các màu cơ bản vàng và đỏ, song chúng không giống hoàn toàn

về sắc thái, về mức độ để có thể được coi là những màu cơ bản. Và, khi người

ta nói tờ giấy xanh tức là muốn phân biệt nó với tờ giấy đỏ, tờ giấy trắng.

Nhưng khi nói tờ giấy xanh lơ tức là muốn mô tả đặc điểm xanh của nó, chứ

không có ý định phân biệt nó với tờ giấy đỏ hay giấy trắng. Hay khi người ta

8 Xem phụ lục 1

nói mắt đỏ đọc là có ngụ ý hay mô tả, nhận xét nhất định về đôi mắt.

b2. Màu phụ được gọi tên từ từ chỉ màu phụ đơn âm tiết

Ví dụ: ghi xám, ghi đá, thâm sì, tái xám,…

Đây là những loại từ chỉ màu phụ mà yếu tố thứ nhất không phải là từ

chỉ màu cơ bản, mà là những từ màu phụ. Chẳng hạn, hồng vốn là màu phụ

của nhóm đỏ, ghi vốn là màu phụ của nhóm xám, thâm vốn là màu phụ của

nhóm đen,…

Loại này, trước tiên đã là một từ chỉ màu phụ của một nhóm màu cơ

bản. Vì vậy, khi kết hợp với yếu tố thứ hai (thậm chí là từ chỉ màu cơ bản như

ghi xám, tái xám,…), chúng chỉ có tác dụng làm phong phú thêm các sắc thái

và mức độ của chính chúng nói riêng và những từ trong nhóm nói chung.

b3. Màu phụ được gọi tên dựa vào đối tượng, vật liệu, chất liệu trong

thực tế

Ví dụ: màu lá cây, màu cánh sen, màu gạch tôm, màu lơ, màu tiết dê,

màu ngà voi…

Trong tiếng Việt, có rất nhiều sự vật mang màu sắc tự nhiên đã được

định danh thành từ chỉ màu sắc thông qua nhận thức đặc điểm màu của đối

tượng. Có thể qui thành những loại nhỏ như sau:

- Gọi tên màu sắc từ các bộ phận của cây cỏ, hoa, lá, quả: hoa mua, bồ

quân, mận chín, cánh sen, hoa mướp, lá mạ, cỏ úa, sim,…

- Gọi tên màu sắc từ các hiện tượng, cảnh vật trong thiên nhiên: da

trời, khói, nước biển, thanh thiên, ráng chiều,…

- Gọi tên màu sắc từ tên các kim loại, khoáng chất, hóa chất: bạc, bạch

kim, hổ phách, ngọc bích, hồng ngọc, chì, đồng,…

- Gọi tên màu sắc từ màu của một số vật phẩm, vật liệu trong tự nhiên:

than, mực, vôi, son, gạch, muối tiêu, tàn thuốc, bánh mật,…

b4. Màu phụ được gọi tên bằng các từ chỉ màu của các ngôn ngữ

khác

Ví dụ: bạch, hắc, lục, lam, be, hung, ghi, cô ban,…

Do tiếng Việt đã trải qua quá trình tiếp xúc lâu dài với các ngôn ngữ

khác nên có hiện tượng vay mượn tiếng nước ngoài. Hiện tượng này không

chỉ xảy ra với từ chỉ màu mà còn ở các lớp từ khác. Đó là những từ chỉ màu

của Anh, Pháp, Trung Quốc được du nhập vào Việt Nam. Sau một thời gian,

những từ này được người Việt tiếp nhận và sử dụng (gọi theo phiên âm). Dần

dần, chúng được chấp nhận và hoà vào ngôn ngữ toàn dân với tư cách là từ

chỉ màu sắc phụ trong tiếng Việt. Chẳng hạn, Pháp - be (beige), cô ban

(cobalt), lơ (bleu), ghi (gris); Hán – lục, bạch, lam,…

1.3.3.2 Phân loại theo nghĩa

a. Xét về cách thức hiểu nghĩa của từ chỉ màu sắc, ta có:

a1. Từ ngữ chỉ màu sắc nghĩa đen: xanh, đỏ, vàng, đen, trắng, nâu,

xám, tím, trong, đục,… Các loại từ ngữ này thường chỉ có một nghĩa nhất

định và chúng chỉ mang nghĩa của từ ngữ chỉ màu sắc.

a2. Từ ngữ chỉ màu sắc nghĩa bóng: sáng sủa, trong sáng, đen tối,

trong trắng,… Loại từ này không đơn giản mang nghĩa của màu sắc nữa mà

chúng đã được chuyển nghĩa. Nghĩa của chúng thường dùng với hàm ý và

thường có cấu tạo là ngữ. Đây cũng chính là vấn đề phức tạp mà chúng tôi

cần nghiên cứu.

b. Xét về mức độ nghĩa của từ chỉ màu sắc, ta có:

b1. Từ ngữ chỉ màu sắc phóng đại: xanh ngắt, xanh um, xanh lè, đỏ

chót, vàng khè,… Loại từ ngữ này dùng để biểu thị ý nghĩa màu sắc với mức

độ cao.

b2. Từ ngữ chỉ màu sắc giảm nhẹ: xanh xanh, đo đỏ, mờ mờ, trắng

trắng,… Loại này thường dùng phương thức láy để phát triển từ ngữ chỉ màu

sắc.

1.4 Phạm vi biểu vật và khả năng hoạt động của từ chỉ màu sắc

trong tiếng Việt

1.4.1 Phạm vi biểu vật

Do mỗi nhóm từ chỉ màu sắc có sự đa dạng về số lượng nên phạm vi

biểu vật của nhóm cũng vô cùng phong phú; nhưng khả năng biểu vật của các

từ trong nhóm (trừ từ cơ bản của nhóm) lại rất hẹp.

Các từ chỉ màu sắc cơ bản có phạm vi biểu vật rộng nhất, dùng cho mọi

đối tượng sự vật, hiện tượng: cô gái ấy trắng, giấy trắng, nhà sơn trắng, máu

trắng,… Bên cạnh đó, các từ chỉ màu phụ thì có phạm vi biểu vật thu hẹp lại

như trắng trẻo chỉ dùng cho da; vàng hoe chỉ dùng cho tóc, râu,... Qua đó, có

thể xếp loại từ ngữ chỉ màu sắc như sau:

a. Phạm vi biểu vật là sự vật, hiện tượng: mỡ gà, cháo lòng, lông

chuột, bã trầu,… Những từ ngữ chỉ màu sắc này đa phần được tạo nên từ

phương thức ẩn dụ, một số ít từ ngữ dùng phương thức ghép. Có đặc điểm

này là do các từ chỉ màu dạng này đều có nguồn gốc từ các sự vật, hiện tượng

trong đời sống. Tuy nhiên đối với những từ ngữ chỉ màu sắc có cấu tạo từ

phương thức ghép thì sự vật, hiện tượng trong thực tế phải cụ thể, nhất định

như đen ngòm, đỏ chót, trắng xóa,…

b. Phạm vi biểu vật là con người và động vật: đen giòn, đen láy,

đỏ ửng, trắng ngần,…Phần lớn là các từ theo phương thức ghép. Ví dụ, khi sử

dụng từ đen láy, rõ ràng là phạm vi biểu vật của đen bị hạn chế hẳn; vì đen láy

chỉ nói về mắt của người. Do phạm vi biểu vật bị thu hẹp nên khi từ đen láy

được sử dụng, nó còn truyền tải những thông tin về tình cảm của người nói.

Tuy nhiên, đôi khi chúng ta thấy có sự “lấn sân” trong việc sử dụng

màu sắc thì đó là do sự sáng tạo của nhà văn với một dụng ý nhất định như

màu trời xanh xao chẳng hạn.

1.4.2 Khả năng hoạt động trong ngữ cảnh

Chúng ta đều biết rằng, các từ chỉ màu là những từ biểu thị thuộc tính

của sự vật, hiện tượng. Chính vì vậy, chúng được xếp vào từ loại tính từ.

Nhưng không phải tất cả các tính từ chỉ màu sắc đều có thể kết hợp được với

từ chỉ mức độ. Chỉ có các từ chỉ màu cơ bản mới kết hợp được với từ chỉ mức

độ: rất, hơi, quá, lắm,..: đen quá, hơi trắng, xanh lắm, rất đỏ,…Còn các từ chỉ

màu phụ thì không kết hợp được.

Một đặc điểm nữa về khả năng hoạt động của từ chỉ màu sắc là phần

lớn từ có khả năng sử dụng độc lập (không cần từ màu) biểu thị thuộc tính

màu cho các đối tượng như: hoa vàng, cờ đỏ, áo xanh,…; trong khi đó, một

số từ lại không có khả năng sử dụng độc lập (cần từ màu) biểu thị thuộc tính

màu cho các đối tượng như : màu kem, màu da bò, màu tàn thuốc,…

TIỂU KẾT

Qua những nội dung đã trình bày ở trên, chúng tôi tóm lại một số điểm

sau:

- Nghĩa biểu trưng thuộc thành phần nghĩa biểu niệm của từ, được tạo

ra theo cơ chế chuyển nghĩa. Những từ ngữ có nghĩa biểu trưng thì được xem

là có tính biểu trưng.

- Từ ngữ chỉ màu sắc liên quan mật thiết đến nền văn hóa của mỗi dân

tộc. Và tất nhiên có nhiều điểm tương đồng trên cơ sở phổ quát cũng như có

không ít điểm khác biệt riêng khi đề cập đến màu sắc của mỗi ngôn ngữ, mỗi

dân tộc.

- Từ ngữ chỉ màu sắc trong tiếng Việt được hình thành từ hình thức

ghép, láy (đối với từ chỉ màu phụ) và phương thức chuyển nghĩa. Lớp từ này

có thể phân loại theo chức năng (từ chỉ màu sắc chính và từ chỉ màu sắc phụ)

hoặc phân loại theo nghĩa (nghĩa đen, nghĩa bóng, nghĩa phóng đại, nghĩa

giảm nhẹ).

- Về mặt đặc điểm phạm vi biểu vật và khả năng kết hợp trong ngữ

cảnh: Hầu hết các từ chỉ màu phụ đều có phạm vi sử dụng hạn chế hơn so với

những từ chỉ màu sắc chính, thậm chí phần lớn có xu hướng chuyên biệt hóa

về phạm vi biểu vật. Theo đó, một số từ có khả năng dùng độc lập, không cần

từ “màu” nhưng số khác phải có từ “màu” kết hợp trước nó thì người nghe

mới hiểu.

Chương 2: Ý NGHĨA BIỂU TRƯNG CỦA

TỪ NGỮ CHỈ MÀU SẮC TRONG TIẾNG VIỆT

2.1 Ý nghĩa biểu trưng của từ chỉ màu sắc trong tiếng Việt: Kết quả

khảo sát ngữ liệu

2.1.1 Khảo sát tần số xuất hiện của từ ngữ chỉ màu sắc trong một số

văn bản thuộc phong cách ngôn ngữ văn chương tiếng Việt

- Đối với ca dao trữ tình, luận văn đã khảo sát 5915 đơn vị ca dao

(tương đương với bài) trong Kho tàng ca dao người Việt do Nguyễn Xuân

Kính, Phan Đăng Nhật (chủ biên) (2000) (Tập1), NXB Văn hóa Thông tin.

Chúng tôi xác định có 153 đơn vị chứa từ chỉ màu sắc với số lượng là 216 từ

ngữ, chiếm 2,59 % tổng số đơn vị ca dao .

- Đối với Truyện Kiều, luận văn đã khảo sát 3254 câu. Chúng tôi xác

định được 118 câu có chứa từ chỉ màu sắc, chiếm 3,63% tổng số câu của văn

bản.

- Đối với thơ Xuân Diệu, luận văn khảo sát 97 văn bản thơ gồm 46 văn

bản trong tập Thơ Thơ (1939) và 51 văn bản trong tập Gửi hương cho gió

(1945). Chúng tôi xác định được 43 văn bản có chứa từ chỉ màu sắc, chiếm

44,3 % tổng số văn bản thơ Xuân Diệu được luận văn khảo sát.

- Đối với thơ Tố Hữu, luận văn khảo sát 25 văn bản thơ trong tập Gió

lộng (1961). Chúng tôi xác định được 22 văn bản có chứa từ chỉ màu sắc,

chiếm 88% tổng số văn bản thơ Tố Hữu được luận văn khảo sát.

- Đối với tùy bút Nguyễn Tuân, luận văn đã khảo sát 9 văn bản tùy bút

trong tập Hà Nội ta đánh Mỹ giỏi (1972). Chúng tôi xác định có 100% văn

bản dùng từ chỉ màu sắc.

Chúng tôi khái quát mật độ xuất hiện của từ ngữ chỉ màu sắc trong các

văn bản trong biểu đồ sau:

Biểu đồ 2.1: Tỉ lệ xuất hiện của từ ngữ chỉ màu sắc trong tổng số

đơn vị khảo sát các văn bản thuộc phong cách ngôn ngữ văn chương

Đồng thời, luận văn cũng thống kê số lượng từ chỉ màu sắc mang tính

biểu trưng trong số những từ chỉ màu sắc đã xuất hiện.

Bảng 2.1: Tỉ lệ từ ngữ chỉ màu sắc mang nghĩa biểu trưng

Từ ngữ chỉ màu sắc mang tính biểu trưng Văn bản Số lượng từ chỉ màu sắc

216 143 124 113 104 Số lượng 136 94 78 62 25 Tỉ lệ 63 % 66 % 63 % 55 % 24 %

Ca dao Truyện Kiều Thơ Xuân Diệu Thơ Tố Hữu Tùy bút Nguyễn Tuân

Biểu đồ 2.2: Tỉ lệ từ ngữ chỉ màu sắc mang nghĩa biểu trưng

Bảng 2.1 và biểu đồ 2.1, 2.2 có thể tường minh hóa một số vấn đề như

sau:

- Lớp từ ngữ chỉ màu sắc đóng vai trò quan trọng trong việc cấu tạo

các văn bản thuộc phong cách ngôn ngữ văn chương.

- Tỉ lệ từ ngữ chỉ màu sắc mang nghĩa biểu trưng không tỉ lệ thuận

với tổng số từ chỉ màu sắc của văn bản.

Trên đây là những nhận xét khái quát về số lượng và tỉ lệ của từ ngữ

chỉ màu sắc mang nghĩa biểu trưng trong các văn bản thuộc phong cách ngôn

ngữ văn chương. Sau đây, người viết sẽ đi vào cụ thể từng màu sắc.

2.1.2 Khảo sát sự xuất hiện của từng nhóm màu trong một số văn

bản thuộc phong cách ngôn ngữ văn chương tiếng Việt

Như đã trình bày ở phần trên, luận văn đã khảo sát ngữ liệu và kết quả

được tóm tắt trong bảng sau:

Bảng 2.2: Số lượng xuất hiện của từng nhóm màu trong một số văn

bản thuộc phong cách ngôn ngữ văn chương tiếng Việt

Ca dao Truyện Kiều Thơ Xuân Diệu Thơ Tố Hữu

Số từ ngữ 64

Số từ ngữ 58

Số từ ngữ 38

Số từ ngữ 56

Số từ ngữ 21

Văn bản Nhóm màu

Tỉ lệ (%) 15 Tỉ lệ (%) 41 Tỉ lệ (%) 31 Tỉ lệ (%) 50 Văn xuôi Nguyễn Tuân Tỉ lệ (%) 20 Đỏ

74 7 3 3 6 17 5 2 3 5 Đen

36 37 27 34 104 24 25 30 24 34 Xanh

64 25 24 8 6 15 17 19 7 5 Vàng

16 16 14 24 112 26 11 13 12 23

10 1 1 4 1 2 1 1 4 1

Trắng Nâu

4 0 2 0 2 1 0 2 0 2 Tím

0 0 3 0 10 0 0 2 0 10

Xám Tổng số 432 100 144 100 124 100 113 100 104 100

Qua bảng 2.2, luận văn rút ra một số nhận xét:

- Trong các văn bản khảo sát, thơ Tố Hữu đã sử dụng nhóm màu đỏ

nhiều nhất và bằng tổng số các màu sắc còn lại trong thơ ông. Điều này dễ lí

giải vì màu đỏ biểu trưng cho cách mạng, cho nhiệt tình sôi nổi của người

chiến sĩ cách mạng. Bên cạnh đó, màu nâu trong ngữ liệu thơ Tố Hữu cũng

được dùng nhiều vì nghĩa biểu trưng cho giai cấp nông dân nghèo khổ.

- Màu xám chiếm tỉ lệ cao ở ngữ liệu văn Nguyễn Tuân.

- Màu trắng, đen xuất hiện nhiều nhất trong ca dao. Màu xanh, vàng

xuất hiện nhiều nhất trong thơ Xuân Diệu. Phần lí giải chi tiết sẽ trình bày ở

phần sau.

2.2 Ý nghĩa biểu trưng của từ ngữ chỉ màu sắc trong tiếng Việt

2.2.1 Màu trắng và nhóm màu liên quan

Những màu phụ trong nhóm trắng bao gồm: bạc, ngà, bạch, ngà voi,

sữa, kem, vôi, bệch, én bạc, hoa mua, bạch kim, thiếc, nguyệt bạch,… 9

2.2.1.1 Ý nghĩa biểu trưng chung trong ngôn ngữ

a. Biểu trưng sự trong trắng, ngây thơ.

- Áo trắng: chỉ học trò

b. Biểu trưng sự chết chóc, tang tóc

Màu trắng có thể bị coi là màu của cái chết, tang lễ hay ma quỷ.

- Xương trắng: cái chết

- Khăn trắng: tang tóc

c. Biểu trưng cho sự không có gì, hết nhẵn

- Trắng tay: bị mất hết toàn bộ tiền bạc, của cải, không còn gì cả

- Trắng án: được tòa xử là vô tội

- Trắng trơn: hoàn toàn không có gì.

- Giải tỏa trắng: làm phân tán sạch, thoát khỏi tình trạng tập trung, ứ tắc.

- Lo bò trắng răng: lo chuyện không đâu, vu vơ, không đáng phải lo.

d. Biểu trưng một loại hàng cấm (ma túy)

- Hàng trắng: ma túy

- Cái chết trắng: cái chết vì ma túy

e. Biểu trưng cho sức khỏe, trạng thái tâm lý

- Trắng dã: (mắt) chỉ nhìn thấy tròng trắng, trông rất dễ sợ.

9 Những màu phụ có kèm tên gọi màu chính được thống kê ở Phụ lục 1

- Trắng mắt: sững sờ, nhận thấy ra một sự thật nào đó

g. Biểu trưng sự cao sang

Ăn trơn mặc trắng (Ăn trắng mặc trơn)

(Thành ngữ)

h. Biểu trưng cho tính cách, số phận

- Trắng trợn: ngang ngược, bất chấp luật pháp, lẽ phải: Trắng trợn cướp giật

giữa ban ngày.

- Bạc tình: không giữ được tình nghĩa trọn vẹn trước sau.

Bạc như vôi (Thành ngữ)

- Bạc phận: mỏng manh, ít ỏi không được trọn vẹn.

Hồng nhan bạc phận (Thành ngữ)

2.2.1.2 Ý nghĩa biểu trưng của nhóm màu trong một số văn bản thuộc

phong cách ngôn ngữ văn chương

a. Trong ca dao

Theo khảo sát của chúng tôi, trong ca dao, chỉ riêng màu trắng có 34 từ

ngữ (cả nhóm trắng có 54 từ ngữ), chiếm tỉ lệ 61% ý nghĩa biểu trưng của

nhóm màu này. Trong số đó, có 3 từ mang nghĩa chỉ sự tang tóc “khăn trắng”

Khăn trắng em chít cho ai…

Cô kia khăn trắng tang ai…

Khăn trắng còn để trên đầu…

Những màu trắng còn lại dùng để biểu trưng cho vẻ đẹp phụ nữ, một vẻ

đẹp lí tưởng: cổ tay trắng, yếm trắng, áo trắng,..

Cổ tay em trắng như ngà…

Cổ tay em trắng lại tròn…

Cái cò trắng bạch như vôi…

Cô kia yếm trắng lòa lòa…

Ở các ví dụ trên, màu trắng xuất hiện trong những cấu trúc so sánh, cấu

trúc ghép và cả cấu trúc láy; thường kết hợp những sự vật rất gần gũi với

người nông dân: con cò trắng, mây trắng, gạo trắng, bông trắng, bò trắng, áo

trắng,… Khi đứng trong cấu trúc ghép, màu trắng mang hàm nghĩa biểu trưng

cho sự ban sơ, tinh nguyên; người bình dân bắt đầu từ sự ban sơ ấy để thổ lộ

tâm tình của mình.

Ví dụ: Nhờ vào cái yếm trắng của cô gái mà chàng trai mới dám mở

lời:

Cô kia yếm trắng lòa lòa

Lại đây đập đất trồng cà với anh

Bao giờ cà chín, cà xanh

Anh cho một quả để dành mà chơi.

b. Trong Truyện Kiều

Trong Truyện Kiều có 5 lần dùng màu trắng, chiếm tỉ lệ 31% trong

nhóm màu. Màu trắng ở đây mỗi lần xuất hiện lại hàm chứa ý nghĩa tượng

trưng khác nhau: tượng thần mày trắng là báo hiệu chốn lầu xanh, mây trắng

nơi cố quốc là nỗi nhớ nhung quê hương tha thiết, xương trắng quê người là

một cái chết âm thầm, lưu lạc:

Sá chi thân phận tôi đòi

Dẫu rằng xương trắng quê người quản đâu.

(Câu 776)

Ngoài ra, hai lần dùng màu trắng: “trong giá trắng ngần” “trong ngọc

trắng ngà” biểu trưng cho vẻ đẹp tinh khiết về tâm hồn và hình thể của Thúy

Kiều.

Tiếc thay trong giá trắng ngần,

Đến phong trần, cũng phong trần như ai!

(Câu 1191)

Rõ ràng trong ngọc, trắng ngà,

Dày dày sẵn đúc một tòa thiên nhiên.

(Câu 1313)

Về mức độ của màu sắc, chỉ có khi dùng để miêu tả về con người,

Nguyễn Du mới dùng kèm từ chỉ mức độ màu sắc. Những trường hợp còn lại

đều dùng màu một màu trắng trung tính; thế nhưng mỗi lần xuất hiện màu

trắng trung tính ấy kết hợp các danh từ khác tạo ra sự khác biệt về sắc thái của

màu sắc.

Còn màu bạc là màu phụ của trắng, mức độ là màu trắng đục hoặc đã

phai màu, không còn vẹn nguyên như trước. Khi đi vào tác phẩm, bạc xuất

hiện riêng lẻ 3 lần, chiếm tỉ lệ 19% trong nhóm màu.

Bạc tình, nổi tiếng lầu xanh (Câu 1159)

Phận sao bạc bấy Kiều nhi! (Câu 2761)

Phận sao bạc chẳng vừa thôi (Câu 1764)

c. Trong thơ Xuân Diệu

Có thể nói rằng, cách dùng biểu trưng của màu trắng nói chung và màu

bạc nói riêng trong 2 tập thơ Xuân Diệu mà chúng tôi khảo sát là rất ít. (Tập

Thơ thơ không có màu trắng). Thông thường, màu trắng được dùng biểu hiện

2 nghĩa: trong trắng, tinh khiết hay tang tóc, chia ly. Với nhà thơ, màu trắng

sẽ biểu trưng cho tâm trạng nếu một người có tấm lòng yêu tha thiết vẫn bị

tình yêu hờ hững, lừa dối:

Mây trắng ngang hàng tự thuở xưa,

Bao giờ viễn vọng đến bây giờ.

Sao vàng lẻ một, trăng riêng chiếc;

Đêm ngọc tê ngời men với tơ...

( Buồn trăng)

Trăng thu thường thấy trắng phau,

Ấy màu của tuyết, ấy màu của băng.

Lạnh thay! là cảnh cô Hằng

Lạnh trong cung lạnh, trong trăng lạnh lùng.

(Bụi mưa mờ cũ)

Nhận xét:

Trong bảng khảo sát của chúng tôi, màu trắng được dùng nhiều nhất

trong ca dao và dùng ít nhất là trong thơ Tố Hữu. Trước đây, người ta không

xem màu trắng là một màu mà xem là không màu. Những ý nghĩa biểu trưng

trong ngôn ngữ mà luận văn tìm thấy trong Từ điển được vận dụng hầu hết

vào trong các văn bản văn học. Chỉ có trong thơ Xuân Diệu, màu trắng mang

thêm một ý nghĩa biểu trưng mới so với những ý nghĩa đã tồn tại trong ngôn

ngữ.

2.2.2 Màu đen và nhóm màu liên quan

Những màu phụ của nhóm đen bao gồm: mun, hắc, huyền, ô, thâm, thâm

xì, thâm xịt, than, mực, nhung, đồng hun,…

2.2.2.1 Ý nghĩa biểu trưng chung trong ngôn ngữ

a. Biểu trưng sự thấp hèn, xấu xa

- Con đen: ám chỉ dân thường, không có địa vị, bị coi là hạng thấp hèn

dưới chế độ cũ.

Đánh lận con đen (Nhập nhằng đánh lận con đen)

(Thành ngữ)

- Dân ngu khu đen: thuộc hạng người lao động lam lũ, vất vả, hèn kém dốt

nát.

b. Biểu trưng chỉ sự kém may mắn

- Vận đen: gặp phải rủi lớn

Cơn đen vận túng (Thành ngữ)

- Số đen: số phận không may mắn

c. Biểu trưng điều không công khai, xấu xa tội lỗi

- Chợ đen: nơi mua bán lén lút những mặt hàng khan hiếm, theo giá cả tùy

tiện.

- Quỹ đen: quỹ dành riêng cho các khoản chi tiêu bí mật, thường không hợp

pháp.

- Sổ đen: sổ được giữ kín để ghi chép những người đang bị tình nghi, theo

dõi.

- Tim đen: ý đồ xấu ngầm kín.

- Tấm gương đen: tấm gương xấu

- Phim đen: phim có nội dung xấu, đồi trụy.

2.2.2 Ý nghĩa biểu trưng của nhóm màu trong một số văn bản thuộc

phong cách ngôn ngữ văn chương

a. Trong ca dao

Màu đen trong ca dao xuất hiện với mức độ khiêm tốn, có 12 đơn vị,

chiếm tỉ lệ 32% trong nhóm màu. Ngoài những từ chỉ màu đen tả thực, không

đề cập ở đây, chúng tôi phát hiện có 2 hàm nghĩa biểu trưng mà ca dao đã

diễn đạt. Loại thứ nhất là tượng trưng cho vẻ đẹp hoàn hảo của người phụ nữ

theo quan niệm thẩm mỹ xưa: răng đen rưng rức, má phấn răng đen, răng

đen hạt huyền,… Thế nhưng cái chuẩn của người phụ nữ đẹp của ca dao còn

phải kết hợp với vẻ chân chất mộc mạc toát lên từ trong tâm hồn người con

gái:

Ai trắng như bông, lòng tôi không chuộng

Người đó đen giòn, làm ruộng tôi thương.

Loại ý nghĩa tượng trưng thứ hai là những đặc điểm không thay đổi

(dạng ý nghĩa biểu trưng này được hiểu khi đặt trong ngữ cảnh): chỉ số phận

của người nông dân, những khát khao cuộc sống tốt đẹp của họ:

- Áo đen không lẽ đen hoài

Mưa lâu cũng nhạt, nắng hoài cũng phai;

hay là sự vừa đôi phải lứa của những đôi bạn trẻ:

- Áo đen đơm bộ khuy đen

Mặc ai xa lạ ta cứ làm quen ở làng;

hoặc là những phẩm chất của người nông dân:

- Ai mua con quạ bán cho

Đen lông đen cánh, bộ giò cũng đen.

b. Trong Truyện Kiều

Trong Truyện Kiều, màu đen dùng với 2 ý nghĩa biểu trưng là kém may

mắn như:

Quá chơi lại gặp hồi đen (Câu 807)

Bạc đen thôi có tiếc mình làm chi! (Câu 1402)

Và biểu trưng cho hạng người xấu xa, làm việc bất chính như:

Mập mờ đánh lận con đen (Câu 839)

Mượn màu son phấn đánh lừa con đen! (Câu 1414)

Những ý nghĩa biểu trưng này đã tồn tại trong ngôn ngữ dân gian trong

thành ngữ, tục ngữ,… Với cả 2 loại ý nghĩa này, màu đen kết hợp với danh từ,

khi thì danh từ chỉ thời gian, lúc thì danh từ chỉ đơn vị. Nhìn chung màu đen ở

đây mang ý nghĩa tiêu cực (không giống với quan niệm của phương Tây)

[xem trang 22]. Cách dùng này thể hiện rõ nét nhất trong văn học dân gian

truyền thống.

c. Trong thơ Xuân Diệu

Trong Thơ Thơ, từ đen xuất hiện 3 lần ở ba bài “Vô biên”, “Dối trá” và

“Sắt”, chiếm 2% từ ngữ chỉ màu sắc dùng trong thơ Xuân Diệu, tượng trưng

cho sự u ám, tịch mịch, thậm chí là sự bế tắc, quanh quẩn của cuộc sống.

Nhiều lúc cái đen u tối đó hiện lên ngay cả những lúc tươi đẹp, hạnh phúc

nhất.

Những phen reo hót, những cơn say

Những lúc mây đen ám mặt mày

Là lúc rời xa muôn thế giới

Đến vờn trong dạ cánh chim bay.

(Vô biên)

Không chỉ thế, màu đen còn chuyển tải thông điệp, biểu trưng cho

không khí ảm đạm, lạnh lẽo, chết chóc, ngột ngạt:

…Tét cắn lá – lá nằm trên đất ủ

Màu lặng yên không còn mộng xa bay

Đất đen kêu như sắt dưới chân giày

Tiếng rắn rỏi có pha màu mực đậm.

(Sắt)

Tôi chẳng biết làm cho lòng người cứng cỏi

Cứ như thế cho đến giờ đen tối

(Dối trá)

Nhận xét:

Trong hầu hết các nghĩa biểu trưng trong tiếng Việt, màu đen đều mang

nghĩa tiêu cực: chỉ hạng người xấu xa, chỉ sự u ám bế tắc. Chỉ có xuất hiện

trong ca dao, màu đen mới có thêm cách biểu trưng tích cực. Trong tiếng

Việt, số lượng nghĩa biểu trưng của màu đen không nhiều; nhưng với xu thế

xã hội hiện nay, tiếng Việt đã phát triển một số tổ hợp từ, trên cơ sở màu đen

biểu trưng cho sự xấu xa, như xã hội đen, đô la đen, thế lực đen, thế giới

đen,… nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển của xã hội.

2.2.3 Màu xanh và nhóm màu liên quan

Những màu phụ của nhóm xanh bao gồm: lam, chàm, lục, lơ, cánh trả,

cổ vịt, lá mạ, cốm, nõn chuối, da trời, lá cây, cô ban, ngọc bích, nước biển,

rêu, trứng sáo, cánh cam, ốc bươu, cứt ngựa, thiên thanh, hồ thủy, cỏ úa, cẩm

thạch, biếc, ve

2.2.3.1 Ý nghĩa biểu trưng chung trong ngôn ngữ

a. Biểu trưng cho tuổi trẻ

Từ màu sắc của hiện thực, màu xanh là màu của lá cây xanh tươi, của

đồng ruộng tươi tốt, của núi non trùng điệp, trù phú…; màu xanh đã trở thành

từ để chỉ nghĩa còn non hay còn trẻ.

- Đầu xanh: thời còn trẻ

Đầu xanh tuổi trẻ (Thành ngữ)

Xanh đầu con nhà bác, bạc đầu con nhà chú. (Tục ngữ)

- Xuân xanh: tuổi trẻ, tuổi thanh niên.

- Tóc xanh: tóc của người còn trẻ.

- Còn xanh: còn trẻ

- Ngày xanh: thời kì tuổi trẻ.

- Mày xanh: người con gái còn trẻ đẹp.

b. Biểu trưng trạng thái, sức khỏe

- Xanh xương: khiếp lắm, quá mức.

Đói xanh xương (Thành ngữ)

- Xanh mắt: rất sợ hãi, lo lắng, hốt hoảng.

- Xanh mặt: trạng thái rất sợ

- Mặt mày tái mét: sợ hãi quá mức, tin buồn đột ngột

- Xanh xao: ốm yếu do bệnh tật

- Xanh mét: nước da xanh nhợt như không còn chút máu, ví dụ: Nó xanh

mét vì sốt rét.

- Xanh rớt: nước da xanh trông yếu ớt, bệnh tật, ví dụ: người xanh rớt

như tàu lá.

c. Biểu trưng cho đấng tối cao, sự tuyển chọn khắt khe

- Khuôn xanh: theo quan niệm người xưa dùng để chỉ trời, là một cái

khuôn lớn đúc ra mọi vật

- Cao xanh: chỉ đấng tối cao vô hình

- Trời xanh: chỉ đấng tối cao vô hình

- Mắt xanh: sự chọn lọc khắt khe (điển cố văn học)

d. Biểu trưng cho môi trường

- Vành đai xanh: dải cây cối bao quanh một khu vực

- Cách mạng xanh: cách mạng bảo vệ môi trường

- Mùa hè xanh: hoạt động bảo vệ môi trường vào mùa hè của sinh viên

(sau này phát triển rộng rãi, không chỉ dừng lại ở các hoạt động về môi

trường)

- Chiến dịch xanh: chiến dịch bảo vệ môi trường

-Đám tang xanh: đám tang tổ chức tiết kiệm, dùng những vật liệu không

ảnh hưởng đến môi trường.

e. Biểu trưng cho các tầng lớp xã hội, hạng người

- Áo xanh: áo của những cô hầu gái thời xưa, được xem là thấp hèn

- Lầu xanh: nơi hoạt động mại dâm

2.2.3.2 Ý nghĩa biểu trưng của nhóm màu trong một số văn bản thuộc

phong cách ngôn ngữ văn chương

a. Trong ca dao

Màu xanh là màu sắc có tần số xuất hiện đứng thứ hai, với 52 lần xuất

hiện, chiếm 24%. Đây cũng là màu có hàm ý biểu trưng cao trong ca dao.

Màu xanh tạo nên những gam màu sáng rực, tươi mới nhằm biểu trưng vẻ đẹp

thiên nhiên, quê hương đất nước, tình yêu đôi lứa: dải lưng xanh, xuân xanh,

nụ tầm xuân xanh biếc, cau xanh, trầu xanh,…

Kiểu biểu trưng thứ nhất là biểu trưng cho tuổi thanh xuân:

- Em quyết theo anh đầu xanh cho chí tóc bạc, đá tạc thành bia

Không hay nghĩa nhân sớm vội kết lìa

- Đầu xanh độ ấy đang vừa

Rủ nhau chui lách rào thưa vào vườn.

- Chim bay thẳng cánh trên trời

Tội gì bỏ quá một đời xuân xanh.

Kiểu biểu trưng thứ hai là tình trạng sức khỏe:

- Ai đi Uông Bí, Vàng Danh

Má hồng để lại má xanh mang về.

- …Đói ăn rách mặc mà xanh

No ăn ấm mặc vợ anh nào tày.

Kiểu thứ ba là biểu trưng cho trạng thái tâm lý: sợ hãi, lo lắng

Lỡ khi ăn miếng trầu xanh

Đêm lo ngày sợ mặt xanh như chàm.

Những kiểu biểu trưng này hầu như giữ nguyên vẹn cách diễn đạt của

thành ngữ và là cách nghĩ quen thuộc của người bản ngữ. Ngoài những ý

nghĩa biểu trưng màu xanh đã nêu trên, còn một ý nghĩa chỉ tâm trạng đau

khổ, thể hiện trong bài ca dao:

Nụ tầm xuân nở ra xanh biếc

Em đã có chồng anh tiếc lắm thay.

Một số nhà nghiên cứu cho rằng nụ hoa chưa nở có màu xanh thật

nhưng số đông lại cho là vì tiếc bao công sức nên nhân vật nhìn mọi thứ đều

hóa thành xanh biếc. Như vậy, màu xanh biếc ở đây biểu trưng cho màu của

thái độ, của tâm trạng, là sắc màu của ảo giác (tương tự như trường hợp “pink

elephant” trong tiếng Anh). Như vậy, cũng là màu xanh dùng để chỉ tuổi trẻ,

niềm tin nhưng màu xanh ấy còn là tâm trạng tuyệt vọng, đau khổ, chếnh

choáng giữa thực và hư.

b. Trong Truyện Kiều

Trong Truyện Kiều, màu xanh được sử dụng với 3 hàm nghĩa biểu

trưng chính. Nghĩa thứ nhất chỉ tuổi trẻ với các từ: ngày xanh, đầu xanh, mày

xanh, xuân xanh… xuất hiện 7 lần, chiếm tỉ lệ 19% trong nhóm màu:

Xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê (Câu 35)

Ngày xanh mòn mỏi, má hồng phôi pha. (Câu 85)

Cầm như chẳng bõ những ngày còn xanh (Câu 680)

Mày xanh, trăng mới in ngần (Câu 1793)

Cát lầm ngọc trắng thiệt đời xuân xanh (Câu 1950)

Đầu xanh có tội tình gì? (Câu 2161)

Cũng liều mặt phấn cho rồi ngày xanh (Câu 2164)

Màu xanh chỉ nơi, tầng lớp xã hội: lầu xanh, áo xanh xuất hiện 7 lần,

chiếm tỉ lệ 19%.

Lầu xanh, mới rủ trướng đào (Câu 1227)

Lầu xanh lại bỏ ra phường lầu xanh! (Câu 1355)

Dạy cho má phấn lại về lầu xanh.(Câu 1392)

Một là lại cứ lầu xanh phó về! (Câu 1420)

Áo xanh đổi lấy cà sa (Câu 1922)

Màu xanh chỉ lực lượng siêu nhiên, đấng tối cao (khuôn xanh) dùng

một lần, chiếm tỉ lệ 2%.

Nghĩ mình phận mỏng cánh chuồn,

Khuôn xanh biết có vuông tròn mà hay?

(Câu 312)

Màu xanh chỉ sự lựa chọn khắt khe (mắt xanh) dùng một lần, chiếm tỉ

lệ 2%.

Bấy lâu nghe tiếng má đào,

Mắt xanh chẳng để ai vào, có không?

(Câu 2181)

Và một lần dùng màu phụ của xanh chỉ sắc thái khuôn mặt:

Cho gươm mời đến Thúc lang,

Mặt như chàm đổ, mình giường giẽ run.

(Câu 2326 )

c. Trong thơ Xuân Diệu

Trong tất cả các từ ngữ chỉ màu sắc, màu xanh chiếm tỉ lệ khá lớn.

Trong tập Thơ Thơ, màu xanh mang ý nghĩa tích cực, sắc thái tươi vui xuất

hiện 11 lần: xanh thắm, xanh êm, xanh rì, xanh ngọc, xanh tươi… (cao nhất là

trong các bài Cảm xúc, Trăng, Vô biên, Tiếng không lời, Vội vàng, Dối trá,

Thơ duyên,…) chiếm tỉ lệ 72,7% màu xanh. Còn lại là những màu xanh gợi

sự u buồn, xuất hiện 5 lần chiếm 27,3% (trong các bài Cặp hài vạn dặm,

Tương tư chiều, Đây mùa thu tới, Gởi trời,…)

c1. Màu xanh biểu trưng cho tình yêu

Màu xanh được Xuân Diệu dùng để diễn tả mọi sắc thái của tình yêu:

lúc nhẹ nhàng, êm dịu, trong sáng của đêm trăng, lúc mỏng manh dễ vỡ như

“ánh tơ xanh”

Dịu dàng đàn những ánh tơ xanh,

Cho gió du dương điệu múa cành;

Cho gió đượm buồn, thôi náo động

Linh hồn yểu điệu của đêm thanh.

(Trăng)

Nhưng cũng có lúc đằm thắm, mãnh liệt, nồng nàn như ly rượu nồng:

Trời cao trêu nhử chén xanh êm;

Biển đắng không nguôi nỗi khát thèm;

Nên lúc môi ta kề miệng thắm,

Trời ơi, ta muốn uống hồn em!

(Vô biên)

Nhìn chung, tuy mang những cung bậc khác nhau trong việc diễn tả

tình cảm song các từ chỉ màu xanh đều diễn tả khát vọng mãnh liệt hướng đến

vô biên, tuyệt đích của cuộc sống cũng như tình yêu.

c2.Màu xanh biểu trưng cho tuổi trẻ

Cũng dùng màu xanh để biểu trưng cho tuổi trẻ nhưng khác với cách

biểu trưng trong truyền thống là dùng xuân xanh, mày xanh, ngày xanh,…;

Xuân Diệu đã mở rộng hơn, tuổi trẻ được nói đến với mộng xanh, hồn xanh,

nắng xanh,…

Ngực thở trời, mình hút nắng tươi xanh,

Ta góp kết những vòng hoa mới lạ.

(Thanh niên)

Khi gió sớm vào reo um khóm lá,

Khi trăng khuya lên ủ mộng xanh trời.

(Lời thơ vào tập Gửi hương)

Chỉ là trăng, nhưng tôi thấy thần tiên

Như tuyệt diệu: bởi hồn tôi xanh quá.

(Chỉ ở lòng ta)

Rõ ràng cách dùng của tác giả đã nâng màu xanh lên tượng trưng cho

sức sống mãnh liệt, sự tươi trẻ và khát vọng to lớn.

Thế nhưng, cũng có những trường hợp, trên cái nền tươi trẻ đó, màu

xanh lại biểu trưng cho nỗi chán chường, thất vọng.

c3. Màu xanh biểu trưng cho sự u ám

Như đã nói, màu xanh với sắc thái không vui chiếm tỉ lệ 27,3 % trong

tổng số màu xanh.

Vì nghe nương tử trong câu hát

Đã chết đêm rằm theo nước xanh.

(Nguyệt cầm)

Buồn ở sông xanh nghe đã lại,

Mơ hồ trong một tiếng chim qua.

(Thu)

Thông thường, sông xanh là hình ảnh êm đềm, thế nhưng dòng sông

xanh, nước xanh ở đây lại là nguyên nhân chất chứa u buồn, là nơi vùi dập

tuổi xuân của nàng ca nữ và cũng chính dòng sông xanh đã đem đến cái buồn

cố hữu của nhà thơ.

Nhận xét:

Nếu xét trong bảy màu của cầu vồng thì không có sự xuất hiện của màu

xanh. Nhưng đây lại là màu quan trọng đứng thứ ba sau trắng và đen của hầu

hết các ngôn ngữ trên thế giới. Như đã đề cập ở trên, ở phương Tây, phần lớn

các dân tộc đều xem màu xanh là màu của điềm lành. Còn theo tâm lí học,

màu xanh gợi cho con người sự yên ổn nhẹ nhõm và hi vọng. Trong các công

trình kiến trúc và hội họa, màu xanh đã được vận dụng với ý nghĩa trên. Theo

khảo sát, chúng tôi nhận thấy màu xanh chiếm số lượng nhiều trong văn xuôi

Nguyễn Tuân, hơn hẳn thơ Xuân Diệu (30%) và Truyện Kiều (25%). Trong

tiếng Việt, các tầng nghĩa biểu trưng của màu xanh rất đa dạng: từ việc dùng

để chỉ tính cách, thể trạng của con người đến cả sự biểu trưng cho tình yêu

như trong thơ Xuân Diệu. Từ đó có thể thấy mức độ phổ biến của màu xanh

trong ngôn ngữ Việt.

2.2.4 Màu đỏ và nhóm màu liên quan

Nhóm màu liên quan tới màu đỏ bao gồm: đào, điều, hồng, son, tía, bồ

quân, hoa hiên, mận chín, da cam, huyết dụ, tiết dê, đun, hường, bã trầu, cánh

sen,…

2.2.4.1 Ý nghĩa biểu trưng chung trong ngôn ngữ

a. Biểu trưng cho trạng thái tâm lý, sức khỏe con người

- Đỏ con mắt: trạng thái mong ngóng quá lâu đến đỏ cả mắt.

- Đỏ gay: đỏ nhiều, khắp mặt mũi do uống rượu, nóng nực hoặc tức giận điều

gì đó: tức quá mặt đỏ gay.

- Đỏ mặt tía tai: đỏ mặt lên vì tức giận hoặc hổ thẹn.

- Đỏ nhừ: đỏ cả mặt và tai thường vì xấu hổ, ngượng nghịu: Mặt đỏ nhừ vì

xấu hổ.

- Đỏ da thắm thịt: có da dẻ hồng hào, vẻ khỏe mạnh.

- Đỏ ửng: đỏ hồng lên, dịu nhẹ, dễ nhìn: gò má đỏ ửng

- Đỏ đắn: có da dẻ hồng hào: Cháu nào trông cũng đỏ đắn.

- Hồng hào: nước da có màu đỏ hồng, đẹp, biểu thị trạng thái khỏe mạnh: sắc

mặt hồng hào.

b. Biểu trưng cho sự nguy hiểm

- Đèn đỏ: không cho phép ai làm điều gì

- Báo động đỏ: báo cho biết sự nguy hiểm lớn hoặc điều không hay sắp xảy ra

- Danh sách đỏ: danh sách những sự vật đang nguy hiểm cần được bảo vệ

c. Biểu trưng cho thuộc về cách mạng

- Cờ đỏ: cờ cách mạng

- Linh mục đỏ: linh mục của cách mạng

d. Biểu trưng cho trẻ sơ sinh, trẻ nhỏ

- Đỏ đầu: còn nhỏ

Đen đầu thì bỏ, đỏ đầu thì nuôi. (Tục ngữ)

- Con đỏ: trẻ sơ sinh, dân thường, không có địa vị dưới chế độ cũ, được coi là

yếu ớt cần phải được bảo vệ.

Con đen thì bỏ, con đỏ thì nuôi. (Tục ngữ)

Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn

Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ

(Bình Ngô đại cáo- Nguyễn Trãi)

- Đỏ hỏn: đỏ như màu da trẻ con mới lọt lòng mẹ

Các từ đỏ đầu, con đỏ,…đều mang dáng dấp nghĩa còn trẻ, do sự liên

tưởng đến màu da của trẻ sơ sinh.

e. Biểu trưng cho sự may mắn tốt đẹp

- Vận đỏ: sự may mắn trong cuộc sống, vốn đã được định sẵn.

- Số đỏ: như vận đỏ

g. Biểu trưng cho người phụ nữ

Người phụ nữ thường dùng phấn son để tô điểm thêm sắc đẹp cũng như

sự trẻ trung của mình và màu phấn này thường có màu hồng nhạt nên người

Việt nói riêng (và phương Đông nói chung) đã liên tưởng từ hồng như một từ

dùng để chỉ phái đẹp. Trong một số trường hợp, từ hồng đã kết hợp với những

từ khác để chỉ về người con gái.

- Má hồng: má đỏ hồng, dùng để chỉ người con gái đẹp.

- Hồng nhan: người con gái có nhan sắc

- Hồng quần (quần hồng): người con gái đẹp dưới thời phong kiến.

- Bóng hồng: bóng người con gái (phụ nữ Trung Quốc ngày xưa hay mặc

quần đỏ nên gọi là bóng hồng)

- Cánh hồng: chỉ thân phận mỏng manh của phụ nữ

- Giọt hồng: nước mắt của phụ nữ

- Má đào: người con gái đẹp

h. Biểu trưng cho những gì liên quan đến hôn nhân

- Tơ hồng: sợi chỉ đỏ dùng để biểu trưng cho tình duyên do trời định

(theo truyền thuyết Trung Quốc)

- Chỉ hồng: như tơ hồng

- Thiệp hồng: thiệp mời đám cưới

- Lá thắm: sự kết hợp tình yêu nam nữ (điển tích Trung Quốc)

i. Biểu trưng cho sự trong trắng

- Còn son: còn trong trắng

Anh còn son, em cũng còn son,… (Ca dao)

Cô ấy còn son.

k. Biểu trưng cho sự sang giàu, sung sướng

- Áo đỏ quần điều: ăn mặc sang trọng, dùng để chỉ phụ nữ quý phái trong

xã hội phong kiến.

- Áo lụa quần hồng: ăn mặc chỉnh tề, đẹp đẽ.

- Son đỏ: sung sướng, hạnh phúc

Còn cha gót đỏ như son, đến khi cha chết gót con đen sì.

(Tục ngữ)

- Nhà cửa sang trọng, đẹp đẽ: Cửa tía lầu son (lầu son gác tía)

(Thành ngữ)

2.2.4.2 Ý nghĩa biểu trưng của nhóm màu trong một số văn bản thuộc

phong cách ngôn ngữ văn chương

a. Trong ca dao

Qua khảo sát ca dao, ngưởi viết nhận thấy: nhóm màu đỏ được sử dụng

trong ca dao với 2 lớp nghĩa biểu trưng quen thuộc là chỉ trẻ con:

Cố mang gông tay bồng con đỏ

Trời hỡi ông trời vợ nhỏ thương hơn.

Và chỉ người con gái:

Anh thương em từ thuở má hồng

Bây giờ anh lớn lấy chồng bỏ anh.

Bên cạnh đó, có một số trường hợp dùng với ý nghĩa sự cao sang

nhưng không dùng riêng lẻ mà kết hợp với một số màu sắc khác (sẽ phân tích

ở phần sau).

b. Trong Truyện Kiều

Trong Truyện Kiều, Nguyễn Du dùng nhóm màu đỏ với 2 nhóm nghĩa

biểu trưng chính là chỉ người con gái và chỉ chuyện tình duyên

b1. Dùng để chỉ người con gái

Theo phép ước lệ tượng trưng trong văn thơ cổ, vẻ đẹp của người phụ

nữ thường được miêu tả với những nét chấm phá. Tuân thủ theo bút pháp đó,

để nói về người đẹp, Nguyễn Du chỉ cần dùng hồng nhan, má hồng, bóng

hồng, hay má đào… là đủ. Theo thống kê, những từ này xuất hiện 15/ 20 lần

trong nhóm đỏ, chiếm tỉ lệ 75%:

Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen (Câu 5)

Bóng hồng nhác thấy nẻo xa (Câu 161)

Tịt mù nào thấy bóng hồng vào ra (Câu 286)

Bấy lâu nghe tiếng má đào (Câu 2181)

Dễ dàng là thói hồng nhan (Câu 2362)

Rằng: “Nàng chút phận hồng nhan (Câu 2541)

Vô duyên là phận hồng nhan đã đành (Câu 2660)

Sông Tiền Đường đó, ấy mồ hồng nhan (Câu 2964)

Còn chi là cái hồng nhan? (Câu 3102)

b2. Dùng để chỉ việc hôn nhân

Dùng để chỉ việc hôn nhân, Nguyễn Du đã bắt nguồn từ điển tích “hồng

diệp xích thằng” (lá thắm chỉ hồng). Như vậy, trong trường hợp này, màu sắc

được dùng đã là sự “tuân thủ quy ước” của văn chương cổ. Tuy nhiên, những

màu sắc được dùng phần nào cho thấy khuynh hướng ưa chọn màu sắc trong

văn chương cổ: thích những màu sáng, tươi tắn và mức độ phổ biến cao.

Dù khi lá thắm, chỉ hồng

Nên chăng thì cũng tại lòng mẹ cha.

(Câu 333)

Trước sân, lòng đã giãi lòng,

Trong màn làm lễ tơ hồng kết duyên.

(Câu 2134)

c. Trong thơ Xuân Diệu

Trong 2 tập thơ, nhóm màu đỏ xuất hiện nhiều nhất (38 lần) và chiếm

ưu thế nhất là màu hồng. Màu hồng xuất hiện trong thơ Xuân Diệu tượng

trưng cho sự sống của thiên nhiên vườn tược. Dưới đôi mắt của nhà thơ, tình

yêu và mùa xuân, sự sống và hạnh phúc ở đời có màu hồng. Màu hồng trong

trường hợp này không chỉ tượng trưng cho người phụ nữ trong văn chương

cổ mà mở rộng ra tượng trưng cho thanh niên, cho nguồn sống rạo rực, tuôn

trào

Cho no nê thanh sắc của thời tươi;

- Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!

(Vội vàng)

Lá hồng rơi lặng ngõ thuôn,

Sương trinh rơi kín từ nguồn yêu thương.

Phất phơ hồn của bông hường,

Trong hơi phiêu bạt còn vương máu hồng.

(Chiều)

Son sẻ trời như mười sáu tuổi,

Má hồng phơn phớt, mắt long lanh.

(Rạo rực)

Mặt khác, với cách nhìn của người thanh niên yêu đời, ngay cả sương,

cả nắng cũng đều hồng cả. Và màu hồng cũng trở thành sắc màu của sự lạc

quan, của niềm tin yêu, hi vọng:

Hôm nay chiều đợi chờ

Nắng nhỏ cành vương vấn.

Sương hồng cây ước mơ;

Em đến; lòng van khấn.

(Chiều đợi chờ)

Nhận xét:

Màu đỏ là một màu truyền thống, tượng trưng cho những gì tốt đẹp,

may mắn trong quan niệm phương Đông. Do đó, các nghĩa biểu trưng cũng

đều là nghĩa tích cực. Trong nhóm màu này, tiếng Việt đã tiếp nhận một số

lượng lớn những ý nghĩa biểu trưng trong tiếng Hán, điển hình là trong ý

nghĩa tượng trưng cho người phụ nữ hay đề cập đến việc hôn nhân. Đặc biệt,

màu đỏ đã xuất hiện với tần số cao trong tập Gió lộng của Tố Hữu, chiếm

50%. Và hầu hết màu đỏ này đều biểu trưng cho sự chiến thắng, niềm tin

chiến thắng của dân tộc. Bên cạnh đó, nhóm màu đỏ cũng được dùng biểu

trưng thông qua sự chuyển dịch như: Quảng trường Đỏ, Hồng quân,…

2.2.5 Màu vàng và nhóm màu liên quan

Nhóm màu phụ của vàng bao gồm: mật ong, hoàng yến, nghệ, chanh,

cam, mơ, đồng, gừng, da cam, mỡ gà, lòng tôm, nắng, hổ phách, đồng thau,

hoa mướp, hoàng anh, kem, gan gà, cánh cam, cá vàng, da bò, be

2.2.5.1 Ý nghĩa biểu trưng chung trong ngôn ngữ

- Nhạc vàng: nhạc bi lụy

- Võ vàng: gầy yếu hốc hác

- Trang vàng: danh bạ ghi những số điện thoại quan trọng

- Suối vàng: nơi yên nghỉ của người chết (theo quan niệm dân gian)

2.2.5.2 Ý nghĩa biểu trưng của nhóm màu trong một số văn bản

thuộc phong cách ngôn ngữ văn chương

a. Trong ca dao

Trong ca dao, màu vàng chiếm tỉ lệ khá cao, hình thành lối nói ước lệ

tượng trưng. Điều đáng lưu ý là trong kết hợp với màu vàng, chúng tôi nhận

thấy các sự vật rất quen thuộc: trầu vàng, cau vàng, mây vàng, trăng vàng,…

- Cho anh một miếng trầu vàng

Mai sau anh trả cho nàng đôi mâm,

- Trên trời có đám mây vàng

Bên sông nước chảy có nàng quay tơ.

- Hỡi cô tát nước bên đàng

Sao cô múc ánh trăng vàng đổ đi?

Ở đây, màu vàng xuất hiện đã tạo cho danh từ trước nó một sắc thái mới,

đưa những sự vật bình thường thành những sự vật sang trọng, quý hiếm, lung

linh tuyệt đẹp, là duyên cớ để những sự việc được tỏ bày tiếp theo. Nói cách

khác, những sự vật màu vàng đã trở thành phông màn cho những câu chuyện

trong ca dao.

Loại ý nghĩa biểu trưng thứ hai bắt nguồn từ lối biểu trưng trong dân

gian rất quen thuộc: chỉ thế giới bên kia của người chết

Cũng liều hồn xuống suối vàng

Thôi thôi ngọc nát hoa tàn từ đây.

b. Trong Truyện Kiều

Trong Truyện Kiều, màu vàng mang những ý nghĩa biểu trưng sau:

b1. Những điều cao quý, tốt đẹp

Trong hàm nghĩa biểu trưng này, hầu hết là những câu thơ ở giai đoạn

đầu đời Kiều hoặc phần sau, khi đã trải qua những biến cố. Đó là màu vàng

của giọng ai trong lần đầu gặp gỡ, của hương nguyền ước hẹn ba sinh, của nỗi

nhớ nhung người cũ:

Cách hoa, sẽ dặng tiếng vàng (Câu 379)

Thề hoa chưa ráo chén vàng (Câu 701)

Một gian nước biếc, mây vàng chia đôi (Câu 2698)

Càng nhìn vẻ ngọc, càng say khúc vàng (Câu 824)

b2. Tâm trạng u sầu ảm đạm

Nguyễn Du còn đề cập đến màu vàng không chỉ đơn thuần là sắc vàng

của cồn cát nhấp nhô, của từng đám bụi cuốn lên từng dặm xa mênh mông mà

còn là cát bụi của cuộc đời. Đó là màu vàng tàn tạ héo uá của nội cỏ dàu dàu

/ là những màu buồn, ảm đạm, thiếu sức sống, màu của bế tắc, không lối

thoát.

Dàu dàu ngọn cỏ, nửa vàng, nửa xanh (Câu 57)

Hoa trôi giạt thắm, liễu xơ xác vàng (Câu 572)

Giếng vàng đã rụng một vài lá ngô (Câu 1594)

b3. Chỉ thế giới của người chết

Đó là hình ảnh quen thuộc hay được dân gian nhắc đến như cách nói

tránh, cách nói văn chương về cái chết. Hình ảnh này bắt nguồn từ việc người

Trung Quốc quan niệm ở chốn âm phủ có chín dòng suối màu vàng. Đây là

một trong những trường hợp văn bản vay mượn lại cách biểu trưng chung của

ngôn ngữ:

Gọi là gặp gỡ giữa đường,

Họa là người dưới suối vàng biết cho.

(Câu 94)

c. Trong thơ Xuân Diệu

Màu vàng là màu chiếm tỉ lệ khá nhiều trong Thơ Thơ và Gửi hương

cho gió (Thơ Thơ chiếm 8%; Gửi hương cho gió chiếm 11%). Từ này nhìn

chung được vận dụng phong phú và kết hợp khá rộng rãi với các từ chỉ sự vật

thuộc nhiều lĩnh vực (thiên nhiên, con người,…). Trong thơ Xuân Diệu, số

lượng lớn màu vàng dùng để miêu tả mùa màng, cảnh sắc, hoa lá (mùa vàng,

nắng vàng êm, vàng tươi,…) với vẻ đẹp riêng của buổi chớm thu hay vào

những khoảnh khắc nhẹ nhàng của mùa thu. Tuy nhiên, trong một số trường

hợp màu vàng chứa ý nghĩa biểu trưng rất riêng: chỉ tình yêu, khát vọng sống,

chỉ những điều tươi đẹp nhất của cuộc sống: mộng vàng, chiều vàng,…

Vừa xịch gối chăn, mộng vàng tan biến;

Dung nhan xê động, sắc đẹp tan tành.

(Gi ục giã)

Hay trong trường hợp “giọng hồng vàng” cũng cùng ý nghĩa đó:

Ở trong máu thắm vì xuân trộn ánh,

Suối ngươi đi, róc rách giọng hồng vàng,

(Thanh niên)

Mặt khác, Xuân Diệu không dùng màu vàng với ý nghĩa tiêu cực như

phương Tây là chỉ bệnh vàng da hay tính nhút nhát, ông dùng hình ảnh “bức

thư hoe vàng” tượng trưng cho sự nhạt phai tình cảm do những nguyên nhân

khách quan tác động.

Khi thư gửi, giấy còn nguyên sắc mới;

Thư đến xong, giấy đẹp đã hoe vàng!

(Truyện cái thư)

Nhận xét:

Màu vàng có số lượng ý nghĩa biểu trưng trong ngôn ngữ không nhiều.

Thế nhưng khi đi vào văn chương, màu này lại được ưa chuộng và chuyển tải

khá nhiều nghĩa biểu trưng như: sự giàu sang, tình yêu, thể trạng,… Có thể

thấy, ý nghĩa biểu trưng của màu vàng trong thơ Xuân Diệu (19%) và Truyện

Kiều (17%) đã có sự đa dạng hơn so với nghĩa trong từ điển. Và tất nhiên, do

khuynh hướng giao lưu văn hóa, nét nghĩa tiêu cực của màu vàng cũng đã

được vận dụng.

2.2.6 Màu nâu và nhóm màu liên quan

Những màu phụ trong nhóm nâu là: gạch, gụ, đất, gạch cua, bánh mật,

cánh kiến, cánh gián, hạt dẻ, cháo lòng, da lươn, đà, cà phê, cà phê sữa, nước

dưa, sô cô la,…

2.2.6.1 Ý nghĩa biểu trưng chung trong ngôn ngữ

a. Biểu trưng cho một số tầng lớp trong xã hội

a1. Màu nâu là màu được coi là tượng trưng cho sự giản dị, quê mùa.

- Quần nâu áo vải: cách ăn mặc giản dị, đơn sơ của những người lao

động.

a2. Màu nâu là màu của trang phục của nông dân Việt Nam thời phong

kiến.

- Quần nâu áo vá: ăn mặc đơn sơ, nghèo khổ

- Áo nâu: người nghèo khó

a3. Màu nâu là màu của trang phục của các vị tiểu, tăng trong hệ thống

Phật giáo Việt Nam.

- Nâu sồng: giới tu hành (đạo Phật)

- Khố nâu: người nghèo khổ

Anh khố son bòn anh khố nâu (Tục ngữ)

b. Biểu trưng cho ma túy

Nàng tiên nâu: chỉ ma túy

2.2.6.2 Ý nghĩa biểu trưng của nhóm màu trong một số văn bản thuộc

phong cách ngôn ngữ văn chương

a. Trong ca dao

Màu nâu trong ca dao xuất hiện 5 lần, chiếm tỉ lệ 2%, nhưng điểm đặc

biệt là tất cả những lần xuất hiện đều gắn liền với chiếc áo nâu hoặc quần nâu

áo vải. Đây là một trong những cách nói quen thuộc của ca dao nhằm miêu tả

khái quát cuộc sống giản dị, chân chất của người bình dân; đồng thời qua đó

màu nâu cũng trở thành biểu trưng cho người nông dân Việt Nam:

- Cứ gì quần lụa áo tơ

Quần nâu áo vải thơm tho được rồi.

- Trời mưa ướt áo nâu sòng

Công em đi cấy quăng đồng đồng xa

- Hỡi người mặc áo nâu bầm

Đi đây ta kết chỉ thâm cho bền.

- Áo nâu kiềng bạc sáng lòa

Làm cho anh bỏ vợ nhà anh theo.

b. Trong Truyện Kiều

Qua khảo sát, màu nâu chỉ xuất hiện 1 lần trong Truyện Kiều, trong lần

nói về việc Thúy Kiều đi tu. Nghĩa biểu trưng của màu nâu ở đây ý chỉ việc tu

hành, giới tu hành. Đây là loại biểu trưng rất phổ biến trong ngôn ngữ:

Nâu sồng từ trở màu thiền,

Sân thu trăng đã vài phen đứng đầu.

(Câu 1933)

c. Trong thơ Xuân Diệu

Màu nâu chỉ xuất hiện 1 lần trong cả hai tập thơ, chiếm tỉ lệ 1%:

Và có lòng tin tưởng để ngâm ca.

Không muốn biết màu nâu hay sắc thắm.

(Mênh mông)

Nhìn chung, nhóm màu sắc không tươi chiếm số lượng ít ỏi trong thơ

Xuân Diệu. Do vậy nên khó khái quát thành dạng biểu trưng. Màu nâu duy

nhất này không dùng với hàm nghĩa biểu trưng quen thuộc trong ngôn ngữ. Ở

đây màu nâu mang nghĩa trong ngữ cảnh chỉ những điều bất như ý, không tốt

đẹp, đối lập với “sắc thắm”.

Nhận xét:

Qua khảo sát các văn bản, chúng tôi nhận thấy màu nâu dùng nhiều nhất

(thơ Tố Hữu) cũng không vượt quá 4%. Màu nâu thuộc nhóm màu sắc không

tươi và trong truyền thống văn hóa dân tộc, màu này chỉ được dùng cho tầng

lớp bình dân. Đó là một trong những lí do màu nâu xuất hiện ít trong văn

chương bác học và đồng thời số lượng nghĩa biểu trưng của nó cũng hạn chế.

2.2.7 Màu tím và nhóm màu liên quan

Nhóm màu phụ của tím bao gồm: hoa cà, sim, bằng lăng,…

2.2.7.1 Ý nghĩa biểu trưng chung trong ngôn ngữ

a. Biểu trưng cho màu da

- Tím ngắt: một màu tím đậm, tái vì lạnh hoặc bệnh.

b. Biểu trưng cho sự đau đớn, tức giận

- Bầm gan tím ruột (Căm gan tím ruột): hết sức căm giận.

- Tím mặt: trạng thái giận dữ tột độ

- Tím gan: tức giận lắm phải nén chịu.

c. Biểu trưng cho tuổi học trò

- Mực tím: thời học trò ngây thơ

2.2.7.2 Ý nghĩa biểu trưng của nhóm màu trong tác phẩm văn học

a. Trong ca dao

Qua khảo sát, chúng tôi nhận thấy màu tím không mang nghĩa biểu

trưng trong 2 lần được sử dụng trong ca dao. Ở đây chỉ nhằm miêu tả:

- Chỉ ngũ sắc xanh đỏ tím vàng

Bùa yêu ăn phải dạ càng ngẩn ngơ

- Chỉ xanh, chỉ đỏ, chỉ tím, chỉ vàng

Chim loan, chim phượng, chim én, chim nhàn

b. Trong Truyện Kiều

Qua khảo sát, chúng tôi không tìm thấy màu tím được sử dụng trong

Truyện Kiều.

c. Trong thơ Xuân Diệu

Màu tím cũng là màu hiếm hoi trong cả hai tập thơ, xuất hiện 2 lần

trong gần 100 bài thơ, chiếm tỉ lệ 2%. Nhưng trong số 2 lần xuất hiện, 1 lần

chỉ thuần miêu tả cảnh:

Buổi chiều đi lảng ở chân mây,

Hoa tím trên song thoảng điệu gầy

(Buổi chiều)

Trong lần còn lại, màu tím hiện diện với tên gọi của màu “mực đậm”.

Đây là màu mà khi pha đen và đỏ với tỉ lệ màu đen hơn hẳn. Trong một câu

(bằng 2 dòng thơ) đã bắt đầu với màu sắc “đen” và kết câu là màu rất gần với

“đen”:

Đất đen kêu như sắt dưới chân giày,

Tiếng rắn rỏi có pha màu mực đậm.

(Sắt)

Nghĩa biểu trưng ở đây không thể hiểu đơn lẻ mà phải đặt màu sắc này

vào trong ngữ cảnh của bài thơ, màu mực đậm đã trở thành màu của sự ghê

rợn, nhức nhối, ngột ngạt bao phủ trong một không khí lạnh lẽo, ảm đạm, chết

chóc.

Nhận xét:

Đây cũng là nhóm màu có số lượng nghĩa biểu trưng ít ỏi cả trong ngôn

ngữ lẫn văn chương. Trong số 6 loại ngữ liệu khảo sát, màu tím chỉ xuất hiện

hạn chế trong 3 loại ngữ liệu. Có thể kể ra những dạng biểu trưng như: chỉ

tuổi trẻ hay chỉ sự đau đớn và không khí ngột ngạt, u ám. Ngoài ra, màu tím

cũng đã xuất hiện trong những trường hợp đặc biệt để biểu trưng cho một

nhóm người như: nữ sinh áo tím (chỉ học sinh trường Gia Long, bây giờ là

trường Nguyễn Thị Minh Khai) hay màu tím thường được liên tưởng tới

người con gái Huế (vì trước đây họ hay mặc áo dài màu tím); nhưng hiện nay

những từ này không được phổ biến nữa nên luận văn không đi sâu phân tích.

2.2.8 Màu xám và nhóm màu liên quan

Nhóm màu phụ của xám bao gồm: tái, tro, khói, lông chuột, xi măng,

ghi, ghi đá, ghi xám, tàn thuốc, muối tiêu, chì,…

2.2.8.1 Ý nghĩa biểu trưng chung trong ngôn ngữ

a. Biểu trưng cho cuộc sống tẻ nhạt

Màu xám thường được dùng để ám chỉ những điều chán ngắt, không có

mục đích hay những người có cuộc sống khắc khổ.

VD: Tương lai xám xịt, cuộc sống xám xịt, cuộc đời màu xám,…

b. Biểu trưng cho màu da

- Xám ngắt (xám ngoét): xám một màu, gây cảm giác lạnh lẽo như không

có sự sống: Mặt mũi xám ngắt.

- Xám xịt: xám đen lại, trông tối và xấu: Nước da xám xịt.

c. Biểu trưng cho trí tuệ

Chất tạo thành não người được nhắc tới như là có màu xám và được

gọi là "chất xám", vì thế nó còn có nghĩa là những cái gì đó thuộc về trí thức.

"Lý thuyết chỉ là màu xám..."

- Chất xám: chỉ tri thức, trí tuệ, óc sáng tạo: Hiện tượng “chảy máu chất

xám”.

2.2.8.2 Ý nghĩa biểu trưng của nhóm màu trong một số văn bản thuộc

phong cách ngôn ngữ văn chương

a. Trong ca dao

Qua khảo sát, chúng tôi không tìm thấy màu xám được sử dụng trong

ca dao.

b.Trong Truyện Kiều

Qua khảo sát, chúng tôi không tìm thấy màu xám được sử dụng trong

Truyện Kiều.

c. Trong thơ Xuân Diệu

Trong tập Thơ Thơ, màu xám được vận dụng 3 lần trong 3 bài: Giờ tàn,

Tương tư chiều và Tiếng gió. Mặc dù màu này chiếm số lượng không nhiều

nhưng góp phần không nhỏ trong việc miêu tả tâm trạng nhà thơ

Thong thả chiều vàng thong thả lại

Rồi đi đêm xám tới dần dần

Cứ thế mà bay cho đến hết

Những ngày, những tháng, những mùa xuân.

(Giờ tàn)

Ở đây có sự đối lập giữa chiều vàng và đêm xám. Đêm xám là hình ảnh

xấu, ghê rợn, u tối bao phủ bởi lớp màu xám xịt- đó chính là kết quả của xuân

qua, tuổi già và đó cũng là cái lo của một con người

Vài miếng đêm u ẩn lẫn trong cành

Mây theo chim về dãy núi xa xanh

Từng đoàn lớp nhịp nhàng và lặng lẽ

Không gian xám tưởng sắp tan thành lệ.

(Tương tư chiều)

Cặp từ đối lập núi xa xanh và không gian xám. Màu xám ở đây nổi bật

tâm trạng tất yếu của một con người trong tình cảnh cô đơn, trống trải; đó là

tâm trạng của người đang thất vọng, lâm vào bi kịch tình yêu, bi kịch thời đại.

Nhận xét:

Trong tiếng Việt, người Việt gần như không dùng màu xám để ám chỉ

sự việc ngoài cách liên tưởng không gian và màu da. Trước đây, màu xám

hiếm hoi được tìm thấy trong các văn bản văn học. Đến giai đoạn hiện đại,

Xuân Diệu đã đưa màu này thành màu sắc của tâm trạng. Còn Nguyễn Tuân

thì dùng đến 10% màu xám để biểu trưng không gian. Và ngày nay, cách

dùng này trở nên quen thuộc trong văn chương. Như vậy, nghĩa biểu trưng

của màu sắc có thể được hình thành bằng nhiều cách khác nhau cũng như

những màu sắc không chỉ mang tính biểu trưng riêng lẻ mà còn kết hợp lại để

cho ra những tầng ý nghĩa mới trong ngôn ngữ.

2.2.9 Nghĩa biểu trưng của sự kết hợp màu sắc trong tiếng Việt

Bản thân màu sắc đã là sự kì diệu trong thiên nhiên. Sự kì diệu đó sẽ

càng tăng thêm khi màu sắc được kết hợp với nhau. Sự pha trộn màu sắc

không có một công thức chung mà tùy thuộc vào sự sáng tạo của các tác giả.

Nhưng có một cách thông thường nhất là dùng những màu sắc đối lập, có thể

là đối lập tương đối hoặc tuyệt đối. Phổ biến nhất là cách kết hợp hai màu.

Chẳng hạn: Dùng hai (hoặc hơn hai) tính từ chỉ màu sắc, thường là các màu

đối lập để tăng cảm giác về màu sắc:

VD: “Trong vườn sắc đỏ rủa màu xanh” (Xuân Diệu) => Hai màu sắc

tương phản đặc tả những điều có giá trị trong cuộc sống đang bị lụi tàn.

Trường hợp dùng hơn hai màu sắc phải kể đến cách diễn đạt rất thành

công của Hồ Xuân Hương trong bài “Mời trầu”: màu xanh của lá trầu, màu

trắng của ruột cau, màu bạc của vôi hợp lại thành thứ màu thắm, màu hạnh

phúc.

2.2.9.1. Màu xanh kết hợp với các màu khác

Trong trường hợp này, màu xanh không được dùng riêng lẻ mà kết hợp

với những màu khác tạo nên sự đối lập, thay đổi và chuyển biến của nhân

cách, thể hiện ở dạng quá trình.

- Xanh vỏ đỏ lòng: giả dối, tráo trở, bề ngoài tỏ ra tử tế nhưng trong lòng

nham hiểm.

Bà không phải hạng người xanh vỏ đỏ lòng, đổi trắng thay đen.

(Nguyễn Huy Tưởng)

- Xanh như lá, bạc như vôi: vô ơn bạc nghĩa, sống thiếu tình người.

Có phải duyên nhau thì thắm lại

Đừng xanh như lá, bạc như vôi.

(Hồ Xuân Hương)

2.2.9.2. Màu đen kết hợp với các màu khác

Cũng như màu xanh, màu đen khi kết hợp với màu khác, thông thường

là những màu đối lập như đỏ, trắng (hoặc màu phụ của trắng). Về nghĩa biểu

trưng, màu đen trong tổ hợp vẫn mang ý nghĩa tiêu cực chỉ những điều kém

may mắn, thận phận bạc bẽo,…

Trong ca dao, dân gian đã vận dụng cấu trúc “tham…bỏ…” như: tham

đó bỏ đăng, tham đăng bỏ đó,… để đưa màu sắc vào tạo nên cách diễn đạt

mới của sự thay đổi “tham đỏ bỏ đen”.

Chốn rẫy quê em an bề hèn khó

Em chưa có hề tham đỏ bỏ đen.

Trong Truyện Kiều, bạc và đen kết hợp với nhau nhưng khi vị trí của

hai từ thay đổi thì nghĩa biểu trưng cũng khác đi. Với kết hợp “bạc đen”:

Bạc đen thôi có tiếc mình làm chi! (Câu 1402),

nghĩa biểu trưng thường được hiểu là “sống chết cũng liều”, tốt xấu ra sao

cũng chấp nhận. Còn kết hợp “đen bạc”:

Trách người đen bạc, ra lòng trăng hoa (Câu 1538),

lại mang nghĩa chỉ người bội bạc, không chung thủy.

Và khi tạo thành thế đối lập trong 2 vế câu thì nằm trong chuỗi nguyên

nhân - kết quả:

Nỗi chàng ở bạc, nỗi mình chịu đen (Câu 1609)

2.3 Ý nghĩa biểu trưng của màu sắc sáng tạo

2.3.1 Sự sáng tạo các mức độ màu sắc và tạo ra màu mới

a. Sáng tạo về mức độ màu sắc

Thật ra đây là cách sử dụng màu cơ bản kết hợp với từ phụ chỉ mức độ.

Từ phụ này có thể có sẵn trong ngôn ngữ, tác giả chỉ thêm một yếu tố để tạo

nên một từ láy cho yếu tố phụ.

Cấu trúc cũ: Màu cơ bản + từ phụ A

Cấu trúc mới: Màu cơ bản + từ phụ A-A’

Hồ Xuân Hương là một trong những thi sĩ được biết nhiều bởi khả năng

sáng tạo màu sắc, tô điểm những màu cơ bản thành sắc màu riêng của chính

nữ sĩ:

Cửa son đỏ loét tùm hum nóc (Đèo Ba Dội)

Nảy vừng quế đỏ đỏ lòm lom (Hỏi Trăng 1)

Để diễn tả độ nhòe, Xuân Hương lại dùng màu có sắc độ mạnh, dễ đập

vào mắt mọi người, màu đỏ. “Đỏ loét”, người đọc sẽ có cảm giác đó là những

quệt màu nhòe nhoẹt, trơn ướt và bị đẩy tới cực độ. Còn “đỏ lòm lom”, ở đây

màu đậm của ánh sáng biến thành màu đỏ nội lực, sức sống căng tràn, chín lắt

lay không thể chín hơn được nữa.

Cùng với cách sáng tạo trên còn có những màu sắc khác như: trắng

phau phau, trắng phau,…

Cầu trắng phau phau đôi ván ghép ( Vịnh cái giếng)

Thắp ngọn đèn lên thấy trắng phau. ( Dệt cửi)

Các màu như xanh, trong, bạc,… thuộc gam màu lạnh nhưng cũng có

thể biến thành màu nóng. Đặc biệt là cách sử dụng màu thắm trong thơ Hồ

Xuân Hương:

Có phải duyên nhau thì thắm lại

Đừng xanh như lá bạc như vôi.

(Mời trầu)

Màu xanh của lá trầu, màu bạc của vôi, màu trắng của ruột cau là ba

thứ thuộc gam màu lạnh. Hòa ba thứ màu riêng lẻ ấy vào nhau thì được màu

thắm, màu của hạnh phúc. Thắm là hòa quyện vào nhau không thể tách rời

của ba loại màu sắc trên.

Như vậy, khi sáng tạo tác phẩm văn học, các tác giả không chỉ tạo ra

những mức độ màu khác nhau mà còn tạo thêm những màu phụ trong nhóm

màu. Đồng thời cũng sử dụng những cách “phối màu” khác nữa.

2.3.2. Dùng “sai” phạm vi biểu vật của từ

Mỗi từ ngữ nói chung và từ ngữ chỉ màu sắc nói riêng đều có phạm vi

biểu vật riêng. Nhìn chung, những màu sắc trung tính có phạm vi biểu vật

rộng, những màu phụ kèm mức độ có phạm vi biểu vật hẹp. Tuy nhiên, trong

sáng tác thơ văn, một số từ ngữ chỉ màu được sử dụng “sai” phạm vi nhằm

biểu hiện sáng tạo nội dung và phá cách trong cách thể hiện.

Chẳng hạn như xanh xao chỉ dùng cho người nhưng một số tác phẩm

dùng “xanh xao” để miêu tả sự vật: màu trời xanh xao, mây chiều xanh xao,…

Trời xanh xao trên bờ môi dịu ngọt

Lúa tươm vàng, ưng ửng, nở hồn em

(Mùa lúa mới- Vương Ngọc Long)

Có nỗi buồn rất nhẹ

Thoảng như là gió qua

Có một ngày rất nắng

Đến bên trời xanh xao

(Vỡ tan bên chiều hoang- Vương Ngọc Long)

Mưa rơi nhè nhẹ mưa rơi

Lệ ai rớt xuống ven trời quạnh hiu

Xanh xao một vũng mây chiều

Vài con cú đậu đợi triều nước lên

(Lệ xanh – Hà Văn Kỳ)

Hay như từ “biếc” (màu xanh lam có pha màu lục) chỉ dùng cho biển,

rêu,… nhưng ở đây được sử dụng phổ biến để chỉ màu mắt:

Ta soi vào mắt biếc của ngày xa

Thêm khát vọng - thêm niềm tin mới mẻ

Xin chào nhé những búp non mới hé

Sẽ có ngàn mắt biếc giống ta xưa.

(Mắt biếc - Tạ Chiến)

Màu vàng cũng thế, vàng vọt là từ chỉ thể trạng người nhưng đã được

phổ biến tả sự vật; như trong những câu thơ của Thâm Tâm:

Bóng chiều không thắm, không vàng vọt,

Sao đầy hoàng hôn trong mắt trong?”

(Tống biệt hành- Thâm Tâm)

Em sợ một ngày nơi vạn dặm

Anh về vội vã đến quê xưa

Thấy trăng vàng vọt nơi xa vắng

Bởi đời đã sớm nắng chiều mưa

(Thời xa vắng- Chi Lan)

Trăng thu hao gầy vàng vọt

Rơi vào lòng em nhẹ tênh...

(Đêm thu- Lê Hương Nhu)

Cũng góp vào việc dùng “sai” phạm vi biểu vật phải kể đến “bậc thầy

chơi chữ” Nguyễn Tuân. Ông đã chuyển từ chỉ màu da con người, từ để tả

cảnh vật thành những từ miêu tả những khái niệm trừu tượng như sự sống,

cảnh giác,…

Tôi đứng dưới gốc đào, một buổi chiều ngừng bắn, nghĩ miên man thấy

sự sống là một điều gì thật là óng ánh, thiêng liêng, và hồng hào.

(Cho giặc Mỹ nó ăn một cái tết ta)

Tôi cho rằng anh đúng là một mẫu người Hoa Kỳ, theo cái nghĩa Hoa

Kỳ là chúa hay khôi hài một cách đen ngòm như thế.

Mùa đông năm 1967, da trời Hà Nội thấp thỏm xanh ngắt một niềm

cảnh giác.

(Đèn điện phố phường Hà Nội vui sáng hơn bất cứ lúc nào)

Hoặc cũng có khi dùng từ chỉ màu sắc hàm chứa mức độ (màu phụ) kết

hợp với một từ chỉ mức độ nữa nhằm nhấn mạnh ý tưởng:

Trên vườn chuối thành nội, chuối khu Lục Bộ Tam Tòa đã cháy khô vì

lửa trận, mà cái gì xanh lè nhất chỗ khu vườn chuối đó lại là bom đạn lân

tinh Mỹ quăng vào hàng đống.

(Nhớ Huế)

Từ đây, có thể rút ra một nhận xét: sự phát triển phong phú của hệ

thống từ ngữ chỉ màu sắc trong tiếng Việt còn có sự góp phần của việc dùng

“sai” phạm vi biểu vật của từ. Quá trình này không nằm ngoài quá trình phát

triển nghĩa của từ tiếng Việt.

2.3.3. Kết hợp sáng tạo với các danh từ tạo nên khái niệm mới

Qua khảo sát, chúng tôi nhận thấy cách dùng từ ngữ chỉ màu sắc của

Xuân Diệu hết sức đặc biệt. Ngoài những từ chỉ màu sắc miêu tả thì cũng có

một số lượng không nhỏ những từ chỉ màu sắc được kết hợp với một số danh

từ khác tạo nên những khái niệm rất mới. Có thể kể đến một số màu: xanh,

vàng, xám,..

Màu vàng được Xuân Diệu dùng rất mới, rất lạ và rất phong phú: giọng

hồng vàng (Thanh niên), lệ vàng (Yêu mến), chiều vàng (Giờ tàn), đêm vàng

(Lời Bá Nha), trời vàng (Hoa đêm), cây vàng (Nụ cười xuân), nắng vàng êm

(Đơn sơ),… Những kết hợp này thể hiện khả năng dồi dào của nhà thơ khi sử

dụng tính từ tạo âm hưởng màu sắc độc đáo trong tác phẩm của mình.

“Đêm vàng” là cụm từ xuất hiện khá nhiều trong “Gửi hương cho gió”

của Xuân Diệu. Thực tế, trong thơ ca cũng như trong ngôn ngữ đời thường, ta

thường gặp các từ “đêm đen”, “đêm tối”, “đêm sáng trăng”. Đêm sáng trăng-

một đêm sáng nhờ ánh sáng của trăng nhưng Xuân Diệu lại dùng tổ hợp “đêm

vàng”.

…Lòng mặt trời nghẹn tắt cũng vì thương

Những đêm vàng vấn vít nguyệt tơ vương

Đi không nỡ ở trên đường bạch lộ.

(Lời Bá Nha)

…Vừa xịch gối chăn, mộng vàng tan biến

Dung nhan xê động, sắc đẹp tan tành.

(Giục giã)

Màu hồng cũng là màu của sự tươi trẻ, sức sống cuồn cuộn, lại được

cảm nhận bằng “cặp mắt xanh” của nhà thơ nên những sự vật có màu sắc khác

đều có thể chuyển sang hồng: xuân hồng, nắng hồng, sương hồng,…

Hỡi xuân hồng ta muốn cắn vào ngươi.

(Vội vàng)

Hôm nay chiều đợi chờ

Nắng nhỏ cành vương vấn

Sương hồng cây ước mơ

Em đến: lòng van khấn.

(Chiều đợi chờ)

Màu hồng còn là màu có sức mạnh mãnh liệt như đã chứa trong nó mọi

sức nóng và sự chói chang của một cái nắng gay gắt buổi trưa hè:

Mùa hạ trắng ở dưới trời đốt trắng

Nắng hồng nung mây bạc chảy ngân nga

Cảnh thưa thớt chỉ một con đường vắng

Cái am xưa hay đôi chiếc bia già.

(Hè)

Riêng màu xám được Xuân Diệu dùng ít (chỉ ba lần) nhưng nó góp

phần không nhỏ trong việc tập trung thể hiện tâm trạng của nhà thơ.

Thong thả chiều vàng thong thả lại

Rồi đi…đêm xám tới dần dần

Cứ thế mà bay cho đến hết

Những ngày, những tháng, những mùa xuân.

(Giờ tàn)

Chiều vàng là hình ảnh không vui, không buồn nhưng đẹp. Đêm xám đã

hiện ra, gần như đối lập với chiều vàng, là hình ảnh xấu, ghê rợn, u tối bao

phủ bởi một màu xám xịt, đó là kết quả của xuân qua, tuổi già, là cái lo của

một con người.

Có một hình ảnh khác đối lập giữa thiên nhiên bao la, hùng vĩ là tâm

trạng cô đơn, trống trải u buồn của nhà thơ, một “không gian xám”.

Mây theo chim về dãy núi xa xanh

Từng đoàn lớp nhịp nhàng và lặng lẽ

Không gian xám tưởng sắp tan thành lệ.

(Tương tư, chiều)

Màu xanh thì lại được kết hợp với các từ: ánh tơ xanh (Trăng), mộng

xanh, tim xanh (Lời thơ vào tập Gửi hương cho gió). Màu xanh được diễn tả

qua sắc thái của tình yêu, trong đêm trăng thanh thì tình yêu mong manh, dễ

vỡ như “ánh tơ xanh”

Dịu dàng đàn những ánh tơ xanh

Cho gió du dương điệu múa cành

Cho gió đượm buồn thôi náo động

Linh hồn yểu điệu của đêm thanh.

(Trăng)

Và không chỉ thế, màu xanh dùng để diễn tả với tất cả sức trẻ: nắng

xanh, hồn xanh, tóc xanh, mộng xanh,…

Ngực thở trời, mình hút nắng tươi xanh

Ta góp hết những vòng hoa mới lạ.

(Thanh niên)

Đó là lời reo lên sung sướng của chàng trai trẻ tiếp cận với xuân đầu

vừa thơ, vừa mộng. Vì vậy phải vội vàng giục giã giữ lấy tuổi thanh niên để

vĩnh viễn: “Vàng son đang lộng lẫy buổi chiều xanh” (Giục giã), để giữ lấy

“mộng xanh trời” để hồn thêm xanh”

Tôi là con chim đến từ núi lạ

Ngửa cổ hát chơi

Khi gió sớm vào reo um khóm lá

Khi trăng khuya lên ủ mộng xanh trời.

Hát vô ích, thế là chim vỡ cổ

Héo tim xanh cho quá độ tài tình

(Lời thơ vào tập Gửi hương cho gió)

2.3.4. Những màu sắc không chính danh

2.3.4.1 Màu của tâm trạng

Màu sắc trong Truyện Kiều không chỉ có những màu mang ý nghĩa biểu

trưng mà còn là màu sắc của tình cảm. Đó là những màu quan san, màu quan

tái, màu khơi trêu, màu của nỗi nhớ Bốn phương mây trắng một màu / Trông

vời cố quốc biết đâu là nhà. Hay trời cao trông rộng một màu bao la. Có thể

nói, Nguyễn Du không chỉ nắm bắt sắc màu của sự vật mà còn nắm bắt và

diễn tả cả sắc màu tình cảm nhuốm đậm lên cảnh vật, không gian làm cho

phong cảnh trở nên sinh động, có hồn …

2.3.4.2 Màu “trong”

Nguyễn Khuyến là nhà thơ kiên định, thủy chung với khuynh hướng

lánh đục tìm trong, luôn đề cao tiết trong sạch, tinh khiết của nhà nho. Cái đẹp

của sự trong sáng thanh cao là cảm hứng thẩm mỹ để ông đam mê một màu

trong. Để diễn đạt cái sắc không màu, ông luôn sáng tạo để tìm từ, tạo từ rất

linh hoạt: trong, trong vắt, thanh khiết,… Có khi ông dùng “trong” đơn tiết:

Phía tây nam có ao nước trong… (Tây nam trì thủy thanh)

Giếng không phải không trong… (Tỉnh phi vô thanh tuyền)

Đợi lúc sông trong hỏi còn sống được bao lâu… (Sĩ đáo hà

thanh năng thọ kỷ)

Hoặc cấu tạo song tiết theo phương thức láy:

Vầng trăng non trong trẻo treo trên mái tường cao (Quyên quyên

tân nguyệt quải cao tường)

Hay phương thức ghép:

Ao thu lạnh lẽo nước trong veo

Bên cạnh đó, ông dùng số lượng lớn thủ pháp so sánh: trong như tuyết,

thanh như tẩy, bất nhiễm trần, trong như ngọc,…

Ở đây, sự không màu không có nghĩa là nhạt màu, vô cảm. Khi kết hợp

với những từ ngữ xung quanh nó, nó trở nên một màu sắc đặc biệt. Khó nhận

biết đây là màu thật nhưng cũng không thể cho là màu hư bởi cả hai phương

diện biểu vật và biểu niệm của nó đều gây ấn tượng sâu sắc. Nhạt là không

thấy gì, thực và ảo, cụ thể và mơ hồ. Thực chất ở đây có sự tương liên,

chuyển hóa giữa màu sắc: Màu xanh thực và các màu nhạt chuyển hóa dần về

phía trong, trở nên hư vô, vô định. Đây là phần bí ẩn, thu hút bởi nét riêng

trong ngôn ngữ chỉ màu sắc trong thơ Nguyễn Khuyến.

2.3.4.3 Màu thời gian

Đoàn Phú Tứ là một thi sĩ của Xuân Thu Nhã Tập. Trong số những bài

thơ nổi tiếng của nhóm tác giả này phải kể đến bài thơ “Màu thời gian” với

một khái niệm mới về màu sắc của thời gian:

Màu thời gian không xanh

Màu thời gian tím ngát

Thời gian trừu tượng đã được xác định, được cụ thể hóa. Nếu Xuân

Diệu cảm nhận được từng bước đi của thời gian để khát khao sống trọn vẹn

thì Đoàn Phú Tứ tìm thấy ở thời gian những sắc màu, những hương vị vọng

về từ những câu chuyện xưa cũ. Cảm thức về thời gian quá khứ và hiện tại nối

liền, từ hiện tại nhớ về quá khứ, từ quá khứ mong về hiện tại. Thời gian

không có sắc, không có hương trong hiện thực nhưng tồn tại trong tâm tưởng,

hoài niệm của tác giả. Hoài niệm xưa buồn bã bâng khuâng khiến cảm nhận

về thời gian cũng lãng nhạt mơ hồ. Đây là màu của tâm trạng u buồn lặng lẽ,

không cuộn trào sôi sục mà bện chặt lòng người. Do vậy, thời gian vô hình đã

trở nên tím ngắt u buồn.

Có thể nói Đoàn Phú Tứ đã khai sáng một cách nói mới, cách khám phá

hiện thực mới. Dù cách thể hiện có chỗ khó hiểu nhưng đó là những cảm xúc

chân thật, tinh tế của tâm trạng con người.

2.3.4.4 Những sắc màu trừu tượng

Thế Lữ là người tiên phong trong phong trào Thơ Mới với nhiều thành

công nhất ở chặng đầu. Ngoài hệ thống màu sắc cụ thể, Thế Lữ còn tạo ra rất

nhiều những sắc màu trừu tượng, màu ảo, đó là màu thơ, màu ái tình, màu

đằm thắm, màu kín đáo, màu châu lệ, màu biệt li, màu cay đắng, màu tiếc

thương,…

- Mắt còn thấy màu rực rỡ

- Và để màu tươi của ái tình

- Nước non trong sạch thay màu mới

- Nồng say thắm nhuộm màu thi cảm

- Cùng nàng Thơ lựa chọn các màu thơ

- Mấy cụm hoa non ngậm màu kín đáo

-Mấy phen ta thấy màu châu lệ

- Mặc ánh tà dương còn dãi màu li biệt

Sự đa dạng những màu trừu tượng cho thấy khả năng sáng tạo vô cùng

phong phú của tác giả. Điều này có thể lí giải trên cơ sở phương pháp sáng

tác: Thế Lữ chịu ảnh hưởng nhiều từ trào lưu thơ lãng mạn (liên quan tới hội

họa) và trào lưu thơ tượng trưng (liên quan tới âm nhạc). Về cấu trúc, những

màu ảo này có thể do tổ hợp “màu + danh từ” như: màu thơ, màu châu lệ,…

hoặc “màu + tính từ” như: màu kín đáo, màu mới, màu rực rỡ,…

TIỂU KẾT

1/ Về ý nghĩa biểu trưng chung của từ ngữ chỉ màu sắc

Có hai dạng cấu trúc chính: “X + từ chỉ màu sắc” chiếm 59% (47/79);

“từ chỉ màu sắc + X”, chiếm 41% (32/79) trong tổng số những từ ngữ chỉ màu

sắc mang ý nghĩa biểu trưng được luận văn thống kê.

- Với ý nghĩa biểu trưng chỉ tầng lớp hay giới trong xã hội, “X” có thể là

một bộ phận cơ thể như: mày, đầu, tóc,.. hoặc những gì liên quan tới đối

tượng đề cập như: áo, mực, ngày tháng,.. Màu sắc được dùng để kết hợp ở

đây là màu xanh, màu tím, màu trắng, màu son (màu phụ của đỏ). Vấn đề đặt

ra là vì sao lại là những màu này? Trong số các màu, màu xanh được thế giới

quan niệm là màu sâu nhất, tinh khiết nhất bởi nó gắn liền với thiên nhiên, của

sự sống còn non. Dùng màu xanh để chỉ tuổi trẻ xem ra là một qui luật mang

tính phổ quát xuất phát từ hiện thực thực tế. Còn màu trắng và màu tím đều

bắt nguồn từ thực tế là đồng phục của học sinh Việt Nam thường là màu trắng

và màu mực học trò thường dùng là màu mực tím. Trong việc sử dụng màu

trắng, giữa cách dùng ở nước ta và thế giới có sự tương đồng. Thế giới quan

niệm màu trắng là màu của sự tinh khiết, ban sơ,… vì thế màu áo của cô dâu

ngày cưới là màu trắng.

- Khi dùng để biểu trưng cho cái chết, “X” ở đây có thể là bộ phận cơ thể

như “xương”, là vật dụng như “khăn” (cũng là một vật không thể thiếu trong

các đám tang của người thân); hoặc đó là một sự vật trong thiên nhiên được

chuyển nghĩa để chỉ một vật khác tương tự trong thế giới khác (một thế giới

tưởng tượng trong quan niệm của dân gian và tôn giáo) như “suối vàng”.

- Còn với những nghĩa biểu trưng còn lại như: nơi lén lút, số phận,…

“X” là chính những sự vật mà nghĩa biểu trưng hướng tới (chợ đen, vận

đen,…).

Nhìn chung, để tạo ra những ý nghĩa biểu trưng, các từ ngữ chỉ màu sắc

đã được chuyển nghĩa bằng các phương thức như ẩn dụ, hoán dụ.

2/ Về ý nghĩa biểu trưng có sắc thái tu từ của từ ngữ chỉ màu sắc

Qua quá trình khảo sát và phân tích, luận văn nhận thấy rằng: trong các

văn bản thuộc phong cách ngôn ngữ văn chương, hầu hết những ý nghĩa biểu

trưng chung trong ngôn ngữ đều được vận dụng vào văn bản. Bên cạnh đó,

các tác giả cũng sáng tạo thêm một số ý nghĩa biểu trưng riêng biệt. Chẳng

hạn như ca dao thì dùng màu sắc để đưa ra những quan niệm thẩm mỹ riêng

của người bình dân như: răng đen, da đen giòn, áo nâu,…; Truyện Kiều thì

nổi bật ở cách dùng màu sắc diễn tả tâm lý, tình cảm như: ngọn cỏ nửa vàng

nửa xanh, mây trắng một màu,…; còn Xuân Diệu đã kết hợp giữa danh từ và

tính từ chỉ màu sắc khá độc đáo tạo nên sắc thái riêng như: ánh tơ xanh, tim

xanh, giọng hồng vàng, đêm xám,…

Điều này càng chứng minh rõ, khả năng biểu trưng của từ ngữ chỉ màu

sắc trong phong cách ngôn ngữ văn chương là vô tận.

Sau đây là bảng tổng kết của chúng tôi về ý nghĩa biểu trưng của từ ngữ

chỉ màu sắc trong tiếng Việt (qua một số một số văn bản thuộc phong cách

ngôn ngữ văn chương).

Bảng 2.3: Nghĩa biểu trưng của từ ngữ chỉ màu sắc trong tiếng Việt (qua

một số một số văn bản thuộc phong cách ngôn ngữ văn chương)

Quy ước chú thích:

(1): Ca dao; (2): Truyện Kiều; (3): Thơ Xuân Diệu;

(4): Thơ Tố Hữu; (5): Văn Nguyễn Tuân

Nhóm màu

í

Đ e n

Đ ỏ

T m

N â u

X á m

X a n h

V à n g

Nghĩa biểu trưng

T r ắ n g

4 Sự trong trắng ngây thơ

Sự tang tóc, chia ly

1, 2, 4 1, 2, 3,4 2 4 3 1 1 4 4

Sự thay đổi Vẻ đẹp bình dị Sự kiên định, không thay đổi Sự kém may mắn

Hạng người xấu xa

3 3,5 2 2,4 ,5 3 Không khí ảm đạm, u ám

1,2, 3,4

3, 5 Tuổi trẻ, còn nhỏ

Sự đau đớn, đau khổ Tình yêu đôi lứa

1,2, 3,4 1 3 3 Chỉ việc hôn nhân

4 1, 2 4 Sự cao quý

Cái chết Tâm trạng u sầu

4 3 1,2 ,4 1,2 2 Người nông dân

1, 4 2

Việc tu hành, người tu hành Sự chiến thắng, cách mạng 4,5

Bảng 2.4: Nghĩa biểu trưng của những kết hợp từ chỉ màu sắc có sắc thái

tu từ

í

Đ ỏ

Yếu tố kết hợp Nghĩa biểu trưng

Đ e n

T m

N â u

X á m

X a n h

V à n g

T r ắ n g

áo + + Số phận

Cuộc sống bế tắc, mây, đất, giờ +

u ám sông, nước +

ánh tơ +

mộng, giọng,

Tình yêu thư, đêm, chiều, +

trầu, cau, mây,

trăng

chén + Hạnh phúc

nắng, mộng, + Tuổi trẻ hồn, tim

xuân, lá, máu +

cỏ, liễu, giếng +

Tâm trạng u sầu đêm, không gian +

mây, trăng +

thời gian + + Hoài niệm quá

khứ

+ tiếng, chén, Điều cao quý, mây, khúc tốt đẹp (nhạc)

Vẻ đẹp của phụ da +

nữ yếm, cổ tay +

Chương 3: SO SÁNH Ý NGHĨA BIỂU TRƯNG CỦA TỪ

NGỮ CHỈ MÀU SẮC TRONG THÀNH NGỮ

TIẾNG VIỆT VỚI TỪ NGỮ CHỈ MÀU SẮC

TRONG THÀNH NGỮ TIẾNG ANH

3.1 Những vấn đề chung

3.1.1 Khái quát về thành ngữ tiếng Việt và tiếng Anh

“Sự hiểu biết về thành ngữ là cần thiết để có được sự hiểu biết hoàn hảo

về một ngôn ngữ" (M.F. Zamenhof, 1905). Thành ngữ có vai trò vô cùng

quan trọng trong mỗi ngôn ngữ. Những đơn vị thành ngữ là loại ngữ cố định,

có tính hình tượng, nghĩa thường không thể suy ra từ nghĩa đen của các yếu tố

cấu tạo. Chẳng hạn như khi nói về thái độ không lao động, chỉ chờ dịp may,

người ta dùng cách nói: “há miệng chờ sung”,... Thành ngữ cũng nằm trong

hệ thống ngôn ngữ, có ngữ nghĩa ổn định như từ. Nếu so với quán ngữ, thành

ngữ có tính hình tượng và có tính biểu trưng cao. Tính biểu trưng của thành

ngữ có thể hiểu là dùng những sự vật thông thường, thường thấy trong cuộc

sống hàng ngày để diễn tả một điều khái quát, trừu tượng và phổ biến trong

cuộc sống. Chính vì vậy, khi nói về tính biểu trưng, luận văn dành chương 3

để khảo sát từ ngữ chỉ màu sắc trong thành ngữ tiếng Việt (có đối chiếu với

tiếng Anh).

Phần lớn các thành ngữ đều có điệu (một số ít có cả vần và điệu). Ở

tiếng Việt, vần- điệu đều xuất hiện trong thành ngữ, trong khi đó ở tiếng Anh

thành ngữ chỉ có vần hoặc có khi không có vần.

VD: ở tiếng Việt:

(1) Dân ngu khu đen

(2) Đầu xanh tuổi trẻ

Ở (1) có sự lặp lại khuôn vần “ngu - khu”, ở (2) chỉ có điệu chứ không

lặp vần.

Trong tiếng Anh:

Black and blue (đen và xanh= bị bầm tím, bị thâm tím da thịt):

lặp tổ hợp phụ âm “bl”

A black look (cái nhìn đen= cái nhìn giận dữ)

Cả thành ngữ tiếng Việt và tiếng Anh đều khai thác triệt để các thủ

pháp ngữ nghĩa:

(i) Thủ pháp so sánh

As white as snow (trắng như tuyết)

Trắng như bông

(ii) Thủ pháp ẩn dụ

One in a blue moon (một lần trong trăng xanh= hiếm khi)

Hai bàn tay trắng (không có gì)

(iii) Thủ pháp đồng nghĩa, gần nghĩa

The pot calls the kettle black (Nồi chê ấm đen)

Đỏ da thắm thịt

(iv) Thủ pháp đối nghĩa

Black and white (Đen và trắng= Đầy đủ chứng cứ, tương đương

“Giấy trắng mực đen”)

Đen bạc đỏ tình

(v) Thủ pháp hoán dụ

Green thumb (ngón tay xanh= người làm vườn giỏi)

Một xanh cỏ hai đỏ ngực (hoặc hi sinh hoặc vinh quang)

(vi) Thủ pháp thậm xưng

Mong đỏ mắt

Paint the town red (sơn cả thị trấn màu đỏ= ăn chơi xả láng)

Ngoài ra, thành ngữ của tiếng Việt và tiếng Anh chứa đựng sự tương

đồng về ý nghĩa biểu trưng cũng như có những khác biệt rất đáng lưu ý. Đó là

phần trọng tâm của chương này, chúng tôi sẽ trình bày ở phần sau.

3.1.2 Khái quát về từ ngữ chỉ màu sắc trong thành ngữ tiếng Việt và

tiếng Anh

Luận văn đã tiến hành khảo sát trên các từ điển: Từ điển tiếng Việt, Từ

điển thành ngữ Việt Nam, The Oxford Encyclopedic English Dictionary [53],

[87], [91], chúng tôi thu thập được 75 thành ngữ tiếng Việt và 113 thành ngữ

tiếng Anh có từ ngữ chỉ màu sắc. Qua thống kê, chúng tôi có bảng số liệu sau:

Bảng 3.1: Số lượng từ chỉ màu sắc trong thành ngữ tiếng Việt và tiếng Anh

Tiếng Việt Tiếng Anh Ngôn ngữ Nhóm màu

Số lượng 22 18 Đen/ Black Tỉ lệ % 19 16

Số lượng 50 25 Đỏ/ Red Tỉ lệ % 43 22

Số lượng 0 3 Nâu/ Brown Tỉ lệ % 0 2,5

Số lượng 15 15 Trắng/ White Tỉ lệ % 13 13

Số lượng 0 3 Tím/ Purple Tỉ lệ % 0 2,5

Số lượng 0 6 Xám/ Grey Tỉ lệ % 0 5

Số lượng 6 37 Xanh/ Blue/ Green Tỉ lệ % 5 32

Số lượng 23 8 Vàng/ Yellow Tỉ lệ % 20 7

Tổng số 116 115

Biểu đồ 3.1: So sánh tỉ lệ các nhóm màu trong thành ngữ tiếng Việt

với thành ngữ tiếng Anh

Qua bảng 3.1 và biểu đồ 3.1, luận văn rút ra những vấn đề sau:

- Nhóm màu đỏ được dùng nhiều ở thành ngữ tiếng Việt trong khi nhóm

màu xanh là phổ biến hơn trong thành ngữ tiếng Anh.

- Trong thành phần ngữ liệu mà chúng tôi khảo sát, có những màu sắc

mà thành ngữ tiếng Việt không dùng đến như màu nâu, màu tím, màu xám.

Như vậy, nhìn chung số lượng các từ ngữ chỉ màu sắc trong thành ngữ

tiếng Việt được ghi nhận lại là ít hơn so với tiếng Anh.

Về khả năng kết hợp màu sắc, chúng tôi thống kê sự kết hợp màu sắc

với các từ khác trong thành ngữ như sau:

Bảng 3.2: Khả năng kết hợp của từ ngữ chỉ màu sắc với các yếu tố

khác trong thành ngữ tiếng Việt

Nhóm màu

í

Đ e n

Đ ỏ

T m

N â u

X á m

X a n h

V à n g

T r ắ n g

Yếu tố kết hợp

+ + + Đầu

+ Con (người)

+ Mặt

+ + Mắt

+ Mỏ (miệng)

+ Tai

+ Má

+ Môi

+ + Răng

+ Tay

+ Bụng

+ Máu

+ Da

+ Thịt

+ + Khu (mông)

+ Lòng (dạ)

Nhóm màu

í

Đ e n

Đ ỏ

T m

N â u

X á m

X a n h

V à n g

T r ắ n g

Yếu tố kết hợp

+ Rừng

+ Lá

+ Giấy

+ Mực

+ Vôi

+ Đèn

+ Gạo

+ Cơm

+ Cá

+ Nước

+ Đũa

+ Chỉ

+ Vỏ

+ Lầu (gác)

+ Cửa

+ Bôi (tô)

+ Giày (vò)

+ Mặc

Đổi (thay)

+ +

Bảng 3.3: Khả năng kết hợp của từ ngữ chỉ màu sắc với các yếu tố

khác trong thành ngữ tiếng Anh

R e d

P i n k

B l a c k

B l u e

G r e e n

G r e y

B r o w n

Y e l l o w

W h i t e

P u r p l e

+ + + + + head

+ + hair

+ + + face

+ + + + eye

+ + nose

+ neck

+ finger (thumb)

+ tooth

+ + hand

+ leg

+ boy

+ + collar

+ belt

+ + day

+ + elephant

+ + light

+ look

+ list

+ mark

+ herring

+ grass

R e d

P i n k

B l a c k

B l u e

G r e e n

G r e y

B r o w n

Y e l l o w

W h i t e

P u r p l e

+ beetro (beet)

+ hole

+ stump

+ snocker

+ ice

+ sheep

+ ball

+ spot

+ blood

+ feel

+ pound

+ hope

+ gill

+ eminence

+ envy

+ monster

+ horn

+ + room

+ + light

+ area

+ book

+ cent

R e d

P i n k

B l a c k

B l u e

G r e e n

G r e y

B r o w n

Y e l l o w

W h i t e

P u r p l e

+ rice

+ blazes

+ moon

+ town

+ slip

+ line

+ + dog

+ fund

+ + ink

+ mist

+ bull

+ tape

+ bed

+ carpet

+ murder

+ streat

+ kettle

+ mile

+ sheet

+ feather

+ lie

+ livered

R e d

P i n k

B l u e

B l a c k

G r e y

W h i t e

B r o w n

G r e e n

Y e l l o w

P u r p l e

+ press

+ bellied

+ sepulchre

+ boil

+ out

+ born

+ off

+ + go

+ + + + in

+ see

+ tickle

+ wash

+ work

+ fire

+ bleed

Bảng 3.2 và bảng 3.3 cho thấy:

- Những từ ngữ chỉ màu sắc trong thành ngữ tiếng Việt và thành ngữ

tiếng Anh kết hợp nhiều nhất với danh từ, số còn lại là kết hợp với động từ.

Điểm đặc biệt là trong số các cấu trúc kết hợp với danh từ có 50% kết hợp với

những từ ngữ chỉ bộ phận cơ thể.

- Có nhiều màu sắc kết hợp với cùng một sự vật và ngược lại.

3.2 Những điểm tương đồng về ý nghĩa biểu trưng của từ ngữ chỉ màu

sắc trong thành ngữ tiếng Việt và tiếng Anh

Trong tiếng Việt và tiếng Anh, thành ngữ có từ ngữ chỉ màu sắc xuất

hiện với một số lượng tương đối nhiều, tạo nên một mảng từ ngữ đẹp và đầy

sắc màu. Đặc biệt mảng từ ngữ này cho thấy những nét bất ngờ thú vị giữa hai

ngôn ngữ. Qua khảo sát, chúng tôi nhận thấy có một số điểm tương đồng.

3.2.1 Nhóm màu trắng

Cả hai ngôn ngữ đều liên tưởng đến màu trắng/ white để ám chỉ nghĩa

không có gì hoặc hết nhẵn. Trong tiếng Việt: lo bò trắng răng, hai bàn tay

trắng,..; trong tiếng Anh: keep white elephant (giữ vật không có giá trị), white

chip (không có giá trị),..

Màu trắng cũng có sự tương đồng về đối tượng so sánh giữa hai ngôn

ngữ. Người Anh có thành ngữ chỉ mức độ trắng: As white as snow (trắng như

tuyết). Người Việt cũng có thành ngữ chỉ màu trắng ở mức độ cao: trắng như

tuyết, trắng như bông, trắng như mây,...

3.2.2 Nhóm màu đen

Cả hai ngôn ngữ đều dùng từ đen/ black để chỉ sự kín, không công

khai, bất hợp pháp như chợ đen/ black market, đồng tiền đen tối/ black

money. 10 Và ngược lại để chỉ sự rõ ràng, cả hai ngôn ngữ đều có thành ngữ

dùng màu ngược lại: màu trắng. Người Việt nói: giấy trắng mực đen và người

Anh thì nói “(in) black and white” (trắng đen rõ ràng).

Ở hai ngôn ngữ đều có màu đen trong thành ngữ để chỉ sự đen tối khó

khăn tưởng chừng không lối thoát: “đen như mõm chó”, “cơn đen vận túng”

10 Ở đây không đề cập đến từ hộp đen (black box) vì từ này Việt Nam tiếp nhận thông qua con đường chuyển dịch khi máy bay bắt đầu xuất hiện ở Việt Nam.

trong tiếngViệt; a black day (ngày đầy bất hạnh) trong tiếng Anh.

Ngoài ra, màu đen còn có sự tương đồng trong so sánh giữa hai ngôn

ngữ. Người Anh có thành ngữ chỉ mức độ đen: as black as coal (đen như

than). Người Việt cũng có cách nói: đen như than.

3.2.3 Nhóm màu đỏ

Thử so sánh hai thành ngữ cùng nói về sự tức giận. Trong tiếng Anh:

“to see red” và trong tiếng Việt là “đỏ bừng mặt” hay “đỏ mặt tía tai”. Ở Anh,

có người cho rằng thành ngữ này xuất xứ từ chuyện người đấu bò bên Tây

Ban Nha vẫy một mảnh vải đỏ trước mặt một con bò để cho nó nổi giận và

húc vào anh ta. Tuy nhiên, nhiều người khác thì lại cho rằng sở dĩ có thành

ngữ này là vì khi người ta nổi giận, mặt họ trở nên đỏ bừng lên. Giả thiết thứ

hai có thể hợp lí hơn. Chẳng hạn, có một ví dụ về anh chàng đang giận dữ sau

khi đưa chiếc xe ô tô bị hư cho tiệm sửa xe:

When I saw the bill to fix my car, I thought it was way too high. And

when I drove it home I really saw red! I had paid 800 dollars and the car was

in worse shape than before. (Khi tôi trông thấy hóa đơn tính tiền chữa xe tôi

cho là nó quá đắt. Và khi tôi lái xe về nhà tôi càng tức giận hơn nữa. Tôi đã

trả 800 đô la mà chiếc xe bây giờ lại còn tệ hơn lúc trước.)

Như vậy, cả tiếng Anh và tiếng Việt đều chú ý đến màu đỏ trong việc

thể hiện trạng thái. Trong tiếng Việt có thành ngữ: đỏ con mắt, đỏ gay, đỏ mặt

tía tai,...; còn trong tiếng Anh, cũng có những đơn vị tương ứng: see red

(bừng bừng nổi giận), red- face (đỏ mặt do bối rối),…

Ngoài ra, để diễn tả tình trạng sức khỏe, tiếng Anh có: in the pink

(hồng hào), red- blooded (mạnh khỏe, cường tráng), trong tiếng Việt có: hồng

hào, đỏ da thắm thịt,…

3.2.4 Nhóm màu xanh

Từ ý nghĩa ban đầu màu xanh diễn tả trái cây còn sống chưa chín.

Trong thành ngữ của hai ngôn ngữ, màu biểu trưng cho tuổi trẻ.

Tiếng Việt: đầu xanh tuổi trẻ

Tiếng Anh: in the green (tuổi thanh xuân)

Green years: tuổi xuân, còn trẻ

A green hand: thợ mới vào nghề

To be still green at one's job: mới làm việc còn bỡ ngỡ

Màu xanh còn được dùng để chỉ được phép làm điều gì, hay là được bật

đèn xanh, như ta thấy trong thành ngữ to get the green light. Người Việt cũng

nói như thế khi muốn mở đường cho một người nào đó. Thành ngữ này xuất

xứ từ màu xanh của các đèn giao thông xanh, đỏ trên đường phố.

Ví dụ: Good news! We got the green light we have been waiting for to

start the new project. And the boss is giving us more funds and people to do

the job. We’ll start next Monday. (Tin mừng! Chúng ta vừa được phép khởi

sự dự án mới mà chúng ta chờ đợi từ lâu. Và ông chủ sẽ cho chúng ta thêm

tiền và nhân viên để thực hiện dự án này. Chúng ta sẽ bắt đầu vào thứ hai tuần

tới.)

Màu xanh cũng được cả hai ngôn ngữ dùng trong thành ngữ để diễn tả

trạng thái và tình trạng sức khỏe của con người.

Trong tiếng Việt, những màu sắc dùng trong thành ngữ để diễn tả trạng

thái giận, sợ thẹn của con người: xanh mặt, mặt mày tái mét, xanh như

chàm…Và trong tiếng Anh, để diễn đạt những ý nghĩa như thế cũng có những

đơn vị tương ứng: blue in the face (giận xanh mặt), be in a blue funk (sợ xanh

mặt- từ cổ),…

Để diễn tả tình trạng sức khỏe, tiếng Anh có: green the round the gills

(trông có vẻ bệnh), baby blue (xanh tái),…; trong tiếng Việt ta có: mặt mày

xanh lét, xanh xao, xanh như tàu lá, đói xanh xương,…

Trong ngôn ngữ Việt, màu xanh được dùng kết hợp với từ ngữ chỉ

trang phục để biểu thị các tầng lớp người người hầu trong xã hội cũ: áo xanh

(nhưng hiện nay không còn dùng). Ở tiếng Anh: a blue-collar worker/job:

dùng hình ảnh cổ áo màu xanh để chỉ về tầng lớp lao động chân tay trong xã

hội.

3.2.5 Tương đồng trong cách sử dụng màu sắc kết hợp

Cả hai ngôn ngữ đều thể hiện hai mặt của vấn đề bằng những màu sắc

đối lập: trắng và đen; đen và đỏ. Điều này thể hiện sự đồng nhất về nhận thức

của người Việt và người Anh. Có thể dẫn ra một số câu như sau:

- Trắng và đen

Make white black (làm trắng thành đen).

Đổi trắng thay đen.

In black and white (trong đen và trắng).

Giấy trắng mực đen.

- Đỏ và đen

In the black (không nợ ngân hàng)

In the red (nợ ngân hàng)

Đen bạc đỏ tình

Nhận xét: Qua quá trình khảo sát, chúng tôi nhận thấy thành ngữ chứa

màu sắc trong tiếng Việt và thành ngữ chứa màu sắc trong trong tiếng Anh có

nhiều điểm tương đồng trong việc nhận thức về đối tượng bằng màu sắc như:

chỉ sự không công khai hoặc bất hợp pháp, chỉ sự không có gì hoặc hết nhẵn,

chỉ tuổi trẻ, người chưa có kinh nghiệm, chỉ sự kém may mắn,…

Cũng thông qua quá trình khảo sát trong từ điển, luận văn chỉ tìm thấy

sự tương đồng về ý nghĩa biểu trưng của các màu trắng, đen, xanh, đỏ; chúng

tôi không tìm thấy bất kì sự tương đồng nào về các màu nâu, tím, xám, vàng

trong thành ngữ của hai ngôn ngữ.

Điểm thứ ba là, ở hai ngôn ngữ đều có hiện tượng dùng màu sắc kết

hợp trang phục để chỉ chức vụ, địa vị, tầng lớp xã hội. Thế nhưng cách lựa

chọn màu sắc thì không giống nhau, trừ trường hợp gần nghĩa: áo xanh (người

hầu) với a blue-collar worker/job (người lao động chân tay). Chúng tôi sẽ

phân tích sự khác biệt ở phần sau.

Sau đây là bảng tổng kết sự tương đồng về các nghĩa biểu trưng đã

phân tích ở trên.

Bảng 3.4: Sự tương đồng về nghĩa biểu trưng của từ ngữ chỉ màu

sắc trong thành ngữ tiếng Việt và tiếng Anh

í

T m

X á m

N â u /

/

Nhóm màu

V à n g /

X a n h /

T r ắ n g /

Đ ỏ / r e d

l

Nghĩa

Đ e n / b l a c k

B r o w n

G r e y

B u e /

/ p u r p l e

Y e l l o w

w h i t e

biểu

G r e e n

Không có gì, hết nhẵn

+

+

Sự kín, bất hợp pháp

+

Thời kì đen tối

Sự tức giận

+

Trạng thái lo lắng, xấu hổ

+

+

Tình trạng sức khỏe

+

+

Tuổi trẻ

+

Chỉ một số tầng lớp xã hội

+

trưng

3.3 Những điểm khác biệt về nghĩa biểu trưng của từ ngữ chỉ màu sắc

trong thành ngữ tiếng Việt và tiếng Anh

Bên cạnh những nét giống nhau trên, chúng tôi cũng nhận thấy có

những điểm khác nhau giữa hai ngôn ngữ về nghĩa biểu trưng của màu sắc

trong thành ngữ tiếng Việt và tiếng Anh.

3.3.1 Nhóm màu trắng/ white

Người Việt dùng thua trắng, mất trắng để chỉ sự mất mát hay thua bạc

sạch sẽ. Màu trắng còn là màu tang tóc: xương trắng, tang trắng. Trong khi

đó, người Anh dùng white wash để chỉ thắng trắng, thắng toàn diện; tượng

trưng cho sự thành công: white hope (một người được trông chờ để mang

thành công về cho đội).

Bên cạnh đó, người Anh còn dùng màu trắng trong thành ngữ với nhiều

ý nghĩa khác mà thành ngữ tiếng Việt không dùng: white room (phòng sạch

sẽ), whiter than white (trung thực), white feather (nhát gan), white livered

(nhát gan),…

3.3.2 Nhóm màu đen/ black

So với từ đen trong tiếng Việt, trong tiếng Anh, số lượng từ black mang

ý nghĩa biểu trưng nhiều hơn: a black look (cái nhìn giận dữ), in a black mood

(tâm trạng giận dữ), black bile (u sầu), black deeds (hành động xấu xa), black

lies (lời nói dối xấu xa), black comedy (hài kịch châm biếm), a black sheep (of

the family) đứa con bị ruồng bỏ, …

Xem xét một ví dụ sau: Alex started taking drugs at college, failed his

exams and has been jobless for the past three years. He’s certainly the black

sheep of the Spencer family. (Alex bắt đầu nghiện hút khi còn học cao đẳng,

thi rớt và thất nghiệp hơn ba năm. Chắc chắn anh ta bị gia đình Spencer ghét

bỏ.)

Trong thành ngữ tiếng Việt, màu đen khi kết hợp với động từ dùng để

chỉ sự đông người: bu đen bu đỏ; còn tiếng Anh thì không có.

Người Việt thường xem màu đen là màu không may mắn, còn người

Anh khi nói: be in the black là có tiền trong ngân hàng.

Như vậy, so sánh về số lượng thì nghĩa biểu trưng của màu đen trong

thành ngữ tiếng Việt phát triển hạn chế hơn black trong thành ngữ tiếng Anh.

3.3.3 Nhóm màu đỏ/ red

Trong tiếng Việt, màu đỏ tượng trưng cho trẻ em mới sinh: đỏ hỏn,

tượng trưng cho người Việt Nam: đầu đen máu đỏ hoặc với ý cùng một loại

với nhau: Khỉ chê khỉ đỏ đít. Người Anh hoàn toàn không dùng màu đỏ trong

những trường hợp này.

Trong khi người Việt xem màu đỏ là màu may mắn về tiền bạc như:

đen bạc đỏ tình thì người Anh lại xem màu đỏ là điều báo động về tiền bạc.

Điều này là do việc sử dụng mực đỏ ghi chép sự thiếu hụt hoặc thua lỗ theo

truyền thống của các nhân viên kế toán người Anh. Từ đó, người Anh đã hình

thành các thành ngữ như: red ink (sự thua lỗ), be in the red (nợ tiền ngân

hàng), not a red cent (không còn một xu),…

Ngoài các nghĩa và tính biểu trưng đã nói trên, từ red (đỏ) còn mang

một số tính biểu trưng khác với tiếng Việt: red- light district (khu kinh doanh

mại dâm), red- dog (tiền vệ bóng đá), a red rag to a bull (chọc tức ai đó),…

Màu đỏ còn được dùng trong thành ngữ to paint the town red, nghĩa

đen là sơn cả tỉnh thành màu đỏ, nhưng sự thật, có nghĩa là đi ăn chơi la cà tại

các quán rượu vào buổi tối. Một nhân viên tiếp thị vừa nhận được một đơn đặt

hàng của một công ty lớn. Anh ta rất vui mừng và nói với các đồng nghiệp

như sau:

Hey, I just got a phone call. We made the sale! So I want to take you

guys out to dinner and then hit the night spots. We worked hard for this, so

let’s go paint the town red. (Này các anh, tôi vừa nhận được một cú điện

thoại. Chúng ta đã bán được hàng. Vì thế tôi muốn đưa các anh đi ăn tối rồi

sau đó đi chơi tại các quán rượu. Chúng ta đã làm việc cực nhọc mới thành

công, vì thế bây giờ chúng ta đi ăn chơi thả cửa).

Trong nhóm màu này còn một số màu phụ, chẳng hạn như màu hồng.

Nhưng trong tiếng Anh, màu hồng lại là một màu chính.

Ở ngôn ngữ Việt, màu hồng dùng để chỉ người con gái: má hồng phận

bạc, giày tía vò hồng, má hồng răng đen,.. hay dùng màu hồng ám chỉ những

gì liên quan đến hôn nhân: lá thắm chỉ hồng, tơ hồng nguyệt lão,… Trong khi

đó, người Anh dùng pink để diễn tả sự hài lòng: be tickled pink (hài lòng)

hoặc trạng thái xuất hiện ảo giác do rượu mạnh hoặc ma túy: pink elephant

(thấy con voi có màu hồng).

Bên cạnh đó, có những màu phụ khác trong tiếng Việt biểu trưng cho

cuộc sống giàu sang, sung sướng: lầu hồng gác tía, cửa tía lầu son, lầu son

gác tía,…; biểu trưng cho sự trang điểm, trau chuốt giả tạo bên ngoài: bôi son

trát phấn, tô son trát phấn; hay chỉ người con gái đẹp: má đào mày liễu, má

phấn môi son,…hoặc chỉ sự kiên trung, không thay đổi: lòng son dạ sắt, gan

sắt lòng son, lòng son dạ đá,… Những ý nghĩa này được diễn đạt bằng nhóm

màu đỏ trong thành ngữ tiếng Anh thì không thấy có.

3.3.4 Nhóm màu xanh/ blue and green

Người Anh dùng màu xanh (blue) để biểu trưng cho các trường hợp đặc

biệt như: blue- plate (giá đặc biệt trong nhà hàng), blue – ribbon jury (hội

thẩm đoàn đặc biệt), a blue eye boy (con cầu con khẩn),…

Người Anh còn dùng nhiều thành ngữ chứa màu xanh (blue) để miêu tả

trạng thái, tâm trạng: to feel blue (cảm thấy buồn chán), things look blue (mọi

việc đáng buồn), blue study (sự ưu tư buồn bã, ủ ê), to be in the blues, to have

the blues (buồn chán), to give someone the blues (gây buồn chán cho ai),…

Đối với người Anh, màu xanh (blue) còn dùng trong các trường hợp: to

drink till all's blue (uống say mèm, say bí tỉ), to make (turn) the air blue (chửi

tục), hoặc dùng để chỉ sự hiếm hoi: once in a blue moon (một lần trong trăng

xanh = hiếm khi).

Có một điểm nữa là người Tây phương thường dùng màu green để chỉ

sự ghen tức, như ta thấy thành ngữ green with jealousy, green-eye monster

hay green with envy. Ta hãy nghe câu chuyện sau đây về anh Joe ghen tị một

bạn đồng nghiệp là cô Mary vì cô này vừa được thăng chức trước anh ta:

I hear Joe’s green with envy because Mary was promoted ahead of him.

He complained that he has worked here longer than she has, but the truth is

she simply does a better job than he does. (Tôi nghe nói anh Joe hết sức ghen

tị cô Mary bởi vì cô ấy được thăng chức trước anh ta. Anh ta than phiền là

anh làm việc ở đây lâu hơn cô ấy, nhưng sự thật là cô ấy làm việc giỏi hơn

anh ta.)

Trong khi đó, tiếng Việt chỉ có một số câu ít ỏi chỉ dạng phụ nữ chải

chuốt, làm nghề bất chính mắt xanh mỏ đỏ hoặc chỉ nơi nguy hiểm, xa xôi:

rừng xanh núi đỏ.

Trong cách diễn đạt màu xanh mang nghĩa biểu trưng thì tiếng Việt

không phong phú bằng tiếng Anh về số lượng cũng như về ý nghĩa.

3.3.5 Nhóm màu vàng/ yellow

Trong tiếng Việt, màu vàng tượng trưng cho đất và nó được kết hợp với

nước dưới lòng đất để chỉ âm phủ (quan niệm của đạo Phật và tín ngưỡng dân

gian): suối vàng.

Tiếng Anh lại có những cách biểu trưng mà tiếng Việt không có như:

yellow flag (cờ kiểm dịch trong hàng hải), yellow belly, yellow streak (nhát

gan, hèn nhát), yellow fever (sốt vàng da), yellow jacket (thuốc an thần),

yellow press (báo lá cải)…

Như vậy màu vàng trong thành ngữ tiếng Anh chứa đựng sắc thái tiêu

cực, dùng để diễn tả những điều không tốt đẹp, trái với suy nghĩ của người

phương Đông, màu vàng tượng trưng cho tầng lớp quý tộc, cao sang.

3.3.6 Nhóm màu nâu/ brown

Trong thành ngữ tiếng Việt, màu nâu được dùng để chỉ sự nghèo khổ

như: quần vải áo nâu,…và cũng dùng với ý nghĩa hàng quốc cấm: nàng tiên

nâu (chỉ ma túy).

Người Anh thì dùng màu nâu diễn tả tâm trạng con người: in a brown

study (trầm ngâm suy tư), brown off (chán ngấy); để diễn tả bệnh tật như:

brown lung (bệnh phổi do nhiễm bụi lông). Ngôn ngữ Anh còn dùng màu

brown (nâu) để diễn tả đồ vật như: brown paper (giấy gói đồ), brown rice

(gạo lức), brown goods (hàng điện tử,…

3.3.7 Nhóm màu tím/ purple

Trong tiếng Việt, người ta chỉ dùng màu tím chỉ trạng thái tức giận

hoặc đau đớn như: bầm gan tím ruột, bầm gan tím mật, tím ruột bầm gan,..

Người Anh dùng màu tím chỉ sự may mắn như purple patch (thời kì

may mắn), born to the purple (thuộc dòng dõi hoàng tộc giàu sang), hoặc chỉ

một đoạn văn hoa mỹ: purple paragraph (đoạn văn hay, hoa mỹ),…

3.3.8 Nhóm màu xám / grey

Trong tiếng Việt, hầu như không tìm thấy sự biểu trưng của màu xám

trong thành ngữ nhưng trong tiếng Anh màu xám được sử dụng rộng rãi hơn

như tình trạng già yếu: grey beard (ông già), grey haired (có tóc bạc), grey

vote (cử tri lớn tuổi) hay chỉ sự dơ bẩn: grey water (nước thải); sự thông thái:

grey matter (chất xám),… hay chỉ sự già đời, láo xược: grey mare (người vợ

bắt nạt chồng), to grow grey in the service (già đời trong nghề),…

3.3.9 Khác biệt trong cách sử dụng màu sắc kết hợp

a. Trắng / đen

Người Việt dùng sự đối lập trắng/ đen để tạo ra các nghĩa giả dối,

không chung thủy, tốt và xấu: đổi trắng thay đen, thay đen đổi trắng,.. Trong

khi đó, người Anh dùng thế đối lập trắng – đen để tạo ra sự trái ngược:

White lie (lời nói dối vô hại) ≠ black lie (lời nói dối xấu xa)

White list (danh sách được chấp thuận) ≠ black list (danh sách bị khai

trừ)

b. Đỏ / xanh

Trong thành ngữ của người Việt có sự đối lập xanh/ đỏ để tạo ra nghĩa

trái ngược nhau: xanh vỏ đỏ lòng, một xanh cỏ hai đỏ ngực,… Ý nghĩa của

xanh, đỏ ở đây không nhất định. Xanh là dáng vẻ xấu xí, đỏ là bản chất tốt

đẹp trong xanh vỏ đỏ lòng. Xanh là chết đi, không còn gì, đỏ là có tất cả, sự

vinh quang trong một xanh cỏ hai đỏ ngực. Như vậy, ý nghĩa biểu trưng của

cặp từ màu sắc đối lập này không cố định, hoàn toàn phụ thuộc vào ngữ cảnh.

Qua khảo sát trong tiếng Anh, chúng tôi không tìm thấy cách diễn đạt

cặp từ màu sắc này trong thành ngữ.

c. Đen / đỏ

Người Việt đã dùng thế đối lập giữa đen và đỏ để tạo ra nghĩa không

may mắn hoặc may rủi; trong đó đỏ biểu trưng cho sự may mắn, tốt đẹp còn

đen biểu trưng cho sự kém may mắn như: đen bạc đỏ tình.

Còn người Anh tạo ra sự đối lập ngược lại cũng liên quan đến tiền bạc:

in the black (có tiền trong ngân hàng) ≠ in the red (nợ nần chồng chất).

3.3.10 Các cặp thành ngữ đồng nghĩa dịch chuyển nhưng khác nghĩa

biểu trưng

Qua khảo sát, chúng tôi nhận thấy có một số thành ngữ nếu chuyển

dịch tương đương 1- 1 từ tiếng Anh sang tiếng Việt thì không tương đồng tính

biểu trưng.

- Trong tiếng Anh có từ black head dịch tương đương có nghĩa là “đầu

đen”, nhưng trong thực tế, đối với người Anh, black head có nghĩa là mụn

trứng cá; còn từ đầu đen trong tiếng Việt có nghĩa là còn trẻ. Điều này cho

thấy cách liên tưởng của hai dân tộc về các bộ phận cơ thể khác nhau: Người

Việt xem đầu là bộ phận cơ thể của con người và đầu đen tức tóc chưa bạc vì

vậy mang nghĩa còn trẻ; còn đối với người Anh, head ngoài nghĩa là cái đầu,

còn nghĩa là ngòi mụn nhọt và mụn trứng cá có ngòi đen ở đầu mụn nên black

head có nghĩa là mụn trứng cá.

- Ở Việt Nam, ngữ cố định hàng trắng là dùng để chỉ về ma túy, loại

hàng hóa cấm buôn bán, sử dụng; trong khi đó, tiếng Anh có từ white goods

(chuyển dịch tương đương cũng là hàng trắng) thế nhưng nó lại mang nghĩa

chỉ hàng hóa là những thiết bị điện tử gia dụng như tủ lạnh, máy giặt…

- Trong khi người Anh sử dụng white area là vùng đất chưa khai hoang

thì người Việt lại dùng vùng đất trắng để chỉ vùng đất bị Mỹ hủy diệt trong

chiến tranh.

- Người Việt dùng từ đầu xanh để chỉ người trẻ tuổi thì người Anh dùng

green head chỉ ruồi mắt xanh.

- Người Việt dùng thiệp hồng để thay cho thiệp mời đám cưới nhưng

người Anh dùng từ pink slip (thư hồng) để chỉ lá thư báo nghỉ việc.

Sau đây là bảng tổng kết sự khác biệt về nghĩa biểu trưng đã phân tích

ở trên.

Bảng 3.5: Sự khác biệt về nghĩa biểu trưng của từ ngữ chỉ màu sắc

trong thành ngữ tiếng Việt và tiếng Anh

Quy ước: (1): tiếng Việt; (2): tiếng Anh

Nhóm

í

T m

màu

X á m

N â u /

V à n g /

/

T r ắ n g /

Nghĩa

G r e e n

Đ ỏ / r e d

X a n h / G r e e n /

Đ e n / b l a c k

B r o w n

/ p u r p l e

G r e y

Y e l l o w

biểu trưng

w h i t e

B l u e

2

1

Sự mất mát, không còn gì

Sự tang tóc

2

1

1

2

Sự thắng lợi, may mắn

Sự sạch sẽ

2

2

2

Tính nhát gan

2

1

Tâm trạng giận dữ

2

1

Sự xấu xa, nguy hiểm

2

1

2

Sự giàu có, tốt đẹp

1

Trẻ nhỏ mới sinh

2

1

Việc ăn chơi, khu vui chơi

1

Người phụ nữ

1

Chuyện hôn nhân

2

Điều đặc biệt, hiếm

Sự buồn chán

2

2

Sự ghen tức

2

Sự thông thái, già đời

2

Thế giới người chết

1

TIỂU KẾT

Qua khảo sát thành ngữ chứa từ chỉ màu sắc trong tiếng Việt và tiếng

Anh (chúng tôi chỉ xem xét những đơn vị có từ chỉ màu chính danh), luận văn

đã rút ra một số nhận xét sau:

- Sự tương đồng về ý nghĩa biểu trưng của màu sắc trong thành ngữ, chỉ

tìm thấy trong bốn màu: trắng, đen, xanh, đỏ. Sự tương đồng ở mức độ nhiều

xuất hiện ở màu đỏ và màu xanh. Xét về ý nghĩa biểu trưng, chúng tôi thấy

những ý nghĩa tương đồng là: cách dùng màu sắc biểu trưng cho sự vật, hiện

tượng, dùng màu sắc kết hợp trang phục để chỉ chức vụ, địa vị, tầng lớp xã

hội, dùng màu sắc để diễn tả trạng thái, sức khỏe.

- Xét trên mức độ tổng quát, sự tương đồng về ý nghĩa biểu trưng bắt

nguồn từ sự tương đồng về cơ chế cấu tạo của thành ngữ nói chung và nhóm

thành ngữ chỉ màu sắc nói riêng.

- Sự khác biệt về ý nghĩa biểu trưng của màu sắc trong thành ngữ, chúng

tôi nhận thấy sự khác biệt có cả ở tám nhóm màu (theo cách phân loại ở trên)

và cả trong sự kết hợp các màu sắc lại với nhau. Sự khác biệt này thể hiện ở: ý

nghĩa biểu trưng của màu sắc trong diễn tả trạng thái (người Anh dùng nhiều

màu xanh- blue); ý nghĩa biểu trưng của màu sắc trong diễn tả các đối tượng

như: trẻ sơ sinh, phụ nữ,..; ý nghĩa biểu trưng của màu sắc trong diễn tả việc

tang tóc,…

- Có điều đáng nói là, một số ý nghĩa biểu trưng tìm thấy sự tương đồng

vẫn có sự khác biệt. Chẳng hạn như:

Trong tiếng Việt, người ta dùng trang phục để chỉ các tầng lớp người

trong xã hội: áo xanh (người hầu trong xã hội hội cũ), áo nâu (nông dân), nâu

sồng (người tu hành), quần hồng (người phụ nữ).

Ở tiếng Anh: a blue-collar worker/job: dùng hình ảnh cổ áo màu xanh

để chỉ về tầng lớp lao động chân tay trong xã hội. Và ngược lại “a white-

collar worker/job”, hình ảnh cổ áo màu trắng tượng trưng cho những người

làm công việc văn phòng.

Mặt khác, do quan niệm khác nhau về các màu nên có màu sắc trong

thành ngữ tiếng Việt mang nghĩa tiêu cực nhưng lại mang nghĩa tích cực trong

tiếng Anh và ngược lại. Vấn đề này chỉ có thể lí giải dựa vào sự tri nhận của

các dân tộc trên thế giới. Họ tri nhận những đặc trưng phổ quát là giống nhau

nhưng cách diễn đạt tùy thuộc vào ngôn ngữ văn hóa của từng dân tộc.

KẾT LUẬN

1. Thực tế ngôn ngữ cho thấy, có rất ít từ chỉ có một nghĩa mà thông

thường là từ đa nghĩa, có một nghĩa gốc và nghĩa phái sinh. Nghĩa phái sinh là

nghĩa được hình thành dựa trên cơ sở nghĩa gốc và vì vậy chúng thường là

nghĩa có lí do và được nhận ra qua các nghĩa gốc của từ. Nghĩa phái sinh

được tạo ra thông qua sự chuyển nghĩa và chúng có thể là nghĩa biểu trưng.

Như vậy tính biểu trưng của từ ngữ và nghĩa phái sinh có liên quan chứ không

đồng nhất. Mỗi dân tộc có thể định vị theo quan điểm của mình một hiện

tượng tâm lí nào đó và mọi sự vật đều mang tính hai mặt cho nên con người

cũng quan niệm về màu sắc theo hai mặt mang tính tích cực và tiêu cực.

Từ ngữ chỉ màu sắc không chỉ nhằm để miêu tả mà chúng còn mang

thêm nhiều ý nghĩa khác khi được sử dụng với những hàm ý biểu trưng mang

tính chủ định của con người. Hàm nghĩa biểu trưng của từ ngữ chỉ màu sắc

được thể hiện như thế nào lại phụ thuộc vào từng dân tộc, quốc gia,… Như

vậy, từ ngữ chỉ màu sắc không chỉ đơn giản chỉ các màu mà nó đóng góp rất

lớn vào hệ thống ngôn ngữ các từ ngữ với nhiều sắc thái, ý niệm,… để làm

giàu vốn từ của một dân tộc và sự biểu đạt phong phú cuộc sống xã hội.

Qua phần trình bày nội dung, chúng tôi rút ra một số kết luận về tính

biểu trưng của từ chỉ màu sắc như sau:

- Từ chỉ màu sắc có thể được dùng làm cơ sở biểu trưng cho các ý nghĩa

khác theo các phương thức ẩn dụ và hoán dụ.

- Phương thức tạo tính biểu trưng cho các từ chỉ màu sắc là đặt các từ chỉ

màu sắc bên cạnh các danh từ chỉ sự vật hoặc động từ ngoại động. Từ chỉ màu

sắc kết hợp với những từ này để tạo ra ý nghĩa biểu trưng.

- Có những ý nghĩa biểu trưng sử dụng một từ chỉ màu sắc hoặc có

những ý nghĩa được biểu thị bằng nhiều từ chỉ màu sắc khác nhau.

- Phạm vi biểu trưng của từ chỉ màu sắc cũng rất đa dạng. Đó là các chủ

đề về thiên nhiên, con người, xã hội. Những giá trị biểu trưng của từ chỉ màu

sắc rất phong phú: quy tắc ứng xử, hôn nhân gia đình, tình cảm lứa đôi,…

Việc nghiên cứu từ chỉ màu sắc tiếng Việt, có đối chiếu với tiếng Anh cho

thấy việc sử dụng từ ngữ chỉ màu sắc biểu thị thái độ hoặc quan niệm của con

người về thế giới xung quanh; đồng thời cũng thể hiện đặc trưng văn hóa

riêng của từng dân tộc. Điều này cũng phản ánh khả năng tinh tế trong cách

sử dụng ngôn ngữ của dân tộc. Vấn đề về ngôn ngữ và văn hóa cũng được thể

hiện thông qua việc nghiên cứu về tính biểu trưng của từ chỉ màu sắc.

2. Ý nghĩa biểu trưng của từ ngữ chỉ màu sắc trong tiếng Việt rất đa

dạng, phong phú, đặc biệt là trong những văn bản thuộc phong cách ngôn ngữ

văn chương.

- Xét về ngữ nghĩa, sự gia tăng không ngừng những ý nghĩa biểu trưng

của lớp từ chỉ màu sắc nằm trong quy luật chung của ngôn ngữ. Vì vậy, khi

nghiên cứu phân tích không thể tách rời những quy luật chung đó.

- Những tổ hợp mang ý nghĩa biểu trưng thường ngắn gọn, ít âm tiết.

Đặc điểm của những đơn vị mang nghĩa biểu trưng là ngắn gọn và mang tính

ổn định. Có thể khái quát một số dạng cấu trúc tiêu biểu như sau:

+ Cấu trúc 1: Danh từ + Từ chỉ màu sắc: mang nghĩa chỉ sự vật, khái

niệm như đầu xanh, áo xanh, má hồng,…

+ Cấu trúc 2: Động từ + Từ chỉ màu sắc: một hành động, trạng thái mang

nghĩa tiêu cực như: đổi trắng thay đen, tham đỏ bỏ đen, đừng xanh như lá,…

- Về khía cạnh văn hóa, mỗi màu sắc giữ vai trò biểu trưng khác nhau

trong những lĩnh vực khác nhau của cuộc sống. Những giá trị biểu trưng đó,

dù ở mức độ nào cũng đều phản ánh quá trình lịch sử, phong tục, tập quán,

tín ngưỡng của nhân dân, mang đậm màu sắc văn hóa dân tộc. Điều này mở

ra nhiều hướng nghiên cứu sâu rộng hơn về ý nghĩa biểu trưng của từ ngữ chỉ

màu sắc trong tiếng Việt nói riêng và trong ngôn ngữ nói chung.

3. Qua sự khảo sát và phân tích ở chương ba, luận văn nhận thấy một

số điểm sau:

- Từ ngữ chỉ màu sắc trong thành ngữ mất ý nghĩa miêu tả sự vật và

mang nghĩa mới hoàn toàn khác, phần lớn nói về con người. Phạm vi ý nghĩa

biểu trưng của từ ngữ chỉ màu sắc trong thành ngữ Việt cũng như thành ngữ

Anh rất đa dạng như: cách sống, cách đối nhân xử thế trong cuộc đời,…

- Những từ chỉ màu sắc trong thành ngữ tiếng Việt và tiếng Anh phần

lớn tương đương nhau như: vàng/ yellow; trắng/ white; đen/ black,.. và có một

số không tương đương về số lượng 1-1 như xanh / blue, green; đỏ/ pink, red.

Các từ ngữ chỉ màu sắc trên đã góp phần tạo nên những giá trị đặc sắc và diện

mạo của thành ngữ Việt- Anh, đặc biệt là trong việc thể hiện những đặc trưng

văn hóa riêng biệt của người Việt và người Anh. Đó là nền văn hóa lúa nước

của người Việt và nền văn hóa du mục, du canh du cư của người Anh. Do

vậy, những từ chỉ màu sắc xuất hiện trong thành ngữ tiếng Việt gắn liền với

bồ hóng, củ tam thất, cột nhà cháy, gạo, nước,… Còn từ chỉ màu sắc xuất hiện

trong thành ngữ tiếng Anh lại gắn liền với những nhân tố tự nhiên khác: mile

(con lừa), feather (lông chim), beetroot (củ cải đường), ice (băng), hole (lỗ,

hốc cây),…

Bên cạnh đó, sự khác nhau về ý nghĩa biểu trưng của từ ngữ chỉ màu

sắc trong thành ngữ tiếng Việt và tiếng Anh có thể bắt nguồn từ sự phân cắt

thế giới khác nhau trong cách nhìn của mỗi dân tộc. Sự khác biệt này, theo

nhiều nhà nghiên cứu, là do sự không trùng nhau về khối lượng các ý nghĩa,

hoặc là tính trừu tượng và cụ thể của chúng, hoặc là về các chỉ dẫn đặc trưng

liên quan đến [64: 66]. Tuy nhiên, theo xu thế phát triển của xã hội, bằng con

đường giao lưu văn hóa, những ý nghĩa biểu trưng của từ ngữ chỉ màu sắc sẽ

được vay mượn lẫn nhau bằng quy luật tiếp xúc, chuyển dịch ngôn ngữ.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

A. TÀI LIỆU TIẾNG VIỆT

1. Đào Duy Anh (2000), Từ điển “Truyện Kiều”, Nxb Văn hoá Thông tin,

Hà Nội.

2. Vũ Thúy Anh (1985), “Cấu trúc so sánh và thành ngữ so sánh”, Ngôn

ngữ (4), tr 71-72.

3. Nguyễn Thị Bảo (2003), Ngữ nghĩa của từ ngữ chỉ động vật trong thành

ngữ tiếng Việt (so sánh với thành ngữ tiếng Anh), Luận văn Thạc sĩ

ngôn ngữ học, Trường Đại học Sư phạm Tp.HCM.

4. Vũ Ngọc Cân (2007), “Các khó khăn trong dịch và phương hướng khắc

phục”, Ngôn ngữ và Đời sống 142(8).

5. Đỗ Hữu Châu (1962), Giáo trình Việt ngữ tập 1, Nxb Giáo dục.

6. Đỗ Hữu Châu (1999), Từ vựng - ngữ nghĩa tiếng Việt, Nxb Giáo dục,

Hà Nội.

7. Nguyễn Thiện Chí (1984), “Từ “xanh” trong thơ”, Ngôn ngữ (phụ 1),

tr 24- 28.

8. Nguyễn Văn Chiến (2004), Tiến tới xác lập vốn từ vựng văn hoá Việt,

Nxb KHXH, Hà Nội.

9. Trần Văn Cơ (2007), “Nhận thức, tri nhận- hai hay một”, Ngôn ngữ (7),

tr.19-23.

10. Nguyễn Đức Dân (1986), “Ngữ nghĩa thành ngữ và tục ngữ - Sự vận

dụng”, Ngôn ngữ (3), tr.1-11.

11. Nguyễn Đức Dân (2006), Kí hiệu học - một số vấn đề cơ bản, Đề tài

khoa học cấp Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh.

12. Trần Trí Dõi (2001), Ngôn ngữ và sự phát triển văn hoá xã hội, Nxb

Văn hoá – Thông tin, Hà Nội.

13. Võ Thị Dung (2003), Tìm hiểu ẩn dụ tiếng Việt từ góc độ Ngôn ngữ học

tri nhận, Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ học, Tp.HCM.

14. Đinh Trí Dũng, Lê Thu Giang (2007), “Thế Lữ - người vẽ tranh bằng

ngôn từ thi ca”, Ngôn ngữ và Đời sống 142 (8), tr 29- 31.

15. Biện Minh Điền (2000), “Về tính từ chỉ màu sắc trong thơ Nguyễn

Khuyến”, Ngôn ngữ (7), tr 48- 55.

16. Nguyễn Văn Đông (2007), Bình diện ngữ nghĩa của từ ngữ chỉ màu sắc

trong tiếng Việt (có so sánh với tiếng Anh), Luận văn Thạc sĩ ĐH

KHXH và NV.

17. Lê Thị Thanh Điệp (1996), Đặc trưng âm thanh và màu sắc trong thơ

Xuân Diệu trước Cách mạng tháng Tám, Khóa luận tốt nghiệp ĐH Sư

phạm TPHCM.

18. Nguyễn Công Đức (1994), “Thử đề nghị một cách dạy - học thành ngữ

trong trường phổ thông”, Văn hoá dân gian 46(2), tr.83-85.

19. Erika Fischer Lichte, Bùi Khởi Giang dịch (1997), Ký hiệu học nghệ

thuật: sân khấu, điện ảnh, Viện nghệ thuật và lưu trữ điện ảnh

Việt Nam.

20. Ferdinand De Saussure, Cao Xuân Hạo dịch (tái bản 2005), Giáo trình

Ngôn ngữ học đại cương, Nxb KHXH.

21. Nguyễn Thiện Giáp (1975), “Về khái niệm thành ngữ tiếng Việt”, Ngôn

ngữ (3), tr.45-52.

22. Nguyễn Thiện Giáp chủ biên (1996), Dẫn luận ngôn ngữ học, Nxb Giáo

dục, Hà Nội.

23. Nguyễn Thiện Giáp (2001), Từ vựng học tiếng Việt, Nxb Giáo dục,

Hà Nội.

24. Guillermo Pina- Contreras (1997), “Trên đất nước của màu sắc”, Nguồn

tin Unesco (593), tr 24- 27.

25. Nguyễn Hanh (2008), “Về cấu trúc giao chéo trong một số thành ngữ

tiếng Việt”, Ngôn ngữ (2), tr.22-23.

26. Trần Thị Hồng Hạnh (2007), “Sự trùng hợp và khác biệt trong việc lựa

chọn các ẩn dụ trong các nền văn hoá (trên cứ liệu thành ngữ tiếng

Việt)”, Ngôn ngữ (11), tr.61-67.

27. Hoàng Văn Hành (1975), “Đặc trưng của những đơn vị từ vựng kiểu

như “au”, “ngắt” trong tiếng Việt”, Ngôn ngữ (2), tr 27- 37.

28. Vũ Quang Hào (1992), “Biến thể của thành ngữ, tục ngữ”, Văn hoá dân

gian 37 (1), tr.61-62.

29. Lê Anh Hiền (1971), “Về cách dùng tính từ chỉ màu sắc của Tố Hữu”,

Ngôn ngữ (4), tr 13- 20.

30. Trịnh Thị Thu Hiền (2004), “Một vài đặc điểm của các từ chỉ màu phụ

trong tiếng Việt”, Những vấn đề về Ngôn ngữ học - Hội nghị khoa học

của Viện Ngôn ngữ, Nxb KHXH, tr 58-78.

31. Trịnh Đức Hiển (1994), “Mấy ý kiến xung quanh việc sử dụng thành

ngữ tiếng Việt”, Văn hoá dân gian 47(3), tr.65-68.

32. Thái Hòa (1982), “Cơ cấu ngữ nghĩa- cú pháp của tục ngữ”, Ngôn ngữ,

(2), tr 52-59.

33. Hà Thị Thu Hoài (2006), “Từ chỉ màu sắc để miêu tả thiên nhiên trong

tác phẩm Truyện Tây Bắc của nhà văn Tô Hoài”, Ngôn ngữ và Đời

sống 130(8), tr 9- 12.

34. Phan Văn Hoàn (1992), “Bàn thêm về thành ngữ, tục ngữ với tư cách là

đối tượng nghiên cứu khoa học”, Văn hoá dân gian 38(2), tr.46-48.

35. Trần Thị Thu Huyền (2001), “Hoa cỏ và màu sắc trong thành ngữ- tục

ngữ tiếng Anh và tiếng Việt”, Ngôn ngữ và Đời sống (12), tr 35- 36.

36. Phan Thế Hưng (2007), “Mô hình tri nhận trong ẩn dụ ý niệm”, Ngôn

ngữ (4), tr.28-36.

37. Ngô Bích Hương (2001), “Màu thời gian- sắc màu tâm trạng”, Ngôn

ngữ (12), tr 24- 25.

38. Jean Chevalier, Alain Gheerbrant (Phạm Vĩnh Cư chủ biên dịch)

(1997), Từ điển biểu tượng văn hóa thế giới, Nxb Đà Nẵng- Trường

Viết văn Nguyễn Du.

39. Nguyễn Xuân Kính, Phan Đăng Nhật (chủ biên) (2000), Kho tàng Ca

dao người Việt (Tập 1), Nxb Văn hóa Thông Tin.

40. Nguyễn Xuân Kính, Phan Đăng Nhật (chủ biên) (2000), Kho tàng Ca

dao người Việt (Tập 2), Nxb Văn hóa Thông Tin.

41. Nguyễn Thế Lịch (1984), “Đá vàng, vàng đá”, Ngôn ngữ (phụ 2), tr 3- 7.

42. Nguyễn Thế Lịch (1985), “Mây vàng, mây Hàng”, Ngôn ngữ (phụ 1),

tr 4- 8.

43. Nguyễn Thế Lịch (1988), “Từ màu quan san trên lá phong đến vầng

trăng xẻ nửa (Phân tích đoạn Thúc Sinh từ biệt Thúy Kiều)”, Ngôn

ngữ (phụ Tiếng Việt), tr 12- 14.

44. Nguyễn Lực, Lương Văn Đang (1993), Thành ngữ tiếng Việt, Nxb

KHXH, Hà Nội.

45. Nguyễn Lực (2002), Thành ngữ tiếng Việt, Nxb Thanh Niên, Hà Nội.

46. John Lyons (2006), Ngữ nghĩa học dẫn luận, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

47. Như Mai (1996), “Gác phượng lầu xanh?”, Ngôn ngữ, (1), tr 53- 56.

48. Nguyễn Ngọc Mai (2000), “Biểu tượng màu sắc trong tín ngưỡng tứ

phủ”, Nghiên cứu Đông Nam Á (42), tr 79-82.

49. Nguyễn Văn Mệnh (1971), “Bước đầu tìm hiểu sắc thái tu từ của thành

ngữ tiếng Việt”, Ngôn ngữ (2), tr.18-23.

50. Bùi Đình Mỹ (1974), “Bước đầu tìm hiểu vấn đề đặc trưng nội dung của

ngôn ngữ dân tộc”, Ngôn ngữ (2), tr.1-9.

51. Nguyễn Đình Nhơn (2004), Những thông điệp từ màu sắc, Nxb Văn hóa

Thông tin, Hà Nội.

52. Nguyễn Văn Nở (2004), “Biểu trưng “hoa” trong tục ngữ Việt”, Nguồn

sáng dân gian (1), Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam, tr 66-71.

53. Hoàng Phê (chủ biên) (tái bản 2003), Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng.

54. Nguyễn Quang (2008), Giao tiếp phi ngôn từ qua các nền văn hóa, Nxb

KHXH, Hà Nội.

55. Nguyễn Đức Sâm (dịch) (1994), “Văn hoá và văn minh”, Văn hoá dân

gian 48(4), tr.87-90.

56. Lê Thành Tâm, Lê Ngọc Phương Tâm (2004), Thành ngữ trong tiếng

Anh, Nxb Tổng hợp TP.HCM.

57. Vũ Tiến Quỳnh (1999), Phê bình bình luận văn học Xuân Diệu, Nxb

Văn nghệ TP.Hồ Chí Minh.

58. Trương Đông San (1976), “Thành ngữ so sánh trong tiếng Việt”, Ngôn

ngữ (2), tr 9- 14.

59. Đào Thản (1972), “Màu đỏ trong thơ”, Ngôn ngữ (1), tr 67-70.

60. Đào Thản (1993), “Hệ thống từ ngữ chỉ màu sắc tiếng Việt trong sự liên

hệ với mấy điều phổ quát”, Ngôn ngữ (2), tr 11-15.

61. Phan Xuân Thành (1990), “Tính biểu trưng của thành ngữ tiếng Việt”,

Văn hoá dân gian (3), tr.36-37.

62. Phan Xuân Thành (1992), “Để luận giải ý nghĩa thành ngữ tiếng Việt

với tư cách là đơn vị ngôn ngữ- văn hoá dân gian”, Văn hoá dân gian

37 (1), tr.65.

63. Phan Xuân Thành (1993), “Cơ sở hình thành và biến đổi của một số

thành ngữ tiếng Việt”, Văn hoá dân gian 41(1), tr.55-58.

64. Lý Toàn Thắng (2005), Ngôn ngữ học tri nhận từ lí thuyết đại cương

đến thực tiễn tiếng Việt, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

65. Nguyễn Thị Thành Thắng (2001), “Màu xanh trong thơ Nguyễn Bính”,

Ngôn ngữ (11), tr 11- 12.

66. Trần Ngọc Thêm (2000), Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb Giáo dục.

67. Bùi Thị Thi Thơ (2006), “Mối quan hệ giữa hình ảnh và ý nghĩa biểu

trưng trong thành ngữ so sánh tiếng Việt”, Ngôn ngữ và Đời sống

134(12), tr 1- 8.

68. Chu Bích Thu (1994), “Cơ sở logic- ngữ nghĩa của thành ngữ so sánh và

lối so sánh ẩn dụ trong thơ và ca dao”, Văn hoá dân gian 46(2), tr.70-73.

69. Kim Thúy (1999), “Cá tính thể hiện qua màu sắc và chuông báo”, Việt

Nam và Đông Nam Á ngày nay (15) tháng 8, tr 34- 35.

70. Hồ Hải Thụy, Chu Khắc Thuật, Cao Xuân Phổ (1998), Từ điển Anh -

Việt, Nxb Thành Phố Hồ Chí Minh.

71. Phạm Văn Tình (2004), Tiếng Việt từ cuộc sống, Nxb Trẻ.

72. Nguyễn Đức Tồn (2002), Tìm hiểu đặc trưng văn hóa- dân tộc của ngôn

ngữ và tư duy ở người Việt (trong sự so sánh với dân tộc khác), Nxb

Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

73. Nguyễn Đức Tồn, Nguyễn Thị Minh Phượng (2007), “Hiện tượng biến

thể và đồng nghĩa của thành ngữ tiếng Việt”, Ngôn ngữ (3), tr.1-11.

74. Phan Thị Huyền Trang (2007), “Khả năng liên tưởng nghĩa của từ “hoa”

trong Truyện Kiều”, Ngôn ngữ (11).

75. Nguyễn Văn Trào (2003), “Về tính từ chỉ màu sắc trong tiếng Anh (có

đối chiếu với tiếng Việt)”, Giáo dục (57), tr 39- 40.

76. Cù Đình Tú (1973), “Góp ý kiến về phân biệt thành ngữ với tục ngữ”,

Ngôn ngữ (1), tr.39- 43.

77. Cù Đình Tú (2001), Phong cách học và đặc điểm tu từ tiếng Việt, Nxb

Giáo dục, Hà Nội.

78. Ủy Ban KHXH Việt Nam (2000), Ngữ pháp tiếng Việt, Nxb Khoa học

xã hội, Hà Nội.

79. Viện Ngôn ngữ học (2002), Từ điển Anh Việt, Nxb TP. Hồ Chí Minh.

80. Viện Ngôn ngữ học (2003), Những vấn đề Ngôn ngữ học (Hội nghị

Khoa học 2002), Nxb Khoa học Xã hội.

81. Bùi Khắc Việt (1978), “Về tính biểu trưng của thành ngữ trong tiếng

Việt”, Ngôn ngữ (1), tr.1-6.

82. Lê Thị Vy (2006), “Đặc trưng văn hóa dân tộc thể hiện qua các từ chỉ

màu sắc”, Ngôn ngữ và Đời sống (6), tr 31- 34.

83. Wassily Kandinsky (1967), “Tác dụng của màu sắc”, Văn (64), tr 95- 99.

84. Xamarina. L. V (1993), “Mối quan hệ giữa truyền thống văn hóa tộc

người và màu sắc”, Dân tộc học (2), tr 61- 73

85. Nguyễn Như Ý (chủ biên) (2001), Từ điển giải thích thuật ngữ Ngôn

ngữ học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

86. Như Ý (1992), “Bình diện văn hoá- ngôn ngữ của nghiên cứu thành ngữ

tiếng Việt”, Văn hoá dân gian 39(3), tr.80-82.

87. Nguyễn Như Ý, Nguyễn Văn Khang, Phan Xuân Thành (1994), Từ điển

thành ngữ Việt Nam, Nxb Văn hóa- Thông tin, Hà Nội.

B. TÀI LIỆU TIẾNG ANH

88. Anne Knight, George Turner (1997), Australian Students Colour

Dictionary (Third Edition), Oxford University Press.

89. Brent Berlin and Pual Kay (1999), Basic Color Terms Their

Universality and Evolution, Center for Study of Language and

Information, the United State.

90. Cowie A.P., Mackin R., Mc Caig I.R. (1994), Oxford Dictionary of

English Idioms, Oxford University Press.

91. Judith Pearsall and Bill Trumble (1996), The Oxford Encyclopedic

English Dictionary, Oxford University Press, USA.

92. Maxine Tull Boat and John Edward Gates (1985), A dictionary of

American Idioms, Barron’s Educational Seris, Inc, Wood, New York.

93. Micheal Quinion (1996), “The fugitive names of hues”, English in the

Bristish viewpoint,

http://www.worldwidewords.org/articles/colour.htm.

C.TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN

94. http://www.ngonngu.net

95. http://vi.wikipedia.org

96. http://www.cinet.com

97. http://www.wedo.com.vn

98. http://www.free4vn.org

99. http://www.camnangkientruc.com

100. http://my.opera.com/happysunschool/blog/colors-idiom

101. http://www.zovn.net/diendan/showthread.php?p=2196

102. http://www.englishclub.com/vocabulary/idioms-colour.htm

103. http://www.usingenglish.com/reference/idioms/cat/2.html

104. http://www.learn4good.com/languages/evrd_idioms/id-c.htm

105. http://www.colourtherapyhealing.com/colour/colour_history.php

106. http://englishtestonline.blogspot.com/2007/11/phn-bit-thnh-ng-tc-ng-

chm-ngn-danh-ngn.html

107. http://vi.pandapedia.com/wiki/M%C3%A0u_tr%E1%BA%AFng

108. http://5nam.ttvnol.com/tiengviet/108279.ttvn

109. http://www.japanest.com/forum/impression-japan/13348-nghae-chiec-

ao-mau-trang-trong-ngay-cuoi.html

110. http://www.experiencefestival.com/colour_dictionary

111. http://www.linguistlist.org/issues/14/14-1855.html

PHỤ LỤC 1

Bảng danh sách các từ chỉ màu trong tiếng Việt

1. Trắng

- trắng bạch, trắng bệch, trắng bóc, trắng bong, trắng bốp, trắng

dã, trắng hếu, trắng lôm lốp, trắng muốt, trắng ngà, trắng ngần, trắng nhởn,

trắng nõn, trắng nuột, trắng ởn, trắng phau, trắng phau phau, trắng phếch,

trắng tinh, trắng toát, trắng trẻo, trắng trong, trắng xóa, trắng bạc, trắng

bóng, trắng bông, trắng bợt, trắng hồng, trắng cước, trắng phốp, trắng phơ,

trắng phớ, trắng tuyết, trắng lóa, trắng sữa, trắng phấn, trắng nhễ nhại, trắng

đục, trắng xanh, trăng trắng…

- bạc, ngà, bạch, ngà voi, sữa, kem, vôi, bệch, én bạc, hoa mua,

bạch kim, thiếc, nguyệt bạch…

2. Đỏ

- đỏ nho, đỏ au, đỏ bừng, đỏ cạch, đỏ cam, đỏ cành cạch, đỏ quạch, đỏ

quành quạch, đỏ chóe, đỏ chói, đỏ chon chót, đỏ đắn, đỏ đọc, đỏ gay, đỏ

hoe, đỏ hoét, đỏ hoen hoét, đỏ hỏn, đỏ hon hỏn, đỏ đắn, đỏ đọc, đỏ khè, đỏ

khé, đỏ loét, đỏ lòm, đỏ lừ, đỏ lựng, đỏ ngầu, đỏ kè, đỏ nhừ, đỏ nọc, đỏ ối,

đỏ rực, đỏ ửng, đỏ choét, đo đỏ…

- đào, điều, hồng, son, tía, bồ quân, hoa hiên, mận chín, da cam, huyết

dụ, tiết dê, đun, hường, bã trầu, cánh sen, hồng hồng, tía tía…

3. Xanh

- xanh chlorophyl (màu thực phẩm chế biến từ lá tre), xanh đen, xanh

tím, xanh lơ, xanh mét, xanh ngắt, xanh rì, xanh rớt, xanh rờn, xanh biếc,

xanh hòa bình, xanh lè, xanh lét, xanh tươi, xanh um, xanh xao, xanh cẩm

thạch, xanh biêng biếc, xanh bủng, xanh cỏ ấu, xanh cốm, xanh công nhân,

xanh cổ vịt, xanh da bát, xanh dương, xanh đét, xanh hoa lí, xanh hồ thủy,

xanh lá mạ, xanh lá cây, xanh lam, xanh lam phổ, xanh lớt, xanh lợt, xanh

lúa, xanh lục, xanh ngát, xanh ngăn ngắt, xanh ngọc bích, xanh nhợt, xanh

nước biển, xanh nõn, xanh om, xanh rắn lục, xanh rờn, xanh rợi, xanh thắm,

xanh thẫm, xanh trứng sáo, xanh vắt, xanh ve, xanh xao.

- lam, chàm, lục, lơ, cánh trả, cổ vịt, lá mạ, cốm, nõn chuối, da trời, lá

cây, cô ban, ngọc bích, nước biển, rêu, trứng sáo, cánh cam, ốc bươu, cứt

ngựa, thiên thanh, hồ thủy, cỏ úa, cẩm thạch, biếc, ve,…

4. Vàng

- vàng chóe, vàng ệch, vàng hoe, vàng hươm, vàng hườm, vàng khè,

vàng khé, vàng khế, vàng ối, vàng ruộm, vàng rộm, vàng vọt, vàng xuộm,

vàng óng, vàng ạnh, vàng au, vàng áy, vàng rượm, vàng bơ, vàng chanh,

vàng cháy, vàng cam, vàng cúc, vàng kè, vàng kệch, vàng khươm, vàng

khượm, vàng lịm, vàng lựng, vàng mọng, vàng nghệ, vàng mật, vàng mơ,

vàng rỡ, vàng rực, vàng rựng, vàng rượm, vàng sém, vàng tơ, vàng ươm,

vàng xộm, vàng xọng, vàng xuôm, vàng ru bin (màu thực phẩm chế biến từ

hoa hòe), vàng sậm curcumin (màu thực phẩm chế biến từ nghệ), vàng

vàng…

- mật ong, hoàng yến, nghệ, chanh, cam, mơ, đồng, gừng, da cam, mỡ

gà, lòng tôm, nắng, hổ phách, đồng thau, hoa mướp, hoàng anh, gan gà, cánh

cam, cá vàng, da bò, be (beige),…

5. Đen

- đen hắc, đen lánh, đen láy, đen lay láy, đen nghịt, đen nghìn nghịt,

đen nhẻm, đen nhức, đen nhưng nhức, đen trũi, đen trùi trũi, đen kịt, đen

sạm, đen sì, đen nhánh, đen thui, đen ngòm, đen đúa, đen đặc, đen giòn, đen

láng, đen rầm, đen rưng rức, đen đen…

- mun, hắc, huyền, ô, thâm, thâm xì, thâm xịt, than, mực, nhung, đồng

hun, mun mun…

6. Nâu

- nâu non, nâu đất, nâu sồng, nâu nâu…

- gạch, gụ, đất, gạch cua, bánh mật, cánh kiến, cánh gián, hạt dẻ, cháo

lòng, da lươn, đà, cà phê, cà phê sữa, nước dưa, sô cô la,…

7. Tím

- tím huế, tím than, tím đỏ, tím ngắt, tím bầm, tím tái, tím lịm, tím dịu,

tím hồng, tím đen, tím lét, tím lìm lịm, tím lịm, tím mận, tím rịm, tím phớt,

tim tím,…

- hoa cà, sim, bằng lăng,…

8. Xám

- xám xịt, xám xỉn, xám ngoét, xám ngoẹt, xám chì, xám bạc, xám

đục, xám đen, xám mét, xám ngoách, xám nhợt, xám ủng, xám xì, xam

xám…

- tái, tro, khói, lông chuột, xi măng, ghi, ghi đá, ghi xám, tàn thuốc,

muối tiêu, chì, tái tái…

PHỤ LỤC 2

DANH SÁCH NHỮNG BÀI CA DAO

Tay đeo bộng giếng

1. Ai cùng gặt lúa đỏ đuôi

Lại có xuyến vàng

Chàng về mà đập mà phơi kịp ngày

Bịt khăn màu ngại

Ai về giã gạo ba chày

Chân lại mang giày…

Giã đi cho trắng gửi ngay cho chàng

Sẵn tiền mua bạc, mua vàng

6. Ai ơi đợi với tôi cùng

Sẵn tiền sắm áo cho chàng trẩy kinh…

Tôi còn dở mối tơ hồng chưa xe.

2. Ai đi qua đò Do mới biết

7. Ai trắng như bông, lòng tôi không

chuộng

Dòng nước trong xanh biết là bao

Gái thời da đỏ hồng hào

Người đó đen giòn, làm ruộng tôi thương.

Mắt đen lay láy người nào chẳng yêu.

8. Ai về đợi với em cùng

3. Ai đi Uông Bí, Vàng Danh

Thân em nay bắc mai đông một mình

Má hồng để lại má xanh mang về.

Chi bằng ruộng tốt đồng xanh

Vui cha vui mẹ, vui anh em nhà.

4. Ai làm cho đó bỏ đăng

Cho con áo trắng bỏ thằng áo đen.

9. Ai về đường ấy hôm nay

Ngựa hồng ai cỡi dù tay ai cầm.

5. Ai đi bờ đỗ một mình

Cha chả là xinh!

10. Ai về nhắn với bà cai

Bận áo màu đinh

Giã gạo cho trắng đến mai dâu về

Quần thao cánh kiến

CÓ TỪ NGỮ CHỈ MÀU SẮC

5

Dâu về dâu chẳng về không

Thương em hỏi thiệt em có chồng hay chưa?

Ngựa ô đi trước, ngựa hồng đi sau

Ngựa ô đi tới vườn cau

17. Anh ơi chua ngọt đã từng

Ngựa hồng chậm rãi đi sau vườn dừa.

Non xanh, nước bạc xin đừng quên nhau.

11. Ai xui anh lấy được mình

18. Anh ơi đã vít thì vin

Để anh vun xới ruộng tình cho xanh.

Đã chơi bông trắng thì nhìn trái xanh.

12. Ai xui em có má hồng

19. Anh sắm cho em cái nón mười sáu

Để người quân tử chưa trông đã thèm.

vành

Vành đen tiến đỏ, chỉ nhỏ nức thanh

13. Ai xui má đỏ hồng hồng

Chằm dày đội nhẹ, một mẹ hai con, lá trắng đoát non

Để anh nhác thấy đem lòng thương yêu.

14. Anh cầm cổ tay, anh chỉ cổ tay

20. Anh vỗ trống đất kêu vang

Ngày xưa em trắng sao rày em đen

Em thổi sáo trúc nhịp nhàng với anh

Bởi chưng em lấy chồng hèn

Gọi là xanh lá rậm cành

Mò cua bắt ốc em đen thế này.

15. Anh là con cái nhà ai

21. Áo đen ai nhuộm cho mình

Anh mặc áo trắng cho phai mất màu.

Cho duyên bậu đậm, cho tình anh thương.

16. Anh ngó lên mây bạc chín từng

22. Áo đen đơm bộ khuy đen

Thấy đôi chim nhạn nửa mừng, nửa thương

Mặc ai xa lạ ta cứ làm quen ở làng.

Ngó lên mây trắng trời hồng

6

29. Áo nâu kiềng bạc sáng lòa

23. Áo đen không lẽ đen hoài

Làm cho anh bỏ vợ nhà anh theo.

Mưa lâu cũng nhạt, nắng hoài cũng phai.

30. Ai mua con quạ bán cho

24. Áo đen năm nút con rồng

Đen lông đen cánh, bộ giò cũng đen.

Ở xa con phụng lại gần con quy.

25. Áo đen năm nút hở bâu

31. Ăn bát cơm trắng nhớ bát cơm lăng

Em còn cha mẹ dám đâu tự tình.

Đường kia nỗi nọ dặn em khoan lấy chồng.

26. Áo trắng em khâu chỉ tơ

32. Bà kia bận áo xanh xanh

Khuyên chàng đi học thiếp chờ ba năm

Phòng khi dạ nhớ hỏi thăm

Ngồi trong đám hẹ nói hành con dâu.

Hỏi chàng đi học xa xăm đường nào.

33. Bạn cũ xích cho bạn mới bước vào

27. Áo trắng em mặc cho xinh

Cây cờ xanh xấp lại, ngọn cờ đào mở ra.

Có hai phượng lộn trong mình bay ra

Áo anh trắng chéo trắng tà

34. Bạn vàng lại gặp bạn vàng

Cái cúc cũng trắng nữa là cái khuy

Anh lấy em về, em đổi màu đi

Long li quy phượng một đoàn tứ linh.

35. Bạn vàng mới đó đã phai

Nhuộm đi nhuộm lại ra thì màu lương.

Khác như bông cẩn nở mai tàn chiều.

28. Áo trắng em tưởng là tiên

36. Bạn vàng sánh với bạn vàng

Hóa ra áo trắng không tiền mua nâu

Ngu si dẹp lại một đàn ngu si.

Ở chợ năm bảy hàng nâu

Sao anh mặc trắng cho rầu lòng em.

37. Bây giờ em mới hỏi anh

7

44. Cát bay vàng lại ra vàng

Trầu vàng nhá với cau xanh thế nào?

Cau xanh nhá với trầu vàng

Nhớ chàng quân tử dạ càng tương tư.

Tình anh sánh với duyên nàng đẹp đôi.

45. Cây xanh thì lá cũng xanh

Cha mẹ hiền lành để đức cho con.

38. Bò vàng buộc đám cỏ xanh

Chim khôn chết mệt về cành xoan đâu.

46. Chàng về em gửi đôi chanh

Trái chín nhuộm áo, trái xanh gội đầu.

39. Bò đen húc lẫn bò vàng

Bò trắng mất vía nhảy quàng xuống ao.

47. Chẳng xanh cũng dựa màu chàm

40. Bọc trầu khăn trắng cho tươi

Chẳng nên chồng vợ, kết làm anh em.

Bọc trầu khăn trắng kết người cho xinh

48. Chỉ ngũ sắc xanh đỏ tím vàng

41. Bông xanh, bông trắng, bông vàng

Bùa yêu ăn phải dạ càng ngẩn ngơ

Biết rằng đâu trong đục mà chờ

Bông lê, bông lựu đố nàng mấy bông?

Hoa xuân mất tuyết, dễ mong nhờ cậy ai.

42. Cá vàng lơ lửng giếng xanh

49. Chỉ xanh, chỉ đỏ, chỉ tím, chỉ vàng

Thong dong chốn ấy một mình thảnh thơi

Ai ngờ cá lại ham mồi

Chim loan, chim phượng, chim én, chim nhàn

Bỏ nơi mát mẻ tìm nơi lạnh lùng.

Ba bốn con chim quần tam tụ ngũ

Đậu nơi lê, lê rũ, đậu nơi lựu, lựu tàn

43. Cái cò trắng bạch như vôi

Cô kia có lấy chú tôi thì về.

Khi xưa thiếp tưởng làm bạn với chàng

8

Nay hay chàng ở phụ phàng thì thôi.

Thiếp đưa duyên lại đôi đàng cậy anh

Tìm nơi trúc tốt mai xanh

50. Chỉ xanh chỉ trắng có lộn một sợi chỉ

vàng

Tìm nơi cây cả lắm ngành tựa nương.

Dầu em có thêu phụng vẽ hoàng

Thân anh như chiếc đò dọc đưa nàng sớm khuya.

55. Có trầu cho miếng đỏ môi

Có rượu cho chén thêm tươi má hồng.

51. Chim khôn mắc phải lưới hồng

Ai mà gỡ được đền công lượng vàng

56. Có trầu mà chẳng có cau

Đền vàng anh chẳng lấy vàng

Làm sao cho đỏ môi nhau thì làm.

Lòng anh chỉ quyết lấy nàng mà thôi.

57. Con bướm trắng bay xàng xự

52. Chim xanh ăn trái xoài xanh

Cụm bèo xanh nổi xạc xình

Ăn no tắm mát đậu cành cây đa

Phận bèo nhiều nỗi linh đinh

Cực tấm lòng em phải nói ra

Kể sao cho hết phận mình khúc nôi

Lênh đênh nước chảy bèo trôi

Chờ trăng, trăng xế, chờ hoa, hoa tàn.

Chờ khi nước lụt, bèo ngồi đầu sen.

Chốn rẫy quê em an bề hèn khó

Em chưa có hề tham đỏ bỏ đen.

58. Con quạ đen lông kêu bằng con ô

thước

53. Chớ chê em xấu em đen

Thấy em có chồng vô phước anh thương.

Em như nước đục đánh phèn lại trong.

59. Con quạ đen lông xuống sông nó

tắm

54. Có lòng tạc một chữ vàng

Chồng bậu ở nhà khó lắm bậu ơi.

9

60. Con cá hồng trừng ngoài biển Bắc

65. Con chim xanh mỏ đỏ lông

Con chim nhạn liệng tít mây xanh

Ăn rồi lại đậu cành thông rậm rà…

Anh thương em lâu cũng phải thành

Con chim xanh xanh

Nó đỗ nhánh cũng xanh xanh…

Như chị Thôi Lượng lúc trước gặp anh Châu Kỳ.

66. Con cò lội bãi rau xanh

61. Con chim nho nhỏ

Cái lông nó đỏ

Đắng cay chịu vậy, than rằng cùng ai.

Cái mỏ nó vàng

Nó kêu người ở trong lòng

67. Chuối xanh đã vững đâu ơi

Một cơn gió lớn đi đời chuối xanh.

Đừng tham lãnh lụa phũ phàng vải bô.

68. Chơi hoa cho biết mùi hoa

62. Con chim trắng cánh mỏ vàng

Hoa lê thì trắng, hoa cà thì xanh.

Bay qua cây thị đố chàng con chi?

Con chim trắng cánh mỏ vàng

69. Cổ tay em trắng như ngà

Em cho ai gối nay đà lại đen.

Bay qua cây thị có phải con phượng hoàng không em?

70. Cổ tay em trắng như ngà

63. Con cò bạch, rửa chân cho sạch

Con mắt em liếc như là dao cau

Bỏ vào nồi măng

Miệng cười như thể hoa ngâu

Chưa sủi lăm tăm

Cái khăn đội đầu như thể hoa sen

Đã đem ra nếm.

71. Cổ tay em trắng lại tròn

64. Con chim xanh đâu nhành cây khế

Để cho ai gối đã mòn một bên.

Tôi thương một người ở Huế mới vô.

10

72. Cổ tay em vừa trắng vừa tròn

Lấy gương làm sáng, lấy phèn làm chua.

Cầm vào mát rượi như hòn tuyết đông.

79. Con quạ đen, con cò trắng

Con ếch ngắn, con rắn dài

73. Cô kia khăn trắng tang ai

Em trông anh trông mãi trông hoài

Nhất tang cha mẹ, thứ hai tang chồng

Trông cho thấy mặt như bài liền pho.

Tang chồng thì vất khăn đi

Tang cha tang mẹ, ta thì tang chung.

80. Con dao vàng rọc lá trầu vàng

74. Cô kia yếm trắng lòa lòa

Mắt anh anh liếc, mắt nàng nàng đưa.

Lại đây đập đất trồng cà với anh

Bao giờ cà chín, cà xanh

81. Cờ bạc canh đỏ canh đen

Anh cho một quả để dành mà chơi.

Nào ai có dại đem tiền vứt đi.

75. Cô kia thắt dải lưng xanh

82. Cơm trắng ăn với chả chim

Có về Nam Định với anh thì về.

Chồng xinh vợ đẹp những nhìn mà no.

76. Cô kia thắt cái lưng xanh

83. Cũng liều hồn xuống suối vàng

Ăn trộm tiền mẹ để dành cho trai.

Thôi thôi ngọc nát hoa tàn từ đây.

77. Cô kia răng trắng hạt bầu

84. Cứ gì quần lụa áo tơ

Hẳn cô người khách ở Tàu mới sang

Quần nâu áo vải thơm tho được rồi.

Cổ cô đeo chuỗi hạt vàng

Bây giờ cô lại vơ quàng vơ xiên.

85. Cưới em chín quả cau vàng

78. Cô mình lấy mực làm đen

Cưới em chín chục họ hàng ăn chơi.

11

Gối rơm nằm đất theo anh bận này.

86. Dạ anh dạ bưởi dạ bong

94. Đi ngang nhà nhỏ

Ngoài da xanh lét, trong lòng chua le.

Thấy cây đèn đỏ tôi thêm buồn

87. Dải Trường sơn xanh rờn thăm thẳm

Muốn dạm coi cho dễ ngặt đường xa xôi.

Nghĩa nọ tình này muôn dăm chưa quên.

95. Đói lòng ăn một quả sung

88. Dao vàng cắt quả hồng tàu

Quả xanh thì chát, quả hồng thì chua.

Đặt trên đĩa ngọc mâm thau đợi chờ.

89. Dao vàng mà gặp giấy vàng

96. Đố ai tìm được vảy con cá trê vàng

Không nên chồng vợ, cũng lập đàng xuống lên.

Tìm gan con tép bạc, thời nàng theo không.

90. Dao vàng rọc lá trầu vàng

97. Đôi ta cách một con sông

Mắt thiếp ngó thấy mắt chàng rưng rưng.

Muốn sang anh ngả cành hồng cho sang.

91. Duyên kia lá thắm chỉ hồng

98. Đôi ta giấy trắng một tờ

Đừng nghi mà tội, đừng ngờ mà oan.

Thuyền quyên sánh với anh hùng nên chăng?

Đi ngang nhà nhỏ

Thấy cây đèn đỏ, tôi thêm buồn

92. Đã lâu mới gặp bạn quen

Muốn dạm coi cho dễ ngặt đường xa xôi.

Cũng bằng nấu cháo đỗ đen xanh lòng.

99. Đồng tiền xanh, bốn chỉ vàng vàng

93. Đã liều muối mặn dừa xanh

Hồi nào thiếp nói với chàng làm sao

12

Bây giờ nay lộn mai nhào

Hồn em bận bịu theo chàng sánh đôi.

Làm cho thiên hạ đứng rào cười chê.

100.

Đường vô xứ Nghệ quanh

105.

Em đi khắp bốn phương trời

quanh

Chẳng đâu lịch sự bằng người nơi đây

Non xanh nước biếc như tranh họa đồ.

Gặp người má đỏ hây hây

101.

Em quyết theo anh đầu xanh

Răng đen nhưng nhức, tóc mây rườm rà

cho chí tóc bạc, đá tạc thành bia

Hôm qua em bận việc nhà

Không hay nghĩa nhân sớm vội kết lìa

Lòng em bối rối tưởng là quan họ mong

Bỏ mình em chịu sớm khuya một mình.

Đường trưa nghe võng chuông đồng

Thấy con nhạn trắng lượn vòng đưa thư

102.

Em khi thắm lạt vàng phai

Thương ai hết đứng lại chờ.

Sắc tàn nhị mất anh lại bỏ hoài không thương

Anh thề có bóng trăng đây

106.

Em đi khắp bốn phương trời

Núi kia có lở tấm lòng này vẫn nguyên.

Chẳng đâu lịch sự bằng người nơi đây

Anh hai ơi! Cái áo xếp nguyên

103.

Em cất mái chèo lan nhìn

chàng rơi lệ

Nhiễu điều anh ba đội như xinh trên đầu

Thổn thức gan vàng thối dị tấn nan

Anh tư ơi! Có yêu nhau xin giữ lấy màu

Chàng đành nhưng phụ mẫu không đành

Răng đen rưng rức, mái đầu xanh xanh….

Lá cây tre khuất ngọn ngành, Trời ơi.

104.

Em dầu có thác suối vàng

107.

Em đừng nói tốt như bột

huỳnh tinh

13

113.

Em là con gái Kẻ Ngâu

Hay đâu em bậu bạc tình lắm thay.

Em đi buôn chỉ dãi dầu sớm hôm

108.

Em đương dệt gấm thoi vàng

Cái khăn vuông thâm nửa đội nửa cầm

Suốt kêu lắc cắc, nhớ chàng quên giăng.

Khăn đội rơi mất khăn thâm lập lờ…

114.

Em là con gái nhà ai

109.

Em gặp anh đây, người đã

nên người

Thắt lưng nhiễu bạch, hai tai đeo trằm

Miệng nói môi cười, duyên thắm tình thâm

Lại đây anh sẽ hỏi thầm

Muốn vô gá nghĩa sắt cầm

Sợ e chĩnh một lại lầm gáo đôi.

Nhung kia mà sánh với trầm nên chăng?

115.

Em là con gái nhà giàu

110.

Em cũng muốn lấy chồng cho

kịp lúc xuân xanh

Mẹ cha thách cưới ra màu xinh sao

Vì mẹ già em dại, nên em đành ở ri.

Cưới em trăm tấm lụa đào

[…] Cưới em chín chĩnh mật ong

111.

Em không sinh sự, em cũng

chẳng bạc tình

Mười cót xôi trắng, mười nong xôi vò

Anh muốn bứt cây mai ra trồng đất táo, để chậu sành bơ vơ.

[…] Em đi làm mướn từ bốn giờ sáng đến mười giờ đêm

Cái mặt em xám, cái da em đen vì nắng dãi mưa dầu…

112.

Ai muốn tắm mát lên ngọn

sông Đào

Muốn ăn sim chín thì vào rừng xanh

116.

Em lập cảnh trồng ba

Hai tay em vít hai cành

Anh ra tay vun cây quén cội

Nay chừ trông cho cây tốt lá xanh

Quả chín thì lấy quả xanh thì đừng…

Chàng chơi cho thỏa chí, úa lá lọi cành thì thôi.

14

117.

Em nghe tin anh có vợ rồi

123.

Em về giã gạo ba trăng

Dù gan vàng dạ sắt, dám đứng ngồi với anh.

Để anh gánh nước Cao Bằng về ngâm

Nước Cao Bằng ngâm thì trắng gạo…

118.

Em ngồi một mình em nghĩ

một mình

Nghĩ thân mà chả bạc tình với ai

124.

Em về Thu Vích làm chi

Nên chăng bởi khách Chương Đài

Đồng chua nước mặn, gạo thì ăn đong

Thành sầu bể thảm, có ai với mình.

Ở đây gạo trắng nước trong

119.

Em như tấm vóc đại hồng

Đẹp người mà lại thong dong cả ngày.

Anh như chỉ kim tuyến thêu rồng nên chăng.

125.

Ếch kêu dưới đám tre xanh

120.

Em như tố nữ trong tranh

Dượng mà lấy cháu, sao đành bụng cô.

Anh như ngòi bút cắm cành hoa mai

Tiếc thay mắt phượng mày ngài

126.

Gái khôn lấy được chồng

khôn

Hồng nhan thế vậy nỡ hoài tấm thân.

Như lọ vàng cốm để chôn đầu giường.

121.

Em quyết theo anh từ đầu

xanh tới tóc bạc

127.

Gan vàng chẳng cắt mà đau

Sống thời gửi nạc thác thời gửi xương.

Cách em một phút ruột ràu như dưa.

122.

Em thương anh như chỉ buộc

128.

Gáo vàng đem múc giếng tây

trọn vòng

Anh đừng bạc dạ đem lòng quên em.

Khôn ngoan cho lắm tớ thầy người ta.

15

129.

Gàu vàng mà múc giếng tiên

135.

Hỡi cô da đỏ má hồng

Cô đi theo chồng, cô bỏ xứ cha

Chế vô bình ngọc, kết duyên tam tùng.

Bây giờ tuổi tác đã già

Xứ chồng cô bỏ, xứ cha cô về.

130.

Gặp nhau đây ăn miếng trầu

xanh

136.

Hỡi cô yếm trắng lòa lòa

Chả ăn cầm lấy cho anh bằng lòng.

Yếm nhiễu, yếm vóc hay là trúc bâu?

131.

Giữa làng có cây đa xanh

Hay là lụa bạch bên Tàu

Gió đánh một cành, tươi vẫn hoàn tươi.

Người cắt cũng khéo người khâu cũng tài.

132.

Hai má nàng trắng phau phau

137.

Hỡi cô thắt dải lưng xanh

Răng đen nhưng nhức như màu hạt dưa

Ngày ngày thấp thoáng trong mành trông ai?

Hỏi nàng đã có chồng chưa?

Hay nàng chưa có thì vừa đôi ta.

138.

Hỡi người đi cái ô đen

Cái ô tám gọng là tiền em mua…

133.

Hoa tầm xuân nở ra trắng

bóng

139.

Hỡi người mặc áo nâu bầm

Anh lấy cô mình cho chóng có con.

Đi đây ta kết chỉ thâm cho bền.

134.

Hỡi anh áo trắng kia là

140.

Hỡi người mặc áo vàng vàng

Sao anh không bảo mẹ già nhuộm thâm?

Có về cửa Hội, cửa Trang thì về.

Ước gì áo ấy em cầm

141.

Khăn thâm em nhuộm bùn ao

Để em nhuộm đỏ, nhuộm thâm, nhuộm vàng.

16

Cho loan nhớ phụng cho mình nhớ ta.

Cành sòi chị mất lúc nào em chẳng được hay.

149.

Muốn ăn rễ tía trầu vàng

142.

Khăn trắng em chít cho ai

Đông con nên gả cho làng Chạ Nghi.

Có phải chít cho phụ mẫu thì xé hai ta chít cùng.

150.

Muốn ăn cơm trắng cá kho

143.

Khăn trắng còn để trên đầu

Trốn cha trốn mẹ trốn đò cùng anh.

Vội vì nghiêng nón mở trầu cho ai (ai).

151.

Mừng chàng quần áo mọi

màu

144.

Khăn xanh có ví hai đầu

Quần hồ lơ trứng sáo, áo trắng phau cánh cò.

Nửa thương cha mẹ, nửa sầu căn duyên.

Mừng nàng má phấn môi son

145.

Lấy chồng cho đáng tấm

chồng

Áo màu huyền cánh quạ, tóc xanh non seo gà.

Bõ công trang điểm má hồng răng đen.

152.

Mặt vàng đổi lấy mặt xanh

146.

Lúa vàng hạt gạo cũng vàng

Hai tay hai gậy lạy anh sông Bờ! (sông Đà)

Anh yêu bác mẹ họ hàng cũng yêu.

Mấy đời chỉ trắng bằng vôi

153.

Người khôn con mắt đen sì

Ai thương ai nhớ bằng đôi đứa mình.

Người dại con mắt nửa chì nửa thau.

147.

Mấy đời chỉ trắng bằng vôi

Ai thương ai nhớ bằng đôi đứa mình.

148.

Một đàn cò trắng bay quanh

1. Lạ gì bỉ sắc tư phong Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen

PHỤ LỤC 3 DANH SÁCH CÁC CÂU THƠ CÓ TỪ CHỈ MÀU SẮC TRONG TRUYỆN KIỀU (NGUYỄN DU) 10. Gọi là gặp gỡ giữa đường, Họa là người dưới suối vàng biết cho.

(Câu 5)

(Câu 94)

2. Làn thu thủy, nét xuân sơn, Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh.

11. Rằng: Hồng nhan tự ngày xưa Cái điều bạc mệnh có chừa ai đâu.

(Câu 25)

(Câu 107)

3. Phong lưu rất mực hồng quần Xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê

12. Dùng dằng, nửa ở, nửa về, Nhạc vàng đâu đã tiếng nghe gần gần.

(Câu 35)

(Câu 133)

4. Ngổn ngang gò đống kéo lên, Thoi vàng vó rắc, tro tiền giấy bay.

13. Hài văn lần bước dặm xanh, Một vùng như thể cây quỳnh, cành dao.

(Câu 50)

(Câu 143)

5. Sè sè nấm đất bên đường, Dàu dàu ngọn cỏ, nửa vàng, nửa xanh.

14. Bóng hồng nhác thấy nẻo xa Xuân lan, thu cúc, mặn mà cả hai.

(Câu 57)

(Câu 161)

6. Phận hồng nhan có mong manh Nửa chừng xuân, thoắt gãy cành thiên hương

15. Sương in mặt, tuyết pha thân, Sen vàng lãng đãng như gần như xa. (Câu 190)

(Câu 65)

7. Buồng không lặng ngắt như tờ, Dấu xe ngựa đã rêu lờ mờ xanh.

16. Ngoài sân thỏ thẻ oanh vàng, Nách tường bông liễu bay ngang trước mành.

(Câu 72)

(Câu 239)

8. Phũ phàng chi bấy Hóa công, Ngày xanh mòn mỏi, má hồng phôi pha.

17. Mây tầng khóa kín song the Bụi hồng lẽo đẽo đi về chiêm bao.

(Câu 85)

(Câu 250)

9. Nào người phượng chạ loan chung Nào người tiếc lục, tham hồng là ai?

(Câu 90)

18. Một vùng cỏ mọc xanh rì, Nước ngâm trong vắt, thấy gì nữa đâu! (Câu 261)

19. Thâm nghiêm, kín cổng, cao tường, Cạn dòng lá thắm, dứt đường chim xanh.

30. Mây mưa đánh đổ đá vàng, Quá chiều nên đã chán chường yến anh. (Câu 514)

(Câu 268)

20. Tấc gang đồng tỏa nguyên phong, Tịt mù nào thấy bóng hồng vào ra.

31. Trông chừng khói ngất song thưa, Hoa trôi giạt thắm, liễu xo xác vàng (Câu 572)

(Câu 286)

32. Đầy nhà vang tiếng ruồi xanh, Rụng rời giọt liễu, tan tành gối mai. (Câu 581)

21. Dù khi lá thắm, chỉ hồng Nên chăng thì cũng tại lòng mẹ cha. (Câu 333)

33. Thà rằng liều một thân con, Hoa dù rã cánh, lá còn xanh cây.

(Câu 668)

22. Đã lòng quân tử đa mang, Một lời, vâng tạc đá vàng thủy chung. (Câu 353)

23. Từ khi đá biết tuổi vàng, Tình càng thấm thía, dạ càng ngẩn ngơ. (Câu 364)

34. Vẻ chi một mảnh hồng nhan, Tóc tơ chưa chút đền ơn sinh thành. (Câu 669)

35. Phận sao đành vậy cũng vầy, Cầm như chẳng đỗ những ngày còn xanh.

(Câu 680)

24. Lần lần ngày gió đêm trăng, Thưa hồng rậm lục đã chừng xuân qua. (Câu 269)

25. Nghĩ mình phận mỏng cánh chuồn, Khuôn xanh biết có vuông tròn mà hay?

36. Trong tay đã sẵn đồng tiền! Dầu lòng đổi trắng, thay đen khó gì! (Câu 690)

(Câu 312)

37. Thề hoa chưa ráo chén vàng, Lỗi thề thôi đã phụ phàng với hoa!

26. Cách hoa, sẽ dặng tiếng vàng, Dưới hoa đã thấy có chàng đứng trông. (Câu 379)

(Câu 701)

27. Ví dù vải kết đến điều Thì đem vàng đá mà liều với thân.

38. Nỗi riêng, riêng những bàn hoàn Dầu chong trắng đĩa, lệ tràn thấm khăn.

(Câu 422)

(Câu 712)

39. Lời con dặn lại một hai, Dẫu mòn bia đá, dám sai tấc vàng!

28. Tiên thề cùng thảo một trương, Tóc mây một món, dao vàng chia đôi. (Câu 448)

(Câu 772)

40.

chi thân phận tôi đòi

29. Vẻ chi một đóa yêu đào, Vườn hồng chi dám ngăn rào chim xanh.

Dẫu rằng xương trắng quê người quản đâu.

(Câu 504)

(Câu 930)

(Câu 776)

52. Lầu xanh quen lối xưa nay, Nghề này thì lấy ông này tiên sư.

(Câu 931)

41. Ngập ngừng thẹn lục, e hồng, Nghĩ lòng, lại xót xa lòng đòi phen. (Câu 788)

53. Bốn bề bát ngát xa trông, Cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia.

(Câu 1036)

42. Đã sinh ra số long đong, Còn mang lấy kiếp má hồng được sao? (Câu 798)

54. Buồn trông nội cỏ dàu dàu Chân mây mặt đất một màu xanh xanh. (Câu 1052)

43. Quá chơi lại gặp hồi đen, Quen mồi lại kiếm ăn miền nguyệt hoa. (Câu 807)

44. Mừng thầm: Cờ đã đến tay, Càng nhìn vẻ ngọc, càng say khúc vàng.

55. Tan sương vừa rạng ngày mai, Tiện hồng nàng mới nhắn lời gửi sang. (Câu 1084)

(Câu 824)

56. Trời tây lãng đãng bóng vàng, Phục thư đã thấy tin chàng đến nơi.

45. Đã nên quốc sắc, thiên hương, Một người này, hẳn nghìn vàng chẳng ngoa!

(Câu 1085)

(Câu 826)

57. Nàng càng thổn thức gan vàng Sở Khanh đã rẽ dây cương lối nào!

46. Mập mờ đánh lận con đen, Bao nhiêu cũng bấy nhiêu tiền mất chi? (Câu 839)

(Câu 1125)

58. Hóa nhi thật có nỡ lòng, Làm chi dày tía, vò hồng, lắm nau!

47. Tuồng chi là giống hôi tanh Thân nghìn vàng để ô danh má hồng (Câu 854)

(Câu 1129)

48. Nhìn càng lã chã giọt hồng, Rỉ tai, nàng mới giãi bày thấp cao.

59. Thịt da ai cũng là người Lòng nào hồng rụng, thắm rời chẳng đau

(Câu 1137)

(Câu 875)

60. Bạc tình, nổi tiếng lầu xanh, Một tay chôn biết mấy cành phù dung! (Câu 1159)

49. Đùng đùng gió giục, mây vần Một xe trong cõi hồng trần như bay. (Câu 908)

61. Tiếc thay trong giá trắng ngần, Đến phong trần, cũng phong trần như ai! (Câu 1191)

50. Rừng thu từng biếc chen hồng Nghe chim như nhắc tấm lòng thần hôn. (Câu 917)

62. Tẻ vui cũng một kiếp người Hồng nhan phải giống ở đời mãi ru!

51. Giữa thì hương án hẳn hoi Treo trên một tượng trắng đôi lông mày.

(Câu 1194)

Sân ngô cành biếc đã chen lá vàng.

(Câu 1385)

63. Gót đầu vâng dạy mấy lời, Dường chau nét nguyệt, dường phai vẻ hồng

74. Quyết ngay biện bạch một bề, Dạy cho má phấn lại về lầu xanh.

(Câu 1118)

(Câu 1392)

64. Lầu xanh, mới rủ trướng đào, Càng treo giá ngọc, càng cao phẩm người.

75. Lượng trên quyết chẳng thương tình, Bạc đen thôi có tiếc mình làm chi!

(Câu 1227)

(Câu 1402)

65. Lần lần thỏ bạc, ác vàng, Xót người trong hội đoạn trường đòi cơn!

(Câu 1269)

76. Đất bằng nổi sóng đùng đùng, Phủ đường sai lá phiếu hồng thôi tra. (Câu 1405)

66. Đã cho lấy chữ hồng nhan, Làm cho, cho hại, cho tàn, cho cân!

(Câu 1271)

77. Tuồng gì hoa thải, hương thừa, Mượn màu son phấn đánh lừa con đen! (Câu 1414)

78. Một là cứ phép gia hình Một là lại cứ lầu xanh phó về!

67. Hoa khôi mộ tiếng Kiều nhi Thiếp hồng tìm đến hương khuê gửi vào. (Câu 1279)

(Câu 1420)

68. Sớm đào, tối mận, lân la Trước còn trăng gió, sau ra đá vàng.

(Câu 1290)

79. Khen rằng: “Giá lợp thịnh Đường, Tài này sắc ấy nghìn vàng chưa cân! (Câu 1456)

69. Mụ càng tô lục, chuốt hồng, Máu tham hễ thấy hơi đồng thì mê.

(Câu 1305)

80. Kíp truyền sắm sửa lễ công, Kiệu hoa cất gió, đuốc hồng điểm sao. (Câu 1466)

70. Rõ ràng trong ngọc, trắng ngà, Dày dày sẵn đúc một tòa thiên nhiên. (Câu 1313)

81. Mảng vui rượu sớm, cờ trưa, Đào đà phai thắm, sen vừa nảy xanh. (Câu 1474)

71. Lòng còn gửi áng mây vàng, Họa vần xin hãy chịu chàng hôm nay. (Câu 1319)

82. Sông Tần một dải xanh xanh, Loi thoi bờ liễu mấy cành Dương quan. (Câu 1502)

83. Dặm hồng bụi cuốn chinh an, Trông người đã khuất mấy ngàn dâu xanh.

72. Sá chi liễu ngõ, hoa tường, Lầu xanh lại bỏ ra phường lầu xanh! (Câu 1355)

(Câu 1522)

73. Nửa năm hơi tiếng vừa quen,

(Câu 1906)

84. Lửa tâm càng giập, càng nồng, Trách người đen bạc, ra lòng trăng hoa. (Câu 1538)

95. Áo xanh đổi lấy cà sa Pháp danh lại đổi tên ra Trạc Tuyền

(Câu 1922)

85. Đêm ngày lòng vẫn dặn lòng, Sinh đà về đến lầu hồng, xuống yên. (Câu 1568)

96. Nàng từ lánh gót vườn hoa, Dường gần rừng tía, dường xa bụi hồng. (Câu 1926)

86. Rằng: “Trong ngọc đá vàng thau, Mười phần ta đã tin nhau cả mười.

(Câu 1584)

97. Nhân duyên đâu lại còn mong? Khỏi điều thẹn phấn, tủi hồng thì thôi. (Câu 1928)

87. Thú quê thuần hức bén mùi Giếng vàng đã rụng một vài lá ngô.

(Câu 1594)

98. Nâu sồng từ trở màu thiền, Sân thu trăng đã vài phen đứng đầu.

(Câu 1933)

88. Long lanh đáy nước in trời, Thành xây khói biếc, non phơi bóng vàng.

(Câu 1604)

99. Vì ta cho lụy đến người Cát lầm ngọc trắng thiệt đời xuân xanh. (Câu 1950)

89. Thưa nhà huyên hết mọi tình, Nỗi chàng ở bạc, nỗi mình chịu đen. (Câu 1609)

100. Thẹn mình đá nát,vàng phai Trăm thân, dễ chuộc một lời được sao? (Câu 1955)

90. Phận sao bạc chẳng vừa thôi, Khăng khăng buộc mãi lấy người hồng nhan!

(Câu 1764)

101. Tiếc thay lưu lạc giang hồ, Nghìn vàng, thật cũng nên mua lấy tài! (Câu 1990)

91. Bốn phương mây trắng một màu, Trông vời cố quốc biết đâu là nhà?

(Câu 1788)

102. Thuyền trà cạn nước hồng mai, Thong dong nối gót thư trai cùng về. (Câu 1991)

92. Mày xanh, trăng mới in ngần, Phấn thừa, hương cũ, bội phần xót xa. (Câu 1793)

103. Trước sân, lòng đã giãi lòng, Trong màn làm lễ tơ hồng kết duyên. (Câu 2134)

93. Ví chăng có số giàu sang Giá này dẫu đúc nhà vàng cũng nên.

(Câu 1902)

104. Mượn người, thuê kiệu, rước nàng Bạc đem mặt bạc kiếm đường cho xa! (Câu 2144)

94. Sinh rằng: “Thật có như lời, Hồng nhan bạc mệnh, một người nào vay!

105. Đưa nàng vào lạy gia đường

Cũng thần mày trắng, cũng phường lầu xanh!

116. Nghìn vàng gọi chút lễ thường, Mà lòng Phiếu mẫu, mấy vàng cho cân! (Câu 2347)

(Câu 2148)

117. Dễ dàng là thói hồng nhan, Càng cay nghiệt lắm, càng oan trái nhiều.

106. Hồng quân với khách hồng quần, Đã xoay đến thế, còn vần chưa tha.

(Câu 2362)

(Câu 2158)

118. Đóng quân làm chước chiêu an, Ngọc, vàng, gấm, vóc, sai quan thuyết hàng.

(Câu 2458)

107. Đầu xanh có tội tình gì? Má hồng đến quá nửa thì, chưa thôi. (Câu 2161)

108. Biết thân chạy chẳng khỏi trời, Cũng liều mặt phấn cho rồi ngày xanh. (Câu 2164)

119. Lại riêng một lễ với nàng, Hai tên thể nữ, ngọc vàng nghìn cân. (Câu 2460)

120. Rằng: “Nàng chút phận hồng nhan, Gặp cơn binh cách, nhiều nàn cũng thương!

109. Thiếp danh đưa đến lòng hồng Hai bên cùng liếc, hai lòng cùng ưa.

(Câu 2541)

(Câu 2177)

121. Rộng thương còn mảnh hồng quần, Hơi tàn còn thấy gốc phần là may!

(Câu 2585)

110. Bấy lâu nghe tiếng má đào, Mắt xanh chẳng để ai vào, có không? (Câu 2181)

122. Một mình cay đắng trăm đường, Thôi thì nát ngọc, tan vàng, thì thôi!

(Câu 2616)

111. Chút riêng chọn đá thử vàng, Biết đâu mà gửi can trường vào đâu? (Câu 2187)

123. Mười lăm năm, bấy nhiêu lần, Làm gương cho khách hồng quần thử soi!

(Câu 2644)

112. Còn như vào trước, ra sau, Ai cho kén chọn vàng thau tại mình? (Câu 2190)

113. Cho gươm mời đến Thúc lang,

Mặt như chàm đổ, mình giường giẽ run.

(Câu 2326)

124. Thúy Kiều sắc sảo khôn ngoan Vô duyên là phận hồng nhan đã đành. (Câu 2660)

114. Gấm trăm cuốn, bạc nghìn cân, Tạ lòng dễ xứng báo ân gọi là.

125. Đánh tranh, chụm nóc thảo đường, Một gian nước biếc, mây vàng chia đôi. (Câu 2698)

(Câu 2331)

126. Giác Duyên nhận thật mặt nàng, Nàng còn thiêm thiếp giấc vàng chưa phai.

(Câu 2710)

115. Nhớ khi lỡ bước, sẩy vời, Non vàng chưa dễ đền bồi tấm thương. (Câu 2346)

127. Bốn bề bát ngát mênh mông, Triều dâng hôm sớm, mây hồng trước sa.

135. Giác Duyên lên tiếng gọi nàng, Buồng trong, vội dạo sen vàng bước ra. (Câu 3008)

(Câu 2736)

128. Phận sao bạc bấy Kiều nhi! Chàng Kim về đó, con thì đi đâu?

(Câu 2761)

136. Sự đời đã tắt lửa lòng, Còn chen vào chốn bụi hồng làm chi! (Câu 3046)

129. Quá thương chút nghĩa đèo bồng, Nghìn vàng thân ấy, dễ hòng bỏ sao! (Câu 2804)

137. Còn duyên, may lại còn người Còn vầng trăng bạc, còn lời nguyền xưa. (Câu 3074)

130. Cùng nhau thề thốt đã nhiều, Nhiều điều vàng đá, phải điều nói không. (Câu 2814)

138. Chữ trinh đáng giá nghìn vàng, Đuốc hoa chẳng thẹn với chàng mai xưa. (Câu 3095)

139. Còn chi là cái hồng nhan? Đã xong thân thế, còn toan nỗi nào?

(Câu 3102)

131. Bởi lòng tạc đá, ghi vàng, Tưởng nàng nên lại thấy nàng về đây. (Câu 2855)

140. Nhà vừa mở tiệc đoàn viên Hoa soi ngọn đuốc, hồng chen bức là. (Câu 3132)

132. Ấy là dặn ngọc, thề vàng Bây giờ kim mã, ngọc đường với ai? (Câu 2869)

133. Nàng đã gieo ngọc, trầm châu, Sông Tiền Đường đó, ấy mồ hồng nhan (Câu 2964)

141. Chừng xuân tơ liễu còn xanh, Nghĩ rằng chưa thoát khỏi vòng ái ân. (Câu 3171)

134. Ngọn triều, non bạc, trùng trùng, Vời trông còn tưởng cánh hồng lúc gieo. (Câu 2970)

142. Bấy lâu đáy bể mò kim, Là nhiều vàng đá, phải tìm trăng hoa? (Câu 3176)

PHỤ LỤC 4

NHỮNG CÂU THƠ

CÓ TỪ CHỈ MÀU SẮC CỦA XUÂN DIỆU

TẬP THƠ “THƠ THƠ”

Những luồng run rẩy rung rinh lá... Đôi giếng mắt đã chứa trời vạn hộc;

Đôi nhánh khô gầy sương mỏng Đôi bờ tai nào ngăn cản thanh âm:

manh. Của vu vơ nghe mãi tiếng kêu thầm...

Của xanh thắm thấy luôn màu nói sẽ... (Đây mùa thu tới)

(Cảm xúc)

Hình eo, dáng lả, sắc xinh xinh

Phơi phới cùng nhau thở thái bình Tóc liễu buông xanh quá mỹ miều

Của nỗi yêu trùm không giới hạn Bên màu hoa mới thắm như kêu;

Dịu dàng toả xuống tự trời xanh. Nỗi gì âu yếm qua không khí,

Như thoảng đưa mùi hương mến yêu. (Lạc quan)

(Nụ cười xuân)

Trời cao trêu nhử chén xanh êm;

Biển đắng không nguôi nỗi khát thèm; Dịu dàng đàn những ánh tơ xanh,

Nên lúc môi ta kề miệng thắm, Cho gió du dương điệu múa cành;

Trời ơi, ta muốn uống hồn em! Cho gió đượm buồn, thôi náo động

Linh hồn yểu điệu của đêm thanh. (Vô biên)

(Trăng)

Gió thanh chia mình

Trong cành lá biếc. Hơn một loài hoa đã rụng cành

[…] Sao em không nghe Trong vườn sắc đỏ rủa màu xanh;

Êm êm núi biếc xinh như ngọc Bao lời van vỉ

Và cũng buồn như nỗi nhớ nhà. Của nguyệt đêm hè,

Bao lời uỷ mị (Núi xa)

Của thời tươi xanh.

Tôi chỉ sống để hoài hoài tưởng nhớ, (Tiếng không lời)

Mãi mãi yêu nhưng giấu giếm luôn

Ta gửi trời ta giữa mắt nào luôn;

Ở gần má lửa, cạnh mày dao... Mà người thì, lơ đãng, giậm trên

Khi ta trở lại, trời đâu vắng buồn,

Lạnh lẽo mày xanh phản má đào. Bận đi hái những cành vui xanh thắm

(Gửi trời) (Dối trá)

Núi tận chân trời đứng nghĩ xa,

Gió đều trang trải nguyệt bao la;

PHỤ LỤC NHỮNG CÂU THƠ

CÓ TỪ CHỈ MÀU SẮC CỦA XUÂN DIỆU

TẬP THƠ “GỬI HƯƠNG CHO GIÓ”

Sao vàng lẻ một, trăng riêng chiếc; Khi gió sớm vào reo um khóm lá,

Đêm ngọc tê ngời men với tơ... Khi trăng khuya lên ủ mộng xanh trời.

[…] Hát vô ích, thế mà chim vỡ cổ,

Khắp biển trời xanh, chẳng bến trời, Héo tim xanh cho quá độ tài tình.

Mắt tìm thêm rợn ánh khơi vơi. Ca ánh sáng bao lần dây máu đỏ,

Trăng ngà lặng lẽ như buông tuyết, Rồi một ngày sa rụng giữa bình minh.

Trong suốt không gian, tịch mịch đời. (Lời thơ vào tập Gửi hương cho gió)

(Buồn trăng)

Mây vắng, trời trong, đêm thuỷ tinh;

Tay ái ân - du khách hãy làm rèm, Lung linh bóng sáng bỗng rung mình

Tóc xanh tốt em xin nguyền dệt võng. Vì nghe nương tử trong câu hát

Đã chết đêm rằm theo nước xanh. (Lời kỹ nữ)

(Nguyệt cầm)

Ai có biết màu xuân lên nặng lắm

Trên cành hồng và trong những trái Gió sáng bay về, thi sĩ nhớ;

tim? Thương ai không biết, đứng buồn

[…] Mở miệng vàng, và hãy nói yêu trăng.

tôi, Huy hoàng trăng rộng, nguy nga gió,

Dẫu chỉ là trong một phút mà thôi! Xanh biếc trời cao, bạc đất bằng.

[…] Hỡi nhan sắc, ngại ngùng chi

Mây trắng ngang hàng tự thuở xưa, không nói,

Bao giờ viễn vọng đến bây giờ.

Cho trời thêm xanh, cho cảnh càng Buổi chiều đi lảng ở chân mây,

xinh. Hoa tím trên song thoảng điệu gầy.

[…] Âm thầm có những câu than thở (Mời yêu)

Trong rậm lau phơ chấm bụi vàng.

Chỉ là trăng, nhưng tôi thấy thần tiên (Buổi chiều)

Như tuyệt diệu: bởi hồn tôi xanh quá.

[…] Vò nước lã mát xoàng đôi buổi Xuân ta đã cất trong thơ phú,

nắng. Tuổi trẻ trong thơ thắm với đời.

Nhà quê kiểng có đâu cơm gạo trắng, (Tặng bạn bây giờ)

Thân lữ cô, đừng giận quán tranh

Đến đây áng trở người qua lại; nghèo!

Bỗng lướt ngang tôi một thoáng hồng. (Chỉ ở lòng ta)

(Tình qua)

Con chim hồng, trái tim nhỏ của tôi,

Hư vô bóng khói trên đầu hạnh; Mau với chứ! thời gian không đứng

Cành biếc run run chân ý nhi. đợi.

[…] Buồn ở sông xanh nghe đã lại, […] Vừa xịch gối chăn, mộng vàng

Mơ hồ trong một tiếng chim qua. tan biến;

[…] Gió thu hoa cúc vàng lưng giậu, Dung nhan xê động, sắc đẹp tan tành.

Sắc mạnh huy hoàng áo trạng nguyên. Vàng son đương lộng lẫy buổi chiều

xanh, (Thu)

Quay mặt lại: cả lầu chiều đã vỡ.

Bụi mưa mờ cũ gương trăng, […] Giục hồng nhạn thiên đi về cõi

Hoa lau trắng đã kết bằng tiêu tao. Bắc.

Đêm đêm trời nhạt vơi sao, Ai nói trước lòng anh không phản

Sông Ngân dòng bạc cũng hao bóng trắc;

vàng. (Giục giã)

[…] Càng cao càng lạnh trao lôi,

Trên cung xanh vắng lạnh thôi mấy

Lòng ta là một cơn mưa lũ, chừng!

Đã gặp lòng em là lá khoai […] Trăng thu thường thấy trắng

Mưa biết tha hồ rơi hạt ngọc, phau,

Lá xanh không ướt đến da ngoài. Ấy màu của tuyết, ấy màu của băng.

(Nước đổ lá khoai) (Bụi mưa mờ cũ)

Họ chưa hề đẹp; lúc xuân sang Giở lạnh rồi đây! Sắp nhớ nhung!

Sương the lãng đãng bạc cây tùng. Đem sắc, đem duyên điểm mọi nàng,

Từng nhà mở cửa tương tư nắng, Đôi chút hồng đào lên má nở,

Sắp sửa lòng ta để lạnh lùng! Rồi thôi; - họ chẳng dám nhìn

gương... (Ngẩn ngơ)

(Những kẻ đợi chờ)

Trời xanh thế! Hàng cây thơ biết mấy!

Vườn non sao! Đường cỏ mộng bao Sắt hạ rung rinh bốn phía hè...

nhiêu. Hồn ai hiu hắt lá xanh tre?

[…] Cho ta xin, cho ta xin sắc đỏ, Dịu dàng như có, như không có,

Xin màu xanh về tô lại khung đời... Biển ở xa xăm gởi gió về.

(Xuân đầu) (Nhớ mông lung)

Khi ấy lòng xanh mới đón tình. Sương bạc lấp cả một trời trắng sữa;

Rảo trường ngăn giữ kín vườn xinh. Sương mông lung như giữa khoảng

[…] Gió ấy đầu hoa ngang ngửa giang hà.

thắm: […] Buồm giữa bạc biết phương mô

Nhị vàng hoa cạnh liếc hoa bên. trở lái;

[…] Cánh mất còn lưu đường rẽ Tình xa xôi không ai vẽ nên mầu.

trắng; (Sương mờ)

Khi buồn quan ải, rợn làn da. Lặng im của bóng đêm sâu;

Lặng im vĩnh viễn của mầu thời gian; (Đêm thứ nhất)

(Im lặng)

Vồn vã đưa tay; đâu nữa bướm?

Hãy để yên tôi dệt thắm tên người; Cánh vàng rơi hạt phấn lơ thơ.

Ai lý luận với ân tình cho đáng! (Ý thoáng)

Trời reo nắng thì chim reo tiếng sáng!

Gió mây đến ở trong trường đình tự; Xuân có hồng thì tôi có tình tôi.

Trăng vàng xinh không bỏ giữa đêm (Tặng thơ)

khuya,

[…] Tần cung nữ ba mươi trăm, Đêm qua mưa gió lạnh lùng trời,

chẳng biết Anh ở, em đi, lạnh lẽo người.

Gót sen vàng liễu yếu chạy về đâu? Còi thét như gươm, tay hoảng đứt,

[…] Sương mới mùa thu giăng cửa Khói đùn mây bạc, lệ lên ngươi!

song mờ, (Hết ngày hết tháng)

Nắng cũ mùa vàng sa mặt sông thơ;

Tuyết bay mùa đông trắng phơ tựa Mộng bay chơi nhằm một buổi trời

biển; chiều,

Cũng dịu dàng như thể một mùa thu! Gặp tóc biếc; tưởng sắc ngày xưa nở!

[…] Sao rải rác như lệ vàng đêm nhỏ, (Mơ xưa)

Mưa lơ phơ như dạ khóc âm thầm!

Mùa hạ cháy ở dưới trời đốt trắng; (Yêu mến)

Nắng hồng nung, mây bạc chảy ngân

nga. Của nhành trĩu trĩu, lá âm âm

Tôi hiểu chờ riêng với muốn thầm. […] Muốn đi chết ở trong lòng nắng

Tiếng nhỏ vừa lan trong kẽ biếc, đỏ,

Ấy là vạn vật nức xuân tâm. Để lòng tàn, thiêu huỷ cả hư vô.

(Đi dạo) (Hè)

Mùa xuân bay lượn bướm như thơ, Hỡi ôi! Nước cuộn lòng sông đỏ,

Cánh đẹp trên hoa vừa ghé hờ. Mây bạc trôi trong nắng gợn trời;

Và có lòng tin tưởng để ngâm ca. Huế chẳng còn tăm, Hà Nội bỏ;

Không muốn biết màu nâu hay sắc Còn gì đâu nữa, ái tình ôi!

thắm. Giấy xanh mỏng ở trong bì mỏng

biếc. (Mênh mông)

Bao tờ mây sát lại, để nhiều câu.

Những chàng trai đương sức lực tươi Mỗi một hàng, bao nhiêu chữ nương

xanh, nhau

Kẻo lâu nhớ, người xa e sức vợi. Bước vạm vỡ như là đi chinh phục.

… […] Em đẹp quá khi em mày nhíu lại,

Khi thư gửi, giấy còn nguyên sắc mới; Cặp mày xanh như rừng biếc chen

Thư đến xong, giấy đẹp đã hoe vàng! cây.

(Truyện cái thư) (Đẹp)

Ở trong máu thắm vì xuân trộn ánh, Mặt trời vừa mới cưới trời xanh,

Suối ngươi đi, róc rách giọng hồng Duyên đẹp hôm nay sẽ tốt lành.

Son sẻ trời như mười sáu tuổi, vàng,

Má hồng phơn phớt, mắt long lanh. […] Ngực thở trời, mình hút nắng

tươi xanh, (Rạo rực)

Ta góp kết những vòng hoa mới lạ.

Hôm nay chiều đợi chờ (Thanh niên)

Nắng nhỏ cành vương vấn.

Sương hồng cây ước mơ;

Em đến; lòng van khấn.

(Chiều đợi chờ)

PHỤ LỤC 5

NHỮNG CÂU THƠ CÓ TỪ NGỮ CHỈ MÀU SẮC

TRONG TẬP “GIÓ LỘNG” CỦA TỐ HỮU

Trên bãi Thái Bình dương sóng gió Phơi phới bay cờ đỏ sao vàng Chúng ta đứng thẳng hiên ngang Sáng ngời một ngọn hải đăng hòa bình.

[…]Quạ đen mà chiếm mặt trời được chăng? Những thằng cướp hung hăng áo sắt Mặt vẫn xanh trước mặt quân ta. Những quân giết trẻ hại già

(Xưa... nay)

[…]Quyết giành đất rộng đồng xanh Không cho lũ vật hôi tanh bám hoài. Nhìn tới trước tương lai chiến thắng Ngọn cờ ta vươn thẳng tiến lên!

Chí ta như núi Thiên Thai ấy Đỏ rực chiều hôm dậy cánh đồng Lòng ta như nước Hương Giang ấy Xanh biếc lòng sông những bóng thông...

(Quê mẹ)

[…]Trông mình, nay đã lớn cao Hai mươi lăm tuổi, hồng hào sức xuân. Bước trường chinh, bắp chân đã vững Gánh sơn hà vai cứng đảm đang!

Cây tre xanh Việt Nam giặc chém Thương cây thông Triều Tiên cháy sém Cây thông nhựa chảy ròng ròng Thương cây tre đứt ruột đứt lòng!

[…]Anh chị em ơi, cờ đỏ phất lên cao! Anh chị em ơi, hai mươi lăm triệu đồng bào

(Hai anh em)

(Quang vinh Tổ quốc chúng ta)

Chị đang thêu tiếp cuộc đời Hoà bình trở lại, ngời ngời xuân xanh Tưởng là hoa lại liền cành Hỡi ôi chăn gối tan tành mộng êm!

(Chị là người mẹ)

Thuở ta tiến quân về Hà Nội Áo quần nâu, chân đất súng thô Những phố chợ gầy đen hấp hối Bỗng tuôn trào nước mắt hoan hô! Và muôn cánh sao vàng tung nở Cờ đỏ sông, đồng lúa, bờ tre Cả đất nước tươi màu rực rỡ Giữa mùa thu, đón Bác Hồ về.

Đường nhựa dài óng ả Đồng chiêm mạ xanh rờn Ga mới hồng đôi má Cầu mới thơm mùi sơn.

[…]Lũ đế quốc nhìn ta đứng đó Như một bầy cú vọ trong đêm Mắt đỏ nọc, máu thèm lên cổ Tưởng mồi ngon, một miếng là êm.

[…] Nghe hơi thở của đồng quê mập mạp

Bãi phù sa xanh mượt ngô non Những đàn trâu Việt Bắc béo tròn Đủng đỉnh về xuôi quê hương mới lạ Rực rỡ những làng vàng tươi mái rạ Gạch mới nung, đá trắng chất bên đường

[…] Em nói em cười, má em đỏ thắm Em đẹp em thơm như quả táo đầu cành Phơi phới đời em cao vút như dương xanh Trung Quốc đó. Sức thanh xuân bừng dậy

(Trên miền Bắc mùa xuân)

[…] Mấy nghìn năm đầy đoạ tháp Lôi Phong Vươn mình lên, rực rỡ dưới cờ hồng!

Thuỷ chung tình bạn chùm hoa tím Hôn hít hoa thơm, tưởng Huế gần Bữa mô mời bạn vô chơi Huế Cồn Hến buồm giong ngược bến Tuần.

(Hoa tím)

Sống, chết, được như Anh

Thù giặc, thương Nước mình

[…] Như mặt người tươi dãn những đường nhăn. Gót chân bước trên đường xanh nhún nhảy […] Ôi hai chữ tự do: đôi hài vạn dặm Đôi cánh thần tiên bay lên xanh thẳm

Sống, làm quả bom nổ

Chết, như dòng nước xanh.

(Phạm Hồng Thái)

[…] Cờ đỏ giương cao, đứng dậy làm Trời Tia lửa nhỏ đốt cháy đồng cỏ rộng!

(Đường sang nước bạn)

Chào Trung Quốc, giang sơn hùng vĩ Quê Hồng quân vạn lý trường chinh!

Ai lên ải Bắc ngày xưa ấy Khóc tiễn cha đi mấy dặm trường Hôm nay biên giới mùa xuân dậy Núi trắng hoa mơ cờ đỏ đường...

(Mục Nam Quan)

Hôn các anh xưa, những người chiến sĩ Đầu đỏ ngôi sao, không sợ thác ghềnh […] Hồng quân đi đến đâu Sông phải rẽ nước Núi phải cúi đầu!

Ôi những ai về đến quê hương Có bâng khuâng ? Nghe những gì không rõ Trong im lặng. Nắng vừa lên ửng đỏ

[…] Hai ngọn cờ đỏ máu thơm tươi Chiến thắng ôm nhau, biên cương mở hội. Ôi, buổi bình minh dậy dọc đường Mướt xanh bờ liễu, vút hàng dương Trắng phau nội cỏ cừu phơi tuyết Ngào ngạt đồng xuân mịn phấn hường

[…] Từ bóng tối xà-lim Côn Đảo Ban Mê, Lao Bảo, Sơn La Viết lên tường đỏ máu: Mạc Tư Khoa! Ôi Việt Nam Tổ quốc chúng ta!

[…] Trong ánh sáng hồng tươi nét mặt Như mặt trời không bao giờ tắt

(Trước Krem-lin)

Lê-nin đi vắng Nhưng trong vườn sên đầy nắng Chiếc ghế sơn xanh còn ấm hơi Người

Cả Nước bên em, quanh giường nệm trắng […] Cả nước cho em, cho em tất cả Máu tiếp máu, cho lại hồng đôi má Cho mái tóc em xanh lại ngày xuân Cho thịt da em lại nở trắng ngần Em sẽ đứng trên đôi chân tuổi trẻ Đôi gót đỏ lại trở về quê mẹ Em sẽ đi, trên đường ấy thênh thang Như những ngày xưa, rực rỡ sao vàng!

[…] Bâng khuâng nghe năm tháng Đẹp như người con gái nước Nga Hôm nay đưa tôi qua những căn nhà Kẻ lại từng chương sử đỏ

(Người con gái Việt Nam)

[…] Đám tang ai Đi trong tuyết giá Mạc-tư-khoa trắng lạnh Muôn nghìn kim Đau buốt trái tim

Lâng lâng mây hồng Trăng lên khơi vơi Trăng bằng vàng điệp Mây bằng thuỷ ngân (Ba bài thơ trăng)

(Với Lê-nin)

Chết mà chưa giết được lũ đê hèn Trái tim hồng chết uất máu bầm đen

Ngày mỗi ngày, từng chiếc lá tre xanh Đã mọc lên quanh những làng kháng chiến

[…] Nhưng sắc đẹp đã ửng hường đôi má Cộng hoà ta nay tuổi mới mười ba

[…] Hồn chúng tôi quẩn quanh cùng đất nước Như bóng dừa ôm những xóm làng yêu Như bóng cò bay sớm sớm chiều chiều Như sông lạch vẫn tắm đồng xanh mát [...] Lửa đã đốt những thây đen thuốc độc Súng đã bắn những đầu xanh gan góc

[…] Yêu biết mấy, những con đường ca hát Qua công trường mới dựng mái nhà son!

(Thù muôn đời muôn kiếp không tan)

(Mùa thu mới)

Nửa trái đất bừng lên sáng đỏ Nửa trái đất sáng dần trong ngõ.

Ôi bàn tay như đôi lá còn xanh Trên mình em đau đớn cả thân cành

[…] Loài người đi. Nhưng biết đi đâu? Bóng đen bay, từng mảng trên đầu...

(Bay cao)

[…] Từ cõi chết, em trở về, chói lọi Như buổi em đi, ngọn cờ đỏ gọi […] Em đã sống, bởi vì em đã thắng

[…] Đời đang buổi bình minh hửng đỏ Tây lại vào cắn cổ, cắn chân

Em ơi, Ba Lan mùa tuyết tan Đường bạch dương sương trắng nắng tràn

[…] Một dân tộc hai bàn tay trắng Đồng tâm là chiến thắng thành công […] Chín năm làm một Điện Biên Nên vành hoa đỏ, nên thiên sử vàng!

[…] Hãy nghe em từng viên ngói đỏ Những mái nhà phố cũ hồi xuân Máu đã quyện, em ơi, trong đó Máu Ba Lan và máu Hồng quân!

[…] Tự do đã nở hoa hồng Trong dòng máu đỏ, trên đồng Việt Nam...

Nhớ nghe em, những đôi giày nhỏ Tưởng còn đi chập chững chân son Những mái tóc vàng tơ đóng bó Dệt thành chăn rợn bóng oan hồn!

[…] Chiêm mùa, cờ đỏ ven đê Sớm trưa tiêng trống đi về trong thôn Máu áo mới nâu non nắng chói Mái trường tươi roi rói ngói son

[...] Anh đã đến quê em Ban-tích Sóng ngời xanh, ngọc bích biển khơi Đã xóa sạch những ngày Đăng-dích Màu Ba Lan trong trắng đỏ tươi

[…] Nắng đỏ ngực anh, người thủy thủ Đẹp như lò Nô-va Hu-ta

[…] Sống cùng Đảng, chết không rời Đảng Tấm lòng son chói sáng nghìn thu Mặt trời có lúc mây mù Trái tim ta vẫn đỏ bầu máu tươi!

(Em ơi... Ba Lan)

[…] Những hồn Trần phú vô danh Sóng xanh biển cả, cây xanh ngút ngàn...

[…] Ngọn cờ đỏ trên đầu phấp phới Bác Hồ đưa ta tới trời xa

Mùa xuân đó, con chim én mới Rộn đồng chiêm, chấp chới trời xanh […] Máu đà nhúng đỏ bàn tay Biết chi đau đớn cỏ cây đồng bào!

(Ba mươi năm đời ta có

[…] Đảng ta sinh ở trên đời Một hòn máu đỏ nên Người hôm nay

Đảng)

Một ngôi sao, chẳng sáng đêm Một thân lúa chín, chẳng nên mùa vàng.

[…] Trùng trùng cách mạng ra quân Phất cao cờ đỏ, công nhân dẫn đầu

(Tiếng ru)

[…] Áo nâu liền với áo xanh Nông thôn cùng với thi thành đứng lên

[…] Mùa thu Cách mang thành công Mùa thu đây, hỡi cờ hồng vàng sao!

Chiều nay gió lặng, nắng hanh Mây hồng trắng nõn, trời xanh, Bác về Sông hồng nắng rực bờ đê Nắng thơm rơm mới, đồng quê gặt mùa

[…] Sông hồng nắng rực bờ đê Nắng thơm rơm mới, đồng quê gặt mùa

(Cánh chim không mỏi)

[…] Vui chăng, hỡi Mẹ, đời vui đó: Cờ đỏ ta lay động mọi miền! […] Máu con đỏ cát đường thôn lạnh Bóng mẹ ngồi trông, vọng nước non! Ôi bóng người xưa, đã khuất rồi Tròn đôi nắm đất trắng chân đồi. Sống trong cát, chết vùi trong cát Những trái tim như ngọc sáng ngời!

Chào xuân đẹp! Có gì vui đấy Hỡi em yêu? Mà má em đỏ dậy […] Mà nói vậy: "Trái tim anh đó Rất chân thật chia ba phần tươi đỏ: […] Tam Đảo, Ba Vì vui núi xuân xanh... Chào 61! Đỉnh cao muôn trượng

(Mẹ Tơm)

[…] Một vùng trời đất trong tay Dẫu chưa toàn vẹn, cũng bay cờ hồng!

[…] Lụa Nam Định đẹp tươi mát rượi Lược Hàng Đào chải mái tóc xanh! […] Đường nở ngực. Những hàng dương liễu nhỏ Đã lên xanh như tóc tuổi mười lăm Xuân ơi Xuân, em mới đến dăm năm Mà cuộc sống đã tưng bừng ngày hội Như hôm nay, giữa công trường đỏ bụi Những đoàn xe vận tải nối nhau đi

(Bài ca mùa xuân 1961)

Tôi lại về đây, hỡi các anh Hỡi rừng sa mộc, khóm dừa xanh Hỡi đồi cát trắng rung rinh nắng Hỡi những vườn dưa đỏ ngọt lành!

[…] Nhà ai mới nhỉ, tường vôi trắng Thơm nức mùi tôm nặng mấy nong […] Ông mất năm nao, ngày độc lập Buồm cao đỏ sóng bóng cờ sao […] Chợ xa, Mẹ gánh mớ rau xanh Thêm bó truyền đơn gọi đấu tranh Bãi cát vàng thau in bóng Mẹ Chiều về... Hòn Nẹ... Biển reo quanh...

Bên kia ngoại thành đang còn phải dập tắt đám lửa tội do phi đội Hoa Kỳ gây nên, thì bên này nội thành đã hội nghị thông tin và, giữa các phòng họp sáng trưng đang ngùn ngụt ý kiến về chiến tranh (cụ thể tại Việt Nam) và hòa bình (giả vờ của Hoa Kỳ) thì đã thấy giải vào một thằng tù Mỹ mặt như chàm đổ.

Hoa tía như kết chỉ diều, đính vào những dây tua, nó đúng là những tua lọng thõng

buông xuống từ lòng một cái tán tàn xanh đặc.

Cái kỳ bom đạn Mỹ, Pháp, Nhật ấy, hình như ai cũng lo tháo thân lấy một mình,

hình như lòng ai cũng nổi lên một góc chợ đen.

Hồ Gươm mùa thu càng lộng đẹp tấm gương sáng hắt ánh lên những cánh én bạc

của một binh chủng không quân đang ra đời.

Cũng như lòng đường vẫn rất nhiều xe tải xe con. Nhiều chiếc từ các phương xa trở về Hà Nội, lá nghi trang đã khô nẫu. Chiếc nào từ thủ đô mà đi ra thì lá rờn xanh phủ tươi mườn mượt.

Anh vặn xe tải từ tuyến lửa Khu Tư về, mui xe um tùm lá khô vàng rộm bụi đường trường tuyến lửa miền Trung, cũng vào làm luôn mấy hơi, mỗi cốc chỉ một hơi, rồi lại nổ máy đi ngay, có khi ngay đêm nay anh lại chở hàng vào Khu Tư.

Và tất cả các em thiếu nhi thả bò chăn trâu của 61 phường ngoại thành Hà Nội cùng là 13 trại nội thành Hà Nội theo Trần Quốc Toản dựng cờ đỏ mộ quân chống ngoại xâm, tập trận ở cánh đồng Giảng Võ ở bãi Đồng Cổ (nay là Thụy Khuê) ở Núi Voi (nay là nhà máy Bia) thì đều là cùng một lứa tuổi này chứ gì?

Thấy Hồ Gươm càng lộng lẫy khí thế “nghìn năm văn vật”, cỏ trên chỏm trên lườn

hầm vẫn phủ mượt một màu xanh hoài vọng.

Lòng hồ thu giữa lòng Hà Nội chống Mỹ, như một bầu gương sáng đã bao nhiêu buổi phản ánh lên những mình thoi phản lực của không quân trẻ tuổi Việt Nam đang vòng nghiêng cánh bạc mà cảnh giới bầu trời Hà Nội, mà chào Hà Nội mến yêu, sau mỗi lần xuất trận.

(Ở mặt trận Hà Nội) Trong chiến tranh thứ hai thế giới, nhớ mỗi lần Mạc Tư Khoa điểm tù binh phát xít, giải qua Hồng trường, thì liền sau đó có ngay xe nước phun vòi rửa đường cho nó ào hết ngay đi cái mùi xấu hổ nọ.

Hai ngôi sao xanh đỏ song song đi từ Tây sang Đông: tàu bay ta tuần thám bầu

trời đêm Hà Nội như thường lệ.

Trước mặt mỗi thằng, trên nền nhà “hỏi cung”, lòi ra đôi dép trắng Thái Lan- Thái Lan, cái nơi đã cho không lực Hoa Kỳ mượn đất dựng sáu chục căn cứ để bay sang đánh Việt Nam.

(Hà Nội giải tù Mỹ qua phố Hà Nội)

PHỤ LỤC 6 NHỮNG CÂU VĂN CÓ TỪ NGỮ CHỈ MÀU SẮC TRONG HÀ NỘI TA ĐÁNH MỸ GIỎI (Nguyễn Tuân)

Đào bích nó thắm quá thành ra nặng mặt. Đào pha ta bao giờ cũng nhẹ nhõm và

duyên dáng hơn đào bích.

Bánh chưng thì xanh, câu đối thì đỏ và cái bánh chưng Việt Nam đã vuông thì phải vuông đủ tám góc kia, và cái lạt tre dùng buộc bánh, tuy rất mềm, nhưng mà buộc rất chặt.

Tôi đứng dưới gốc đào, một buổi chiều ngừng bắn, nghĩ miên man thấy sự sống là

một điều gì thật là óng ánh, thiêng liêng, và hồng hào.

Nó “O.K” liến thoắng như cái kiểu Giôn Xơn cầm bút chì xanh đỏ mà lia lịa viết chữ “O kê” phê chuẩn vào các danh sách mục tiêu ném bom miền Bắc và Hải Phòng cùng là Hà Nội của các tướng viễn chinh Hoa Kỳ trình duyệt hàng đệp.

(Cho giặc Mỹ nó ăn một cái tết ta)

Hà Nội chưa hàn gắn xong tất cả vết thương do bom Mỹ gây ra ở nội thành trong hai ngày 13 và 14- 12- 66 gần đây nhất thì tất cả Hà Nội lại càng phẫn nộ vì Mỹ trắng trợn vi phạm vào cả Nô- en ngừng bắn.

Mỹ leo thang cả vào ngày riêng của Chúa. Giữa ngày 25 Nô- en mà Mỹ vẫn trắng

trợn xâm phạm bầu trời Hà Nội.

(Nô- en Mỹ) Cái trận đánh của Hà Nội đạt con số trên 200 chiếc được nêu ngay ở quanh Hồ Gươm, thượng ngay biển báo công ở các gốc sấu, biển nền đỏ tươi và con số “200” kẻ trắng đậm nét, thấy nó quý như một loại thượng hạng “Thăng Long” mới nhất- chất khói đậm đà gợi đến hương vị thâm thúy nhất của đất nước.

Đẩy cửa kính, đứng giữa buồng bệnh trắng lốp lặng tờ, mà cảm thấy như sắc của sự im lặng phải là một thứ màu gì trăng trắng. Trên giường sắt sơn trắng, trên đệm trắng của nhà thương, thẳng cẳng nằm dài một người cứng đờ cánh tay. Cánh tay phải giơ lên kia cũng trắng bệch, cứ giơ mãi như thế để tan loãng vào cái trắng nhờ của buồng bệnh thắp đèn hơi thủy ngân bóng hình ống. Giữa cái thế giới bệnh bạch lôm lốp ấy, lờ đờ một đôi mắt nhiều lòng trắng và rậm lông mày. Với một bộ râu xồm đen kịt.

Thật là một điều khá tội nghiệp cho một người đô đốc bố, khi mà trên cái kỳ hạm đô đốc kéo cờ đám ma to lại treo thêm mũ rơm gậy tre lên đầu đòn trục cần tàu Hoa Kỳ để thay cho thằng con bất hiếu là Mích Kên đang nằm ườn ra trên giường trắng kia kìa! Nó rít khói thuốc, cái tàn trắng dài ra gần một đốt tay mà chưa chịu gạt tàn. Chao ôi, giặc bay Hoa Kỳ đã chán ngấy Hà Nội quá lắm rồi – Hà Nội mà lưới lửa tên lửa mỗi lần thổi rồng lửa bay lên nền trời hanh xanh Thăng Long, lại hệt như hạ bút viết chữ tháu lá bùa thiêng khoanh đứng lại, và đốt luôn các thứ “con ma” “thần sấm”, lôi tuột xuống các thứ tướng úy tá quỷ sứ ma vương Hoa Kỳ.

Ở đấy rừng nhiều và xanh um, mặt rừng úp xuống đất nước ấy như thế nào, cái đó

hình như không quan trọng lắm bởi vì Kên chỉ thấy có cái chỏm cái gáy của giải rừng.

Viên quan tư tù Mỹ định đánh vỗ mặt vào ánh sáng Hà Nội, định tắt ngắm cả nguồn điện toàn thành Hà Nội đang nằm hít điếu thuốc mới, mặt trắng bệch, và sợi khói thuốc cứ dâng lên dưới ánh điện tỏa đều.

Chả rõ hung thần vừa thở khói vừa nghĩ gì trong đầu óc đen tối của nó, nhưng tôi

thì tôi biết những điều tôi đang nghĩ.

Đã có biết bao phi đội Hoa Kỳ lao chí mạng vào Hà Nội với kế hoạch đen tối đòi

dập tắt cho kỳ được cái ánh sáng truyền ra từ khu nhiệt điện Yên Phụ.

Đứng ở bờ đường bên hồ Trúc Bạch mà nhìn khu nhà máy đèn nóc xám tường xám, phố xám, ngói xám thấy đó như là người dũng sĩ da sắt xương thép dầy dạn trong khói lửa để giữ vững dòng điện cho ánh đèn Hà Nội “nghìn năm văn vật đất Thăng Long”. Người dũng sĩ nhiệt điện khoác một tấm áo xám tro nghi trang, tà áo tỏa ra đến sát hồ.

Tôi cho rằng anh đúng là một mẫu người Hoa Kỳ, theo cái nghĩa Hoa Kỳ là chúa

hay khôi hài một cách đen ngòm như thế.

Mùa đông năm 1967, da trời Hà Nội thấp thỏm xanh ngắt một niềm cảnh giác. Thế rồi trên con đê Thanh Trì của ngoại thành, in lên nền trời chiều dọc Sông Hồng, thấy một đoàn ô tô bọc sắt của đơn vị pháo di động đang ngếch nòng súng mà chuyển bánh, trên nòng mỗi cỗ pháo lại hồng tươi một lẵng hoa.

Ngày xưa chưa làm ra giấy bản, thì người phương đông khắc vào cật tre xanh, và

viết lên mình lụa trắng tiếng thơm việc tốt nào mình cho là nên lưu truyền lại đời sau.

Bởi vì sau đó, trong một tình hình Hà Nội quyết tâm diệt Mỹ tại chỗ- ngay trên cái

vòm trời xanh cao úp đúng lên đỉnh đầu mình- thì các em cũng được đi sơ tán luôn nữa.

(Đèn điện phố phường Hà Nội vui sáng hơn bất cứ lúc nào)

Tây mũ đỏ và Trung đoàn thủ đô quần nhau mấy tháng, hoa ngoại thành không

vào lọt được.

Ba quần ka- ki rêu, ba áo dệt kim lam, ba va-rơ bông, lần ngoài bọc ka- ki Nam

Định nhuộm xanh công nhân. Ba đôi giày da lộn có cổ, màu đất thó.

Chợ chiều ba mươi Tết thỉnh thoảng đợt gió nồm lùa vào phố hoa mận trắng đào

hồng cành đã mãn khai đổ xuống hàng trận mưa, cánh hồng cành trắng nhè nhẹ reo.

Ba người phi công Mỹ tử tù hút chết đó, trong đêm xuân Hà Nội thao thức chờ buổi cất cánh từ giã Bắc Việt Nam khoan hồng, họ đã có những gì xảy ra thêm trong đầu họ khi họ được nghe bản tin tiếng Anh của các hãng Roi Tơ, A Pi, U Pi phản ánh nóng hổi về những đêm xuân lửa Sài Gòn?

Hôm nay, trên nước Hoa Kỳ quê hương họ đang sục sôi Mỹ chống Mỹ, ba người sĩ quan tàu bay Hoa Kỳ tốt số được thác sinh giữa một chợ hoa Hà Nội khoan hồng, ba người phi công Hoa Kỳ đã từng tham chiến tại Việt Nam đó hiện đang làm gì, đang hô gì, đang nghĩ gì?

Tất cả lá xanh cánh đỏ tất cả lộc non lộc già, tất cả hoa đóa hoa chùm, tất cả đang

trông chờ một bậc “Vũ trang tùy bút” thứ hai nào hiện ra giữa Tết năm tới…

Đào vào Hàng Đào gợi thêm cái náo nhiệt xưa của Hàng Đào chuyên nhuộm tơ lụa óng lên một màu điều đỏ phấn hồng. Nách ngõ Tô Lịch khắc dấu gỗ và tiên quân cờ ngà voi sừng trâu, nổi lên những cột khói xanh béo ngậy của những hàng bún chả.

Bí mứt lại được mùa, trong chợ Đồng Xuân dùng làm kho, thông mấy gian đầy ắp

bí bự phấn trắng, khối trái bí nặng tới ba chục cân.

Trái với những bầu trời giao thừa cổ điển bao giờ đêm tận cùng năm cũng phải

đen ròn tan đi, đêm giao thừa đón xuân Mậu Thân trời đầy sao nhấp nháy.

Trên nắp hầm lấp ló áo xanh đỏ, vẫn nhô nhô cái mũ rơm thường ngày chống bom bi.

(Có ba phi công Mỹ đi bộ trong chợ hoa sơ tán)

Trong pháo rền, có những quả đùng lên giọng một cách thật là cao cả. Trên trời có

đám mây vàng.

Tên lửa nổi đám mây vàng làm nổ tan hàng chùm giặc, giặc rụng lả tả xuống như

một cơn mưa đá.

Trắng tròn như hạt nếp hạt dẻ đầu mùa, hoa sấu kéo dài con đường hoa nhiều

quãng cộm hẳn lên như có gạo nào của khu phố bung vãi ra.

(Hà Nội ta đánh Mỹ giỏi) Và chép miệng mà thấy rằng cũng chỉ có ở Huế đó, thì muối trắng mới đủ mùi đủ

màu như vậy, thì sự túng bấn mới đượm mùi trang trọng tinh tế như vậy thôi.

[…] Súng nổ mở cổng thành và sáu nhịp cầu Tràng Tiền rạng dần lên như ba cặp

lông mày trắng thần lãng mạn nào đang soi mặt vào sòng mỏi.

Đỏ ối mặt sông Hương. Những luồng cầu di động sông Hương đang rực cháy cả

hai bờ, lại càng nóng sôi lên vì cờ huyết.

Trời màu ghi của xuân Huế càng lúc càng đứng bóng, càng làm tôn màu cờ trên kì

đài.

Trên mặt thành tuy đã đủ cao để thấy cờ của mình, nhiều người vẫn cứ kiễng cả hai chân lên, áo quần bữa đó thôi thôi đủ sắc. Màu rêu màu cỏ chiến đấu, màu xanh công nhân, màu nâu màu đà. Và nhân dân dịp Tết ai có chi mặc nấy, kéo nhau đi xem cờ với quần áo đủ các màu tàn nhang, màu khói hương, sắc lam chim trả, xanh cốm, tím than, tím hường, quan lục, hỏa hoàng […], hồi ba giờ chiều mười lăm vạn nhân dân mít tinh ở bên sân vận động, và cờ đỏ sao vàng cắm trên cũng cái kì đài Ngọ Môn đó nọ. Mỹ đã phân công cho ngụy đi phá cỗ, nhưng cả đám tiểu đoàn “Cọp đen” ác ôn đó

đều tụt lại, như muốn nhường cái “vinh dự” đó cho các đơn vị quan thầy Mỹ.

Trên vườn chuối thành nội, chuối khu Lục Bộ Tam Tòa đã cháy khô vì lửa trận, mà cái gì xanh lè nhất chỗ khu vườn chuối đó lại là bom đạn lân tinh Mỹ quăng vào hàng đống.

Nhưng hôm bắt đầu ngừng bắn 7 ngày dịp Tết năm Mùi đó, nhân dân phớt tỉnh ác

ôn, cứ qua đò mà đi miết lên phía chiến khu xanh rì lá mù u.

Rừng mù u của Thừa Thiên thượng du rực xanh hơn cả màu xanh của hi vọng. Từ đó mù u kéo qua Thừa Thiên, qua Huế, kéo vô Ninh, Khánh, Thuận, Khu Sáu,

và cái xanh rì cả Bắc lẫn Nam đó kéo thấu vào tới Sài Gòn Chợ Lớn.

Chao ôi, trước đây khoảng một thế kỷ, trái mù u “xứ Huế xanh xanh đường vô”

đã chống Pháp cùng với nông dân Thừa Thiên và nhà nho đất Kinh.

Cũng là cách nghĩ hồn nhiên đó, những người yêu nước ở miền Bắc và ở Hà Nội,

cũng đã tung ra đường cái không biết cơ man nào là ổi xanh và ống dang.

Cái màu xanh bết lại của mù u thì người ta cho là nó còn xanh một cách chưa

thuần hóa, nó cứ xanh một cách đại ngàn nguyên thủy như vậy.

Hãng Roi- tơ của Anh bình: “Đây là ngày đen tối nhất của lịch sử cái sư đoàn giỏi

nhất nước Mỹ”.

Từ A Sầu mù u xanh rì về tới Huế thì hình như mất vài ngày đường.

(Nhớ Huế)

Trên bàn thờ Tổ quốc nghi ngút khói mừng công, đào phai chưa nhạt thắm, và mai

trắng Hà Nội đang giao cành với hoàng mai của tất cả miền Nam rộn xuân.

Đêm xuân bên kia đại dương Thái Bình, Nhà Trắng chốc thành ra nhà xám, xám

xịt.

Giôn Xơn vẫn tiêm bơm các thứ thuốc tân kỳ để tiếp tục những đêm trắng Nhà

Xám, để mật điện mà nổi khùng với quan văn quan võ nó tại miền Nam Việt Nam.

Cờ đỏ xanh sao vàng vẫn phấp phới trên kỳ đài thành Huế, và lửa đạn vẫn liên

tiếp cháy nổ giữa Sài Gòn Chợ Lớn.

(Sài Gòn tống Mỹ)

PHỤ LỤC 7

DANH SÁCH CÁC ĐƠN VỊ THÀNH NGỮ TIẾNG VIỆT

CÓ CHỨA TỪ CHỈ MÀU SẮC

1. Ăn trơn mặc trắng (Ăn trắng 16. Dân ngu khu đen

17. Đá nát vàng phai (Nát đá phai mặc trơn)

2. Ăn vàng ăn bạc vàng)

3. Bạc như vôi 18. Đãi cát tìm vàng

4. Bia đá bảng vàng (Bảng vàng 19. Đánh lận con đen (Nhập nhằng

bia đá) đánh lận con đen)

5. Bật đèn xanh 20. Đắt như vàng

6. Bể bạc rừng vàng (Rừng vàng 21. Đầu bạc răng long (Đầu râu tóc

bể bạc) bạc)

7. Bôi son trát phấn (Tô son điểm 22. Đầu đen máu đỏ (Máu đỏ đầu

phấn, Điểm phấn tô hồng, đen)

Điểm phấn tô son, Tô son trát 23. Đầu xanh tuổi trẻ

phấn, Tô son vẽ phấn)) 24. Đen như bồ hóng

8. Bầm gan tím ruột 25. Đen như cột nhà cháy

9. Cá vàng bụng bọ 26. Đen như củ súng

10. Chén ngọc đũa ngà 27. Đen như củ tam thất

28. Đen như cuốc 11. Chùa rách phật vàng (Chùa đất

29. Đen như lòng chảo phật vàng, chùa rách bụt vàng,)

30. Đen như mực (Tàu) 12. Chọn đá thử vàng

31. Đen như quạ 13. Chọn mặt gửi vàng

32. Đen như than 14. Cơn đen vận túng

33. Đen như tượng đồng 15. Cửa tía lầu son (lầu son gác

34. Đỏ da thắm thịt tía)

56. Lầu hồng gác tía (Cửa tía lầu 35. Đỏ lòng xanh vỏ (Xanh vỏ đỏ

son, Lầu son gác tía) lòng)

57. Lo bò trắng răng 36. Đỏ mặt tía tai (Mặt đỏ tía tai)

58. Lòng son dạ sắt ( Lòng son dạ 37. Đỏ như đồng hun

đá, Gan sắt lòng son) 38. Đỏ như đồng tụ

59. Lòng vàng dạ ngọc 39. Đỏ như máu

60. Lời vàng ý ngọc 40. Đỏ như râu ngô

61. Má đào mày liễu 41. Đỏ như son

62. Má hồng răng đen 42. Đổi trắng thay đen (Thay đen

đổi trắng) 63. Má phấn môi son (Môi son má

43. Gan vàng dạ ngọc (Dạ đá gan phấn)

vàng, Dạ ngọc gan vàng, Gan 64. Mắt đỏ như mắt cá chày

vàng dạ sắt, Dạ sắt gan vàng) 65. Mắt đỏ như miếng tiết

44. Gạo trắng nước trong 66. Mắt xanh mỏ đỏ

45. Giày tía vò hồng 67. Mặt đỏ như đồng tụ

46. Giấy trắng mực đen 68. Mặt đỏ như gà chọi

47. Hai bàn tay trắng 69. Mặt đỏ như gạch cua nướng

48. Hiếm như vàng 70. Mặt đỏ như gấc (chín)

49. Ho ra bạc khạc ra tiền 71. Mặt đỏ như mặt trời

50. Khỉ chê khỉ đỏ đít 72. Mặt đỏ như quan công

51. Khuôn vàng thước ngọc 73. Mặt đỏ như vang

52. Lá ngọc cành vàng (Cành vàng 74. Rừng xanh núi đỏ

lá ngọc) 75. Xanh vỏ đỏ lòng

53. Lá thắm chỉ hồng

54. Lấm lưng trắng bụng

55. Lập lờ đánh lận con đen (Nhập

nhằng đánh lận con đen)

PHỤ LỤC 8 DANH SÁCH NHỮNG ĐƠN VỊ THÀNH NGỮ TIẾNG ANH CÓ CHỨA TỪ NGỮ CHỈ MÀU SẮC

1. A black day: ngày đen tối, ngày không may mắn. 2. A black look: cái nhìn giận dữ. 3. A black list: danh sách đen. 4. A black mark: vết nhơ. 5. A blue-eyed boy: con cầu con khẩn. 6. A blue-collar worker/job: lao động chân tay. 7. A boil from the blue: tin sét đánh. 8. A green belt: vành đai xanh. 9. A red herring: đánh trống lãng 10. A red letter day: ngày vui vẻ, ngày lễ. 11. A purple passage in a book: đoạn văn hoa mỹ 12. A white-collar worker/job: công chức, làm việc văn phòng. 13. A whited sepulchre: kẻ đạo đức giả 14. Be as green as grass: chưa có kinh nghiệm, còn non nớt 15. Be green: còn non nớt, chưa có kinh nghiệm 16. Be / (go / turn) as red as a beetroot: đỏ như gấc (vì ngượng) 17. Be yellow: hèn nhát 18. Beet red: thẹn thùng 19. Beyond the black stump: vẫn còn tiến xa hơn nữa 20. Black and blue: bị bầm tím 21. Black and white: mọi sự rõ ràng, đầy đủ chứng cứ 22. Black ice: băng đen 23. Black hole: lỗ đen 24. Black sheep: đứa con bị bỏ rơi 25. Blackball: phiếu đen (phiếu chống trong cuộc bỏ phiếu) 26. Back leg: kẻ phản bội 27. Black out: tình trạng mất ý thức tạm thời 28. Blue blood: dòng dõi hoàng tộc 29. Boys in blue: cảnh sát 30. Browned off: chán ngấy 31. Catch someone red-handed: bắt quả tang 32. Disapear/vanish/go off into the blue: biến mất tiêu 33. Feeling blue: cảm thấy buồn chán. 34. Grass is always greener on the other side: đứng núi này trông núi nọ. 35. Go blue: phớt lờ 36. Go/turn grey: đầu hai thứ tóc (dấu hiệu tuổi già) 37. Green around the gills: trông bệnh hoạn. 38. Green fingers: người làm vườn giỏi 39. Green light: cho phép ai làm điều gì.

40. Green room: phòng chờ đợi của diễn viên trong nhà hát. 41. Green thumb: người làm vườn giỏi 42. Green with envy: ganh tỵ 43. Green-eyed monster: thói ganh tỵ 44. Green horn: người dễ bị lừa gạt 45. Grey area: mập mờ, chưa rõ đúng, sai 46. Grey Cardinal: người chi phối ở hậu trường 47. Grey eminence : kẻ tâm phúc, mưu sĩ 48. Grey matter: chất xám, trí tuệ 49. Grey pound: khả năng kinh tế của người cao tuổi 50. Have the blues: cảm giác buồn chán 51. Hot as blue blazes: sự nhiệt tình 52. In the black mood: tâm trạng giận dữ 53. In the black: có tiền trong ngân hàng 54. In the black books: bị ai ghét bỏ 55. In the green: còn trẻ, ít kinh nghiệm 56. In the pink: tình trạng sung sức 57. In the red: thiếu nợ ngân hàng 58. Jet-black (As black as jet): đen nhánh, đen như hạt huyền 59. Not a red cent: không còn một xu. 60. Like white on rice (US): rất rần gũi, thân mật 61. Once in a blue moon: hiếm khi, thỉnh thoảng 62. Out of the blue: đột nhiên 63. Paint the town red: ăn chơi thả cửa 64. Pink slip: thư xin nghỉ việc 65. Put more green into something: tiêu xài nhiều hoặc tăng cường đầu tư vốn 66. Red- dog: tiền vệ đội bóng 67. Red eye: chuyến bay cất cánh lúc nửa đêm 68. Red ink: sự thua lỗ 69. Red light district: khu kinh doanh mại dâm 70. Red mist: giận dữ quá mức, không còn tự chủ 71. Red- necked: giận dữ; độc ác 72. Red rag to a bull: chọc giận ai đó 73. Red tape: thói quan liêu 74. Reds under the bed: cách nói mỉa mai về âm mưu của cuộc cách mạng 75. Red hands: những bàn tay đẫm máu 76. Red battle: cuộc huyết chiến, chiến đấu ác liệt 77. Red in tooth and claw: giận điên người 78. Roll out the red carpet: đón chào nồng nhiệt 79. See red: nổi giận bừng bừng. 80. Talk a blue streak: thao thao bất tuyệt

81. The pot calls the kettle black: nồi chê ấm đen (tương đương: lươn ngắn chê lịch

dài)

82. The pink of health: tình trạng sung sức nhất 83. The brown: bầy chim đang bay 84. Thin blue line: được dùng chỉ cảnh sát khi ở tình trạng giữa sự kỷ luật và lộn xộn 85. Tickled pink: làm hài lòng. 86. Till you're blue in the face: nói hết lời 87. To be as white as a sheet : xanh như tàu lá 88. To cast a yellow look at: nhìn ai bằng con mắt ghen ghét 89. To fire into the brown: bắn vào đám đông 90. To be purple with rage: giận đỏ mặt tía tai 91. To be born to the purple: được tôn làm giáo chủ 92. To be born of the purple: dòng dõi vương giả 93. To have white hands: người trong sạch, vô tội 94. To turn (go) white: tái nhợt đi 95. To bleed white: bòn rút của cải 96. To cast a yellow look at: nhìn bằng con mắt ghen ghét 97. To cry blue murder: la ó om sòm 98. True blue: trung thành, người trung thành 99. Walk the green mile: điều không thể tránh khỏi 100. White feather: tính hèn nhát 101. White hope: người đem đến hi vọng cho đội, cho phòng,… 102. White lie: lời nói dối vô hại. 103. White livered: người hèn nhát 104. White room: căn phòng sạch sẽ 105. Work like a black: làm việc rất vất vả 106. Whiter than white: tính trung thực 107. White wash: thắng trắng, thắng lớn 108. Yellow press: báo lá cải 109. Yellow streak: tính cách nhút nhát 110. Yellow-bellied: người hèn nhát 111. Yellow dog: người đê tiện, người đáng khinh 112. Yellow-dog fund: quỹ đen, quỹ bí mật