BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC VĂN HÓA HÀ NỘI

BÙI THỊ NGỌC DIỆP BẢO VỆ VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ DI TÍCH ĐÌNH ĐẠI

PHÙNG

(XÃ ĐAN PHƯỢNG, HUYỆN ĐAN PHƯỢNG,

THÀNH PHỐ HÀ NỘI)

LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ VĂN HÓA

HÀ NỘI - 2025

BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC VĂN HÓA HÀ NỘI

BÙI THỊ NGỌC DIỆP BẢO VỆ VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ DI TÍCH ĐÌNH ĐẠI PHÙNG (XÃ ĐAN PHƯỢNG, HUYỆN ĐAN PHƯỢNG, THÀNH PHỐ HÀ NỘI)

Chuyên ngành: Quản lý văn hóa

Mã số:

8229042

LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ VĂN HÓA

Người hướng dẫn khoa học: TS. TRẦN ĐỨC NGUYÊN

TS. NGUYỄN VIẾT CƯỜNG

HÀ NỘI - 2025

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan: Luận văn Bảo vệ và phát huy giá trị di tích đình Đại

Phùng (xã Đan Phượng, huyện Đan Phượng, thành phố Hà Nội) là công trình

nghiên cứu của tôi dưới sự hướng dẫn khoa học của TS. Trần Đức Nguyên và TS.

Nguyễn Viết Cường. Nội dung luận văn là kết quả nghiên cứu của tôi, đảm bảo

trung thực và chưa từng được công bố dưới bất kỳ hình thức nào. Việc sử dụng kết

quả nghiên cứu của người khác đều được trích dẫn và ghi rõ nguồn theo quy định.

Tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm về sự cam đoan này.

Hà Nội, ngày tháng năm 2025

Tác giả luận văn

Bùi Thị Ngọc Diệp

MỤC LỤC

1.1.1. Các khái niệm cơ bản 1.1.2. Nguyên tắc bảo vệ và phát huy giá trị di tích lịch sử - văn hóa 1.1.3. Nội dung bảo vệ và phát huy giá trị di tích lịch sử - văn hóa 1.1.4. Vai trò của bảo vệ và phát huy giá trị di tích lịch sử - văn hóa

1.2. Cơ sở pháp lý về bảo vệ và phát huy giá trị di tích lịch sử - văn hóa 1.3. Tổng quan về di tích lịch sử - văn hóa đình Đại Phùng

1.3.1. Vài nét về huyện Đan Phượng 1.3.2. Khái quát về di tích đình Đại Phùng

Tiểu kết Chương 1

2.2. Hoạt động bảo vệ di tích đình Đại Phùng

2.2.1. Nghiên cứu về di tích 2.2.2. Kiểm kê, tư liệu hóa 2.2.3. Lập hồ sơ khoa học, xếp hạng di tích 2.2.4. Tu bổ, tôn tạo di tích

LỜI CAM ĐOAN MỤC LỤC DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT MỞ ĐẦU 1 Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO VỆ VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ DI TÍCH LỊCH SỬ - VĂN HÓA VÀ TỔNG QUAN VỀ DI TÍCH ĐÌNH 9 ĐẠI PHÙNG 1.1. Một số vấn đề lý luận về bảo vệ và phát huy giá trị di tích lịch sử - văn 9 hóa 9 14 15 20 20 23 23 28 39 Chương 2: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG BẢO VỆ VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ 40 DI TÍCH ĐÌNH ĐẠI PHÙNG 2.1. Các chủ thể tham gia hoạt động bảo vệ và phát huy giá trị di tích đình 40 Đại Phùng 40 2.1.1. Các chủ thể gián tiếp tham gia 48 2.1.2. Các chủ thể trực tiếp tham gia 2.1.3. Cơ chế phối hợp giữa các chủ thể quản lý 50 2.1.4. Vai trò của cộng đồng dân cư trong hoạt động bảo vệ và phát huy giá trị 52 di tích đình Đại Phùng 55 55 57 59 60 64 2.3. Hoạt động phát huy giá trị di tích đình Đại Phùng

2.4. Đánh giá chung 2.4.1. Ưu điểm 2.4.2. Hạn chế 2.4.3. Nguyên nhân

Tiểu kết Chương 2

Tiểu kết Chương 3

2.3.1. Hướng dẫn tham quan tại di tích 65 2.3.2. Tuyên truyền, quảng bá về di tích trên các phương tiện truyền thông đại chúng 66 2.3.3. Xuất bản sách, viết bài về di tích trên các tạp chí khoa học chuyên ngành 68 2.3.4. Tổ chức khai thác, phát huy giá trị di tích gắn với phát triển du lịch địa 69 phương, giáo dục học đường 72 72 74 75 77 Chương 3: GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG BẢO VỆ VÀ 78 PHÁT HUY GIÁ TRỊ DI TÍCH ĐÌNH ĐẠI PHÙNG 78 3.1. Những căn cứ để xác định giải pháp 78 3.1.1. Quan điểm của Đảng và Nhà nước 83 3.1.2. Định hướng của thành phố Hà Nội 86 3.1.3. Phương hướng của huyện Đan Phượng 3.1.4. Kinh nghiệm bảo vệ và phát huy giá trị các di tích quốc gia đặc biệt trên 88 địa bàn thành phố Hà Nội 3.2. Các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động bảo vệ và phát huy giá 91 trị di tích đình Đại Phùng 3.2.1. Nâng cao chất lượng hoạt động bảo vệ, bảo quản, tu bổ, tôn tạo di tích 91 3.2.2. Tăng cường nguồn lực trong việc bảo vệ, phát huy giá trị di tích 95 3.2.3. Nâng cao vai trò của cộng đồng trong việc bảo vệ, phát huy giá trị di tích 100 3.2.4. Bảo vệ, phát huy giá trị của di tích gắn với phát triển du lịch bền vững 103 3.2.5. Gắn kết di tích với phát triển kinh tế - xã hội, cộng đồng dân cư địa phương 107 3.2.6. Tăng cường việc kiểm tra, giám sát của các bên để kịp thời phát hiện các 109 vi phạm 111 113 115 KẾT LUẬN TÀI LIỆU THAM KHẢO

120

PHỤ LỤC

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

Chữ viết tắt Chữ viết đầy đủ

CNXH Chủ nghĩa xã hội

CNH - HĐH Công nghiệp hóa - Hiện đại hóa

GS Giáo sư

HĐND Hội đồng nhân dân

KT - XH Kinh tế - Xã hội

LSVH Lịch sử - văn hoá

Nxb Nhà xuất bản

PGS.TS Phó giáo sư, Tiến sĩ

TW Trung ương

tr. Trang

UBND Ủy ban nhân dân

VH & TT Văn hóa và thể thao

VHTTDL Văn hoá, Thể thao và Du lịch

XHCN Xã hội chủ nghĩa

1

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Di sản văn hóa Việt Nam được coi là tài sản quý giá của dân tộc Việt Nam và

là một bộ phận của DSVH nhân loại. Trong đó, di tích lịch sử - văn hóa là một bộ

phận quan trọng của DSVH dân tộc, chứa đựng những giá trị tinh thần và vật chất

quý báu của các thế hệ trước, đóng vai trò quan trọng trong việc giáo dục lịch sử và

tinh thần yêu nước cho thế hệ trẻ. Trong dòng chảy văn hóa Việt Nam, đình làng

không chỉ là một thiết chế văn hóa vật chất mà còn là biểu tượng tinh thần, là nơi

lưu giữ ký ức cộng đồng, phản ánh sinh động đời sống văn hóa, tín ngưỡng, tâm

linh của người dân qua bao thế hệ. Đình làng không chỉ là nơi thờ phụng các vị

thần, các vị anh hùng dân tộc, mà còn là trung tâm sinh hoạt văn hóa cộng đồng, nơi

diễn ra các lễ hội truyền thống, các hoạt động văn hóa, nghệ thuật dân gian, vừa đáp

ứng yêu cầu của các hoạt động tín ngưỡng, vừa đáp ứng nhu cầu hưởng thụ văn hóa

tinh thần của người dân.

Đình Đại Phùng thuộc thôn Đại Phùng, xã Đan Phượng, huyện Đan Phượng,

thành phố Hà Nội là một trong những di tích lịch sử - văn hóa tiêu biểu của huyện

Đan Phượng và của xứ Đoài. Đình được xây dựng vào khoảng thế kỷ XVII (thời

Hậu Lê), mang đậm dấu ấn kiến trúc và nghệ thuật của thời kỳ này. Với những giá

trị lịch sử, văn hóa, nghệ thuật đặc sắc, di tích kiến trúc nghệ thuật đình Đại Phùng

đã được Bộ Văn hóa - Thông tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) xếp hạng

di tích quốc gia năm 1990 và được Thủ tướng Chính phủ xếp hạng di tích quốc gia

đặc biệt năm 2019.

Trong những năm qua, đình Đại Phùng đã được sự quan tâm của các cấp

chính quyền, của cộng đồng nhân dân, nhất là của người dân làng Đại Phùng trong

việc bảo vệ và phát huy giá trị của di sản văn hóa tiêu biểu này. Việc nghiên cứu,

tiến hành các hoạt động nhằm gìn giữ công trình kiến trúc cùng hệ thống các di vật,

cổ vật tại di tích được tiến hành thường xuyên đã phần nào chống lại được một số

nguy cơ gây hại. Di tích cũng luôn có sự quản lý, chăm nom, đồng thời đón tiếp du

khách trong vùng đến tham quan, chiêm bái. Lễ hội cùng các nghi thức, nghi lễ tại

đình cũng được giữ gìn, tổ chức đáp ứng được các nhu cầu của người dân…. Tuy

nhiên, cũng có thể thấy, trong bối cảnh phát triển hiện nay, hoạt động bảo vệ và phát

2

huy giá trị của di tích cũng còn bộc lộ nhiều hạn chế, bất cập như di tích vẫn bị

xuống cấp, nhiều cấu kiện của di tích bị ngấm nước mưa, nguy cơ mục mọt nấm

mốc xuất hiện. Nhiều mảng chạm khắc, cấu trúc gỗ, đá đã bị mòn, mục, gãy, nứt,

thậm chí có những chi tiết kiến trúc nay đã không còn giữ được, di tích chưa được

chú trọng đầu tư, tôn tạo một cách hợp lý, khoa học. Việc phát huy giá trị của di tích

cũng khá manh mún, chưa có kế hoạch, chưa thu hút được sự quan tâm của cộng

đồng từ các nơi, chưa gắn với xu hướng công nghiệp văn hóa hiện nay của toàn

thành phố... Chính vì vậy, cần thiết phải có những giải pháp phù hợp để có thể bảo

vệ được di tích đồng thời khai thác giá trị đó một cách hợp lý trong bối cảnh hiện

nay.

Xuất phát từ thực trạng nêu trên, học viên lựa chọn nghiên cứu đề tài “Bảo vệ

và phát huy giá trị di tích đình Đại Phùng (xã Đan Phượng, huyện Đan Phượng,

thành phố Hà Nội)” để làm đề tài cho luận văn tốt nghiệp thạc sĩ Quản lý văn hóa.

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài

Trong những năm gần đây, các đề tài nghiên cứu về bảo vệ và phát huy giá trị

di tích lịch sử văn hóa đã được rất nhiều tác giả, nhà nghiên cứu quan tâm, nhưng cụ

thể tại di tích lịch sử - văn hóa đình Đại Phùng thì chưa có công trình nghiên cứu

một cách toàn diện về công tác bảo vệ và phát huy giá trị di tích lịch sử - văn hóa

đình Đại Phùng, nhất là trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa của đất nước

đang diễn ra nhanh chóng, làm biến đổi và tác động rõ nét đến di tích lịch sử văn

hóa.

Công trình nghiên cứu của học viên dựa trên các nguồn tài liệu tham khảo,

các công trình nghiên cứu của các tác giả đi trước cùng với các tư liệu còn lưu lại

làm cơ sở cho học viên thực hiện luận văn này. Học viên đã tổng quan một số công

trình nghiên cứu tiêu biểu dưới đây:

2.1. Các nghiên cứu về bảo vệ và phát huy giá trị di tích lịch sử - văn hóa

Trong công trình “Quản lý Di sản văn hóa và thiên nhiên thế giới ở Việt Nam

theo Công ước Di sản Thế giới”, tác giả Nguyễn Viết Cường phân tích đã nghiên

cứu các quy định của UNESCO tại Công ước 1972 và Hướng dẫn thực hiện Công

ước 1972, qua đó tạo cơ sở pháp lý đầy đủ cho công tác quản lý, bảo vệ và phát huy

3

giá trị Di sản thế giới ở Việt Nam, đảm bảo phù hợp với điều kiện thực tiễn trong

nước [12].

Tác giả Lưu Trần Tiêu trong bài viết “Bảo tồn và phát huy di sản văn hóa

Việt Nam” [50] cho rằng việc bảo vệ di tích cần tập trung vào ba vấn đề chính, đó là

công nhận và xếp hạng cho di tích, quản lý cổ vật và phân cấp quản lý nhà nước về

di tích. Trong bài viết “Mấy vấn đề về nguồn nhân lực trong hoạt động bảo tồn di

tích lịch sử - văn hóa”, tác giả cũng đã chỉ ra rằng nguồn nhân lực bảo tồn di tích ở

Việt Nam còn thiếu chuyên môn và tính chuyên nghiệp, do đó cần có đổi mới đột

phá trong quản lý, tổ chức đào tạo nhằm xây dựng và phát triển nguồn nhân lực bảo

tồn di tích [51].

Một số bài viết nghiên cứu của tác giả Đặng Văn Bài đã tiếp cận thực trạng

bảo tồn, tu bổ, tôn tạo di tích trong quá trình phát triển. Trong bài viết “Tiếp cận

thực trạng công tác bảo vệ và phát huy giá trị di tích theo tinh thần của Luật Di sản

văn hóa” tác giả cho rằng vai trò của di sản văn hóa nói chung trong phát triển bền

vững chưa được nhìn nhận một cách toàn diện [3].Trong bài viết “Tu bổ, tôn tạo các

di tích lịch sử - văn hóa là hoạt động có tính chất đặc thù chuyên ngành” ông cho

rằng hoạt động quản lý các dự án tu bổ di tích không chỉ đơn giản là khôi phục lại

như mới một công trình kiến trúc cổ truyền, mà là sự tổng hợp của nhiều mặt hoạt

động phức tạp như nghiên cứu, sáng tạo nghệ thuật và khâu tổ chức thi công. Vì

vậy, công tác quản lý hoạt động tu bổ, tôn tạo, chống xuống cấp di tích phải tuân thủ

Luật Di sản văn hoá, đặc biệt chú trọng đến việc giữ lại tối đa những yếu tố nguyên

gốc của di tích trong quá trình tổ chức thi công [4].

Trong bài viết “Tầm nhìn tương lai đối với di sản văn hóa và hệ thống bảo vệ

di tích ở nước ta” đăng trong Tạp chí Di sản số 9-2011, tổng kết từ thực tiễn quản

lý, tác giả Nguyễn Quốc Hùng đã đưa ra những nguy cơ đe dọa đến công tác bảo

tồn và phát huy giá trị di sản, những biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác

quản lý DSVH [22]. Tác giả nhấn mạnh vai trò then chốt của cộng đồng trong việc

gìn giữ và phát huy di sản, coi cộng đồng là chủ thể sáng tạo và truyền giữ văn hóa

dân tộc. Trong bài viết “Tu bổ tôn tạo di tích - lý luận và thực tiễn” ông chỉ ra

những hạn chế về nhân lực kỹ thuật trong tu bổ di tích, sự thiếu hụt đào tạo bài bản

4

và sự bất cập trong việc áp dụng lý luận quốc tế vào điều kiện thực tế của di sản

Việt Nam [23].

Trong bài viết “Đôi điều về tu bổ di tích tín ngưỡng – tôn giáo”, tác giả Trong

bài viết “Đôi điều về tu bổ di tích tín ngưỡng – tôn giáo”, tác giả Nguyễn Thế Hùng

đã chỉ ra những vấn đề cấp thiết trong công tác tu bổ di tích hiện nay, đặc biệt là

tình trạng phân tán nguồn lực và sự thiếu phối hợp giữa các tổ chức quần chúng và

cơ quan bảo tồn địa phương. Theo tác giả, để nâng cao hiệu quả bảo tồn, cần sớm

ban hành các cơ chế, chính sách phù hợp nhằm thu hút nguồn lực xã hội tham gia

vào quá trình bảo vệ và phát huy giá trị di tích. Bên cạnh đó, công tác tu bổ phải

đảm bảo tuân thủ các quy định về bảo quản, tu bổ, và phục hồi di tích [24].

Trong bài viết “Phát huy giá trị di tích phục vụ sự nghiệp bảo vệ, xây dựng

và phát triển đất nước” [25] tác giả Nguyễn Thế Hùng nhận định rằng mặc dù nhận

thức xã hội về vai trò của di tích đã có những chuyển biến tích cực, song thực tế vẫn

còn tồn tại nhiều hạn chế. Nhiều di tích đang xuống cấp nghiêm trọng, đồng thời,

tác giả cũng đề xuất giải pháp để phát huy giá trị di tích một cách bền vững và có

chiều sâu.

Tác giả Nguyễn Anh Tuấn (2015) trong bài viết “Bảo tồn và phát huy giá trị

di tích” đăng trong Tạp chí Du lịch Việt Nam số 6 cũng đề cập đến vai trò cũng như

các biện pháp để bảo tồn và phát huy giá trị di tích tại Việt Nam.

2.2. Các nghiên cứu về quản lý, bảo vệ và phát huy giá trị di tích địa bàn

thành phố Hà Nội và huyện Đan Phượng

Trong bài viết “Di sản văn hóa Hà Nội - Một nguồn lực cho phát triển bền

vững”[52],tác giả Lưu Trần Tiêu đã giới thiệu các loại hình di sản, giá trị của di sản

cùng các giải pháp bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa tại Hà Nội, đồng thời

tác giả cũng đưa ra phương hướng tiếp cận về phát triển bền vững trong hoạt động

bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa. Trong bài viết “Bảo tồn di sản văn hóa ở

Hà Nội - Nhìn từ các công ước của UNESCO” [5], tác giả Đặng Văn Bài đã trên cơ

sở công ước của UNESCO đưa ra những quan điểm và phương pháp tiếp cận cũng

như cách thức bảo tồn di sản văn hóa gắn với phát triển du lịch bền vững đối với

các di sản văn hóa tại thành phố Hà Nội. Với bài viết “Tổng quan về di tích Thủ đô

dưới góc nhìn quản lý di sản văn hóa” [18], tác giả Tô Văn Động đã khái quát

5

những vấn đề về thực trạng các di tích của Hà Nội hiện nay, những khó khăn, hạn

chế trong công tác quản lý di tích của thành phố, từ đó đưa ra những giải pháp, định

hướng để khắc phục. Tại bài viết “Tăng cường quản lý nhà nước và phân cấp quản

lý có hiệu quả các di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh Hà Nội” [49], tác

giả Trương Minh Tiến đã thống kê số lượng di tích hiện đang có tại Hà Nội, qua đó

đưa ra vấn đề về phân cấp quản lý di tích, làm rõ trách nhiệm và sự phối hợp trong

công tác quản lý, phát huy giá trị di tích lịch sử - văn hóa, nâng cao vai trò, trách

nhiệm của các cấp, các ngành, các tổ chức, cá nhân trong việc bảo vệ, tuyên truyền,

phát huy di tích.

Trong bài viết “Tăng cường sự lãnh đạo của cấp ủy đảng các cấp trong công

tác bảo vệ và phát huy giá trị các di tích lịch sử - văn hóa thủ đô” [13] tác giả Đào

Xuân Dũng đưa ra các quan điểm về tầm quan trọng của các cấp quản lý trong công

tác bảo vệ và phát huy giá trị của các di tích lịch sử - văn hóa trên địa bàn thủ đô.

Tại bài viết “Quản lý, bảo tồn và phát huy giá trị các di tích quốc gia đặc biệt trên

địa bàn Hà Nội” [26], tác giả Nguyễn Thế Hùng đã trình bày đặc điểm hệ thống di

tích quốc gia đặc biệt trên địa bàn Hà Nội, các hạn chế và khó khăn trong công tác

bảo tồn và phát huy giá trị di tích quốc gia đặc biệt trên địa bàn Thủ đô, đồng thời

cũng đề xuất một số giải pháp để bảo tồn và phát huy giá trị của các DSVH vật thể

của Thủ đô.

2.3. Các nghiên cứu về giá trị di tích đình Đại Phùng

Không chỉ là một di tích có giá trị đặc biệt nổi bật về mặt lịch sử và kiến trúc,

di tích đình Đại Phùng với tín ngưỡng Thành Hoàng làng, cùng các hoạt động văn

hóa trong không gian văn hóa của ngôi đình, có vai trò và chức năng hết sức quan

trọng: giáo dục lịch sử và tinh thần yêu nước; gắn kết và tương trợ cộng đồng; bồi

đắp, trao truyền và định hình bản sắc văn hoá. Đây là các giá trị đảm bảo cho sự

phát triển xã hội một cách hài hòa, nhân văn và bền vững.

Tác giả Nông Quốc Thành trong bản luận văn thạc sĩ “Giá trị văn hóa nghệ

thuật đình làng Đại Phùng” với chuyên ngành Văn hóa học đã tìm hiểu, phân tích

những giá trị tiêu biểu về nghệ thuật kiến trúc và điêu khắc của di tích đình Đại

Phùng đặt trong tiến trình lịch sử của các ngôi đình làng Bắc Bộ [47]. Tác giả một

lần nữa nhắc đến giá trị của di tích trong bài viết trên tạp chí Di sản văn hóa với

6

nhan đề “Một điểm nổi về di sản văn hóa qua đình Đại Phùng”. Tác giả đã nêu bật

được những đặc điểm, giá trị độc đáo về kiến trúc và nghệ thuật chạm khắc bên

trong đình Đại Phùng, đồng thời nêu ra một số ý kiến về các vị thần cũng như lễ hội

gắn với di tích [46].

Bên cạnh đó, việc nghiên cứu về lịch sử, nguồn gốc, các giá trị của đình Đại

Phùng chủ yếu được nhắc tới trong một số cuốn sách hay một số bài viết dưới dạng

đề cập đến các khía cạnh giá trị của di sản văn hóa này: Trong cuốn sách “Một số

vấn đề văn hóa truyền thống Hà Tây - Thăng Long” có nhắc đến 8 làng trong tổng

Phùng thờ thần Tích Lịch Hỏa Quang. Hồ sơ di tích đình Đại Phùng hiện đang lưu

giữ tại Cục Di sản văn hóa, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, mặc dù tư liệu đã có

sự hệ thống và khá đầy đủ các nội dung nhưng cũng chỉ tập trung khảo tả được theo

các tiêu chí của một hồ sơ khoa học đề nghị xếp hạng di tích quốc gia đặc biệt.

2.4. Các nghiên cứu về quản lý, bảo vệ, phát huy giá trị di tích đình Đại

Phùng

Trong khóa luận tốt nghiệp chuyên ngành Quản lý văn hóa “Thực trạng quản

lý nhà nước đối với di tích lịch sử đình Đại Phùng”, tác giả Nguyễn Thị Nguyệt

cũng đã có những tìm hiểu về di tích lịch sử đình Đại Phùng, bước đầu tác giả đã

nêu được thực trạng công tác quản lý tại di tích, trên cơ sở đó đưa ra một số giải

pháp trong đó có một số giải pháp đề cập trực tiếp đến các hoạt động bảo tồn và

phát huy giá trị của di tích [36]. Tác giả Nguyễn Thành Quang trong Luận văn thạc

sĩ cao học năm 2014 với đề tài“Quản lý di tích lịch sử - văn hóa ở huyện Đan

Phượng, thành phố Hà Nội” đã có những nội dung đề cập đến việc bảo tồn, phát

huy giá trị tổng thể di tích trên địa bàn, nhưng cũng có nhiều nội dung đưa dẫn

trường hợp di tích đình Đại Phùng. Từ kết quả nghiên cứu và khảo sát thực tế, luận

văn đã đề xuất một số giải pháp, trong đó nhấn mạnh về khía cạnh tổ chức quản lý

nhà nước đối với hệ thống di tích trên địa bàn huyện Đan Phượng... [37].

*Nhìn chung, phần tổng thuật trên đây chắc chắn chưa thể quán xuyến hết

các bài viết, các công trình nghiên cứu có liên quan đến đề tài, tác giả luận văn sẽ cố

gắng tiếp tục sưu tầm, tiếp cận từ nhiều nguồn khác nhau trong quá trình nghiên

cứu. Di tích quốc gia đặc biệt đình Đại Phùng đã giành được sự quan tâm và đã có

những nghiên cứu bước đầu, tuy nhiên, cho đến nay, chưa có công trình nào tập

7

trung nghiên cứu đầy đủ và có hệ thống về vấn đề bảo vệ và phát huy giá trị của các

di tích. Các nghiên cứu đi trước phần nào mới dừng lại ở mức độ giới thiệu, miêu

thuật hoặc tiếp cận một khía cạnh giá trị nhất định của các di tích. Mặc dù vậy, các

nghiên cứu này cũng là nguồn tư liệu quý giá để cho tác giả luận văn có thể kế thừa

để triển khai nghiên cứu đề tài theo mục tiêu nghiên cứu đã đề ra.

3. Mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục tiêu nghiên cứu

Luận văn tập trung nghiên cứu thực trạng bảo vệ và phát huy giá trị di tích

đình Đại Phùng, đánh giá những kết quả đạt được cùng những hạn chế, bất cập

trong các hoạt động này thời gian vừa qua. Từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm

nâng cao hiệu quả của hoạt động bảo tồn, phát huy giá trị của di tích lịch sử - văn

hóa này trong thời gian tới.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

- Bước đầu làm rõ những vấn đề chung về lý luận bảo tồn và phát huy giá trị

di tích lịch sử - văn hóa.

- Nghiên cứu tổng quan về di tích quốc gia đặc biệt đình Đại Phùng và các

giá trị tiêu biểu của di tích.

- Nghiên cứu, phân tích thực trạng hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị di

tích đình Đại Phùng trong những năm qua, từ đó có những đánh giá về ưu điểm

cũng như hạn chế, nguyên nhân của hạn chế trong các hoạt động này.

- Đề xuất một số giải pháp nâng cao hiệu quả bảo tồn và phát huy giá trị di

tích quốc gia đặc biệt đình Đại Phùng trong thời gian tới.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Đề tài tập trung nghiên cứu, phân tích về thực trạng hoạt động bảo vệ và phát

huy giá trị di tích đình Đại Phùng.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

- Phạm vi không gian: Di tích đình Đại Phùng xã Đan Phượng, huyện Đan

Phượng, thành phố Hà Nội.

- Phạm vi thời gian: Tập trung nghiên cứu công tác bảo vệ và phát huy giá trị

di tích đình Đại Phùng trong giai đoạn từ năm 2019 đến nay. Ngày 31/12/2019, Thủ

8

tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 1954/QĐ-TTg xếp hạng di tích kiến

trúc nghệ thuật đình Đại Phùng là di tích quốc gia đặc biệt. Đây là dấu mốc quan

trọng để di tích đình Đại Phùng có cơ sở pháp lý tiến hành công tác bảo vệ, phát

huy giá trị ở phạm vi sâu rộng hơn.

5. Phương pháp nghiên cứu

- Phương pháp tiếp cận liên ngành: Tác giả sử dụng kết hợp nhiều phương

pháp của các khoa học như quản lý văn hóa, bảo tàng học, sử học, văn hóa học,

khoa học quản lý, du lịch học... để tiếp cận, nghiên cứu di tích và hoạt động bảo tồn,

phát huy giá trị của chúng trong những năm qua.

- Phương pháp tổng hợp, phân tích tư liệu, tài liệu: Trên cơ sở tài liệu thu

thập được tác giả đã tổng hợp, phân tích và rút ra những kết luận trong việc đánh

giá thực trạng hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị di tích quốc gia đặc biệt đình

Đại Phùng.

- Phương pháp khảo sát, điền dã thực địa: Tác giả tiến hành thực hiện trực

tiếp khảo sát, điền dã tại di tích lịch sử - văn hóa và không gian văn hóa khu vực

Đan Phượng để nắm bắt thực trạng hoạt động bảo vệ, gìn giữ và phát huy giá trị di

tích LSVH này.

- Phương pháp điều tra, phỏng vấn: Phỏng vấn cán bộ quản lý di tích để thấy

được thực trạng quản lý, bảo vệ và phát huy giá trị di tích từ đó có thể đề ra một số

giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động bảo vệ, phát huy giá trị di tích.

- Phương pháp so sánh: Sử dụng phương pháp này để có thể so sánh hiệu quả

hoạt động bảo vệ giữa một số điểm di tích khác địa bàn địa phương.

6. Những đóng góp của luận văn

- Luận văn là một công trình nghiên cứu hệ thống về thực trạng công tác bảo

vệ và phát huy giá trị di tích đình Đại Phùng. Với những thông tin, đánh giá được

cập nhật từ 2019 đến nay, luận văn chỉ ra những kết quả đã đạt được, những hạn

chế, bất cập và nguyên nhân, từ đó đề xuất các giải pháp nhằm góp phần nâng cao

hiệu quả công tác quản lý di tích đình Đại Phùng trong thời gian tới.

- Kết quả nghiên cứu của đề tài có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho cán bộ

quản lý văn hóa, trước hết là trên địa bàn huyện Đan Phượng, và các học viên

chuyên ngành quản lý văn hóa tại các trường cao đẳng, đại học.

9

7. Bố cục luận văn

Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ lục, nội dung luận

văn được kết cấu thành 03 Chương, cụ thể như sau:

Chương 1: Một số vấn đề lý luận về bảo vệ và phát huy giá trị di tích lịch

sử - văn hóa và tổng quan về di tích đình Đại Phùng

Chương 2: Thực trạng hoạt động bảo vệ và phát huy giá trị di tích đình

Đại Phùng

Chương 3: Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động bảo vệ và phát huy giá

trị di tích đình Đại Phùng

10

Chương 1

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO VỆ VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ

DI TÍCH LỊCH SỬ - VĂN HÓA VÀ TỔNG QUAN

VỀ DI TÍCH ĐÌNH ĐẠI PHÙNG

1.1. Một số vấn đề lý luận về bảo vệ và phát huy giá trị di tích lịch sử -

văn hóa

1.1.1. Các khái niệm cơ bản

1.1.1.1. Khái niệm Di sản văn hóa

Trong Công ước Bảo vệ DSVH và thiên nhiên thế giới của UNESCO năm

1972, tại Điều 1 có quy định những loại hình sẽ được coi như là “di sản văn hóa”

bao gồm: Di tích kiến trúc (monuments), nhóm công trình xây dựng (groups of

building), các di chỉ (sites) có giá trị văn hóa.

Ở nước ta, Luật Di sản văn hóa được Quốc hội khóa X, kỳ họp thứ 9 thông

qua ngày 29/6/2001, thuật ngữ “di sản văn hóa” chính thức được ghi trong văn bản

pháp quy cao nhất và được sử dụng phổ biến. Năm 2009 Luật Di sản văn hóa được

sửa đổi, bổ sung một số điều khoản thông qua Luật số 32/2009/QH12 ngày

18/6/2009. Luật quy định: “Di sản văn hóa quy định tại Luật này bao gồm di sản

văn hóa phi vật thể và di sản văn hóa vật thể, là sản phẩm tinh thần, vật chất có giá

trị lịch sử, văn hóa, khoa học, được lưu truyền từ thế hệ này qua thế hệ khác ở nước

Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”. Như vậy, khái niệm di sản văn hóa được

pháp luật của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam xác định và bảo vệ

“là sản phẩm tinh thần, vật chất có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học, được lưu

truyền từ thế hệ này qua thế hệ khác ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”

[29]. Di sản văn hoá gồm hai bộ phận: Di sản văn hóa phi vật thể và Di sản văn hóa

vật thể.

Ngày 23/11/2024, tại kỳ họp thứ 8, Quốc hội khóa 15 đã thông qua Luật Di

sản văn hóa số 45/2024/QH15 năm 2024 và có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 7

năm 2025. Về cơ bản, khái niệm di sản văn hóa vẫn được giữ nguyên gồm di sản

văn hóa vật thể và phi vật thể, đồng thời Luật bổ sung thêm 01 Chương về bảo vệ

và phát huy giá trị di sản tư liệu.

1.1.1.2. Khái niệm Di sản văn hóa vật thể

11

Di sản văn hóa vật thể là một bộ phận quan trọng cấu thành nên hệ thống di

sản văn hóa. Tại điều 4 của Luật di sản văn hóa quy định: Di sản văn hóa vật thể là

sản phẩm vật chất có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học, bao gồm di tích lịch sử -

văn hóa, danh lam thắng cảnh, di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia [29, tr.42].

Trong Luật Di sản văn hóa năm 2024, khái niệm này đã có sự thay đổi, bổ

sung thêm một vài chi tiết như sau: “Di sản văn hóa vật thể là sản phẩm vật chất có

một, một số hoặc tất cả giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học, thẩm mỹ, bao gồm di tích

lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh, di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia” [30].

Như vậy, dù có một số chi tiết có sự thay đổi giữa hai thời điểm của Luật,

nhưng chúng ta thấy, việc quy định rõ các yếu tố cấu thành nên di sản văn hóa vật

thể gồm có 5 thành tố bao gồm: di tích LSVH, danh lam thắng cảnh, di vật, cổ vật

và bảo vật quốc gia.

1.1.1.3. Khái niệm Di tích lịch sử - văn hóa

Trên bình diện các văn bản công ước, hiến chương về di tích, di sản văn hóa

của thế giới, đã đưa ra một số khái niệm về di tích, có thể kể tới như:

Trong Hiến chương Quốc tế về Bảo tồn và Trùng tu Di tích và Di chỉ - gọi tắt

là Hiến chương Venice (năm 1964) đã đưa ra khái niệm về di tích rằng: “Di tích lịch

sử - văn hóa không chỉ là một công trình kiến trúc đơn chiếc mà là cả khung cảnh

đô thị hoặc nông thôn có chứng tích của một nền văn minh riêng biệt, một phát triển

có ý nghĩa hoặc một sự kiện lịch sử”.

Khái niệm này không chỉ áp dụng với những công trình nghệ thuật to lớn mà

cả những công trình khiêm tốn vốn đã, cùng với thời gian, thâu nạp được một ý

nghĩa văn hóa.

Ở Việt Nam, theo Đại từ điển tiếng Việt của Nguyễn Như Ý chủ biên, thì Di

tích LSVH là: “Tổng thể những công trình, địa điểm, đồ vật hoặc tác phẩm, tài liệu

có giá trị lịch sử hay giá trị văn hóa được lưu lại” [63, tr.216].

Pháp lệnh Bảo vệ và sử dụng di tích lịch sử, văn hoá và danh lam thắng cảnh,

năm 1984, có ghi: Di tích lịch sử, văn hoá là những công trình xây dựng, địa điểm,

đồ vật, tài liệu và tác phẩm có giá trị lịch sử, khoa học, nghệ thuật và giá trị văn hoá

khác hoặc có liên quan đến những sự kiện lịch sự, quá trình phát triển văn hoá, xã

hội. Danh lam thắng cảnh là những khu vực thiên nhiên có cảnh đẹp hoặc có công

trình xây dựng đẹp nổi tiếng.

12

Trong Luật Di sản văn hóa (2009) quy định: “Di tích lịch sử - văn hóa là công

trình xây dựng, địa điểm và các di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia thuộc công trình, địa

điểm đó có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học” [29]. Đến nay, trong Luật Di sản văn

hóa (2024) khái niệm này đã có sự bổ sung như sau: “Di tích LSVH là công trình

kiến trúc, nghệ thuật, cụm công trình xây dựng, địa điểm, di chỉ khảo cổ hoặc cấu

trúc có tính chất khảo cổ học; di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia thuộc công trình, cụm

công trình, địa điểm, di chỉ hoặc cấu trúc đó, có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học”

[30].

Luật Di sản văn hóa năm 2024 cũng quy định, di tích LSVH bao gồm các loại

hình sau:

“a) Di tích lịch sử gồm di tích lưu niệm sự kiện lịch sử, văn hóa, di tích lưu

niệm danh nhân;

b) Di tích kiến trúc, nghệ thuật;

c) Di tích khảo cổ” [30].

Để nhận diện được di tích theo loại hình, Luật cũng quy định rõ phải có các

tiêu chí như sau:

“1. Di tích lịch sử phải đáp ứng một trong các tiêu chí sau đây:

a) Công trình xây dựng, địa điểm gắn với sự kiện lịch sử, văn hóa tiêu biểu

của quốc gia hoặc địa phương trong quá trình dựng nước và giữ nước;

b) Công trình xây dựng, địa điểm gắn với thân thế và sự nghiệp của anh hùng

dân tộc, danh nhân, nhân vật lịch sử có ảnh hưởng tích cực đến sự phát triển của

quốc gia hoặc địa phương trong một hoặc nhiều giai đoạn lịch sử;

c) Công trình xây dựng, địa điểm gắn với lịch sử phát triển công nghiệp, đô

thị, nông thôn có ảnh hưởng tích cực đến sự phát triển của quốc gia hoặc địa

phương trong một hoặc nhiều giai đoạn lịch sử.

2. Di tích kiến trúc, nghệ thuật phải đáp ứng tiêu chí là công trình kiến trúc,

nghệ thuật, quần thể kiến trúc đô thị, nông thôn, địa điểm cư trú, khu vực đô thị và

nông thôn, công trình công nghiệp chứa đựng công trình kiến trúc và không gian

lịch sử, văn hóa có giá trị tiêu biểu cho một hoặc nhiều giai đoạn phát triển của lịch

sử, kiến trúc, nghệ thuật.

3. Di tích khảo cổ phải đáp ứng tiêu chí là địa điểm phát hiện dấu tích liên

quan đến hoạt động của con người, có tầng văn hóa chứa đựng di tích, di vật phản

13

ánh lịch sử - văn hóa, con người, có giá trị tiêu biểu cho một hoặc nhiều giai đoạn

lịch sử” [30].

1.1.1.4. Khái niệm Bảo vệ

Trong từ điển Tiếng Việt, bảo vệ được hiểu là sự giữ lại, không để cho mất đi,

là bảo vệ và gìn giữ sự tồn tại của một sự vật, hiện tượng theo đúng dạng thức vốn

có của nó, để nó không bị mai một, thay đổi. Từ điển tiếng Việt của Nguyễn Như Ý

giải thích rằng bảo vệ là “chống lại mọi sự xâm phạm để giữ cho luôn luôn được

nguyên vẹn” [63, tr.40].

Trong trường hợp nghiên cứu, bảo vệ ở đây là giữ gìn cho các di tích luôn giữ

được trạng thái tốt nhất, không bị tác động bởi các yếu tố khách quan, bên ngoài tác

động đến di tích. Theo Tiêu chuẩn Việt Nam TCVN 10382 : 2024 - Di sản văn hóa

và các vấn đề liên quan - Thuật ngữ và định nghĩa chung, Bảo vệ di tích (Monument

protection) được giải thích là: Hoạt động phòng ngừa, ngăn chặn nguy cơ xâm hại

di tích và xử lý hành vi xâm hại di tích theo quy định của pháp luật.

Trong Tiêu chuẩn Việt Nam này cũng nêu ra hai định nghĩa về bảo tồn - bảo

quản di tích, qua đó chúng ta có thể bước đầu phân biệt được nội hàm của chúng.

Theo đó:

Bảo tồn di tích (preservation of monument): Hoạt động nghiên cứu, quản lý,

bảo vệ, bảo quản, tu bổ, phục hồi nhằm bảo đảm tính toàn vẹn, tính xác thực và sự

tồn tại lâu dài, ổn định của di tích.

Bảo quản di tích (conservation of monument): Hoạt động nhằm phòng ngừa

và hạn chế những nguy cơ làm hư hỏng mà không làm thay đổi yếu tố nguyên gốc

vốn có của di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh [40].

1.1.1.5. Khái niệm Phát huy

Từ điển Tiếng Việt giải thích: Phát huy là làm cho cái hay, cái tốt được tỏa

sáng và có tác dụng tốt đối với đời sống của con người, từ đó tiếp tục làm nảy nở

những giá trị cái hay, cái tốt của xã hội” [63, tr.428].

Trong TCVN 10382 : 2024 - Di sản văn hóa và các vấn đề liên quan - Thuật

ngữ và định nghĩa chung, có đưa ra khái niệm về Phát huy giá trị di sản văn hóa

(promotion of cultural heritage), theo đó đây là các “Hoạt động khai thác và lan tỏa

giá trị di sản văn hóa dưới nhiều hình thức” [40].

14

Phát huy giá trị di tích/di sản có nghĩa là tập trung sự chú ý của công chúng

một cách tích cực tới các giá trị của di tích/di sản, làm cho đông đảo người biết đến

giá trị của di tích bằng cách truyền đạt trực tiếp hay thông qua một hình thức nào

đó. Phát huy giá trị di tích LSVH có thể hiểu đó là những giá trị mang tính tích cực,

có ích cho thời đại, có nghĩa là sử dụng có hiệu quả các giá trị vốn có của di tích

vào việc giáo dục truyền thống lịch sử, văn hóa, thẩm mỹ, khoa học, đồng thời coi

đó như một nguồn lực phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, tuyên truyền sâu rộng

trong quần chúng nhân dân, nâng cao ý thức trách nhiệm bảo vệ di sản văn hóa của

cộng đồng.

Như vậy, phát huy giá trị di sản văn hóa gồm các hoạt động: Tham quan tại di

tích, quảng bá di tích trên các phương tiện truyền thông đại chúng, xuất bản các ấn

phẩm giới thiệu di tích, phát huy giá trị di tích gắn với phát triển du lịch.

Để làm rõ hơn, chúng ta cũng cần hiểu về khái niệm “giá trị”: Theo một số từ

điển thì nghĩa của giá trị tập trung vào một số nội dung như sau: i/Cái mà người ta

dùng làm cơ sở để xem xét một vật có lợi ích tới mức nào đó; ii/Cái mà người ta

dựa vào để xem xét một người đáng quý đến mức nào về mặt đạo đức, trí tuệ, nghề

nghiệp, tài năng; iii/ Tính chất quy ra được thành tiền của một vật trong quan hệ

mua bán, đổi chác; iv/ Độ lớn của một đại lượng, một lượng biến thiên.

Ở trường hợp nghiên cứu, theo quy định của Luật Di sản văn hóa, di tích

LSVH có các giá trị sau: Giá trị lịch sử; giá trị văn hóa; giá trị khoa học. Trên cơ sở

các loại hình di tích, các di tích thuộc loại hình di tích văn hóa khảo cổ; di tích kiến

trúc nghệ thuật; di tích lịch sử giá trị nổi bật là lịch sử, văn hóa, khoa học. Như

chúng ta đã biết, các di tích LSVH không phải chỉ được gìn giữ và bảo quản là đủ,

mà phải sử dụng những giá trị vốn có trong di tích vào mục đích tuyên truyền khoa

học và giáo dục quần chúng. Các di tích tự nó sẽ không có ý nghĩa nếu như chúng

ta không khai thác những giá trị chứa đựng trong di tích và phát huy những giá trị

đó.

1.1.1.6. Khái niệm Phát huy giá trị di tích

Trong khoa học bảo tồn di tích, phát huy giá trị di tích LSVH là một trong hai

chức năng cơ bản của hoạt động bảo tồn di tích. Nếu những hoạt động kiểm kê, xếp

hạng, bảo quản, tu bổ, phục hồi di tích hướng tới việc thực hiện tốt chức năng gìn

giữ sự tồn tại lâu dài, nguyên vẹn, thì phát huy giá trị của di tích là quá trình khai

15

thác các giá trị di tích phục vụ xã hội hiện tại và tương lai, góp phần phát triển kinh

tế và nâng cao đời sống văn hóa xã hội.

Theo giáo trình Bảo tồn di tích lịch sử - văn hóa, các tác giả cho rằng: Phát

huy là tập trung sự chú ý của công chúng một cách tích cực tới các mặt giá trị của di

sản văn hóa. Các tác giả cũng đưa thêm một khái niệm về phát huy như sau: Phát

huy là sử dụng các giá trị của di tích LSVH vào lợi ích cho cộng đồng với mục đích

cao hơn [19, tr.184]. Theo ý kiến của người viết luận văn, các khái niệm này đã

bước đầu giải thích khá rõ nội hàm của việc phát huy giá trị di tích. Việc bảo tồn,

giữ gìn các di tích không chỉ là một sự đóng khung mà cần đưa những giá trị đó vào

cuộc sống xã hội, phục vụ cho những nhu cầu hưởng thụ văn hóa của cộng đồng.

1.1.2. Nguyên tắc bảo vệ và phát huy giá trị di tích lịch sử - văn hóa

Bảo tồn di tích LSVH là một hoạt động khoa học chuyên ngành nhằm bảo vệ

và phát huy giá trị của các di tích LSVH, đáp ứng các yêu cầu về giữ gìn các giá trị

văn hóa truyền thống đồng thời sử dụng, khai thác các giá trị văn hóa đó phục vụ

cho sự phát triển kinh tế xã hội của địa phương, của đất nước. Khi tiến hành các

hoạt động nhằm bảo tồn di tích LSVH cần tuân thủ đúng các quy định của Luật Di

sản văn hóa cùng với những văn bản pháp quy dưới Luật.

Trong Luật di sản văn hóa (sửa đổi năm 2009) có những điều 32, 33 và 34

quy định về các khu vực bảo vệ di tích; vấn đề giao nhiệm vụ bảo vệ di tích cho các

đơn vị các cấp. Đến Luật Di sản văn hóa (2024) các điều khoản quy định nhiều hơn,

cụ thể hơn về những vấn đề quản lý, bảo vệ và phát huy giá trị di tích LSVH: Điều

23, Điều 24, Điều 26, Điều 27, Điều 28, Điều 29, Điều 30, Điều 31, Điều 34, Điều

35 và Điều 36. Trong đó khoản 2, điều 35 nhấn mạnh: Việc bảo quản, tu bổ, phục

hồi di tích phải bảo đảm “Giữ gìn tối đa các yếu tố gốc cấu thành di tích” [30].

Tại một số văn bản quy phạm dưới luật cũng đề ra nguyên tắc khi tiến hành

tu bổ, tôn tạo di tích. Nghị định 166/2018/NĐ-CP Quy định về thẩm quyền, trình tự,

thủ tục lập, thẩm định, phê duyệt quy hoạch, dự án bảo quản, tu bổ, phục hồi di tích

LSVH, danh lam thắng cảnh đã nhấn mạnh nguyên tắc cơ bản như sau: Bảo đảm

giữ gìn tối đa yếu tố gốc của di tích; tạo điều kiện thuận lợi cho việc bảo vệ và phát

huy giá trị di tích... Thông tư 15/2019/TT-BVHTTDL của Bộ trưởng Bộ VHTTDL

Quy định chi tiết một số quy định về bảo quản, tu bổ, phục hồi di tích cũng đã đưa

ra một số nguyên tắc cơ bản khi bảo quản, tu bổ, phục hồi di tích trong đó nhấn

16

mạnh rằng “Ưu tiên sử dụng các giải pháp kỹ thuật truyền thống (trường hợp giải

pháp kỹ thuật truyền thống không đáp ứng yêu cầu về tu bổ di tích thì được áp dụng

giải pháp kỹ thuật, công nghệ hiện đại phù hợp, đã được kiểm nghiệm trong thực tế

và không làm ảnh hưởng đến yếu tố gốc, giá trị của di tích). Ưu tiên bảo quản, gia

cố, gia cường di tích trước khi áp dụng phương án tu bổ, phục hồi di tích” [7].

Sau khi Luật Di sản văn hóa (2024) có hiệu lực (1/7/2025) thì sẽ bổ sung các

văn bản dưới luật như các nghị định, thông tư, quyết định... nhằm cụ thể hóa các

quy định của Luật, cũng có thể sẽ có những thay đổi, điều chỉnh nhất định so với

các văn bản dưới luật được dưới thiệu trên đây.

Qua một số quy định trong các văn bản pháp quy, chúng ta có có thể bước

đầu đưa ra một số nguyên tắc trong hoạt động bảo tồn, bảo vệ và phát huy giá trị di

tích LSVH, cụ thể như sau:

+ Tuân thủ những quy định của Luật Di sản văn hóa và các văn bản pháp quy

dưới luật có giá trị quy định về việc bảo vệ và phát huy giá trị di tích LSVH.

+ Việc bảo tồn phải đảm bảo tính nguyên gốc của di tích, giữ được tính

nguyên gốc, không làm sai lệch, biến tướng làm mất đi giá trị của di tích.

+ Khai thác, phát huy giá trị của di tích LSVH phải bảo đảm cho sự phát triển

bền vững, không làm ảnh hưởng, suy kiệt tiềm năng, làm tổn hại đến sự tồn tại của

di tích, đảm bảo môi trường tồn tại tốt nhất cho di tích.

+ Việc khai thác phát huy giá trị di tích phục vụ cộng đồng phải chú ý đến

việc tăng cường ý thức của cộng đồng và trách nhiệm của họ đối với việc bảo tồn di

tích.

+ Khai thác, phát huy giá trị di tích phải góp phần phát triển văn hóa và kinh

tế - xã hội cho địa phương nơi di tích tồn tại.

1.1.3. Nội dung bảo vệ và phát huy giá trị di tích lịch sử - văn hóa

Luật Di sản văn hóa (2009) đã dành một chương cho vấn đề Bảo vệ và phát

huy giá trị di sản văn hóa vật thể, trong đó có 3 nội dung lớn về di tích; di vật cổ vật

và bảo vật quốc gia; bảo tàng. Đối với việc bảo vệ và phát huy giá trị di tích LSVH,

Luật đã quy định từ điều 28 đến điều 48 quy định một số nội dung về vấn đề này.

Đây là những nội dung quan trọng quy định cụ thể một số vấn đề về bảo vệ và phát

huy, tuy rằng, Luật Di sản văn hóa đã có những thay đổi, sửa đổi và ban hành Luật

mới (năm 2024), nhưng trong phạm vi thời gian nghiên cứu, để áp dụng đối với

17

thực trạng bảo vệ và phát huy giá trị di tích đình Đại Phùng, học viên vẫn lấy đây là

cơ sở để tiếp thu, lựa chọn và đưa vào triển khai trong luận văn của mình. Bên cạnh

đó luận văn cũng tiếp cận từ một số văn bản pháp quy dưới luật quy định cho một

số vấn đề cụ thể như Nghị định số 166/NĐ-CP ngày 25/12/2018 của Chính phủ Quy

định thẩm quyền, trình tự, thủ tục lập, thẩm định, phê duyệt quy hoạch, dự án bảo

quản, tu bổ, phục hồi di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh; Thông tư số

15/2019/TT-BVHTTDL ngày 31/12/2019 của Bộ trưởng Bộ VHTTDL Quy định

chi tiết một số nguyên tắc trong bảo quản, tu bổ, phục hồi di tích...

Trên các cơ sở đó, cùng với việc căn cứ vào tình hình thực tiễn hoạt động,

bảo tồn, phát huy giá trị di tích đình Đại Phùng trong những năm qua, luận văn đưa

ra một số nội dung hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị di tích LSVH như sau:

* Các nội dung bảo vệ di tích lịch sử - văn hóa

- Nghiên cứu về di tích

Đây là việc tổ chức nghiên cứu, tìm hiểu các loại tài liệu liên quan đến di tích

lịch sử - văn hóa, đồng thời tổ chức các cuộc hội thảo, tọa đàm khoa học để trao đổi

các ý kiến giữa các nhà nghiên cứu, các chuyên gia về di tích LSVH để hiểu biết

sâu sắc, tìm hiểu phát hiện, đánh giá các giá trị tiêu biểu của di tích LSVH từ đó

phục vụ cho việc lập hồ sơ khoa học xếp hạng di tích.

- Kiểm kê, tư liệu hoá di tích

Kiểm kê di tích được xem là một khâu công tác có vị trí đặc biệt quan trọng

trong toàn bộ hoạt động bảo tồn di tích, nó gắn liền với các hoạt động khác và tạo ra

một tổng thể hoàn chỉnh đảm bảo những nhiệm vụ cơ bản của bảo tồn di tích là gìn

giữ và khai thác phát huy giá trị các di tích LSVH [19, tr.45]. Hay nói cách khác

Kiểm kê là “Hoạt động nhận diện, xác định giá trị công trình, địa điểm, cảnh quan

thiên nhiên, khu vực thiên nhiên để lập danh mục di tích theo quy định của pháp

luật về di sản văn hóa” [40].

Mục đích của kiểm kê là để nắm được số lượng và giá trị các hiện vật trong

di tích cũng như các loại hình di tích lịch sử - văn hóa trên một địa bàn từ đó có kế

hoạch bảo quản, bảo vệ, tu bổ, tôn tạo, phát huy giá trị của di tích.

Kiểm kê di tích gồm 3 nội dung chính:

+ Nghiên cứu phát hiện, khảo sát phân tích và thống kê di tích

+ Lập hồ sơ khoa học di tích

18

+ Làm sổ kiểm kê, sổ danh mục, lập phiếu tra cứu di tích... [19, tr.47].

Ngoài ra còn kiểm kê các hiện vật, cổ vật thuộc di tích như văn bia, sắc

phong, đồ thờ tự... nếu các hiện vật trong tình trạng hư hỏng thì cần phải được tư

liệu hóa, nhân bản, sao lưu hoặc có các biện pháp khác để bảo quản, tránh tình trạng

thất thoát, bị lấy cắp, hư hỏng do ảnh hưởng thời tiết và thời gian.

- Lập hồ sơ khoa học, xếp hạng di tích

Đây là quá trình nghiên cứu đánh giá những giá trị tiêu biểu của di tích, trên

cơ sở đó tạo dựng một cơ sở pháp lý do di tích ở các cấp độ khác nhau tùy thuộc

vào giá trị của đối tượng để tiến hành bảo vệ, bảo quản, tu bổ, tôn tạo và phát huy

giá trị phục vụ xã hội. Theo giáo trình Bảo tồn di tích lịch sử - văn hóa: “Xếp hạng

di tích là quá trình nghiên cứu đánh giá những giá trị tiêu biểu của di tích, trên cơ sở

đó tạo cơ sở pháp lý cho di tích ở các cấp độ khác nhau tùy thuộc vào giá trị của đối

tượng để tiến hành bảo vệ, bảo quản, tu bổ, tôn tạo và phát huy giá trị phục vụ xã

hội”[19]. Tại Điều 29 Luật Di sản văn hóa cũng đã đưa ra quy định xếp hạng di tích

như sau: Căn cứ vào giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học, thẩm mỹ di tích lịch sử - văn

hóa, danh lam thắng cảnh được chia thành:

1. Di tích cấp tỉnh là di tích có giá trị tiêu biểu của địa phương.

2. Di tích quốc gia là di tích có giá trị tiêu biểu của quốc gia.

3. Di tích quốc gia đặc biệt là di tích có giá trị đặc biệt tiêu biểu của quốc gia.

- Tu bổ, tôn tạo di tích

Đây là hoạt động sửa chữa về kỹ thuật, điều chỉnh sự biến dạng, khắc phục

những hư hỏng của di tích như chắp vá, nối, gia cố, định hình. Đại từ điển tiếng Việt

đưa ra khái niệm: “Tu bổ là sửa chữa và bổ sung ít nhiều cho tốt, cho hoàn chỉnh

hơn” [63]. Còn theo các tác giả cuốn giáo trình Bảo tồn di tích lịch sử - văn hóa của

Trường Đại học Văn hoá Hà Nội: “Tu bổ di tích là hoạt động sửa chữa về kỹ thuật,

điều chỉnh sử biến dạng, khắc phục những hư hại của di tích như chắp vá, nối, gia

cố, định hình”. Ngoài ra, các tác giả cũng cho rằng, công tác tu bổ di tích có thể sử

dụng một trong các hình thức như sau: (i) Tu bổ với quy mô lớn (sửa chữa lớn, tu

sửa lớn) nhằm mục tiêu phục hồi, tái tạo lại toàn bộ hay từng phần di tích đã bị mất

đi, bị làm sai lệch hay biến đổi hình dáng. (ii) Tu bổ mang tính chất sửa chữa nhỏ

(tu sửa nhỏ) là bảo dưỡng thường xuyên và định kỳ cho di tích; kiểm tra về mặt kỹ

19

thuật; phát hiện, ngăn chặn hoặc loại trừ kịp thời những nguyên nhân gây hại cho di

tích.

Theo quy định của pháp luật hiện hành, tại mục 1, Điều 34 của Luật Di sản

văn hoá thì việc bảo quản, tu bổ, phục hồi di tích phải đảm bảo các yêu cầu sau: (i)

Giữ gìn tối đa các yếu tố cấu thành di tích; (ii) Lập quy hoạch, dự án trình cơ quan

nhà nước có thẩm quyền phê duyệt, trừ trường hợp sửa chữa nhỏ không ảnh hưởng

đến yếu tố gốc cấu thành di tích. Đối với di tích cấp tỉnh, phải được sự đồng ý bằng

văn bản của cơ quan thẩm quyền về văn hóa, thể thao và du lịch cấp tỉnh; đối với di

tích quốc gia và di tích quốc gia đặc biệt, phải được sự đồng ý bằng văn bản của Bộ

trưởng Bộ VHTTDL; (iii) Công bố công khai quy hoạch, dự án đã được phê duyệt

tại địa phương nơi có di tích.

Như vậy, yêu cầu đặt ra đối với hoạt động tu bổ di tích là phải tuân thủ các

vấn đề thuộc về nguyên tắc như: Giải phóng, tước bỏ khỏi di tích tất cả các lớp bổ

sung xa lạ, gây ảnh hưởng xấu tới các mặt giá trị của di tích. Giữ lại tối đa những

yếu tố nguyên gốc của di tích. Trên cơ sở khoa học đáng tin cậy, khôi phục lại một

cách chính xác những yếu tố nguyên gốc đã bị thiếu hụt, mất mát trong quá trình

tồn tại của di tích. Trả lại cho di tích hình dáng và kết cấu vốn có của nó. Làm cho

di tích có độ bền vững về mặt kết cấu để tồn tại lâu dài trước tác động của điều kiện

khí hậu và thời tiết khắc nghiệt cũng như thử thách của thời gian.

Theo giáo trình Bảo tồn di tích lịch sử - văn hóa thì “Tôn tạo di tích” được

hiểu là “sự bổ sung các thành phần mới cho di tích phục vụ yêu cầu phát huy giá trị

của di tích và đáp ứng nhu cầu hưởng thụ văn hóa và phát triển kinh tế xã hội. Việc

tôn tạo ngoài bổ sung những yếu tố mới cho di tích còn là những biểu hiện của thời

đại mới nhưng các thành phần tôn tạo phải phù hợp một cách hữu cơ với các thành

phần cũ và cấu trúc chung của di tích”.

Mục đích của tôn tạo di tích là để tăng cường khả năng sử dụng và phát huy

giá trị của di tích nhằm phát triển kinh tế, văn hóa - xã hội đáp ứng nhu cầu vui chơi

giải trí và nhu cầu tìm hiểu giá LSVH của cộng đồng địa phương và du khách. Yêu

cầu của tôn tạo di tích được nằm chính ngay trong nội hàm của khái niệm tôn tạo di

tích là không làm ảnh hưởng đến yếu tố gốc cấu thành di tích; đảm bảo sự hài hòa

của di tích với cảnh quan thiên nhiên và môi trường sinh thái.

20

Tùy từng di tích cụ thể mà có thể lựa chọn tôn tạo một hoặc nhiều trong số

các hạng mục công trình như sau: Xây dựng nhà trưng bày bổ sung; Xây dựng

tượng đài, bia tưởng niệm; Xây dựng vườn cây công viên ở di tích; Làm bãi đỗ xe ở

di tích; Làm đường tham quan trong khu di tích; Xây dựng khách sạn, nhà nghỉ;

Xây dựng các khu dịch vụ công cộng (bao gồm dịch vụ văn hóa: nơi bán các loại

sách, báo, tạp chí giới thiệu về di tích hoặc đồ lưu niệm cho khách du lịch; dịch vụ

ăn uống; dịch vụ y tế, dịch vụ vệ sinh công cộng…; Lắp đặt hệ thống cấp và thoát

nước; Thiết kế mạng lưới điện chiếu sáng và hệ thống thông tin liên lạc)…

Thông tư số 15/2019/TT-BVHTTDL Quy định chi tiết một số nguyên tắc

trong bảo quản, tu bổ, phục hồi di tích, quy định: “Tôn tạo di tích là hoạt động nhằm

tăng cường khả năng sử dụng, khai thác và phát huy giá trị di tích nhưng không làm

ảnh hưởng đến yếu tố gốc cấu thành di tích, cảnh quan thiên nhiên và môi trường

sinh thái của di tích” [7].

* Các nội dung phát huy giá trị di tích lịch sử - văn hóa

- Hướng dẫn tham quan tại di tích được hiểu là sự giới thiệu, thuyết trình một

cách khoa học, logic, chân thực về giá trị của di tích trên cơ sở nguyên gốc di tích

cho những người đến tham gia quan sát, chiêm ngưỡng di tích, nhằm thỏa mãn sự

tìm hiểu của cộng đồng sở tại và du khách về lịch sử, về văn hóa truyền thống, đồng

thời góp phần nâng cao ý thức của công chúng trong việc bảo tồn di sản văn hóa

dân tộc. Như vậy, việc hướng dẫn tham quan di tích là hoạt động có mục đích đưa di

tích đến gần hơn với cộng đồng và du khách, tạo điều kiện cho mọi người dân được

tiếp cận, nắm rõ và hưởng thụ các giá trị văn hóa tiêu biểu của di tích đồng thời góp

phần bảo tồn và phát huy giá trị của di tích.

- Tuyên truyền, quảng bá di tích trên các phương tiện truyền thông đại

chúng: Là phương pháp phổ biến tri thức, cập nhật thông tin giúp cho đông đảo

người dân có thể biết đến di tích một cách nhanh chóng, dễ dàng và thuận lợi nhất.

Các hình thức tuyên truyền có thể trên đài truyền hình, đài phát thanh, phim tư liệu,

các bài viết trên mạng xã hội về di tích lịch sử - văn hóa. Thông qua phương pháp

này mà nhiều di tích được người dân biết đến mặc dù chưa có điều kiện để trực tiếp

đến thăm.

- Xuất bản sách, viết bài về di tích trên các tạp chí khoa học chuyên ngành:

Ngoài việc tổ chức hướng dẫn tham quan và giới thiệu các di tích trên các thông tin

21

đại chúng, việc viết sách, báo và tạp chí giới thiệu về di tích cũng là một công việc

có đóng góp rất lớn trong việc bảo tồn, phát huy giá trị di tích. Những tài liệu này

còn có ưu điểm có tài liệu in nên các tác giả có điều kiện giới thiệu chi tiết hệ thống

và toàn diện về di tích, người đọc có thể nghiên cứu kỹ và tìm hiểu sâu về di tích.

Việc làm đó cũng là một hoạt động tích cực góp phần tư liệu hóa những giá trị của

di tích để bảo vệ và phát huy lâu dài.

- Tổ chức khai thác, phát huy giá trị di tích gắn với phát triển du lịch địa

phương, giáo dục học đường

Đây là những hoạt động khá phổ biến tại các điểm di tích, nhằm phát huy giá

trị của di tích, thu hút khách du lịch đến thực hành, trải nghiệm về di sản văn hóa

truyền thống. Bên cạnh đó, trong giáo dục tại các trường phổ thông di tích LSVH là

điểm đến để nhà trường có thể sử dụng di tích để dạy học, giáo truyền thống lịch sử

của địa phương.

1.1.4. Vai trò của bảo vệ và phát huy giá trị di tích lịch sử - văn hóa

Qua các nội dung trình bày ở trên có thể khẳng định di tích lịch sử - văn hóa

là tài sản vô giá của quốc gia, là di sản văn hóa vật thể hàm chứa rất nhiều giá trị

vượt không gian và thời gian. Do vậy, đòi hỏi phải có công tác bảo vệ và phát huy

giá trị đối với các di tích lịch sử - văn hóa. Các di sản văn hóa nói chung và di tích

lịch sử - văn hóa nói riêng là những chứng tích, tư liệu sống để các thế hệ mai sau

tìm hiểu, nghiên cứu về các thời kỳ lịch sử đã đi qua, từ đó giáo dục thế hệ trẻ về

truyền thống lịch sử và văn hóa của dân tộc.

Trải qua thời gian tồn tại lâu dài cùng với sự tác động của môi trường, điều

kiện khí hậu khắc nghiệt khiến cho nhiều di tích bị hư hại, mai một, thậm chí còn bị

phá hoại, tàn phá bởi bàn tay của con người. Tình trạng xâm hại, lấn chiếm, phá

hoại di tích, lấy cắp cổ vật và đồ thờ tự trong đình, đền, chùa xảy ra ở nhiều nơi.

Trong khi đó, nhu cầu phát triển tham quan, khám phá, nghiên cứu của du khách

ngày một lớn nhưng công tác bảo vệ, phát huy các giá trị di tích chưa đáp ứng được

nhu cầu đặt ra. Bên cạnh đó, di tích lịch sử - văn hóa có vai trò quan trọng trong

việc đóng góp cho sự phát triển kinh tế - xã hội của địa phương, tạo động lực phát

triển ngành du lịch nhờ vào sự gia tăng số lượng du khách trong nước và quốc tế,

đem đến những lợi ích kinh tế và góp phần quảng bá hình ảnh của từng địa phương,

22

của đất nước ra khỏi vùng, lãnh thổ. Việc bảo vệ và phát huy giá trị di tích lịch sử -

văn hóa là điều hết sức cần thiết và có vai trò vô cùng quan trọng trong sự phát triển

bền vững của mỗi địa phương và của đất nước.

1.2. Cơ sở pháp lý về bảo vệ và phát huy giá trị di tích lịch sử - văn hóa

Di tích LSVH là tài sản vô giá của dân tộc mà ông cha ta để lại trong quá

trình dựng nước và giữ nước. Chính vì vậy, việc gìn giữ các di sản đó là vô cùng

cần thiết. Việc bảo vệ, phát huy các di sản văn hóa phải được thực hiện theo pháp

luật và cần phải có những chế tài cụ thể để bảo đảm thực hiện.

Tầm quan trọng của bảo tồn di sản văn hóa được nhiều quốc gia trên thế giới

chú ý từ lâu và đã đi đến thống nhất quan điểm trong các văn bản chung như: Hiến

chương Venice về Bảo tồn và Trùng tu Di tích và Di chỉ (1964); Công ước của

UNESCO về bảo vệ di sản văn hóa và tự nhiên của thế giới (1972); Hiến chương

Burra về bảo tồn các địa điểm có giá trị văn hóa (1999); Nguyên tắc về Bảo tồn các

kiến trúc lịch sử bằng gỗ được Ủy ban ICOMOS thông qua tháng 10 năm 1999;

Công ước quốc tế của UNESCO về bảo vệ di sản văn hoá phi vật thể (2003)...

Ở Việt Nam, Đảng và Nhà nước ta sớm đã ban hành những văn bản pháp lý

làm cơ sở cho công tác quản lý, bảo vệ di tích. Nhìn lại hệ thống pháp luật tại Việt

Nam về lĩnh vực văn hóa nói chung và di sản văn hóa nói riêng, chúng ta thấy việc

xây dựng, ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về quản lý, bảo vệ di tích đã

được thực hiện từ rất sớm và ngày càng hoàn thiện hơn, cụ thể:

Hiến pháp năm 1992 của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam: Điều 34

của Hiến pháp ghi rõ: “Nhà nước và xã hội bảo tồn, phát huy các DSVH dân tộc;

chăm lo công tác bảo tồn, bảo tàng, tu bổ, tôn tạo, bảo tồn và phát huy tác dụng của

các di tích lịch sử, cách mạng, các DSVH, các công trình nghệ thuật, các danh lam

thắng cảnh. Nghiêm cấm các hành động xâm phạm đến các di tích lịch sử, cách

mạng, các công trình nghệ thuật và danh lam thắng cảnh”.

Hội nghị lần thứ năm của Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII đã

thông qua Nghị quyết số 03-NQ/TW ngày 16/7/1998 - Xây dựng và phát triển nền

văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc: Nghị quyết đã khẳng định

DSVH là tài sản vô giá, gắn kết cộng đồng dân tộc, là cốt lõi của bản sắc dân tộc, cơ

sở để sáng tạo những giá trị mới và giao lưu văn hóa. Bảo tồn và phát huy giá trị các

DSVH được coi là một trong mười nhiệm vụ cụ thể trong sự nghiệp xây dựng phát

23

triển văn hóa. Nghị quyết nhấn mạnh phải hết sức coi trọng bảo tồn, phát huy những

giá trị văn hóa truyền thống (bác học và dân gian); văn hóa cách mạng bao gồm cả

văn hóa vật thể và phi vật thể.

Luật Di sản văn hóa (2001) và Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật Di

sản văn hóa (2009): Luật Di sản văn hóa được Quốc hội thông qua trong kỳ họp thứ

9, Quốc hội khóa X năm 2001. Luật gồm 7 chương với 74 điều, trong đó quy định

rõ nội dung quản lý nhà nước về DSVH, phân định trách nhiệm các cấp đối với việc

quản lý DSVH. Quá trình thực thi Luật Di sản văn hóa 2001, bên cạnh những mặt

tích cực, cũng nảy sinh một số hạn chế. Vì vậy, năm 2009 Quốc hội đã thông qua

Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật Di sản văn hóa. Với việc Luật Di sản văn

hóa được ban hành, hành lang pháp lý về bảo vệ và phát huy giá trị DSVH đã căn

bản hoàn thiện. Theo đó, Luật đã xác định rõ quyền hạn và nghĩa vụ của tổ chức, cá

nhân và chủ sở hữu đối với DSVH, chỉ rõ những việc được làm và không được làm,

những hành vi bị nghiêm cấm. Luật cũng đưa ra cơ chế khen thưởng, tôn vinh

những người có công đồng thời xử phạt các hành vi vi phạm di tích; quy định trách

nhiệm của các Bộ, ban, ngành có liên quan ở trung ương và Ủy ban nhân dân các

cấp trong việc bảo tồn DSVH.

Nghị định số 166/2018/NĐ-CP ngày 25/12/2018 của Chính phủ Quy định

thẩm quyền, trình tự, thủ tục lập, thẩm định, phê duyệt quy hoạch, dự án bảo quản,

tu bổ, phục hồi di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh. Nghị định số

61/2016/NĐ-CP ngày 01/7/2016 của Chính phủ Quy định điều kiện kinh doanh

giám định cổ vật và hành nghề bảo quản, tu bổ, phục hồi di tích lịch sử - văn hóa,

danh lam thắng cảnh: Quy định điều kiện năng lực và điều kiện hành nghề của tổ

chức, cá nhân tham gia lập quy hoạch bảo quản, tu bổ, phục hồi di tích, dự án bảo

quản, tu bổ, phục hồi di tích, báo cáo kinh tế, kỹ thuật bảo quản, tu bổ, phục hồi di

tích, thiết kế bản vẽ thi công bảo quản, tu bổ, phục hồi di tích và thi công bảo quản,

tu bổ, phục hồi di tích; nội dung hồ sơ thiết kế tu bổ di tích, thẩm quyền thẩm định

hồ sơ thiết kế tu bổ di tích; thi công tu bổ di tích.

Để triển khai thực hiện Luật và các Nghị định nêu trên, Bộ trưởng Bộ

VHTTDL đã ban hành các thông tư, quy chế, hướng dẫn, quy định:

Thông tư số 09/2011/TT-BVHTTDL ngày 14/7/2011 của Bộ trưởng Bộ

VHTTDL Quy định nội dung hồ sơ khoa học để xếp hạng di tích lịch sử - văn hóa

24

và danh lam thắng cảnh: Thông tư hướng dẫn về nội dung hồ sơ khoa học để xếp

hạng DTLSVH và DLTC cấp tỉnh, di tích quốc gia, di tích quốc gia đặc biệt. Với

những yêu cầu đầy đủ, chi tiết của một hồ sơ khoa học đã được hướng dẫn trong

thông tư, các địa phương đã biết được quy trình cũng như cách thức để chuẩn bị hồ

sơ một cách chính xác nhất. Thông tư số 17/2013/TT-BVHTTDL ngày 30/12/2013

của Bộ trưởng Bộ VHTTDL Hướng dẫn xác định chi phí lập quy hoạch, dự án, báo

cáo kinh tế - kỹ thuật bảo quản, tu bổ, phục hồi di tích: Thông tư này hướng dẫn

việc xác định chi phí lập quy hoạch, dự án, báo cáo kinh tế kỹ thuật bảo quản, tu bổ,

phục hồi di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh sử dụng 30% vốn nhà nước

trở lên. Thông tư số 15/2019/TT-BVHTTDL ngày 31/12/2019 của Bộ trưởng Bộ

VHTTDL Quy định chi tiết một số quy định về bảo quản, tu bổ, phục hồi di tích:

với 5 chương, 22 Điều, Thông tư này đã quy định chi tiết nội dung, thẩm quyền

thẩm định thiết kế bản vẽ thi công bảo quản, tu bổ, phục hồi di tích và việc thiết kế

bản vẽ thi công cũng như việc thi công bảo quản, tu bổ, phục hồi, sửa chữa, bảo

quản định kỳ.

Đặc biệt, ngày 23/11/2024 Quốc hội khóa 15 đã thông qua Luật Di sản văn

hóa năm 2024, có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 7 năm 2025, đã củng cố, khắc

phục những bất cập và bổ sung những quy định mà thực tiễn phát sinh nhưng chưa

có quy định của pháp luật điều chỉnh. Với đột phá quy định của Luật bằng việc gia

tăng đáng kể nhóm quy định liên quan đến hoạt động phát huy giá trị di sản văn

hoá, khai thác sử dụng di sản văn hoá, hợp tác công tư trong lĩnh vực di sản văn

hoá, quỹ bảo tồn di sản văn hoá, tạo cơ chế thu hút tối đa nguồn lực cho hoạt động

bảo vệ phát huy giá trị di sản văn hoá. Quy định của Luật đồng bộ với các Luật liên

quan trong hệ thống pháp luật cho phép thực hiện các dự án đầu tư, công trình kinh

tế - xã hội, nhà ở riêng lẻ trong khu vực di sản, tạo cơ chế hài hoà giữa bảo tồn di

sản văn hoá với phát triển kinh tế - xã hội, phát triển du lịch bền vững ở các địa

phương, góp phần định vị thương hiệu địa phương, của quốc gia và quảng bá hình

ảnh đất nước và con người Việt Nam trên trường quốc tế, khẳng định vị thế, vai trò

di sản văn hoá Việt Nam trong kho tàng di sản văn hoá của nhân loại.

1.3. Tổng quan về di tích lịch sử - văn hóa đình Đại Phùng

1.3.1. Vài nét về huyện Đan Phượng

1.3.1.1. Lịch sử hình thành

25

Kết quả khảo cổ học các di chỉ ở trên địa bàn cho thấy, trên mảnh đất Đan

Phượng đã có con người sinh sống vào giai đoạn văn hóa Phùng Nguyên (đầu thời

đại đồ đồng) cách ngày nay khoảng 3500 năm đến 4000 năm. Tên huyện Đan

Phượng (còn gọi là Đan Phụng) được nhắc tới lần đầu tiên là trong sách Dư địa chí

của Ức Trai Nguyễn Trãi (thế kỷ XV). Như lời Ức Trai thì sách này cũng chỉ biên

chép lại địa danh đã có từ thời Trần, thế kỷ XIII. Điều đó cho thấy, danh xưng Đan

Phượng đã xuất hiện muộn nhất là từ thời Trần. Thời thuộc Minh (1407-1427), địa

dư huyện Đan Phượng vẫn giữ nguyên như thời Lý, Trần, nhưng tên huyện bị đổi

tên thành huyện Đan Sơn, thuộc châu Từ Liêm. Đến thời nhà Lê, rồi qua thời nhà

Mạc và suốt thời Lê Trung Hưng đến đầu triều Nguyễn, đời vua Gia Long, huyện

Đan Phượng vẫn thuộc phủ Quốc Oai, trấn Sơn Tây. Toàn huyện có 09 tổng, trong

đó có tổng Đan Phượng Thượng. Tổng Đan Phượng Thượng có 09 xã, thôn, gồm:

Đông Khê, Đoài Khê, Bãi Đồng, Thụy Ứng, Tháp Thượng, Thu Quế, Mỗ Thượng,

Đại Phùng, Phượng Trì. [48, tr.36].

Trong khoảng hơn trăm năm sau đó, huyện Đan Phượng trải qua nhiều biến

động lớn, dẫn đến sự thay đổi căn bản về địa dư, về quy mô của cư dân trong huyện:

Năm Minh Mệnh thứ 12 (1831), triều Nguyễn thực hiện cuộc cải cách hành chính

lớn, chia đặt cả nước thành các tỉnh thay cho các trấn. Huyện Đan Phượng thuộc

phủ Quốc Oai, tỉnh Sơn Tây. Năm 1883, huyện Đan Phượng sáp nhập vào phủ Hoài

Đức thuộc tỉnh Hà Nội. Ngày 19/7/1888, Tổng thống Pháp sắc lệnh thành lập thành

phố Hà Nội thuộc tỉnh Hà Nội, trên địa vực của hai huyện Thọ Xương, Vĩnh Thuận.

Tháng 10/1888, Pháp cắt thành phố Hà Nội làm nhượng địa, tách khỏi tỉnh Hà Nội.

Năm 1896 tỉnh lỵ tỉnh Hà Nội chuyển về Cầu Đơ, thuộc địa phận huyện Thanh Oai.

Năm 1902, Toàn quyền Đông Dương ra nghị định đổi tên tỉnh Hà Nội thành tỉnh

Cầu Đơ. Năm 1904, tỉnh Cầu Đơ đổi thành tỉnh Hà Đông. Lúc này huyện Đan

Phượng thuộc tỉnh Hà Đông. Địa dư của huyện lúc này bao gồm các xã, tổng trải

dài ven sông Đáy về phía tả, từ cửa sông Hát đến bến đò Cổ Sở thuộc địa phận xã

Đắc Sở ngày nay. Tháng 7 năm 1947, Pháp lập phòng tuyến 3 bảo vệ Hà Nội, từ

Phùng xuôi theo tả ngạn sông Đáy đến Mai Lĩnh, Chùa Thông, gọi là phòng tuyến

sông Đáy. Đan Phượng nằm trong vùng bị tạm chiếm. Sau năm 1954, các tổng

Dương Liễu, Sơn Đồng, Đắc Sở, Kim Thìa được tách khỏi huyện Đan Phượng, sáp

nhập với 05 tổng thuộc phủ Hoài Đức cũ để lập thành huyện Hoài Đức. Huyện Đan

26

Phượng tiếp quản một số tổng ở về phía Tây Bắc của huyện Từ Liêm, để lập thành

huyện Đan Phượng mới. Trên thực tế, địa dư huyện Đan Phượng xưa trong thành

phần huyện Đan Phượng mới gồm các làng (xã) của 3 tổng là Đan Phượng, La

Thạch, Thọ Lão, tương đương với 8/16 đơn vị hành chính cấp xã của huyện. Lúc

này, huyện Đan phượng vẫn thuộc về tỉnh Hà Đông. Năm 1965, hai tỉnh Sơn Tây và

Hà Đông sáp nhập để thành lập tỉnh Hà Tây. Năm 1975, tỉnh Hà Tây sáp nhập với

tỉnh Hoà Bình để thành lập tỉnh Hà Sơn Bình, huyện Đan Phượng trực thuộc tỉnh

này. Năm 1979, huyện Đan Phượng được tách khỏi tỉnh Hà Sơn Bình, sáp nhập vào

thành phố Hà Nội. Năm 1991, tỉnh Hà Tây được tái lập, huyện Đan Phượng được

tách khỏi thành phố Hà Nội để trở lại là một huyện của tỉnh Hà Tây. Năm 2008,

toàn bộ tỉnh Hà Tây sáp nhập với Hà Nội.

Trong bối cảnh huyện Đan Phượng trải qua nhiều biến động lớn, dẫn đến sự

thay đổi về địa dư, về quy mô cư dân, thì các làng (xã) trong tổng và bản thân tổng

Đan Phượng luôn ổn định, không có sự biến động về địa dư hành chính và quy mô

cư dân. Làng (xã) Đại Phùng trước sau vẫn là một làng (xã) của tổng Đan Phượng

(tổng Phùng), thuộc huyện Đan Phượng.

1.3.1.2. Vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên

- Về vị trí địa lý: Theo sách Sơn Tây quận huyện bị khảo, biên soạn dưới triều

Tự Đức: “Huyện Đan Phượng là một huyện thuộc phủ Quốc Oai, gồm 06 tổng, 48

xã, phường. Huyện ở phía Nam phủ thành 38 dặm. Đông - Tây cách nhau 14 dặm,

Nam - Bắc cách nhau 20 dặm. Phía Đông đến địa giới huyện Từ Liêm, tỉnh Hà Nội

14 dặm, giáp các xã Thượng Hội, Hạ Hội, Tây Tựu; phía Tây đối bờ với sông Hát

Giang, đến huyện Yên Sơn 10 dặm, giáp các xã Hạ Hiệp, Cù Sơn; phía Nam đến địa

giới huyện Từ Liêm 15 dặm, giáp các xã Thượng Mỗ, Phù Trung; phía Bắc đến địa

giới huyện Phúc Thọ phủ Quảng Oai 5 dặm, giáp xã Hát Môn”. Ngày nay, huyện

Đan Phượng ở về phía Tây Bắc trung tâm thành phố Hà Nội, tại khoảng giữa trục

đường Quốc lộ 32 từ trung tâm Hà Nội đi Sơn Tây. Phía Đông giáp quận Bắc Từ

Liêm, phía Bắc giáp huyện Mê Linh có dòng sông Hồng làm ranh giới, phía Tây

giáp huyện Phúc Thọ, phía Nam giáp huyện Hoài Đức.

- Điều kiện tự nhiên: Tổng diện tích đất tự nhiên của huyện Đan Phượng là

7.735,48 ha, nằm trọn trong khu vực địa đầu châu thổ sông Hồng và sông Đáy, nơi

sông Hồng phân chi để đổ nước vào sông Đáy, với sông Hồng ở phía Đông, sông

27

Đáy ở phía Tây. Là một huyện đồng bằng của châu thổ Bắc Bộ, địa hình của huyện

khá bằng phẳng, nghiêng dần từ Tây Bắc xuống Đông Nam, với 4 tiểu vùng tự

nhiên là tiểu vùng ven Đáy, tiểu vùng bãi ven sông Hồng, tiểu vùng Tiên Tân và

tiểu vùng Đan Hoài. Sông Hồng và sông Đáy chảy qua địa phận Đan Phượng có

tổng chiều dài khoảng 25 km, trong đó sông Hồng khoảng 15 km, sông Đáy khoảng

10km. Giống như tính chất khí hậu của đồng bằng Bắc Bộ, huyện Đan Phượng

mang các đặc điểm khí hậu nhiệt đới gió mùa, với đặc trưng nóng ẩm, mưa nhiều

vào mùa hè và khô lạnh về mùa đông. Nhiệt độ trung bình vào mùa hè khoảng trên 230C, mùa đông từ 15-160C. Biên độ dao động nhiệt độ trong năm ở Đan Phượng

khá lớn, tạo cho nơi đây hình thái thời tiết bốn mùa Xuân, Hạ, Thu, Đông rõ rệt.

1.3.1.3. Đặc điểm dân cư - kinh tế

Đan Phượng là mảnh đất địa đầu của xứ Đoài, ngay cửa ngõ của kinh thành

Thăng Long xưa, huyện Đan Phượng sớm được biết đến là một vùng đất “địa linh

nhân kiệt”, một địa bàn chiến lược quan trọng trong quá trình đấu tranh dựng nước

và giữ nước. Theo số liệu thống kê năm 2019, dân số toàn huyện khoảng 182.194

người và có mật độ dân số đạt 2.335 người/km². Nhân dân Đan Phượng có truyền

thống đoàn kết, hiếu học, lao động cần cù sáng tạo, giàu tình yêu quê hương đất

nước và ý chí kiên cường cách mạng. Trong gần một nghìn năm lịch sử khoa cử chế

độ phong kiến, tính riêng trên địa bàn huyện Đan Phượng (mới) đã có 15 vị đậu

Tiến sỹ, được ghi danh ở bia Văn miếu Quốc tử giám và Văn miếu kinh thành Huế,

trong đó, riêng làng Đại Phùng có 03 vị.

- Đặc điểm kinh tế: Trong những năm qua, hệ thống giao thông đường bộ của

huyện Đan Phượng được đầu tư xây dựng khá hoàn chỉnh, với các tuyến giao thông

chính như: Quốc lộ 32, tỉnh lộ 422, tỉnh lộ 417... Trên địa bàn huyện Đan Phượng,

sông Hồng chảy qua các xã Trung Châu, Hồng Hà, Liên Hồng, Liên Hà, Liên

Trung, với nhiều cảng sông đã và đang được đầu tư xây dựng, khai thác phục vụ

phát triển kinh tế-xã hội của huyện. 100% số xã và các doanh nghiệp, cụm công

nghiệp trên địa bàn huyện được cấp điện qua lưới điện quốc gia. Huyện có bưu điện

huyện và 12 bưu điện văn hóa xã, không có địa bàn vùng lõm về viễn thông. Công

nghệ thông tin được áp dụng rộng rãi.

Với những lợi thế khí hậu ôn hòa, ruộng vườn phì nhiêu, người dân cần cù

năng động, có truyền thống sản xuất nông nghiệp với trình độ thâm canh cao, lại

28

gần các thị trường có sức tiêu thụ hàng hóa nông sản lớn, Đan Phượng đang đẩy

nhanh tốc độ chuyển dịch theo hướng sản xuất hàng hóa, tiểu thủ công nghiệp,

thương mại và dịch vụ. Cùng với sự chuyển đổi tích cực trong trồng trọt, lĩnh vực

chăn nuôi được phát triển toàn diện cả về qui mô và chất lượng sản phẩm.

Song song với việc đẩy mạnh phát triển nông nghiệp đảm bảo an ninh lương

thực và đời sống nhân dân, lĩnh vực công nghiệp cũng được đẩy mạnh. Ngành công

nghiệp Đan Phượng chiếm tỷ trọng 29,2% GDP. Tốc độ tăng trưởng đạt 25%/năm,

tập trung chủ yếu vào các ngành chế biến lâm sản, thực phẩm, đồ uống, dệt may và

sản xuất vật liệu xây dựng.

1.3.1.4. Đặc điểm văn hóa - xã hội

Dựa trên kết quả phân tích các di vật thu được qua khai quật các di chỉ khảo

cổ trên đất Đan Phượng xưa (di chỉ gò Vườn Chuối ở Lai Xá, di chỉ gò Chiền Vậy ở

Kim Chung, di chỉ Bá Nội xã Hồng Hà và di chỉ Ngọc Kiệu xã Tân Lập), các nhà

khoa học xác định: Cách ngày nay khoảng 3.000 năm, cư dân Việt cổ trên đất Đan

Phượng đã tạo lập được cuộc sống vật chất, tinh thần phù hợp, chuẩn bị cho việc lập

làng. Người Việt cổ trên đất xứ Đoài nói chung, Đan Phượng nói riêng, thường chọn

những nơi bằng phẳng nhưng cao ráo, tiện nguồn nước, thường là các gò, bãi cao để

cư trú. Nhiều điểm cư trú ban đầu dần trở thành những điểm quần cư tập trung, là

cơ sở để lập nên các làng, với lũy tre bao quanh, cây đa bến nước ở đầu làng, phía

sau cổng làng là một kết cấu công xã nông thôn, với những mối quan hệ anh em họ

hàng, tình làng, nghĩa xóm vun đắp qua bao đời. Trải mấy ngàn năm, đất nước đã

mấy phen còn mất, các triều đại hưng rồi lại vong, nhưng Làng là thành lũy kiên cố,

ôm sâu, giữ chặt trong lòng nòi giống Việt, văn hóa Việt, duy trì huyết thống quốc

gia và sự trường tồn của dân tộc. Làng Đại Phùng, thuộc tổng Phùng xưa là một

trong những làng quê như thế.

Nguyễn Trãi trong Dư địa chí khen ngợi xứ Đoài: “Ở vùng Sơn Tây người

thuần hậu, phong tục chất phác, tuy qua nhiễu loạn, chưa hề cường ngạnh bao giờ”.

Phan Huy Chú trong sách Hoàng Việt địa dư chí thì viết: “Trấn Sơn Tây: Về tập tục

thì gần như giữ được nếp cũ, là một vùng đất nổi tiếng chân thực về phong hóa và

đẹp đẽ về phong cảnh, nơi hội tụ tinh túy của đất nước”. Những giá trị lịch sử - văn

hóa ấy góp phần không nhỏ vào truyền thống ngàn năm văn hiến của Thăng Long -

Hà Nội. Nói cách khác, Đan Phượng vừa chịu ảnh hưởng của truyền thống văn hiến

29

Thăng Long, đồng thời cũng góp phần không nhỏ vào việc xây dựng nền văn hóa

Thăng Long.

Theo thống kê, trên địa bàn huyện Đan Phượng có 155 di tích lịch sử - văn

hóa. Trong đó 01 di tích Quốc gia đặc biệt là đình Đại Phùng, 37 di tích được xếp

hạng cấp Quốc gia, 33 di tích xếp hạng cấp Thành phố [Số liệu Phòng VHTT Đan

Phượng cung cấp, tháng 9/2024]. Di tích ở Đan Phượng rất phong phú và đa dạng

bao gồm các loại hình: đình, chùa, đền, miếu, văn chỉ, lăng mộ, phân bố ở tất cả các

xã trong huyện, từ xã vùng bãi ven sông đến các xã trung tâm hay thị trấn. Nằm trọn

trong chiếc nôi văn hoá xứ Đoài, Đan Phượng cũng là vùng quê còn giữ được

những làng nghề nổi tiếng: làng mía, làng lụa, làng bún, làng hát (ca trù)... đồng

thời còn giữ được nhiều lễ hội mang dấu ấn nông nghiệp, để Xuân Thu nhị kỳ, nhất

là các dịp đầu Xuân, các làng lại tưng bừng vào hội.

1.3.2. Khái quát về di tích đình Đại Phùng

1.3.2.1. Lịch sử hình thành, quá trình tồn tại

- Làng Đại Phùng: Căn cứ đôi câu đối ở đình Đại Phùng cho thấy làng Đại

Phùng xưa có 10 xóm (giáp). Mười xóm trong làng còn lưu danh đến ngày nay gồm

xóm Chùa, xóm Nha Môn, xóm Đình Bắc (xóm Gò), xóm Đình Tây (xóm Cừ), xóm

Đình Đông, xóm Đình Nam, xóm Cầu (gồm Cầu trong và Cầu ngoài), xóm Đá, xóm

Me, xóm Sủ. Theo các cụ cao niên trong làng, sở dĩ xóm Đình Bắc còn gọi là xóm

Gò là bởi đầu xóm có một gò đất to, trên gò có cây muỗm cổ thụ. Xóm Đình Tây

còn gọi là xóm Cừ là bởi tại địa phận xóm này khởi nguồn một con cừ (ngòi, lạch)

dẫn nước tiêu thuỷ cho cả làng. Đến đầu thời nhà Nguyễn, làng có thêm xóm Mới

(hay còn gọi là làng Mới). Nguyên do, khi đó đất đai trong làng đều đã có chủ, dân

số lại phát triển tăng lên, hương lý cho khai phá khu đất phía Đông Nam của làng,

lập nên xóm thứ 11 để đáp ứng chỗ ở cho dân.

Là một vùng đất thuần nông, cư dân trong làng chủ yếu sống bằng nghề trồng

lúa nước và trồng dâu, chăn tằm, kéo kén, ươm tơ. Người làm nghề tiểu thương,

buôn bán không nhiều. Theo Tự điền bi ký, địa bạ xã Đại Phùng, tổng Đan Phượng,

huyện Đan Phượng khai tháng 3 năm Gia Long thứ 4 (1805), diện tích đất canh tác

của làng là 115 mẫu 9 sào 7 thước. Trong đó, công điền là 8 mẫu 9 sào 6 thước; tư

điền là 107 mẫu 1 thước; kỵ điền và bãi tha ma không tính. Ruộng đất của dân làng

được chia là hai loại. Ngoài đê bao là cánh đồng bãi, chủ yếu trồng dâu nuôi tằm và

30

hoa màu, những nơi vãn, trầm thì cấy lúa. Với các xứ đồng trồng lúa nước, mỗi năm

chỉ cấy một vụ mùa, thu hoạch vào tháng 10 âm lịch. Ngoài việc cấy lúa, hầu như

gia đình nào cũng có nghề trồng dâu, nuôi tằm, kéo kén, ươm tơ. Mùa khan kén,

nhiều gia đình phải tay nải khăn gói đến các vùng lân cận, nhiều khi phải lên tận Cổ

Đô, Lương Khê (thuộc huyện Ba Vì ngày nay) mua kén về ươm.

Xưa kia, Đại Phùng cũng là một làng quê trong vùng sông nước. Đầu làng, về

phía trước mặt đình làng, là con sông Đáy chảy từ Đông Bắc sang Tây Nam, ngoài

đồng ruộng lắm đầm vực, trong làng nhiều hồ ao, nên nghề đánh bắt thuỷ sản cũng

là một sinh kế mang lại nguồn sống của nhiều hộ gia đình. Các nghề đánh lưới, kéo

vó bè, kéo trũm, đánh lưới, đánh giậm, đơm đăng, đơm đó, đánh rọ, đánh lờ phát

triển. Một số hộ còn có nghề nuôi cá bột, ươm cá giống tồn tại cho đến mãi sau này.

Trong làng có ít hộ tiểu thương, buôn bán nhỏ, làm hàng xay, hàng xáo, hàng xén,

hàng khô, buôn bán tơ trồi ở chợ Phùng và các chợ quanh vùng.

Thuở sông Hát còn lưu thông với sông Hồng và giữ vai trò là con đường thuỷ

huyết mạch xuôi sông Hồng về Thăng Long, về xứ Đông, ngược sông Hồng lên

miền ngược, xuôi sông Đáy về xứ Nam rồi vào Thanh - Nghệ, thì làng Đại Phùng

chính là nơi thị tứ, phố chợ sầm uất, nhộn nhịp thương thuyền, với địa danh Phố

Bến đến nay hãy còn. Vùng quê này cũng sớm trở thành một vùng quê văn hiến,

trọng việc học cũng như trọng việc làm giàu. Riêng dòng họ Tạ Đăng làng Đại

Phùng đã có bốn đời kế tiếp nhau đỗ đại khoa, cả văn lẫn võ: Tiến sĩ Tạ Đăng

Vọng: Ông thi Đình khoa thi năm Quý Hợi (1683), đỗ Đệ tam giáp Tiến sỹ năm

Chính Hoà thứ 4, đời vua Lê Hy Tông, làm quan đến chức Giám sát ngự sử, tước

Phượng Sơn Hầu; Tạ Đăng Huân, là con trai cụ Tạ Đăng Vọng, đỗ Hoàng Giáp

chính Tiến sỹ khoa thi năm Canh Thìn (1700) niên hiệu Chính Hoà năm thứ 21, đời

vua Lê Hy Tông, làm quan đến chức Lễ bộ Hữu Thị Lang, tước Phượng Quận

Công; Tạ Đăng Đạo, là con trai cụ Tạ Đăng Huân, đậu Tiến sỹ khoa thi năm Canh

Thìn (1760) niên hiệu Cảnh Hưng năm thứ 21, đời vua Lê Hiển Tông, làm quan đến

chức Lễ khoa Đô cấp sự trung, tước Phùng Lĩnh Tử; Tạ Đăng Liêm, là con trai cụ

Tạ Đăng Đạo, đậu Tạo sỹ (Tiến sỹ ngạch võ) khoa thi năm Đinh Dậu (1777) niên

hiệu Cảnh Hưng năm thứ 37, đời vua Lê Hiến Tông, làm quan đến chức Tả Đô đốc

Chưởng phủ sự, tước Võ Liêm Bá.

31

Ngoài 4 vị đại khoa nêu trên, làng Đại Phùng còn có nhiều người ở các dòng

họ khác đỗ đạt học vị tú tài, nhiều người là sinh đồ, giám sinh... Bởi vậy, Đại Phùng

thực sự là một “Đại danh hương” của huyện Đan Phượng và phủ Quốc Oai xưa. Có

được thành tựu đó là do làng có truyền thống coi trọng việc học, khuyến khích và

tạo điều kiện cho sự học được mở mang. Khoán ước của làng đã ghi: “Đinh dân đã

đủ 18 tuổi nhưng còn đang đi học thì được miễn trừ sưu thuế, phu phen, tạp dịch”.

* Di tích đình Đại Phùng: Di tích đình Đại Phùng thuộc làng Đại Phùng, xã

Đan Phượng, huyện Đan Phượng, thành phố Hà Nội. Năm 1990, đình Đại Phùng

được xếp hạng di tích cấp Quốc gia. Đến ngày 31/12/2019, Thủ tướng Chính phủ đã

ký quyết định số 1954/QĐ-TTg xếp hạng là di tích cấp Quốc gia đặc biệt. Đình

quay về hướng Tây ghé Bắc, trông xuống dòng sông Đáy vắt ngang trước mặt, xa

xa là đỉnh Tản Viên Sơn, ngọn chủ sơn của nước Việt.

Cho đến nay chưa có văn bản thành văn nào cho biết rõ ràng về nguồn gốc,

niên đại khởi dựng và quá trình tồn tại của đình Đại Phùng. Năm 2016, các bậc cao

niên trong làng sao lại từ Viện Hán - Nôm bản Thần phả Trần triều Nghệ Tông công

thần nhất vị đại vương phả lục để soạn thành sách Lịch sử văn hoá làng Đại Phùng.

Theo đó, đình Đại Phùng là nơi thờ phụng vị thần thời Hùng Vương là Tích Lịch

Hỏa Quang và tướng quân Vũ Hùng, một vị tướng thời vua Trần Nghệ Tông.

Tộc phả họ Tạ Đăng của làng Đại Phùng cho biết, cụ Tạ Đăng Vọng đỗ Đệ

tam giáp tiến sỹ khoa thi năm Chính Hoà thứ 4 (Quý Hợi, 1683) nhưng do phải chịu

tang cha nên vào khoa thi sau mới vinh quy, bái tổ. Chính trong dịp đó, ông đã chủ

trì việc hưng công tôn tạo lại ngôi đình trên nền móng cũ đã có từ thời nhà Trần,

ước đoán vào khoảng từ năm 1687 đến năm 1689. Anh trai cụ Tạ Đăng Vọng là cụ

Tạ Thiên Phú là một thầy phong thuỷ có tiếng, chính là người phân kim lập hướng

dựng đình. Các bậc cao niên trong làng truyền rằng, làng Đại Phùng có thế đất hình

kim quy. Đình Đại Phùng toạ lạc trên lưng rùa vàng nhìn xuống sông Hát, thẳng

hướng Tản Viên Sơn. Bởi vậy, đôi câu đối ở trụ biểu trước nhà tiền tế có ghi:

Quy bối tác cơ chung dục thành tú khí

Mã băng cư bạn miêu tả đắc chân hình

Dịch nghĩa: Lưng rùa làm nền móng chung đúc thành tú khí

Ngựa trắng bên bờ ruộng tả hình dáng chân thực

32

Đình được đặt trên lưng rùa ở vị trí gần về phía trước, tạo thành thế hậu

Huyền vũ (cao), tiền Chu tước (thấp). Hậu đình dựa vào thế đất cao dần lên phía

xóm Cầu giữa làng, ở vào giữa lưng rùa. Từ đây địa thế thoải dần ra bốn hướng.

Mặt trước của đình nhìn ra sông Đáy, từ cửa đình ra tới bờ sông theo hướng Tây

Bắc. Thế đất đó được cho rằng là đắc địa: Tả Thanh Long có thuỷ, Hữu Bạch Hổ có

gò cao, Tay Hổ về phía xóm Đình Bắc đầu xóm có gò cao, Tay Long về phía xóm

Đình Tây quanh xóm có cừ nước chảy. Trước cửa đình có ao Khai Khẩu, bên ngoài

ao Khai Khẩu là ao làng, là nội minh đường, ngoại minh đường. Xung quanh đình

là hệ thống ao hồ liên thông với nhau, tạo cho ngôi đình được thế “thuỷ bọc”.

Không xa về phía trước của đình, nơi đỉnh Tản Viên Sơn soi bóng mỗi chiều, là ngã

ba sông Hát lấy nước từ sông Hồng, rồi chảy ngang qua đầu làng. Vẻ đẹp đó đúng

thực như đôi câu đối trong đình còn ghi:

Tư dân thọ vực xuân đài càn khôn đức Đại

Kỳ địa thanh sơn tú thuỷ tả hữu nguyên Phùng

Dịch nghĩa: Cõi thọ đài xuân nơi dân này là đức lớn của trời đất

Sông núi tươi đẹp ở đất này là gặp được nguồn tả hữu

* Về các vị thần được thờ tại đình

Đình Đại Phùng thờ hai vị thần Thành Hoàng làng: Theo thần tích, vị thần

Thành Hoàng được thờ phụng chính và chỉ dân làng Đại Phùng thờ phụng là tướng

quân Vũ Hùng, là một vị tướng thời nhà Trần. Còn vị thần Thành Hoàng được cả

tám làng thuộc tổng Phùng xưa cùng thờ là ngài Tích Lịch Hoả Quang.

Thần tích về ngài Vũ Hùng, được truyền rằng: Tướng quân Vũ Hùng là một

vị tướng dưới thời vua Trần Nghệ Tông. Năm 16 tuổi, Vũ Hùng không những làu

thông kinh sử, mà còn tinh thông cả lục thao, tam lược. Vũ Hùng thường sử dụng

một cây trường côn, sức địch nổi hàng trăm người. Năm 20 tuổi, cha mẹ Vũ Hùng

đều qua đời. Sau ba năm đoạn tang, Vũ Hùng từ giã quê hương đi chu du thiên hạ.

Lúc bấy giờ có bọn rợ Cao thường hay về phía Tây kinh thành quấy nhiễu, cướp

bóc của cải của nhân dân. Vua Nghệ Tông xuống chiếu kêu gọi nhân tài các đạo, bộ,

châu, quận về kinh ứng tuyển để triều đình trao chức tước đi đánh giặc. Vũ Hùng

được nhà vua tuyển chọn trao cho chức thống lĩnh trung quân, khiển tướng điều

binh đi đánh giặc. Khi đi đến địa phận trấn Sơn Tây, phủ Quốc Oai, huyện Đan

Phượng, trang Đại Phùng thì trời vừa tối. Ông liền cho quân sĩ tạm nghỉ rồi đi xung

33

quanh xem xét địa thế, phong cảnh. Khi đã đủ sức, đủ tài, lại được dân làng ủng hộ,

ông chớp lấy thời cơ tiến quân ra cửa sông Hát rồi ngược dòng sông Cái tiến thẳng

đến vùng rợ Cao. Sau một trận giao tranh giặc thua chạy tan tác. Vua Nghệ Tông

nghe tin, đích thân ra tận ngoài thành đón quân thắng trận trở về và truyền mở tiệc

khao thưởng quân sĩ. Ông được thăng chức Đô Đại Ngự sử, lưu lại kinh độ làm việc

nội các. Thời gian không được bao lâu, ông bị lâm bệnh thuốc thang chạy chữa

không khỏi. Ông về trời vào ngày 18 tháng 11. Vua ban sắc cho dân trang Đại

Phùng đến kinh thành rước duệ hiệu về thờ và lấy ngày 18 tháng Giêng làm lễ đản

sinh và ngày 18 tháng 11 làm lễ hóa thần.

Thần tích về ngài Tích Lịch Hỏa Quang truyền rằng: Vào khoảng thượng

tuần tháng Giêng năm Canh Thân thời Hùng Vương thứ 18 trời làm đại hạn, vùng

Đan Phượng bị thiên tai, dịch bệnh tràn lan. Tại trang Phượng Tường và khu vực

lân cận có rất nhiều người ốm đau, thuốc thang không công hiệu. Mọi người bàn

nhau làm sớ tấu lên triều đình. Được tin, nhà vua sai quân thần đến thực địa, cho

quân sĩ thiết lập một đàn tràng làm lễ cáo tế trời đất. Buổi tế đang tiến hành thì bỗng

mưa kéo đến ầm ầm, trời đất tối tăm mù mịt. Một tấm lụa đỏ đeo bám mây vàng từ

trên trời buông xuống trước cửa đàn. Chớp mặt mưa tạnh trời sang, cả quan và dân

đều nhìn thấy trên đàn một cụ già râu tóc bạc phơ nhìn dạng khác lạ đang ngồi ngay

ngắn cất tiếng nói rằng: Ta là thần nhà trời phụng mệnh đức Thượng đế có chiếu chỉ

xuống hạ giới cứu nạn cho dân, vớt chúng sinh từ nơi than lửa bùn lầy, đặt lên nơi

giường màn chiếu chăn êm ấm. Nói xong, cụ già đi ngay vào trong làng, đến khắp

các khu vực xảy ra thiên tai dịch bệnh, đem phép thần tiên biến hóa để cứu người.

Chỉ trong 5 ngày quả nhiên nhiều người bệnh tình đang nguy kịch đã sống lại,

người mới mắc bệnh liển khỏi ngay. Dân chúng rất đỗi vui mừng, khắp nơi bàn tán

nhau, cho rằng lòng trời cứu hộ giáng phúc mới có vị cứu tinh đến giúp. Dân chúng

đem sự việc tấu lên triều đình. Nhà vua cùng với triều thần nghe xong liền cử sứ

thần về tận nơi trao sắc phong vị cứu tinh đó là Thượng đẳng thần, duệ hiệu là Tích

Lịch Hỏa Quang đại vương. Lại ban cho trang Phượng Tường và các khu phụ cận

được thần cứu nạn thuộc huyện Đan Phượng đến kinh thành rước sắc chỉ về địa

phương, lập đền, miếu thờ phụng.

Tại đình Đại Phùng hiện còn đôi câu đối ca tụng công đức của hai vị Thành

Hoàng như sau:

34

Hùng đại thông linh, hộ Phượng tổng tai trừ hoạn hãn

Trần triều uy vũ, tý Phùng trang nghiệp lạc cư an

Dịch nghĩa:

Thời đại nhà Hùng linh thiêng, giúp tổng Đan Phượng trừ tai ngăn hoạ

Triều đại nhà Trần uy vũ, che chở trang Đại Phùng an cư lạc nghiệp

1.3.2.2. Hiện trạng các hạng mục kiến trúc

Tổng thể kiến trúc đình Đại Phùng gồm hai công trình, phía trước là tòa tiền

tế, phía sau là tòa đại đình có kết cấu ba gian hai chái, rộng rãi và cao hơn tòa tiền

tế. Dấu ấn kiến trúc cổ cho biết khởi thủy, đình được dựng theo hình chữ Nhất, nơi

thờ thánh đặt tại gian giữa và ở gác lửng. Đến thế kỷ XIX, dân làng xây thêm phần

hậu cung tạo cho mặt bằng kiến trúc chuyển sang hình chữ Đinh. Hầu hết mọi giá

trị của đình đều tiềm ẩn vào tòa kiến trúc với những mảng chạm gỗ thế kỉ XVII, thể

hiện đặc trưng của nghệ thuật chạm khắc dân gian thời kì này.

Tiền tế: Từ đường làng qua một khoảng sân rộng lát gạch đỏ tới bậc tam cấp

có đôi sấu đá là đến hạng mục tiền tế với bốn mái đao cong. Tiền tế gồm 3 gian hai

dĩ: gian giữa rộng 4,13m; gian bên rộng 5,62m; gian chái 3,28m với bốn hàng chân

cột đặt trên chân đá tảng; đường kính cột cái 35cm; đường kính cột quân 28cm.

Khoảng cách giữa cột cái - cột cái là 2,84m; khoảng cách giữa cột cái - cột quân

1,25m. Cột được làm bằng gỗ lim kiểu “thượng thu hạ thách”. Với hệ mái rộng,

nhìn từ trên xuống, các hàng ngói đan xen san sát nhau tựa như vẩy rồng. Phía mái

trước của tiền tế, từ mỗi góc mái đao xuống là bức tường lửng, tiếp đến là một trụ

biểu, đỉnh trụ đắp nghê chầu, phía dưới là ô lồng đèn để trống, thân trụ soi gờ kẻ chỉ

đắp đôi câu đối chữ Hán, đế trụ thắt cổ bồng. Bộ vì nóc gian giữa và hai gian bên

được làm theo kiểu “thượng chồng rường, hạ chồng rường, bẩy hiên” trên bốn hàng

chân cột. Các bộ vì hạ được làm theo kiểu “chồng rường”, gồm ba con giường

chồng lên nhau, hai con giường trên một đầu ăn mộng vào cột cái, một đầu vươn ra

để đỡ hoành. Con giường thứ ba là con giường cụt. Tất cả các giường tại đây xếp

chồng khít lên nhau tạo thành cốn giường trang trí các đề tài tứ linh... dưới cùng là

xà nách, hai đầu ăn mộng vào cột cái và gác lên cột quân lót đấu kê thót đáy đỡ

hoành. Hạng mục được coi là sản phẩm của nửa đầu thế kỷ XX.

Đại bái: Đại bái là toà kiến trúc nằm song song với tiền tế, gồm 3 gian 2 dĩ,

gian giữa rộng 4,10 m; gian bên rộng 3,62 m; chiều dài gian chái 3,40 m; dĩ rộng

35

1,50 m. Kích thước cạnh chân tảng đá cột cái là 65 cm; kích thước cạnh chân cột đá

cột quân là 44 cm. Trên các chân cột còn có dấu vết lỗ mộng cầu sàn. Hai cột góc

bên phải đã thay bằng xi măng phần dưới năm 1964. Tháng 12 năm 1988 sửa xà

dọc và kèo xối xó, các chái đều một gian. Đường kính cột cái 63 cm; đường kính

cột quân là 44 cm; đường kính cột hiên là 48 cm; từ mép lỗ mộng rầm sàn xuống

mặt chân tảng là 40 cm; kích thước lỗ mộng rầm sàn 15 cm × 20 cm; khoảng cách

giữa cột cái - cột cái 4,2 m; khoảng cách giữa cột cái - cột quân là 2,02 m; khoảng

cách giữa cột quân - cột hiên là 1,50 m.

Kết cấu tòa đại bái gồm 4 bộ vì gỗ. Bộ vì nóc gian giữa và hai gian bên được

làm theo kiểu “thượng giá chiêng chồng rường, hạ cốn rường, kẻ suốt”. Trên cùng

là thượng lương xà nóc tỳ lực qua một đấu kê hình thuyền. Các bộ vì hạ được làm

theo kiểu chồng rường, gồm 3 con rường chồng lên nhau, hai con rường trên một

đầu ăn mộng vào cột cái, một đầu vươn ra để đỡ hoành, con rường thứ ba là con

rường cụt. Tất cả con rường tại đây xếp chồng khít lên nhau tạo thành cốn rường.

Dưới cùng là xà nách, hai đầu ăn mộng vào cột cái và gác lên cột quân lót đấu kê

thót đáy đỡ hoành. Ở phía dưới xà nách là một kẻ nghé. Tại xà nách là một kẻ ăn

mộng từ cột quân chạy ra cột hiên vươn dài theo chiều dốc đỡ lấy tàu mái. Liên kết

giữa các cột cái và cột quân là hệ thống các xà tạo nên bộ khung. Bẩy hiên làm theo

kiểu kẻ suốt, bẩy liền kẻ. Trên 4 hàng chân cột. Dấu vết kiến trúc cổ cho biết, khởi

thủy đình được dựng theo chữ Nhất, nơi thờ thánh đặt tại gác lửng sau cột cái phía

trong tới cột quân. Đến thế kỷ XIX, làng xây thêm phần hậu cung thì chuyển thờ

thánh vào trong hậu cung. Giá trị của ngôi đình hầu như tập trung vào tòa kiến trúc

đại bái với những mảng chạm gỗ của thế kỷ XVII.

Nhìn từ trên xuống, chính giữa bờ nóc để trơn không trang trí, kết thúc bờ

nóc là đầu kìm ngậm bờ nóc. Tại khúc ngủy của bờ dải trang trí hai con sô chạy ra

phía ngoài, đầu hơi ngước về phía trước. Những con sô tại đây mang giá trị nghệ

thuật cao, là sản phẩm của những ngày đầu khởi dựng, niên đại thế kỷ XVII. Phía

ngoài cùng là các đầu đao, tạo tác theo kiểu “long quài phượng mớm” cổ truyền, tô

điểm cho hệ mái tính thẩm mỹ cao. Tại hai đầu gian chái của mái có hai “vỉ ruồi”

được lắp ghép các mảnh ván gỗ trang trí. Nền đại bái được làm cao hơn so với mặt

sân khoảng 50 cm. Lát gạch Bát Tràng kích thước 30 × 30 cm, mặt nền tương đối

bằng phẳng. Theo các cụ cao niên trong làng, trước kia đình có sàn gỗ, nhưng trong

36

thời gian kháng chiến chống Pháp thì sàn gỗ bị tháo dỡ đi, đến khi tu sửa mới lát

gạch Bát Tràng như ngày nay. Ngoài ra, tường bao quanh hạng mục này chỉ xây

lửng che kín phần gầm sàn trước kia, phía trên để thông thoáng với hàng lan can

bằng gỗ. Sàn đình trước kia bị tháo dỡ, dấu vết những lỗ mộng còn lại cho biết, sàn

đình trước kia khá cao. Lối kiến trúc chữ Nhất với hàng lan can của đình Đại Phùng

thường gặp trên nhiều ngôi đình thuộc thế kỷ XVII ở vùng xứ Đoài xưa.

Hậu cung: Hậu cung là hạng mục nằm phía sau đại bái. Nối từ gian giữa hạng

mục đại bái là tòa hậu cung xây kín làm cung cấm thờ Thánh. Các bộ vì được làm

theo kiểu “thượng chồng rường, hạ kẻ”. Khoảng cách giữa các cột là: cột cái - cột

cái 2,55 m; cột quân - cột quân 1,78 m. Đường kính cột cái là 38 cm, đường kính

cột quân 36 cm. Tại gian giữa hậu cung là thượng ban, được sử dụng với công năng

là gác lửng. Thượng ban cao hơn nền đình 1,7 m. Trên thượng ban bài trí các đồ thờ

tự như long ngai bài vị, bát hương, mâm bồng... Bộ vì nóc sau tu bổ còn giữ lại

được một số con rường, kẻ cũ. Hậu cung trốn một mái phía trước được tạo bởi hai

mái chảy nối liền gian giữa đại bái về phía sau tạo thành ống muống. Qua ngưỡng

cửa cao khoảng 30 cm là vào tới nền hậu cung. Nền hậu cung lát gạch Bát Tràng.

Mặt nền hậu cung cùng độ cao với mặt nền đại bái. Phần chịu lực chính của hậu

cung là sự cố kết của bộ khung. Trọng lực của công trình được truyền qua các cột

gỗ dồn xuống các chân tảng đá. Chân tảng đá ở hạng mục này cũng được làm trên

tròn dưới vuông. Kích thước các chân tảng 65 × 65 cm. Độ dày của các chân tảng

đá tính từ mặt nền có độ cao khoảng 10 cm. Hệ thống chân tảng này là làm điểm tựa

cho hệ thống cột để đỡ toàn bộ trọng lượng của công trình, đảm cho hệ thống cột

không bị lún, ngăn ngừa sự hút ẩm, bị mục, mối mọt. Hệ thống tường bao quanh

của tòa hậu cung xây toàn bộ bằng gạch, vôi vữa [43].

1.3.2.3. Lễ hội của đình

Lễ hội đình Đại Phùng là một trong những lễ hội tiêu biểu của vùng đồng

bằng Bắc Bộ, phản ánh rõ nét tín ngưỡng thờ Thành Hoàng làng, một loại hình tín

ngưỡng phổ biến trong không gian văn hoá người Việt đồng bằng Bắc Bộ nói riêng,

Việt Nam nói chung. Cũng như các lễ hội đình làng khác, lễ hội đình Đại Phùng

không chỉ là dịp tưởng nhớ, tri ân các vị thần có công với dân với nước, cầu mong

mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu, mọi việc thuận lợi, mà còn là thời điểm để

dân làng chung tay lo liệu việc làng, chung lòng thành kính phụng thờ thần làng,

37

cùng cộng cảm ơn huệ mênh mông thần làng ban xuống... Tình xóm làng, nghĩa

nước non cứ như vậy mà thêm gắn kết, lại thêm bền lâu. Đây chính là nét đặc sắc,

riêng có của tín ngưỡng Thành Hoàng làng, dưới mái đình làng linh thiêng.

Từ xa xưa, nghi lễ thờ cúng thần Thành Hoàng làng thực hiện tại đình Đại

Phùng được tổ chức vào ba dịp: (1) Ngày 18 tháng Giêng là ngày đản sinh của

thánh Vũ Hùng, đây là lễ hội lớn nhất trong năm; (2) Ngày 12 tháng Giêng tưởng

nhớ thần Tích Lịch Hỏa Quang, vị Thành Hoàng chung của cả tổng Phùng; (3)

Ngày 18 tháng 11 kỷ niệm ngày hóa của thánh Vũ Hùng.

Nghi lễ tế thần Tích Lịch Hỏa Quang: Lễ tế thần vốn tổ chức vào ngày 12

tháng 3 âm lịch hàng năm, tại Quán Cả trên địa phận làng Đông Khê, tương truyền

là nơi thần giáng, do tám làng của tổng Phùng cùng thực hiện. Dịp này, làng Đại

Phùng cử người cùng tham gia tế tổng. Đến đời vua Lê Túc Tông, vua ban chỉ dụ

chuẩn cho tổng Phùng được đổi từ 12 tháng 3 sang ngày 12 tháng Giêng. Từ đó, dân

làng Đại Phùng thực hiện lễ vọng ngài Tích Lịch Hoả Quang vào ngày này. Trong

ngày này có lệ rước nước từ Quán Cả - nơi thờ tự chính của thần Tích Lịch Hoả

Quang - về đình Đại Phùng bao sái long ngai, bài vị của Ngài, gọi là lễ mộc dục.

Nghi lễ tế thần Vũ Hùng: Nghi lễ tế thần Vũ Hùng, vị Thành Hoàng làng

được thờ phụng chính ở đình Đại Phùng được tổ chức vào hai dịp trong năm. Dịp

thứ nhất vào ngày 18 tháng Giêng, là ngày đản sinh nhà Thánh. Dịp thứ hai vào

ngày 18 tháng 11, là ngày hoá của Ngài. Ngày 18 tháng 11 là ngày thần hoá, ngày

này chỉ tổ chức lễ tế nhà Thánh mà không tổ chức hội. Phẩm vật cúng tế là đồ chay,

không tổ chức vui chơi, ca hát... Ngày 18 tháng Giêng là ngày đản nhật của nhà

Thánh. Lễ vật cúng tế được phép dùng thịt gia súc, gia cầm. Ngoài tế lễ còn được

phép tổ chức ca múa, diễn xướng. Vào những năm làng được mùa to hoặc có sự

kiện trọng đại, ngoài lễ tế Thành Hoàng, làng còn mở hội. Những năm này, lễ hội

được tổ chức trong 3 ngày, từ 17 đến 19 tháng Giêng. Làng xóm được dọn dẹp

phong quang, sạch sẽ, treo đèn, kết hoa. Người người ăn vận chỉnh tề, tập trung tại

đình làng để tham dự vào công việc lễ hội đã được làng cắt cử.

Phần lễ được thực hiện tại gian chính toà đại đình, trong 3 ngày, từ ngày 17

đến hết ngày 19 tháng Giêng. Ngày 17 tế yết, ngày 18 tế chính, ngày 19 tế tạ. Lệ

xưa, ban tế Thành Hoàng làng không cử dân thường, mà phải là các vị có chức sắc

trong làng. Chủ tế được làng cử ra đại diện cho dân làng, đứng chủ vị tế thần nên

38

được làng chọn rất chặt chẽ. Ngoài việc phải là người có chức sắc, địa vị cao, mà

thường là Trùm trưởng (người được làng cắt cử thay mặt làng tham gia tế tổng)

hoặc là Lý trưởng, vị Chủ tế phải là người có đức độ, có uy tín với dân làng, vợ

chồng song toàn, con cái phương trưởng. Trước ngày lễ gần một tháng, vào ngày 25

tháng Chạp của năm trước, làng thực hiện lễ mặc mã (thay áo) cho thần. Ngày 18

tháng Giêng tổ chức rước kiệu thần, xuất phát từ sân đình, vòng quanh làng một

lượt, rồi trở về đình để tiến hành lễ tế chính. Những năm mở hội lớn, làng mời các

làng Đông Khê, Đoài Khê, Phượng Trì cùng tham gia hội đồng rước. Đám rước lớn

xuất phát từ sân đình Đại Phùng, đi qua làng Đông Khê, đi qua làng Đoài Khê, vượt

lên trên đê, vòng qua chùa Đại Phùng rồi trở về tập kết ở sân đình.

Phần hội được tổ chức trong suốt dịp này. Theo lệ làng, trong dịp này thường

tổ chức hát lễ, tức là hát ca trù, diễn ra tại đại đình, dành cho quan trên về dự hội

làng và các vị chức sắc trong làng. Ca nương là người địa phương hoặc được đón từ

các giáo phường hàng tổng, hàng huyện. Người cầm chầu giữ nhịp nhất định phải là

vị Trùm trưởng hoặc Chánh - Phó Lý trong làng. Ngoài hát lễ (ca trù), trong dịp này

còn tổ chức: Diễn tuồng ở sân đình. Làng có phường tuồng Bắc, vào dịp lễ hội

thường mời bạn nghề trong tổng tham gia biểu diễn các tích tuồng cổ mua vui cho

dân chúng. Cờ người: Được tổ chức tại sân đình. Chính cờ chọn người trung niên,

có chức vị, danh giá. Quân cờ chọn nam thanh nữ tú. Chơi đu: Được tổ chức ngoài

bãi đê đầu làng, trên một bãi rộng ven đầm nước, phía trước cửa miếu Văn Thánh.

Một vài cây đu được chôn cho cả dân làng và dân hàng tổng cùng chơi. Ngoài các

trò trên, còn có các trò leo cây tre, bắt vịt, chọi gà, đập niêu, được tổ chức từ đầu

làng đến xung quanh đình làng. Đặc biệt, làng Đại Phùng có hai trò rất ít thấy ở các

làng khác, nay tuy không còn thấy dân làng chơi nữa nhưng hãy còn in trong ký ức

của nhiều bậc cao niên. Đó là trò đánh đạp và trò ném đá...

1.3.2.4. Các giá trị tiêu biểu của di tích

Đình Đại Phùng là một công trình kiến trúc - nghệ thuật có giá trị cao. Đây là

một trong những di tích tiêu biểu của vùng châu thổ sông Hồng, được liệt vào hạng

có giá trị đặc biệt về kiến trúc - nghệ thuật, gắn liền với câu ca “Cầu Nam, chùa

Bắc, đình Đoài”. Theo ước đoán, đình Đại Phùng có niên đại khoảng trên 300 năm,

với những nét hoa văn độc đáo của kiến trúc thời Lê trung hưng thế kỷ XVII.

* Giá trị lịch sử

39

Đình Đại Phùng là công trình kiến trúc lớn của huyện Đan Phượng, là một

trong những di tích lịch sử - văn hóa có niên đại khởi dựng từ sớm. Ngày nay di tích

không còn giữ được đầy đủ các hạng mục công trình kiến trúc như ngày đầu khởi

dựng, song những giá trị về lịch sử - văn hóa vẫn được bảo tồn và ngày càng được

bồi đắp thêm. Nằm ở phía Tây của Thủ đô Hà Nội trên một vùng đất giàu truyền

thống lịch sử, văn hóa, nơi đây là địa chỉ của nhiều công trình văn hóa và hoạt động

văn hóa, dân gian đặc sắc như chùa Đại Phùng, quán Đoài Khê, đình Đông Khê,

chùa Đoài Khê là những di tích lịch sử - văn hóa tôn giáo, tín ngưỡng có giá trị,

được nhân dân bảo vệ và phát huy giá trị văn hóa. Các di sản văn hóa này đã góp

phần đáng kể trong việc bảo tồn những giá trị truyền thống của dân tộc và bồi

dưỡng lòng nhân ái, tình yêu quê hương, đất nước cho nhân dân địa phương, xây

dựng và phát triển nền văn hóa Thăng Long và văn minh sông Hồng.

* Giá trị văn hóa

Cũng như nhiều ngôi đình của xứ Đoài, điểm nổi bật nhất của đình Đại

Phùng là nghệ thuật chạm khắc, tập trung thể hiện ở các đầu dư, cốn, kẻ, cửa võng

và bộ vì nóc. Ở nơi đây, nghệ nhân đã thao diễn kỹ thuật một cách khá điêu luyện

dưới dạng chạm bong, lộng, nổi cao với rất nhiều đề tài và bố cục rất sống động. Đó

là các biểu tượng gắn với thế lực thiêng liêng của bầu trời mang ước vọng cầu sinh

khí cho mùa màng bội thu, là những linh vật ở các trạng thái tĩnh động khác nhau,

vừa vui tươi và cũng vừa nghiêm chỉnh. Song, nổi lên hơn cả vẫn là hình tượng gắn

với hoạt cảnh liên quan tới cuộc sống thế nhân. Có thể nói những mảng chạm tinh tế

đã thể hiện các ý tưởng, nội dung có giá trị cao về nghệ thuật, phong phú về thể loại

và tập trung khai thác các đề tài sinh hoạt văn hóa dân gian, tâm linh, thể hiện

những ước vọng của người dân. Tiêu biểu là mô típ hoạt cảnh “Vinh quy bái tổ”.

Đám rước về làng có cảnh ca công của lối hát ca trù truyền thống, các bức diễn tả

hội làng đông vui với nhiều trò diễn xướng, trò chơi như: đấu vật, đá cầu... Trong

điêu khắc đình Đại Phùng, hình tượng con người được thể hiện điểm xuyết vào nền

của rồng và đao mác. Ngoài giám mã hay quản tượng hình tượng người được tập

trung ở mặt trong gian giữa và đầu kẻ. Ngoài ra, hình người còn được thể hiện ở

một “cột” trang trí dưới bụng đầu dư cạnh cửa võng.

Đình Đại Phùng có quy mô đồ sộ, được làm hoàn toàn bằng gỗ xoan với

những cây cột cái to đến hai người ôm. Đặc sắc nhất là các mảng chạm khắc tinh tế

40

được tạo dựng nên bởi những nghệ nhân tài hoa. Đây là những di vật quý giá của

nghệ thuật tạo hình ở thế kỷ XVII còn được lưu giữ rất ít trong hệ thống di tích lịch

sử - văn hóa của cả nước. Ngoài ra, đình Đại Phùng còn là “kho” bảo tồn và lưu trữ

một khối di vật phong phú như long ngai bài vị, bát hương, hương án, y môn, cửa

võng, bát bửu, kiệu... cùng một số đồ thờ tự có giá trị. Đình Đại Phùng là trung tâm

sinh hoạt văn hóa, tâm linh của nhân dân địa phương, là nơi duy trì tổ chức lễ hội

truyền thống hàng năm để tưởng nhớ tới công đức của hai vị Thành Hoàng, nơi hội

tụ người dân trong cộng đồng làng xã để tổ chức các trò vui, giao lưu văn hóa, bảo

lưu những giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể của cha ông ta từ ngàn đời lưu lại

cho mai sau.

Tiểu kết Chương 1

Luận văn đã bước đầu đi vào tìm hiểu, nghiên cứu, tập hợp hệ thống những lý

luận về công tác bảo vệ. phát huy giá trị di sản văn hóa vật thể đồng thời đưa ra các

khái niệm liên quan như: di sản văn hóa, di tích lịch sử văn hóa, bảo vệ, phát huy.

Cơ sở pháp lý về công tác bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa vật thể; nguyên

tắc và mối quan hệ giữa bảo vệ và phát huy giá trị di tích; vai trò của công tác bảo

vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa vật thể. Đồng thời cũng làm rõ nội dung của

công tác bảo vệ, phát huy giá trị di sản văn hóa vật thể. Di tích đình Đại Phùng đã

được khái quát về để nhận diện được về lịch sử cũng như giá trị của di tích.

Những vấn đề lý luận sẽ là cơ sở khoa học để luận văn áp dụng giải quyết

phần thực trạng công tác bảo vệ, phát huy giá trị di tích đình Đại Phùng tại chương

2. Để đạt được mục đích đó, học viên sẽ vận dụng khung về lý thuyết quản lý

DSVH và quy định của pháp luật hiện hành về bảo vệ và phát huy giá trị di tích để

tiến hành nghiên cứu hoạt động bảo tồn di tích, nhìn nhận các di tích là đối tượng

bảo tồn để có những biện pháp phù hợp nhằm bảo vệ, gìn giữ đồng thời phát huy

giá trị của di tích phục vụ cho sự phát triển kinh tế - xã hội của địa phương, đáp ứng

nhu cầu hưởng thụ của cộng đồng.

41

Chương 2

THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG BẢO VỆ VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ

DI TÍCH ĐÌNH ĐẠI PHÙNG

2.1. Các chủ thể tham gia hoạt động bảo vệ và phát huy giá trị di tích

đình Đại Phùng

Điều 10 Luật số 32/2009/QH12 ngày 18/6/2009 của Quốc hội sửa đổi, bổ

sung một số điều của Luật di sản văn hóa số 28/2001/QH10 ngày 29/6/2001, quy

định: “Cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã

hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, tổ chức kinh tế, đơn vị vũ trang nhân dân (sau đây

gọi là tổ chức) và cá nhân có trách nhiệm bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa”.

Như vậy, tham gia thực hiện công tác bảo vệ và phát huy giá trị di tích gồm các chủ

thể sau: (1) Chủ thể là các tổ chức, gồm: cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ

chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, tổ chức kinh tế,

đơn vị vũ trang nhân dân và (2) Chủ thể là cá nhân. Nói cách khác, mọi tổ chức, cá

nhân đều có thể tham gia và trở thành chủ thể của hoạt động bảo vệ và phát huy giá

trị di tích, với vai trò, trách nhiệm, khả năng khác nhau, tuân thủ đúng theo các quy

định của pháp luật về di sản văn hoá.

Qua nghiên cứu và khảo sát thực tiễn công tác bảo vệ, phát huy giá trị di tích

đình Đại Phùng trong những năm vừa qua, học viên tập trung phân tích vai trò,

trách nhiệm, quyền hạn và nhiệm vụ của các chủ thể tham gia vào quá trình thực

hiện công tác bảo vệ và phát huy giá trị di tích quốc gia đặc biệt đình Đại Phùng.

Đồng thời, bước đầu đề cập, phân tích, làm rõ vai trò của cộng đồng dân cư trong

công tác bảo vệ và phát huy giá trị di tích.

42

2.1.1. Các chủ thể gián tiếp tham gia

Trong các chủ thể tham gia vào việc bảo vệ và phát huy giá trị của di tích, các

cơ quan quản lý nhà nước ở các cấp có vai trò rất quan trọng. Điều 55 Luật Di sản

văn hóa quy định:

“1. Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về di sản văn hóa.

2. Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực

hiện quản lý nhà nước về di sản văn hóa.

3. Các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ có trách nhiệm quản

lý nhà nước về di sản văn hóa theo phân công của Chính phủ

Chính phủ quy định cụ thể trách nhiệm của các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ

quan thuộc Chính phủ trong việc phối hợp với Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch để

thực hiện thống nhất quản lý nhà nước về di sản văn hóa.

4. Ủy ban nhân dân các cấp trong phạm vi nhiệm vụ và quyền hạn của mình

thực hiện các việc quản lý nhà nước về di sản văn hóa ở địa phương theo phân cấp

của Chính phủ” [29].

Như vậy, theo quy định của Luật Di sản văn hóa và các quy định của pháp

luật hiện hành, cơ cấu tổ chức quản lý nhà nước về di tích lịch sử - văn hóa ở nước

ta được thiết lập và có sự thống nhất từ Trung ương đến địa phương. Ở mỗi cấp

quản lý đều có những chức năng, nhiệm vụ, trách nhiệm và quyền hạn cụ thể, đảm

bảo tính thống nhất với mục tiêu bảo tồn và phát huy giá trị DSVH nói chung và di

tích lịch sử văn hóa nói riêng đạt hiệu quả cao.

* Chính phủ

Chính phủ có thẩm quyền cao nhất về quản lý di sản văn hóa, theo quy định

Chính phủ có quyền hạn và trách nhiệm: Ban hành kịp thời và đầy đủ các văn bản

pháp luật, quyết định các biện pháp để tổ chức thi hành các quy định của Hiến pháp,

luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc

hội, lệnh, quyết định của Chủ tịch nước về di sản văn hóa (Điều 6, Luật Tổ chức

Chính phủ 2015); Quyết định chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách và các

chương trình, dự án về bảo vệ, phát huy giá trị của di sản theo thẩm quyền; Xây

dựng các dự án luật, dự thảo nghị quyết trình Quốc hội, dự án pháp lệnh, dự thảo

nghị quyết trình Ủy ban thường vụ Quốc hội về bảo vệ di sản văn hóa (Điều 7, Luật

Tổ chức Chính phủ năm 2015); Quyết định chính sách cụ thể để bảo vệ và phát huy

43

giá trị di sản văn hóa (Điều 12, khoản 2, Luật Tổ chức Chính phủ năm 2015); Quy

định thẩm quyền, trình tự, thủ tục lập, phê duyệt quy hoạch, dự án bảo quản, tu bổ,

phục hồi di tích (Điều 34 Khoản 3, Luật Di sản văn hóa hiện hành)...

* Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch

Là cơ quan của Chính phủ, chịu trách nhiệm trước Chính phủ về thực hiện

quản lý nhà nước về di sản văn hóa, ngoài các nhiệm vụ được quy định tại Luật Tổ

chức Chính phủ năm 2015, Luật Di sản văn hóa hiện hành, chức năng, nhiệm vụ,

quyền hạn, trách nhiệm của Bộ VHTTDL trong quản lý nhà nước về di sản văn hóa

nói chung, về di tích nói riêng, được quy định rất cụ thể tại Nghị định số

01/2023/NĐ-CP ngày 16/01/2023 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ,

quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ VHTTDL [9].

* Các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ

Trong bảo vệ, phát huy giá trị của di sản văn hóa nói chung, bảo vệ và phát

huy giá trị di tích nói riêng, các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ có

chức năng, vai trò là các cơ quan phối hợp, thực hiện nhiệm vụ cụ thể khi có yêu

cầu hoặc có sự phân công của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, theo quy định của

Luật Di sản văn hóa hiện hành: “Bộ, cơ quan ngang Bộ trong phạm vi nhiệm vụ,

quyền hạn của mình có trách nhiệm phối hợp với Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch

thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước về di sản văn hóa theo quy định của Luật này

và quy định khác của pháp luật có liên quan; phối hợp với Bộ Văn hóa, Thể thao và

Du lịch, Bộ, cơ quan ngang Bộ khác, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh trong việc thu hồi,

mua và đưa di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia và di sản tư liệu có nguồn gốc Việt Nam

ở nước ngoài về nước” [30].

* Ủy ban nhân dân các cấp

Theo quy định của Luật Di sản văn hoá, UBND các cấp “trong phạm vi,

nhiệm vụ, quyền hạn của mình” có trách nhiệm: “a) Xây dựng và ban hành theo

thẩm quyền Quy chế quản lý, bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hoá trên địa bàn;

b) Chịu trách nhiệm toàn diện về hoạt động quản lý, bảo vệ và phát huy giá trị đối

với di sản văn hoá trên địa bàn được đưa vào các danh mục kiểm kê, di sản văn hoá

trên địa bàn được xếp hạng, ghi danh, công nhận trong các danh mục của quốc gia,

các danh sách, danh mục của UNESCO theo quy định của Luật này, quy định khác

của pháp luật có liên quan và quy định, hướng dẫn của UNESCO; c) Ban hành Quy

44

chế phối hợp quản lý, bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hoá với các địa phương

có chung di sản văn hoá được xếp hạng, ghi danh, công nhận ở các danh mục của

quốc gia hoặc các danh sách, danh mục của UNESCO; d) Trách nhiệm khác theo

quy định của Luật này và quy định khác của pháp luật có liên quan” [30].

Theo quy định của Luật Tổ chức chính quyền địa phương, UBND cấp tỉnh,

huyện được tổ chức cơ quan chuyên môn trực thuộc, tham mưu, giúp UBND thực

hiện các nhiệm vụ, quyền hạn theo sự phân cấp, ủy quyền của cơ quan nhà nước cấp

trên, cụ thể là Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch thuộc UBND cấp tỉnh và Phòng Văn

hóa và Thông tin thuộc UBND cấp huyện. Các cơ quan này chịu sự chỉ đạo của

UBND cùng cấp và sự kiểm tra chuyên môn của cơ quan quản lý cấp trên. Nhiệm

vụ, quyền hạn được quy định tại Thông tư số 08/2021/TT- BVHTTDL ngày

08/9/2021 của Bộ VHTTDL.

Điều 32 và Điều 33 Luật Di sản văn hóa năm 2024 quy định: Mọi di tích đều

phải có tổ chức hoặc người đại diện được giao quản lý, sử dụng và chịu trách nhiệm

trước pháp luật về các hoạt động quản lý, bảo vệ, phát huy giá trị di tích. Việc giao

quản lý căn cứ vào loại hình, giá trị, quy mô và tình hình thực tiễn tại địa phương.

Với di tích phân bố trên nhiều tỉnh, Chủ tịch UBND các tỉnh liên quan quyết định

việc giao tổ chức quản lý. Tổ chức được giao quản lý di tích có trách nhiệm lập và

thực hiện quy hoạch, kế hoạch bảo tồn, phát huy giá trị; giám sát bảo tồn; tổ chức

nghiên cứu, trưng bày, tuyên truyền, hoạt động dịch vụ; ứng dụng khoa học công

nghệ; đào tạo nhân lực; phối hợp kiểm tra, giám sát phát triển kinh tế - xã hội trong

khu vực bảo vệ di tích; hợp tác quốc tế; thực hiện báo cáo, và các nhiệm vụ khác do

cơ quan có thẩm quyền giao.

Đây là một điểm mới mà Luật Di sản văn hóa năm 2024 quy định rõ việc di

tích phải có tổ chức quản lý, người đại diện chịu trách nhiệm trước pháp luật về

hoạt động quản lý, bảo vệ và phát huy giá trị di tích; quy định rõ nhiệm vụ của tổ

chức được giao quản lý di tích đối với di tích, để sử dụng cho việc nghiên cứu về

Ban quản lý di tích đình Đại Phùng trong đề tài nghiên cứu của học viên.

* Các chủ thể tham gia công tác bảo vệ và phát huy giá trị di tích trên địa bàn

thành phố Hà Nội:

Căn cứ Luật Tổ chức chính quyền địa phương 2015, Luật Di sản văn hóa và

pháp luật có liên quan, ngày 17/11/2016, UBND thành phố Hà Nội đã có Quyết

45

định số 48/2016/QĐ-UBND ban hành Quy chế quản lý, bảo vệ và phát huy giá trị di

tích lịch sử - văn hóa và danh lam thắng cảnh trên địa bàn thành phố Hà Nội. Điều

17 Quy chế này quy định, các cơ quan quản lý di tích được UBND thành phố Hà

Nội giao nhiệm vụ gồm:

“1. Ủy ban nhân dân Thành phố thực hiện việc quản lý nhà nước đối với toàn

bộ di tích trên địa bàn thuộc thẩm quyền quản lý của Thành phố.

2. Sở Văn hóa và Thể thao chịu trách nhiệm tham mưu Ủy ban nhân dân

Thành phố thực hiện quản lý nhà nước về di tích trên địa bàn Thành phố.

3. Ủy ban nhân dân cấp huyện thực hiện việc quản lý nhà nước về di tích

trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn và nhiệm vụ được phân công.

Ủy ban nhân dân cấp huyện phân công Ủy ban nhân dân cấp xã thực hiện

quản lý di tích trên địa bàn, bảo đảm phù hợp với điều kiện, khả năng cụ thể của

mỗi địa phương và thẩm quyền, trách nhiệm của cấp xã theo quy định pháp luật.

Đối với di tích quốc gia đặc biệt, việc quản lý do Ủy ban nhân dân cấp huyện quyết

định, phù hợp quy định pháp luật; trong thành phần tham gia quản lý phải bố trí

nhân sự có trình độ chuyên môn về di tích.

4. Phòng Văn hóa và Thông tin chịu trách nhiệm trước Ủy ban nhân dân cấp

huyện thực hiện quản lý nhà nước về di tích trên địa bàn huyện.

5. Ủy ban nhân dân cấp xã quyết định thành lập Ban quản lý di tích hoạt động

theo chế độ kiêm nhiệm căn cứ vào đặc điểm, tình hình kinh tế - xã hội, số lượng di

tích, sau khi có thỏa thuận bằng văn bản của Phòng Văn hóa và Thông tin cấp

huyện về thành phần nhân sự”.

Về phân công quản lý di tích trên địa bàn, Điều 18, Quy chế quản lý, bảo vệ

và phát huy giá trị di tích lịch sử - văn hóa và danh lam thắng cảnh trên địa bàn

thành phố Hà Nội, quy định:

“1. Ủy ban nhân dân Thành phố quản lý các di tích tiêu biểu, gồm: Khu di

tích Trung tâm Hoàng thành Thăng Long, Khu di tích Cổ Loa, Khu di tích Văn

Miếu - Quốc Tử Giám; Di tích tưởng niệm Bác Hồ tại Vạn Phúc - Hà Đông; Di tích

nhà tù Hỏa Lò; Di tích 48 Hàng Ngang; Di tích 5 Hàm Long; Di tích 90 Thợ

Nhuộm; Cụm di tích Hồ Hoàn Kiếm - Đền Ngọc Sơn - Tượng đài Vua Lê; Di tích

Đền Bà Kiệu và các di tích khác do Ủy ban nhân dân Thành phố quyết định.

46

2. Ủy ban nhân dân cấp huyện quản lý di tích còn lại trên địa bàn, trừ di tích

được quy định tại khoản 1 Điều này và di tích do Bộ, ngành ở Trung ương quản lý.

3. Ủy ban nhân dân cấp xã thực hiện quản lý theo phân công của Ủy ban nhân

dân cấp huyện”.

Như vậy, theo quy định của Quyết định 48/2016/QĐ-UBND ngày 17/11/2016

của UBND thành phố Hà Nội, các chủ thể tham gia quản lý di tích trên địa bàn

thành phố Hà Nội gồm: UBND thành phố với cơ quan chuyên môn trực thuộc là Sở

Văn hóa và Thể thao, UBND cấp huyện với cơ quan chuyên môn trực thuộc là

Phòng Văn hóa và Thông tin, UBND cấp xã và Ban quản lý di tích do UBND cấp

xã thành lập. Trên cơ sở quy định của pháp luật về tổ chức chính quyền địa phương,

pháp luật về di sản văn hoá, UBND thành phố đã giao các chủ thể này chức năng,

nhiệm vụ, quyền hạn trong bảo vệ và phát huy giá trị di tích như sau:

* UBND thành phố Hà Nội: Chịu trách nhiệm chỉ đạo các hoạt động về quản

lý DSVH theo quy định của Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015 và

Luật Di sản văn hóa hiện hành, như: xây dựng quy hoạch; lập kế hoạch bảo vệ và

phát huy giá trị di tích; kiểm kê, nghiên cứu đối với di tích và toàn bộ cổ vật của di

tích; chỉ đạo và cấp phép cho các hoạt động bảo vệ, phát huy giá trị di tích, tiến

hành thanh tra, kiểm tra việc chấp hành pháp luật, giải quyết khiếu nại, tố cáo, khen

thưởng và xử lý vi phạm pháp luật về di tích.

* Sở Văn hóa và Thể thao thành phố Hà Nội: Sở Văn hóa và Thể thao thành

phố Hà Nội là cơ quan chuyên môn trực thuộc UBND thành phố Hà Nội, thực hiện

chức năng, nhiệm vụ quản lý nhà nước về văn hóa và thể thao. Trong quản lý nhà

nước về di sản văn hóa, Sở Văn hóa và Thể thao thành phố Hà Nội có nhiệm vụ:

“- Tổ chức thực hiện quy chế, giải pháp huy động, quản lý, sử dụng các

nguồn lực để bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa trên địa bàn Thành phố sau

khi được phê duyệt;

- Tổ chức nghiên cứu, sưu tầm, kiểm kê và lập hồ sơ di sản văn hóa phi vật

thể trên địa bàn Thành phố; cấp giấy phép nghiên cứu, sưu tầm di sản văn hóa phi

vật thể trên địa bàn cho người Việt Nam định cư ở nước ngoài, tổ chức, cá nhân

nước ngoài;

47

- Quản lý, hướng dẫn tổ chức các hoạt động bảo tồn, phát huy giá trị di sản

văn hóa, lễ hội truyền thống, tín ngưỡng gắn với di tích, nhân vật lịch sử trên địa

bàn Thành phố;

- Tổ chức kiểm kê, lập danh mục, lập hồ sơ xếp hạng di tích lịch sử - văn hóa

và danh lam thắng cảnh trên địa bàn Thành phố;

- Thỏa thuận chủ trương lập dự án, báo cáo kinh tế - kỹ thuật; thẩm định dự

án, báo cáo kinh tế - kỹ thuật; thỏa thuận thiết kế bản vẽ thi công bảo quản, tu bổ,

phục hồi di tích cấp Thành phố ở địa phương; hướng dẫn, tổ chức thực hiện tu sửa

cấp thiết và các dự án bảo quản, tu bổ, phục hồi di tích thuộc Thành phố quản lý sau

khi được phê duyệt;

- Thẩm định dự án cải tạo, xây dựng các công trình nằm ngoài khu vực bảo

vệ di tích cấp Thành phố ở địa phương có khả năng ảnh hưởng đến cảnh quan, môi

trường của di tích;

- Tiếp nhận hồ sơ, hướng dẫn thủ tục, trình cấp có thẩm quyền cấp giấy phép

thăm dò, khai quật khảo cổ, khai quật khẩn cấp; theo dõi, giám sát việc thực hiện

nội dung giấy phép khai quật khảo cổ học trên địa bàn Thành phố;

- Thẩm định hiện vật và hồ sơ hiện vật đề nghị công nhận bảo vật quốc gia

của bảo tàng cấp Thành phố, ban hoặc trung tâm quản lý di tích, bảo tàng ngoài

công lập, tổ chức, cá nhân là chủ sở hữu hoặc đang quản lý hợp pháp hiện vật ở

Thành phố;

- Tổ chức việc thu nhận, bảo quản các di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia do tổ

chức, cá nhân giao nộp và thu giữ ở địa phương theo quy định của pháp luật; tổ

chức đăng ký và quản lý di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia; cấp chứng chỉ hành nghề

đối với chủ cửa hàng mua bán di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia; cấp giấy phép làm

bản sao di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia thuộc di tích quốc gia, di tích cấp Thành

phố, bảo tàng cấp Thành phố và sở hữu tư nhân ở địa phương; cấp, thu hồi giấy

chứng nhận đủ điều kiện hoạt động giám định cổ vật của cơ sở giám định cổ vật tại

Thành phố; cấp, cấp lại, thu hồi Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh giám

định cổ vật; cấp, cấp lại, thu hồi Chứng chỉ hành nghề tu bổ di tích; cấp, cấp lại, thu

hồi Giấy chứng nhận đủ điều kiện hành nghề bảo quản, tu bổ, phục hồi di tích;

- Xác nhận điều kiện đối với việc thành lập bảo tàng cấp Thành phố và điều

kiện được cấp giấy phép hoạt động đối với bảo tàng ngoài công lập ở địa phương”.

48

Bên cạnh đó, Sở Văn hoá và Thể thao thành phố Hà Nội còn được phân công

thực hiện nhiệm vụ quản lý di tích, di sản văn hóa theo Quyết định số

48/2016/QĐ-UBND ngày 17/11/2016 và Quyết định số 31/2021/QĐ-UBND sửa

đổi, bổ sung một số điều của Quy chế quản lý, bảo vệ và phát huy giá trị di tích lịch

sử - văn hóa và danh lam thắng cảnh trên địa bàn thành phố Hà Nội ban hành theo

Quyết định số 48/2016/QĐ-UBND ngày 17/11/2016 của UBND thành phố Hà Nội.

* Ban Quản lý di tích danh thắng Hà Nội

Theo Quyết định số 4540/QĐ-UBND ngày 18/11/2022 của UBND thành phố

Hà Nội quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ban Quản

lý di tích danh thắng Hà Nội. Theo đó, Ban Quản lý di tích danh thắng Hà Nội là

đơn vị trực thuộc Sở Văn hoá và Thể thao thành phố Hà Nội, có chức năng tổ chức

thực hiện các hoạt động nghiệp vụ về công tác bảo vệ và phát huy giá trị di tích lịch

sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh thuộc địa bàn thành phố Hà Nội và các di tích

quốc gia đặc biệt khác (nếu có) do Thành phố giao quản lý; tổ chức quản lý trực tiếp

các di tích, công trình văn hóa thuộc thẩm quyền của UBND thành phố Hà Nội do

Sở Văn hóa và Thể thao thành phố Hà Nội giao. Trên cơ sở chức năng đó, Ban

Quản lý di tích danh thắng Hà Nội được UBND thành phố Hà Nội giao thực hiện

các nhiệm vụ sau:“(1) Trình Giám đốc Sở Văn hóa và Thể thao thành phố Hà Nội

quy hoạch phát triển, kế hoạch hoạt động dài hạn, hàng năm của Ban Quản lý di tích

danh thắng Hà Nội và tổ chức thực hiện sau khi được phê duyệt; (2) Trực tiếp quản

lý các di tích, công trình văn hoá thuộc thẩm quyền của UBND thành phố Hà Nội

do Sở Văn hóa và Thể thao thành phố Hà Nội giao quản lý gồm:Di tích Quốc gia

đặc biệt Hồ Hoàn Kiếm và Đền Ngọc Sơn, Tượng đài Vua Lê; Di tích đền Bà Kiệu,

Di tích tưởng niệm Bác Hồ tại Vạn Phúc - Hà Đông; Di tích 48 Hàng Ngang; Di

tích 5D Hàm Long; Di tích 90 Thợ Nhuộm; Tượng đài Lý Thái Tổ và các do tích

quốc gia đặc biệt khác (nếu có) do Thành phố giao quản lý; (3) Tổ chức bảo quản,

duy tu, bảo dưỡng định kỳ, đột xuất các di tích, công trình văn hóa được giao quản

lý; (4) Tổ chức thực hiện các hoạt động bảo vệ và phát huy giá trị di tích; hoạt động

dịch vụ tại các di tích, công trình được giao quản lý; (5) Phối hợp tổ chức thực hiện

các hoạt động thăm dò, khai quật khảo cổ trên địa bàn thành phố Hà Nội; (6) Tổ

chức các hoạt động nghiên cứu, hội thảo, hội nghị phục vụ công tác bảo vệ và phát

huy giá trị di tích; (7) Phối hợp tổ chức sưu tầm tư liệu, hệ thống hoá tư liệu liên

49

quan đến việc bảo vệ và phát huy giá trị di tích thuộc thành phố Hà Nội, phối hợp

với UBND các quận, huyện, thị xã, bổ sung hồ sơ hiện vật, dị vật, bảo vật quốc gia

tại các di tích thuộc thành phố Hà Nội; (8) Phối hợp tổ chức quản lý, bảo quản, lưu

trữ, khai thác, phát huy giá trị hồ sơ di tích, hiện vật trong các di tích thuộc thành

phố Hà Nội; (9) Phối hợp tổ chức thực hiện điều tra, phát hiện, thống kê, kiểm kê,

đánh giá, phân loại, lập danh mục các di tích thuộc thành phố Hà Nội; (10) Phối hợp

tổ chức lập hồ sơ tư liệu di tích; phối hợp lập hồ sơ xếp hạng di tích; hồ sơ khoa học

hiện vật trong các di tích thuộc thành phố Hà Nội; (11) Phối hợp hướng dẫn chuyên

môn nghiệp vụ các hoạt động bảo vệ và phát huy giá trị di tích thuộc thành phố Hà

Nội;(12) Tổ chức các hoạt động hợp tác, giao lưu văn hoá, trao đổi thông tin, kinh

nghiệm trong công tác bảo tồn và phát huy, khai thác giá trị di sản, di tích với các tổ

chức, cá nhân trong nước và quốc tế; (13) Tham mưu thực hiện công tác quản lý,

bảo vệ và phát huy giá trị di tích thuộc thẩm quyền quản lý của UBND thành phố

Hà Nội do Chủ tịch UBND thành phố Hà Nội giao, phù hợp với quy định hiện

hành”.

* UBND huyện Đan Phượng

UBND huyện Đan Phượng thực hiện nhiệm vụ quản lý, bảo vệ và phát huy

giá trị của di tích theo phân công của UBND thành phố Hà Nội theo quy định tại

khoản 3 Điều 17, khoản 2 Điều 18 Quy chế quản lý, bảo vệ và phát huy giá trị di

tích lịch sử - văn hóa và danh lam thắng cảnh trên địa bàn thành phố Hà Nội ban

hành theo Quyết định số 48/2016/QĐ-UBND ngày 17/11/2016 của UBND thành

phố Hà Nội, cụ thể sau:

- “Ủy ban nhân dân cấp huyện thực hiện việc quản lý nhà nước về di tích

trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn và nhiệm vụ được phân công.

Ủy ban nhân dân cấp huyện phân công Ủy ban nhân dân cấp xã thực hiện

quản lý di tích trên địa bàn, bảo đảm phù hợp với điều kiện, khả năng cụ thể của

mỗi địa phương và thẩm quyền, trách nhiệm của cấp xã theo quy định pháp luật.

Đối với di tích quốc gia đặc biệt, việc quản lý do Ủy ban nhân dân cấp huyện quyết

định, phù hợp quy định pháp luật; trong thành phần tham gia quản lý phải bố trí

nhân sự có trình độ chuyên môn về di tích”(khoản 3, Điều 17).

50

- “Ủy ban nhân dân cấp huyện quản lý di tích còn lại trên địa bàn, trừ di tích

được quy định tại khoản 1 Điều này và di tích do Bộ, ngành ở Trung ương quản lý”

(khoản 2, Điều 18) [54].

2.1.2. Các chủ thể trực tiếp tham gia

* Phòng Văn hóa và Thông tin huyện Đan Phượng

Phòng VH&TT huyện Đan Phượng được tổ chức và hoạt động theo quy định

tại Thông tư số 08/2021/TT-BVHTTDL ngày 08/9/2021 của Bộ trưởng Bộ

VHTTDL - Hướng dẫn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Sở Văn hóa, Thể thao

và Du lịch, Sở Văn hóa và Thể thao, Sở Du lịch thuộc UBND tỉnh, thành phố trực

thuộc trung ương; Phòng Văn hóa và Thông tin thuộc UBND huyện, quận, thị xã,

thành phố thuộc tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương. Theo đó, “Phòng VH&TT

huyện Đan Phượng là cơ quan chuyên môn thuộc UBND huyện Đan Phượng, thực

hiện chức năng tham mưu, giúp UBND huyện quản lý nhà nước về: Văn hóa, gia

đình, thể dục, thể thao, du lịch, quảng cáo, báo chí, xuất bản, bưu chính, viễn thông,

công nghệ thông tin, hạ tầng thông tin, phát thanh truyền hình, thông tin cơ sở,

thông tin đối ngoại trên địa bàn; thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn theo sự ủy quyền

UBND huyện và theo quy định của pháp luật”. Như vậy, với vai trò cơ quan chuyên

môn trực thuộc UBND huyện, Phòng VH&TT huyện Đan Phượng chịu trách nhiệm

trước UBND huyện về việc tổ chức thực hiện các nhiệm vụ về quản lý di tích trên

địa bàn huyện.

Trong Quy chế quản lý, bảo vệ và phát huy giá trị di tích lịch sử - văn hóa và

danh lam thắng cảnh trên địa bàn thành phố Hà Nội cũng quy định rõ: “Phòng Văn

hóa và Thông tin chịu trách nhiệm trước Ủy ban nhân dân cấp huyện thực hiện quản

lý nhà nước về di tích trên địa bàn huyện” [54].

* UBND xã Đan Phượng

Theo Quy chế quản lý, bảo vệ và phát huy giá trị di tích lịch sử - văn hóa và

danh lam thắng cảnh trên địa bàn thành phố Hà Nội, UBND xã Đan Phượng thực

hiện nhiệm vụ quản lý di tích theo phân công của UBND huyện Đan Phượng, có

trách nhiệm: “Quyết định thành lập Ban quản lý di tích hoạt động theo chế độ kiêm

nhiệm căn cứ đặc điểm, tình hình kinh tế - xã hội, số lượng di tích, sau khi có thỏa

thuận bằng văn bản của Phòng Văn hóa và Thông tin cấp huyện về thành phần nhân

sự” (khoản 5, Điều 17).

51

* Ban Quản lý di tích xã Đan Phượng

Căn cứ hướng dẫn của Phòng Văn hóa và Thông tin huyện, Ban Quản lý di

tích xã Đan Phượng được thành lập bao gồm các thành phần kiêm nhiệm, do Chủ

tịch (hoặc Phó Chủ tịch) Ủy ban nhân dân cấp xã nơi có di tích làm Trưởng ban;

thành viên gồm: Cán bộ làm công tác văn hóa, đại diện các đoàn thể của xã, trụ trì,

thủ từ hoặc cá nhân là chủ sở hữu di tích, người hiểu biết về di tích. Căn cứ tính

chất, đặc điểm của từng di tích, có thể bố trí thêm các thành phần khác để thực hiện

nhiệm vụ. Theo đó, Ban Quản lý di tích xã Đan Phượng hiện nay được kiện toàn và

hoạt động theo Quyết định số 71/QĐ-UBND ngày 15/4/2024 của UBND xã Đan

Phượng, gồm 10 thành viên, do Phó Chủ tịch UBND xã làm trưởng ban. Cùng với

10 thành viên trên, UBND xã còn mời đại diện Ủy ban Mặt trận Tổ quốc, Hội cựu

chiến binh, Hội nông dân, Hội phụ nữ, Đoàn thanh niên, lãnh đạo thôn có di tích

trong xã tham gia ban này.

Theo quy định, Ban Quản lý di tích xã Đan Phượng có chức năng, nhiệm vụ

như sau:

“- Giúp UBND xã quản lý, bảo vệ, khai thác, gìn giữ và phát huy giá trị các

di tích trên địa bàn và chịu sự quản lý trực tiếp của UBND xã và sự chỉ đạo hướng

dẫn của Phòng Văn hóa và Thông tin huyện Đan Phượng;

- Ngăn ngừa và xử lý những vi phạm xâm hại đến di tích, kịp thời báo cáo với

UBND xã khi phát hiện các di tích xuống cấp;

- Tuyên truyền nâng cao ý thức trong nhân dân việc bảo vệ và phát huy giá trị

di tích trên địa bàn” [2].

Hàng năm, UBND xã đều củng cố và kiện toàn BQLDT xã, nhằm bổ sung,

điều chỉnh cơ cấu nhân sự cho phù hợp với địa phương. Các thành viên Ban Quản lý

di tích xã Đan Phượng thực hiện nhiệm vụ theo phân công nhiệm vụ và Quy chế

hoạt động của Ban.

* Tiểu ban quản lý di tích Đình - Chùa Đại Phùng

Tiểu ban Quản lý di tích Đình - Chùa Đại Phùng hiện nay được kiện toàn

theo Quyết định số 1261/QĐ-UBND ngày 13/4/2022 của UBND xã Đan Phượng.

Theo quy định, Tiểu Ban Quản lý di tích có chức năng, nhiệm vụ như sau:

52

“- Giúp UBND xã và BQL di tích xã quản lý, bảo vệ, khai thác, gìn giữ và

phát huy giá trị các di tích trên địa bàn và chịu sự quản lý trực tiếp của UBND xã và

sự chỉ đạo hướng dẫn của Ban Quản lý di tích xã Đan Phượng.

- Ngăn ngừa và xử lý những vi phạm xâm hại đến di tích, kịp thời báo cáo với

UBND xã khi phát hiện các di tích xuống cấp;

- Tuyên truyền nâng cao ý thức trong nhân dân việc bảo vệ và phát huy giá trị

di tích trên địa bàn”

2.1.3. Cơ chế phối hợp giữa các chủ thể quản lý

Quản lý di tích không phải là trách nhiệm của riêng ngành văn hóa, mà cần

có sự tham gia vào cuộc của nhiều cấp, ngành. Để nâng cao hiệu quả công tác quản

lý di tích cũng cần chú ý đến sự phối hợp liên ngành giữa các chủ thể quản lý.

Luật Di sản văn hoá quy định rõ: “Quản lý, bảo vệ, phát huy giá trị di sản văn

hóa là quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của mọi cơ quan, tổ chức, cộng đồng và cá

nhân” [29]. Đồng thời “Nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong bảo đảm và phát triển

hoạt động bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa; huy động nguồn lực xã hội cho

hoạt động bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa của vùng, miền, của đồng bào

dân tộc”.

Như vậy, việc quản lý, bảo vệ và phát huy giá trị di tích được tổ chức theo

cấp hành chính, theo chiều dọc từ trung ương đến địa phương, từ thành phố xuống

đến các cấp huyện/thị xã, xã/phường, thôn/khu dân cư. Về phương diện bộ máy tổ

chức, tương ứng với các cấp chính quyền sẽ là: Sở Văn hóa và Thể thao thành phố

Hà Nội, Phòng Văn hóa và Thông tin cấp huyện, Ban Văn hóa - Xã hội cấp xã. Bên

cạnh đó là các ban quản lý di tích cấp xã, tiểu ban quản lý di tích ở di tích cụ thể do

UBND cấp xã quyết định thành lập và giao nhiệm vụ.

Di tích kiến trúc nghệ thuật đình Đại Phùng, huyện Đan Phượng, thành phố

Hà Nội được xếp hạng di tích quốc gia đặc biệt theo Quyết định số 1954/QĐ-TTg

ngày 31/12/2019 của Thủ tướng Chính phủ. Theo quy định của pháp luật về di sản

văn hóa và các quy định của UBND thành phố Hà Nội, các chủ thể quản lý có sự

phối hợp như sau: UBND huyện Đan Phượng là một trong hai cơ quan của chính

quyền địa phương cấp huyện (cùng với HĐND cấp huyện), chịu trách nhiệm tổ

chức thực hiện quản lý nhà nước về DSVH trên địa bàn huyện Đan Phượng. UBND

huyện Đan Phượng chịu trách nhiệm quản lý di tích đình Đại Phùng theo phân công

53

tại khoản 2, Điều 18 Quy chế quản lý, bảo vệ và phát huy giá trị di tích lịch sử - văn

hóa và danh lam thắng cảnh trên địa bàn thành phố Hà Nội. Phòng Văn hóa và

Thông tin huyện là cơ quan chuyên môn của UBND huyện, tham mưu, giúp UBND

huyện thực hiện chức năng quản lý nhà nước và hướng dẫn nghiệp vụ về di sản văn

hóa, bảo vệ và phát huy giá trị di tích. Ban QLDT xã Đan Phượng thực hiện quản lý

trực tiếp các hoạt động liên quan đến di tích đình Đại Phùng, thường xuyên báo cáo

định kỳ và đột xuất kết quả hoạt động của Ban Quản lý di tích và báo cáo công tác

thu, chi kinh phí của các di tích với UBND huyện, thông qua Phòng Văn hóa và

Thông tin. Tiểu BQLDT Đình - Chùa Đại Phùng trực tiếp thực hiện các biện pháp

quản lý, bảo vệ và phát huy giá trị của di tích do UBND xã Đan Phượng giao, dưới

sự chỉ đạo, hướng dẫn về nghiệp vụ của Phòng Văn hóa và Thông tin huyện.

Trong những năm qua, công tác quản lý DTLSVH đình Đại Phùng đã thu

được những hiệu quả tích cực trong cơ chế phối hợp, phát huy được vai trò của

BQL và từng thành viên của BQL di tích. Trong hoạt động quản lý, các cơ quan

quản lý di tích có mối quan hệ với các viện nghiên cứu, các cơ quan tổ chức trong

nước để thực hiện các dự án bảo tồn di tích trên địa bàn. Các dự án bảo tồn, tu bổ,

tôn tạo di tích đều có sự phối hợp với các cơ quan như: Bộ VHTTDL (Phòng Quản

lý di tích, Cục Di sản văn hóa), UBND thành phố Hà Nội, Sở Văn hóa và Thể thao

thành phố Hà Nội, Ban Quản lý di tích danh thắng Hà Nội, Phòng Văn hóa và

Thông tin huyện Đan Phượng và các cơ quan có liên quan khác.

Đối với việc phát huy giá trị di tích, BQL đã tiến hành vận động, phối hợp

với các trường học trên địa bàn tổ chức đưa học sinh tới học tập thực tế tại các di

tích, tổ chức nghiên cứu khoa học về di tích, tuyên truyền, quảng bá hình ảnh di tích

trên các phương tiện thông tin đại chúng. Thành phần tham gia BQL di tích đình

Đại Phùng có đại diện chính quyền xã Đan Phượng là Phó chủ tịch UBND xã Đan

Phương chủ yếu giữ vai trò giám sát, còn việc quản lý di tích là do cộng đồng đảm

nhiệm. Vai trò tự quản được thể hiện ở tất cả các khâu từ chăm nom, bảo vệ di tích,

giữ gìn cảnh quan môi trường, tu bổ, tôn tạo đến các công việc như lên kế hoạch,

lập nội dung và tổ chức lễ hội đình Đại Phùng, cúng tế, quản lý các nguồn thu, chi,

giữ gìn an ninh trật tự...

Nhìn chung, trong quá trình quản lý và phát huy giá trị di tích đình Đại

Phùng, các chủ thể quản lý luôn thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ theo sự phân

54

công, phân cấp, đồng thời luôn phối hợp chặt chẽ với nhau. Đó là yếu tố quan trọng

góp phần quản lý tốt và phát huy giá trị của các di tích trên địa bàn huyện Đan

Phượng nói chung và di tích đình Đại Phùng nói riêng.

2.1.4. Vai trò của cộng đồng dân cư trong hoạt động bảo vệ và phát huy giá

trị di tích đình Đại Phùng

Trong kho tàng DSVH của dân tộc, cộng đồng chính là chủ thể đã xây dựng,

sáng tạo, sở hữu các DSVH. Đồng thời, chính cộng đồng đang giữ gìn, tôn tạo và

phát huy giá trị DSVH của cha ông để truyền lại cho thế hệ tương lai. Sự tham gia

của cộng đồng địa phương vào việc bảo tồn và phát huy các giá trị di sản là thành tố

chính quyết định tương lai, định hướng cho sự phát triển, dịch chuyển và thay đổi

của di sản trong điều kiện môi trường biến đổi. Nói cách khác, cộng đồng chính là

chủ thể thực hiện công tác quản lý di sản một cách bền vững nhất. Với sự tham gia

của cộng đồng, nhiều di tích đã được tu bổ, tôn tạo tránh được sự hủy hoại của thiên

nhiên, môi trường, phát huy được giá trị của di sản, đáp ứng nhu cầu hưởng thụ văn

hóa của người dân.

Di tích nói chung, di tích đình làng nói riêng thường gắn bó chặt chẽ với cộng

đồng cư dân địa phương. Sự tham gia của cộng đồng vào việc bảo vệ và phát huy

giá trị di tích là một trong những giải pháp quan trọng, tạo thêm nguồn lực tại chỗ

phục vụ cho việc tu bổ, tôn tạo và phát huy giá trị di tích. Đồng thời, cộng đồng dân

cư địa phương cũng chính là lực lượng giám sát nhanh và hiệu quả, giúp cho các cơ

quan quản lý giải quyết kịp thời nhiều hành vi vi phạm liên quan đến di tích. Thông

qua sự gắn kết người dân địa phương trong các công việc xác định vấn đề, quyết

định giải pháp, thực hiện kế hoạch quản lý, giám sát tính hiệu quả của biện pháp thi

công... sẽ giúp nâng cao nhận thức, ý thức bảo vệ di tích của người dân, qua đó

nâng cao tính bền vững của hoạt động quản lý, tu bổ, tôn tạo di tích. Khi người dân

nhận thức đúng về giá trị của di tích sẽ có hành động tích cực bảo vệ di tích. Ngược

lại, nhận thức của cộng đồng chưa cao sẽ dẫn đến sự thờ ơ, không quan tâm đến giá

trị của di tích. Rõ ràng rằng, khi không còn được người dân quan tâm, di tích sẽ trở

thành di tích chết, một phế tích trong hình hài còn nguyên vẹn. Lúc này, một nhận

thức chung đạt được về mặt lý luận, sự tham gia của cộng đồng ngày càng được

nhân rộng như một nguyên tắc bền vững để quản lý di sản trên phương diện quốc

gia và quốc tế.

55

Mục đích chính của sự tham gia cộng đồng là kêu gọi, huy động mọi người

đóng góp công sức vào quá trình quản lý di sản gắn liền với phát triển kinh tế, xã

hội. Để nâng cao vai trò và huy động được sự tham gia của cộng đồng trong hoạt

động bảo vệ DTLSVH, cần tuyên truyền, định hướng giúp cho người dân nhận thức

đúng vai trò, giá trị của DTLSVH, để từ đó cộng đồng có sự quan tâm, đầu tư hợp

lý. Cần tạo điều kiện để người dân tham gia bảo vệ, sử dụng và khai thác giá trị của

di tích. Thông qua việc trao cho cộng đồng chủ động quản lý di tích, các cơ quan

quản lý sẽ dễ dàng hơn trong việc phát hiện những vi phạm liên quan đến di tích và

xử lý một cách nhanh chóng. Thực tiễn công tác quản lý di tích tại một số địa

phương như ở Tràng An (Ninh Bình), Phong Nha - Kẻ Bàng (Quảng Bình), Phố cổ

Hội An (Quảng Nam)... minh chứng rất rõ cho những nhận định trên.

Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đã đạt được thì cũng còn những hạn chế,

bất cập như tình trạng lấn chiếm khu vực bảo vệ của di tích, xâm hại di tích, phá vỡ

cảnh quan, môi trường của di tích, thực hiện việc tu bổ di tích một cách tự phát, tiếp

nhận vào di tích những linh vật ngoại lai, không phù hợp với truyền thống dân tộc...

dẫn đến di tích bị chiếm dụng sai mục đích, bị hư hại, xuống cấp, bị làm sai lệch,

mai một giá trị... Điều này đã và đang đặt ra cho các cơ quan quản lý nhiệm vụ định

hướng, giám sát khi huy động các nguồn lực từ cộng đồng phục vụ cho công tác tu

bổ, tôn tạo di tích.

Qua khảo sát trường hợp cụ thể di tích đình Đại Phùng cho thấy, đình do

cộng đồng dân cư thôn làng đóng góp công sức, tiền của xây dựng, là kết quả của

sức lao động tập thể qua bao đời, là biểu tượng của niềm tin, ước vọng mà cộng

đồng dân cư nơi đây nhắn gửi cho thế hệ hôm nay và mai sau. Cho đến nay chưa có

văn bản thành văn nào cho biết rõ ràng về niên đại khởi dựng của di tích đình Đại

Phùng. Ghi chép của Tộc phả họ Tạ Đăng làng Đại Phùng cho biết, cụ Tạ Đăng

Vọng đỗ Đệ tam giáp tiến sỹ khoa thi năm Chính Hoà thứ 4 (Quý Hợi, 1683). Do

chịu tang cha nên vào khoa thi sau mới vinh quy, bái tổ. Chính trong dịp đó, cụ đã

chủ trì việc hưng công tôn tạo lại ngôi đình trên nền móng cũ đã có từ thời nhà

Trần, ước đoán vào khoảng từ năm 1687 đến năm 1689. Cũng như các đình làng

Bắc Bộ khác, đình Đại Phùng là công trình kiến trúc chủ yếu được xây dựng từ vật

liệu gỗ. Trong điều kiện thời tiết nóng ẩm, mưa nhiều, để ngôi đình giữ được vẻ tôn

nghiêm, bề thế, với những nét độc đáo, tiêu biểu của nghệ thuật kiến trúc đình làng

56

cho đến ngày nay, cộng đồng cư dân nơi đây hẳn đã phải dày công chăm sóc, trùng

tu, tôn tạo nhiều lần. Điều đó lại càng cho thấy vai trò và mối quan hệ mật thiết giữa

cộng đồng với sự tồn tại của di tích.

Báo cáo của UBND huyện Đan Phượng và hồ sơ xếp hạng di tích quốc gia

đặc biệt đình Đại Phùng cho thấy, từ sau hoà bình lập lại năm 1954, di tích đình Đại

Phùng đã trải qua các đợt tu bổ, tôn tạo trong các năm: 1967 tu sửa hạng mục Hậu

cung; 1987 tiếp tục tu sửa một số cấu kiện của hạng mục Hậu cung; 1994 hệ thống

cột rỗng mọt được xử lý đúc sơn keo; 1999 gia cố một số cột, chống mối mọt; 2010

được đầu tư thực hiện dự án tu bổ, tôn tạo tổng thể; 2016 đảo ngói chống dột. Tuy

nhiên, do mái đình lớn, đợt đảo ngói gần đây nhất đã gần 10 năm nên hiện nay mái

đình xuất hiện hiện tượng ngói bị xô, dẫn đến mái bị dột khi mưa, ảnh hưởng đến

cấu kiện và đồ thờ. Một số cột gỗ, bẩy gỗ bị nước mưa xâm thực, mục nát, không

bảo đảm chịu lực. Do đó, việc tu sửa cấp thiết di tích cần sớm được thực hiện.

Từ một góc độ khác cho thấy, cũng như các loại hình di tích khác, di tích đình

làng nói chung, trong đó có di tích đình Đại Phùng, đã và đang đối diện với thách

thức lớn, cần nhận diện thật rõ là: Thứ nhất, sự gia tăng dân số và quá trình đô thị

hóa nông thôn tạo áp lực ngày càng khắc nghiệt lên di tích, trước hết với cảnh quan

di tích và tính toàn vẹn của di tích. Thứ hai, nhận thức của cộng đồng cư dân sở tại,

thậm chí của cả cơ quan chức năng, chưa thật đúng đắn, dẫn đến xác định biện pháp

bảo vệ chưa toàn diện, chưa hiệu quả, trong một số trường hợp làm sai lệch, mai

một giá trị của di tích đình làng, trước hết là trong định hướng và thực hành tín

ngưỡng Thành Hoàng làng, trong không gian văn hoá đình làng. Lúc này, sự tham

gia của cộng đồng không còn đơn thuần chỉ là sự đóng góp nhân tài, vật lực phục vụ

cho việc tu bổ, tôn tạo phần vỏ ngoài của di tích, mà còn có vai trò quyết định trong

việc gìn giữ phần linh hồn của di tích đình làng, thông qua việc duy trì, thực hành

tín ngưỡng Thành Hoàng làng. Có thể nói, không đâu cho thấy rõ hơn vai trò quan

trọng của cộng đồng trong việc đề xuất, thực hành các giải pháp bảo vệ và phát huy

giá trị của di tích như trong trường hợp này.

2.2. Hoạt động bảo vệ di tích đình Đại Phùng

2.2.1. Nghiên cứu về di tích

Nghiên cứu khoa học về di tích, nhận diện, làm rõ và khẳng định các giá trị

của di tích giữ vai trò, vị trí quan trọng trong công tác bảo tồn và phát huy giá trị

57

các di tích đó. Thực chất của việc nghiên cứu khoa học đối với di tích LSVH là tìm

hiểu, nghiên cứu sâu về lịch sử quá trình hình thành, tồn tại và phát triển, các giá trị

của di tích đó (nghiên cứu cả về giá trị vật thể và giá trị phi vật thể) hoặc các vấn đề

về thực trạng, nguy cơ có thể gây ảnh hưởng, tổn hại đến di tích; nghiên cứu các

vấn đề về đảm bảo sự toàn vẹn những yếu tố nguyên gốc, ứng dụng công nghệ để

bảo tồn; những vấn đề khai thác, phát huy giá trị của di tích trong điều kiện hiện

tại… Việc tổ chức nghiên cứu này có thể thông qua các chuyên đề nghiên cứu, các

đề tài hoặc các bài viết chuyên môn, thông qua các hội thảo, tọa đàm khoa học…

Nhận thức rõ tầm quan trọng của việc nghiên cứu di tích đình Đại Phùng đối

với việc tăng cường hiệu quả công tác bảo tồn, phát huy giá trị di tích, Phòng Văn

hóa và Thông tin cùng với BQL di tích xã Đan Phượng đã và đang triển khai thực

hiện một số nghiên cứu gắn với những yêu cầu từ hoạt động thực tiễn của đình như:

Phòng Văn hóa và Thông tin huyện Đan Phượng phối hợp với BQL Di tích

Danh thắng Hà Nội đã tiến hành nghiên cứu toàn bộ di tích, điều tra cơ bản và lập

danh mục các di vật tại di tích, xác định niên đại, giá trị của từng di vật. Công việc

nghiên cứu này được tiến hành một cách khoa học và chính xác. Di tích đình Đại

Phùng hiện đang lưu giữ nhiều di sản văn hoá quan trọng trong đó có hệ thống di

sản văn hoá Hán Nôm, bao gồm các loại hoành phi, câu đối, thần tích, sắc phong,

bia đá… Năm 2022, Phòng Văn hóa và Thông tin, Ban quản lý di tích đình Đại

Phùng đã mời các chuyên gia của Viện nghiên cứu Hán Nôm tiến hành khảo sát,

nghiên cứu, ghi chép, dịch sang chữ quốc ngữ các tư liệu Hán Nôm có tại đình. Qua

đây, toàn bộ các di sản Hán Nôm của di tích đã được giải mã, góp phần làm rõ nhiều

vấn đề có liên quan như nguồn gốc, ý nghĩa cũng như lịch sử của di tích.

Trong những năm qua, với các giá trị tiêu biểu của mình, di tích đình Đại

Phùng đã là đối tượng nghiên cứu của nhiều nhà nghiên cứu tại các lĩnh vực như

văn hoá học, văn hoá dân gian, quản lý văn hoá… Các nhà nghiên cứu đã tiếp cận

nghiên cứu di tích để làm rõ các nội dung, giá trị của di tích đình làng, cũng như về

mối quan hệ tổng thể của đình với hệ thống đình làng khu vực Xứ Đoài. Nhiều

nghiên cứu cũng đã tiếp cận nhằm khai thác, phát huy giá trị di tích trong phát triển

du lịch, công nghiệp văn hoá của Thủ đô Hà Nội hiện nay.

Tuy vậy, do nguồn kinh phí dành cho công tác nghiên cứu khoa học còn hạn

hẹp, các cơ quan quản lý nhà nước vừa không chuyên về nghiên cứu khoa học vừa

58

phải thực hiện nhiều nhiệm vụ cấp bách trong lĩnh vực bảo vệ và phát huy giá trị di

sản văn hóa, nên việc triển khai thực hiện các đề tài nghiên cứu khoa học về quản

lý, bảo tồn, phát huy giá trị di tích đình Đại Phùng được thực hiện chưa được nhiều

và sâu. Các cơ quan chức năng cũng chưa tổ chức được hội thảo khoa học chuyên

đề nào liên quan đến chức năng, nhiệm vụ và hoạt động của các chủ thể tham gia

quản lý di tích, đồng thời cũng có rất ít bài viết về di tích đình Đại Phùng được đăng

trên tạp chí khoa học chuyên ngành.

Tuy vậy, tiểu BQL di tích đình Đại Phùng luôn tạo mọi điều kiện hỗ trợ,

hướng dẫn, giúp đỡ, khích lệ, động viên bất cứ cá nhân, tập thể nào có nhu cầu tiếp

cận và triển khai các ý tưởng nghiên cứu khoa học về đình làng, khuyến khích các

cá nhân tham gia viết bài gửi đăng tạp chí khoa học và báo cáo tại các hội nghị khoa

học trong và ngoài nước. Ông Nguyễn Văn Tiếp cho biết: “Chúng tôi thường xuyên

đón các nhà nhà nghiên cứu, các nhà báo đến tìm hiểu về di tích. Chúng tôi có phân

công các ông, bà trong BQL di tích tiếp đón và sẵn sàng cung cấp những thông tin

về di tích theo sự hiểu biết của chúng tôi. Điều đó cũng giúp lan toả giá trị của di

tích làng chúng tôi đến xã hội nhiều hơn” [Tư liệu phỏng vấn, tháng 9/20024].

2.2.2. Kiểm kê, tư liệu hóa

* Kiểm kê di tích

Trong hoạt động bảo tồn di tích lịch sử - văn hoá, kiểm kê là một trong những

hoạt động quan trọng luôn được các đơn vị quản lý, bảo tồn tiến hành theo thời gian

quy định. Thông qua hoạt động này các di tích trên địa bàn được các cơ quan quản

lý nắm rõ về mặt số lượng, tình trạng hiện tại của di tích, những di vật cổ vật của di

tích hiện còn cũng như những vấn đề đặt ra đối với các di tích đó.

Hoạt động kiểm kê di tích thực hiện theo quy định tại Điều 12 Nghị định số

98/2010/NĐ-CP ngày 21/9/2010 của Chính phủ Quy định chi tiết thi hành một số

điều của Luật Di sản văn hóa và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Di sản

văn hóa. Đây là công việc xác định giá trị của di tích, phát hiện và thu thập các tư

liệu để khẳng định giá trị của các di tích, từ đó lập hồ sơ khoa học đề nghị xếp hạng.

Công tác kiểm kê di tích đảm bảo tính pháp lý để di vật, di tích được kiểm kê, phân

loại, xác định và đặt dưới sự bảo hộ của pháp luật, để từ đó được bảo quản, bảo vệ

lâu dài, hiệu quả. Hoạt động này phải tuân theo các quy trình khoa học và pháp lý

chặt chẽ. Trong thời gian qua, Sở Văn hoá và Thể thao thành phố Hà Nội đã chỉ

59

đạo, phối hợp với Phòng Văn hoá và Thông tin huyện Đan Phượng, UBND xã và

BQL di tích xã Đan Phượng tiến hành kiểm kê các hạng mục của di tích theo các

nội dung cơ bản sau:

1/ Nghiên cứu, phát hiện, thống kê các hạng mục, bộ phận di tích;

2/ Khảo sát, phân tích để nắm được giá trị, thực trạng và tình trạng kỹ thuật

của di tích;

3/ Lập hồ sơ khoa học di tích;

4/ Quản lý và phổ biến hồ sơ.

Việc thống kê, kiểm kê được tiến hành hàng năm phản ánh rõ tình trạng về

mọi mặt giá trị của di tích như: lịch sử khởi dựng, quá trình tu bổ, tôn tạo, kiến trúc

điêu khắc, lai lịch của người được thờ, tín ngưỡng và lễ hội, tình trạng quản lý di

tích, kèm theo là những tài liệu dập dịch văn bia, hoành phi, câu đối tại di tích. Di

tích đình Đại Phùng đã được Thủ tướng Chính phủ xếp hạng Di tích quốc gia đặc

biệt, cho nên công tác kiểm kê tài liệu, hiện vật, di vật, cổ vật… tại di tích càng cần

được quan tâm và thực hiện một cách kĩ càng hơn. Năm 2022, Phòng Văn hóa và

Thông tin huyện Đan Phượng phối hợp với Viện nghiên cứu Hán Nôm đã tiến hành

kiểm kê, lập hồ sơ khoa học đối với các hiện vật hiện có của di tích. Việc kiểm kê

hiện vật được tiến hành chính xác, khoa học, cán bộ chuyên môn thống kê, ghi

chép, đo đạc tỉ mỉ, các hiện vật được giám định về chất lượng, niên đại, xuất xứ,

hiện trạng bảo quản, khảo tả đặc điểm hình dáng, kích thước, đặc điểm trang trí,

chất liệu, xác định hiện trạng của các đơn nguyên kiến trúc... Theo kết quả kiểm kê,

hiện nay di tích đình Đại Phùng có tổng số 84 hiện vật được kiểm kê, lập hồ sơ

khoa học. Các hiện vật này bao gồm là các di vật, cổ vật có giá trị thuộc các niên

đại khác nhau, trong đó nhiều cổ vật có niên đại thế kỷ XVIII, một số khác niên đại

thời nhà Nguyễn... Mỗi hiện vật có một bộ hồ sơ riêng, bao gồm các nội dung: hình

ảnh, phiếu khoa học, đánh giá của chuyên gia. Bộ hồ sơ này được sao làm 03 bản,

lưu giữ tại 03 nơi: Phòng Văn hoá và Thông tin huyện, UBND xã Đan Phượng,

Tiểu ban QLDT Đình - Chùa Đại Phùng (Phụ lục: Hồ sơ khoa học hiện vật di tích

đình Đại Phùng).

Hàng năm, Phòng Văn hoá và Thông tin huyện cũng phối hợp với BQL di

tích xã, Tiểu ban QLDT Đình - Chùa Đại Phùng kiểm tra, rà soát các hiện vật tại di

tích; bảo quản, sắp xếp khoa học tổng thể các hiện vật, đồ thờ tự tại di tích, tạo nên

60

sự ngăn nắp, khoa học và tôn nghiêm, nhằm phục vụ tốt sinh hoạt tín ngưỡng của

nhân dân. Đây là công việc cần thiết nhằm tạo tính pháp lý và khoa học, làm cơ sở

cho việc bảo vệ, gìn giữ các hiện vật tại các di tích lịch sử - văn hóa. Tuy nhiên,

việc kiểm kê, khảo sát tại di tích đình Đại Phùng mới được tiến hành cẩn thận, chi

tiết một lần vào năm 2010, phục vụ mục đích hoàn thiện hồ sơ xếp hạng, chưa đưa

ra phương án bảo quản, phục chế cho các hiện vật cũng như các phương án bảo tồn,

phát huy giá trị di tích đình Đại Phùng.

* Hoạt động tư liệu hóa

Việc tư liệu hóa vào công tác lưu trữ thông tin và quảng bá đã được đặt ra từ

lâu. Riêng trong ngành văn hóa - du lịch, tư liệu hóa có thể dùng cho việc xác lập và

lưu trữ các bản đồ, hình ảnh và văn bản liên quan đến di tích, điểm tham quan du

lịch, hiện vật và các sản phẩm, di sản văn hóa vật thể và di sản văn hóa phi vật thể

khác.

Thực hiện chủ trương, chính sách của Chính phủ, sự chỉ đạo của UBND

thành phố Hà Nội về việc tăng cường các biện pháp quản lý, bảo vệ hiện vật trong

di tích, trong những năm qua, Phòng Văn hoá và Thông tin huyện đã tham mưu

UBND huyện cho phép tiến hành chương trình nhập số liệu các cổ vật của từng di

tích trên địa bàn, kèm theo là các hình ảnh để theo dõi bảo vệ được chính xác hơn.

Đến nay, kiểm kê di vật, cổ vật cho các di tích đã hoàn thành, được phân loại theo

các chất liệu khác nhau: đồ gỗ, kim loại, đồ đá, đồ đồng, sành sứ... và được lập

thành hồ sơ khoa học, lưu trữ lâu dài. Ngoài việc lưu trữ hồ sơ hiện vật trong hồ sơ

giấy, các hiện vật còn được lưu trữ trên máy tính để quản lý theo phần mềm quy

định.

Bên cạnh đó, theo sự chỉ đạo của Sở Văn hoá và Thể thao, BQL Di tích Danh

thắng Hà Nội, UBND huyện Đan Phượng, trực tiếp là Phòng Văn hoá và Thông tin

huyện đã phối hợp với UBND các xã trên địa bàn thực hiện tổng kiểm kê di tích và

lễ hội trên toàn huyện. Qua đó, các di tích được tiến hành nghiên cứu, khảo sát, bổ

sung thông tin, đồng thời cũng tiến hành kiểm kê và lập danh mục di sản văn hóa

phi vật thể đối với lễ hội diễn ra tại các di tích này. Năm 2022, Phòng Văn hoá và

Thông tin huyện cũng đã phối hợp với Viện Nghiên cứu Hán Nôm thực hiện dự án

“Lập hồ sơ khoa học hệ thống di vật, cổ vật và biên dịch tư liệu Hán - Nôm tại các

di tích xếp hạng cấp quốc gia trên địa bàn 05 xã (Đan Phượng, Song Phượng, Tân

61

Hội, Hạ Mỗ, Đồng Tháp) huyện Đan Phượng”, trong đó có di tích đình Đại Phùng.

Kết quả, dự án đã kiểm kê được toàn bộ tư liệu Hán Nôm tại di tích, nghiên cứu, ghi

chép, dịch sang chữ Quốc ngữ, lập thành hồ sơ khoa học, phục vụ công tác quản lý

và nghiên cứu. Theo đó, tại di tích đình Đại Phùng còn bảo lưu được 4 bức Hoành

phi và 10 câu đối.

Có thể nói việc đặt vấn đề tư liệu hóa di vật để phục vụ bảo tồn và phát huy

giá trị di tích là một hướng đi đúng. Việc ứng dụng kỹ thuật số sẽ làm cho việc lưu

trữ dữ liệu được chính xác, việc tìm kiếm dữ liệu để nghiên cứu hoặc quảng bá sẽ

được thực hiện nhanh, đáp ứng kịp thời các yêu cầu khác biệt, hạn chế việc tiếp cận

trực tiếp với hiện vật. Ngoài ra kho dữ liệu số hóa sẽ cung cấp thông tin hữu ích cho

việc quản lý hiện vật, di tích, không chỉ trong việc bảo quản hiện vật hay tu bổ di

tích mà kể cả việc kiểm tra đối chiếu trong trường hợp hư hỏng hoặc mất mát.

2.2.3. Lập hồ sơ khoa học, xếp hạng di tích

Công tác xếp hạng di tích đã đánh giá mức độ giá trị của di tích đình Đại

Phùng, tạo cơ sở khoa học và pháp lý có tính Nhà nước, nhằm bảo tồn, phát huy giá

trị của di tích trong hiện tại và tương lai. Xếp hạng có thể xem là một biện pháp hữu

hiệu tạo hành lang pháp lý cho công tác bảo tồn, phát huy giá trị di tích.

Ý thức được sự cần thiết phải bảo tồn, phát huy các di tích lịch sử - văn hóa,

đặc biệt là các di tích có giá trị. UBND huyện Đan Phượng xác định việc xếp hạng

di tích có ý nghĩa quyết định đến sự tồn tại của di tích, vì có xếp hạng thì mới có cơ

sở pháp lý để bảo vệ, gìn giữ và tạo điều kiện để phát huy giá trị của di tích. Xuất

phát từ nhận thức trên, thực hiện chủ trương của UBND huyện Đan Phượng, Phòng

Văn hoá và Thông tin huyện đã phối hợp với BQL Di tích Danh thắng Hà Nội tiến

hành khảo sát, xây dựng hồ sơ khoa học, hồ sơ pháp lý cho di tích trình các cấp có

thẩm quyền phê duyệt, xếp hạng theo quy định của pháp luật. Nhờ đó, Di tích kiến

trúc nghệ thuật đình Đại Phùng, huyện Đan Phượng, thành phố Hà Nội đã được xếp

hạng Di tích cấp Quốc gia theo Quyết định số 1539-QĐ ngày 27/12/1990 của Bộ

Văn hóa, Thông tin, Thể thao và Du lịch.

Trong thời gian sau, để chuẩn bị cho việc đề xuất được xếp hạng Di tích quốc

gia đặc biệt, UBND huyện đã chỉ đạo cho Phòng Văn hoá và Thông tin, UBND xã

Đại Phùng tiến hành triển khai, phối hợp cùng các cơ quan chuyên môn tiếp tục

nghiên cứu, khai thác tư liệu từ nhiều nguồn khác nhau nhằm làm rõ hơn, phong

62

phú hơn về các giá trị của di tích trong lịch sử và hiện tại. Qua đó, bộ hồ sơ khoa

học về di tích cũng như hiện trạng của di tích hiện nay đã là những cơ sở, căn cứ để

Thủ tướng chính phủ công xếp hạng cho di tích là Di tích quốc gia đặc biệt theo

Quyết định số 1954/QĐ-TTg ngày 31/12/2019.

Như vậy, trong các khâu quản lý hoạt động bảo tồn di tích lịch sử - văn hóa,

việc kiểm kê, xếp hạng di tích đình Đại Phùng đã được tiến hành từ rất sớm để trên

cơ sở đó lập hồ sơ đề nghị xếp hạng. Công việc lập hồ sơ khoa học của di tích được

thực hiện theo một quy trình khoa học và pháp lý chặt chẽ.

2.2.4. Tu bổ, tôn tạo di tích

Hoạt động tu bổ di tích khác với các công trình xây dựng cơ bản khác; tu bổ

di tích là tìm lại và trả về những gì mà di tích đúng như nó vốn có. Với đặc điểm về

nguyên vật liệu sử dụng khi xây dựng di tích làm bằng những vật liệu ít bền vững

như gỗ, ngói, gạch. Đặc biệt, đình Đại Phùng được xây dựng chủ yếu bằng gỗ xoan.

Quá trình vận động lịch sử, với tác động của tự nhiên, môi trường, khí hậu và sự lấn

chiếm, vi phạm của con người, di tích đình Đại Phùng cũng đã bị ảnh hưởng, rất

khó có thể giữ nguyên được giá trị riêng có của di tích, cần phải được định kỳ tu bổ,

tôn tạo, phục vụ đời sống tinh thần của người dân và gìn giữ cho thế hệ mai sau.

Di tích đình Đại Phùng là một công trình kiến trúc mang nhiều giá trị tiêu

biểu về lịch sử, văn hoá, nghệ thuật. Với tuổi thọ lâu đời và giá trị sâu sắc của mình,

ngôi đình đã trải qua nhiều đợt tu bổ. Do hoạt động lưu trữ thời gian trước đây còn

hạn chế, hiện nay, trong đình không giữ lại được tài liệu nào ghi chép về việc tu sửa

từ năm 1975 về trước, thông tin có được chỉ là qua lời kể của những người dân

trong làng.

Trong quá trình điền dã tại di tích đình Đại Phùng ngày 12/10/2024, ông

Nguyễn Văn Tiếp - Phó trưởng thôn, Phó trưởng Tiểu BQL di tích đình Đại Phùng

cho biết: Ngày 25/2/1965, Thủ tướng Phạm Văn Đồng về thăm đình Đại Phùng,

thấy góc đình hướng Đông Bắc bị xuống cấp, Thủ tướng đã chỉ thị cho tỉnh Hà Tây

và huyện Đan Phượng phải khảo sát và tu sửa lại đình. Năm 1967, tu sửa hạng mục

hậu cung. Năm 1994, dùng gỗ sơn, keo nhồi đúc hệ thống cột bị tiêu tâm. Năm

1999, gia cố lại một số cột, chống mối mọt. Năm 2009, trước sự xuống cấp trầm

trọng của ngôi đình, UBND huyện Đan Phượng đã chỉ đạo nghiên cứu, lập hồ sơ dự

án tu bổ, tôn tạo tổng thể di tích đình Đại Phùng theo Luật Di sản văn hóa và các

63

quy định của pháp luật có liên quan. Năm 2010, nhân Kỷ niệm Đại lễ 1000 năm

Thăng Long - Hà Nội, Bộ VHTTDL, UBND thành phố Hà Nội và các cơ quan liên

quan đã phê duyệt dự án tu bổ, tôn tạo tổng thể di tích đình Đại Phùng, bao gồm các

hạng mục Tiền tế, Đại Bái, Hậu cung...

Sau 7 tháng thi công, cùng với sự nỗ lực của đơn vị thi công, đơn vị tư vấn,

giám sát; sự kiểm tra sát sao của Ban quản lý dự án, Hội đồng đánh giá kỹ thuật,

đặc biệt là sự nhiệt tâm của Ban Giám sát cộng đồng và nhân dân thôn Đại Phùng,

công trình đã hoàn thành. Việc tu bổ được thực hiện đúng quy trình tu bổ di tích và

hồ sơ thiết kế được phê duyệt, đảm bảo chất lượng kỹ thuật, mỹ thuật cũng như

những giá trị vốn có của di tích. Cùng với sự nỗ lực của Ban Quản lý dự án, Phòng

Văn hóa và Thông tin huyện Đan Phượng và sự ủng hộ của nhân dân trong làng,

công trình tôn tạo di tích đình Đại Phùng đã hoàn thành đúng thời hạn, được UBND

huyện Đan Phượng gắn biển “Công trình chào mừng 1000 năm Thăng Long- Hà

Nội”. Theo ông Nguyễn Văn An, thành viên của Tiểu BQL di tích cho biết: “đình

Đại Phùng của làng chúng tôi được nhà nước cấp cho 21 tỷ đồng để tu bổ tôn tạo,

dự án đã được hoàn thành, người dân trong làng chúng tôi rất phấn khởi vì thấy

ngôi đình đang bị xuống cấp trầm trọng, mà đình làng của chúng tôi rất đẹp và nổi

tiếng, nay đã được tu bổ bền vững. Dân làng chúng tôi đóng góp không được nhiều,

chỉ có 250 triệu đồng. Nhìn chung, chúng tôi rất phấn khởi” [Tư liệu phỏng vấn,

tháng 9/2024].

Hàng năm, Phòng Văn hoá và Thông tin huyện thường xuyên kiểm tra, khảo

sát hiện trạng của di tích, từ đó kịp thời chỉ đạo, hướng dẫn các biện pháp bảo vệ,

chống xuống cấp cho di tích. Thông qua các kết quả cho thấy: Thứ nhất, di tích đã

được tu bổ đảm bảo đúng quy trình, trình tự quy định; Thứ hai, dự án tu bổ đã được

cơ quan có thẩm quyền phê duyệt; Thứ ba, các yếu tố gốc của di tích đều được coi

trọng và được bảo tồn; Thứ tư, công trình tu bổ đảm bảo đúng quy định của Luật Di

sản văn hóa và Quy chế bảo quản, tu bổ, phục hồi di tích; Thứ năm, vấn đề bảo

quản, phòng ngừa và ngăn chặn các hành vi làm ảnh hưởng đến sự an toàn của

DSVH đã được cơ quan quản lý di tích của huyện Đan Phượng quan tâm, chỉ đạo.

Cùng với hoạt động của Tiểu BQL di tích, tại di tích đình Đại Phùng thường xuyên

có người trông coi, giám sát các hoạt động của cộng đồng, đặc biệt là trong các dịp

lễ, tết. Nhờ đó, di tích luôn được bảo đảm vệ sinh, công tác an toàn phòng chống

64

cháy nổ được kiểm tra thường xuyên, dụng cụ cứu hỏa được đặt ở vị trí thuận lợi,

vòi nước luôn sẵn sàng ở vị trí cố định.

Tuy nhiên, quá trình tu bổ, tôn tạo di tích cũng bộc lộ một số vấn đề như: Có

ý kiến cho rằng, những bức chạm khắc sau tu bổ hiện nay không đẹp bằng các bức

chạm của thời Lê, mặc dù khi tu bổ, BQL di tích đã cho chụp ảnh, đã in lại lấy mẫu

để làm theo. Nhận thức về giá trị và bản sắc văn hoá của di tích chưa thật sự chuẩn

mực đã dẫn đến có lúc xảy ra việc tiếp nhận vào di tích linh vật ngoại lai và một số

đồ thờ tự không phù hợp. Một thực tế khác rất khó khắc phục là, hoạt động tu bổ,

tôn tạo di tích được thực hiện khi di tích đã xuống cấp. Mức độ xuống cấp đến đâu

thì tu bổ đến đó. Di tích đình Đại Phùng có tuổi đời khá cao, lại được xây dựng

bằng các vật liệu là gạch, ngói, gỗ. Ẩm thấp, mối mọt là những yếu tố khiến di tích

xuống cấp nhanh. Khi tu bổ vừa phải tận dụng tối đa các vật liệu còn sử dụng được,

nhất là các bức chạm khắc nhưng cũng phải thay thế những vật liệu không thể tận

dụng được nữa. Việc thay thế vật liệu không sử dụng được nữa bằng vật liệu mới

nếu không được kiểm soát chặt chẽ, dựa trên các căn cứ khoa học về bảo tồn di tích,

sẽ có nguy cơ làm sai lệch, phá vỡ cảnh quan, kết cấu kiến trúc, làm biến dạng và

phá hỏng các yếu tố nguyên gốc của di tích... Nhận thức đúng đắn về vấn đề này sẽ

giúp cho công tác tu bổ di tích ở huyện Đan Phượng nói chung, tại di tích đình Đại

Phùng nói riêng được bảo đảm thực hiện theo đúng Luật Di sản văn hóa, qua đó bảo

vệ, gìn giữ, phát huy một cách hiệu quả giá trị của di tích.

Theo quy định tại Thông tư số 15/2019/TT-BVHTTDL ngày 31/12/2019 của

Bộ VHTTDL: “Tôn tạo di tích là hoạt động nhằm tăng cường khả năng sử dụng,

khai thác và phát huy giá trị di tích nhưng không làm ảnh hưởng đến yếu tố gốc cấu

thành di tích, cảnh quan thiên nhiên và môi trường - sinh thái của di tích”.

Di tích đình Đại Phùng được xây dựng từ rất sớm khoảng đầu thế kỷ XVII

với chất liệu gỗ là chủ yếu như hệ thống kết cấu khung cột, kèo và các loại xà bằng

gỗ, bao gồm các yếu tố nghiêng về trang trí và chạm khắc. Trải qua thời gian, do khí

hậu thiên nhiên khắc nghiệt cộng với nhiều lí do khác mà di tích đã bị xuống cấp

nghiêm trọng như: mái ngói bị xô, gây dột khi có mưa làm ảnh hưởng đến các cấu

kiện và đồ thờ. Một số cột, bẩy gỗ xoan do nước mưa xâm thực nên mục, không

đảm bảo chịu lực. Tường rào và hệ thống thoát nước đã xuống cấp. Chính vì vậy,

Phòng Văn hóa và Thông tin huyện Đan Phượng đã tiến hành tôn tạo và tu sửa cấp

65

thiết cho đình. Tổng thể vẫn giữ được hình dáng, sau khi hạ giải và đánh giá các cấu

kiện gỗ, thay thế các cấu kiện gỗ bị hư hỏng nặng, các cấu kiện gỗ đã được gia công

bằng gỗ lim chất lượng cao, khi thi công đảo ngói, kiểm tra đánh giá lại kích thước

chủng loại ngói tại từng vị trí, tận dụng tối đa ngói cũ.

Trong quá trình thực hiện tu bổ, Phòng Văn hóa – Thông tin, Tiểu BQL di

tích và các đơn vị thi công đã vận dùng nhiều hình thức để giữ gìn các yếu tố gốc,

vấn đề thay thế nguyên vật liệu mới vào di tích được hạn chế tới mức tối đa, cố

gắng thay thế những vật liệu có chất liệu truyền thống đảm bảo độ bền vững cho di

tích. Tu bổ theo đúng kết cấu, kiến trúc và giá trị đặc thù của di tích.

Việc tu bổ, tôn tạo đã tuân thủ đầy đủ những quy định bắt buộc trong việc tu

bổ, tôn tảo, đảm bảo cho công việc này không bị sai lệch, phá vỡ kết cấu, cảnh

quan, làm biến dạng di tích mà vẫn giữ được các yếu tố gốc, nguyên mẫu có trong

di tích.

* Một số hoạt động nhằm bảo vệ, bảo quản di tích, di vật, cổ vật

Cùng với việc tiến hành các hoạt động nhằm tu bổ, giữ gìn các đơn nguyên

kiến trúc, không gian cảnh quan của di tích, trong những năm qua việc quan tâm

bảo quản, gìn giữ các di vật, cổ vật tại di tích cũng được quan tâm. Đối với các di

vật, cổ vật có trong di tích với số tương đối nhiều (theo thống kê có 84 hiện vật).

Việc bảo quản, bảo vệ được Tiểu ban quản lý di tích tiến hành thường xuyên: tiến

hành bao sái, lau chùi, vệ sinh các di vật, cổ vật theo định kỳ hoặc theo các kỳ lễ,

hội của di tích. Việc bảo quản ở đây mang tính chất đơn giản, không/chưa sử dụng

các kỹ thuật khoa học hay các loại hoá chất để bảo vệ. Để phòng tránh việc đánh

cắp các di vật, cổ vật, UBND xã, BQL di tích đã cho lắp hệ thống các camera giám

sát theo dõi đặt tại nhiều nơi trong di tích, điều đó phần nào cũng đảm bảo an ninh

cho khu vực di tích này.

Việc phòng chống cháy nổ, vệ sinh môi trường tại các điểm di tích cũng được

quan tâm. Trong những năm qua, tại di tích đã trang bị bình chữa cháy … Hệ thống

dây điện, ổ điện cũng thường xuyên được BQL di tích chú ý, thay mới. Việc đốt

vàng mã, thắp hương tại di tích đã được tuyên truyền, vận động nhằm hạn chế khi

tới di tích. Tại các đơn nguyên của di tích đều đặt một bát hương lớn ở phía ngoài

để khách hành hương thắp, còn trong hậu cung, ban thờ chính thì không thắp

hương.

66

Công tác vệ sinh môi trường tại các điểm di tích cũng được tiến hành thường

xuyên, BQL di tích cho người quét dọn, xử lý rác thải. Tuy nhiên trên thực tế, đình

Đại Phùng từ trước đến nay ở phía trước và bên tả đình có chợ dân sinh - vốn xưa là

một chợ lớn của vùng thu hút rất đông người dân đến đây mua bán, việc đó diễn ra

thường xuyên. Chợ này đến nay vẫn hoạt động, dẫn đến có những ảnh hưởng trực

tiếp đến cảnh quan môi trường của di tích - khi mà các hộ kinh doanh, các cá nhân

bán hàng, khách mua hàng thường xuyên có sự bày bán, để các phương tiện đi lại

lấn chiếm vào trước cả đình, thậm chí cả vào sân đình... Rác thải cũng chưa được

thu gom thường xuyên nên đã ảnh hưởng trực tiếp đến di tích. Cùng với chợ là

đường giao thông đi lại sát hai bên đình, mật độ tham gia đông nên cũng ảnh hưởng

trực tiếp di tích với khói bụi, âm thanh từ còi, động cơ của các phương tiện này.

2.3. Hoạt động phát huy giá trị di tích đình Đại Phùng

Cùng với những hoạt động nhằm thực hiện bảo vệ như kiểm kê, xếp hạng,

bảo quản, tu bổ và tôn tạo di tích, những hoạt động phát huy giá trị của di tích lịch

sử văn hóa cũng được tiến hành. Phát huy giá trị của di tích LSVH được hiểu là “tập

trung sự chú ý của công chúng một cách tích cực tới các giá trị của di tích/di sản,

làm cho đông đảo người biết đến giá trị của di tích bằng cách truyền đạt trực tiếp

hay thông qua một hình thức nào đó” [19, tr.21]. Hoạt động phát huy giá trị di tích

là sử dụng có hiệu quả các giá trị của di tích vào việc giáo dục truyền thống lịch sử

văn hóa, thẩm mỹ; sử dụng di tích lịch sử văn hóa như một nguồn lực phát triển

kinh tế, văn hóa, xã hội trên cơ sở đó tuyên truyền sâu rộng trong cộng đồng về

nâng cao ý thức trách nhiệm đối với việc bảo vệ DSVH dân tộc.

2.3.1. Hướng dẫn tham quan tại di tích

Để thu hút khách tham quan, du lịch, học tập, nghiên cứu về di tích lịch sử

văn hóa, một trong những yếu tố tạo nên thành công là công tác hướng dẫn tham

quan tại di tích. Tại di tích đình Đại Phùng hiện nay, không có hướng dẫn viên hay

cộng tác viên chuyên trách công tác hướng dẫn tham quan. Hiện chỉ có duy nhất

ông Tạ Đăng Sáng, công chức văn hóa - xã hội của xã là người hướng dẫn khi có

đoàn tham quan. Không chỉ là người có trình độ, hiểu biết và lòng nhiệt tình, gắn bó

với di tích, ông Sáng còn rất tài tình trong việc lồng những câu chuyện vào bài giới

thiệu của mình để cho việc hướng dẫn đạt hiệu quả cao nhất. Tùy theo từng đoàn

tham quan, ông có phương pháp và nội dung thuyết minh khác nhau. Chính điều đó

67

đã cung cấp cho khách tham quan những thông tin cơ bản nhất về di tích và hiện

vật. Tuy không được đào tạo chuyên môn, nghiệp vụ về hướng dẫn tham quan di

tích nhưng là người con của quê hương, ông Sáng thực sự có sự am hiểu sâu rộng

các sự kiện lịch sử gắn liền với di tích, nhân vật lịch sử; luôn năng động, quan tâm

đến lợi ích của di tích lịch sử văn hóa và khách tham quan, sẵn sàng phục vụ và sắp

xếp các chương trình hợp lý; là người đáng tin cậy, đúng thời gian, đúng hẹn, tạo

cho khách tham quan cũng như những người nghiên cứu sự tin cậy, thoải mái khi

đến với di tích, thực sự là cầu nối giữa khách tham quan với di tích và hiện vật.

Trao đổi với ông Nguyễn Văn Tiếp, Phó trưởng Tiểu BQL di tích đình Đại

Phùng về công tác hướng dẫn tham quan tại di tích cho biết: “Trong những năm

qua, ông Sáng luôn là người kiêm nhiệm công tác đón tiếp và hướng dẫn tham quan

tại di tích, ông Sáng là một người nhiệt tình và nắm rõ được những thông tin về di

tích để cung cấp cho người tham quan và những người đến nghiên cứu khoa học”

[Tư liệu phỏng vấn, tháng 10/2024]. Tuy nhiên, với vị trí là cán bộ văn hóa - xã hội

của xã, ông còn phải kiêm nhiệm nhiều công việc và nhiệm vụ khác, không thể đáp

ứng được tất cả yêu cầu của các đoàn tham quan.

Như vậy, hiện nay Tiểu BQL di tích vẫn chưa xây dựng được nội dung thuyết

minh, chương trình tham quan di tích, chưa có cán bộ hay cộng tác viên được đào

tạo về thuyết minh, hướng dẫn tham quan, vì vậy chưa chủ động trong công tác này,

nhiều khách tham quan, đoàn tham quan không được hướng dẫn nên chưa có sức

hấp dẫn, lôi cuốn du khách đến với di tích nhiều hơn. Đây là những điểm hạn chế

mà Tiểu BQL di tích đình Đại Phùng cần phải khắc phục trong thời gian tới.

2.3.2. Tuyên truyền, quảng bá về di tích trên các phương tiện truyền thông

đại chúng

Việc tìm hiểu, nghiên cứu và đến tham quan di tích là do nhu cầu của công

chúng, tuy nhiên không phải ai cũng có điều kiện đến di tích. Do vậy việc giới

thiệu, quảng bá di tích bằng các nguồn thông tin đại chúng là điều rất cần thiết nhất

là trong điều kiện hiện nay khi mà công nghệ thông tin phát triển mạnh mẽ.

Hệ thống di tích của huyện Đan Phượng nói chung và di tích đình Đại Phùng

nói riêng không chỉ cần được giữ gìn cẩn thận mà còn cần được khai thác, phát huy

giá trị phục vụ cho việc tuyên truyền, giáo dục. Các di tích sẽ không còn ý nghĩa

nếu không được tổ chức các hình thức tuyên truyền, quảng bá. Xuất phát từ nhận

68

thức đó, cùng với sự đa dạng và giá trị đặc sắc, nổi bật của các di tích trên địa bàn,

Phòng Văn hóa và Thông tin huyện Đan Phượng đã xây dựng kế hoạch tạo điều

kiện để người dân tiếp cận thông tin, tham quan và hưởng thụ các giá trị văn hóa

của di tích. Phòng Văn hóa và Thông tin huyện cũng như BQL di tích của xã, Tiểu

BQL di tích đình Đại Phùng đã có nhiều hình thức tuyên truyền, phát huy giá trị di

tích trên các phương tiện thông tin đại chúng như: trên đài phát thanh của huyện, xã,

trên báo điện tử, mạng xã hội, đài truyền hình... Trong đó, Đài phát thanh huyện và

Đài truyền thanh xã là kênh thông tin quen thuộc, gần gũi với đại đa số người dân.

Không chỉ vậy, việc tuyên truyền hình ảnh, bài viết về đình Đại Phùng còn

được thực hiện qua các phương tiện báo điện tử và mạng xã hội nhằm góp phần

hoàn thành nhận thức, thái độ và hành vi tích cực đối với sự nghiệp bảo vệ và phát

triển di tích. Bên cạnh đó, rất nhiều bài viết giới thiệu về đình, về các giá trị tiêu

biểu của đình được đăng trên các trang điện tử của thành phố Hà Nội, của các tờ

nhật báo điện tử như báo Nhân dân, Lao động, Hanoi mới, Kinh tế đô thị, Dân

Việt... Với ưu điểm của mạng xã hội là có khả năng kết nối, tìm kiếm và truyền tải

dung lượng thông tin lớn, tốc độ truyền tải nhanh, linh hoạt, tạo ra nhiều tầng lớp

thông tin không giới hạn; tạo khả năng giao lưu trực tuyến, tương tác nhiều chiều

trong cộng đồng công chúng. Điều này giúp cho nhiều người ở khắp nơi trên mọi

miền tổ quốc cũng như ngoài lãnh thổ Việt Nam được biết đến đình Đại Phùng.

Điều đặc biệt trong việc quảng bá di tích đình Đại Phùng trên các phương tiện thông

tin đại chúng là di tích đình Đại Phùng đã được dựng phim quảng bá, giới thiệu giá

trị lịch sử - văn hóa, giáo dục, tiềm năng du lịch. Những thước phim sinh động với

hình ảnh sống động, lời giới thiệu có tính hấp dẫn cao, dễ hiểu, dễ nhớ đã được phát

sóng trên sóng truyền hình VTV1. Ngoài ra, thực hiện theo Kế hoạch số 189 ngày

12/6/2024 của UBND huyện Đan Phượng về tổ chức cuộc thi video clip Khám phá -

check in Đan Phượng, với tinh thần hưởng ứng tham gia cuộc thi nhằm quảng bá,

giới thiệu hình ảnh con người, ẩm thực, du lịch huyện Đan Phượng nói chung, xã

Đan Phượng, làng Đại Phùng nói riêng, UBND xã Đan Phượng đã thực hiện loạt

phóng sự văn hóa, giới thiệu, quảng bá về nét đẹp văn hoá làng quê và đình Đại

Phùng. Nhiều website chuyên về du lịch cũng đã có những bài viết, hình ảnh đăng

tải về đình Đại Phùng, có thể kể tới như: dulichdanphuong.com;

vietsensetravel.com; vietlandmarks.com; 360hanoicity.org; 63stravel.com... Bạn

69

sinh viên Đại học Quốc gia cho biết: “Chúng em tìm được thông tin về đình Đại

Phùng trên một số website giới thiệu những nét độc đáo của di tích, muốn tìm hiểu

để phục vụ cho các môn học nên chúng em đã đến thăm di tích và một số di tích

khác ở quanh khu vực này” [Tư liệu phỏng vấn, tháng 9/2024].

Như vậy, trong bối cảnh toàn cầu hóa thông tin hiện nay, vấn đề tuyên truyền

hình ảnh đình Đại Phùng trên các phương tiện thông tin đại chúng đã được cơ quan

chức năng, Tiểu BQL di tích, một số nhà báo, nhà nghiên cứu quan tâm, thực hiện.

Bước đầu di tích cũng đã phát huy giá trị trong việc phục vụ sinh hoạt tín ngưỡng

của nhân dân. Vào các dịp lễ, tế, ngày rằm, mồng một, nhân dân địa phương đến lễ

đình rất đông. Trong mỗi gia đình, khi nhà có công việc trọng đại đều đến đình để

báo cáo, cầu mong sự che chở, phù hộ của thần Thành Hoàng làng...

Tuy nhiên, việc tuyên truyền, giới thiệu quảng bá về di tích đình Đại Phùng

trên phương tiện phát thanh của huyện, xã hiện cũng chỉ mới được tiến hành khi gần

ngày lễ hội của đình mà không được tiến hành thường xuyên và một cách bài bản,

chi tiết. Mặt khác, việc quảng bá trên đài phát thanh huyện, xã do phạm vi địa lý bị

bó hẹp nên không phổ biến được rộng rãi đến các địa bàn khác. Các thành viên của

Tiểu BQL di tích một phần do không được đào tạo chuyên môn nghiệp vụ, đa phần

là người cao tuổi, không có điều kiện để chủ động, tích cực tham gia viết bài tuyên

truyền, giới thiệu quảng bá về di tích, mà chủ yếu là do các nhà báo, nhà nghiên cứu

thực hiện. Các bài viết chỉ mới dừng lại là ngôn ngữ tiếng Việt nên người nước

ngoài muốn tìm hiểu hoặc tiếp cận thông tin về di tích còn gặp nhiều khó khăn.

2.3.3. Xuất bản sách, viết bài về di tích trên các tạp chí khoa học chuyên

ngành

Bên cạnh các hoạt động phổ biến, giáo dục giá trị di tích đã trình bày trên

đây, UBND huyện, Phòng Văn hoá và Thông tin huyện còn cho xuất bản sách giới

thiệu về lịch sử văn hóa, truyền thống địa phương. Đặc biệt, nhân dịp Kỷ niệm 1000

năm Thăng Long - Hà Nội, huyện Đan Phượng đã tổ chức nghiên cứu, biên tập và

cho ra mắt cuốn sách Đan Phượng di tích lịch sử - văn hóa và cách mạng nhằm giới

thiệu, quảng bá các di tích lịch sử tiêu biểu và các di sản văn hóa truyền thống trên

địa bàn huyện Đan Phượng. Trong số đó, có bài nghiên cứu chuyên khảo đình Đại

Phùng trong mạch chảy văn hóa dân tộc của các tác giả Trần Lâm Biền - Nông

Thành có giá trị khoa học và thông tin sâu sắc.

70

Ngoài ra còn có cuốn Truyền thống cách mạng của Đảng bộ nhân dân xã

Đan Phượng do Đảng uỷ, UBND xã Đan Phượng chỉ đạo thực hiện. Nhiều sự kiện

của một thời kỳ lịch sử cách mạng của địa phương đã diễn ra tại đình Đại Phùng

được các tác giả là người cùng thời ghi lại có tính chân xác cao và rất có giá trị

tham khảo.

Bài viết về di tích trên tạp chí chuyên ngành có bài viết Một điểm nổi về di

sản văn hóa qua đình Đại Phùng của các tác giả Nông Thành - Hương Nguyên

đăng trên tạp chí Di sản văn hóa. Trong đó các tác giả tập trung mô tả và nghiên cứu

về kiến trúc của di tích cũng như những nét đặc sắc, độc đáo của lễ hội đình Đại

Phùng. Bài viết không dài nhưng có những kiến giải khoa học khá mới mẻ và sâu

sắc, với cách phân tích, lý giải một cách hệ thống, có độ tin cậy cao về những tầng

lớp ý nghĩa văn hoá của di tích. Bài viết Nghệ thuật điêu khắc đình Đại Phùng của

Vũ Minh Đạo đăng trên Tạp chí Văn hoá Nghệ thuật, đã bước đầu tiếp cận hệ thống

chạm khắc tại di tích theo cách nhìn nhận của người có chuyên môn về nghệ thuật

hội hoạ. Gần đây cũng trên tạp chí Văn hoá Nghệ thuật, tác giả luận văn cũng đã có

bài viết Ngôi đình trong tín ngưỡng thờ Thành hoàng của Việt Nam - Trường hợp

đình Đại Phùng qua đó bước đầu giới thiệu về tín ngưỡng thờ Thành hoàng của

người Việt, tín ngưỡng đó được thực hành tại di tích đình Đại Phùng trước và nay ra

sao, cũng như những bàn luận về việc gìn giữ, phát huy những giá trị văn hoá đặc

sắc đó trong bối cảnh phát triển hiện nay.

2.3.4. Tổ chức khai thác, phát huy giá trị di tích gắn với phát triển du lịch

địa phương, giáo dục học đường

Hiện nay, việc phát huy giá trị của các di tích thì gắn với phát triển du lịch,

đưa du khách tiếp cận các giá trị của di tích là một hình thức phổ biến. Trong các

đối tượng của hoạt động du lịch thì các di tích lịch sử, danh lam thắng cảnh có nhiều

tiềm năng và lợi thế nhất, xét cả bề rộng lẫn chiều sâu, cả về nội dung và hình thức.

Chính điều đó đã tạo ra mối quan hệ rất gắn bó giữa du lịch và các hoạt động bảo

tồn di tích. Bảo tồn, tôn tạo các di tích là hướng đến mục tiêu khai thác du lịch.

Di tích LSVH là đối tượng và nội dung chủ yếu của hoạt động du lịch vì di

tích đáp ứng được các yêu cầu về thưởng thức, nhận thức các giá trị di sản văn hoá

của khách du lịch. Với những nội dung phong phú, đa dạng nên di tích là những

điểm khá hấp dẫn cho mọi đối tượng du khách. Các địa điểm di tích chính là nơi

71

khá lý tưởng để tổ chức các dịch vụ phục vụ khách du lịch nên quy mô, tầm vóc và

giá trị lịch sử, văn hoá của di tích càng lớn thì càng thu hút khách du lịch. Tổ chức

tốt các tour du lịch di tích lịch sử văn hóa là tạo điều kiện để các dịch vụ nhà hàng,

khách sạn... phát triển, mang lại nhiều lợi nhuận về kinh tế.

Đan Phượng là vùng đất giàu tiềm năng du lịch và cũng rất thuận lợi để có

thể phát triển du lịch văn hoá, du lịch tâm linh….trở thành một điểm đến ấn tượng.

Theo số liệu thống kê, huyện Đan Phượng có 154 di tích lịch sử văn hóa, trong đó, 1

di tích xếp hạng Quốc gia đặc biệt, 36 di tích xếp hạng cấp Quốc gia, 26 di tích xếp

hạng cấp Thành phố; còn lại là các di tích chưa được xếp hạng. Trong đó tiêu biểu

như đình Đại Phùng xã Đan Phượng, chùa Già Lê xã Hồng Hà, chùa Đôi Hồi xã

Song Phượng, chùa Tân Hải xã Trung Châu, chùa Chổi xã Liên Hồng… Đặc biệt,

Đan Phượng có cụm di tích văn hóa tâm linh ở xã Hạ Mỗ vốn được xác định chính

là thành Ô Diên xưa với đền Văn Hiến thờ danh nhân Tô Hiến Thành, đình Vạn

Xuân, chùa Hải Giác, miếu Hàm Rồng. Đan Phượng còn là cái nôi của các loại hình

nghệ thuật dân gian, trò chơi dân gian mà nổi bật là hát chèo bè trên sông của dân

chài Vạn Vĩ, vật truyền thống ở xã Hồng Hà, hội thổi cơm thi ở hội Dầy, hát chèo

tàu ở hội Gối (Tân Hội), hát ca trù ở xã Thượng Mỗ, bơi trải ở Đồng Tháp…

Không những thế, là vùng đất có 3 con sông chảy qua: sông Hồng, sống Đáy

và sông Nhuệ cổ nên đã bồi đắp cho Đan Phượng những bờ xôi ruộng mật, tạo

thành tiềm năng để nơi đây có thể phát triển du lịch sinh thái, nông nghiệp, trải

nghiệm. Chẳng hạn như du lịch sinh thái cuối tuần tham quan tìm hiểu các giá trị

cảnh quan, sinh thái, nghỉ cuối tuần tại khu vực ven sông Đáy, ven đê sông Hồng;

du lịch ẩm thực tại các điểm du lịch làng nghề ẩm thực truyền thống như: nem

Phùng, giò chả Tân Hội, đậu phụ Hạ Mỗ, Hồng Hà… hoặc du lịch làng nghề mộc

Liên Hà, Liên Trung… Theo đánh giá của bà Nguyễn Hương Giang – Giám đốc Sở

Du lịch Hà Nội: “Tiềm năng du lịch Đan Phượng rất là nhiều. Xu hướng hiện nay

của mọi người là đi du lịch theo nhóm nhỏ, du lịch ngắn ngày thì Đan Phượng là

một trong những địa điểm hấp dẫn đối với người Hà Nội. Đan Phượng có rất nhiều

tiềm năng về phát triển du lịch sinh thái, du lịch trải nghiệm, du lịch tâm linh…”

Trong những năm qua, huyện Đan Phượng cũng đã bước đầu có chủ trương

gắn kết các điểm di sản văn hoá để phát triển du lịch. Hình thành một số tour du lịch

như: Tuyến 1: Hà Nội –Hạ Mỗ- Đan Phượng: Cụm di tích đền thờ Văn Hiến, đình

72

Vạn Xuân, chùa Phổ Giác - đình Đại Phùng; Tuyến 2: Hà Nội – Thị trấn Phùng:

quán Phượng Trì, đình Đại Phùng kết hợp tham quan nghề làm Nem – đình Vĩnh

Kỳ kết hợp tham quan nghề làm giò chả; Tuyến 3: Dọc theo đê sông Hồng, sông

Đáy: Đình làng Bá Dương, đình Bồng Lai, đình Vạn Vĩ tham quan hội thi thả diều

và nghề nấu rượu. Với những sự quan tâm đó, đã làm cho số lượng khách đến địa

phương thay đổi. Theo thống kê những năm gần đây lượng khách du lịch đến với

Đan Phượng có sự tăng lên, năm sau cao hơn năm trước, năm 2018 số khách đến

Đan Phượng là 30.674 lượt đến năm 2019 số khách đã tăng lên là 35.317 lượt

khách; Đến năm 2023 vào khoảng 40.230 lượt khách. [Số liệu Phòng Văn hoá –

Thông tin huyện cung cấp, tháng 9/2024]

Đình Đại Phùng cũng là một điểm trong các tour du lịch đó. Tuy nhiên có thể

thấy, việc gắn kết này vẫn chưa thực sự có hiệu quả, các công ty du lịch đến với di

tích vẫn còn hạn chế. Khách đến thăm di tích vẫn chủ yếu là người dân địa phương,

lượng khách tập trung đông nhất đến di tích là vào các dịp lễ hội được tổ chức.

Ngoài ra, cũng có một số khách du lịch, khách tham quan ở các vùng khách đến với

di tích, họ chủ yếu là những nhà nghiên cứu, du khách nước ngoài, và các sinh viên

đang học tập tại các trường trên địa bàn thủ đô Hà Nội. Theo bà Đào Thị Hồng -

Phó Chủ tịch UBND huyện Đan Phượng cho biết, “Lượng khách du lịch đến với

Đan Phượng còn khiêm tốn và đến nay gần như khi nhắc đến Đan Phượng du khách

mới biết đến nem Phùng qua ca dao, lời truyền miệng mà không biết đến giò chả

Tân Hội, đậu phụ Hạ Mỗ, rượu nếp Bá Giang, cá kho làng chài Vạn Vĩ…” như vậy

khả năng thu hút khách du lịch từ các điểm di tích tiêu biểu trong đó có đình Đại

Phùng còn khá hạn chế.

Để có thể thu hút được du khách đến với địa phương, đến với các điểm di sản

văn hoá, huyện Đan Phượng cũng đã có nhiều động thái tích cực để triển khai.

Huyện đã xây dựng, triển khai Đề án “Bảo tồn và phát huy giá trị di tích lịch sử văn

hóa xếp hạng cấp quốc gia giai đoạn 2018-2025”. Qua đó, bước đầu, huyện đã triển

khai thực hiện dự án lập hồ sơ khoa học di vật, cổ vật và biên dịch tư liệu Hán Nôm

các di tích xếp hạng cấp quốc gia trên địa bàn huyện…; tổ chức thành công một số

hội thảo khoa học về các điểm di tích tiêu biểu và xuất bản kỷ yếu. Tiến hành lấy ý

kiến của các chuyên gia, các doanh nghiệp du lịch thông qua hội thảo xúc tiến đầu

73

tư du lịch; quy hoạch khu du lịch sinh thái vui chơi giải trí bãi nổi sông Hồng, quy

hoạch hệ thống cơ sở lưu trú…

* Cùng với việc phát huy giá trị di tích LSVH thông qua hình thức du lịch,

thì việc gắn các di tích với hoạt động giảng dạy, học tập của các nhà trường, các

cuộc thi tìm hiểu về truyền thống lịch sử của địa phương cũng là một hình thức phát

huy giá trị có tác dụng tích cực. Thực hiện theo chỉ thị Xây dựng trường học thân

thiện, học sinh tích cực của Bộ Giáo dục - Đào tạo với mục đích học sinh tham gia

tìm hiểu, chăm sóc và phát huy giá trị các di tích lịch sử, văn hóa, cách mạng ở địa

phương… góp phần làm cho di tích ngày một sạch đẹp hơn, hấp dẫn hơn, giới thiệu

các công trình, di tích của địa phương. Các nhà trường có kế hoạch định kỳ phối

hợp với BQL di tích tại địa phương để tổ chức cho học sinh tiến hành vệ sinh cảnh

quan, môi trường tại di tích và thường xuyên tổ chức cho học sinh tới học tập, thăm

quan, tìm hiểu về các di tích tại địa phương.

Thực hiện kế hoạch học tập năm học 2022-2023 của trường THCS Đan

Phượng về chương trình hoạt động trải nghiệm cho học sinh. Năm học 2022 - 2023,

trường THCS Đan Phượng tổ chức buổi ngoại khóa lịch sử địa phương với chủ đề

“Tìm hiểu các di tích lịch sử Huyện Đan Phượng”. Tham dự buổi ngoại khóa có các

thầy cô trong Ban giám hiệu cùng các thầy cô giáo trong tổ KHXH các em học sinh

khối 6,8,9. Buổi ngoại khóa nhằm tuyên truyền giáo dục cho giáo viên và học sinh

về truyền thống tốt đẹp của cha ông, khơi dậy lòng yêu nước, lòng tự hào dân tộc,

giáo dục ý thức tôn trọng và bảo vệ các di tích lịch sử, văn hóa của địa phương. Từ

đó các em xác định được mục đích học tập, sống có lí tưởng, góp phần xây dựng

quê hương đất nước ngày càng giàu đẹp. Đến với di tích đình Đại Phùng, các học

sinh được giới thiệu về lịch sử Đình Đại Phùng đồng thời còn được giao lưu, trả lời

những câu hỏi liên quan đến các di tích lịch sử văn hóa giúp các em biết liên hệ

giữa việc học lý thuyết với thực tiễn khi học bộ môn lịch sử. Ngoài ra, các em còn

được tham gia cuộc thi vẽ kí họa Đình Đại Phùng. Đây là hoạt động thường xuyên

nằm trong chương trình phối hợp giữa nhà trường và địa phương nhằm xây dựng "

Trường học thân thiện, học sinh tích cực", để từ đó giúp các em tích cực góp phần

cùng chung tay gìn giữ, bảo vệ giá trị di sản văn hóa vật thể và phi vật thể nơi mình

đang sinh sống. Mặc dù thời gian không nhiều, song các em học sinh đã nhiệt tình,

tích cực chú ý lắng nghe và cùng trao đổi những hiểu biết của mình về di tích lịch

74

sử, giáo dục cho các em lòng yêu quê hương đất nước và tự hào truyền thống quê

hương.

2.4. Đánh giá chung

2.4.1. Ưu điểm

Di tích lịch sử văn hóa từ bao đời nay đã trở thành một bộ phận không thể

thiếu trong đời sống văn hóa, tinh thần của cộng đồng. Là cầu nối giữa quá khứ với

hiện tại, di tích lịch sử văn hóa giữ vai trò như sợi dây liên kết, tạo dựng không gian

văn hóa, là nơi công chúng đến với lịch sử cha ông, trở về với cội nguồn dân tộc,

tưởng nhớ công ơn người đi trước, cầu mong những điều tốt lành. Đồng thời cũng là

nơi mọi người được vui chơi, giải trí, bồi đắp, làm giàu thêm những giá trị về mặt

tinh thần. Đảng và Nhà nước ta luôn coi trọng vai trò của di tích lịch sử văn hóa

trong xây dựng đời sống văn hóa, được cụ thể hóa trong nhiều nghị quyết chuyên đề

về văn hóa của Đảng như: Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VIII) về “Xây dựng và

phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc”; Nghị quyết số

33- NQ/TW của Ban chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI) về “Xây dựng và phát

triển văn hóa, con người Việt nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước”...

Qua đó cho thấy, công tác bảo tồn, phát huy giá trị di tích đình Đại Phùng thời gian

qua đạt được một số ưu điểm sau:

- Các cấp chính quyền từ tỉnh xuống đến cấp cơ sở xã, thị trấn, cũng như

nhân dân địa phương luôn quan tâm, đầu tư, ủng hộ tạo sự đồng thuận, đồng lòng

nhất trí cao trong cho việc bảo tồn và phát huy giá trị các di sản văn hóa nói chung,

di tích đình Đại Phùng nói riêng.

- Thường xuyên tiến hành hoạt động kiểm kê, thống kê các di vật, cổ vật của

di tích để phát hiện những giá trị mới, nắm bắt được thực trạng của di tích từ đó đưa

ra những phương án cụ thể, hợp lý cho việc gìn giữ, bảo vệ. Việc tiếp tục nghiên

cứu, bổ sung những thông tin, giá trị của di tích cũng được chú ý, tổ chức thường

xuyên; bổ sung, hoàn thiện hồ sơ khoa học và đề nghị xếp hạng, góp phần bảo vệ di

tích bằng pháp lý cụ thể.

- Hoạt động tu bổ, tôn tạo được quan tâm, huy động được nguồn kinh phí lớn

để tiến hành. Thông qua đó di tích tránh được tình trạng xuống cấp, bị hủy hoại, bảo

tồn được các di sản văn hóa đầy giá trị. Thông qua việc được quan tâm tu bổ, tôn

75

tạo và đưa vào sử dụng đã đáp ứng được nguyện vọng, nhu cầu của người dân về

việc hưởng thụ văn hóa tinh thần.

Việc bảo vệ di tích, quản lý di vật, cổ vật cũng được quan tâm thường xuyên,

có những biện pháp cụ thể nhằm phòng tránh các nguy cơ về cháy nổ tại di tích,

nguy cơ về mất cắp di vật, cổ vật được hạn chế.

- Việc phát huy giá trị di tích cũng bước đầu được chú ý, tổ chức. Việc tuyên

truyền quảng bá cho các di tích cũng đã thực hiện dưới các hình thức như đăng tải

thông tin trên các phương tiện đại chúng, trên các mạng xã hội…đã góp phần lan

tỏa giá trị, hình ảnh của di tích đến với xã hội nhiều hơn, nhân dân từ các địa

phương khác qua kênh thông tin này cũng có điều kiện tiếp cận.

Trong những năm qua, việc phát triển loại hình du lịch di sản, du lịch văn hóa

tâm linh bước đầu được quan tâm nên đã thu hút được du khách. Số lượng du khách

có những biến đổi theo hướng tích cực…

- Vai trò của cộng đồng trong bảo vệ, phát huy giá trị các di tích được đề cao

và đóng góp được thể hiện rõ: đã thu hút, huy động được một lượng lớn người dân

tham gia vào hoạt động bảo tồn di tích. BQL di tích tại địa phương có thành phần

đại diện của cộng đồng tham dự. Vai trò của cộng đồng còn được thể hiện rõ trong

việc đóng góp kinh phí để tu bổ, tôn tạo các di tích, phục hồi các lễ hội hoặc các

nghi lễ diễn ra tại di tích

Nhìn chung, công tác bảo tồn, phát huy giá trị di tích đình Đại Phùng được

thực hiện nghiêm túc theo chỉ đạo của Chính phủ và chính quyền địa phương, từng

bước đi vào nề nếp, đảm bảo các yếu tố: tôn vinh, bảo tồn, phát huy các giá trị văn

hóa truyền thống của dân tộc, tổ chức lễ hội đảm bảo tính trang nghiêm, tiết kiệm,

an ninh trật tự - an toàn xã hội. Thông qua di tích, người dân được hưởng thụ, được

góp sức sáng tạo và trao truyền cho nhau những kiến thức về giá trị lịch sử, văn hóa

mà cha ông để lại. Nhờ đó, các giá trị văn hóa truyền thống của địa phương được

bảo tồn và phát huy; được truyền lại từ thế hệ này sang thế hệ khác, góp phần vun

đắp, nuôi dưỡng nhân cách và tâm hồn, khơi dậy tinh thần đoàn kết, niềm tự hào,

lòng yêu quê hương, đất nước. Có thể nói, di tích đình Đại Phùng đã đáp ứng được

nhu cầu sinh hoạt văn hóa tâm linh, tín ngưỡng của nhân dân, phát huy được vai trò,

giá trị của di tích trong đời sống cư dân địa phương.

76

2.4.2. Hạn chế

Xuất phát từ tình hình thực tiễn và quá trình nghiên cứu tìm hiểu cho thấy,

bên cạnh những kết quả đã đạt được, công tác quản lý, bảo vệ và phát huy giá trị di

tích đình Đại Phùng vẫn còn những hạn chế, bất cập và đứng trước không ít nguy

cơ, thách thức:

- Các yếu tố khách quan như sự tác động của thời gian, thời tiết, khí hậu và

môi trường đã và đang làm cho hệ thống các di vật, cổ vật, cảnh quan của di tích

đình Đại Phùng xuống cấp, hư hại. Sự tàn phá của chiến tranh cũng là một nguyên

nhân gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến di tích, một số hạng mục bị biến dạng hoặc

bị đổ nát, hoang phế mà ngày nay chúng ta chưa có điều kiện khôi phục. Việc tu bổ,

phục chế các di vật, cổ vật, các hạng mục bị hư hại, xuống cấp còn chậm so với yêu

cầu. Các dự án tu bổ, tôn tạo di tích hầu hết còn nhỏ lẻ, thiếu tính lâu dài, chưa xứng

với quy mô và giá trị của di tích. Một số cổ vật bị hư hại do chưa được tu bổ, phục

chế kịp thời.

- Nguồn nhân lực trực tiếp quản lý, bảo vệ, trông nom di tích hầu hết là người

lớn tuổi, được dân làng tín nhiệm, tự nguyện trông coi di tích, chưa được hưởng

quyền lợi và chế độ phụ cấp, không được đào tạo bằng cấp chính quy hay tham gia

các lớp nghiệp vụ chuyên sâu về công tác bảo tồn, tu bổ, tôn tạo, hướng dẫn tham

quan... Họ đơn thuần là những người trông nom di tích hàng ngày, không có am

hiểu cơ bản về các hoạt động bảo vệ, tu bổ, tôn tạo và phát huy giá trị di tích, nên

không tránh khỏi khó khăn, hạn chế trong thực hiện nhiệm vụ.

- Hoạt động nghiên cứu khoa học về di tích tuy đã được quan tâm, nhưng mới

đạt được kết quả bước đầu. Chưa có đề tài nghiên cứu khoa học chuyên biệt, xứng

tầm về quản lý, bảo tồn, phát huy giá trị di tích đình Đại Phùng. Cũng chưa có hội

thảo khoa học tầm cỡ nào liên quan đến nội dung này.

- Nhận thức của một bộ phận dân cư còn chưa tốt trong việc bảo vệ di tích.

Chẳng hạn như việc lấn chiếm không gian cảnh quan của di tích được diễn ra bởi

người dân bán hàng tại chợ trước cửa đình, ảnh hưởng đến mỹ thuật của cảnh quan,

di tích. Việc vứt rác vứt bừa bãi đã ảnh hưởng xấu đến mỹ quan, không gian di tích.

- Việc phát huy giá trị của các di tích còn nhiều khó khăn, hạn chế. Đa phần

các di tích đều do nhân dân tự quản, thiếu đội ngũ cán bộ thuyết minh, hướng dẫn.

Hoạt động tuyên truyền quảng bá, xúc tiến du lịch tại các điểm di tích chưa được

77

chú trọng như thiếu tài liệu, sách báo, tờ rơi, phim ảnh… để giới thiệu, giáo dục

tuyên truyền tại điểm di tích.

- Việc tổ chức khai thác, phát huy giá trị của di tích chưa có định hướng và

biện pháp kế hoạch cụ thể, chưa quan tâm đúng mức tới khai thác giá trị truyền

thống. Tổ chức khai thác ở di tích còn đơn điệu, nghèo nàn, sản phẩm du lịch văn

hóa chủ yếu dựa vào những giá trị sẵn có của di tích, chưa kết hợp giữa khai thác

DSVH vật thể và phi vật thể, việc nghiên cứu, xây dựng các tour du lịch đến với di

tích còn nhiều hạn chế. Do đó, công tác bảo tồn, tôn tạo và phát huy giá trị di tích

đình Đại Phùng gắn với hoạt động phát triển kinh tế tại địa phương hiệu quả chưa

cao.

Việc tổ chức khai thác để phát huy giá trị của di tích chưa có định hướng và

biện pháp kế hoạch cụ thể, một số nơi chỉ chú trọng đến khai thác giá trị kinh tế,

chưa quan tâm đúng mức tới khai thác giá trị truyền thống. Công tác tuyên truyền,

quảng bá trên các phương tiện thông tin đại chúng chưa được thường xuyên và hiệu

quả, chủ yếu tập trung vào ngày lễ hội.

- Hoạt động kinh doanh du lịch, các dịch vụ du lịch phát triển không đồng

đều, dịch vụ lữ hành, hướng dẫn, vui chơi giải trí, cung ứng sản phẩm lưu niệm, đặc

sản địa phương và dịch vụ nghỉ dưỡng kém phát triển. Khả năng liên kết và hỗ trợ,

bổ sung lẫn nhau thấp, chất lượng dịch vụ hạn chế.

2.4.3. Nguyên nhân

Qua quá trình khảo sát thực tế và tìm hiểu thực trạng công tác bảo tồn, phát

huy giá trị di tích tại đình Đại Phùng, học viên nhận thấy những tồn tại, hạn chế nêu

trên là do một số nguyên nhân cơ bản sau đây:

- Nhận thức của chính quyền, các cơ quan quản lý và của người dân về giá trị

của di tích đối với sự phát triển kinh tế - xã hội một cách bền vững chưa thật đầy đủ

và sâu sắc, thậm chí không tránh khỏi suy nghĩ việc bảo vệ, trùng tu, tôn tạo di tích

đơn thuần là công việc chi ngân sách, từ đó chưa có được những hành động thiết

thực nhằm bảo tồn và phát huy giá trị di tích lịch sử văn hóa ở địa phương mình.

- Nằm trọn trong chiếc nôi văn hoá xứ Đoài, số lượng di tích trên địa bàn

huyện Đan Phượng rất lớn, với 155 di tích lịch sử văn hóa đã được xếp hạng. Trong

đó 01 di tích Quốc gia đặc biệt (là di tích đình Đại Phùng), 37 di tích được xếp hạng

cấp Quốc gia, 33 di tích xếp hạng cấp Thành phố. Trong khi khả năng huy động

78

nguồn vốn đóng góp của xã hội còn hạn chế, bài toán chi ngân sách cho công tác

bảo tồn và phát huy giá trị di tích lịch sử văn hóa của địa phương quả thực là không

dễ dàng.

- Là huyện cửa ngõ của Thủ đô, quá trình đô thị hoá diễn biến nhanh chóng

và phức tạp, không gian sinh tồn và không gian văn hoá của cư dân sở tại không thể

tránh khỏi biến động, đổi thay theo nhiều chiều hướng, không ngừng gia tăng áp lực

đến không gian văn hoá của di tích, đe doạ tính toàn vẹn của di tích, đặt ra cho công

tác bảo tồn và phát huy giá trị di tích đình làng một mối nguy cơ thường trực.

- Việc tuyên truyền, phổ biến các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà

nước về DSVH đã được thực hiện nhưng chưa có kế hoạch, chương trình cụ thể. Ở

địa phương, các cấp chính quyền chưa có sự quan tâm đúng mức tới việc tuyên

truyền, vận động người dân thực hiện Luật Di sản văn hóa và các văn bản dưới luật.

Do đó, nhận thức của người dân còn hạn chế, nhất là hiểu biết về Luật Di sản văn

hóa còn chưa được sâu sắc. Người dân chưa thấy hết được giá trị của di tích trong

đời sống của cộng đồng địa phương, từ đó có những hành động thiết thực nhằm bảo

vệ và phát huy giá trị di tích lịch sử văn hóa ở địa phương mình.

- Công tác nghiên cứu khoa học về di tích, nhất là về quản lý, bảo tồn, phát

huy giá trị di tích mới dừng lại ở mức phục vụ công tác bảo vệ, chưa thiết thực đi

vào nghiên cứu, đề xuất, kiến nghị các giải pháp cụ thể, hữu hiệu giải quyết hài hoà

mối quan hệ giữa bảo vệ, phát huy giá trị của di tích với việc phát triển kinh tế - xã

hội một cách bền vững của địa phương.

- Quá trình tu bổ, tôn tạo di tích chưa được nghiên cứu thấu đáo về các mặt:

thiết kế, chất liệu, kĩ thuật, công nghệ. Địa phương còn có quan niệm sai lầm cho

rằng việc tu bổ, tôn tạo di tích chỉ như các hoạt động xây dựng cơ bản đơn thuần.

Do đó, xảy ra hiện tượng di tích sau khi trùng tu, tôn tạo chưa đảm bảo chất lượng,

coi nhẹ nguyên tắc “ bảo tồn tối đa yếu tố gốc”

- Việc tiến hành các thủ tục xây dựng, trình cấp có thẩm quyền phê duyệt chủ

trương, nhiệm vụ quy hoạch tổng thể di tích, đồ án quy hoạch tổng thể di tích quốc

gia đặc biệt đình Đại Phùng còn chậm.

79

Tiểu kết Chương 2

Dựa trên các luận cứ khoa học và hệ thống các quy định của pháp luật về bảo

vệ, phát huy giá trị di tích, luận văn đã phân tích, làm rõ thực trạng bảo vệ và phát

huy giá trị DTLSVH đình Đại Phùng, những kết quả bước đầu đã đạt được, những

tồn tại, hạn chế trong công tác quản lý, bảo vệ, phát huy giá trị di tích và những

nguyên nhân của tồn tại hạn chế đó.

Luận văn đã tiếp cận các hoạt động bảo vệ và phát huy giá trị di tích trên

những khía cạnh cụ thể là các công tác chuyên môn như tu bổ, tôn tạo di tích, các

hoạt động nghiên cứu, sưu tầm và phát huy giá trị di tích đã và đang được các cơ

quan chức năng của huyện Đan Phượng và nhân dân sở tại tiến hành trong điều kiện

hiện nay. Vai trò của cộng đồng đối với việc bảo vệ di tích là điều rất quan trọng

được thể hiện qua việc huy động các nguồn lực để trùng tu, tu bổ cho các di tích.

Trên thực tế, hoạt động bảo vệ và phát huy giá trị di tích đã có những hiệu quả tích

cực, tuy nhiên, do một số yếu tố nên việc bảo vệ và phát huy giá trị di tích còn bộc

lộ một số hạn chế… đó là những vấn đề cần có những giải pháp cụ thể để giải quyết

nhằm góp phần gìn giữ, phát huy DSVH nhiều giá trị này.

80

Chương 3

GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG BẢO VỆ VÀ PHÁT

HUY GIÁ TRỊ DI TÍCH ĐÌNH ĐẠI PHÙNG

3.1. Những căn cứ để xác định giải pháp

3.1.1. Quan điểm của Đảng và Nhà nước

Lịch sử hơn bốn ngàn năm dựng nước và giữ nước đã chung đúc nên truyền

thống văn hóa Việt Nam hết sức sâu dày và mang đậm dấu ấn sáng tạo, đấu tranh vì

lẽ trường tồn và phát triển của dân tộc. Ngay từ những ngày mới thành lập, Đảng ta

luôn luôn coi trọng vai trò của văn hoá và hết sức quan tâm đến công tác xây dựng

văn hoá trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước. Trước

Cách mạng tháng Tám năm 1945, khi đất nước chưa giành được độc lập, với Đề

cương Văn hóa Việt Nam, Đảng ta đã xác định: “Mặt trận văn hoá là một trong ba

mặt trận (chính trị, kinh tế, văn hoá)”. Trên nền tảng quan điểm, tư tưởng của Chủ

tịch Hồ Chí Minh “Văn hóa soi đường cho quốc dân đi”, trong suốt hai cuộc kháng

chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, đến thời kỳ sau năm 1975 cả nước cùng

tiến lên chủ nghĩa xã hội, nhất là sau năm 1986 từ khi Đảng lãnh đạo công cuộc đổi

mới toàn diện đất nước, quan điểm của Đảng về văn hoá ngày càng toàn diện, đầy

đủ và sâu sắc hơn. Cụ thể và gần đây nhất là tại Hội nghị lần thứ 9 Ban Chấp hành

Trung ương Đảng (khóa XI) và Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng.

- Nghị quyết số 33-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XI về

xây dựng và phát triển văn hoá, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền

vững đất nước, đã xác định những quan điểm hết sức quan trọng, tạo tiền đề cho

việc hoàn thiện thể chế về xây dựng và phát triển văn hóa nói chung, bảo vệ và phát

huy giá trị di sản văn hóa nói riêng: Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, là mục

tiêu, động lực phát triển bền vững đất nước. Văn hóa phải được đặt ngang hàng với

kinh tế, chính trị, xã hội. Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc

dân tộc, thống nhất trong đa dạng của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, với các đặc

trưng dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học. Phát triển văn hóa vì sự hoàn thiện

nhân cách con người và xây dựng con người để phát triển văn hóa. Trong xây dựng

văn hóa, trọng tâm là chăm lo xây dựng con người có nhân cách, lối sống tốt đẹp,

với các đặc tính cơ bản: yêu nước, nhân ái, nghĩa tình, trung thực, đoàn kết, cần cù,

81

sáng tạo. Phát triển hài hòa giữa kinh tế và văn hóa; cần chú ý đầy đủ đến yếu tố

văn hóa và con người trong phát triển kinh tế.

Nghị quyết cũng đề ra các nhóm nhiệm vụ, trong đó yêu cầu: Huy động sức

mạnh của toàn xã hội nhằm bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa truyền thống,

khích lệ sáng tạo các giá trị văn hóa mới, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, làm

giàu văn hóa dân tộc. Xây dựng cơ chế để giải quyết hợp lý, hài hòa giữa bảo tồn,

phát huy di sản văn hóa với phát triển kinh tế - xã hội. Bảo tồn, tôn tạo các di tích

lịch sử - văn hóa tiêu biểu, phục vụ giáo dục truyền thống và phát triển kinh tế; gắn

kết bảo tồn, phát huy di sản văn hóa với phát triển du lịch. Phục hồi và bảo tồn một

số loại hình nghệ thuật truyền thống có nguy cơ mai một. Phát huy các di sản được

UNESCO công nhận, góp phần quảng bá hình ảnh đất nước và con người Việt Nam.

- Sau 35 năm tiến hành công cuộc đổi mới, bối cảnh trong nước và quốc tế

đặt ra cho sự nghiệp xây dựng và phát triển văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản

sắc dân tộc nói chung, cho lĩnh vực bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa nói

riêng những thời cơ và thách thức mới. Để tiếp tục xây dựng, giữ gìn và phát triển

nền văn hoá, thực sự là nền tảng tinh thần, động lực của sự phát triển, hoàn thành sứ

mệnh “soi đường cho quốc dân đi”, phát triển văn hoá thực sự được xác định là một

trong những vấn đề trọng tâm, một nội dung nổi bật trong Văn kiện Đại hội XIII

của Đảng. Một trong những quan điểm chỉ đạo cốt lõi và xuyên suốt mà Văn kiện

Đại hội đã nhấn mạnh là: “Khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự cường

dân tộc và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc. Phát huy sức mạnh

tổng hợp của cả hệ thống chính trị, của nền văn hoá và con người Việt Nam,... kết

hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; phát huy tối đa nội lực, tranh thủ

ngoại lực, trong đó nguồn lực nội sinh, nhất là nguồn lực con người là quan trọng

nhất”. Đồng thời, Văn kiện Đại hội XIII của Đảng cũng đã xác định nhiệm vụ có

tính đột phá chiến lược là: “Gắn kết chặt chẽ, hài hoà giữa phát triển kinh tế với

phát triển văn hoá và thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, nâng cao đời sống nhân

dân. Xây dựng, phát huy yếu tố văn hoá để thực sự là đột phá phát triển kinh tế - xã

hội, hội nhập quốc tế. Khơi dậy tinh thần yêu nước, tính cộng đồng, ý chí tự cường,

tự hào dân tộc và khát vọng vươn lên. Tăng cường công tác bảo tồn, tôn tạo và phát

huy các giá trị văn hoá vật thể, phi vật thể, các di tích lịch sử văn hoá. Bảo tồn, phát

82

huy giá trị văn hoá tốt đẹp của các dân tộc. Từng bước hạn chế, tiến tới xoá bỏ các

hủ tục, tập quán lạc hậu”.

Phân tích làm rõ hơn các quan điểm chỉ đạo và các nhiệm vụ chiến lược về

xây dựng và phát triển văn hóa mà Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng đã đề

ra, tại Hội nghị văn hóa toàn quốc ngày 24 tháng 11 năm 2021, Tổng bí thư Nguyễn

Phú Trọng đã chỉ ra 6 nhiệm vụ trọng tâm và 4 nhóm giải pháp thực hiện các nhiệm

vụ có tính chiến lược để tiếp tục xây dựng, giữ gìn, chấn hưng và phát triển nền văn

hoá của dân tộc, đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước. Tổng bí thư nhấn

mạnh: “Di sản văn hoá là tài sản vô cùng quý báu do Tổ tiên, Cha ông ta mấy nghìn

năm để lại. Chúng ta có trách nhiệm phải giữ gìn, trân trọng và phát huy. Nếu không

là chúng ta có tội với lịch sử, là vong ân bội nghĩa với Tổ tiên, Cha ông”. Để thực

hiện nhiệm vụ đó, Tổng bí thư nêu yêu cầu, cần quan tâm hơn nữa đến việc bảo tồn,

tôn tạo và phát huy các giá trị văn hoá dân tộc, các giá trị văn hoá vật thể và phi vật

thể của các vùng, miền, của đồng bào các dân tộc, kết hợp với tiếp thu tinh hoa văn

hoá của thời đại.

Có thể nhận thấy, những chủ trương, quan điểm chỉ đạo của Đảng ta về bảo

vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa là tiền đề quan trọng cho việc hoạch định chính

sách, xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật về di sản văn hóa, tạo điều kiện

cho các địa phương cụ thể hóa mục tiêu quản lý di sản, di tích phù hợp với thực tiễn

của địa phương mình. Điều đó có thể khái quát ở những luận điểm chính sau:

- Thứ nhất, Đảng và Nhà nước nhận thức sâu sắc và có quan điểm nhất quán,

xuyên suốt về vị trí, vai trò của bảo tồn, phát huy giá trị DSVH trong công cuộc xây

dựng và phát triển đất nước nói chung, đối với sự nghiệp phát triển văn hóa, con

người Việt Nam nói riêng.

- Thứ hai, DSVH là tài sản vô giá của dân tộc, là nguồn lực nội sinh quan

trọng để phát triển bền vững đất nước, là yếu tố quan trọng góp phần tạo nên sức

mạnh mềm trong giao lưu, hợp tác quốc tế. Phát huy giá trị di sản văn hóa chính là

khai thác sức mạnh nội sinh để phát triển đất nước thịnh vượng, hùng cường.

- Thứ ba, bảo tồn và phát huy giá trị DSVH là nhiệm vụ thường xuyên, liên

tục của cả hệ thống chính trị, của toàn dân, trong đó Đảng giữ vai trò lãnh đạo, Nhà

nước thực hiện nhiệm vụ quản lý, ngành văn hóa và những cá nhân hoạt động trong

lĩnh vực văn hóa là lực lượng nòng cốt, có vị trí đặc biệt quan trọng.

83

Cách mạng tháng Tám thành công, ngày 02/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh

đọc Tuyên ngôn độc lập, tuyên bố ra mắt Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân

chủ Cộng hòa. Chưa đầy 3 tháng sau đó, ngày 23/11/năm 1945, thay mặt Chính

phủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký ban hành Sắc lệnh số 65/SL ấn định nhiệm vụ cho

Đông phương Bác cổ học viện nhiệm vụ bảo tồn tất cả các cổ tích trong toàn cõi

Việt Nam. Sắc lệnh nêu rõ: “Việc bảo tồn cổ tích là việc rất cần trong công cuộc

kiến thiết nước Việt Nam”. Đây được coi là văn kiện pháp lý đầu tiên của Nhà nước

ta về bảo tồn di sản văn hóa dân tộc, phản ánh đầy đủ những tư tưởng, quan điểm

rất cơ bản, sâu sắc của Nhà nước ta đối với việc bảo tồn di sản văn hóa, cho nay vẫn

giữ nguyên ý nghĩa lý luận và thực tiễn, soi sáng cho sự nghiệp bảo vệ và phát huy

giá trị di sản văn hóa của đất nước.

Thể chế hóa các quan điểm của Đảng về bảo tồn, phát huy di sản trong sự

nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước, Quốc hội đã 03 lần xem xét, thông qua Luật

Di sản văn hóa. Cụ thể là: Luật Di sản văn hóa năm 2001, Luật sửa đổi, bổ sung

một số điều của Luật Di sản văn hóa năm 2009 và Luật Di sản văn hóa năm 2024.

Luật Di sản văn hóa 2024 được Quốc hội thông qua ngày 23/11/2024, đã thể

chế hóa đầy đủ đường lối, chủ trương của Đảng và Nhà nước về văn hóa và di sản

văn hóa. Tinh thần nhất quán của Nhà nước ta tại các bộ luật năm 2001, 2009 được

kế thừa và phát triển tại bộ luật này, với việc tiếp tục khẳng định: “Di sản văn hóa

Việt Nam là tài sản quý giá của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, là một bộ phận

của Di sản văn hóa nhân loại, có vai trò to lớn trong sự nghiệp dựng nước và giữ

nước của Nhân dân”. Ba chính sách lớn được thông qua và quy định cụ thể trong

Luật Di sản văn hóa 2024, gồm: (1) Hoàn thiện các quy định về bảo vệ và phát huy

giá trị di sản văn hóa; (2) Hoàn thiện các quy định về thực hiện phân cấp, phân

quyền quản lý nhà nước về di sản văn hóa phù hợp với thực tiễn; (3) Tăng cường cơ

chế, chính sách thúc đẩy xã hội hóa và nâng cao hiệu quả huy động nguồn lực bảo

vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa. Với 09 chương, 95 điều, Luật Di sản văn hóa

2024 được đánh giá là đã thể chế hoá đầy đủ đường lối, chủ trương của Đảng và

Nhà nước về văn hoá và di sản văn hoá, thể hiện được tinh thần phân cấp, phân

quyền mạnh mẽ và cải cách, đơn giản hoá thủ tục hành chính.

Nhằm hiện thực hóa các chủ trương, chính sách của Nhà nước trong lĩnh vực

di sản văn hóa, trên bình diện quốc tế, trong những năm qua, Việt Nam đã chủ động

84

tham gia và là thành viên tích cực trong việc thực hiện các công ước quốc tế về di

sản văn hóa do tổ chức UNESCO đề xướng. Ở trong nước, Bộ Văn hóa, Thể thao và

Du lịch đã kịp thời đề xuất với Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ban hành và tổ

chức thực hiện nhiều chủ trương, chính sách lớn về văn hóa nói chung, về bảo vệ,

phát huy giá trị di sản văn hóa nói riêng. Nổi bật như Chiến lược phát triển văn hóa

đến năm 2020 được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 581/QĐ-TTg

ngày 6/5/2009, Chiến lược phát triển văn hóa đến năm 2030 được Thủ tướng Chính

phủ phê duyệt tại Quyết định số 1909/QĐ-TTg ngày 12/11/2021, Chương trình mục

tiêu quốc gia về văn hóa giai đoạn 2012 - 2015 được Thủ tướng Chính phủ phê

duyệt tại Quyết định số 1211/QĐ-TTg ngày 05/9/2012, Chương trình mục tiêu quốc

gia về phát triển văn hoá giai đoạn 2025 - 2035 được Quốc hội phê duyệt chủ

trương đầu tư theo Nghị quyết số 162/2024/QH15...

Chiến lược phát triển văn hóa đến năm 2030 được phê duyệt theo Quyết định

số 1909/QĐ-TTg ngày 12/11/2021 của Thủ tướng Chính phủ đặt mục tiêu đến năm

2030: “Phấn đấu ít nhất 95% di tích quốc gia đặc biệt và khoảng 70% di tích quốc

gia được tu bổ, tôn tạo; khoảng 70% số di sản trong Danh mục di sản văn hóa phi

vật thể quốc gia được xây dựng đề án, chương trình bảo vệ và phát huy giá trị. Có ít

nhất 05 di sản được Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hợp quốc

(UNESCO) ghi danh theo các Công ước của UNESCO”. Để thực hiện mục tiêu đó,

Chiến lược đề ra 6 nhiệm vụ và giải pháp sau:

“ - Hoàn thành việc lập nhiệm vụ quy hoạch và quy hoạch bảo quản, tu bổ,

phục hồi di tích. Tập trung đầu tư bảo quản, tu bổ, phục hồi các di tích quốc gia đặc

biệt, di sản thế giới, di tích lịch sử - văn hóa có giá trị tiêu biểu, phục vụ giáo dục

truyền thống và phát triển kinh tế; gắn kết bảo tồn, phát huy di sản văn hóa với phát

triển du lịch.

- Nâng cao chất lượng công tác sưu tầm, nghiên cứu, kiểm kê, phân loại di

sản văn hóa phi vật thể và di sản tư liệu. Phục hồi và bảo tồn một số loại hình di sản

văn hóa phi vật thể, nghệ thuật truyền thống có nguy cơ mai một, ưu tiên di sản văn

hóa các dân tộc có số dân dưới 10.000 người. Phát huy giá trị các di sản văn hóa phi

vật thể được UNESCO ghi danh, góp phần quảng bá hình ảnh đất nước và con

người Việt Nam.

85

- Đổi mới, nâng cao chất lượng giáo dục di sản văn hóa trong và ngoài nhà

trường bằng việc đa dạng hóa mô hình, phương thức, quy mô; tăng cường xã hội

hóa hoạt động giáo dục di sản.

- Đổi mới và nâng cao hoạt động đãi ngộ, tôn vinh nghệ nhân; tạo điều kiện

cho nghệ nhân tham gia truyền dạy, quảng bá di sản trong cộng đồng ở trong nước

và nước ngoài.

- Thực hiện số hóa và lập bản đồ số di tích quốc gia đặc biệt, di tích quốc gia,

bảo vật quốc gia, di sản tư liệu. Nâng cấp và khai thác có hiệu quả ngân hàng dữ

liệu về di sản văn hóa của 54 dân tộc Việt Nam phù hợp với yêu cầu của cuộc Cách

mạng công nghiệp lần thứ tư”.

Nhằm tích cực chuẩn bị nguồn lực cho việc thực hiện các mục tiêu trên đây,

đồng thời hoàn thiện một bước về xây dựng thể chế, huy động sự tham gia của tổ

chức, cá nhân và cộng đồng trong việc quản lý, bảo vệ, phát huy giá trị di sản văn

hóa của dân tộc, tại Kỳ họp thứ 8 Quốc hội khóa XV, Quốc hội đã ban hành Nghị

quyết số 162/2024/QH15 phê duyệt chủ trương đầu tư Chương trình mục tiêu quốc

gia về phát triển văn hoá giai đoạn 2025 - 2035. Theo đó, trong thập kỷ tới, cả nước

sẽ tập trung nguồn lực của Chương trình để giải quyết 10 vấn đề cấp thiết trong lĩnh

vực văn hóa. Một trong những nhiệm vụ đó là “Bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn

hóa dân tộc”, với mục tiêu cụ thể là: Đến năm 2030: “Phấn đấu hoàn thành việc tu

bổ, tôn tạo 95% di tích quốc gia đặc biệt (khoảng 120 di tích) và 70% di tích quốc

gia (khoảng 2.500 di tích)”; đến năm 2035: “Phấn đấu hoàn thành việc tu bổ, tôn tạo

100% di tích quốc gia đặc biệt và ít nhất 80% di tích quốc gia”.

3.1.2. Định hướng của thành phố Hà Nội

Riêng với thành phố Hà Nội, cho đến nay, Bộ Chính trị đã hai lần ban hành

nghị quyết chuyên đề về phương hướng, nhiệm vụ phát triển Thủ đô Hà Nội là Nghị

quyết số 11-NQ/TW ngày 06/01/2012 của Bộ Chính trị (khóa XI) về phương

hướng, nhiệm vụ phát triển Thủ đô Hà Nội giai đoạn 2011-2020; Nghị quyết số

15-NQ/TW ngày 05/5/2022 của Bộ Chính trị (khóa XIII) về phương hướng, nhiệm

vụ phát triển Thủ đô Hà Nội đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045. Quốc hội đã

hai lần thông qua Luật Thủ đô, là Luật số 25/2012/QH13 (sau đây viết tắt là Luật

Thủ đô 2012) và Luật số 39/2024/QH15 (sau đây viết tắt là Luật Thủ đô 2024).

86

- Nghị quyết số 15-NQ/TW ngày 05/5/2022 của Bộ Chính trị (khóa XIII) về

phương hướng, nhiệm vụ phát triển Thủ đô Hà Nội đến năm 2030, tầm nhìn đến

năm 2045 xác định 08 nhóm nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu về phát triển Thủ đô đến

năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045. Nhiệm vụ phát triển văn hóa, xây dựng người

Hà Nội được xác định tại nhóm nhiệm vụ, giải pháp thứ 3. Cụ thể như sau: “Tập

trung phát triển văn hoá Thủ đô xứng tầm với truyền thống nghìn năm Thăng Long

- Hà Nội; xây dựng Hà Nội thực sự là trung tâm hội tụ, kết tinh văn hoá của cả

nước, trở thành nguồn lực phát triển mới cho Thủ đô. Tập trung bảo tồn, phát huy

các giá trị di sản văn hoá vật thể và phi vật thể, các di tích, công trình kiến trúc có

giá trị, trọng tâm là các di sản thế giới, di tích quốc gia; đầu tư xây dựng một số

công trình văn hoá, thể thao mới, tiêu biểu của Thủ đô (hệ thống nhà hát, quảng

trường, tượng đài, công viên, tổ hợp thể thao, trung tâm hội chợ triển lãm…). Quan

tâm đầu tư đúng mức để phát triển văn hoá, từng bước thu hẹp khoảng cách về

hưởng thụ văn hoá giữa thành thị và nông thôn. Tăng cường tổ chức các sự kiện văn

hoá, thể thao, du lịch, triển lãm và phát triển các sản phẩm văn hoá, du lịch có

thương hiệu mang tầm quốc tế”.

- Luật Thủ đô 2012 và Luật Thủ đô 2024 đều dành riêng một điều về nguyên

tắc, phạm vi, đối tượng, phân công nhiệm vụ về bảo tồn và phát triển văn hóa của

Thủ đô Hà Nội (Điều 11, Luật Thủ đô 2012, Điều 21 Luật Thủ đô 2024). Quan

điểm bảo tồn và phát triển văn hóa của Luật Thủ đô 2012 được kế thừa, phát triển

tại Luật Thủ đô 2024. Theo đó: “Việc bảo vệ và phát triển văn hóa Thủ đô phải

xứng tầm với truyền thống nghìn năm Thăng Long - Hà Nội; xây dựng Hà Nội là

trung tâm hội tụ, kết tinh văn hóa của cả nước; xây dựng văn hóa người Hà Nội hào

hoa, thanh lịch, nghĩa tình, văn minh, tiêu biểu cho văn hóa, lương tri và phẩm giá

con người Việt Nam” (Điều 21, khoản 1).

Có hiệu lực thi hành từ 01/01/2025, Luật Thủ đô 2024 quy định việc xác định

các khu vực, di tích, di sản, công trình được tập trung nguồn lực để bảo vệ và phát

huy giá trị được mở rộng hơn rất nhiều so với Luật Thủ đô 2012. Đáng chú ý là,

ngoài các khu vực, di tích, di sản, công trình tiêu biểu, quan trọng được tập trung

nguồn lực để bảo vệ và phát huy giá trị văn hóa đã được xác định theo Luật Thủ đô

2012, lần đầu tiên tại Luật Thủ đô 2024, Luật quy định cho phép thành phố Hà Nội

xác định theo hướng mở rộng tối đa phạm vi đối tượng, bao trùm hầu hết các khu

87

vực, di tích, di sản, công trình được thành phố tập trung nguồn lực để bảo vệ và phát

huy giá trị.

Với sự quan tâm chỉ đạo của Trung ương Đảng, Quốc hội, Chính phủ, sự nỗ

lực của các cấp, các ngành, đội ngũ cán bộ, công chức và nhân dân Thành phố,

trong những năm qua, công tác phát triển văn hóa nói chung, bảo tồn và phát huy

giá trị di sản văn hóa nói riêng của thành phố Hà Nội đã đạt được những kết quả rất

đáng ghi nhận. Hà Nội là địa phương đầu tiên của cả nước hoàn thành tổng kiểm kê,

phân loại di tích và tổng kiểm kê bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể. Toàn Thành phố

có 5.922 di tích, trong đó có 21 di tích và cụm di tích được xếp hạng Quốc gia đặc

biệt, 1.160 di tích cấp quốc gia, 1.452 di tích cấp thành phố và 3.221 di tích chưa

được xếp hạng; toàn Thành phố có 1.793 di sản văn hóa phi vật thể. Hà Nội chính

thức trở thành thành viên mạng lưới các “Thành phố sáng tạo” của UNESCO...

Về đầu tư cho tu bổ, tôn tạo di tích, thực hiện Chương trình số 06-CTr/TU

ngày 17/3/2021 của Thành ủy Hà Nội, Nghị quyết số 02/NQ-HĐND ngày

08/4/2022 của Hội đồng nhân dân thành phố Hà Nội, Kế hoạch số 139/KH-UBND

ngày 6/5/2022 của UBND Thành phố về đầu tư xây dựng, cải tạo trường học công

lập để đủ điều kiện đạt chuẩn quốc gia, nâng cấp hệ thống y tế và tu bổ, tôn tạo di

tích trong giai đoạn 2022-2025 và các năm tiếp theo, đã đề ra các chủ trương, giải

pháp căn cơ cho công tác trùng tu tôn tạo di tích giai đoạn 2022-2025 và những năm

tiếp theo. Theo kế hoạch này, thành phố Hà Nội tổ chức thực hiện các dự án tu bổ,

tôn tạo di tích đối với 1.284 di tích, với tổng kinh phí là 30.369 tỷ đồng. Trong đó,

có 55 dự án do Thành phố trực tiếp quản lý, với kinh phí là 6.280 tỷ đồng; 1.229 dự

án do các quận, huyện quản lý, với kinh phí là 24.089 tỷ đồng.

Về phân cấp quản lý di tích, tại Quyết định số 41/2016/QĐ-UBND ngày

19/9/2016 của UBND Thành phố Hà Nội ban hành quy định phân cấp quản lý nhà

nước một số lĩnh vực hạ tầng, kinh tế -xã hội trên địa bàn thành phố Hà Nội, Thành

phố đã phân cấp cụ thể cho các cấp chính quyền quản lý đối với các di tích. Trong

đó, có 10 di tích tiêu biểu do Thành phố trực tiếp quản lý, các di tích còn lại được

giao về địa phương quản lý. Nguồn ngân sách Thành phố ưu tiên đầu tư cho các di

tích cấp quốc gia đặc biệt, di tích do Thành phố quản lý và hỗ trợ một phần ngân

sách cho các di tích thuộc diện quản lý của địa phương. Việc phân cấp quản lý vừa

tăng cường trách nhiệm và quyền hạn cho các cấp quản lý cơ sở, vừa tạo sự thống

88

nhất, tập trung, thuận lợi trong giải quyết công việc, hiệu quả trong công tác quản lý

nhà nước, kỷ luật, kỷ cương hành chính được tăng cường.

Bên cạnh đó, UBND thành phố Hà Nội cũng đã ban hành Quyết định số

48/2016/QĐ-UBND ngày 17/11/2016 về Ban hành Quy chế quản lý, bảo vệ và phát

huy giá trị DTLSVH và danh lam thắng cảnh trên địa bàn thành phố; Quyết định số

31/2021/QĐ-UBND ngày 29/12/2021 về sửa đổi, bổ sung một số điều của Quy chế

quản lý, bảo vệ và phát huy giá trị DTLSVH và danh lam thắng cảnh của Hà Nội.

Quy chế nhấn mạnh tăng cường quản lý, bảo vệ và phát huy giá trị DTLSVH, danh

lam thắng cảnh; quy định rõ trách nhiệm của UBND cấp xã, phường, thị trấn trong

việc bảo vệ di tích trên địa bàn và cơ chế phối hợp quản lý giữa UBND cấp xã với

tổ chức quản lý di tích hoặc người được giao trông coi di tích. Tăng cường tuần tra,

canh gác, kết hợp lắp đặt thiết bị bảo vệ nhằm phát hiện và ngăn chặn kịp thời các

hành vi xâm phạm di tích. Thường xuyên tổ chức đào tạo, tập huấn nâng cao năng

lực quản lý di tích, quản lý các dự án bảo quản, tu bổ và phục hồi di tích cho cán bộ

cấp huyện, xã và người trực tiếp trông coi di tích ở địa phương, kiên quyết xử lý các

vụ việc vi phạm làm ảnh hưởng tới giá trị di tích. Quản lý nghiêm hoạt động bảo

quản, tu bổ, phục hồi di tích, bảo đảm tuân thủ đúng quy định của pháp luật về di

sản văn hóa và pháp luật có liên quan. Phát huy vai trò giám sát của cộng đồng đối

với các dự án tu bổ di tích, tránh để xảy ra sai phạm, bảo vệ tối đa các yếu tố gốc

cấu thành di tích, kể cả đối với những di tích chưa được xếp hạng.

Trong quản lý về chuyên môn, UBND Thành phố, Sở VH&TT thành phố Hà

Nội thường xuyên ban hành các văn bản chỉ đạo, hướng dẫn, qua đó tăng cường

quản lý nhà nước, quản lý hoạt động chuyên môn, từ khâu lập hồ sơ, thiết kế, tổ

chức thi công các dự án tu bổ, tôn tạo DTLSVH trên địa bàn. Nhờ được quan tâm

chỉ đạo sát sao, hoạt động tu bổ di tích thuộc địa bàn Thành phố được thực hiện

đúng quy định về tu bổ di tích, hạn chế đến mức thấp nhất tình trạng sai phạm trong

hoạt động tu bổ di tích, tu bổ sai phép.

3.1.3. Phương hướng của huyện Đan Phượng

Những định hướng của thành phố Hà Nội về quản lý DTLSVH là tiền đề

quan trọng giúp huyện Đan Phượng cụ thể hóa mục tiêu quản lý DTLSVH trên địa

bàn huyện, phù hợp với thực tiễn, đặc thù riêng của huyện Đan Phượng và của xã

Đan Phượng, nơi có di tích đình Đại Phùng. Để thực hiện tốt công tác quản lý nhà

89

nước về di tích lịch sử văn hóa trên địa bàn huyện Đan Phượng nói chung, trong đó

có di tích đình Đại Phùng, huyện Đan Phượng đã đề ra các mục tiêu, định hướng

sau: Tăng cường sự quan tâm lãnh đạo của các cấp ủy, chính quyền trong việc bảo

tồn, tôn tạo và phát huy giá trị các di tích. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền và thực

hiện tốt các chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước trong lĩnh

vực văn hóa tới các tầng lớp nhân dân, qua đó nâng cao nhận thức về vị trí, vai trò

của di sản văn hóa trong đời sống văn hóa tinh thần và sự phát triển kinh tế xã hội.

Tăng cường các nguồn lực và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ làm công tác văn

hóa, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước trong việc bảo tồn các di sản văn

hóa trên địa bàn. Tiếp tục đầu tư kinh phí để thực hiện việc nâng cấp, bảo tồn di sản

văn hóa. Gắn việc bảo tồn tôn tạo các di sản văn hóa với phát triển du lịch và giáo

dục truyền thống. Tiếp tục đẩy nhanh tiến độ thực hiện tu bổ một số di tích bị xuống

cấp nghiêm trọng, công tác di dời các hộ dân trong khu vực bảo vệ di tích. Huy

động các nguồn lực tập trung tu bổ, tôn tạo, chống xuống cấp các di tích; thực hiện

di chuyển các hộ dân trong khu vực bảo vệ gắn với công tác xã hội hóa di tích.

Củng cố, kiện toàn, phát huy vai trò, trách nhiệm của các ban quản lý đối với công

tác bảo vệ, giữ gìn di tích. Thực hiện tốt xã hội hóa công tác tu bổ, chống xuống cấp

di tích. Tăng cường bồi dưỡng, tập huấn về chuyên môn nghiệp vụ cho lãnh đạo,

cán bộ VHTT cơ sở, các trưởng ban quản lý, nhằm quản lý hiệu quả việc bảo tồn

phát huy giá trị tại di tích.

Mục tiêu của huyện Đan Phượng đặt ra đến năm 2030 đặt ra là: Tăng cường

công tác quản lý nhà nước về di tích lịch sử văn hóa. Thực hiện tốt Quyết định số

14/2021/QĐ-UBND UBND Thành phố về phân cấp quản lý một số lĩnh vực kinh tế

- xã hội; Quyết định số 48/2016/QĐ-UBND của UBND thành phố Hà Nội về thực

hiện quản lý, bảo vệ và phát huy giá trị di tích lịch sử - văn hóa và danh lam thắng

cảnh trên địa bàn thành phố Hà Nội. Đảm bảo 100% các di tích được thành lập và

kiện toàn Ban quản lý, Tiểu ban quản lý; xây dựng và tổ chức triển khai thực hiện

quản lý hoạt động tại các di tích đảm bảo đúng quy định. Tiếp tục thực hiện Đề án

Bảo tồn, tôn tạo và phát huy giá trị di tích lịch sử - văn hóa xếp hạng cấp quốc gia

thuộc huyện Đan Phượng giai đoạn 2018-2025; Kế hoạch số 139/KH-UBND ngày

6/5/2022 của UBND Thành phố về đầu tư xây dựng, cải tạo trường học công lập để

90

đủ điều kiện đạt chuẩn quốc gia, nâng cấp hệ thống y tế và tu bổ, tôn tạo di tích

trong giai đoạn 2022-2025 và các năm tiếp theo.

Huyện Đan Phượng chủ trương tập trung hoàn thành tu bổ, tôn tạo di tích các

di tích đã được bố trí nguồn vốn theo kế hoạch đến năm 2024. Tiếp tục rà soát, đánh

giá những di tích xuống cấp đã được phê duyệt chủ trương đầu tư và đưa vào danh

mục đầu tư công giai đoạn 2022-2025, sắp xếp hợp lý để bố trí nguồn vốn ngân

sách kết hợp với nguồn xã hội hóa thực hiện tu bổ tôn tạo, chống xuống cấp.

Thường xuyên kiểm tra, đánh giá những di tích (cả trong Đề án và ngoài Đề án)

xuống cấp, có dấu hiệu xuống cấp để bổ sung vào danh mục đầu tư công, sắp xếp

hợp lý để thực hiện tu bổ tôn tạo. Thực hiện rà soát, xây dựng quy hoạch mở rộng

khoanh vùng bảo vệ Di tích quốc gia đặc biệt đình Đại Phùng nhằm phục vụ công

tác bảo tồn di sản, phát triển du lịch và phát huy hiệu quả giá trị của di tích. Tập

trung hoàn thành, nghiệm thu Đề án lập hồ sơ khoa học hệ thống di vật, cổ vật và

biên dịch tư liệu Hán Nôm tại các di tích đã được xếp hạng trên địa bàn huyện. Xây

dựng Đề án số hóa hệ thống di tích phát huy giá trị và phục vụ phát triển du lịch và

nghiên cứu khoa học, giáo dục truyền thống. Hoàn thiện hồ sơ đề nghị công nhận di

sản văn hoá phi vật thể quốc gia Lễ hội Chèo Tàu, xã Tân Hội...

3.1.4. Kinh nghiệm bảo vệ và phát huy giá trị các di tích quốc gia đặc biệt

trên địa bàn thành phố Hà Nội

Hà Nội là trung tâm chính trị, ngoại giao, hành chính, kinh tế, có bề dày văn

hóa phong phú và đa dạng. Văn hóa Hà Nội là một dòng chảy bền bỉ và mạnh mẽ.

Dòng chảy ấy đã vượt qua bao thăng trầm, bao quanh co, biến động của lịch sử

thành phố nghìn năm. Vì vậy, văn hóa Hà Nội mang đậm nét tinh tế, thanh lịch do

kết tụ tinh hoa truyền thống. Hà Nội ngày nay (bao gồm tỉnh Hà Tây, xứ Đoài xưa)

có 5.922 di tích, trong đó có 21 di tích và cụm di tích được xếp hạng quốc gia đặc

biệt, 1.160 di tích cấp quốc gia, 1.452 di tích cấp thành phố và 3.221 di tích chưa

được xếp hạng, 1.793 di sản văn hóa phi vật thể. Hà Nội có các khu vực, di tích, di

sản, có ý nghĩa hết sức đặc biệt, tiêu biểu: Khu vực Ba Đình; Di tích lịch sử Khu lưu

niệm Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Phủ Chủ tịch; Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh, Bảo

tàng Hồ Chí Minh; Di tích Trung tâm Hoàng Thành Thăng Long, Văn Miếu - Quốc

Tử Giám và các di sản văn hóa khác được UNESCO ghi danh là di sản văn hóa phi

vật thể đại diện của nhân loại, di sản văn hóa phi vật thể cần được bảo vệ khẩn cấp,

91

di sản tư liệu thuộc Chương trình Ký ức thế giới; Khu di tích Cổ Loa và các di tích

quốc gia đặc biệt khác... Với hệ thống di tích đa dạng đó, Hà Nội đã phát huy tốt giá

trị góp phần làm cho Hà Nội trở thành một trung tâm chính trị, văn hóa, du lịch của

cả nước.

Từ thực tiễn công tác quản lý DTLSVH, đặc biệt là hệ thống các di tích quốc

gia đặc biệt trên địa bàn thành phố Hà Nội, có thể khái quát, đúc kết một số bài học

kinh nghiệm như sau:

Chú trọng việc triển khai công tác lập hồ sơ, khảo sát, nghiên cứu và hoàn

thiện quy trình, đưa ra những quy định cụ thể để lập hồ sơ xếp hạng DTLSVH, có

kế hoạch và biện pháp bảo vệ DTLSVH trong từng thời điểm thích hợp như bảo vệ

di tích trong mùa mưa bão, phát huy giá trị di tích trong mùa lễ hội và các ngày kỷ

niệm. Bên cạnh đó, Hà Nội rất chú trọng đến công tác phối hợp tổ chức các hội thảo

khoa học phục vụ công tác quản lý, tu bổ và tôn tạo DTLSVH. Vì thế, hệ thống giá

trị DTLSVH đã phát huy tốt giá trị trong các hoạt động văn hóa, xã hội và phát triển

du lịch. UBND thành phố Hà Nội đã chủ động thực hiện tốt việc phân cấp quản lý

đối với di tích. Theo đó, Thành phố quản lý 10 di tích, trong đó Trung tâm bảo tồn

di sản Thăng Long - Hà Nội chịu trách nhiệm quản lý đối với: Di sản thế giới

Hoàng thành Thăng Long, Khu di tích Cổ Loa; Sở Văn hóa và Thể thao chịu trách

nhiệm quản lý đối với: Khu di tích Văn Miếu - Quốc Tử Giám, Di tích Nhà lưu

niệm Bác Hồ ở Vạn Phúc - Hà Đông, Di tích Nhà tù Hỏa Lò, Di tích 48 Hàng

Ngang, Di tích 5D Hàm Long, Di tích 90 Thợ Nhuộm, Cụm di tích danh thắng Hồ

Hoàn Kiếm - Đền Ngọc Sơn, Cụm di tích Đền Bà Kiệu - Tượng đài Vua Lê. Số di

tích còn lại do các quận, huyện, thị xã quản lý.

Công tác giám sát, kiểm tra đối với di tích do quận, huyện làm chủ đầu tư,

đặc biệt là nguồn vốn xã hội hóa được quan tâm thường xuyên. Nguồn nhân lực làm

công tác bảo tồn, tu bổ DTLSVH đã được thành phố Hà Nội tạo điều kiện tham gia

vào các lớp tập huấn, học tập, tham quan giao lưu thực tế các địa phương khác về

chuyên môn, nghiệp vụ nhằm đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của thực tế hiện nay.

Bên cạnh đó, Hà Nội ngày càng hoàn thiện quy định cụ thể về trách nhiệm, quyền

hạn trong công tác QLNN và công tác chuyên môn giữa các cấp, các đơn vị.

Chủ động phối hợp với các địa phương trên địa bàn tăng cường công tác

kiểm tra, kiểm kê DTLSVH để kịp thời phát hiện các di tích đang xuống cấp để có

92

chính sách trùng tu, tôn tạo kịp thời, hiệu quả. Đồng thời tham mưu cho chính

quyền sử dụng hiệu quả nguồn vốn của Thành phố để đầu tư cho các DTLSVH

trọng điểm. Tập trung xây dựng kế hoạch, phân chia theo giai đoạn cho công tác

bảo tồn, tu bổ các DTLSVH để giải quyết hợp lý, hài hòa, bền vững giữa tôn tạo và

phát huy các DTLSVH. Triển khai quy hoạch chi tiết đối với bảo tồn, phát huy các

giá trị DTLSVH với yêu cầu phát triển kinh tế xã hội của Hà Nội. Ngăn chặn tình

trạng lấn chiếm, làm biến dạng môi trường cảnh quan của di tích, tình trạng mất cắp

cổ vật của di tích.

Đầu tư đồng bộ cho quá trình bảo tồn, tôn tạo DTLSVH tiêu biểu để trở thành

những di sản có chất lượng cao về khoa học bảo tồn và môi trường văn hóa, phục

vụ giáo dục truyền thống và phát triển du lịch. Đẩy mạnh hoạt động xã hội hóa, tạo

cơ chế thuận lợi cho việc huy động các nguồn lực trong việc bảo tồn, tu bổ, tôn tạo

và phát huy giá trị DTLSVH cũng như tạo môi trường văn hóa lành mạnh tại các di

tích.

Việc bảo vệ và phát huy giá trị của di tích quốc gia đặc biệt đình Đại Phùng

cần được đặt trong tổng thể các nhiệm vụ, giải pháp mà thành phố Hà Nội đã và

đang áp dụng có hiệu quả trong bảo vệ, phát huy giá trị các di tích quốc gia đặc biệt

trên địa bàn, với những bài học kinh nghiệm rút ra từ thực tiễn sau đây:

Thứ nhất, cần sớm hoàn thành quy hoạch tổng thể về bảo tồn, tôn tạo và phát

huy giá trị di tích. Phân định rõ các vùng bảo vệ nghiêm ngặt và những vùng điều

chỉnh quy hoạch xây dựng phục vụ phát triển kinh tế địa phương. Quy hoạch chi tiết

xây dựng các khu vực quan trọng, các dự án thành phần về công trình hạ tầng, công

trình di tích, công trình quản lý, các chương trình bảo tồn, tôn tạo và phát huy giá trị

di tích hợp lý và hiệu quả. Công khai quy hoạch, cắm mốc giới khu vực di tích.

Thứ hai, trên cơ sở quy hoạch tổng thể bảo tồn và phát huy giá trị đã được

Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, việc thực hiện các dự án hạ tầng kỹ thuật phải tuân

thủ định hướng phát triển bền vững như bảo vệ môi trường sinh thái, cảnh quan

thiên nhiên kết hợp tạo việc làm cho nhân dân địa phương bằng các nghề truyền

thống nhằm bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa dân tộc và nâng cao đời sống của

người dân trong vùng di tích. Thực hiện nghiêm túc việc thẩm tra, thẩm định các dự

án cải tạo, xây dựng công trình nằm ngoài các khu vực bảo vệ của di tích mà có

nguy cơ và khả năng ảnh hưởng xấu đến di tích.

93

Thứ ba, là chủ thể được phân cấp quản lý di tích quốc gia đặc biệt đình Đại

Phùng, UBND huyện Đan Phượng cần sớm hoàn thiện chính sách, nhất là chính

sách về xã hội hóa hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị di tích. Khuyến khích

người dân tham gia vào các hoạt động bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa làng

xã cộng đồng, giữ gìn các nét đẹp văn hóa truyền thống của địa phương. Tạo lập cơ

chế hợp tác thuận lợi giữa cơ quan quản lý nhà nước, các doanh nghiệp, cộng đồng

dân cư địa phương trong bảo vệ, khai thác, phát huy giá trị di tích, phát triển du lịch

cộng đồng. Quy định cụ thể cơ chế phối hợp liên ngành giữa chính quyền địa

phương, các tổ chức, doanh nghiệp và cộng đồng trong việc bảo vệ, kiểm tra, tuyên

truyền giáo dục pháp luật về di sản văn hóa; quy định trách nhiệm xã hội của công

dân, của tổ chức tham gia bảo tồn và phát huy giá trị di tích.

Thứ tư, kiên trì thực hiện tuyên truyền giáo dục, nâng cao nhận thức pháp

luật về di sản văn hóa, các biện pháp bảo vệ, bảo quản di vật, cổ vật, trước hết là đối

với các thành viên của Tiểu BQL di tích và cộng đồng dân cư sở tại.

Thứ năm, kịp thời kiện toàn, nâng cao hiệu quả hoạt động của các Ban

QLDT, Tiểu BQL di tích, thống nhất mô hình hoạt động của các tổ chức này; cần

tạo sự nhất quán, đồng bộ trong phân cấp quản lý di tích với phân cấp quản lý đầu

tư, theo hướng cấp nào quản lý di tích cấp đó được giao quản lý dự án đầu tư trùng

tu, tôn tạo di tích, tránh phát sinh các thủ tục hành chính; quy định rõ quyền lợi và

trách nhiệm của tổ chức và cá nhân trong việc bảo vệ và phát huy giá trị của di tích.

Thứ sáu, cần có kế hoạch tuyển dụng, đào tạo và bồi dưỡng thường xuyên đội

ngũ cán bộ, viên chức, chuyên môn hóa nghiệp vụ xây dựng và tổ chức thực hiện

các dự án trùng tu, tôn tạo di tích. Thường xuyên kiểm tra, giám sát thực hiện quy

hoạch, kế hoạch, các dự án bảo tồn, trùng tu, tôn tạo và hoạt động khai thác giá trị

di tích ở địa phương. Chú trọng phát huy vai trò của cộng đồng trong thực hiện

nhiệm vụ này.

Thứ bảy, cùng với việc tăng chi ngân sách nhà nước đầu tư cho hoạt động tu

bổ, tôn tạo các di tích quốc gia đặc biệt, cần tuyên truyền, vận động, nâng cao nhận

thức của các tổ chức, doanh nghiệp, cộng đồng về lợi ích của hoạt động này, từ đó

tự giác, tự nguyện chung tay đóng góp sức người, sức của để thực hiện nhiệm vụ

này. Mặt khác, cần sử dụng hiệu quả nguồn vốn đầu tư, tập trung nguồn lực hoàn

thành dứt điểm các dự án được triển khai, tránh dàn trải, thất thoát, lãng phí.

94

3.2. Các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động bảo vệ và phát

huy giá trị di tích đình Đại Phùng

3.2.1. Nâng cao chất lượng hoạt động bảo vệ, bảo quản, tu bổ, tôn tạo di tích

Yêu cầu chung đặt ra đối với việc trùng tu, tôn tạo di tích: Di tích đình Đại

Phùng là di tích cấp quốc gia đặc biệt. Do đó, trong công tác bảo tồn, tôn tạo di tích,

không chỉ tuân thủ các quy định về bảo tồn, tôn tạo của Việt Nam mà còn phải tuân

thủ theo quy định công ước về bảo tồn và tôn tạo quốc tế. Về cơ bản, công tác bảo

tồn, tôn tạo cần được xây dựng đảm bảo với quy định của quốc tế về can thiệp tối

thiểu và có dự đoán các rủi ro có thể đối mặt. Các kế hoạch bảo tồn phải được xây

dựng dựa trên cơ sở nghiên cứu khoa học và cần được định kỳ xem xét và đánh giá

lại để chỉnh sửa, bổ sung. Trước hết cần hoàn thiện hệ thống hồ sơ về di tích làm cơ

sở pháp lý đảm bảo cho công tác quản lý thực hiện đúng theo quy định của pháp

luật và bảo vệ di tích trước những xâm hại nếu có.

Tăng cường công tác nghiên cứu và khảo sát: bảo tồn di tích cần được bắt

đầu từ việc nghiên cứu và khảo sát kỹ lưỡng về tình trạng hiện tại của di tích. Các

chuyên gia về bảo tồn và kiến trúc sư cần tiến hành các cuộc khảo sát chi tiết để

đánh giá mức độ hư hại, từ đó đề xuất các giải pháp bảo tồn phù hợp.

Sử dụng công nghệ trong bảo tồn di tích: Công nghệ hiện đại đóng vai trò

quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả công tác nghiên cứu, khảo sát và thi công.

Các phương pháp khoa học tiên tiến có thể giúp việc thực hiện công tác bảo tồn một

cách chính xác và chi tiết hơn. Bên cạnh đó, công nghệ như quét 3D, ghi nhận số

hóa các hiện vật, các hạng mục của công trình... có thể giúp lưu trữ thông tin về di

tích một cách chi tiết. Mô hình 3D không chỉ giúp các chuyên gia nghiên cứu, mà

còn có thể được sử dụng để truyền tải thông tin về di tích cho cộng đồng và du

khách. Ngoài ra, còn có thể sử dụng các công nghệ bảo quản hiện đại, như sử dụng

các vật liệu bảo vệ chống lại mối mọt, ẩm mốc, hay sự ăn mòn các yếu tố môi

trường, cũng có thể được áp dụng sau khi khảo sát tình trạng di tích. Các công nghệ

này không chỉ giúp bảo vệ các vật liệu xây dựng mà còn giúp duy trì sự nguyên vẹn

của các hiện vật văn hóa.

Trong công tác quản lý di tích đình Đại Phùng cần quan tâm đến việc bổ

sung, hoàn thiện hồ sơ pháp lý của di tích. BQL di tích cần xây dựng kế hoạch mời

các nhà quản lý, các nhà khoa học trong lĩnh vực quản lý di tích cùng nghiên cứu,

95

khảo sát để xây dựng hồ sơ khoa học, đánh giá giá trị của di tích đình Đại Phùng,

trên cơ sở đó xây dựng kế hoạch quản lý, tu bổ, tôn tạo đình một cách phù hợp. Bên

cạnh đó, cần hoàn thiện quy hoạch quản lý, bảo vệ đối với di tích, lập hồ sơ cấp

giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo đúng quy định. Hoàn thiện việc khoanh

vùng cắm mốc khu vực di tích đình Đại Phùng, xây dựng hồ sơ khảo tả về đình

nhằm phục vụ bảo tồn, tôn tạo có hiệu quả.

Trong quá trình trùng tu, tôn tạo cần phải tuân thủ nguyên tắc cơ bản của bảo

tồn các di tích lịch sử văn hóa là: bảo tồn nguyên trạng tại chỗ. Việc trùng tu, tôn

tạo di tích cần phải được nghiên cứu một cách cẩn trọng với những tính toán về điều

kiện tự nhiên, khả năng khoa học kỹ thuật lẫn kinh phí xây dựng và duy trì công tác

bảo tồn. Cơ quan quản lý cần lập kế hoạch ngắn hạn, dài hạn trong việc tu bổ, tôn

tạo DTLSVH và coi đây là nhiệm vụ hàng đầu. Phòng VHTT huyện Đan Phượng

cần chủ động phối hợp với UBND xã Đan Phượng tổ chức khảo sát thực địa để

đánh giá thực trạng, lập kế hoạch tu bổ, tôn tạo nhằm gìn giữ và phát huy giá trị của

di tích đình Đại Phùng trong những năm tiếp theo, đưa ra các bước thực hiện cho cụ

thể và phù hợp với tình hình thực tế của địa phương. Trên cơ sở đó, cần lập các

phương án dài hạn và ngắn hạn cho từng năm, từng thời điểm trong việc xây dựng

và triển khai các dự án trùng tu, tôn tạo, nhằm gìn giữ và phát huy giá trị DSVH của

di tích đình Đại Phùng. Trong kế hoạch ngắn hạn cần xác định mức độ xuống cấp,

hư hỏng; các hạng mục kiến trúc cần tu bổ, tôn tạo với mức kinh phí cụ thể để trình

UBND huyện Đan Phượng, UBND thành phố phê duyệt. Công khai thủ tục, trình tự

lập, thẩm định và phê duyệt các dự án tôn tạo di tích.

Di tích đình Đại Phùng là công trình được xếp hạng DTLSVH cấp quốc gia

đặc biệt, tồn tại với kiến trúc nghệ thuật độc đáo, kỹ thuật tinh xảo. Giống như các

di tích là kiến trúc gỗ khác thuộc khu vực khí hậu Đồng bằng Bắc Bộ, tác động của

thời gian, của điều kiện khí hậu nóng ẩm, mưa nhiều chính là nguyên nhân ảnh

hưởng đến một số hạng mục của di tích. Để di tích có thể tồn tại lâu dài với thời

gian thì chất lượng công tác bảo quản, trùng tu, tôn tạo di tích cần phải được hết sức

chú trọng. Đình Đại Phùng được xây dựng chủ yếu bằng chất liệu gỗ, gạch, các hiện

vật cũng gồm nhiều chất liệu khác nhau. Việc phân chia ra thành từng phần di tích

cũng như từng loại chất liệu hiện vật tại di tích sẽ giúp cho việc quản lý, bảo quản,

trùng tu, tôn tạo được chuyên sâu và có các biện pháp bảo quản tối ưu nhất.

96

Mặt khác, là một di tích đình làng, việc bảo vệ, phát huy giá trị di tích đình

Đại Phùng không chỉ là phải giữ được các yếu tố gốc của di tích đình, mà còn phải

bảo tồn và phát huy giá trị của lễ hội đình Đại Phùng, trên cơ sở phát huy giá trị văn

hóa truyền thống, có chọn lọc của lễ hội này. Loại bỏ các thủ tục lạc hậu, tốn kém

diễn ra trong lễ hội không phù hợp với xu hướng phát triển của xã hội hiện nay. Vì

vậy, công tác bảo tồn, tôn tạo di tích đình Đại Phùng hiện nay rất cần thiết có sự

phối hợp chặt chẽ giữa các ban, ngành chuyên môn, chuyên gia nghiên cứu, cơ quan

tư vấn lập và tổ chức thi công dự án, để việc tu bổ, tôn tạo di tích đình Đại Phùng

được tiến hành bảo đảm tính khoa học chặt chẽ, tuân thủ đầy đủ, nghiêm chỉnh quy

định của pháp luật về di sản, phát huy được giá trị của di tích.

* Bảo quản phần mái, tường, sàn, móng của di tích:

- Phần mái: Phần mái của đình Đại Phùng là mái ngói được xếp lớp lên nhau.

Đây là hạng mục quan trọng của đình, bảo vệ toàn bộ các bộ phận trong đình nhưng

thường xuyên chịu tác động của thời tiết, ngoại cảnh vì vậy cần được làm vệ sinh

mái một cách định kỳ, không để rêu tảo hay các ổ mối, mọt, tổ chuột tồn tại. Định

kỳ cần quét, dọn, gỡ bỏ, cạo bỏ rác, rêu hoặc phun thạch tín để chống mối, chuột và

phải tiến hành việc đảo ngói kịp thời khi ngói bị đọng nước, vỡ, mục... để đảm bảo

không bị hư hại, dột.

- Tường, sàn và móng của di tích: Tường, sàn và móng của di tích đình Đại

Phùng được làm bằng chất liệu gạch, vữa, xi măng. Đây là chất liệu khá bền vững

nhưng để các chất liệu này được tồn tại lâu dài với thời gian thì hệ thống thoát nước

phải luôn luôn đảm bảo khơi thông, không để nước tràn, động, ngấm làm mốc

tường. Việc đề phòng côn trùng, mối, mọt, đục khoét móng, sàn và tường cũng phải

đặc biệt quan tâm.

* Bảo quản bộ khung gỗ:

- Phải tiến hành các biện pháp để ngăn ngừa mối mọt bằng cách phủ sơn ta,

đánh vecni bề ngoài mặt gỗ hoặc phun thuốc, đặt bẫy diệt trừ mối, mọt.

- Tiến hành kiểm tra, phát hiện kịp thời các cột, cửa, kèo bị nứt để tiền hành

đổ keo gắn khắc phục. Với khí hậu nóng ẩm ở nước ta, gỗ thường có tuổi thọ không

cao. Đối với các cột gỗ thường bị rỗng từ trong ra, xử lý bằng cách đổ xi măng pha

lỏng và sau khi khoan một lỗ hổng ở chỗ cao nhất. Trường hợp cột bị mục đầu trên

hay đầu dưới có thể dùng một đoạn gỗ khác thay thế bằng cách cắt khớp ghép vào

97

sau đó bả sơn ta. Riêng các đầu xà gối lên tường cần được phủ kín một lớp sơn dày

để ngăn ẩm và chống mối mọt xâm nhập.

* Bảo quản các di vật có trong di tích: Cùng với việc trùng tu, tôn tạo, bảo vệ

di tích thì việc bảo quản các di vật bên trong di tích cũng cần phải tiến hành song

song. Di tích đình Đại Phùng có nhiều di vật với nhiều chất liệu khác nhau nên cũng

cần phân chia ra các loại khác nhau để có các biện pháp bảo quản các di vật thích

hợp với từng loại chất liệu.

- Bảo quản di vật bằng chất liệu gỗ: Các di vật quý bằng chất liệu gỗ chiếm

số lượng lớn trong tổng số các di vật có tại đình Đại Phùng. Bảo quản di vật có chất

liệu gỗ cần phải tiến hành giữ vệ sinh, lau chùi di vật thường xuyên, không để bụi

bẩn cũng như nước, hơi ẩm ngấm, thấm, dột vào. Ngoài ra còn cần tiến hành các

biện pháp bảo quản dự phòng như: Sơn son thiếp vàng, quét sơn, sử dụng các hóa

chất chuyên dụng để ngâm, tẩm, quét... tránh côn trùng, mối, mọt và rêu mốc. Việc

đặt bẫy mối mọt cũng cần phải làm thường xuyên.

- Bảo quản di vật bằng chất liệu đá: Tại đình Đại Phùng, di vật bằng đá là có

số lượng ít nhất. Di vật bằng chất liệu đá của đình được đánh giá cao là tượng hai

con sấu ở ngay hai bên cửa đình và hệ thống đá bó vỉa xung quanh nền của tòa đại

đình. Đây là di vật được coi là bền vững và ít bị tác động nhất nhưng để tránh tác

động của thời gian và sự xâm hại của con người thì cũng cần tiến hành các công tác

bảo quản như sau: Để tẩy các chất bẩn phải dùng đến dụng cụ phù hợp như bàn

chải, dao mổ nhỏ, bông gòn. Đối với những vết bẩn ăn sâu, khó tẩy rửa thì bắt buộc

phải dùng đến các hóa chất nhưng việc dùng phải được cân nhắc kỹ lưỡng.

3.2.2. Tăng cường nguồn lực trong việc bảo vệ, phát huy giá trị di tích

So với trước đây, Đan Phượng hiện tại có tiềm năng, lợi thế để huy động

nguồn lực trong việc bảo vệ, phát huy giá trị di tích lịch sử văn hóa: Lợi thế về vị trí

địa lý giúp cho Đan Phượng thu hút đầu tư phát triển kinh tế, đẩy mạnh tăng trưởng

và chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Những việc cần phải làm ngay là, cần thay đổi tư

duy, nhận thức từ việc ưu tiên nguồn lực đầu tư cho việc bảo vệ, phát huy giá trị

DTLSVH, coi đây là vấn đề khai thác nguồn lực kinh tế. Cần sớm xây dựng chính

sách ưu đãi, đẩy mạnh tuyên truyền, xúc tiến đầu tư từ nguồn lực DTLSVH; khuyến

khích các doanh nghiệp tăng cường đầu tư vào DTLSVH, đẩy mạnh quảng bá, phát

triển thị trường kinh doanh dịch vụ du lịch tại các di tích, tập hợp nguồn lực đầu tư

98

cho DTLSVH. Huy động nguồn lực cộng đồng để thực hiện quản lý DTLSVH là

điều cần thiết, nhưng cần phải có cơ chế phù hợp, đồng bộ, thống nhất nhằm tập

hợp sự tham gia của toàn dân trong việc bảo tồn và phát huy của DTLSVH. Đan

Phượng cần xây dựng quy chế cụ thể về huy động và sử dụng nguồn xã hội hóa

trong thực hiện quản lý DTLSVH.

Cho đến thời điểm hiện tại, việc bảo vệ và phát huy giá trị của các di tích của

huyện Đan Phượng vẫn đang đối mặt với nhiều khó khăn, trong đó nguồn lực tài

chính là thách thức lớn nhất. Việc huy động và quản lý nguồn lực tài chính một cách

hiệu quả đóng vai trò then chốt trong việc bảo vệ và phát huy giá trị các di tích. Một

số giải pháp tăng cường nguồn lực tài chính cho việc bảo vệ và phát huy giá trị di

tích lịch sử văn hóa đình Đại Phùng có thể nghiên cứu, xem xét như sau:

* Cần huy động tài chính từ ngân sách nhà nước: Ngân sách nhà nước đóng

vai trò là nguồn lực chính để hỗ trợ các hoạt động bảo tồn và phát huy di tích. Việc

tăng cường đầu tư từ ngân sách yêu cầu một kế hoạch chính sách đồng bộ, trong đó

các cơ quan chức năng cần phân bổ nguồn kinh phí đầy đủ cho việc trùng tu, bảo vệ

và quảng bá di tích. Việc đặt bảo tồn di tích lên là một đối tượng ưu tiên trong chi

tiêu ngân sách sẽ giúp đảm bảo tính bền vững trong việc phát triển văn hóa. Theo

Kế hoạch số 139/KH-UBND ngày 6/5/2022 của UBND Thành phố, giai đoạn

2022-2025, thành phố Hà Nội đã và đang tổ chức thực hiện các dự án tu bổ, tôn tạo

di tích đối với 1.284 di tích, với tổng kinh phí là 30.369 tỷ đồng. Trong đó, 55 dự án

do Thành phố trực tiếp quản lý, với kinh phí là 6.280 tỷ đồng; 1.229 dự án do cấp

huyện quản lý, với kinh phí là 24.089 tỷ đồng. Rõ ràng, với mức phân bổ ngân sách

trung bình 19,6 tỷ đồng trên một dự án, so với yêu cầu mà thực tiễn đặt ra là chưa

đủ, song đây vẫn là nguồn lực quan trọng bậc nhất, giữ vai trò dẫn dắt cho công tác

trùng tu, bảo vệ di tích của Hà Nội những năm qua và những năm tiếp theo.

* Cần tăng cường thu hút đầu tư từ khu vực tư nhân và huy động sự đóng góp

từ cộng đồng: Tu bổ, tôn tạo di tích là nhiệm vụ đòi hỏi nguồn kinh phí rất lớn.

Trong khi nguồn kinh phí đầu tư từ ngân sách của Thành phố và của huyện Đan

Phượng còn rất eo hẹp, thì nguồn lực tài chính đầu tư từ khu vực tư nhân và việc

huy động đóng góp từ cộng đồng là một giải pháp quan trọng để giải quyết tình

trạng thiếu hụt tài chính trong bảo vệ, phát huy giá trị của di tích. Đan Phượng là

một huyện ngoại thành đã và đang trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế - xã

99

hội, quá trình đô thị hóa mạnh mẽ và nhanh chóng. Quá trình này không thể thiếu sự

tham gia đông đảo và tích cực từ các doanh nghiệp, cá nhân đầu tư phát triển sản

xuất, kinh doanh, dịch vụ trên địa bàn. Điều quan trọng là phải có cơ chế phù hợp,

đồng bộ, thống nhất nhằm tập hợp sự tham gia của toàn dân trong việc thực hiện

nhiệm vụ bảo tồn và phát huy giá trị của DTLSVH. Cơ quan quản lý nhà nước của

huyện Đan Phượng cần nghiên cứu, đề xuất cơ quan có thẩm quyền ban hành cơ chế

đặc thù nhằm khuyến khích, huy động nguồn tài nguyên tại chỗ từ các doanh

nghiệp, cá nhân, từ các quỹ văn hóa địa phương, để có thể đáp ứng tốt hơn yêu cầu

nhiệm vụ quản lý, bảo vệ và phát huy giá trị của DTLSVH trên địa bàn huyện nói

chung, đối với di tích đình Đại Phùng nói riêng.

Theo đó, trong quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội của huyện cần cụ thể hóa

các lĩnh vực ưu tiên đầu tư trong lĩnh vực văn hóa; có chính sách ưu đãi phù hợp đối

với các doanh nghiệp, cá nhân tham gia đóng góp vào việc trùng tu, tôn tạo di tích

trên địa bàn, như các chính sách về thuế, phí, lệ phí, ưu đãi về sử dụng đất, các

chính sách về khuyến khích đầu tư, giải quyết kịp thời những khó khăn, vướng mắc

về thủ tục hành chính, giải phóng mặt bằng, trật tự xây dựng...

Các cơ quan chức năng và chính quyền huyện, xã cần đẩy mạnh tuyên truyền,

nâng cao nhận thức, ý thức trách nhiệm của doanh nghiệp đối với nhiệm vụ bảo tồn,

phát huy giá trị DTLSVH. Quan trọng hơn là tuyên truyền để các doanh nghiệp

nhận thức được tiềm năng, lợi ích kinh tế trong khai thác, phát huy giá trị di tích và

chính các doanh nghiệp cũng được hưởng lợi ích từ việc phát huy giá trị của di tích.

Qua đó, giúp cho các doanh nghiệp xác định ý thức trách nhiệm và tự giác tham gia

vào hoạt động bảo vệ, khai thác, phát huy giá trị DTLSVH. Bên cạnh đó, đẩy mạnh

khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư cho trùng tu, tôn tạo di tích thông qua hình

thức đối tác công tư (PPP) là một trong những cách tiếp cận hiệu quả. Các doanh

nghiệp đôi khi không chỉ đóng góp tài chính mà còn cung cấp những kinh nghiệm

và kỹ thuật trong quảng bá, vận hành du lịch, giúp gia tăng hiệu quả khai thác giá trị

di tích. Việc ban hành các chính sách khuyến khích như giảm thuế, hỗ trợ vay vốn

để đầu tư và ghi nhận đóng góp của doanh nghiệp trong hoạt động trùng tu tôn tạo

di tích trong trường hợp này là hết sức cần thiết và hiệu quả. Ngoài ra, các doanh

nghiệp có thể được khuyến khích trực tiếp tham gia các hoạt động quảng bá xúc tiến

100

thương mại của doanh nghiệp thông qua các hình thức như tài trợ cho các lễ hội, sự

kiện gắn liền với di tích...

Mặt khác, để việc huy động, khuyến khích sự tham gia của doanh nghiệp vào

việc thực hiện nhiệm vụ bảo tồn, phát huy giá trị DTLSVH được thường xuyên, bền

vững, phát huy hiệu quả tốt, cần xây dựng quy chế cụ thể về huy động và sử dụng

nguồn lực được huy động phục vụ cho việc thực hiện quản lý DTLSVH. Quy chế

phải thể hiện rõ cơ chế phối hợp giữa doanh nghiệp, cộng đồng và cơ quan quản lý

nhà nước, cộng đồng, doanh nghiệp đóng góp nguồn lực để thực hiện bảo vệ, phát

huy giá trị DTLSVH, làm chủ toàn bộ quá trình thực hiện bảo vệ, phát huy giá trị

DTLSVH nhưng phải đặt dưới sự giám sát, định hướng về chuyên môn, nghiệp vụ

của cơ quan quản lý nhà nước. Quy định rõ nội dung, nhiệm vụ, giao trách nhiệm

cho cộng đồng trong bảo vệ, phát huy giá trị DTLSVH. Bên cạnh việc phát huy tinh

thần tự giác, tự nguyện tham gia vào việc bảo vệ, phát huy giá trị di tích, cần có quy

định cụ thể giao trách nhiệm cho cộng đồng, để cộng đồng thấy được vai trò, vị trí

cũng như trách nhiệm của mình trong việc bảo vệ và phát huy giá trị di tích.

Các hoạt động khác như quyên góp công khai, bán đồ lưu niệm, các sản

phẩm OCOP hoặc tổ chức các sự kiện gây quỹ không chỉ tăng nguồn thu mà còn

nâng cao nhận thức của cộng đồng về giá trị di tích. Hình thức huy động cộng đồng

qua các nền tảng số như các trang web gây quỹ có thể thu hút nguồn tài chính từ các

đối tượng khán giả rộng lớn hơn, bao gồm người Việt Nam đang sinh sống ở nước

ngoài hoặc bạn bè quốc tế quan tâm đến văn hóa Việt Nam, cũng cần được mạnh

dạn nghiên cứu, ứng dụng.

* Bảo đảm nguồn nhân lực phục vụ công tác bảo vệ và phát huy giá trị di

tích: Nguồn nhân lực là yếu tố quyết định trong công tác bảo vệ và phát huy giá trị

di tích. Các chuyên gia, các cán bộ quản lý, và cộng đồng đều có vai trò quan trọng

trong việc bảo vệ, nghiên cứu và quảng bá giá trị của di tích nói chung, đối với di

tích đình Đại Phùng nói riêng. Tuy nhiên, hiện nay số lượng, chất lượng nguồn nhân

lực có chuyên môn về di tích lịch sử, bảo tồn văn hóa nói chung, trong đó có khu

vực nông thôn ngoại thành còn nhiều hạn chế. Đây chính là yếu tố cản trở trong

việc duy trì và phát huy giá trị di tích.

Bảo tồn, phát huy giá trị di tích lịch sử văn hóa là một hoạt động mang tính

chuyên môn cao, cần đảm bảo tính khoa học, đòi hỏi cần có một đội ngũ cán bộ làm

101

công tác này từ cấp cơ sở là Tiểu BQL đình Đại Phùng đến cấp cao hơn như cấp xã,

huyện, thành phố phải có trình độ, năng lực, thực sự tâm huyết mới đủ khả năng để

nghiên cứu, bảo vệ, tôn tạo và phát huy giá trị của di tích theo đúng khoa học

chuyên ngành. Trong thời gian tới đây, nhiệm vụ quan trọng hàng đầu đối với Tiểu

BQL di tích đình Đại Phùng nói riêng và của huyện Đan Phượng nói chung là cần

xây dựng đội ngũ cán bộ đủ về số lượng, đảm bảo chất lượng về chuyên môn

nghiệp vụ. Những người làm công tác quản lý di tích xã Đan Phượng, Tiểu BQL di

tích đình Đại Phùng hoặc những người trực tiếp chủ trì, trông coi di tích cần được

thường xuyên tập huấn, bồi dưỡng, trang bị những kiến thức cơ bản về bảo tồn, bảo

quản, kiến thức pháp luật về di sản văn hóa và các hình thức bảo vệ, chống vi phạm

di tích, kiến thức về các nguyên tắc trong việc tu bổ, tôn tạo di tích, làm căn cứ để

thực thi quyền giám sát và phát hiện kịp thời khi thấy tình trạng tu bổ, tôn tạo bị sai

lệch với kết cấu kiến trúc cổ truyền của di tích... Hiện nay, tại di tích đình Đại

Phùng, các thành viên trong Tiểu BQL di tích đều kiêm nhiệm, không có chuyên

môn, nên việc xử lý một số tình huống đơn giản vẫn chưa thể tự thực hiện, cần tư

vấn của chuyên gia.

Để có nguồn nhân lực tốt phục vụ cho công tác bảo tồn, phát huy giá trị di

tích lịch sử văn hóa, thành phố Hà Nội và huyện Đan Phượng có thể nghiên cứu, áp

dụng thực hiện một số giải pháp sau:

- Thường xuyên tổ chức các lớp bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ cho các

cán bộ làm công tác quản lý di tích lịch sử văn hóa nhất là ở cấp cơ sở. Mở rộng

quy mô đào tạo cho cán bộ chuyên môn, cử cán bộ theo học các khóa học quản lý di

tích dài hạn cũng như ngắn hạn do các cơ quan chuyên ngành và các trường đại học

tổ chức. Các cán bộ quản lý di tích cần được trang bị kiến thức căn bản về lịch sử,

văn hóa, và các kỹ thuật trùng tu, tôn tạo di tích. Các khóa học, hội thảo và chương

trình đào tạo về bảo tồn di tích, nghiên cứu lịch sử văn hóa cần được tổ chức sát hợp

với thực tế hơn, theo hướng “cầm tay chỉ việc”, để nâng cao trình độ cho đội ngũ

này.

- Đối với đối tượng cán bộ làm việc trong các cơ quan quản lý nhà nước, cơ

quan tham mưu của UBND cấp huyện, xã mà chưa được đào tạo chính quy về

nghiệp vụ bảo tồn, phát huy giá trị di tích lịch sử văn hóa, cần xây dựng kế hoạch

dài hạn để đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ cho đội ngũ cán bộ này. Về ngắn

102

hạn, trong quá trình thực hiện trình tự, thủ tục lập, trình, phê duyệt và tổ chức thi

công dự án trùng tu, tôn tạo di tích cần phải tổ chức tốt công tác tư vấn, phổ biến,

giới thiệu những sách báo, tài liệu nghiên cứu liên quan đến di tích lịch sử văn hóa

để họ tự nghiên cứu, tiếp cận với di tích, tạo điều kiện cho cán bộ tự chủ động và

định hướng được vấn đề cần xem xét, tham mưu, quyết định.

- Đồng thời, việc hợp tác với các tổ chức trong và ngoài nước trong quá trình

lập dự án, xây dựng báo cáo kinh tế - kỹ thuật trùng tu, tôn tạo di tích và tổ chức thi

công... sẽ giúp cán bộ làm công tác quản lý di tích tiếp cận với các phương pháp bảo

tồn tiên tiến, học hỏi kinh nghiệm từ các mô hình bảo tồn di sản nổi bật trên thế

giới. Việc mở rộng cơ hội cho các chuyên gia và cán bộ ngành di sản tham gia các

khóa học, nghiên cứu và trao đổi kinh nghiệm với các tổ chức bảo tồn quốc tế để

học hỏi các phương pháp tiên tiến trong công tác bảo vệ di tích đòi hỏi phải có lộ

trình và nguồn kinh phí nhưng là xu thế tất yếu, đặc biệt là đối với hệ thống di tích

đa dạng, phong phú và có giá trị lịch sử - văn hóa đậm đặc của Hà Nội, cũng như

đối với trường hợp cụ thể là di tích đình Đại Phùng.

- Đối với những người trực tiếp tham gia bảo tồn, phát huy di tích đình Đại

Phùng nói riêng và các di tích lịch sử văn hóa nói chung, cần có chế độ đãi ngộ về

mặt vật chất và tinh thần để khuyến khích, động viên họ tham gia tích cực, tự giác

và có trách nhiệm cao trong công tác bảo vệ, gìn giữ và phát huy giá trị di tích. Hiện

nay, tại di tích đình Đại Phùng ngoài số tiền rất khiêm tốn do dân làng và khách

thập phương công đức thì không có nguồn thu ổn định để trang trải cho các hoạt

động thường ngày của Tiểu BQL di tích, càng không có nguồn kinh phí bồi dưỡng

cho người trực tiếp trông coi di tích. Các thành viên Tiểu BQL di tích cũng như cụ

từ thực hiện nhiệm vụ trên tinh thần tự nguyện làm việc công đức. Để kịp thời động

viên, khuyến khích trước hết là đối với những người đang trực tiếp trông coi di tích

như các thành viên Tiểu BQL di tích, cụ từ, UBND thành phố, UBND huyện Đan

Phượng cần có cơ chế chính sách hỗ trợ kinh phí từ ngân sách của địa phương để

trích một khoản khen thưởng, bồi dưỡng cho những người trông coi di tích định kỳ

hoặc vào các dịp cuối năm, lễ hội... để họ được ghi nhận, động viên, có thêm nhiệt

tình tham gia công tác bảo tồn, phát huy giá trị di tích. Di tích có được bảo vệ, phát

huy tốt hay không phụ thuộc một phần rất lớn vào đội ngũ này. Do đó, đây là một

103

biện pháp khá hữu hiệu trong việc bảo tồn, phát huy giá trị di tích, tránh khỏi những

tác động hay những vi phạm do vô tình hay cố ý của con người.

3.2.3. Nâng cao vai trò của cộng đồng trong việc bảo vệ, phát huy giá trị di tích

Di tích lịch sử văn hóa là nguồn “tài sản văn hóa” vô giá của mỗi dân tộc. Bởi

vậy, song song với công tác bảo tồn là việc khai thác, phát huy những giá trị văn

hóa của di tích ấy. Đề cao vai trò của cộng đồng dân cư trong việc bảo tồn, phát huy

giá trị di tích là công việc cần thiết và hữu ích, cần được thực hiện một cách bài bản,

khoa học, với sự kết hợp chặt chẽ giữa ban quản lý di tích với đại diện các ban,

ngành, đoàn thể và cộng đồng cư dân nơi có di tích.

Di tích đình Đại Phùng là một trong những di tích điển hình của xã Đan

Phượng, huyện Đan Phượng nói riêng, của xứ Đoài xưa và Hà Nội ngày nay. Đặc

điểm quan trọng của các di tích là đình làng thường gắn bó chặt chẽ với một cộng

đồng cư dân cụ thể. Cũng như các ngôi đình làng khác, đình Đại Phùng có vai trò

quan trọng trong đời sống văn hóa, tinh thần và sinh hoạt tín ngưỡng của cộng đồng

làng xã nơi đây. Việc mở rộng và nâng cao vai trò của cộng đồng trong việc bảo vệ

và phát huy giá trị di tích lịch sử văn hóa đình làng nói chung, di tích đình Đại

Phùng nói riêng có ý nghĩa hết sức quan trọng, thể hiện ở các khía cạnh và giải pháp

có tính chất đề xuất sau đây:

- Cần tạo điều kiện tốt nhất để người dân tham gia bảo vệ, sử dụng và khai

thác giá trị của di tích. Việc trao cho cộng đồng quyền chủ động quản lý các di tích,

thành lập các ban quản lý di tích do chính người dân địa phương bầu chọn cũng làm

cho người dân cảm thấy được quyền làm chủ của mình, từ đó tạo niềm tự hào, có ý

thức trách nhiệm đối với các di tích. Ban quản lý di tích Đình - Chùa Đại Phùng là

mô hình quản lý hoạt động có hiệu quả trong nhiều năm qua. Do vậy cần phổ biến,

nhân rộng mô hình quản lý này đến nhiều di tích khác.

Nhằm giúp cho hoạt động của mô hình quản lý di tích này phát huy hiệu quả

hơn nữa, các cơ quan quản lý nhà nước cần đóng vai trò định hướng, giám sát hoạt

động của các ban quản lý tại các di tích này, đồng thời thường xuyên tổ chức các

lớp tập huấn, phổ biến kiến thức về di tích, về di sản văn hóa cũng như nghiệp vụ

quản lý cho các thành viên của ban quản lý này để này để họ nâng cao được nhận

thức về quản lý và bảo vệ di tích. Tăng cường các hoạt động tuyên truyền pháp luật

về di sản văn hóa, các văn bản chỉ đạo về bảo vệ, phát huy giá trị di tích lịch sử văn

104

hóa dưới nhiều hình thức khác nhau, nhằm đưa các quy định của pháp luật và các

biện pháp quản lý nhà nước phát huy hiệu lực trong thực tế, đồng thời nâng cao

nhận thức của người dân, hình thành ý thức, thái độ trân trọng đối với các loại hình

di sản văn hóa truyền thống trên quê hương.

Mặt khác, sự phối hợp, liên hệ trực tiếp giữa các cơ quan quản lý nhà nước

với cộng đồng, nơi có di tích là điều hết sức cần thiết và hữu hiệu. Cộng đồng là sợi

dây liên hệ giữa di tích với cơ quan quản lý. Tình hình an ninh, trật tự, an toàn của

di tích, sự biến động, xuống cấp của di tích hay những hiện tượng xâm phạm di tích

sẽ kịp thời được cộng đồng phát hiện, báo cáo cơ quan có thẩm quyền xử lý.

- Cũng như các ngôi đình làng khác, di tích lịch sử văn hóa quốc gia đặc biệt

đình Đại Phùng trước hết là một ngôi đình làng, vốn là công trình văn hóa, tín

ngưỡng của làng xã, do nhân dân nơi đây xây dựng, giữ gìn để phục vụ nhu cầu

thực hành tín ngưỡng Thành Hoàng làng của cộng đồng cư dân nơi đây. Là một

làng quê Bắc Bộ, người dân thôn Đại Phùng nói riêng, xã Đan Phượng nói chung,

rất có niềm tin tín ngưỡng về thần Thành Hoàng làng được thờ tại đình. Hơn ai hết,

họ luôn ngưỡng vọng và sẵn sàng, nhiệt tình ủng hộ, tham gia, góp sức người, sức

của để bảo tồn, phát huy giá trị di tích của đình - ngôi nhà chung của làng. Tuy

nhiên, để bảo vệ và phát huy được giá trị của di tích, dân làng không hẳn đã biết

phải làm những công việc gì và làm sao cho hiệu quả, cho đúng pháp luật. Vì vậy,

cần phải tuyên truyền, hướng dẫn để người dân hiểu và nắm được các văn bản pháp

luật của nhà nước, các giá trị của di tích và vai trò, trách nhiệm của họ. Khi đã hiểu

được giá trị của di tích, nắm được quy định của pháp luật, người dân sẽ tự quyết

định cách ứng xử, cư xử phù hợp nhất với di tích, tránh được tình trạng không hiểu

biết pháp luật mà vô tình vi phạm luật, qua đó cũng ngăn chặn được các hành vi

xâm hại tới di tích. Sự ủng hộ, tham gia của cộng đồng, vai trò của quần chúng nhân

dân là một trong những yếu tố quan trọng trong việc bảo vệ, phát huy giá trị của di

tích. Không ở đâu thấy rõ hơn nguyên lý cộng đồng sáng tạo ra di tích, cộng đồng là

người sử dụng di tích, cũng chính cộng đồng là người quản lý, bảo vệ di tích tốt

nhất.

- Điều gì đã thu hút sự quan tâm của cộng đồng với di tích đình làng nói

chung, di tích đình Đại Phùng nói riêng? Đó chính là tín ngưỡng Thành Hoàng làng.

Tín ngưỡng thờ Thành Hoàng làng với việc thờ cúng các vị thần hàng năm đồng

105

thời là dịp mở hội làng. Hội làng là dịp dân làng vui chơi, giải trí, giao tiếp và tham

gia các sinh hoạt văn hoá nghệ thuật được tổ chức trong không gian văn hóa đình

làng (các trò diễn dân gian, múa hát, các trò đua tài, các món ăn đặc sản...). Các sinh

hoạt văn hoá nghệ thuật này trong lễ hội không còn là sinh hoạt thông thường mà

mang tính phong tục, nghi lễ. Đây là quá trình “linh thiêng” hoá các sinh hoạt vốn

mang tính đời thường, tạo ra môi trường tốt để mỗi thành viên của cộng đồng được

chan hòa, gắn kết, với chung một niềm cộng cảm an lành, hạnh phúc đón nhận từ vị

thần Thành Hoàng làng, vị thần linh thiêng chung của cả cộng đồng. Có thể nhận

thấy, tín ngưỡng Thành Hoàng làng, với những nghi thức thờ phụng thần Thành

Hoàng, với những sinh hoạt văn hoá hồn hậu, tự nhiên mà thấm đậm triết lý nhân

sinh nơi thôn dã, không chỉ đáp ứng nhu cầu đời sống tâm linh mà còn là không

gian sáng tạo, hưởng thụ văn hoá, nghệ thuật của người Việt, nơi thể hiện tâm hồn,

đạo lý, bản sắc văn hoá Việt, nơi mà tình người, tình quê được vun đắp qua bao đời

mà nên tình nước non. Đình Đại Phùng và tín ngưỡng Thành Hoàng làng tại di tích

đình Đại Phùng thực sự là một trường hợp tiêu biểu cho ý nghĩa đó.

Có thể nhận thấy, kiến trúc đình làng và tín ngưỡng Thành Hoàng làng là một

cặp phạm trù thống nhất trong một thực thể văn hoá quan trọng bậc nhất của nông

thôn Việt Nam. Chưa thấy ở nơi đâu mà mối quan hệ giữa di sản vật thể và di sản

phi vật thể lại thấm nhuần, tương hỗ, cùng nương tựa và cùng làm nổi bật lẫn nhau

như ở di tích đình làng. Đình làng và tín ngưỡng Thành Hoàng làng mang đậm bản

sắc văn hoá Việt Nam, nơi dung chứa và gìn giữ huyết mạch văn hoá, sự cố kết

cộng đồng và đoàn kết dân tộc. Bảo vệ di tích đình làng không thể tách rời với việc

bảo tồn, phát huy giá trị nghi thức thực hành tín ngưỡng Thành Hoàng làng, với lễ

hội truyền thống, các sinh hoạt văn hoá, nghệ thuật trong không gian văn hoá đình

làng. Vượt lên trên ý thức pháp luật và những yêu cầu chính đáng về lợi ích kinh tế,

tình cảm và sự cố kết của cộng đồng chung một niềm tin tín ngưỡng Thành Hoàng

làng không chỉ tạo nên nguồn lực và ý thức trách nhiệm bảo vệ di tích, mà còn thực

sự trở thành mạch nguồn hồi sinh cho các ngôi đình, hội tụ và lan tỏa niềm tin, ước

vọng về một cuộc sống an lành, hạnh phúc mà mỗi thành viên trong cộng đồng đều

có thể cảm nhận được.

106

3.2.4. Bảo vệ, phát huy giá trị của di tích gắn với phát triển du lịch bền

vững

Du lịch được Đảng và Nhà nước xác định tập trung phát triển để trở thành

ngành kinh tế mũi nhọn. Luật Du lịch, Luật Di sản văn hóa và các Công ước quốc tế

mà Việt Nam là thành viên, đặc biệt là Công ước quốc tế về du lịch văn hóa được

ICOMOS thông qua tại Đại hội đồng lần thứ 12 ở Mexico tháng 10 năm 1999 đã

cung cấp nền tảng pháp lý, quan điểm, nhận thức và các nguyên tắc căn bản, có ý

nghĩa hết sức quan trọng về phát triển du lịch văn hóa. Đó là điều kiện thuận lợi rất

căn bản để các địa phương, trong đó có Đan Phượng, phát triển du lịch văn hóa.

Ở vào vị trí cửa ngõ phía Tây Bắc của Thủ đô Hà Nội, trên trục đường từ

trung tâm thành phố đến thị xã Sơn Tây, theo quy hoạch tổng thể chung phát triển

Thủ đô, huyện Đan Phượng không phải là địa bàn quy hoạch phát triển công

nghiệp, mà thuộc vùng chuyển tiếp giữa vùng nội đô lịch sử và vùng công nghiệp

ngoại vi. Trong mối quan hệ phát triển chung với thành phố Hà Nội, huyện Đan

Phượng là một bộ phận hình thành “vành đai xanh” của Hà Nội.

Nằm trọn trong chiếc nôi văn hóa xứ Đoài xưa, Đan Phượng sở hữu hệ thống

di tích dày đặc và rất phong phú về loại hình. Tính đến hết năm 2024, toàn huyện đã

có 82 di tích được xếp hạng, gồm: 01 di tích xếp hạng quốc gia đặc biệt, 37 di tích

xếp hạng cấp quốc gia; 44 di tích xếp hạng cấp thành phố; 05 địa điểm được Thành

phố gắn biển địa điểm lưu niệm sự kiện cách mạng kháng chiến. Theo phân cấp của

UBND thành phố Hà Nội, trên địa bàn huyện Đan Phượng không có di tích do

Thành phố quản lý. Một số di tích lịch sử - văn hóa tiêu biểu, có thể nghiên cứu, xây

dựng thành những điểm đến du lịch trên địa bàn huyện như: Đền Văn Hiến (xã Hạ

Mỗ), quê hương và cũng là nơi thờ danh nhân Tô Hiến Thành. Đình Vạn Xuân (xã

Hạ Mỗ), nơi thờ Lý Bát Lang, Hậu Lý Nam đế, gắn liền với thành cổ Ô Diên, kinh

đô nhà nước Vạn Xuân thế kỷ thứ VI. Đền Vân Môn (xã Trung Châu), nơi thờ Hai

Bà Trưng, hai nữ anh hùng dân tộc đã đánh đuổi giặc Đông Hán. Chùa Đôi Hồi (xã

Song Phượng), trụ sở Cơ quan báo Cứu quốc của Mặt trận Việt Minh thời kỳ tiền

khởi nghĩa. Nổi bật trong số đó là đình Đại Phùng, công trình kiến trúc nghệ thuật

tiêu biểu thế kỷ XVII, di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia đặc biệt...

Người dân Đan Phượng cũng là chủ nhân của một hệ thống di sản văn hóa

phi vật thể phong phú và đặc sắc. Trong đó, phải kể đến một số lễ hội tiêu biểu như:

107

Lễ hội truyền thống Đền Nhà Bà (xã Liên Hà) được ghi nhận là lễ hội lớn nhất của

huyện, với hội đua thuyền rồng và đánh cờ người nổi tiếng. Lễ hội Đền Bồng Lai

(xã Hồng Hà) nổi tiếng với tục rước nước và hội đua thuyền rồng. Hội thả diều làng

Bá Giang (xã Hồng Hà) thu hút nhiều khách du lịch trong và ngoài nước. Hội hát

Chèo Tàu (xã Tân Hội), loại hình múa hát cổ, riêng có ở Đan Phượng. Hát Ca Trù

(xã Thượng Mỗ) được ghi nhận là dòng ca trù nổi tiếng từ rất sớm...

Ngoài cảnh quan thiên nhiên và lễ hội truyền thống, trên địa bàn huyện Đan

Phượng hiện còn lưu giữ nhiều nghề truyền thống nổi tiếng từ lâu đời, với những

nét văn hóa đẹp đang được gìn giữ và phát huy. Toàn huyện có 42 làng nghề. Tiêu

biểu là các làng nghề chế biến lâm sản ở Liên Trung, Liên Hà; sản xuất rượu, đậu

phụ ở Hồng Hà, Hạ Mỗ; sản xuất bánh, kẹo ở Song Phượng; làm giò chả ở Tân Hội.

Độc đáo và đặc sắc hơn cả là nghề sản xuất nem nổi tiếng ở thị trấn Phùng. Câu ca

xưa đã có tự bao đời: “Rau Đăm, húng Láng, giò Chèm, nem Phùng”; “Nem Phùng

ăn với lá sung. Cho người tứ xứ nhớ nhung một đời”...

Có thể nói, Đan Phượng đang nắm giữ nguồn tài nguyên du lịch văn hóa và

nhân văn hết sức phong phú và quý giá, rất có tiềm năng để khai thác hướng tới

phát triển kinh tế gắn với phát triển du lịch văn hóa, với đặc trưng là các sản phẩm

du lịch sinh thái nông thôn, du lịch giải trí cuối tuần ở một số địa bàn thuận lợi ven

sông Hồng và sông Đáy, trước hết là ven sông Đáy. Trong hướng đi đó, di tích đình

Đại Phùng được định hướng xây dựng trở thành một điểm đến du lịch nổi bật.

Đình Đại Phùng với các giá trị đặc sắc, với truyền thống văn hóa quý báu từ

nghìn đời xưa, địa thế đẹp sẽ là điểm đến hấp dẫn của nhiều du khách. Việc phát

triển du lịch tại đình Đại Phùng muốn mang lại hiệu quả cao, thu hút nhiều khách

du lịch tới tham quan, cần có sự đầu tư hơn nữa về mọi mặt. Công tác tuyên truyền,

quảng bá, tăng tính hấp dẫn của di tích nhằm thu hút nhiều hơn nữa khách tham

quan; tổ chức các hoạt động văn hóa tại di tích hướng tới mục tiêu phục vụ phát

triển du lịch bền vững là hết sức cần thiết. Lễ hội truyền thống diễn ra một cách vui

nhộn, được sự tham gia đông đảo của người dân trong và ngoài địa bàn, một mặt

nhằm khôi phục hoạt động văn hóa cổ truyền mang bản sắc vùng miền, mặt khác

góp phần quảng bá hình ảnh của địa phương. Do đó, cơ quan quản lý cần phải đẩy

mạnh việc kết hợp với các công ty du lịch thiết lập tour, xây dựng chương trình, lịch

trình tham quan, các bài giới thiệu về di tích đình Đại Phùng, đồng thời khéo léo

108

lồng ghép với việc quảng bá các đặc sản ẩm thực cũng như nông sản địa phương,

tạo các sản phẩm phục vụ du khách mua làm quà tặng, lưu niệm khi đến với di tích.

Để đạt được mục tiêu trên, học viên đề xuất các giải pháp cụ thể như sau:

* Xây dựng tuyến tham quan gồm các tour trên địa bàn và các tour kết nối

với các tour bên ngoài: UBND xã Đan Phượng, Ban quản lý di tích đình Đại Phùng

cần có sự liên kết với các doanh nghiệp trong lĩnh vực du lịch, dịch vụ để có thể hợp

tác với các công ty lữ hành đảm nhận các tour đón du khách du lịch. Việc thiết kế

các tour, tuyến du lịch đến với di tích đình Đại Phùng cần gắn kết chặt chẽ với các

điểm đến là các di tích tiêu biểu trên địa bàn huyện và cơ hội trải nghiệm các lễ hội,

làng nghề truyền thống, sản phẩm thuộc hệ thống OCOP trên địa bàn.

* Phát triển dịch vụ: UBND xã Đan Phượng và huyện Đan Phượng cần có

chiến lược phát triển và quảng bá hệ thống các di tích trên địa bàn huyện. Bên cạnh

đó, cần định hướng và quy hoạch phát triển du lịch cộng đồng, với hệ thống lưu trú,

nhà hàng, khu vui chơi giải trí, gia tăng cơ hội và các hình thức trải nghiệm cho du

khách đến tham quan tại địa phương. Kêu gọi các nhà đầu tư để thực hiện theo hình

thức đầu tư tư - quản lý tư. Quảng bá các đặc sản ẩm thực cũng như nông sản địa

phương, tạo các sản phẩm thương hiệu phục vụ du khách làm quà tặng, lưu niệm.

* Đổi mới nội dung, hình thức truyền thông, quảng bá, giáo dục, nâng cao

nhận thức cho cộng đồng, doanh nghiệp về giá trị nổi bật của di tích: Di sản tư liệu

Hán Nôm về di tích đình Đại Phùng khá phong phú và đã được kiểm kê, phiên dịch

sang chữ quốc ngữ, nhưng hiện nay vẫn đang trong tình trạng lưu trữ. Các mảng

chạm khắc của di tích đình Đại Phùng hết sức đặc sắc và có giá trị nghệ thuật tiêu

biểu, nổi bật. Tuy nhiên, những giá trị đó chủ yếu vẫn tiềm ẩn trong hồ sơ di tích,

trong sự hiểu biết của một số ít nhà nghiên cứu khoa học, chưa đến được với cộng

đồng. Phòng Văn hóa và Thông tin huyện Đan Phượng, UBND xã Đan Phượng,

trực tiếp là Ban QLDT xã Đan Phượng cần đổi mới nội dung, hình thức truyền

thông, quảng bá, giáo dục, nâng cao nhận thức cho cộng đồng, doanh nghiệp về giá

trị nổi bật của di tích: Tích cực tuyên truyền, vun đắp “tính thiêng” của di tích, tạo

sự riêng biệt và sức hấp dẫn, thu hút du khách tham quan, tìm hiểu di tích. Sớm xây

dựng bài thuyết minh về di tích để truyền tải thông điệp của di tích đến với du

khách và giúp cho giá trị của di tích lan tỏa trong cộng đồng. Nội dung thuyết minh

phải được cơ quan chức năng kiểm soát, với những thông tin chọn lọc nhưng vẫn

109

bảo đảm giới thiệu được tổng thể về di tích, về nguồn gốc, đặc điểm, giá trị và

những nét nổi bật, riêng có của di tích, về vị thần Thành Hoàng được thờ phụng tại

di tích... khơi dậy trí tưởng tượng và ham muốn tìm hiểu sâu hơn của khách tham

quan. Ghi âm bài thuyết minh, thường xuyên phát trên hệ thống truyền thanh tại di

tích và đài truyền thanh của xã, đặc biệt là trong các dịp lễ hội. Đăng tải bài thuyết

minh trên trang thông tin điện tử chính thức của Phòng Văn hóa và Thông tin huyện

và UBND xã Đan Phượng, để bất cứ ai cũng có thể tra cứu thông tin hữu ích khi tìm

hiểu về di tích. Các thành viên Tiểu BQLDT cần ghi nhớ bản thuyết minh để chủ

động giới thiệu, hướng dẫn cho khách tham quan đến với di tích... Về lâu dài hơn,

có thể nghiên cứu thiết kế, sản xuất, in ấn logo của di tích trên các sản phẩm lưu

niệm; sản xuất các mặt hàng lưu niệm mang biểu tượng của đình Đại Phùng và

vùng đất Đan Phượng hoặc những ấn phẩm du lịch khác để du khách mua làm quà

lưu niệm...

* Tổ chức sự kiện tại di tích: Việc tổ chức các sự kiện tại di tích cũng sẽ thu

hút được nhiều người đến với di tích. Các sự kiện cần được kiểm tra chặt chẽ về nội

dung và phải được tổ chức chuyên nghiệp, phù hợp với không gian di tích, không

làm ảnh hưởng đến cảnh quan và đảm bảo an ninh, an toàn phòng cháy, chữa cháy.

3.2.5. Gắn kết di tích với phát triển kinh tế - xã hội, cộng đồng dân cư địa

phương

Ngày nay, di sản văn hóa đã và đang được nhìn nhận là một loại tài sản đặc

biệt vì nó có khả năng tạo nên giá trị gia tăng trong các lĩnh vực kinh tế. Di sản văn

hóa nói chung, di tích lịch sử - văn hóa nói riêng, được đánh giá cao ở vai trò động

lực phát triển kinh tế - xã hội với các khả năng: “(1) góp phần giáo dục, hình thành

nhân cách và đào tạo nguồn nhân lực có chất lượng phục vụ yêu cầu phát triển đất

nước, (2) tạo dựng môi trường xã hội lành mạnh và ổn định để thu hút các nguồn

lực đầu tư từ trong nước và quốc tế, (3) tạo dựng hình ảnh đất nước, để hội nhập

quốc tế mà không đánh mất bản sắc dân tộc”. Việc khai thác, phát huy bền vững các

giá trị của di tích đình Đại Phùng gắn bó chặt chẽ với sự phát triển kinh tế - xã hội

và gia tăng lợi ích, cải thiện đời sống dân sinh của cộng đồng dân cư địa phương. Di

tích đình Đại Phùng với những giá trị nổi bật về lịch sử, văn hóa và cảnh quan, rất

có lợi thế để khai thác, phát triển du lịch, dịch vụ, trong đó định hướng lớn là phát

triển du lịch cộng đồng, du lịch làng quê, trên cơ sở kết nối với hệ thống các di tích

110

và cơ hội trải nghiệm văn hóa từ các lễ hội, sản phẩm của các làng nghề truyền

thống trên địa bàn.

Di tích lịch sử văn hóa nghệ thuật đình Đại Phùng trước hết là một ngôi đình

làng, là công trình tín ngưỡng nên “tính thiêng” vốn là một thuộc tính quan trọng,

vốn có của di tích. Cần quan tâm giữ gìn tính thiêng của di tích, để trên cơ sở đó

bảo vệ và phát huy có hiệu quả giá trị của di tích đình Đại Phùng. Nói về “tính

thiêng” của di tích đình Đại Phùng là nói đến điều đã gắn kết với di tích ngay từ khi

được khởi dựng và là một trong những cơ sở tạo ra khả năng, sức mạnh đặc biệt để

bảo vệ di tích. Đó chính là tín ngưỡng và việc thực hành tín ngưỡng Thành Hoàng

làng. Mặt khác, do “tính thiêng” của di tích được hình thành trên cơ sở những yếu tố

như không gian thiêng, vị thần thành hoàng làng thiêng, hành vi hành lễ, ứng xử

thiêng... nên việc gìn giữ “tính thiêng” trong quá trình bảo vệ và phát huy giá trị di

tích, đặc biệt là trong việc xây dựng di tích đình Đại Phùng trở thành một điểm đến

du lịch cần được quán triệt và thực hiện một cách cẩn trọng. Việc khai thác giá trị di

tích đình Đại Phùng như một điểm đến du lịch cần tuân thủ triệt để nguyên tắc bảo

vệ di tích, bảo vệ môi trường, không gian cảnh quan của di tích, hạn chế mọi sự ảnh

hưởng, tác động làm phá vỡ cấu trúc văn hóa, lịch sử và xâm hại tới môi trường

sinh thái, nhân văn của di tích, đặt lợi ích hiện tại trong mối quan hệ với tiềm năng

phát triển tổng thể, lâu dài. Các hoạt động diễn ra tại di tích phải được kiểm soát

chặt chẽ, áp dụng các biện pháp khai thác hiệu quả theo hướng bảo vệ môi trường

bền vững. Cũng cần một lần nữa nhấn mạnh là, đối với di tích đình làng, bảo vệ và

phát huy giá trị di tích gắn chặt với bảo vệ, phát huy giá trị của tín ngưỡng Thành

Hoàng làng, với tư cách là một di sản. Trên phương diện đó, vai trò của cộng đồng,

nhất là cộng đồng cư dân sở tại là không thể thiếu và giữ vai trò quyết định.

Du lịch cộng đồng là loại hình du lịch do chính cộng đồng phối hợp với chính

quyền địa phương, cơ quan chức năng tổ chức, quản lý và làm chủ để đem lại lợi

ích kinh tế, trong đó các DTLSVH là nguồn tài nguyên trọng tâm nhất. Trong

những bước ban đầu, huyện Đan Phượng và xã Đan Phượng cần tập trung tuyên

truyền nâng cao nhận thức về mô hình du lịch cộng đồng và sự cần thiết gắn du lịch

cộng đồng với bảo tồn, phát huy giá trị DTLSVH. Hướng đến, mỗi thành viên trong

Ban QLDT, sau đó là các thành viên cộng đồng dân cư đều trở thành những hướng

dẫn viên cho phát triển du lịch tại địa phương. Bên cạnh đó, cần xây dựng các điểm

111

du lịch cộng đồng và dịch vụ du lịch cộng đồng gắn với quảng bá, giới thiệu về

DTLSVH, sản phẩm làng nghề, lễ hội truyền thống để tạo điểm nhấn thu hút du

khách đến với đến với di tích.

Để khuyến khích sự tham gia của cộng đồng địa phương, HĐND, UBND

huyện Đan Phượng cần đề xuất với cấp có thẩm quyền hoặc tự ban hành theo phân

cấp các chính sách ưu tiên, miễn giảm thuế, không thu thuế với các sản phẩm thủ

công, sản phẩm nghề truyền thống của cộng đồng dân cư địa phương sản xuất ra để

phục vụ khách du lịch; phối hợp tổ chức các sự kiện văn hóa tại di tích, tôn vinh bản

sắc văn hóa, khuyến khích người dân tham gia góp phần lưu giữ các giá trị văn hóa

truyền thống của địa phương. Ngoài ra, cần phải có những cơ chế chính sách dài

hạn như các quy định về bảo vệ môi trường, bảo vệ tài nguyên du lịch hợp lý, quy

chế hoạt động của mô hình du lịch cộng đồng, đáp ứng yêu cầu bảo vệ môi trường

bền vững, phát triển kinh tế toàn diện gắn với phát triển xã hội toàn diện.

Du lịch là ngành kinh tế tổng hợp, suy cho cùng, đích đến của hoạt động này

vẫn là lợi nhuận, lợi ích. Hơn ở bất cứ loại hình du lịch nào khác, du lịch cộng đồng,

đặc biệt là các hoạt động du lịch dựa trên khai thác, phát huy giá trị của di tích, cần

có sự phối hợp chặt chẽ, hài hòa giữa các chủ thể là cơ quan quản lý nhà nước -

cộng đồng cư dân sở tại nơi có di tích - doanh nghiệp. Cơ chế phối hợp giữa các chủ

thể này phải được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt. Cần xác định rõ nhiệm vụ và

lợi ích của các chủ thể trong việc tham gia quản lý, bảo tồn và khai thác giá trị

DTLSVH gắn với phát triển mô hình du lịch cộng đồng. Giữa các chủ thể này cần

phải có sự phối hợp chặt chẽ, hỗ trợ lẫn nhau, chia sẻ trách nhiệm, hài hòa lợi ích.

Có như vậy mới có thể mang lại hiệu quả trong bảo tồn, khai thác, phát huy giá trị

của di tích, gắn kết di tích với sự phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao thu nhập, đời

sống của cộng đồng dân cư địa phương.

3.2.6. Tăng cường việc kiểm tra, giám sát của các bên để kịp thời phát hiện

các vi phạm

Trong lĩnh vực văn hóa và DSVH nói chung, DTLSVH nói riêng, công tác

quản lý nhà nước không thể tách rời vai trò của công tác kiểm tra. Không có kiểm

tra chính là buông lỏng vai trò quản lý, làm giảm hiệu lực, hiệu quả công tác quản

lý nhà nước, dẫn đến tình trạng các DTLSVH bị xâm phạm, công tác quy hoạch bị

chồng chéo, môi trường văn hóa nói chung và DTLSVH nói riêng bị xâm hại. Trách

112

nhiệm của các ngành, các cấp trong công tác quản lý DTLSVH là phải thực sự phát

huy hết vai trò, chức năng, nhiệm vụ đã được luật pháp quy định. Theo đó:

- Cần củng cố, nâng cao trình độ và ý thức trách nhiệm của cán bộ đội kiểm

tra liên ngành, tăng cường kiểm tra và kiên quyết xử lý những trường hợp vi phạm.

Thường xuyên tổ chức thanh tra, kiểm tra định kỳ hoặc đột xuất các di tích lịch sử

để phát hiện sớm những sai phạm và có biện pháp xử lý kịp thời. Để thực hiện được

công tác này cần phải có cán bộ chuyên môn làm công tác thanh tra về di sản văn

hóa, phối hợp với thanh tra nhân dân, dân phòng các xã trong việc thanh tra, kiểm

tra các di tích.

- Cùng với việc củng cố, nâng cao trình độ chuyên môn và trách nhiệm của

các đội, tổ kiểm tra liên ngành, tăng cường kiểm tra và kiên quyết xử lý theo quy

định của pháp luật đối với các hành vi vi phạm trong lĩnh vực di sản văn hóa, cần

xây dựng kế hoạch cụ thể về thanh tra, kiểm tra ngắn, dài hạn tại các di tích, không

chỉ với di tích xếp hạng cấp quốc gia, cấp thành phố, mà các di tích chưa được xếp

hạng cũng cần được kiểm tra thường xuyên trong việc chấp hành pháp luật về di sản

văn hóa, trong việc thực hiện việc tu bổ, tôn tạo di tích, việc thu, chi và sử dụng

nguồn kinh phí cấp theo chương trình, mục tiêu chống xuống cấp tại các di tích...

- Công tác thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm về di tích phải được thực hiện

nghiêm theo quy định của pháp luật về thanh tra và pháp luật về xử phạt hành chính

trong lĩnh vực di sản văn hóa: Nghị định 38/2021/NĐ-CP của Chính phủ quy định

xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực văn hóa và quảng cáo; Nghị định

129/2021/NĐ-CP ngày 30/12/2021 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của

các Nghị định quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực du lịch; thể thao;

quyền tác giả, quyền liên quan; văn hóa và quảng cáo; Nghị định 128/2022/NĐ-CP

ngày 30/12/2022 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số

38/2021/NĐ-CP ngày 29/3/2021 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành

chính trong lĩnh vực văn hóa và quảng cáo đã được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định

số 129/2021/NĐ-CP ngày 30/12/2021 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều

của các Nghị định quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực du lịch; thể

thao; quyền tác giả, quyền liên quan; văn hóa và quảng cáo. Theo đó, cơ quan chức

năng sẽ áp dụng các hình thức xử phạt thích đáng đúng người, đúng đối tượng khi

có hành vi lấn chiếm, xâm hại di tích, phá hoại và làm ảnh hưởng đến không gian

113

cảnh quan, gây ô nhiễm môi trường xung quanh di tích, các hiện tượng hành nghề

mê tín dị đoan tại các di tích gắn với tôn giáo, tín ngưỡng...

Có thể nhận thấy, công tác thanh tra, kiểm tra có chức năng và nhiệm vụ hết

sức quan trọng, thể hiện tính nghiêm minh của pháp luật cũng như vai trò của quản

lý nhà nước trong lĩnh vực văn hóa, thể thao và du lịch nói chung, công tác bảo tồn,

tôn tạo và phát huy giá trị DTLSVH nói riêng. Tăng cường vai trò của công tác

thanh tra, kiểm tra cũng góp phần bảo đảm cho các hoạt động kinh doanh du lịch

dựa trên việc khai thác, phát huy giá trị của di tích được tiến hành trên cơ sở tuân

thủ nghiêm các quy định của pháp luật. Hoạt động kiểm tra tạo ra quyền bình đẳng

trước pháp luật trong công tác bảo tồn, tôn tạo DTLSVH, tạo điều kiện thuận lợi

cho hoạt động kinh doanh du lịch, góp phần nâng cao vai trò của công tác quản lý

cũng như tính chủ động của các cơ quan quản lý nhà nước, doanh nghiệp và cộng

đồng trong việc bảo tồn, tôn tạo và phát huy giá trị của DT LSVH.

Đối với các di tích có giá trị văn hóa lịch sử nghệ thuật như di tích đình Đại

Phùng, để làm tốt công tác thanh tra, kiểm tra, bảo đảm cho di tích đình được bảo

vệ lâu bền, đúng quy định của pháp luật, phát huy hiệu quả tốt trong phát triển kinh

tế - xã hội và đáp ứng nhu cầu hưởng thụ văn hóa của người dân địa phương,

UBND xã Đan Phượng, Phòng Văn hóa - Thông tin huyện Đan Phượng cần:

- Tham mưu cấp có thẩm quyền có văn bản chỉ đạo, xây dựng và tổ chức thực

hiện hiệu quả các kế hoạch thanh tra, kiểm tra các hoạt động tại di tích đình Đại

Phùng theo định kỳ tháng, quý, năm, gắn với các hoạt động cụ thể của di tích. Đặc

biệt lưu tâm đến hoạt động lễ hội, chú trọng công tác kiểm tra trước, trong và sau

khi diễn ra lễ hội để kịp thời phát hiện, ngăn chặn các vi phạm.

- Đối với hoạt động trùng tu, tôn tạo di tích, công tác thanh tra, kiểm tra cần

được tiến hành nghiêm ngặt ngay từ đầu, bảo đảm thực hiện đầy đủ quy trình pháp

lý từ khâu lập dự án cho tới khâu thiết kế và trong suốt quá trình thi công, để đảm

bảo tính chân xác, nguyên gốc của di tích lịch sử trong suốt quá trình thực hiện dự

án đầu tư, tu bổ, tôn tạo di tích. Khi triển khai lập dự án tu bổ di tích, cần thông tin

công khai về dự án, bản vẽ thiết kế thi công, lấy ý kiến đồng thuận trong cộng đồng

dân cư, tiếp thu những ý kiến góp ý, bổ sung của cộng đồng vào hồ sơ dự án, bản vẽ

thiết kế thi công, nhằm đảm bảo các hạng mục đầu tư trong dự án phù hợp với

nguyên tắc tu bổ, đáp ứng nhu cầu sinh hoạt tín ngưỡng của cộng đồng dân cư.

114

Đồng thời, cần phối hợp chặt chẽ với chính quyền địa phương, phát huy vai trò của

cộng đồng trong việc giám sát thi công, bảo vệ, bảo quản đồ thờ tự tại di tích, xử lý

kịp thời những phát sinh xảy ra trong quá trình tu bổ, tôn tạo di tích.

Tiểu kết Chương 3

Trong những năm qua hoạt động bảo tồn, phát huy giá trị di tích đình Đại

Phùng bên cạnh những thành tựu đạt được thì vẫn còn một số vấn đề cần được quan

tâm, lưu ý thực hiện đạt hiệu quả tốt hơn trong thời gian tới. Đặc biệt, trong bối

cảnh quá trình hiện đại hóa, đô thị hóa, chuyển dịch cơ cấu phát triển kinh tế - xã

hội đã và đang diễn ra mạnh mẽ, nhanh chóng như hiện nay, hơn lúc nào hết, chính

quyền và nhân dân huyện Đan Phượng, xã Đan Phượng và cộng đồng dân cư nơi

đây càng phải nhận thức và thực hiện một cách hài hòa giữa nhiệm vụ phát triển

kinh tế - xã hội với nhiệm vụ bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa.

Dựa trên các chủ trương, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà

nước về di sản văn hóa và tình hình thực tế, thực trạng công tác bảo tồn, phát huy

giá trị di tích đình Đại Phùng, học viên đã đưa ra một số kiến nghị về các giải pháp

nhằm nâng cao hiệu quả công tác bảo tồn và phát huy giá trị di tích đình Đại Phùng

với mong muốn góp phần thực hiện một cách khoa học, có chuyên môn sâu hoạt

động bảo tồn và phát huy giá trị di tích với mong muốn làm sáng tỏ hơn nữa, đồng

thời nhấn mạnh giải pháp kết hợp hài hòa giữa công tác bảo vệ di tích với các hoạt

động khai thác, phát huy giá trị di tích theo hướng xây dựng di tích trở thành một

điểm đến trong hành trình du lịch cộng đồng, phục vụ cho mục tiêu phát triển kinh

tế - xã hội ở địa phương.

115

KẾT LUẬN

Với đối tượng là quản lý di tích lịch sử văn hóa tại một địa phương cho nên

luận văn xác định lý thuyết quản lý DSVH làm cơ sở cho việc nghiên cứu các nội

dung cụ thể. Đã có nhiều nghiên cứu, đánh giá về DTLSVH và quản lý DTLSVH

được tiếp cận ở các góc độ khác nhau, mang tính lý luận, thực tiễn. Đây là nguồn tư

liệu quan trọng để học viên tiếp cận về cơ sở khoa học, lý luận, thực tiễn trong thực

hiện đề tài. Trong đó, nhiều nghiên cứu tập trung vào hai nội dung là bảo tồn, gìn

giữ các di sản và phát huy khai thác các giá trị của di tích để phục vụ cho sự phát

triển chung của xã hội, của cộng đồng. Các nghiên cứu cũng đề cao vai trò của cộng

đồng trong việc quản lý di sản. Mục đích bảo tồn, gìn giữ các DSVH là dành cho

cộng đồng và coi cộng đồng là đối tác, là một phần không thiếu trong quản lý di

sản. Hiện nay, việc bảo tồn, gìn giữ di tích không chỉ quan tâm đến bản thân các di

tích mà còn coi trọng đến những giá trị phi vật thể hàm chứa trong các di tích đó,

nhằm đáp ứng tốt nhất nhu cầu hưởng thụ của cộng đồng khi đến với di tích.

Luận văn đã tập trung nghiên cứu, phân tích thực trạng hoạt động bảo vệ và

phát huy giá trị di tích ở đình Đại Phùng những năm gần dây, trong đó đi sâu vào

hai nội dung cơ bản là các hoạt động bảo tồn các di tích nhằm gìn giữ, bảo vệ di tích

chống lại sự xâm hại của con người và thiên nhiên. Mặt khác, di tích cần được khai

thác, phát huy giá trị để đáp ứng nhu cầu hưởng thụ văn hóa của cộng đồng. Qua đó,

luận văn bước đầu đưa ra những đánh giá về hiệu quả của các hoạt động này. Việc

đánh giá không chỉ dựa trên các con số thống kê của các cơ quan quản lý mà còn

dựa trên những đánh giá, phản hồi của cộng đồng. Một di tích được tu bổ, tôn tạo

được coi là thành công phải được cộng đồng công nhận. Bởi lẽ, mục tiêu bảo tồn,

gìn giữ các di tích là nhằm để đáp ứng đúng nhu cầu hưởng thụ văn hóa của người

dân, đặc biệt là khi di tích là một ngôi đình làng như đình Đại Phùng.

Trong bối cảnh CNH, HĐH đang phát triển một cách nhanh chóng, chính

quyền, nhân dân xã Đan Phượng nói riêng và huyện Đan Phượng nói chung cần

quan tâm hơn nữa tới việc bảo tồn, gìn giữ và phát huy giá trị các DSVH của địa

phương bằng cơ chế, chính sách và nhiều hành động cụ thể. Hoạt động quản lý các

di tích đạt hiệu quả cao sẽ là một tiền đề quan trọng để tiến hành việc triển khai các

dự án phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của người của

116

địa phương. Với những phân tích cụ thể về thực trạng công tác bảo vệ và phát huy

di tích đình Đại Phùng, học viên đã đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu

quả của công tác bảo vệ và phát huy giá trị di tích tại địa phương như: nâng cao chất

lượng công tác bảo quản, trùng tu, tôn tạo di tích; tăng cường nguồn lực trong bảo

vệ và phát huy giá trị di tích lịch sử văn hóa; nâng cao vai trò của cộng đồng, bảo vệ

và phát huy giá trị của di tích gắn với phát triển du lịch bền vững; khai thác một

cách hợp lý nguồn tài nguyên của di tích góp phần vào sự phát triển của địa phương.

Các giải pháp là các quan điểm mang tính khoa học, có thể giúp cơ quan quản lý

nhà nước ở địa phương tham khảo trong việc đưa ra các cơ chế, chính sách, các giải

pháp phù hợp sát thực tiễn để chấn chỉnh và đẩy mạnh công tác quản lý di tích lịch

sử văn hóa, góp phần làm cho DSVH truyền thống thực sự trở thành một loại tài

sản, một loại nguồn lực, có vai trò tích cực trong công cuộc phát triển kinh tế - xã

hội ở địa phương theo hướng bền vững.

Nội dung nghiên cứu của luận văn “Bảo vệ và phát huy giá trị di tích đình

Đại Phùng” được thực hiện theo các nội dung quy định của Luật Di sản văn hóa về

quản lý, bảo tồn và phát huy giá trị DSVH Việt Nam. Những hiệu quả cụ thể của

hoạt động quản lý di tích lịch sử văn hóa của thành phố Hà Nội được thể hiện trong

nội dung luận văn đã góp phần thực hiện hóa chủ trương của Đảng theo tinh thần

mà Nghị quyết 33-NQ/TW của BCH TW Đảng khóa XI về “Xây dựng và phát triển

văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước”. Kết

quả nghiên cứu thể hiện rõ quan điểm coi trọng phát triển văn hóa và con người Việt

Nam, coi văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, là mục tiêu, là động lực phát

triển bền vững của đất nước; phát triển văn hóa vì mục tiêu phát triển con người...

Điều đó cho thấy một tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt, ý thức trách nhiệm và mối quan

hệ chặt chẽ giữa các bên liên quan việc quản lý, phát huy giá trị của DTLSVH. Đây

cũng chính là mục tiêu, nhiệm vụ của Đảng ta đã đề ra, trong đó, nhiệm vụ hàng đầu

là phải xây dựng và tổ chức thực hiện có hiệu quả cơ chế giải quyết hợp lý, hài hòa

giữa bảo tồn, phát huy DSVH với phát triển kinh tế - xã hội. Bảo tồn, phát huy

DTLSVH tiêu biểu, phục vụ giáo dục truyền thống và phát triển kinh tế, gắn kết bảo

tồn, phát huy DSVH với phát triển du lịch.

117

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. BCH Đảng bộ huyện Đan Phượng (1994), Lịch sử đảng bộ huyện Đan

Phượng, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

2. BQL Di tích xã Đan Phượng (2024), Quyết định số 01/QĐ-BQLDT ngày

15/4/2024 của Ban Quản lý di tích xã Đan Phượng ban hành Quy chế

hoạt động của Ban Quản lý di tích xã Đan Phượng.

3. Đặng Văn Bài (2005), “Tiếp cận thực trạng công tác bảo vệ và phát huy

giá trị di tích theo tinh thần của Luật Di sản văn hóa”, In trong cuốn Một

con đường tiếp cận di sản văn hóa, tập 1, Nxb Thế giới, Hà Nội.

4. Đặng Văn Bài (2006), “Tu bổ, tôn tạo các di tích lịch sử - văn hóa là hoạt

động có tính chất đặc thù chuyên ngành”, In trong cuốn Một con đường

tiếp cận di sản văn hóa, Cục Di sản văn hóa, tập 3, Hà Nội.

5. Đặng Văn Bài (2018), “Bảo tồn di sản văn hóa ở Hà Nội - Nhìn từ các

công ước của UNESCO”, In trong Kỷ yếu Hội thảo khoa học Bảo tồn và

phát huy giá trị di tích lịch sử, văn hóa Thủ đô Hà Nội.

6. Trần Lâm Biền (2018), Đình làng Việt (Châu thổ Bắc Bộ), Nxb Hồng

Đức.

7. Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch (2019) Thông tư số

15/2019/TT-BVHTTDL ban hành ngày 31/12/2019 Quy định chi tiết một

số quy định về bảo quản, tu bổ, phục hồi di tích.

8. Chính phủ (2018), Nghị định 166/2018/NĐ-CP ban hành ngày

25/12/2018 Quy định thẩm quyền, trình tự, thủ tục lập, thẩm định, phê

duyệt quy hoạch, dự án bảo quản, tu bổ, phục hồi di tích lịch sử - văn

hóa, danh lam thắng cảnh.

9. Chính phủ (2023), Nghị định số 01/2023/NĐ-CP ngày 16/01/2023 quy

định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Văn hóa,

Thể thao và Du lịch.

10. Nguyễn Viết Cường (2014), Vấn đề nghiên cứu, áp dụng quy định quốc

tế trong thực tiễn bảo vệ và phát huy giá trị di tích ở nước ta, Tạp chí Di

sản văn hóa, số 1 (46), tr.20

118

11. Nguyễn Viết Cường (2020), Văn bản quy phạm pháp luật về quản lý di

tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh ở Việt Nam, Đặc san Di sản

văn hóa, số 2 (02) - 2020, tr 24-33.

12. Nguyễn Viết Cường (2020), Quản lý Di sản văn hóa và thiên nhiên thế

giới ở Việt Nam theo Công ước Di sản Thế giới, Nxb Thế giới, Hà Nội.

13. Đào Xuân Dũng (2018), “Tăng cường sự lãnh đạo của cấp ủy đảng các

cấp trong công tác bảo vệ và phát huy giá trị các di tích lịch sử - văn hóa

thủ đô”, In trong Kỷ yếu Hội thảo khoa học Bảo tồn và phát huy giá trị

di tích lịch sử, văn hóa Thủ đô Hà Nội.

14. Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Nghị quyết Hội nghị lần thứ V Ban

chấp hành Trung ương Đảng (khóa VIII), về xây dựng và phát triển nền

văn hóa Việt Nam tiến tiến , đậm đà bản sắc dân tộc

15. Đảng Cộng sản Việt Nam (2014), Văn kiện Hội nghị lần thứ chín Ban

chấp hành Trung ương Đảng khóa XI.

16. Đảng Cộng sản Việt Nam (2014), Nghị quyết số 33-NQ/TW ngày

9/6/2014, Hội nghị TW 9 khóa XI về Xây dựng và phát triển văn hóa, con

người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước

17. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc

lần thứ XIII

18. Tô Văn Động (2018), “Tổng quan về di tích Thủ đô dưới góc nhìn quản

lý di sản văn hóa”, In trong Kỷ yếu Hội thảo khoa học Bảo tồn và phát

huy giá trị di tích lịch sử, văn hóa Thủ đô Hà Nội.

19. Trịnh Thị Minh Đức, Phạm Thu Hương (2007), Bảo tồn di tích lịch sử

văn hóa, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.

20. Hiến chương Vernice (Italia) (1964), Bản dịch lưu tại Cục Di sản văn

hóa, Bộ Văn hóa thể thao và Du lịch

21. Nguyễn Duy Hinh (2022), Tín ngưỡng Thành hoàng Việt Nam, Nxb

Khoa học xã hội, Hà Nội.

22. Nguyễn Quốc Hùng (2011), “Tầm nhìn tương lai đối với di sản văn hóa

và hệ thống bảo vệ di tích ở nước ta”, Tạp chí Di sản văn hóa, số

9/20211.

119

23. Nguyễn Quốc Hùng (2003), “Tu bổ tôn tạo di tích - lý luận và thực tiễn”,

In trong cuốn Một con đường tiếp cận di sản văn hóa, tập 1, Nxb Thế

giới, Hà Nội.

24. Nguyễn Thế Hùng (2005), “Đôi điều về tu bổ di tích tín ngưỡng - tôn

giáo”, In trong Một con đường tiếp cận di sản văn hóa, tập 1, Nxb Thế

giới, tr.144-145, Hà Nội.

25. Nguyễn Thế Hùng (2007), “Phát huy giá trị di tích phục vụ sự nghiệp

bảo vệ, xây dựng và phát triển đất nước”, Tạp chí Di sản văn hóa, số

20/2007.

26. Nguyễn Thế Hùng (2018), “Quản lý, bảo tồn và phát huy giá trị các di

tích quốc gia đặc biệt trên địa bàn Hà Nội”, In trong Kỷ yếu Hội thảo

khoa học Bảo tồn và phát huy giá trị di tích lịch sử, văn hóa Thủ đô Hà

Nội.

27. Phạm Thị Thu Hương (chủ nhiệm) (2013), Nghiên cứu thực trạng và giải

pháp bảo tồn di sản văn hóa tại các vùng đang trong quá trình CNH,

ĐTH ở đồng bằng sông Hồng, Đề tài NCKH cấp Bộ, Trường Đại học

Văn hóa Hà Nội, Hà Nội.

28. Huyện ủy - HĐND, UBND huyện Đan Phượng (2011), Đan Phượng di

tích lịch sử văn hóa và cách mạng, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội.

29. Luật Di sản văn hóa năm 2001 được sửa đổi, bổ sung năm 2009 (2009),

Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

30. Luật Di sản văn hóa được Quốc hội nước Cộng hòa XHCN Việt Nam

thông qua ngày 23/11/2024.

31. Nguyễn Kim Măng (chủ biên) (2022), Tư liệu Hán Nôm di tích đình Đại

Phùng, xã Đan Phượng, huyện Đan Phượng, thành phố Hà Nội.

32. Lê Hồng Lý (2010), Giáo trình quản lý di sản văn hóa với phát triển du

33.

lịch, Nxb. Đại học quốc gia Hà Nội.

Trần Đức Nguyên (2013), Vai trò của cộng đồng trong bảo vệ di tích lịch

sử văn hóa (qua nghiên cứu trường hợp tỉnh Bắc Ninh), Tạp chí Nghiên

cứu văn hóa, Số 6 - tháng 12, trang 55-61.

120

34. Nhiều tác giả (2003), Một số vấn đề văn hóa truyền thống Hà Tây -

Thăng Long, Nxb Hà Tây.

35. Nhiều tác giả (2012), Tổng tập Dư địa chí Việt Nam, t1. Quốc chí, Nxb

Thanh niên.

36. Nguyễn Thị Nguyệt (2012), Thực trạng quản lý nhà nước đối với di tích

lịch sử Đình Đại Phùng, Khóa luận tốt nghiệp ngành Quản lý văn hóa,

Trường đại học Văn hóa Hà Nội.

37. Nguyễn Thành Quang (2014), Quản lý di tích lịch sử văn hóa ở huyện

Đan Phượng, thành phố Hà Nội, Luận văn Thạc sĩ Quản lý văn hóa,

trường Đại học Văn hóa Hà Nội.

38. Thủ tướng chính phủ (2021), Quyết định số 1230/QĐ-TTg ngày

15/7/2021 của Thủ tướng Chính phủ về Phê duyệt Chương trình bảo tồn

và phát huy bền vững giá trị di sản văn hóa Việt Nam giai đoạn

2021-2025

39. Thủ tướng chính phủ (2021), Quyết định số 1909/QĐ-TTg ngày

12/11/2021 của Thủ tướng Chính phủ về việc Phê duyệt Chiến lược phát

triển văn hóa đến năm 2030.

40. Tiêu chuẩn Việt Nam TCVN 10382 : 2024 - Di sản văn hóa và các vấn đề

liên quan - Thuật ngữ và định nghĩa chung.

41. Từ điển Bách khoa (1995), Trung tâm biên soạn từ điển Bách khoa Việt

Nam tập 1.

42. Tư liệu văn hiến Thăng Long - Hà Nội, tuyển tập Địa chí, tập 2 (2010),

Nxb Hà Nội.

43. Sở Văn hóa và Thể thao Hà Nội (2018), Hồ sơ lý lịch di tích quốc gia

đặc biệt đình Đại Phùng.

Sở Văn hóa - Thông tin Hà Tây (2007), Địa chí Hà Tây. 44.

Hà Văn Tấn - Nguyễn Văn Kự (2014), Đình Việt Nam, Nxb Khoa học xã 45.

hội.

46. Nông Thành - Hương Nguyên (2011), Một điểm nổi về di sản văn hóa

qua đình Đại Phùng, Tạp chí Di sản văn hóa, số 1 (34), tr. 99-105.

121

47. Nông Quốc Thành (2001), Giá trị văn hóa nghệ thuật đình làng Đại

Phùng, Luận văn Thạc sĩ Văn hóa học, Trường ĐH Văn hóa Hà Nội.

48. Dương Thị The - Phạm Thị Thoa (1981), Tên làng xã Việt Nam đầu thế

kỷ XIX (Thuộc các tỉnh từ Nghệ Tĩnh trở ra), Nxb Khoa học xã hội.

49. Trương Minh Tiến (2018), “Tăng cường quản lý nhà nước và phân cấp

quản lý có hiệu quả các di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh Hà

Nội”, In trong Kỷ yếu Hội thảo khoa học Bảo tồn và phát huy giá trị di

tích lịch sử, văn hóa Thủ đô Hà Nội.

50. Lưu Trần Tiêu (2002), “Bảo tồn và phát huy di sản văn hóa Việt Nam”,

Tạp chí Văn hóa nghệ thuật, Hà Nội, tr. 25-30.

51. Lưu Trần Tiêu (2011), “Mấy vấn đề về nguồn nhân lực trong hoạt động

bảo tồn di tích lịch sử - văn hóa”, Tạp chí Di sản Văn hóa, số 3, tr 17-21.

52. Lưu Trần Tiêu (2018), “Di sản văn hóa Hà Nội - Một nguồn lực cho phát

triển bền vững”, In trong Kỷ yếu Hội thảo khoa học Bảo tồn và phát huy

giá trị di tích lịch sử, văn hóa Thủ đô Hà Nội.

53. UBND thành phố Hà Nội (2016), Danh mục kiểm kê di tích công bố theo

Quyết định số 5745/QĐ-UBND ngày 14/10/2016 của UBND TP Hà Nội.

54. UBND thành phố Hà Nội (2016), Quyết định số 48/2016/QĐ-UBND

ngày 17/11/2016 của UBND thành phố Hà Nội ban hành Quy chế quản

lý, bảo vệ và phát huy giá trị di tích lịch sử - văn hóa và danh lam thắng

cảnh trên địa bàn thành phố Hà Nội

55. UBND thành phố Hà Nội (2021), Quyết định số 21/2024/QĐ-UBND

ngày 06/3/2024 của UBND thành phố Hà Nội quy định chức năng,

nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Sở Văn hóa và Thể thao

thành phố Hà Nội.

56. UBND huyện Đan Phượng, Đề án Phát triển du lịch huyện Đan Phượng

đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030

57. UBND huyện Đan Phượng (2023), Báo cáo công tác quản lý nhà nước

về di tích và nhu cầu đầu tư tu bổ bổ sung giai đoạn 2023-2025 và

những năm tiếp theo.

122

58. UBND huyện Đan Phượng (2023), Quyết định số 02/2023/QĐ-UBND

ngày 14/4/2023 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ

chức của Phòng Văn hóa và Thông tin huyện Đan Phượng.

59. UBND huyện Đan Phượng (2024), Báo cáo công tác quản lý nhà nước

về di sản văn hóa huyện Đan Phượng

60. UBND xã Đan Phượng (2022), Quyết định số 1261/QĐ-UBND ngày

13/4/2022 quy định quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu

tổ chức của BQL Di tích xã Đan Phượng.

61. UBND xã Đan Phượng (2024), Quyết định số 71/QĐ-UBND ngày

15/4/2024 về việc kiện toàn Ban Quản lý di tích xã Đan Phượng

62. UNESCO (1972), Công ước về Bảo vệ Di sản văn hóa và Thiên nhiên

Thế giới

63. Nguyễn Như Ý (chủ biên) (2008), Đại từ điển tiếng Việt, Nxb Đại học

Quốc gia TP Hồ Chí Minh, thành phố Hồ Chí Minh.

BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC VĂN HÓA HÀ NỘI

BÙI THỊ NGỌC DIỆP

123

BẢO VỆ VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ DI TÍCH ĐÌNH ĐẠI

PHÙNG

(XÃ ĐAN PHƯỢNG, HUYỆN ĐAN PHƯỢNG,

THÀNH PHỐ HÀ NỘI)

PHỤ LỤC LUẬN VĂN

HÀ NỘI - 2025

MỤC LỤC PHỤ LỤC

Phụ lục số 1: Danh sách người trả lời phỏng vấn 127

Phụ lục số 2: Một số văn bản liên quan đến bảo vệ và phát huy giá trị di tích 128

124

Phụ lục số 3: Một số hình ảnh di tích, hoạt động bảo vệ và phát huy giá trị di tích đình Đại Phùng 159

125

Phụ lục 1. DANH SÁCH NGƯỜI TRẢ LỜI PHỎNG VẤN

STT Họ và tên Nghề nghiệp Địa chỉ

1 Tạ Đăng Sáng Cán bộ văn hóa xã hội Xã Đan Phượng, huyện

Đan Phượng

2 Nguyễn Văn Tiếp Phó trưởng Tiểu Ban Thôn Đại Phùng, xã Đan

Quản lý di tích Phượng

3 Bùi Vinh Thủy Ủy viên Tiểu Ban Quản Thôn Đại Phùng, xã Đan

lý di tích Phượng

4 Nguyễn Văn An Thành viên Tiểu Ban Thôn Đại Phùng, xã Đan

Quản lý di tích Phượng

5 Nguyễn Đức Thuận Phó trưởng phòng Phòng Văn hóa và Thông

tin huyện Đan Phượng

6 Nguyễn Văn Tuấn Sinh viên Đại học Công nghiệp Hà

Nội

7 Trần Ngọc Hương Sinh viên Đại học Quốc gia Hà Nội

8 Lê Thị Thanh Lan Nhân viên văn phòng Thị trấn Phùng, huyện Đan

Phượng

9 Tạ Thị Loan Doanh nghiệp tư nhân Xã Đan Phượng, huyện

Hoài Đức

10 Bùi Ngọc Sơn Nhân viên văn phòng Cầu Giấy, Hà Nội

126

Phụ lục 2.

MỘT SỐ VĂN BẢN LIÊN QUAN ĐẾN

BẢO VỆ VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ DI TÍCH

Quyết định số 1539-QĐ của Bộ Văn hóa Thông tin Thể thao và Du lịch công nhận di tích đình Đại Phùng là di tích kiến trúc nghệ thuật

127

128

Quyết định số 1954/QĐ-TTg ngày 31/12/2019 của Thủ tướng chính phủ công nhận di tích đình Đại Phùng là di tích quốc gia đặc biệt

129

130

131

Quyết định số 71/QĐ-UBND ngày 15/4/2024của Ủy ban nhân dân xã Đan Phượng về việc kiện toàn Ban Quản lý di tích xã Đan Phượng

132

133

Quyết định số 01/QĐ-BQLDT ngày 15/4/2024 của Ban Quản lý di tích xã Đan Phượng quyết định về việc ban hành Quy chế hoạt động của Ban Quản lý di tích xã Đan Phượng

134

135

136

137

138

139

140

141

142

143

144

145

146

147

148

149

150

151

152

153

154

155

156

157

158

Phụ lục số 3: MỘT SỐ HÌNH ẢNH VỀ HOẠT ĐỘNG BẢO TỒN, PHÁT HUY GIÁ TRỊ DI TÍCH ĐÌNH ĐẠI PHÙNG

Ảnh số 1: Toàn cảnh di tích đình Đại Phùng [Nguồn: tác giả chụp, tháng 10/2024]

Ảnh số 2-3: Bản đồ khoanh vùng các khu vực bảo vệ di tích đình Đại Phùng [Nguồn: BQL Di tích đình Đại Phùng]

159

Ảnh 4: Trang trí trên cốn tại gian giữa Đình làng Đại Phùng [Nguồn: tác giả chụp, tháng 10/2024]

Ảnh 5: Trang trí tiên có cánh, người và rồng trên cột và cốn Đình làng Đại Phùng

160

[Nguồn: tác giả chụp, tháng 10/2024]

Ảnh 6-7-8-9: Một số hình tượng điêu khắc trang trí trên kết cấu kiến trúc Đình làng Đại Phùng [Nguồn: tác giả chụp, tháng 10/2024]

161

Ảnh 10 - 11: Lễ đón nhận bằng xếp hạng di tích quốc gia đặc biệt Đình Đại Phùng [Nguồn: tác giả chụp, tháng 2/2025]

162

Ảnh 12: Trang trí trong làng nhân ngày đón nhận bằng xếp hạng di tích quốc gia đặc biệt Đình Đại Phùng [Nguồn: tác giả chụp, tháng 2/2025]

Ảnh 13: Bằng xếp hạng di tích quốc gia đặc biệt Đình Đại Phùng [Nguồn: tác giả chụp, tháng 2/2025]

163

Ảnh 14: Sơ đồ tổng thể Lễ đón bằng xếp hạng di tích quốc gia đặc biệt [Nguồn: tác giả chụp, tháng 2/2025]

Ảnh 15: Nhân dân đóng góp hiện vật cho di tích tổ chức lễ hội năm 2023 [Nguồn: BQL Di tích cung cấp]

Ảnh 17: Nhân dân chuẩn bị lễ hội

đình Đại Phùng

164

Ảnh 16: Bia ghi danh công đức tu bổ, sửa sang đình Đại Phùng

Ảnh 18 – 19: Hệ thống camera theo dõi an ninh tại di tích

[Nguồn: tác giả chụp, tháng 10/2024]

165

Ảnh 20 – 21: Hệ thống phòng cháy chữa cháy tại di tích

[Nguồn: tác giả chụp, tháng 10/2024]

Ảnh 22 – 23: Tường của di tích bị xối nước, nấm mốc hư hại

[Nguồn: tác giả chụp, tháng 10/2024]

166

Ảnh 24 – 25: Các đầu dư của bộ mái đã có nhiều dấu hiệu bị mục nát

[Nguồn: tác giả chụp, tháng 10/2024]

Ảnh 26: Tường bao toà hậu cung bị ngấm nước mưa, rêu mốc xuất hiện

[Nguồn: tác giả chụp, tháng 10/2024

167

Ảnh 27: Ô nhiễm hồ nước trước di tích

[Nguồn: tác giả chụp, tháng 10/2024

Ảnh 28: Đường giao thông, họp chợ sát kề di tích

[Nguồn: tác giả chụp, tháng 10/2024

168

Một số Hồ sơ khoa học hiện vật di tích đình Đại Phùng

169

170