ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

LÊ KHÁNH LY SỬ DỤNG TÀI LIỆU VĂN HỌC TRONG DẠY HỌC LỊCH SỬ VIỆT NAM LỚP 10 Ở TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG THÀNH PHỐ THÁI NGUYÊN LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ THÁI NGUYÊN, NĂM 2020

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

LÊ KHÁNH LY SỬ DỤNG TÀI LIỆU VĂN HỌC TRONG DẠY HỌC LỊCH SỬ VIỆT NAM LỚP 10 Ở TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG THÀNH PHỐ THÁI NGUYÊN Ngành: LỊCH SỬ VIỆT NAM Mã số: 8229013

LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ

Người hướng dân khoa học: TS. LÊ THỊ THU HƯƠNG

THÁI NGUYÊN, NĂM 2020

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu

và kết quả nghiên cứu trong luận văn này là trung thực, không trùng lặp với các

đề tài khác và chưa từng được ai công bố ở bất cứ tài liệu nào.

Thái Nguyên, tháng 06 năm 2020

Học viên

Lê Khánh Ly

i

LỜI CẢM ƠN

Trong quá trình tìm hiểu, nghiên cứu và hoàn thiện đề tài luận văn của mình, tôi

đã nhận được rất nhiều động viên, tạo điều kiện thuận lợi để hoàn thành nhiệm vụ.

Trước tiên, tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô khoa Lịch sử - Trường Đại

học Sư phạm Thái Nguyên đã giúp đỡ tôi trong quá trinh học tập, rèn luyện. Đặc biệt,

tôi xin gửi lời chân thành cảm ơn đến cán bộ hướng dẫn nghiên cứu - TS. Lê Thị Thu

Hương đã tận tình hướng dẫn, chỉ dạy trong suốt quá trình thực hiện đề tài.

Sau cùng, tôi xin tỏ lòng biết ơn đến cha mẹ, người thân và đồng nghiệp đã luôn

bên cạnh ủng hộ, động viên tôi trong thời gian hoàn thành luận văn thạc sĩ.

Vì thời gian và điều kiện bản thân chưa cho phép nên trong quá trình nghiên

cứu, thực nghiệm sư phạm chắc chắn không tránh khỏi sai sót. Tôi mong nhận được ý

kiến đóng góp chân thành từ các thầy cô giáo, các bạn đồng nghiệp để đề tài được hoàn

thiện hơn và sẽ rút ra những bài học kinh nghiệm cho việc đổi mới phương pháp nâng

cao chất lượng dạy học lịch sử trường trung học phổ thông trên địa bàn thành phố Thái

Nguyên.

Thái Nguyên, tháng 6 năm 2020

Tác giả

Lê Khánh Ly

ii

MỤC LỤC

LỜI CAM ĐOAN .......................................................................................................... i

LỜI CẢM ƠN ............................................................................................................... ii

MỤC LỤC ................................................................................................................... iii

NHỮNG CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN ...................................................... v

DANH MỤC CÁC BẢNG TRONG LUẬN VĂN...................................................... vi

DANH MỤC CÁC HÌNH TRONG LUẬN VĂN ...................................................... vii

MỞ ĐẦU ...................................................................................................................... 1

1. Lý do chọn đề tài ...................................................................................................... 1

2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ........................................................................................ 3

3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu ................................................................................ 6

4. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu ............................................................................... 6

5. Cơ sở phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu ............................................. 7

6. Giả thuyết khoa học và đóng góp của luận văn ........................................................ 7

7. Ý nghĩa của luận văn ................................................................................................ 8

8. Cấu trúc đề tài ........................................................................................................... 8

Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC SỬ DỤNG TÀI

LIỆU VĂN HỌC TRONG DẠY HỌC LỊCH SỬ VIỆT NAM LỚP 10 Ở

TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG THÀNH PHỐ THÁI NGUYÊN .......... 9

1.1. Cơ sở lý luận .......................................................................................................... 9

1.1.1. Quan niệm về tài liệu văn học trong dạy học lịch sử ở trường phổ thông ......... 9

1.1.2. Các loại tài liệu văn học trong dạy học lịch sử ở trường phổ thông. ................ 11

1.1.3. Xuất phát điểm của vấn đề nghiên cứu ............................................................. 15

1.1.4. Vai trò, ý nghĩa của việc sử dụng tài liệu văn học trong dạy học lịch sử ở

trường phổ thông ......................................................................................................... 19

1.2. Cơ sở thực tiễn ..................................................................................................... 23

1.2.1. Địa điểm, thời gian, đối tượng khảo sát ............................................................ 23

1.2.2. Kế hoạch và nội dung tiến hành khảo sát ......................................................... 23

1.2.3. Kết quả điều tra, khảo sát. ................................................................................ 24

1.2.4. Nhận xét chung về thực trạng sử dụng tài liệu văn học trong dạy học lịch

sử Việt Nam lớp 10 ở trường THPT thành phố Thái Nguyên .................................... 28

iii

Chương 2. CÁC BIỆN PHÁP SỬ DỤNG TÀI LIỆU VĂN HỌC TRONG

DẠY HỌC LỊCH SỬ VIỆT NAM LỚP 10 Ở TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ

THÔNG THÀNH PHỐ THÁI NGUYÊN............................................................... 30

2.1. Khái quát mục tiêu, nội dung cơ bản của Lịch sử Việt Nam lớp 10 ở trường

phổ thông .................................................................................................................... 30

2.1.1. Mục tiêu ............................................................................................................ 30

2.1.2. Nội dung kiến thức lịch sử Việt Nam lớp 10 .................................................... 31

2.2. Các loại tài liệu văn học có thể sử dụng trong dạy học lịch sử Việt Nam lớp

10 ở trường phổ thông ................................................................................................ 40

2.3. Những yêu cầu khi sử dụng tài liệu văn học trong dạy học lịch sử Việt Nam

lớp 10 ở trường trung học phổ thông thành phố Thái Nguyên ................................... 42

2.3.1. Đảm bảo đạt được mục tiêu dạy học ................................................................ 42

2.3.2. Tạo được hứng thú học tập cho học sinh .......................................................... 43

2.3.3. Tài liệu văn học phải đảm bảo tính khoa học, tính tư tưởng ............................ 43

2.3.4. Phải phát triển năng lực học tập của học sinh. ................................................. 44

2.4. Các biện pháp sử dụng tài liệu văn học trong dạy học Lịch sử Việt Nam lớp

10 ở trường phổ thông ................................................................................................ 45

2.4.1. Sử dụng tài liệu văn học trong bài học nội khóa .............................................. 45

2.4.2. Sử dụng tài liệu văn học trong hoạt động ngoại khóa. ..................................... 53

2.5. Thực nghiệm sư phạm ......................................................................................... 61

2.5.1. Mục đích tiến hành thực nghiệm sư phạm. ....................................................... 61

2.5.2. Đối tượng, địa bàn và giáo viên thực nghiệm ................................................... 61

2.5.3. Nội dung và phương pháp thực nghiệm ........................................................... 62

2.5.4. Đánh giá kết quả thực nghiệm sư phạm ........................................................... 63

2.5.5. Tổng hợp ý kiến GV thực nghiệm .................................................................... 67

KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ .................................................................................. 70

TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................................ 73

PHỤ LỤC ................................................................................................................... 76

iv

NHỮNG CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN

VIẾT TẮT VIẾT ĐẦY ĐỦ

DHLS Dạy học lịch sử

ĐDTQ Đồ dùng trực quan

ĐC Đối chứng

GV Giáo viên

HĐKD Hoạt động khởi động

HS Học sinh

LSVN Lịch sử Việt Nam

NXB Nhà xuất bản

PPDH Phương pháp dạy học

PT Phổ thông

SGK Sách giáo khoa

THPT Trung học phổ thông

TLVH Tài liệu văn học

TNSP Thực nghiệm sư phạm

TN Thực nghiệm

TPVH Tác phẩm văn học

v

DANH MỤC CÁC BẢNG TRONG LUẬN VĂN

Bảng 2.1. Thống kê những tác phẩm có thể sử dụng trong chương trình lịch sử 10 ...... 40

Bảng 2.2. Tổng hợp điểm kiểm tra .......................................................................... 65

Bảng 2.3. Thống kê tần số lần điểm tại các giá trị điểm số của các lớp TN và ĐC

từ kết quả TNSP ...................................................................................... 65

Bảng 2.4. Bảng tổng hợp điểm trung bình cộng và lệch chuẩn của nhóm TN và ĐC ........ 66

Bảng 2.5. Giá trị t và tα của nhóm thực nghiệm và nhóm đối chứng ..................... 67

vi

DANH MỤC CÁC HÌNH TRONG LUẬN VĂN

Hình 2.1. Biểu đồ sánh tỉ lệ giữa lớp TN và lớp ĐC nhóm I ...................................... 65

Hình 2.2. Biểu đồ sánh tỉ lệ giữa lớp TN và lớp ĐC nhóm II .................................... 66

vii

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Trong xu thế toàn cầu hóa đang diễn ra mạnh mẽ hiện nay, các nước trên thế

giới luôn ra sức nâng cao năng lực cạnh tranh để tồn tại, phát triển cũng như hợp tác

với nhau để cùng phát huy các thế mạnh thì giáo dục đã trở thành chiến lược quan trọng

của bất kì quốc gia nào trên thế giới. Nền giáo dục có phát triển thì đất nước mới thực

sự vững mạnh. Nắm được quy luật đó, Đảng và Nhà nước ta đã đặt giáo dục lên vị trí

ưu tiên hàng đầu, luôn trau dồi, học hỏi những kinh nghiệm trong nền giáo dục quốc

tế.

Trong những năm gần đây, cùng với sự phát triển tích cực của giáo dục thế giới,

giáo dục Việt Nam cũng đã đổi mới đồng bộ và toàn diện theo hướng “Đổi mới mạnh

mẽ phương pháp giáo dục và đào tạo, khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện

nếp tư duy sáng tạo người học. Từng bước áp dụng các phương pháp tiên tiến và

phương tiện hiện đại vào dạy học, đảm bảo điều kiện và thời gian tự học, tự nghiên

cứu cho HS” [22; tr.43]. Đặc biệt gần đây, Nghị quyết Trung ương VIII khóa XI, Đảng

ta đã nhấn mạnh: “Phát triển giáo dục và đào tạo là nâng cao dân trí, đào tạo nhân

lực, bồi dưỡng nhân tài. Chuyển mạnh giáo dục từ chủ yếu trang bị kiến thức sang phát

triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học. Học đi đôi với hành; lí luận gắn liền

với thực tiễn; giáo dục nhà trường kết hợp với giáo dục gia đình và giáo dục xã hội”

[8; tr.13]. Đây chính là những cơ sở pháp lí cho việc đổi mới và nâng cao chất lượng

DHLS ở trường PT.

Trong chương trình giáo dục PT ở Việt Nam, Lịch sử là một bộ môn có vai trò

quan trọng trong quá trình giáo dục, phát triển thế hệ trẻ hiện nay, “góp phần hình

thành ở HS thế giới quan khoa học, giáo dục lòng yêu quê hương, đất nước, truyền

thống dân tộc, cách mạng, bồi dưỡng các năng lực tư duy hoạt động, thái độ đúng đắn

trong cuộc sống” [4; tr.3]. Học tập Lịch sử, không những đem lại cho HS nhiều sự hiểu

biết hơn về quá khứ mà còn giúp mở rộng tầm nhìn về hiện tại và tương lai.

Lý luận dạy học đã giúp chúng ta nhận thức được rằng phải đa dạng hóa các

nguồn thông tin bằng nhiều phương tiện, PPDH, trong đó tài liệu tham khảo là nguồn

kiến thức không thể thiếu được trong quá trình dạy học.

1

TLVH là một nguồn tài liệu lịch sử không thể thiếu trong DHLS, đặc biệt là lịch

sử dân tộc. Với bản chất vốn có, lịch sử là những sự kiện, hiện tượng diễn ra trong quá

khứ, HS khó học, khó nhớ cho nên khi sử dụng TLVH vào quá trình DHLS không

những giúp HS hình dung đa dạng về quá khứ, tạo được biểu tượng sinh động, chính

xác về các sự kiện, hiện tượng lịch sử mà còn giúp các em có thể dễ dàng lĩnh hội các

thuật ngữ, hình thành các khái niệm lịch sử, nắm được những kết luận khoa học mang

tính khái quát, dễ hiểu bài, dễ tiếp thu, tạo cho HS không khí thoải mái khi học tập,

hình thành sự hứng thú đối với môn học. Bên cạnh đó, việc sử dụng TLVH trong DHLS

còn nâng cao chất lượng giáo dục tư tưởng, tình cảm, đạo đức và hình thành nhân cách

cho HS. Có những TPVH gắn liền với tên địa danh, tên người cụ thể, gần gũi với cuộc

sống, qua đó mà gợi ở các em lòng biết ơn, tôn kính cha anh; góp phần bồi dưỡng tình

yêu quê hương đất nước.

Có thể nói, lịch sử là một môn khoa học có liên quan tới tất cả các lĩnh vực của

đời sống kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội …Chúng ta có thể tìm thấy lịch sử trong hầu

hết các môn khoa học. Nhưng gần gũi nhất với lịch sử chính là ngành khoa học Xã hội

- Nhân văn, trong đó nổi bật là bộ môn Văn học.

Thực tiễn DHLS ở các trường THPT trên địa bàn thành phố Thái Nguyên hiện

nay, mặc dù GV đã có cố gắng trong việc sử dụng TLVH trong DHLS, đưa môn Lịch

sử gần gũi hơn với HS nhưng vẫn tồn tại một số hạn chế nhất định: TLVH còn nghèo

nàn, nhiều GV vẫn chưa thực sự quan tâm đầu tư công sức và thời gian vào việc tìm

kiếm nguồn TLVH để phục vụ công tác dạy và học, việc sử dụng TLVH chỉ dừng lại

ở mức độ giới thiệu qua loa, chứ chưa coi đây cũng là một nguồn bổ sung kiến thức và

phát triển các phẩm chất và năng lực cần thiết của HS. Trong quá trình lên lớp, GV

còn lúng túng, sử dụng TLVH còn gượng gạo, chưa lựa chọn TLVH sao cho phù hợp

với từng bài học cụ thể.

Xuất phát từ những lí do trên, với cương vị là một GV đang trực tiếp giảng dạy

môn Lịch sử ở trường PT, tôi luôn trăn trở “làm thế nào để lựa chọn được một hệ thống

TLVH phù hợp cho mỗi bài học? Đồng thời, sử dụng các tài liệu ấy một cách nhuần

nhuyễn giúp HS hứng thú với học tập lịch sử, và TLVH thực sự là nguồn bổ sung kiến

thức bổ ích góp phần phát huy tính tích cưc học tập của HS. Vì vậy, chúng tôi chọn đề

2

tài: “Sử dụng tài liệu văn học trong dạy học Lịch sử Việt Nam lớp 10 ở trường trung

học phổ thông thành phố Thái Nguyên” làm đề tài nghiên cứu luận văn thạc sĩ khoa

học giáo dục, chuyên ngành Lịch sử Việt Nam.

2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề

2.1. Các công trình nghiên cứu ở nước ngoài

Tác giả B.P.Êxipốp trong cuốn “Những cơ sở của lí luận dạy học” (NXB Giáo

dục, Hà Nội, 1971) đã khẳng định: “Điều kiện cơ bản để đạt hiệu trong dạy học là tính

tích cực của HS trong quá trình đó. Điều này phụ thuộc trước hết vào sự kích thích

hoạt động nhận thức và thực hành của HS do GV tạo nên” [14; tr.135]. Tác giả đã chỉ

ra vai trò của người GV đối với việc định hướng hoạt động học tập của HS. Rõ ràng,

người GV không đóng vai trò trung tâm nhưng có vị trí quan trọng trong quá trình lựa

chọn phương pháp và tổ chức dạy học để nâng cao chất lượng dạy học của bộ môn.

Tùy theo năng lực của mình, GV sẽ sử dụng PPDH phù hợp nhất mà trong đó việc sử

dụng TLVH trong DHLS là một trong những lựa chọn tối ưu cho việc kích thích sự

hứng thú học tập của HS.

Hay theo tác giả I.F.Khalamốp trong cuốn“Phát huy tính tích cực học tập của

HS như thế nào?” đã cho rằng: “Vấn đề sử dụng SGK và tài liệu học tập... có lịch sử

của nó mà theo chúng tôi có những điều bổ ích đáng học hỏi...” bởi lẽ “... trong quá

trình làm việc với SGK và tài liệu học tập, học sinh nắm vững và củng cố được kiến

thức, đồng thời các em tiếp thu được kỹ năng, kĩ xảo” [25; tr.37]. Bên cạnh đó, tác giả

còn khẳng định: “Tài liệu học tập tự nó đã chứa đựng nhiều yếu tố kích thích động viên

tính ham hiểu biết và tính tích cực tư duy của HS” [25; tr.88]. Theo ông, tài liệu học

tập rất quan trọng trong việc dạy học, nó là loại tài liệu thực sự cần thiết bởi chính trong

bản thân mỗi loại tài liệu đã chứa những yếu tố kích thích tính tự giác, tính sáng tạo, tư

duy độc lập hay sự hứng thú cho quá trình dạy học tùy thuộc vào từng PPDH của GV.

A.A.Vaghin trong cuốn “Phương pháp giảng dạy Lịch sử ở trường phổ thông

trung học”, đã khẳng định: “Tài liệu kiến thức lịch sử chiếm một vị trí quan trọng trong

khoá trình lịch sử ở trường PT. Việc lĩnh hội tài liệu ấy là điều kiện cần thiết để làm

cho học sinh có quan niệm Mác xit -Lênin nít về lịch sử” [46, tr. 19].

3

Hay khi tác giả N.G.Đai ri trong cuốn “Chuẩn bị giờ học Lịch sử như thế nào”

đề cập đến những yêu cầu đối với giờ học Lịch sử, ông đã đưa khẳng định về vai trò và

tầm quan trọng của nguồn tài liệu tham khảo. Ông cho rằng: để có một giờ học lịch sử

thực sự hiệu quả thì yêu cầu GV bên cạnh việc nắm rõ những thành tựu của khoa học

lịch sử, khoa học giáo dục, những vấn đề mà khoa học đang giải quyết và hiểu biết tất

cả những hiện tượng quan trọng nhất của đời sống chính trị, xã hội, văn hoá ...thì “phải

sử dụng không ngừng và có hệ thống tất cả mọi nguồn tư liệu muôn hình muôn vẻ: tác

phẩm kinh điển, văn kiện của Đảng và Nhà nước, sách chuyên khảo, SGK, sách báo

tạp chí, tác phẩm hội hoạ, những cuộc tham quan” [20, tr.10]. Bởi lẽ, bất kì tài liệu

nào cũng có vai trò nâng cao sự hiểu biết của HS về quá khứ lên một trình độ mới. Do

vậy, bên cạnh việc khẳng định vai trò và tầm quan trọng của các nguồn tài liệu trong

DHLS, tác giả đã khái quát thành sơ đồ, định hướng cho GV biết cách khai thác nội

dung trong SGK kết hợp với phần tài liệu tham khảo để đưa vào trong những giờ DHLS

của mình sao cho chính xác, phù hợp nhất như quan điểm của ông đã nhấn mạnh: Phải

“lựa chọn tài liệu khéo léo, nhằm mục đích làm cho giờ học đem lại sự phong phú về

mặt kiến thức, tình cảm, tư duy, ý nghĩa của chúng đối với sự hình thành khái niệm,

đối với việc phát triển tư duy và giáo dục đạo đức cho HS đưa vào bài học tất cả những

yếu tố cần thiết cho việc xây dựng nhận thức lịch sử hoàn chỉnh” [20, tr.25]

Trên đây là một số công trình nghiên cứu của các tác giả nước ngoài, tất cả đều

nhấn mạnh sự cần thiết của việc sử dụng tài liệu dạy học ở trường phổ thông bởi nó

góp phần nâng cao kiến thức, bồi dưỡng tư tưởng tình cảm và phát huy được các năng

lực nhận trong học tập của HS. Bên cạnh đó, các tác giả đã đưa ra những cơ sở lý luận,

cung cấp thêm những kinh nghiệm thực tiễn quý giá cho việc sử dụng tài liệu học tập

sao cho phù hợp đặc trưng của từng vùng miền, từng đối tượng, từng cấp học ... Đây

chính là cơ sở quan trọng đầu tiên định hướng cho chúng tôi trong quá trình thực hiện

đề tài của mình.

2.2. Các công trình nghiên cứu ở trong nước

Trong cuốn “Đổi mới phương pháp DHLS ở trường phổ thông” do GS.TS. Phan

Ngọc Liên chủ biên (NXB Đại học sư phạm Hà Nội, 2005), GS.TS Phan Ngọc Liên đã

chỉ ra sự cần thiết trong việc cải tiến PPDHLS truyền thống là cần thiết. Bởi lẽ, trong

PPDH truyền thống “nguồn kiến thức thu nhận của HS rất hạn hẹp, thường giới hạn ở

4

các bài giảng của giáo viên, sách giáo khoa” [31; tr.55], do vậy, nếu sử dụng PPDH

mới trong đó việc tăng cường sử dụng các loại tài liệu tham khảo cần thiết thì chất

lượng bài giảng sẽ có sự cải thiện đáng kể so với PPDH truyền thống.

Cũng trong cuốn: “Đổi mới phương pháp dạy học Lịch sử ở trường phổ thông”

do GS.TS. Phan Ngọc Liên chủ biên (NXB Đại học Sư phạm, Hà Nội, 2005), TS.

Nguyễn Anh Dũng đã chỉ ra quan hệ giữa các môn khoa học xã hội ở trường PT “xuất

phát từ mối quan hệ chặt chẽ giữa các khoa học Lịch sử, Văn học, Địa lý, Giáo dục công

dân. Các khoa học này tuy có đối tượng nghiên cứu khác nhau để tồn tại và phát triển

(không có đối tượng sẽ không có khoa học), song trên một mặt nào đó lại cùng chung

một khách thể - xã hội và đời sống con người. Vì vậy, khi nghiên cứu và học tập, kiến

thức của những môn này hỗ trợ cho nhau, giúp HS nhận thức sâu sắc về xã hội và đời

sống của con người” [31; tr.99] Cho nên “Việc tích hợp kiến thức các môn học, chủ yếu

về khoa học xã hội, đem lại nhiều kết quả: tiết kiệm thời gian dạy học, củng cố và phát

triển kiến thức lịch sử, phát huy tính tích cực, năng động của HS và gây hứng thú học

tập. Do đó, chất lượng dạy học bộ môn được nâng lên”[31, tr.102].

Tác giả Trịnh Đình Tùng trong cuốn “Phương pháp dạy học lịch sử” (NXB Đại

học Sư phạm, Hà Nội, 2010) , đã khẳng định: “Do đặc trưng của việc học tập lịch sử,

các loại tài liệu tham khảo, học tập khác (ngoài sách giáo khoa) góp phần nhất định

vào việc khôi phục, tái hiện hình ảnh quá khứ. Các loại tài liệu này là căn cứ khoa học,

bằng chứng về tính chính xác, tính cụ thể, phong phú của sự kiện lịch sử mà HS cần

thu nhận; nó giúp các em khắc phục việc “hiện đại hoá” lịch sử, hoặc “hư cấu” sai sự

thực” [33, tr.66].

Cũng tác giả Trịnh Đình Tùng, trong cuốn: “Hệ thống các phương pháp dạy học

lịch sử ở trường trung học cơ sở”(NXB Đại học Sư phạm, Hà Nội, 2006) ông cho

rằng: “Các tác phẩm văn học có vị trí, vai trò to lớn trong việc dạy học lịch sử... các

tác phẩm văn học bằng hình tượng cụ thể, có tác động mạnh mẽ đến tư tưởng, tình cảm

người đọc, trình bày những nét đặc trưng, điển hình của đời sống xã hội. Giữa văn học

và các khoa học nói chung, Sử học nói riêng có mối quan hệ khăng khít... Sử dụng các

TPCH sẽ có tác dụng làm cho bài giảng lịch sử thêm sinh động, hấp dẫn, nâng cao

hứng thú học tập của HS” [45, tr. 123]

5

Như vậy, các công trình nghiên cứu đã chỉ rõ những cơ sở lý luận về việc sử

dụng tài liệu tham khảo nói chung và TLVH nói riêng trong quá trình DHLS. Các tác

giả đã khẳng định vai trò, ý nghĩa của việc sử dụng tài liệu tham khảo, đồng thời chỉ ra

các cách sử dụng tài liệu để đạt hiệu quả cao nhất. Từ những kết quả nghiên cứu có giá

trị nêu trên, chúng tôi xin tiếp thu, chọn lọc và nghiên cứu sâu hơn việc sử dụng TLVH

sao cho phù hợp với đặc trưng của địa bàn thành phố Thái Nguyên, nhằm tạo hứng thú

học tập cho HS trong việc DHLS dân tộc, đồng thời tìm ra những biện pháp để giúp

GV đỡ lúng túng hơn, đạt hiệu quả cao hơn khi sử dụng loại tài liệu này.

3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu

3.1. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của luận văn là quá trình sử dụng TLVH trong DHLS

Việt Nam lớp 10 ở trường phổ thông, các biện pháp sử dụng TLVH trong DHLS Việt

Nam lớp 10 ở trường THPT thành phố Thái Nguyên.

3.2. Phạm vi nghiên cứu

Luận văn nghiên cứu những vấn đề lí luận về việc sử dụng TLVH nói chung và

việc sử dụng TLVH trong quá trình DHLS ở trường PT nói riêng.

Luận văn nghiên cứu những biện pháp sử dụng TLVH có thể thực hiện trong

DHLS Việt Nam lớp 10 ở các trường THPT thành phố Thái Nguyên.

Trong quá trình thực hiện đề tài, chúng tôi đã tiến hành điều tra thực tế tại các trường

THPT thành phố Thái Nguyên để tiến hành TNSP các biện pháp mà luận văn đề xuất.

4. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu

4.1. Mục đích

Trên cơ sở khẳng định tầm quan trọng của việc sử dụng TLVH trong DHLS, đề tài

đi sâu vào việc đề xuất những biện pháp sử dụng TLVH trong DHLS Việt Nam lớp 10 ở

trường THPT thành phố Thái Nguyên trong các bài nội khóa và hoạt động ngoại khóa.

4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Để đạt được mục đích trên, luận văn đã giải quyết các nhiệm vụ cụ thể sau:

- Tìm hiểu những tài liệu tâm lí học, giáo dục học và giáo dục lịch sử để làm rõ

cơ sở lí luận về việc sử dụng tài liệu tham khảo nói chung và TLVH nói riêng trong

DHLS ở trường THPT.

- Điều tra thực trạng sử dụng TLVH trong DHLS Việt Nam ở các trường THPT

thành phố Thái Nguyên

6

- Tìm hiểu chương trình, SGK lịch sử lớp 10 (chương trình chuẩn, nội dung lịch

sử Việt Nam) để xác định các loại TLVL có thể sử dụng và các hình thức sử dụng

TLVH trong DHLS Việt Nam.

- Đề xuất một số biện pháp sử dụng TLVH trong DHLS Việt Nam lớp 10 nhằm

nâng cao chất lượng DHLS.

- Tiến hành TNSP để rút ra những kết luận về tính khả thi của các biện pháp sư

phạm mà luận văn đề xuất.

5. Cơ sở phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu

5.1. Cơ sở phương pháp luận

Cơ sơ phương pháp luận của luận văn dựa trên những quan điểm của chủ nghĩa

Mác - Lênin về nhận thức và giáo dục; quan điểm đường lối của Đảng, tư tưởng Hồ Chí

Minh về công tác giáo dục đào tạo nói chung và giáo dục lịch sử nói riêng.

5.2. Phương pháp nghiên cứu

Để thực hiện đề tài, chúng tôi chủ yếu sử dụng các phương pháp nghiên cứu

khoa giáo dục cụ thể sau:

- Tìm hiểu, nghiên cứu các tài liệu về giáo dục học và tâm lí học, giáo dục lịch

sử, các PHDH của bộ môn. Nghiên cứu chương trình, nội dung SGK lớp 10 - phần lịch

sử Việt Nam, xác định mục tiêu về kiến thức, kĩ năng, thái độ để đề xuất các phương

pháp và các biện pháp sư phạm nhằm nâng cao chất lượng DHLS Việt Nam.

- Nghiên cứu thực tiễn việc sử dụng TLVH ở trường THPT thông qua dự giờ,

quan sát, điều tra xã hội học, phỏng vấn GV, HS, các cán bộ quản lí giáo dục. Ngoài ra

còn lắng nghe những chia sẻ từ đồng nghiệp dựa trên cơ sở công tác thực tế của họ.

- Soạn bài TNSP theo những biện pháp đã đề xuất trong luận văn và tiến hành TNSP.

- Sử dụng phương pháp thống kê toán học, tập hợp và xử lí số liệu đã thu được

để tiến hành phân tích, nhận xét, rút ra kết luận và nêu kiến nghị.

6. Giả thuyết khoa học và đóng góp của luận văn

6.1. Giả thuyết khoa học

Trong quá trình DHLS Việt Nam lớp 10, nếu GV sử dụng các biện pháp sư phạm

mà luận văn đề xuất, phù hợp với đối tượng HS và các điều kiện cụ thể của nhà trường sẽ

góp phần nâng cao chất lượng DHLS Việt Nam ở trường THPT thành phố Thái Nguyên.

7

6.2. Đóng góp của luận văn

Kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ góp phần:

- Tiếp tục khẳng định vai trò, ý nghĩa của TLVH trong DHLS nói chung và

DHLS Việt Nam lớp 10 nói riêng.

- Đánh giá đúng thực trạng việc sử dụng TLVH trong DHLS Việt Nam ở trường

THPT thành phố Thái Nguyên hiện nay.

- Đề xuất những biện pháp sư phạm trong việc sử dụng TLVH nhằm nâng cao

chất lượng DHLS Việt Nam lớp 10 ở trường THPT thành phố Thái Nguyên.

7. Ý nghĩa của luận văn

7.1. Về mặt khoa học

Luận văn góp phần làm phong phú, đa dạng thêm lí luận và PPDH của bộ môn

về vấn đề sử dụng TLVH nhằm nâng cao chất lượng DHLS Việt Nam lớp 10 ở trường

THPT hiện nay.

7.2. Ý nghĩa thực tiễn

Luận văn là nguồn tài liệu giúp GV lịch sử ở trường THPT thành phố Thái

Nguyên sử dụng vào quá trình dạy học nhằm nâng cao chất lượng DHLS hiện nay.

8. Cấu trúc đề tài

Ngoài mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung của luận văn

được cấu trúc thành hai chương:

Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc sử dụng tài liệu văn học trong dạy

học Lịch sử Việt Nam lớp 10 ở trường trung học phổ thông thành phố Thái Nguyên.

Chương 2: Các biện pháp sử dụng tài liệu văn học trong dạy học Lịch sử Việt

Nam lớp 10 ở trường trung học phổ thông thành phố Thái Nguyên.

8

Chương 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC SỬ DỤNG TÀI LIỆU

VĂN HỌC TRONG DẠY HỌC LỊCH SỬ VIỆT NAM LỚP 10 Ở

TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG THÀNH PHỐ THÁI NGUYÊN

1.1. Cơ sở lý luận

1.1.1. Quan niệm về tài liệu văn học trong dạy học lịch sử ở trường phổ thông

1.1.1.1. Quan niệm về tài liệu văn học

Từ xa xưa, TLVH đã có sự gắn kết chặt chẽ với lịch sử, thậm chí người ta còn

coi “văn sử bất phân”. Nó như một tấm gương trong suốt phản chiếu đời sống con

người tại thời điểm đó, là sợi dây khăng khít giữa quá khứ và hiện tại. Theo từ

điển“150 thuật ngữ văn học” của các tác Lại Nguyên Ân cho rằng các TPVH là “Công

trình nghệ thuật ngôn từ; kết quả hoạt động sáng tác (lao động nghệ thuật) của cá

nhân nhà văn, hoặc kết quả nỗ lực sáng tác của tập thể; đơn vị độc lập cơ bản của văn

học”[1; tr.359], do vậy các công trình nghệ thuật đều phản ánh rõ ràng các mối quan

hệ, sự kiện, hiện tượng, các cung bậc cảm xúc, tâm lí của con người tại thời điểm đó.

Chính vì con người là loài động vật cấp cao có tri giác, đa số thiên về cảm xúc

cho nên các TPVH với các hình tượng cụ thể, xúc cảm chân thực luôn có tác động

mạnh mẽ đến tâm lí người đọc. Trong các TLVH phản ánh hiện thực xã hội ở mỗi thời

kì, chắc chắn rằng các tác giả trước khi viết đã phải rất am hiểu bản chất vấn đề, phải

nhìn nhận, phải đánh giá rất khách quan sự kiện muốn viết. Có rất nhiều tác phẩm văn

học thực chất như một tư liệu lịch sử chân thực như “Nam Quốc Sơn Hà” của Lý

Thường Kiệt, “Bình Ngô Đại cáo” của Nguyễn Trãi, “Hịch tướng sĩ” của Trần Hưng

Đạo, bản “Tuyên ngôn độc lập” của chủ tịch Hồ Chí Minh hay các tác phẩm phản ánh

hiện thực xã hội như “Tắt đèn” của Ngô Tất Tố, “Những người khốn khổ” của Victor

Huygo, “Chiến tranh và hòa bình” của L.Tonxtoi, “Chí phèo” của Nam Cao, “Số đỏ”

của Vũ Trọng Phụng… tất cả các TPVH này đều thể hiện chi tiết thực trạng xã hội

đương thời, nó có mối liên kết không nhỏ với các sự kiện lịch sử chúng ta cần tìm hiểu.

Như vậy, TLVH có vai trò quan trọng trong quá trình DHLS. Việc sử dụng

TLVH không những minh họa cụ thể hơn cho những nội dung lịch sử được đề cập mà

9

nó còn có vai trò khắc sâu kiến thức, giúp HS dễ dàng ghi nhớ các vấn đề lịch sử và

kích thích hứng thú học tập ở các em.

1.1.1.2. Mối quan hệ giữa kiến thức văn học với kiến thức lịch sử

Như trên đã khẳng định, văn học và sử học có mối liên kết mật thiết với nhau.

Đối tượng khai thác của văn học và sử học đều xoay quanh con người, xoay quanh xã

hội loại người. Nếu như văn học ca ngợi vẻ đẹp quê hương đất nước, ca ngợi phẩm

chất con người hay lên án những thói hư tật xấu trong xã hội thì lịch sử cũng ca ngợi

những công lao to lớn của nhân vật lịch sử cụ thể, ca ngợi thiên nhiên hùng vĩ hay phán

xét công bằng đối với những người có công - có tội với đất nước. Thực tế chỉ ra rằng,

có không ít người vừa làm nhà văn, nhà thơ, vừa làm một nhà sử học. Tiêu biểu là Ngô

Sĩ Thời, Ngô Thời Nhậm, Nguyễn Nhiếm, Trịnh Sâm, Ngô Thế Lân, Cao Bá Quát…với

những tập thơ nổi tiếng như “Toàn Việt thi tập”, “Hoàng Việt văn hải” của Lê Quý

Đôn, “Lịch triều thi sao” của Bùi Huy Ích…

Như chúng ta đã biết, lịch sử là tất cả những gì đã xảy ra trong quá khứ. Chính

vì vậy trong khoa học lịch sử đều dựa vào những sự kiện có thật, nhân vật thật ở từng

giai đoạn lịch sử nhất định để khắc họa lại bức tranh quá khứ một cách khách quan

nhất, chính xác nhất.

Trong lĩnh vực văn học cũng vậy. Mặc dù có những tác phẩm xây dựng hình

ảnh nhân vật, sự kiện, hiện tượng không có thật, mang nhiều yếu tố hư cấu, hoang

đường hay có tác phẩm xây dựng hình tượng nhân vật dựa trên nhân vật lịch sử có

thật, sự kiện thật thì tựu chung để hoàn thiện một tác phẩm, các tác giả đều phải

nghiên cứu hoàn cảnh lịch sử, đặc điểm xã hội con người thời đó mới có cơ sở để

viết nên, bởi mỗi thời điểm khác nhau thì hoàn cảnh lịch sử, đặc điểm xã hội cũng

khác nhau.

Nội dung của bất kì TPVH nào cũng phán ánh hiện thực xã hội qua con mắt

nhìn chủ quan của tác giả. Dù các TPVH có phản ánh đúng hay sai thì chúng ta cũng

không thể phủ nhận được vai trò của thực xã hội trong việc tác động vào nhận thức của

con người. Bên cạnh đó, chúng ta cũng biết rằng văn học là một hình thái ý thức thuộc

thượng tầng kiến thức. Mỗi nền văn học đều sinh ra ở một hình thái xã hội nhất định,

một giai cấp nhất định. Văn học không tách biệt với bất kì hiện thực xã hội nào, từ mặt

10

chính trị, kinh tế cho đến xã hội. Khi muốn nghiên cứu về một tác giả, tác phẩm hay

một trào lưu văn học nào đó thì chắc chắn trước tiên phải nghiên cứu hoàn cảnh xã hội

đương thời hay chính là lịch sử ở thời điểm đó. Chính vì vậy, TLVH có vai trò quan

trọng trong việc nghiên cứu lịch sử nói chung và việc sử dụng TLVH vào dạy học lịch

sử nói riêng.

Tóm lại, lịch sử và văn học có mối quan hệ mật thiết với nhau. Nó khẳng định

giá trị của nhau ở nhiều góc độ và trong DHLS hay nghiên cứu lịch sử, không thể nào

bỏ qua nguồn tư liệu lịch sử trong văn học. Ngược lại, khi nghiên cứu hay giảng dạy

văn học, nếu bỏ qua quá trình tìm hiểu hoàn cảnh lịch sử gắn với tác phẩm đó thì giá

trị nội dung và ý nghĩa truyền đạt cũng mất dần đi.

1.1.2. Các loại tài liệu văn học trong dạy học lịch sử ở trường phổ thông.

TLVH có nhiều thể loại khác nhau, mỗi loại TLVH mang trong mình một đặc

điểm riêng. Chính vì vậy, khi sử dụng TLVH, người GV cần phải xác định độ tin cậy,

chính xác, mức độ phản ánh hiện thực khách quan để bài học đạt hiệu quả cao nhất.

Trong quá trình DHLS ở trường THPT, GV có thể sử dụng một số loại TLVH sau

đây:

Thứ nhất, các tác phẩm văn học dân gian.

Văn học dân gian là các tác phẩm nghệ thuật ngôn từ được nhân dân sáng tạo

ra và lưu truyền bằng miệng qua các thế hệ, các thời kì lịch sử từ thời công xã nguyên

thủy cho tới ngày nay. Văn học dân gian là loại hình văn học phong phú, bao gồm

nhiều thể loại. Mỗi thể loại có những đặc trưng riêng biệt của nó. Ví dụ: Chuyện cổ

tích, chuyện ngụ ngôn, sử thi, truyền thuyết… Đây là loại tài liệu có giá trị cao vì nó

phản ảnh nhiều mặt hiện thực xã hội thời điểm đó mà đôi khi lịch sử không kịp ghi

chép lại.

Khi nói về văn học dân gian, chúng ta sẽ nhớ đến ngay đặc trưng riêng biệt của

loại hình văn học này. Đây là loại hình văn học mang tính truyền miệng, truyền từ đời

này sang đời khác, truyền từ người này sang người khác, từ địa phương này sang địa

phương khác nên rất nhiều tác phẩm văn học dân gian xuất hiện nhiều dị bản. Bên cạnh

đó, với tính chất ra đời từ sáng tác tập thể tức là có một người khởi xướng đầu tiên, tác

phẩm hình thành và sau đó được tập thể tiếp nhận. Qua quá trình lưu truyền, các tác

11

phẩm văn học dân gian được người tiếp nhận sáng tác lại làm cho tác phẩm biến đổi

dần, hoàn thiện, phong phú thêm về nội dung cũng như hình thức nghệ thuật.

Văn học dân gian là tài sản chung của một tập thể nên mỗi cá nhân đều có thể

sửa chữa, bổ sung tác phẩm văn học dân gian theo quan điểm và khả năng nghệ thuật

của bản thân. Nếu nắm rõ các đặc điểm này, người GV khi sử dụng văn học dân gian

biết loại bỏ các yếu tố hư cấu, thần bí, hoang đường thì sẽ phát hiện những yếu tố lịch

sử trong các tác phẩm văn học dân gian. Những câu chuyện cổ tích, truyền thuyết, sử

thi sẽ là nguồn tài liệu bổ ích làm sinh động, chân thực những bài học lịch sử cụ thể.

Ví dụ: khi HS đọc tác phẩm văn học dân gian truyền thuyết “Thánh Gióng” nếu

loại bỏ các yếu tố hoang đường thì HS sẽ nhận thấy rõ hoạt động đời sống sinh hoạt,

lao động, đấu tranh chống giặc ngoại xâm của dân tộc ta thời Văn Lang thông qua các

sự kiện được thể hiện khá chân thực trong tác phẩm. Từ đó, HS hiểu được yêu cầu cấp

thiết chống giặc ngoại xâm thời bấy giờ như thế nào. Bên cạnh đó, còn giúp người đọc

nhận thấy vai trò của công cụ bằng sắt trong sản xuất và chiến đấu. Các tác phẩm

văn học dân gian không chỉ minh họa sinh động sự kiện lịch sử cần học mà nó còn có

vai trò làm cho bài giảng trở nên hấp dẫn hơn, tạo không khí học lịch sử gần gũi, dễ

hiểu hơn.

Việc sử dụng TLVH vào DHLS không chỉ góp phần làm nâng cao chất lượng

giáo dục mà còn bồi đắp cho các em tình yêu quê hương, đất nước. Trau dồi vốn văn

hóa truyền thống, ít nhiều có tác dụng giáo dục về mặt đạo đức của HS.

Thứ hai, kí sự, hồi kí, nhật kí của các nhân vật lịch sử.

Những tác phẩm này mang màu sắc quan điểm cá nhân vì họ chính là người

trong cuộc, trải nghiệm những sự kiện lịch sử đã qua, ghi chép lại, miêu tả, tường thuật

lại một cách chi tiết, tỉ mỉ bằng chính con mắt, chính xúc cảm của mình. Qua cách kể

truyện của ngôi thứ nhất, khi sử dụng thể loại TLVH này vào DHLS ở mỗi tiết học,

HS sẽ được trải nghiệm giống như hoà mình làm chính tác giả, như bản thân trực tiếp

chứng kiến và hồi tưởng lại một cách chân thực nhất. Từ đó, khơi gợi những cảm xúc

mãnh liệt ở các em. Khi các em đã có những xúc cảm yêu cầu thì nội dung bài học đi

vào trong tâm trí các em rất thoải mái nhẹ nhàng, đơn giản mà khắc nhớ rất sâu. Cùng

với đó nó còn phát triển thái độ và đạo đức của HS. Các em sẽ cảm thấy yêu ghét rõ

12

ràng hơn, cảm thấy biết ơn hơn, ngưỡng mộ hay mến phục hơn. Khi học về các sự kiện,

các chiến dịch trong những năm tháng kháng chiến chống giặc ngoại xâm của dân tộc

ta, GV có thể liên hệ một số những tấm gương tiêu biểu của thế hệ trẻ sẵn sàng hi sinh,

sẵn đánh đổi tuổi thanh xuân vì độc lập, tự do của Tổ Quốc, từ đó sẽ là bài học giáo

dục cho thế hệ trẻ ngày nay.

Ví dụ: khi dạy về phần lịch sử Việt Nam thời phong kiến (SGK Lịch sử 10), GV

có thể sử dụng các tác phẩm như “Thượng thư kí sự” của Lê Hữu Trác, “Hoàng Lê nhất

thống chí” của Ngô gia văn phái, “Vũ trung tùy bút”, “Tang thương ngẫu lục” của Phạm

Đình Hổ để lấy tư liệu minh họa cho bài giảng.

Thứ ba, thơ, truyện, tiểu thuyết, kịch lịch sử

Đây là thể loại văn học lấy một giai đoạn lịch sử khung cảnh và đưa vào đó

những hoàn cảnh xã hội chân thực qua con mắt của cá nhân trung thành với lịch sử (tuy

nhiên không thể phủ nhận một số tác phẩm sự trung thành đi sai hướng). Các TPVH

đó đề cập tới nhân vật lịch sử có thật hoặc có sự hòa trộn giữa nhân vật lịch sử thật và

nhân vật hư cấu.

Trong thể loại văn học này, lịch sử chính là chất liệu để sáng tác. Mặc dù giá trị

của TPVH không chỉ nằm ở khía cạnh chân lí mà còn nằm ở khía cạnh nghệ thuật

nhưng nghệ thuật phải chịu sự ràng buộc chặt chẽ từ chân lí lịch sự. Nếu không có

chân lí lịch sử, nghệ thuật sẽ không có đất để phát triển. Chính vì thế, khi dạy lịch sử

Việt Nam lớp 10, người GV có thể khai thác một số tác phẩm sau: “Hoàng Lê nhất

thống chí” của Ngô Gia văn phái, “Trạng Quỳnh”, “Chinh phụ ngâm” của Đặng Trần

Côn, “Cung oán ngâm khúc” của Nguyễn Gia Thiều hay hàng loạt TPVH có giá trị

khác. Nếu người GV biết sử dụng những loại TLVH này vào dạy học, nó sẽ đem lại

màu sắc và hơi thở mới cho các tiết học lịch sử ở trường THPT hiện nay.

Thứ tư, các TPVH ra đời từ những sự kiện cụ thể của lịch sử và phản ánh bằng

hình tượng văn học.

Để tạo ra những TPVH này, các nhà văn đã lấy chất liệu sáng tác ngay trong chính

cuộc sống của mình, tức là những tác phẩm này giống như những bức tranh ngôn từ miêu

tả, phán ánh chân thực xã hội ở một giai đoạn, một thời điểm lịch sử nhất định.

Nhìn chung, các TPVH là tấm gương lớn phán ảnh hiện thực xã hội một cách

sống động. Nó có vai trò lớn trong việc nâng cao tầm hiểu biết của GV và HS về xã

13

hội, về con người ở một thời điểm lịch sử nhất định. Khi dạy học phần lịch sử Việt

Nam, bên cạnh việc sử dụng tài liệu lịch sử thì người GV có thể lấy một số TPVH phù

hợp để làm tư liệu cho bài học, tránh việc chỉ tập trung khai thác ở các tài liệu lịch sử

làm cho HS dễ nhàm chán và nản chí.

Ví dụ: Khi dạy bài 19: “Những cuộc kháng chiến chống ngoại xâm ở các thế kỉ

X-XV”, mục II “Các cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Mông - Nguyên ở thế kỉ

XIII” (SGK Lịch Sử 10), GV có thể sử dụng tác phẩm “Hịch tướng sĩ” của Trần Hưng

Đạo để khắc sâu cho sự kiện đó. Đây là TPVH viết theo thể loại hịch - thể văn nghị

luận thời xưa, được viết theo thể văn biền ngẫu (từng cặp câu cân xứng với nhau)

thường được các vua chúa, tướng lĩnh viết ra dùng để cổ động, thuyết phục hoặc kêu

gọi đấu tranh chống thù trong giặc ngoài. “Hịch tướng sĩ” miêu tả chân thực những tâm

tư, trăn trở của vị tướng lỗi lạc nhà Trần - Trần Hưng Đạo trước sự nhăm nhe xâm lược

đất nước của quân Mông Nguyên “Ta thường tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối, ruột

đau như cắt, nước mắt đầm đìa; chỉ giận chưa thể lột da, ăn gan, uống máu quân thù;

dẫu cho trăm thân này ta phơi ngoài nội cỏ, nghìn thây ta bọc trong da ngựa cũng cam

lòng [11; tr.57]. Hay để khích lệ tinh thần đấu tranh chống giặc ngoại của binh lính

Đại Việt thời đó “Nay ta bảo rõ các ngươi: cái chuyện dấm lửa đống củi phải lo, mà

câu sợ canh thổi rau nên nhớ. Các ngươi hãy nên huấn luyện quân sĩ, rèn tập cung tên,

khiến cho người người giỏi như Bàng Mông, nhà nhà đều là Hậu Nghệ, bêu đầu Tất

Liệt dưới cửa khuyết, ướp thịt Thoát Hoan trong trại rơm. Như thế chẳng những là thá

ấp của ta mãi mãi là của gia truyền, mà bổng lộc các ngươi cũng được suốt đời hưởng

thụ; chẳng những gia quyến của ta được yên giường nệm, mà vợ con các ngươi cũng

được sum họp đến già; chẳng những là tông miếu ta sẽ được muôn đời tế lễ, mà tổ tông

các ngươi cũng được thờ cúng quanh năm; chẳng những thân ta kiếp này đắc chí, mà

đến các người dưới trăm đời nữa tiếng thơm vẫn lưu truyền; chẳng những tên tuổi ta

không bị mai một, mà đến tên họ các người cũng để tiêng thơm trong sử xanh. Khi ấy

các ngươi không muốn vui chơi, được chăng?” [11; tr.57].

Trong quá trình dạy học, GV kết hợp tài liệu lịch sử với ĐDTQ và TLVH, chắc

chắn rằng bài học sẽ để lại ấn tượng sâu sắc với HS. Các em sẽ hiểu hơn hoàn cảnh lịch

sử thời điểm đó, sự cấp bách trong việc chống giặc ngoại xâm, tinh thần đấu tranh quật

14

cường của quân và dân Đại Việt trước kẻ thù hung bạo Mông Nguyên. Từ đó, khiến

các em cảm thấy rằng: Học lịch sử không nhàm chán ngược lại rất thú vị, chân thực và

cần thiết cho bản thân.

Như vậy, việc sử dụng các TPVH ra đời từ những sự kiện cụ thể của lịch sử có

vai trò như một chất xúc tác minh chứng rõ nét hơn những nội dung cần học trong

chương trình lịch sử Việt Nam ở trường THPT.

1.1.3. Xuất phát điểm của vấn đề nghiên cứu

1.1.3.1. Xuất phát từ mục tiêu bộ môn lịch sử ở trường phổ thông

Môn Lịch sử ở trường THPT được xây dựng trên cơ sở mục tiêu giáo dục, mục

tiêu từng cấp học, dựa trên cơ sở các quan điểm, đường lối của Đảng và Nhà nước về

sử học và giáo dục. Mục tiêu bộ môn lịch sử căn cứ vào nội dung, đặc trưng của hiện

thực lịch sử, nhận thực lịch sử, yêu cầu và nhiệm vụ tình hình hiện nay. DHLS phải

dựa vào mục tiêu chung của Đảng đề ra thông qua Luật Giáo dục được nước Cộng hòa

Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam khóa X thông qua ngày 25/12/2001: “Mục tiêu của giáo

dục là đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn diện, có đạo đức, tri thức, sức khỏe,

thẩm mĩ và nghề nghiệp, trung thành với lí tưởng dân tộc và chủ nghĩa xã hội, hình

thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực của công dân, đáp ứng yêu cầu

của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”[35; tr.8] và mới nhất là Luật giáo dục 2019

đã khẳng định: “Mục tiêu giáo dục nhằm phát triển toàn diện con người Việt Nam có

đạo đức, tri thức, văn hóa, sức khỏe, thẩm mỹ và nghề nghiệp; có phẩm chất, năng lực

và ý thức công dân; có lòng yêu nước, tinh thần dân tộc, trung thành với lý tưởng độc

lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; phát huy tiềm năng, khả năng sáng tạo của mỗi cá

nhân; nâng cao dân trí, phát triển nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, đáp ứng yêu

cầu của sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc và hội nhập quốc tế”[36], trên cơ sở đó

quán triệt mục tiêu cụ thể môn học: “Mục tiêu của môn Lịch sử ở trường phổ thông

nhằm giúp cho học sinh có được những kiến thức cơ bản, cần thiết về lịch sử dân tộc

và lịch sử thế giới; góp phần hình thành ở HS thế giới quan khoa học, giáo dục lòng

yêu quê hương, đất nước, truyền thống dân tộc, cách mạng; bồi dưỡng năng lực tư duy,

hành động, thái độ ứng xử đúng đắn trong đời sống xã hội”[4; tr.3]. Vì vậy, mục tiêu

của bộ môn Lịch sử được xác định trên ca ba mặt: kiến thức, kỹ năng, thái độ.

15

- Về kiến thức, bộ môn lịch sử trang bị cho HS những kiến thức cơ bản của lịch

sử Việt Nam và Lịch sử thế giới, hợp thành một hệ thống kiến thức lịch sử từ thời

nguyên thủy cho đến nay, bao gồm: sự kiện lịch sử cơ bản, nhân vật tiêu biểu, không

gian, thời gian, các thuật ngữ, khái niệm lịch sử… Bên cạnh đó, bộ môn lịch sử còn

giúp HS hiểu được những ảnh hưởng, những tác động của thế giới tới sự phát triển của

Việt Nam trên nhiều khía cạnh, hiểu được quy luật vận động của lịch sử, vai trò của

quần chúng nhân dân trong lao động, sản xuất, trong các hoạt động đấu tranh bảo vệ

Tổ quốc…Từ đó giúp HS hiểu được những đặc điểm riêng biệt của đất nước, con người

Việt Nam.

- Về kĩ năng, bộ môn lịch sử có vai trò quan trọng giúp người học hình thành và

phát triển các năng lực tư duy như khái quát, phân tích, tổng hợp, đánh giá các sự kiện,

hiện tượng lịch sử, kĩ năng nói và viết; kĩ năng làm việc với SGK, các nguồn tài liệu

tham khảo; kĩ năng tự học, tự giải quyết vấn đề. Bên cạnh đó, bộ môn Lịch sử còn giúp

HS có những cái nhìn đúng đắn khi xem xét sự kiện và nhân vật, biết vận dụng linh

hoạt những kiến thức đã học vào cuộc sống thực tế.

- Về thái độ, bộ môn Lịch sử có vai trò giáo dục tư tưởng, tình cảm, bồi dưỡng ở

HS tình yêu quê hương, đất nước, lòng tự hào dân tộc, biết trân quý những công lao của

thế hệ cha anh đi trước. Từ bài học thực tế, bộ môn Lịch sử giáo dục cho HS tình đoàn kết

quốc tế, yêu chuộng hòa bình, sống nhân văn, biết cách ứng xử phù hợp với chuẩn mực

đạo đức. Đồng thời, môn Lịch sử còn củng cố cho HS niềm tin vào sự phát triển hợp quy

luật của xã hội loại người và dân tộc, bồi dưỡng ý thức, nghĩa vụ của công dân. Trên cơ sở

đó góp phần chung tay cùng gia đình giáo dục các em trở thành những con người vẹn đức,

vẹn tài và tham gia vào công cuộc xây dựng, bảo về Tổ quốc.

Như vậy, để thực hiện được mục tiêu của môn Lịch sử ở trường THPT đáp ứng

yêu cầu giáo dục, đòi hỏi chúng ta cần quan tâm hơn nữa cho việc làm thế nào để

nâng cao chất lượng DHLS ở trường THPT. Người GV phải thực sự yêu nghề, đầu

tư công sức, thời gian, tâm huyết để xây dựng nên những bài giảng cuốn hút HS học

tập. Để thực hiện mục tiêu bộ môn Lịch sử ở trường THPT thì việc dạy học phải đạt

chất lượng.

1.1.3.2. Xuất phát từ yêu cầu đổi mới giáo dục phổ thông.

16

Trong những năm gần đây, vấn đề cấp thiết đặt ra cho giáo dục đó là đổi mới

giáo dục để đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước. Mối quan tâm này được nêu rõ

trong các tài liệu, văn kiện Đảng, Chính phủ trong nhiều năm qua như Nghị quyết Hội

nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng lần thứ IV khóa VII (tháng 1/1993), Hội nghị

Ban chấp hành TW Đảng lần thứ II khóa VIII (tháng 12/1996), Luật Giáo dục (2009).

Nghị quyết 29 - NQ/TW ngày 4/11/2013 Hội nghị lần thứ 8 Ban chấp hành Trung ương

Đảng khóa XI về “Đổi mới căn bản toàn diện giáo dục và đào tạo” đang được ngành

giáo dục triển khai tích cực ở các cấp học, bậc học hiện nay.

Đặc biệt, năm 2018, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã công bố chương trình giáo dục

phổ thông mới thay thế cho chương trình giáo dục phổ thông hiện hành. Trong đó,

chương trình giáo dục phổ thông được định hướng “được xây dựng theo mô hình phát

triển năng lực, thông qua những kiến thức cơ bản, thiết thực, hiện đại và các phương

pháp tích cực hóa hoạt động của người học, giúp HS hình thành và phát triển những

phẩm chất và năng lực mà nhà trường và xã hội kỳ vọng”[2].

Để đáp ứng yêu cầu đổi mới của giáo dục lấy người học làm trung tâm, đào tạo con

người năng động, sáng tạo, thích ứng với mọi điều kiện, cùng với các môn học khác, môn

Lịch sử đã có sự đổi mới về mọi mặt. Tuy nhiên, đổi mới PPDH không phải là xóa bỏ

hoàn toàn những kinh nghiệm cũ được đúc kết từ thực tiễn dạy học mà là dựa trên những

sản phẩm kế thừa để sáng tạo, phát triển PPDH cho phù hợp, hiệu quả.

1.1.3.3. Xuất phát từ đặc trưng bộ môn lịch sử

Mỗi một môn học ở trường PT đều mang những đặc trưng riêng của mình, dựa

vào đặc trưng của từng môn học mà người GV cần khai thác như thế nào để đáp ứng

yêu cầu của giáo dục.

Môn Lịch sử ở trường PT là chương trình giáo dục có chiều sâu hơn so với các

cấp học cơ bản khác. Môn Lịch sử ở trường PT cung cấp cho HS kiến thức về lịch sử

thế giới và lịch sử dân tộc một cách chi tiết, cụ thể thông qua các tư liệu lịch sử đã được

xác minh. Với đặc trưng của mình, lịch sử là môn học đặc biệt, nghiên cứu tìm hiểu

về lịch sử phát triển của loài người bao gồm những sự kiện hiện tượng đã xảy ra

trong quá khứ và không thể lặp lại hoàn ở hiện tại, tương lai, phản ánh chân thực

những vấn đề đã xảy ra , có cái nhìn nhận xét khách quan đối với sự kiện dù xấu dù

17

tốt. Cho nên, bên cạnh việc thực hiện nhiệm vụ truyền đạt tri thức thì môn Lịch sử

ở trường PT còn giữ vai trò chủ đạo trong giáo dục HS. Môn Lịch sử ở trường PT

định hướng phát triển cho HS thái độ, tư tưởng tình cảm đúng đắn, đạo đức chuẩn

mực, giáo dục cho HS lòng yêu nước, tinh thần tự tôn dân tộc, truyền thống lịch sử

và văn hoá dân tộc mình; đồng thời, củng cố các giá trị nhân văn, lòng khoan dung,

nhân ái, yêu chuộng hòa bình, tinh thần cộng đồng và hình thành những phẩm chất

đáng quý của công dân Việt Nam, công dân toàn cầu trong xu thế phát triển của thời

đại.

Ngoài nhiệm vụ giáo dục, môn Lịch sử ở trường PT định hướng phát triển năng

lực sử học cho HS, đặc biệt là tư duy lịch sử, khả năng thu thập và xử lý sử liệu, hình

thành sợi dây kết nối quá khứ với hiện tại, vận dụng các bài học lịch sử vào việc giải

quyết những vấn đề của thực tế cuộc sống.

Bên cạnh đó, môn Lịch sử giúp các em nhận thức được giá trị khoa học và giá

trị thực tiễn của sử học trong đời sống xã hội hiện đại. Định hướng cho HS những lựa

chọn về nghề nghiệp có liên quan như: nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn, ngoại

giao, quản lý, lãnh đạo, hoạt động du lịch, văn hoá, thông tin truyền thông… thông qua

việc phát triển năng lực sử học và hiểu biết về giá trị thực tiễn của sử học.

Như vậy, để việc nâng cao chất lượng DHLS có hiệu quả, người GV khi vận

dụng các PPDH vào quá trình DHLS thì cần dựa trên những đặc trưng riêng của bộ

môn Lịch sử ở trường PT để xây dựng giờ học đạt kết quả cao nhất.

1.1.3.4. Xuất phát từ đặc điểm tâm lí, nhận thức của học sinh trung học phổ thông

thành phố Thái Nguyên

Trong việc hoàn thiện một nhân cách, môi trường đóng vai trò quan trọng . Thực

tế cho thấy, con người sống trong môi trường nào sẽ chịu tác động từ môi trường đó.

Do vậy, HS thành phố Thái Nguyên cũng có những nét đặc thù riêng biệt về đặc điểm

tâm lí và nhận thức so với HS các tỉnh thành khác.

Là một GV đang công tác trong trường PT trên địa bàn thành phố Thái Nguyên,

qua quan sát, tiếp xúc trực tiếp chúng tôi nhận thấy, đa phần HS thành phố Thái Nguyên

được sống trong môi trường tương đối tốt. Là HS ở thành phố, các em được trang bị

máy tính có kết nối mạng internet để dễ dàng tìm kiếm thông tin, khai thác các nguồn

18

tài liệu phục vụ học tập, mở rộng vốn hiểu biết. Bên cạnh đó, các em luôn đươc bố mẹ

yêu thương, quan tâm, động viên, hỗ trợ, tạo mọi điều kiện cho học tập. Đây chính là

thuận lợi để HS thành phố Thái Nguyên đầu tư công sức hoàn thành các nhiệm vụ mà

ở nhà trường.

Tuy nhiên, cũng chính vì những thuận lợi đó mà còn có một bộ phận HS còn

mải chơi, bị cám dỗ bởi những thú tiêu khiển ngoài xã hội. Ngoài ra, do xu thế lựa chọn

nghề nghiệp mang tính thực dụng cho nên ngay từ khi ngồi trên ghế nhà trường PT, HS

đã xác định và phân biệt đâu là môn học chính có liên quan đến lựa chọn nghề nghiệp,

đâu là môn học phụ không cần đầu tư công sức quá nhiều. Vì thế, trong các giờ lịch sử

hằng ngày, các em không chịu học bài cũ, không có sự hợp tác chặt chẽ với GV, gây

khó khăn cho việc lựa chọn PPDH phù hợp của GV.

Lứa tuổi HS THPT là lứa tuổi sống rất chân thành, trong sáng, vô tư cho nên

trong quá trình học tập, những minh chứng gần gũi điển hình, những tấm gương sáng

cụ thể, tiểu biểu là người GV sẽ là động lực lớn cho các em học tập và noi theo. Chính

vì vậy, trong dạy học GV cần liên hệ những vấn đề thực tế trong cuộc sống để các em

có những cảm xúc chân thực nhất, đồng thời cố gắng xóa đi khoảng cách người dạy và

người học, tạo được cảm giác gần gũi giữa thầy và trò, cảm hóa các em bằng chính sự

quan tâm, yêu thương của mình.

Như vậy, khi GV muốn nâng cao chất lượng DHLS thì cần phải nắm rõ đặc

điểm tâm lí của từng HS. Bởi, trong một tập thể lớp sẽ có nhiều đặc điểm tâm lí khác

nhau. GV sẽ làm tốt quá trình cá biệt hóa nếu nắm vững được những đặc điểm trên.

Tóm lại, tâm lí có tác động lớn vào cuộc sống của con người. Để thực hiện có

hiệu quả nhiệm vụ giáo dục, ngoài việc bồi dưỡng về chuyên môn, người GV cần có

sự hiểu biết về kiến thức cơ bản tâm lí học, giáo dục học; những kiến thức thực tiễn từ

cuộc sống hoạt động tập thể của HS để đưa ra PPDH hiệu quả nhất, góp phần nâng cao

chất lượng DHLS ở trường THPT thành phố Thái Nguyên.

1.1.4. Vai trò, ý nghĩa của việc sử dụng tài liệu văn học trong dạy học lịch sử ở

trường phổ thông

1.1.4.1. Vai trò

Trong quá trình DHLS, TLVH đóng vai trò rất quan trọng. Nó không những có

19

tác dụng minh họa mà còn khắc sâu ở HS kiến thức lịch sử các em tiếp thu từ GV.

TLVH là một trong những nguồn tài liệu tham khảo cần thiết cho việc nâng cao

hiệu quả dạy và học bộ môn lịch sử ở trường PT, nhằm phát huy tính tích cực, tư duy

độc lập, sáng tạo của HS. TLVH là một căn cứ về tính chính xác, tính cụ thể, phong

phú của các sự kiện lịch sử, nó giúp HS khắc phục việc hiện đại hoá lịch sử hoặc hư

cấu sai sự thật lịch sử.

Bên cạnh đó, TLVH giúp HS có thêm cơ sở để nắm vững bản chất các sự kiện,

hình thành khái niệm, hiểu rõ những quy luật lịch sử, bài học quan trọng. Đặc biệt

TLVH góp phần làm cho các nội dung lịch sử mềm mại, hấp dẫn, sinh động, kích thích

hứng thú học tập cho HS. Điều này lại có tác dụng to lớn trong việc giáo dục tư tưởng

tình cảm cho HS trong DHLS. Vì thế TLVH cũng thể hiện vai trò to lớn đáp ứng được

mục tiêu giáo dục đề ra theo đường lối của Đảng, tư tưởng Hồ Chí Minh.

1.1.4.2. Ý nghĩa

a. Kiến thức

Như chúng ta biết, để vẽ lại một “bức tranh quá khứ” vừa sinh động vừa chân

thực không phải là dễ, bởi khoa học lịch sử chỉ cung cấp cho chúng ta những con số,

những sự kiện cụ thể mang tính khô khan, dập khuôn… Việc sử dụng TLVH vào quá

trình dạy học sẽ giúp HS bám sát hơn vào nội dung kiến thức. Bên cạnh đó, TLVL còn

giúp HS khắc sâu những nội dung kiến thức được tiếp thu, mở rộng hiểu biết thêm về

lịch sử qua nhiều góc độ khác nhau. Không chỉ đứng trên góc nhìn của “người thứ ba”

mà HS còn được trải nghiệm, cảm nhận qua góc nhìn của nhân vật lịch sử. Trong TPVH

có yếu tố lịch sử, các em sẽ cảm thấy dường như chính mình đang được tiếp xúc trực

tiếp với sự kiện lịch sử hay được hòa mình thấu hiểu nỗi niềm của nhân vật. Từ đó hình

thành biểu tượng lịch sử chân thực, giúp HS ghi nhớ lâu hơn những sự kiện liên quan

đến bài học với đầy đủ mọi góc độ, mọi khía cạnh.

Trên cơ sở “trực quan tư duy”, các em sẽ dần phát triển nhận thức lý tính. HS sẽ tìm

ra được những mối liên hệ, nhân quả giữa các sự kiện, hiện tượng từ đó giúp HS nhận

ra bản chất vấn đề và hình thành các khái niệm lịch sử cho bản thân.

Như vậy, nếu GV biết vận dụng các loại TLVH vào quá trình DHLS thì HS sẽ

tiếp thu dễ dàng hơn nội dung bài học, khắc sâu hơn kiến thức và từ đó các em sẽ mở

rộng thêm những thông tin mới cho bản thân.

b. Kĩ năng

20

Việc sử dụng TLVH trong hoạt động DHLS ở trường THPT vai trò quan trọng,

góp phần hình thành, phát triển toàn diện các kỹ năng cho HS. Lý luận dạy học đã chỉ

ra rằng, các tài liệu tham khảo nếu được sử dụng hợp lý trong DHLS sẽ góp phần rèn

luyện kỹ năng, phát triển tư duy độc lập, sáng tạo của các em.

Trong các năng lực nhận thức, đặc biệt là năng lực tư duy của HS, nếu HS muốn

hiểu rõ, hiểu sâu vấn đề khi GV sử dụng TLVH để minh họa cho bài giảng thì buộc các

em phải chủ động quan sát, vận động trí tưởng tượng và đưa ra những nhận xét, đánh giá

khách quan. Nhưng để có cơ sở đánh giá được một cách chính xác nhất thì yêu cầu HS

phải tư duy lôgic, tự tạo biểu tượng lịch sử từ các sự kiện, hiện tượng nhân vật lịch sử

cho đến khâu hình thành khái niệm, rút ra quy luật và bài học kinh nghiệm.

Như chúng ta đã biết, TLVH góp phần không nhỏ vào việc xây dựng lên một bài

giảng hay, cuốn hút, có chất lượng.Ví dụ khi học bài 14: “Các quốc gia cổ đại trên đất

nước Việt Nam” (SGK Lịch sử 10), GV có thể khoanh vùng, cung cấp cho các em một

số TLVH có liên quan tới bài, yêu cầu về nhà đọc và tìm hiểu trước như Sự tích “Mai

An Tiêm”, sự tích “Bánh Chưng bánh Dày”, truyền thuyết “Sơn Tinh, Thủy Tinh” hay

một số câu ca dao tục ngữ khác. Khi HS đọc và nghiên cứu TLVH trên sẽ tự rút ra được

cho mình kết luận về cuộc sống của người dân Bách Việt thời đó như thế nào? Văn hóa

dân tộc thời Văn Lang - Âu Lạc ra sao? Có điểm nào khác so với văn hóa hiện nay?…Và

đến khi học bài 14, các em sẽ dễ dàng hiểu được quá trình hình thành và những điểm

riêng biệt của các quốc gia cổ đại trên đất nước Việt Nam.

Như vậy, khi HS làm việc với tài liệu này buộc các em phải đọc, phải tư duy,

phải vận dụng những kĩ năng kĩ xảo nếu các em muốn có được đáp án chính xác nhất,

chân thực nhất.

c. Thái độ

Việc giáo dục HS thông qua quá trình học tập lịch sử không chỉ có tác dụng

nâng cao nhận thức mà còn uốn nắn, định hướng đạo đức, thái độ tình cảm, phát triển

óc thẩm mỹ của các em. Trong quá trình dạy học, khi người GV sử dụng TLVH làm tư

liệu bài giảng cần khéo léo lồng ghép vừa cung cấp tài liệu - sự kiện vừa thông qua lịch

sử để giáo dục đạo đức. Nếu vận dụng tốt, việc giáo dục HS thông qua các bài học lịch

sử sẽ đạt hiệu quả cao.

21

Thứ nhất, khi GV sử dụng TLVH theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động

của HS thì HS phải tự làm việc với nguồn tài liệu ấy, tự tìm hiểu, tự đưa ra những phân

tích, suy luận, liên hệ. Từ đó, rèn luyện cho các em tính tích cực, tự giác học tập dù

trong bất kì hoàn cảnh nào. Bên cạnh đó, thông qua những tấm gương lịch sử tiêu biểu

trong lao động, trong đấu tranh sẽ giúp các em có thái độ lao động - học đúng đắn hơn,

biết tôn trọng những thành quả mà ông cha để lại, làm thế nào để xứng đáng thừa hưởng

những vinh hoa đó. Nhưng muốn hiểu được nội dung truyền tải từ các TPVH buộc HS

phải làm tự làm việc với nguồn tài liệu, độc lập phân tích, so sánh từ đó mới có các cơ

sở để đưa đến kết quả đánh giá cuối cùng. Hoạt động này diễn ra thường xuyên, hình

dung sẽ tạo cho HS một thói quen tốt về việc phát huy tính tự giác, tích cực học tập của

các em. Bên cạnh đó, dần hình thành cho HS sở thích tìm hiểu lịch sử thông qua các

phương tiện cung cấp thông tin khác nhau, nhờ đó, các em sẽ dần dần hoàn thiện những

nhân cách tốt đẹp của mình, biết phân biệt đúng-sai, biết phấn đấu học tập và noi gương

các tấm gương anh hùng đi trước.

Thứ hai, sử dụng các nguồn TLVH có vai trò nâng cao tính thẩm mỹ của HS,

phát triển toàn diện về tâm tư tình cảm, các tiêu chuẩn đạo đức về cái đẹp, cái thiện

trong cuộc sống.

Các TPVH có sức truyền tải rất lớn về mặt tình cảm cho người đọc, đặc biệt là lứa

tuổi HS. Khi đọc các tài liệu minh chứng cho một giai đoạn lịch sử hay đơn giản chỉ cho

một sự kiện, một nhân vật nào đó thông qua văn học, HS sẽ dễ dàng hiểu hơn những góc

khuất tâm tư, tình cảm mà đôi khi lịch sử chưa thể thể hiện trọn vẹn được. Những TPVH,

những câu chuyện, những dòng hồi kí, tự sự chất chứa những nỗi niềm sẽ là một tác động

mạnh mẽ đến trái tim người đọc, vừa khơi gợi cho các em những cảm xúc chân thật gắn

với sự kiện lịch sử, vừa giúp các em nhận ra giá trị thật của những việc đã qua, tạo hứng

thú cho các em tìm hiểu sâu hơn lịch sử, hứng thú với môn học.

Ví dụ: khi học bài 23: “Phong trào Tây Sơn và sự nghiệp thống nhất đất nước,

bảo vệ Tổ quốc cuối thế kỉ XVIII”, mục III “Vương triều Tây Sơn” (SGK Lịch sử 10),

để minh họa thêm cho sự sụp đổ của vương triều Tây Sơn, GV có thể cung cấp một số

câu ca dao nói về sự kiện này.

22

“Nguyễn ra rồi Nguyễn lại về

Chúa Trịnh mất nước, vua Lê khó còn

Đầu cha lấy làm chân con

Mười bốn năm tròn, hết số thì thôi

Anh di theo chú Tây Sơn

Em về cày cuốc mà thương mẹ già” [39; tr.207]

Trong câu ca dao trên đã cung cấp cho HS một lượng thông tin cần thiết, mở

rộng, nâng cao những hiểu biết của các em về sự sụp đổ của vương triều Tây Sơn. Việc

sử dụng bài TLVH vào bài học sẽ khơi gợi cho HS cảm xúc chân thực của nhân dân ta

trước biến cố lịch sử này.

Qua việc sử dụng TLVH trong DHLS, các em sẽ có thêm nhiều hiểu biết lịch

sử dân tộc, biết phân biệt đúng-sai, biết được quy luật tất yếu của tiến trình phát triển

lịch sử nói chung và lịch sử dân tộc nói riêng

Thứ ba, thông qua việc sử dụng TLVH, GV có thể định hướng cho HS lập trường

chính trị vững vàng, giúp các em nhận thức rõ đâu là chính nghĩa, đâu là phi nghĩa

trước những vấn đề lịch sử.

Như vậy, việc sử dụng TLVH trong quá trình DHLS không những giúp HS có những

biểu tượng sinh động, chính xác về sự kiện - hiện tượng mà còn giúp các em hiểu sâu sắc hơn,

cụ thể hơn bản chất vấn đề được đề cập tới, thông qua đó, nó còn khơi gợi cho HS nhiều cảm

xúc - điều này sẽ tạo cơ sở giáo dục tư tưởng - tình cảm đúng đắn cho các em.

1.2. Cơ sở thực tiễn

1.2.1. Địa điểm, thời gian, đối tượng khảo sát

 Địa điểm, thời gian: Chúng tôi tiến hành điều tra, khảo sát tại 04 trường THPT

trên địa bàn thành phố Thái Nguyên năm học 2019 - 2020, bao gồm các trường: trường

PT Vùng cao Việt Bắc, trường THPT Thái Nguyên, trường THPT Ngô Quyền, trường

THPT Lương Ngọc Quyến. Kết quả thu được sẽ giúp chúng tôi có được cái nhìn tổng

thể về thực trạng sử dụng TLVH trong DHLS Việt Nam ở trường THPT thành phố

Thái Nguyên.

 Đối tượng: 20 GV Lịch sử và 200 HS lớp 10 ở các trường THPT thành phố

Thái Nguyên được lựa chọn tiến hành khảo sát.

1.2.2. Kế hoạch và nội dung tiến hành khảo sát

* Kế hoạch tiến hành điều tra, khảo sát:

23

Chúng tôi sử dụng phiếu điều tra đã soạn sẵn phát cho GV và HS, sau đó, tiếp

xúc, phỏng vấn, trao đổi trực tiếp.

* Nội dung điều tra, khảo sát:

Đối với GV, chúng tôi tìm hiểu quan điểm của GV về tầm quan trọng của TLVH

trong DHLS ở trường PT, những biện pháp sử dụng TLVH mà các thầy cô thường

xuyên áp dụng trong quá trình lên lớp và những khó khăn cơ bản trong việc sử dụng

phương pháp này. Những đề xuất của thầy cô về việc sử dụng TLVH trong DHLS ở

trường THPT nhằm nâng cao chất lượng dạy học.

Đối với HS, chúng tôi tiến hành điều tra các vấn đề cơ bản: tìm hiểu thái độ của HS

đối với môn Lịch sử, phương pháp học tập của HS, đáng giá của HS về các biện pháp sử

dụng TLVH của GV và tình hình sử dụng TLVH của HS trong học tập. Chúng tôi lắng

nghe những kiến nghị của các em về việc dạy học để kịp thời đề xuất các biện pháp góp

phần nâng cao chất lượng DHLS ở trường THPT thành phố Thái Nguyên.

1.2.3. Kết quả điều tra, khảo sát.

* Kết quả điều tra HS

Phân tích số liệu điều tra, chúng tôi thu nhận được kết quả cụ thể sau:

Thứ nhất, để tìm hiểu mức độ yêu thích môn Lịch sử của HS, chúng tôi đưa ra

câu hỏi: “Em có thích học Lịch sử không?” Có tới 14, % trả lời là rất thích vì học lịch

sử rất hay và hấp dẫn, giúp các em mở mang thêm nhiều kiến thức lịch sử dân tộc. Số

học sinh trả lời bình thường chiếm 53,4%, số HS thích học lịch sử là 19,5%. Còn lại,

12,6% các em trả lời rằng chắc chắn “không thích học lịch sử”. Kết quả này cho thấy,

phần lớn HS có thái độ bình thường với môn Lịch sử vì coi đó là một môn học phụ nên

không mấy quan tâm. Có ý kiến khác cho rằng không thích học Lịch sử bởi lịch sử quá

dài, quá khô khan, khó nhớ. Tuy nhiên, theo số liệu điều tra cho thấy vẫn còn khá nhiều

HS yêu thích lịch sử nhưng do PPDH của thầy (cô), do xu hướng chọn nghề nghiệp

hay những quan niệm của xã hội đã ảnh hưởng không nhỏ đến hứng thú học tập của

các em.

Thứ hai, để tìm hiểu phương pháp học tập bộ môn, chúng tôi đưa ra câu hỏi

“Em thường học lịch sử như thế nào?” và đưa ra các phương án trả lời khác nhau.

Qua phân tích số liệu, chúng tôi thấy cách học phổ biến nhất của các em là học thuộc

vở ghi (71,2%); số HS đọc SGK, ghi bài và làm bài tập là 17,5%; số HS học thuộc

24

lòng SGK kết hợp tài liệu tham khảo để trả lời các câu hỏi trong sách 1,3%; thậm chí

có đến 10% các em không học bài, chuẩn bị bài khi đến lớp. Có chăng, khi bị đến giờ

kiểm tra, các em mới học bài cũ qua loa, đối phó. Như vậy, theo thực trạng này cho

thấy, hầu hết các em đều thờ ơ với môn lịch sử, thụ động trong học tập và chưa dành

sự quan tâm cho bộ môn.

Thứ ba, để đánh giá khách quan về việc sử dụng TLVH của các thầy (cô) trong

DHLS, chúng tôi đưa ra câu hỏi “Thầy (cô) giáo có thường xuyên sử dụng TLVH trong

quá trình DHLS trên lớp không?”. Theo số liệu thống kê cho thấy, đa phần GV đã vận

dụng TLVH vào việc DHLS tuy nhiên chỉ dừng lại ở mức độ thỉnh thoảng (49,7%). Có

trường hợp thầy (cô) không sử dụng TLVH để phục vụ cho quá trình dạy học, điều này

chúng ta thấy rõ ở kết quả phản hồi của HS (33,4%). Còn lại, 16,9% GV thường xuyên

vận dụng TLVH vào bài giảng của mình. Các em cảm thấy rất thích thú, hào hứng và

mong chờ các giờ học sau. Như vậy, theo thực trạng, tình hình sử dụng TLVH trong

DHLS ở trường THPT vẫn chưa được thầy (cô) quan tâm đúng mực, cần đầu tư thời

gian, công sức hơn nữa trong việc sử dụng linh hoạt, đa dạng các PPDH để nâng cao

chất lượng giờ học.

Thứ tư, để biết được cảm nhận của các em trong việc sử dụng TLVH của GV ở

các giờ DHLS, chúng tôi đã đưa ra câu hỏi “Khi thầy (cô) giáo sử dụng TLVH trong

quá trình dạy học, em cảm thấy như thế nào?”. Theo thông tin phản hồi, khi GV sử

dụng TLVH trong DHLS đa phần các em cảm thấy rất thích thú, hào hứng với giờ học

(65%), tuy nhiên tỉ lệ cảm thấy bình thường (30%) và không quan tâm vẫn còn chiếm

số lượng đáng kể (5%).

Thứ năm, để đánh giá tần suất tổ chức của GV cho các em làm việc với với nguồn

TLVH, chúng tôi đã đưa ra câu hỏi “GV có tổ chức cho các em làm việc với nguồn TLVH

không?”. Phân tích số liệu cho thấy, các thầy cô thường xuyên đã tạo điều kiện cho HS

làm việc với TLVH trong quá trình học tập ở trên lớp cũng như là giờ tự học ở nhà (55%).

Có 30% số ý kiến bày tỏ rằng, thầy cô có hướng dẫn các em làm việc với nguồn TLVH,

tuy nhiên chỉ lại ở mức độ thỉnh thoảng. Bên cạnh đó, vẫn còn nhiều giờ học, các em không

được định hướng làm việc với TLVH (18%), các em mong muốn sẽ có nhiều nguồn TLVH

hơn nữa để phục vụ cho công việc học tập của HS.

25

Thứ sáu, để đánh giá vai trò của TLVH trong DHLS, chúng tôi đã đưa ra câu

hỏi “theo em, trong DHLS có cần sử dụng TLVH không?” và đã nhận được ý kiến phản

hồi như sau: Đa phần các em cho rằng vai trò của TLVH trong DHLS là giữ ở mức

bình thường, cần thiết nhưng không quá quan trọng (78%), chỉ có 10% nhận ra mức độ

quan trọng cần thiết của TLVH.Tuy nhiên, còn có ý kiến nghĩ rằng trong việc học tập

môn lịch sử, TLVH không cần thiết (12%), trong các bài học chỉ cần có tài liệu lịch sử

là đã đáp ứng được nhu cầu học tập của các em. Như vậy, qua thực tế điều tra, chúng

tôi nhận thấy các em chưa hoàn toàn nhận ra được vai trò quan trọng của TLVH trong

việc dạy-học lịch sử. Điều cần phải được khắc phục.

Thứ bảy, để minh chứng cho mức độ quan tâm của HS đối với việc sử dụng

TLVH trong học tập lịch sử, chúng tôi đã đưa ra câu hỏi “Các em có thường xuyên tìm

hiểu, thu thập nguồn TLVH cho việc học tập hay không?”. Kết quả phản hồi cho thấy,

có 19% số HS tham gia khảo sát thường xuyên thu thập, tìm hiểu TLVH; 49,8% nói

rằng có tìm hiểu, thu thập TLVH nhưng đôi khi được tiến hành dưới tác động của thầy

(cô), còn đa phần (31,2%) các em khẳng định chưa bao giờ tìm hiểu TLVH.

Thứ tám, để biết được các cách thu thập TLVH của HS, chúng tôi đưa ra câu

hỏi “Em thường tìm hiểu, thu thập TLVH bằng cách nào”. Qua thông tin phản hồi,

phần lớn HS sưu tầm qua nguồn internet (70%), trong khi đó, số HS sưu tầm qua bạn

bè, thầy cô, ông bà là 18% và qua sách báo, tạp chí chiếm 12%. Không có trường hợp

nào tìm hiểu qua các hội thi thơ, văn.

* Kết quả điều tra GV

Ở phần thông tin cá nhân, chúng tôi đã điều tra GV, biết được thời gian công tác

và thành tích dạy học đạt được để có cơ sở đưa ra các câu hỏi khảo sát phù hợp.

Để tìm hiểu cảm nhận của GV về sở thích học tập Lịch sử của HS, chúng tôi đã

đưa ra câu hỏi “Theo thầy (cô), hiện nay HS có thích học lịch sử không?”.Dựa vào kết

quả phản hồi, đa phần có 40% ý kiến GV cho rằng HS hiện nay không thích học lịch

sử nếu có chăng thì chỉ dừng ở mức độ bình thường (60%). Phải tùy theo sở thích của

từng HS cụ thể mới có thể hiểu được cảm nhận của các em, còn trên mặt bằng chung,

không có em nào rất thích học lịch sử.

26

Khi được hỏi về “tầm quan trọng của việc sử dụng TLVH trong DHLS ở trường

THPT”. Có 80% ý kiến thầy (cô) cho rằng TLVH có vài trò rất quan trọng trong việc

DHLS và 20% ý kiến cũng đồng thuận nhưng dừng lại ở mức độ vừa phải.

Để khảo sát mức độ hiểu biết của thầy (cô) về nguồn TLVH, chúng tôi đưa ra

câu hỏi “Theo thầy (cô) trong DHLS có những nguồn TLVH nào?”. Các thầy (cô) đều

100% đồng thuận với những đề xuất lựa chọn chúng tôi đã nêu (Văn học dân gian; Tiểu

thuyết, nhật kí, hồi kí lịch sử; Kịch, thơ, truyện ngắn, sử thi gắn với nhân vật, sự kiện

lịch sử; Các tác phẩm văn học ra đời từ những sự kiện cụ thể của lịch sử)

Khi được hỏi về “Quan niệm của thầy (cô) về TLVH đối với DHLS?”. Có 40%

(thầy) cô nhận thấy tầm quan trọng của TLVH trong DHLS, trong khi 60% nói rằng

TLVH chỉ là nguồn tài liệu tham khảo. Vai trò của TLVH là cần thiết những chỉ dừng

lại ở mức độ tài liệu tham khảo minh họa cho dạy học mà không phải là một nguồn tài

liệu lịch sử.

Khi được hỏi “Thầy (cô) có sử dụng TLVH trong DHLS không?” Chúng tôi

nhận được 40% phản hồi thường xuyên, 40% thỉnh thoảng sử dụng TLVH. Đặc biệt,

vẫn có trường hợp GV không sử dụng TLVH trong giờ dạy của mình (20%) mặc dù có

nhận thức được vai trò của TLVH trong DHLS.

Để hiểu rõ hơn về nhận thức của thầy (cô) trong việc đánh giá vai trò TLVH,

chúng tôi đã đưa ra câu hỏi “Theo thầy (cô), sử dụng TLVH trong DHLS có tác dụng

gì?” . Dựa trên kết quả, chúng tôi thấy rằng 100% thầy (cô) đồng tình với những tiêu

chí đã được đặt ra. Sử dụng TLVH trong DHLS có tác dụng nâng cao tầm hiểu biết của

học sinh, tạo hứng thú cho học sinh trong quá trình học tập lịch sử, phát triển cho học

sinh các kĩ năng, kĩ xảo cần thiết và giúp các em nhìn nhận vấn đề lịch sử một cách

chân thực, đúng đắn.

Khi hỏi về các cách vận dụng TLVH trong tổ chức DHLS, chúng tôi đưa ra câu

hỏi “Thầy (cô) đã sử dụng TLVH trong DHLS ở hình thức tổ chức dạy học nào?”. Chỉ

có 40% thầy (cô) cho biết đã sử dụng TLVH trong giờ ngoại khóa và 40% trong quá

trình giao bài tập về nhà; còn đa phần thầy (cô) sử dụng TLVH trong giờ học nội khóa

(80%). Cá biệt, có trường hợp không sử dụng bất TLVH trong bất kì hình thức tổ chức

dạy học nào.

27

Để làm rõ về những trở ngại của việc sử dụng TLVH trong DHLS, chúng tôi

đưa ra câu hỏi “Thầy (cô) gặp khó khăn nào khi sử dụng TLVH trong DHLS?”. Kết quả

cho thấy, 100% GV gặp trở ngại trong vấn đề thời gian. Các thầy (cô) muốn sử dụng

TLVH nhiều hơn trong các hoạt động dạy học nhưng do giới hạn thời gian (trong cả

giờ học nội khóa và ngoại khóa) cho nên việc sử dụng TLVH còn hạn chế. Bên cạnh

đó, 60% cho rằng hiện nay GV còn thiếu nguồn TLVH và HS thiếu hợp tác. 20% lúng

túng trong quá trình lựa chọn PPDH.

Khi được hỏi về “Các biện pháp sử dụng TLVH trong DHLS”, 80% GV cho

rằng thầy (cô) đã sử dụng TLVH để minh họa cho nội dung kiến thức, dùng để phân

tích, đối chiếu, giải thích vấn đề, đồng thời dùng làm câu hỏi nêu vấn đề và làm tư liệu

xây dựng bài tập cho học sinh. Duy chỉ có 20% không lựa chọn tiêu chí nào vì không

sử dụng TLVH trong DHLS.

Khi được hỏi về việc “sử dụng TLVH trong DHLS thật sự hiệu quả, thầy (cô)

đề xuất ý kiến gì”, chúng tôi đã nhận được rất nhiều phản hồi của thầy (cô). Đa phần

GV đều đề đưa ra những đề xuất khắc phục những khó khăn gặp phải ở việc sử dụng

TLVH trong DHLS. Vì kiến thức văn học còn hạn chế, GV mong muốn được tiếp cận

nhiều hơn tới các nguồn TLVH có sẵn, tạo điều kiện tổ chức các hoạt động ngoại khóa

nhiều hơn nữa bên cạnh giờ nội khóa.

1.2.4. Nhận xét chung về thực trạng sử dụng tài liệu văn học trong dạy học lịch sử

Việt Nam lớp 10 ở trường THPT thành phố Thái Nguyên

1.2.4.1. Về ưu điểm, thuận lợi

Tìm hiểu những ưu điểm, thuận lợi của TLVH trong DHLS ở trường THPT

thành phố Thái Nguyên, chúng tôi nhận thấy:

Thứ nhất, đa số GV hiện nay đều nhận thức được tầm quan trọng của việc sử

dụng TLVH trong DHLS. Bên cạnh đó, có một số em thực sự yêu thích môn Lịch sử,

trên lớp chú ý lắng nghe, có sự tương tác với GV trong mỗi giờ học chính là cơ sở,

động lực để GV đổi mới mạnh mẽ các PPDH, trong đó có việc việc sử dụng TLVH

trong DHLS để kích thích hứng thú học tập và phát triển phẩm chất, năng lực HS.

Thứ hai, đội ngũ GV Lịch sử của thành phố Thái Nguyên ngày càng được nâng

cao về trình độ chuyên môn, nghiệp vụ.

28

Thứ ba, Thái Nguyên có 01 trường sư phạm với bề dày lịch sử hơn 50 năm kinh

nghiệm cùng đội ngũ giảng viên giỏi, tạo điều kiện thuận lợi cho GV trên địa bàn tỉnh

Thái Nguyên trao đổi, học tập những kinh nghiệm quý báu.

Thứ tư, thành phố Thái Nguyên là nơi tập trung rất nhiều trường đại học với hệ

thống thư viện phong phú, đặc biệt là trung tâm học liệu, cho nên GV có nhiều lựa chọn

nguồn TLVH để sử dụng trong quá trình dạy học.

1.2.4.2. Về hạn chế, khó khăn và nguyên nhân.

- Về phía HS, đây là lứa tuổi THPT có nhiều thay đổi về mặt tâm lí. Đối với HS

THPT thành phố Thái Nguyên, do môi trường sống của các em là khu vực thành phố nên

đa phần các em thường mải chơi, dễ cám dỗ bởi các trò tiêu khiển dẫn tới không chú tâm

vào học hành. Bên cạnh đó, lối tư duy của đa phần phụ huynh cho rằng “chỉ cần học xong

cấp ba rồi ra ngoài tìm việc” hay “có học đại học cũng không xin được việc”, cho nên đã

tác động vào HS, nhiều HS chùn bước trong học tập, các em chỉ cố gắng phấn “lên lớp”

và “tốt nghiệp”. Đồng thời, do yêu cầu của xã hội, do định hướng nghề nghiệp nên việc

học tập lịch sử trở nên khó khăn hơn. Lịch sử chỉ là một môn phụ, không có vai trò quyết

định tương lai. Chính vì những lối suy nghĩ đó, khiến cho GV gặp rất nhiều khó khăn trong

việc sử dụng các PPDH mới, nâng cao chất lượng dạy học.

- Về phía GV, bên cạnh lực lượng đông đảo luôn tích cực đổi mới PPDH thì vẫn

còn nhiều trường hợp GV chậm đổi mới, lười đổi mới, chưa chịu tìm tòi nghiên cứu,

chưa biết cách phát huy tính tích cực, chủ động sáng tạo của HS. Vì vậy, PPDH chủ

yếu của họ vẫn là thuyết trình, có chăng thỉnh thoảng sử dụng một vài đồ dùng dạy học,

tư liệu tham khảo cho bài học. Đồng thời, do hạn chế về thời gian, phân phối nội dung

chương trình cho nên GV không có nhiều cơ hội triển khai đa dạng các hình thức tổ

chức dạy học có vận dụng TLVH.

Qua quá trình nghiên cứu lí luận và tìm hiểu thực trạng DHLS lớp 10 ở các

trường THPT thành phố Thái Nguyên nêu trên, chúng tôi nhận thấy việc tìm ra những

biện pháp sử dụng TLVH nhằm cải thiện chất lượng DHLS ở đây là cần thiết và cấp

bách. Trên cơ sở bám sát lí luận và những yêu cầu đổi mới giáo dục, các biện pháp đưa

ra phải phù hợp với tình hình thực tế thành phố Thái Nguyên. Vì vậy, ở chương II,

chúng tôi đề xuất những biện pháp sư phạm cụ thể góp phần nâng cao chất lượng DHLS

Việt Nam lớp 10 ở trường THPT thành phố Thái Nguyên.

Chương 2

29

CÁC BIỆN PHÁP SỬ DỤNG TÀI LIỆU VĂN HỌC TRONG DẠY HỌC

LỊCH SỬ VIỆT NAM LỚP 10 Ở TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG

THÀNH PHỐ THÁI NGUYÊN

2.1. Khái quát mục tiêu, nội dung cơ bản của Lịch sử Việt Nam lớp 10 ở trường

phổ thông

2.1.1. Mục tiêu

Căn cứ vào hướng dẫn thực hiện nhiệm vụ giáo dục môn Lịch sử của Bộ Giáo

dục và Đào tạo, dạy học lịch sử Việt Nam ở trường THPT cần đạt những mục tiêu

cụ thể sau:

- Về kiến thức: Lịch sử Việt Nam lớp 10 ở trường THPT có nhiệm vụ nâng cao,

mở rộng, đi sâu vào nội dung kiến thức lịch sử dân tộc từ thời nguyên thủy cho đến nửa

đầu thế kỉ XIX. Trên cơ sở đó, giúp các em hiểu rõ nguồn gốc, tiến phát triển của dân

tộc cũng như quá trình hình thành nhà nước và các cuộc đấu tranh giành độc lập dân

tộc, phát triển đất nước từ xưa tới nay. Từ ấy, HS sẽ rút ra được mối liên kết cũng như

quy luật phát triển chung giữa LSVN với lịch sử thế giới và ngược lại.

- Về kĩ năng: Rèn luyện cho HS phát các kĩ năng, kĩ xảo cho HS đặc biệt là kĩ năng

nhận thức, kĩ năng tư duy, phân tích, so sánh, đánh giá, rút ra kết luận từ các sự kiện, hiện

tượng lịch sử. Bên cạnh đó bồi dưỡng thêm cho HS các kĩ năng thực hành bộ môn như kĩ

năng làm việc với SGK, với các nguồn tài liệu, kĩ năng sử dụng bản đồ, lược đồ, tranh

ảnh... Bồi dưỡng thêm cho HS các năng lực nâng cao khác như năng lực giải quyết vấn

đề, năng lực tư duy tổng hợp,vận dụng kiến thức đã học vào thực tế cuộc sống.

- Về thái độ: Bồi dưỡng cho HS tình yêu con người, tình yêu quê hương đất

nước, biết trân quý, tự hào những thành quả to lớn cả mà ông cha đã không quản ngại

bao vất vả để có được ngày hôm nay. Bên cạnh đó, còn vun đắp học sinh thái độ, tư

tưởng tình cảm đúng đắn, biết phân biệt tốt-xấu, biết phân biệt đúng-sai, phải-trái, nâng

cao hơn tính thẩm mĩ trong mỗi em. Đặc biệt, giúp các em thấy được sức mạnh của đại

đoàn kết dân tộc, yêu lao động, có tinh thần trách nhiệm với Tổ quốc, có ý thức làm

tròn nghĩa vụ công dân. Qua đó, HS sẽ có ý thức hơn trong học tập và rèn luyện sao

cho thật sự xứng đáng với những hi sinh của các thế hệ cha anh đi trước.

30

Như vậy, để việc DHLS có hiệu quả, không những yêu cầu người GV cần nhận

thức rõ mục tiêu của môn Lịch sử ở trường THPT mà còn đòi hỏi phải hiểu rõ nội dung

cơ bản của chương trình. Trên cơ sở đó sẽ tìm ra các phương pháp, hình thức và phương

tiện dạy học phù hợp, phát huy tối đa sự phát triển toàn diện HS.

2.1.2. Nội dung kiến thức lịch sử Việt Nam lớp 10

* Chủ đề: Việt Nam thời nguyên thủy

Đây là giai đoạn phát triển đầu tiên của LSVN, đánh dấu bằng sự xuất hiện của

người tối cổ có niên đại cách ngày nay khoảng 4 triệu năm trước tại khu vực tỉnh

Thanh Hóa. Ở thời nguyên thủy, chương trình lịch sử đã cung cấp đầy đủ những thông

tin cần thiết cho giai đoạn này. Con người từ một loại vượn cổ (có niên đại 6 triệu

năm CNN) đã dần tiến hóa thành người tối cổ (có niên đại 4 triệu năm CNN), người

tối cổ tiến hóa lên người tinh khôn (có niên đại 4 vạn năm CNN). Trải qua quá trình

tiến hóa về mặt sinh học, con người dần hoàn thiện về các hoạt động lao động, phát

triển các kĩ thuật chế tạo công cụ từ công cụ bằng đá thô sơ cho tới kĩ thuật chế tác

tinh xảo, từ công cụ bằng đá cho tới các công cụ bằng đồng, bằng sắt như giáo, mác,

cung tên. Các phương thức sinh hoạt - kiếm sống từ thường xuyên ở trong các hang

động, mái đá, săn bắt, hái lượm, ‘ăn lông ở lỗ” cho đến việc tìm ra lửa, “ăn chín uống

sôi”, biết dựng nhà, sử dụng “quần áo”, trang sức cho tới việc tổ chức cơ cấu xã hội

từ bầy người nguyên thủy cho tới thị tộc, bộ lạc, từ gia đình mẫu hệ chuyển đổi sang

gia đình phụ hệ.

* Chủ đề:Việt Nam thời cổ đại

Ở trong giai đoạn này, HS được cung cấp thêm các kiến thức về thời cổ đại. Lý

giải trên địa bàn đất nước ta thời cổ đại không phải là một lãnh thổ toàn vẹn như bây

giờ. Đó là sự tách biệt, mở rộng và thống nhất các quốc gia cổ ở Việt Nam bao gồm

Văn Lang, Âu Lạc, Chăm-pa và Phù Nam trên cơ sở các nền văn hóa khác nhau (văn

hóa Đông Sơn, văn hóa Sa Huỳnh, văn hóa Óc eo).

* Chủ đề: Việt Nam thời Bắc thuộc

Theo quy luật vận động của lịch sử không thể tránh khỏi các cuộc xung đột, xâm

lược mà trong lịch sử Việt Nam tiêu biểu chính là thời kì Bắc thuộc. Thời Bắc thuộc

kéo dài 1000 năm với sự đô hộ của chính quyền phương Bắc. Mở đầu thời kì đó chính

31

là sự kiện nhà Triệu tiến đánh Âu Lạc. Sau khi chiếm được Âu Lạc, chúng đã thi hành

một loạt các chính sách cải cách, phát triển về tổ chức bộ máy nhà nước (chia nước

ta thành 2 quận, sát nhập vào quốc gia Nam Việt), về kinh tế và âm mưu đồng hóa

mặt văn hóa. Dưới sự tác động của các chính sách đó, kinh tế, văn hóa, xã hội của

chúng ta có những biến chuyển nhất định và xuất hiện trong xã hội một mối mâu

thuẫn mới đó chính là mâu thuẫn dân tộc (mâu thuẫn giữa nhân dân ta với chính quyền

đô hộ phương Bắc). Mặc dù các triều đại phong kiến phương Bắc ra sức đàn áp, tăng

cường cai trị đến tận cấp huyện, tổ chức đơn vị hành chính đến cấp hương, xã nhưng

không thể nào khống chế nổi các xóm làng người Việt. Chính các xóm làng này là

nơi xuất phát điểm cho các cuộc đấu tranh giành độc lập nổ ra. Không cam tâm với

thời cuộc, “có áp bức, có đấu tranh”, nhân dân ta đã nổi dậy đấu tranh mạnh mẽ với

nhiều cuộc khởi nghĩa nổ ra. Từ khởi nghĩa Hai Bà Trưng (năm 40) cho đến cuộc

khởi nghĩa của Lí Bí (năm 542) với sự ra đời của nhà nước độc lập tự chủ Vạn Xuân,

cho đến cuộc khởi nghĩa giành được chính quyền tự chủ của Khúc Thừa Dụ (905).

Đặc biệt, năm 938 với chiến thắng Bạch Đằng của Ngô Quyền đã mở ra một trang

lịch sử mới, thời đại mới - thời đại độc lập, tự chủ lâu dài của dân tộc ta, chấm dứt

1000 năm Bắc thuộc.

* Chủ đề: Sự hình thành và phát triển nhà nước phong kiến Việt Nam từ thế kỉ

X đến nửa đầu thế kỉ XIX.

Sau khi đánh bại được quân Nam Hán, năm 939 Ngô Quyền xưng vương, bắt

tay vào xây dựng chính quyền mới, đóng đô ở Cổ Loa (Đông Anh - Hà Nội). Đến năm

944, Ngô Quyền mất. Nhà Ngô suy vong dẫn tới “loạn 12 sứ quân”, đất nước bị chia

cắt. Sau khi dẹp “loạn 12 sử quân” năm 968 nhà Đinh được thành lập và tiếp sau đó là

nhà Tiền Lê. Các nhà nước phong kiến đã xây dựng một nhà nước sơ khai gồm 3 ban:

Văn ban, võ ban và tăng ban. Chia đất nước thành 10 đạo, tổ chức quân đội quy củ hơn.

Nhà nước phong kiến thực sự hoàn chỉnh và phát triển bắt đầu từ thế kỉ XI trở đi với

sự ra đời của triều đại nhà Lý. Năm 1009, nhà Lý được thành lập. Năm 1010, Lý Công

Uẩn - ông tổ triều đại nhà Lý đã chuyển kinh đô từ Hoa Lư (Ninh Bình) về Thăng Long

(Hà Nội) - đây được coi là sự kiện quan trọng trong LSVN đầu thế kỉ XI - mở ra một

giai đoạn phát triển mới. Tiếp nối sự trị vì của nhà Lý là nhà Trần vào năm 1226 với

32

sự kiện vua nữ duy nhất của lịch sử Việt Nam - Lý Chiêu Hoàng nhường ngôi cho

chồng mình là Trần Cảnh. Dưới thời Lý - Trần, tổ chức bộ máy đã hoàn chỉnh hơn so

với trước, đất nước được chia thành nhiều lộ, trấn do các hoàng tử (thời Lý) hay An

phủ sứ (thời Trần) cai quản. Thời Lý-Trần chú trọng phát triển quân đội quy củ, xây

dựng hệ thống pháp luật chặt chẽ, cho ra đời bộ luật Hình thư (Thời Lý) hay Hình luật

(thời Trần).

Cuối thế kỉ XVI, nhà Trần suy vong. Năm 1400, Hồ Quý Ly cướp ngôi nhà

Trần, lập ra nhà Hồ. Cuộc cải cách của Hồ Quý Ly chưa đạt được kết quả mong muốn

thì lực lượng quân Minh từ phương Bắc đã ồ ạt tiến sang xâm lược. Năm 1407, cuộc

kháng chiến của nhà Hồ bị thất bại, đất nước ta lâm vào ách đô hộ của nhà Minh. Ở

thời điểm đó, trong nước có rất nhiều cuộc khởi nghĩa đã bùng lên nhưng đều bị dập

tắt. Trước sự tàn bạo của kẻ thù xâm lược, cuộc khởi nghĩa của Lê Lợi đã nổ ra tại

Thanh Hóa vào năm 1418. Tuy nhiều lần bị tiến công dữ dội nhưng với ý chí chiến

đấu, sự đoàn kết của dân tộc chúng ta đã làm nên chiến thắng lừng lẫy ở trận Chi Lăng

- Xương Giang buộc chúng phải chấp nhận sự thất bại nặng nề.

Sau khi đất nước hoàn toàn giải phóng, năm 1428 Lê Lợi lên ngôi vua, thực hiện

một loạt cải cách mới. Sau khi lên ngôi, vua Lê Thánh Tông tiến hành một cuộc cải

cách hành chính lớn. Ở trung ương bãi bỏ chức Thừa tướng và các chức Đại hành khiển.

Vua trực tiếp quyết định mọi việc, tập trung quyền lực vào mình, bên dưới là 6 bộ (Lại,

Hộ, Lễ, Binh, Hình, Công). Các cơ quan như Ngự sử đài, Hàn lâm viện được duy trì

và có quyền hành cao hơn. Cả nước được chia thành 13 đạo thừa tuyên, mỗi đạo có 3

ti (đô ti, thừa ti, hiến ti) trông coi các mặt dân sự, quân sự và an ninh.

Nhìn chung, dưới các triều đại phong kiến Đại Việt đều chú ý tới việc xây dựng

quân đội hùng mạnh, chặt chẽ, có quy củ, vấn đề đảm bảo an ninh đất nước rất được

coi trọng. Nhân dân tuy phải thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ đi lính, lao dịch, nộp thuế

song được nhà nước coi trọng và quan tâm đến đời sống.

Các triều đại phong kiến đều có chính sách đại đoàn kết dân tộc, đặc biệt là

với các dân tộc thiểu số ít người, với các tù trưởng ở vùng biên giới. Khi có giặc ngoại

xâm, nhà nước đều huy động hoặc khuyến khích họ tham gia chiến đấu bảo vệ tổ

quốc.

33

Trong hoạt động đối ngoại, đối với các nước láng giềng phía Tây và phía Nam

như Lan Xang, Chăm Pa, Chân Lạp, nhà nước Đại Việt luôn giữ mối quan hệ hòa hảo,

thân thiện mặc dù đôi lúc có xảy ra chiến tranh. Đối với chính quyền phương Bắc, các

triều đại phong kiến Đại Việt thực hiện đầy đủ lệ triều cống những luôn giữ vững tư

thế của một quốc gia độc lập, tự chủ riêng. Khi bị xâm lược, nhà nước và nhân dân ta

sẵn sàng đứng lên bảo vệ Tổ quốc.

Đầu thế kỉ XVI, triều Lê sơ bị suy yếu. Nhân cơ hội đó, Mạc Đăng Dung cướp

ngôi nhà Lê, thành lập ra nhà Mạc. Không chấp nhận chính quyền nhà Mạc, một số

quan lại cũ nhà Lê nổi dậy đấu tranh, đứng đầu là Nguyễn Kim. Từ đây, một nhà nước

mới được thành lập, sử cũ gọi là Bắc triều. Chiến tranh Nam - Bắc triều bùng nổ cho

đến cuối thế kỉ XVI. Nhà Mạc bị lật đổ. Không lâu sau, hình thành một thế lực cát cứ

- thế lực phong kiến họ Nguyễn.

Năm 1627, chiến tranh Trịnh - Nguyễn bùng nổ, không phân thắng bại, hai bên lấy

sông Gianh làm ranh giới, chia đất nước thành hai đàng: Đàng Trong và Đàng Ngoài.

Năm 1771, một cuộc khởi nghĩa nông dân bùng lên ở ấp Tây Sơn do ba anh em

Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ lãnh đạo. Cuộc khởi nghĩa đã lật đổ được chính

quyền chúa Nguyễn ở Đàng Trong và chính quyền Lê - Trịnh ở Đàng Ngoài, đánh đuổi

được sự xâm lược của quân Xiêm và Thanh, thành lập ra vương triều Tây Sơn.

Vương triều Tây Sơn tồn tại trong một khoảng thời gian ngắn, năm 1792, vua

Quang Trung qua đời. Nhân cơ hội đó, năm 1802, Nguyễn Ánh lật đổ vương triều Tây

Sơn thành lập ra nhà Nguyễn.

Kế tiếp sự nghiệp các vương triều trước, nhà Nguyễn cũng đã cải cách đất nươc

và thi hành một số những chính sách có lợi cho đất nước Tuy nhiên, với chính sách

ngoại giao sai lầm, “đóng cửa” không giao lưu với các nước tư bản phương Tây, thi

hành chính sách “giết đạo”, “diệt đạo” đã làm cho nhà Nguyễn gặp nhiều bất lợi, không

có điều kiện phát triển.

Năm 1858, thực dân Pháp nổ súng xâm lược. Việt Nam bước sang một thời kì mới.

* Chủ đề: Các cuộc đấu tranh chống giặc ngoại xâm, bảo vệ tổ quốc từ thế kỉ X

đến nửa đầu thế kỉ XIX.

Như các triều đại khác, các triều đại phong kiến Việt Nam cũng không thể nào

tránh khỏi được các cuộc xâm lược từ bên ngoài vào mà chủ yếu đến từ các triều đại

34

phong kiến phương Bắc. Trong chương trình lịch sử lớp 10 đã cung cấp cho HS các

kiến thức cơ bản về các cuộc đấu tranh chống giặc ngoại xâm ở thế kỉ X đến thế kỉ XV.

Đầu thế kỉ thứ X, nhân dân Việt Nam đã giành được quyền tự chủ, lật đổ hoàn toàn ách

đô hộ, thống trị hơn một nghìn năm của phong kiến phương Bắc. Nhưng chẳng bao lâu

sau chiến thắng Bạch Đằng năm 938, nhân dân ta phải đối mặt với sự xâm lược hai lần

của chính quyền phong kiến nhà Tống. Lần thứ nhất, vào năm 980 khi nhận được tin

nhà Đinh đang trong tình trạng khó khăn, vua Tống đã đem quân sang xâm lược. Trước

tình thế đó, thái hậu Dương Vân Nga đã nhường lại ngôi báu cho Thập đạo tướng quân

Lê Hoàn, mở ra một triều đại mới - triều đại Tiền Lê. Năm 981, quân Tống tiến vào

nước ta. Với sự đoàn kết dân tộc, ý chí chiến đấu kiên cường, quân và dân Đại Cồ Việt

đã đánh thắng quân Tống. Tuy nhiên, sau thất bại lần thứ nhất này, quân Tống vẫn nuôi

hi vọng một ngày không xa sẽ được “phục thù”, chiếm được giang sơn Đại Việt. Chính

vì vậy,vào những năm 70 của thế kỉ XI, trong lúc Đại Việt đang phát triển hưng thịnh

dưới thời Lý thì nhà Tống bước vào giai đoạn khủng hoảng. Để thoát khỏi tình trạng

này, vua tôi nhà Tống đã quyết định thực hiện mưu đồ xâm lược Đại Việt lần thứ hai.

“Nếu thắng, thế Tống sẽ tăng, các nước Liêu, Hạ sẽ phải kiềng nể”. Năm 1077, chúng

đem quân sang xâm lược nước ta một lần nữa nhưng lần nào cũng vậy, “thời thế sinh

anh hùng”quân và dân Đại Việt ngay sau khi nhận được tin cấp báo đã chuẩn bị sẵn

sàng tâm thế cho cuộc kháng chiến hứ hai này. Dưới sự lãnh đạo của vua tôi nhà Lý,

đặc biệt dưới sự lãnh đạo tài giỏi của thái úy Lý Thường Kiệt, quân ta đã đánh tan giặc

ngoại xâm trong trận quyết chiến ở bờ sông Như Nguyệt, làm nên chiến thắng vang dội

với sự ra đời của “bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên” của nước ta - Nam quốc sơn hà.

“ Nam quốc sơn hà Nam đế cư

Tiệt nhiên định phận tại thiên thư

Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm

Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư.”[6; tr.97]

Sau cuộc kháng chiến chống Tống, quân và dân Đại Việt dưới thời nhà Trần lại

phải đương đầu với một thử thách lớn, trong vòng 30 năm chúng ta phải tiến hành 3

lần kháng chiến chống quân xâm lược Mông Nguyên - một đội quân hùng hậu, hiếu

chiến thời bấy giờ (1258, 1285, 1287 - 1288).

35

Dưới sự lãnh đạo của các vị vua nhà Trần như Trần Thái Tông, Trần Thánh

Tông, Trần Nhân Tông, Thái sư Trần Thủ Độ cùng hàng loạt các vị tướng tài giỏi khác

như Trần Quang Khải, Phạm Ngũ Lão, Trần Nhật Duật đặc biệt là Trần Quốc Tuấn

cùng với sức mạnh tình đoàn kết quân dân, chúng ta đã khiến cho quân Mông - Nguyên

chịu thất bại cay đắng trong các trận Đông Bộ Đầu, Chương Dương, Hàm Tử, Tây Kết,

Vạn Kiếp ở hai lần xâm lược năm 1258, 1285 và đau đớn nhất ở trận đại bại trên sông

Bạch Đằng năm 1288 trong ba lần xâm lược.

“Bạch Đằng nhất trận hỏa công

Tặc binh đại phá, huyết hồng man giang”[6; tr.98]

Cuối thế kỉ XIV, khi nhà Hồ thành lập chưa được bao lâu thì vấp phải sự xâm

lược của quân Minh. Do thiếu sự lãnh đạo và đặc biệt là tình đoàn kết quân dân cho

nên năm 1407, cuộc kháng chiến chống quân Minh của nhà Hồ bị thất bại, nước ta lại

rơi vào ách đô hộ. Trước những hành động tàn ác của kẻ thù, hàng loạt các cuộc khởi

nghĩa bùng nổ trên cả nước tiêu biểu là cuộc khởi nghĩa Lam Sơn vào năm 1418. Được

sự ủng hộ của quần chúng nhân dân, nghĩa quân đã hành quân ra Bắc, quyết chiến với

quân Minh, đẩy chúng vào thế bị động. Cuối năm 1427, 10 vạn quân cứu viện ồ ạt tràn

vào nước ta đã bị nghĩa quân đánh tan tành ở trận Chi Lăng - Xương Giang, buộc chúng

trở về nước.

Dưới thời Tây Sơn, sau khi chính quyền phong kiến chúa Nguyễn bị lật đổ -

không cam tâm trước thế cục này cho nên Nguyễn Ánh - cháu của chúa Nguyễn đã

chạy sang Xiêm cầu viện. Nhân cơ hội đó, Xiêm điều 5 vạn quân tràn vào nước ta. Tuy

nhiên, do sự lãnh đạo tài tình của Nguyễn Huệ và lòng quyết tâm chống giặc của nhân

dân ta mà quân Xiêm đã đại bại ở trận Rạch Gầm - Xoài Mút, buộc chúng chấm dứt

âm mưu, quay đầu về nước.

Cũng như nhà chúa Nguyễn, sau khi bị thất bại nặng nề, Vua Lê Chiêu Thống đã

cầu viện nhà Thanh. Năm 1788, nhà Thanh cử 29 vạn quân sang xâm lược nước ta với

danh nghĩa giúp nhà Lê giành chính quyền. Trước tình hình đó, Bắc Bình Vương

Nguyễn Huệ sau khi lên ngôi Hoàng đế vào ngày 25 tháng 11 năm 1788 đã chỉ huy

quân tiến ra Bắc. Trận hành quân thần tốc từ đêm 30 Tết (tức 25/1/1789) cho tới mùng

5 Tết quân ta đã tiến đến thành Thăng Long, chiến đấu quyết liệt và giành thắng lợi ở

trận Ngọc Hồi - Đống Đa.

36

* Chủ đề: Kinh tế - xã hội Việt Nam thời phong kiến (từ thế kỉ X đến nửa đầu

thế kỉ XIX)

Đầu thế kỉ X, sau khi giành được độc lập, tự chủ, nhân dân cả nước lại bắt tay

vào công cuộc khôi phục và xây dựng đất nước. Công cuộc khai hoang, mở rộng diện

tích canh tác ngày càng gia tăng. Các vị vua triều đại Tiền Lê, Lý, Trần ban bố nhiều

chính sách động viên nhân dân sản xuất, khai hoang, lập điền trang. Đại Việt thời bấy

giờ thường xuyên bị nạn lụt đe dọa, gây nhiều khó khăn, cho nên bên cạnh việc phát

triển nông nghiệp, các triều đại phong kiến luôn chú trọng việc đê điều, chống lũ. Do

vậy, làng xóm được bảo vệ, mùa màng được ổn định.

Đất nước thống nhất, thủ công nghiệp có điều kiện phát triển nhanh chóng. Các

nghề thủ công truyền thống ngày càng phát triển, chất lượng sản phẩm được nâng cao,

một số làng nghề thủ công đươc hình thành.

Sự phát triển của nông nghiệp và thủ công nghiệp đã đẩy mạnh sự phát triển của

thương nghiệp. Các chợ làng, chợ huyện, chợ chùa mọc lên ở nhiều nơi, giao lưu buôn

bán các sản phẩm nông nghiệp, thủ công nghiệp ngày càng nhộn nhịp. Hình thành các

đô thị và hải cảng lớn, có sự giao lưu buôn bán với thương nhân nước ngoài.

Sự phát triển của kinh tế trong hoàn cảnh chế độ phong kiến vừa góp phần nâng

cao đời sống nhân dân, củng cố nền độc lập dân tộc, vừa đẩy nhanh sự phân hóa giai

cấp. Do có nhiều nguyên nhân khác nhau đã làm cho mâu thuẫn xã hội ngày càng gay

gắt. Nhiều cuộc khởi nghĩa nông dân bùng lên, nhất là vào cuối thế kỉ XIV.

Từ cuối thế kỉ XV đến đều thế kỉ XVI, ruộng đất ngày càng tập trung vào tay

địa chủ, quan lại. Nhà nước không quan tâm đến sản xuất như trước. Mất mùa, đói

kém, cuộc sống cực khổ liên miên đã khiến nhân dân nổi dậy đấu tranh. Đến nửa sau

thế kỉ XVII mới dần ổn định trở lại.

Đàng Trong và Đàng Ngoài tiếp tục khai hoang, mở rộng diện tích đất canh tác.

Nhân dân hai miền ra sức sản xuất, bồi đắp đê đập, nao vét mương máng, cải thiện

giống và kĩ thuật canh tác. Do vậy mà kinh tế thời điểm này ngày càng phát triển. Tuy

nhiên, đây cùng là giai đoạn gia tăng tình trang tập trung ruộng đất vào tay giai cấp địa

chủ phong kiến.

37

Trong thủ công nghiệp, bên cạnh những nghề thủ công nghiệp truyền thống thì

xuất hiện nhiều nghề thủ công nghiệp mới như làm đồng hồ, làm tranh sơn mài, khắc

in bản gỗ…Số lượng làng nghề, phường hội ngày càng gia tăng, chất lượng sản phẩm

thủ công ngày một tốt hơn. Ngoài ra, ngành khai mỏ cũng được chú trọng, phát triển ở

cả hai Đàng Trong và Đàng Ngoài.

Từ thế kỉ XVI - XVII, buôn bán phát triển mạnh ở miền xuôi. Các chợ huyện,

chợ phủ mọc lên khắp nơi. Nhiều nơi trong nước đã xuất hiện làng buôn, trung tâm

buôn bán của vùng, các đô thị ngày càng hưng khởi, việc buôn bán giữa các vùng được

tăng lên, các mặt hàng buôn bán đa dạng, dồi dào hơn. Cũng trong thời gian này, do sự

giao lưu buôn bán trên thế giới và do chủ trương mở cửa của chính quyền Trịnh,

Nguyễn nên ngoại thương phát triển nhanh chóng.

Ngoại thương phát triển rầm rộ một thời gian nhưng đến giữa thế kỉ XVIII bị suy

yếu. Chế độ thuế khóa ngày càng nặng nề, phức tạp cho nên kinh tế dần xuống dốc.

Đầu thế kỉ XIX - dưới thời nhà Nguyễn, nông nghiệp lạc hậu, không có gì đổi

mới, ruộng đất hoang hóa nhiều. Từ năm 1804, nhà nước ban hành chính sách quân

điền nhưng ruộng đất công chỉ còn có 20% tổng diện tích ruộng đất. Hơn nữa, do chính

sách ưu tiên ruộng đất cho quý tộc, quan lại, binh lính cho nên ruộng đất công làng xã

không còn nhiều. Nhà Nguyễn đã khuyến khích nhân dân khai hoang nhưng diện tích

đất tăng lên không nhiều. Hàng năm, nhà nước cố gắng bỏ tiền, thóc, huy động nhân

dân đắp đê, nạo vét kênh mương song vẫn không khắc phục được lũ lụt.

Khác với nông nghiệp, thủ công nghiệp, thương nghiệp có cơ hội phát triển hơn,

các làng nghề, phường hội được duy trì, có sự giao lưu với các vùng khác tuy nhiên

không thể hưng thịnh được như thời gian trước.

Vào thế kỉ XVIII, nhà nước phong kiến ngày càng tăng thêm tính chuyên chế,

thiên tai, mất mùa, đói kém thường xuyên xảy ra, mâu thuẫn xã hội trở nên gay gắt, từ

đó dẫn tới nhiều cuộc khởi nghĩa nông dân nổ ra khắp cả nước. Tiêu biểu như khởi

nghĩa của Phan Bá Vành, Cao Bá Quát, Lê Văn Khôi, Nông Văn Vân …

* Chủ đề: Văn hóa dân tộc trong các thế kỷ X - XIX

Bước sang thời kỳ độc lập trong bối cảnh có chủ quyền độc lập, Nho giáo, Phật

giáo, Đạo giáo du nhập vào nước ta có điều kiện phát triển. Nho giáo dần trở thành hệ

38

tư tưởng chính thống của giai cấp thống trị, đặt ra các nguyên tắc chi phối xã hội, giáo

dục, khoa cử. Tuy nhiên, ở thế kỉ X - XV, ảnh hưởng của nho giáo trong nhân dân hạn

chế, còn đạo Phật lại giữ một vị trí đặc biệt quan trọng và rất phổ biến. Ở giai đoạn này,

đạo Phật được coi là quốc giáo. Đạo giáo tuy không phổ biến nhưng hòa lẫn với tín

ngưỡng dân gian, được nhân dân đón nhận. Từ cuối thế kỉ XIV, Phật giáo và Đạo giáo

suy dần. Thời Lê Sơ, Nho giáo chính thức được nâng lên vị trí độc tôn. Vị trí đó được

duy trì cho đến thế kỉ XIX. Bên cạnh Nho giáo, Phật giáo và Đạo giáo, vào thế kỉ XVI,

Thiên Chúa giáo du nhập vào nước ta và có cơ hội phát triển. Tuy nhiên, về sau, dưới

nhà Nguyễn chủ trương độc tôn Nho giáo, hạn chế sự hoạt động của các tôn giáo khác,

đặc biệt là Thiên Chúa giáo đã làm cho tôn giáo này không có cơ hội phát triển.

Giáo dục được đặc biệt chú trọng. Năm 1070, vua Lý Thánh Tông cho lập Văn

Miếu. Năm 1075, khoa thi quốc gia đầu tiên đã được tổ chức. Từ thế kỉ XI đến thế kỉ

XV, giáo dục Đại Việt từng bước phát triển, trở thành nguồn đào tạo quan chức và người

tài. Thời Lê Sơ, quy chế thi cử được ban hành rõ ràng. Năm 1484, nhà nước quyết định

lập bia Tiến sĩ. Đến thời nhà Mạc, giáo dục tiếp tục được quan tâm, thường xuyên tổ

chức các kì thi để chọn nhân tài. Từ khi đất nước bị chia cắt cho đến thời nhà Nguyễn,

giáo dục vẫn được chú trọng tuy nhiên kết quả không đạt được như mong đợi.

Sự phát triển của giáo dục góp phần phát triển văn học ở thế kỉ X - XV. Ban

đầu, văn học mang nặng tư tưởng Phật Giáo. Từ thời Trần, văn học dân gian ngày càng

phát triển. Xuất hiện hàng loạt các nhà thơ với các tác phẩm nổi tiếng như Hịch tướng

sĩ, Bình Ngô đại cáo, Bạch Đằng Giang phú…Sang đến thế kỉ XVI - XVII, cùng với

sự suy thoái của Nho giáo, văn học chữ Hán mất dẫn vị thế vốn có. Tuy vậy, ở giai

đoạn này, văn học chữ Nôm dần trở nên phổ biến và trở thành một trào lưu văn học

dân gian khá rầm rộ.

Nghệ thuật cũng có những bước phát triển mới. Các công trình kiến trúc, tác phẩm

điêu khắc mang hơi hướng tôn giáo xuất hiện ngày càng phổ biến. Các loại hình văn hóa

dân gian như hát chèo, hát tuồng, múa rối nước… vẫn được giữ gìn và phát huy.

Cùng với sự phát triển của giáo dục và ý thức của dân tộc, nhiều ngành khoa

học - kĩ thuật đã đạt nhiều thành tựu nổi bật. Về sử học, có bộ Đại Việt sử kí (của Lê

Văn Hưu) - bộ sách sử chính thống của nhà nước - được biên soạn, Đại Việt thông sử,

39

Phủ biên tạp lục, Thiên Nam ngữ lục... Về địa lí có Dư địa chí, Hồng Đức bản đồ, Thiên

Nam tứ chi lộ đồ thư; về quân sự có Binh thư yếu lược, Hổ trưởng khu cơ; về y học có bộ

sách y dược của Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác…Đặc biệt, trong quốc phòng trang bị

súng thần cơ (do Hồ Nguyên Trừng chế tạo), súng đại bác, thuyền chiến… phục vụ cho

sự nghiệp bảo vệ tổ quốc. Ngoài ra, vào XVII - XVIII, một số thành tựu kĩ thuật phương

Tây đã du nhập vào nước ta thông qua con đường ngoại thương và truyền đạo không có

điều kiện phát triển do bị nhiều tác động chi phối, kìm hãm.

2.2. Các loại tài liệu văn học có thể sử dụng trong dạy học lịch sử Việt Nam lớp 10

ở trường phổ thông

Bảng 2.1: Thống kê những tác phẩm có thể sử dụng

trong chương trình lịch sử 10

BÀI HỌC LỊCH SỬ TLVH CÓ THỂ KHAI THÁC

- Truyền thuyết Con Rồng cháu Tiên (Việt Nam)

- Truyền thuyết Thần Nông (Việt Nam)

- Truyện Quả Bầu mẹ (dân tộc Khơ- mú,Việt Nam) Bài 13: Việt Nam thời - Thần thoại Nữ Oa vá trời (Trung Quốc) nguyên thủy - Thần thoại Hy Lạp

- Huyền thoại Zoroaster (Ba Tư)

- Ca dao nói về nguồn gốc con người Việt Nam

- Truyền thuyết Thánh Gióng

- Sự tích Bánh chưng bánh dày

- Truyền thuyết Mai An Tiêm Bài 14: Các quốc gia cổ đại -Truyền thuyết Sơn Tinh - Thủy Tinh trên đất nước Việt Nam -Truyền thuyết Mị Châu - Trọng Thủy

- Ca dao nói về sự hình thành và phát triển của thời

Văn Lang - Âu Lạc

40

- Truyền thuyết Con ngựa đá

- Truyền thuyết về cuộc đời Đinh Bộ Lĩnh Bài 17: Quá trình hình thành - Câu chuyện “xin gươm” (nói về câu chuyện Đinh và phát triển của nhà nước Bộ Lĩnh xin gươm của Ngô Vương) phong kiến (Từ thế kỉ X đến - Câu chuyện về lời tiên tri Lý Công Uẩn xưng vương thế kỉ V) - Truyền thuyết về sự kiện Lý Công Uẩn rời kinh đô

về Thăng Long

- Tác phẩm Nam quốc sơn hà (Lý Thường Kiệt)

- Tác phẩm Hịch Tướng sĩ (Trân Hưng Đạo)

- Sự tích Hồ Gươm Bài 19: Những cuộc kháng - Tác phẩm Quân trung từ mệnh tập (Nguyễn Trãi) chiến chống ngoại xâm ở các - Tác phẩm Bình Ngô đại cáo (Nguyễn Trãi) thế kỉ X - XV - Bài thơ Xương Giang phú (Lý Tử Tấn)

- Bài thơ Bạch Đằng giang phú (Trương Hán Siêu

- Ca dao, tục ngữ về chiến thắng các cuộc đấu tranh

- Tác phẩm Hịch ra trận (Quang Trung - Nguyễn Bài 23: Phong trào Tây Sơn Huệ) và sự nghiệp thống nhất đất - Tác phẩm Long thành quang phục kỷ thực (Ngô nước, bảo vệ Tổ quốc cuối Ngọc Du) thế kỉ XVIII - Bài thơ Quang Trung hoàng đế (Hồ Đắc Duy)

- Bài thơ Chinh phụ ngâm khúc (Đặng Trần Côn)

- Bài thơ Cung oán ngâm khúc (Nguyễn Gia Thiều) Bài 24: Tình hình văn hóa ở -Bài thơ Đáp đô đốc Nùng nguyên soái giản (Phùng các thế kỉ XVI - XVIII Khắc Khoan)

- Truyện Truyền kì mạn lục (Nguyễn Dữ)

- Tác phẩm Truyện Kiều (Nguyễn Du) Bài 25: Tình hình chính trị, - Tác phẩm Qua đèo ngang, Thăng Long hoài cổ, kinh tế, văn hóa dưới triều Cảnh đền Trấn võ (Bà huyện Thanh Quan) Nguyễn (Nửa đầu thế kỉ - Bài thơ Tự Tình, Lỡm học trò, Lấy chồng chung XIX) (Thi sĩ Hồ Xuân Hương)

41

- Truyền thuyết Thánh Gióng

- Sự tích Bánh chưng bánh dày

- Truyền thuyết Mai An Tiêm

- Truyền thuyết Sơn Tinh - Thủy Tinh

Bài 27: Quá trình dựng -Truyền thuyết Mị Châu - Trọng Thủy

nước và giữ nước - Câu chuyện “xin gươm” (nói về câu chuyện Đinh

Bộ Lĩnh xin gươm của Ngô Vương)

- Ca dao, tục ngữ, hò, vè về thời kì dựng nước và

giữa nước

- Truyền thuyết Thánh Gióng

- Truyền thuyết Sơn Tinh - Thủy Tinh

-Truyền thuyết Mị Châu - Trọng Thủy Bài 28: Truyền thống yêu - Tác phẩm Hịch Tướng sĩ (Trân Hưng Đạo) nước của dân tộc Việt Nam - Tác phẩm Quy hạ Lam Sơn 1, Quy hạ Lam Sơn 2 thời phong kiến (Nguyễn Trãi)

- Tác phẩm Lòng yêu nước của nhân dân ta (Hồ Chí

Minh)

2.3. Những yêu cầu khi sử dụng tài liệu văn học trong dạy học lịch sử Việt Nam

lớp 10 ở trường trung học phổ thông thành phố Thái Nguyên

2.3.1. Đảm bảo đạt được mục tiêu dạy học

Dạy học đạt được mục tiêu đề ra là việc HS phải hiểu sâu sắc những nội dung

kiến thức lịch sử được học. Mục tiêu của bài học lịch sử là cụ thể hóa mục tiêu của

bộ môn. Do đó, người GV cần đặt ra những mục tiêu cụ thể, rõ ràng và cố gắng thực

hiện tốt các mục tiêu ấy. Mục tiêu việc sử dụng TLVH trong DHLS phải thể hiện trên

cả ba mặt: bồi dường kiến thức, rèn luyện kĩ năng và giáo dục tư tưởng, thái độ phù

hợp với đặc trưng từng lứa tuổi và khả năng nhận thức của HS. Trong DHLS, việc

xác định mục tiêu của từng bài học lịch sử giúp GV linh hoạt hơn trong việc lựa chọn

các biện pháp sử dụng TLVH sao cho phù hợp. Trên thực tế chứng minh, dù GV có

sáng tạo bao nhiêu mà dạy học không thực hiện được mục tiêu tức là dạy học không

có chất lượng.

42

Vì vậy, trong quá trình DHLS, người GV cần phải lựa chọn những biện pháp sử

dụng TLVH hay, phù hợp với nội dung, điều kiện dạy học và trình độ của HS để thực

hiện nhưng phải đảm bảo mục tiêu dạy học đặt ra.

2.3.2. Tạo được hứng thú học tập cho học sinh

“Hứng thú học tập là thái độ lựa chọn của cá nhân với đối tượng của hoạt động

học tập, là động lực để người học đạt kết quả cao, tạo cho cá nhân động lực để làm

việc” [31; tr.73]. Trong công cuộc đổi mới PPDH hiện nay, hứng thú học tập là động

lực rất cần thiết để HS thoát khỏi sự áp đặt của cách học truyền thống, hướng tới HS

tới cách học tích cực hơn. Đặc biệt, đối với lứa tuổi HS THPT thành phố Thái Nguyên

thì hứng thú học tập lại càng quan trọng hơn. Bởi, mặc dù đa số bản thân các em đã

xác định được vai trò to lớn của việc học tập, hiểu rõ tầm quan trọng của việc học đối

với tương lai nhưng đôi khi do mải chơi, do sa đà vào các thú tiêu khiển nên quên mất

nhiệm vụ, thường ỷ lại, không toàn tâm toàn ý dành quan tâm cho học tập nếu các em

không có hứng thú, niềm yêu thích môn học. Do vậy, việc tạo hứng thú học tập cho HS

là yêu cầu quan trọng, góp phần nâng cao chất lượng DHLS.

Có thể hiểu đơn giản, việc sử dụng TLVH trong DHLS nhằm tạo hứng thú học

tập cho HS có vai trò quan trọng, đó là sự kết hợp giữa nhận thức và cảm xúc tích cực,

khi đó các em sẽ nhanh chóng tiếp thu, nhớ lâu, hiểu sâu hơn nội dung kiến thức bài

học. Đồng thời, sự hứng thú sẽ kích thích tính tự giác học tập, tự giác hoàn thiện bản

thân, nâng cao khả năng chiếm lĩnh tri thức của các em.

Tuy nhiên, khi sử dụng TLVH, người GV cần lưu ý và tuân thủ những nguyên

tắc DHLS để đáp ứng được mục tiêu giáo dục, đảm bảo yêu cầu tạo được hứng thú cho

người học.Và đặc biệt khi lựa chọn TLVH trong DHLS GV cần lựa chọn chính xác

những TPVH có tính chân thực, tính cuốn hút, ngôn ngữ phong phú, giàu hình ảnh để

phát huy tối đa tác dụng của TLVH.

2.3.3. Tài liệu văn học phải đảm bảo tính khoa học, tính tư tưởng

Sử dụng TLVH trong DHLS có vai trò rất lớn trong việc tác động mạnh mẽ đến

hiệu quả bài học, góp phần hình thành ở HS những thái độ, đạo đức đúng đắn, định

hướng cho các em tư tưởng chính trị chuẩn mực .

Trong DHLS, GV không những có nhiệm vụ truyền đạt tri thức, phát triển các

kĩ năng cho HS mà còn phải thực hiện yêu cầu về giáo dục thái độ, tình cảm, tư tưởng,

43

khuynh hướng cách mạng. Lứa tuổi HS THPT là lứa tuổi rất dễ bị tác động bởi yếu tố

ngoại cảnh, dễ bị phát triển sai, lệch lạc những chuẩn mực đạo đức, tư tưởng chính trị.

Cho nên người GV đóng vai trò định hướng cho sự phát triển toàn diện ở cả ba mặt:

kiến thức, kĩ năng, thái độ của HS.

Trong DHLS, GV cần đảm bảo yêu cầu tính khoa học, tính tư tưởng trong khi

sử dụng TLVH phục vụ cho giờ dạy. Như chúng ta biết, mỗi nền văn học đều sinh ra ở

một hình thái xã hội nhất định, một giai cấp nhất định. Văn học không thể tách biệt với

bất kì hiện thực xã hội nào trên tất cả các mặt, từ mặt chính trị, kinh tế cho đến xã hội.

Nội dung của bất kì TPVH nào cũng phán ánh hiện thực xã hội qua con mắt chủ quan

của tác giả. Do đó, khi GV lựa chọn TLVH để phục vụ cho việc dạy học thì cần xác

định rõ tư tưởng của tác giả trong nội dung TPVH. TLVH được sử dụng cần phải phản

ánh đúng sự tồn tại khách quan của sự vật, hiện tượng một cách chân thực; truyền đạt

chính xác những quan điểm lịch sử dựa trên cơ sở lập trường của Đảng, tư tưởng Hồ

Chí Minh và chủ nghĩa Mác - Lênin. Tránh truyền đạt sai, truyền đạt lệch lạch những

quan điểm lịch sử khiến cho HS hiểu nhầm, có thái độ không đúng đối với sự kiện lịch

sử và định hướng sai con đường tư tưởng chính trị của các em.

2.3.4. Phải phát triển năng lực học tập của học sinh.

Bất kì một PPDH nào đều hướng tới phát triển toàn diện cho HS không chỉ ở

mức độ kiến thức, định hướng về thái độ mà còn hình thành và nâng cao năng lực học

tập. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, những PPDH truyền thống không còn phát huy tác

dụng, bởi lẽ lối mòn phương pháp này chỉ là quá trình dạy và học thụ động, không phát

huy hết năng lực học tập của HS. Cho nên việc học tập có đạt chất lượng hay không

phụ thuộc không nhỏ vào các PPDH tích cực, lấy người học làm trung tâm, để tập phát

triển năng lực học tập. Việc sử dụng TLVH trong DHLS giúp GV có một trong số

những cơ sở để đánh giá học lực, từ đó xác định phương hướng hình thành, phát triển

năng lực học tập của các em.

Nếu trong quá trình GV sử dụng TLVH để minh họa cho bài giảng, HS muốn

hiểu rõ, hiểu sâu vấn đề thì buộc các em phải chủ động làm việc với TLVH, buộc phải

quan sát, vận động trí tưởng tượng và đưa ra những nhận xét, đánh giá khách quan.

Nhưng để có cơ sở đánh giá được một cách chính xác nhất thì yêu cầu HS phải có năng

44

lực tư duy chính là các năng lực phân tích, đánh giá, tổng hợp, so sánh, khái quát, năng

lực làm việc với tài liệu tham khảo, đồ dùng học tập… để tự tạo biểu tượng lịch sử từ

các sự kiện, hiện tượng nhân vật lịch sử cụ thể cho đến khâu hình thành khái niệm, rút

ra quy luật và bài học kinh nghiệm.

Vì vậy, khi sử dụng TLVH trong DHLS, GV cần xác định rõ ràng năng lực học

tập của HS, những ưu điểm, những thế mạnh hay những yếu điểm, thiếu xót ở các em

để từ đó có những lựa chọn PPDH cho phù hợp.

2.4. Các biện pháp sử dụng tài liệu văn học trong dạy học Lịch sử Việt Nam lớp

10 ở trường phổ thông

2.4.1. Sử dụng tài liệu văn học trong bài học nội khóa

2.4.1.1. Sử dụng tài liệu văn học trong hoạt động khởi động

HĐKĐ là hoạt động học tập đầu tiên trong mỗi giờ học thường chỉ chiếm một

vài phút đầu giờ, được tổ chức thông qua hoạt động cá nhân hoặc hoạt động nhóm.

HĐKĐ bài học giúp HS huy động những kiến thức, kĩ năng, kinh nghiệm của bản thân

về các vấn đề có liên quan đến bài học mới.

Trên thực tế, HĐKĐ có vai trò lớn, kích thích sự tò mò của HS đối với bài học.

Tuy nhiên, không phải bất khi PPDH nào cũng phát huy tác dụng trong hoạt động khởi

đầu giờ. Vì hoạt động này chưa đòi hỏi sự đi sâu kiến thức mà chỉ khái quát, nêu vấn

đề, bước đầu hình thành sự hứng thú học tập của HS, cho nên sử dụng TLVH trong

hoạt động đầu giờ là rất phù hợp, hiệu quả.

GV có thể áp dụng một vài biện pháp sử dụng TLVH sau đây để làm cơ sở hình

thành HĐKĐ.

Thứ nhất, sử dụng TLVH để nêu vấn đề học tập.

Nêu vấn đề là một trong những nguyên tắc dạy học giúp HS nâng cao tính tích cực,

chủ động, sáng tạo, bởi cách học này hướng HS tới những tình huống cụ thể, gợi ra tính tò

mò của các em, buộc các em buộc phải huy động mọi khả năng để giải quyết vấn đề.

Việc sử dụng TLVH để nêu vấn đề trong HĐKĐ kích thích sự hứng thú học tập,

tìm tòi của HS, GV có thể tổ chức HĐKĐ thông qua một số nguồn TLVH như những

mẩu chuyện lịch sử, hồi kí, nhật kí, thơ ca hay truyện ngắn, tiểu thuyết có liên quan tới

nội dung bài học.

45

Ví dụ: khi học bài 16: “Thời Bắc thuộc và các cuộc đấu tranh giành độc lập dân

tộc”, mục II “Cuộc đấu tranh giành độc lập (từ thế kỉ I đến đầu thế kỉ X)” (SGK Lịch

sử 10), GV có thể sử dụng TLVH để nêu vấn đề học tập như sau:

- GV đọc câu ca dao sau:

“Một xin rửa sạch nước nhà

Hai xin đem lại nghiệp xưa họ Hùng

Ba kẻo oan ức lòng chồng

Bốn xin vẻn vẹn sở công linh này” [39, tr 204].

- GV đặt câu hỏi cho HS: “Qua câu ca dao trên, em liên tưởng tới sự kiện

nào?Hãy nêu hiểu biết của em về sự kiện này?”.

- Khi HS trình bày xong câu trả lời, GV nhận xét, bổ sung: “Câu ca dao nói về

cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng - đây là một trong những cuộc khởi nghĩa tiêu biểu

của nhân dân ta thời Bắc thuộc, từ đây nước ta sắp bước sang một trang sử mới, chấm

dứt bao năm lầm than dưới ách đô hộ của chính quyền phương Bắc”.

- Sau đó, GV sẽ dẫn dắt HS vào bài mới.

Qua thực tiễn dạy học, có thể thấy rằng việc sử dụng TLVH trong HĐKĐ có vai

trò lớn, kích thích hứng thú với học tập của các em, từ đó các em sẽ có tâm lí thoái mái,

vui vẻ, tâm thế sẵn sàng vào bài học mới. Nhưng để hoạt động này có ý nghĩa thì yêu

cầu người GV cần linh hoạt, nhạy bén trong cách tổ chức và thực hiện, tránh việc quá

tập trung vào TPVH dẫn tới việc biến giờ lịch sử trở thành giờ học ngữ văn.

2.4.1.2. Sử dụng tài liệu văn học nhằm khắc sâu nội dung lịch sử

Một trong những mục tiêu của bài học lịch sử là khắc sâu kiến thức mà GV đã

cùng với HS xây dựng. Để khắc sâu kiến nội dung lịch sử có rất nhiều cách khác nhau,

GV có thể sử dụng nhiều tài liệu dạy học khác để thực hiện việc này. Tuy nhiên, sử

dụng TLVH để khắc sâu kiến thức là phương pháp dễ dàng thực hiện, lựa chọn để phù

hợp với năng lực đồng đều của HS.

Trong các bài học lịch sử, GV có thể sử dụng một đoạn văn, một đoạn thơ ngắn có

liên quan đến nội dung bài học nhằm khắc sâu những sự kiện được nhắc tới, làm cho giờ

học trở nên sinh động, lôi cuốn, hấp dẫn HS hơn. Từ đó khơi dậy trong các em niềm đam

mê, hứng thú học tập, góp phần làm cho hiệu quả dạy học được nâng cao.

46

Ví dụ: khi học bài 19: “Những cuộc kháng chiến chống ngoại xâm ở các thế kỉ

X - XV” (SGK Lịch sử 10) để khắc sâu nội dung bài học, GV có thể sử dụng đoạn trích

tác phẩm “Bình Ngô đại cáo” của Nguyễn Trãi để lột tả chân thực, sinh động tội ác tày

trời của quân Minh khi xâm lược nước ta.

“Vừa rồi:

Nhân họ Hồ chính sự phiền hà,

Để trong nước lòng dân oán hận.

Quân cuồng Minh thừa cơ gây hoạ,

Bọn gian tà còn bán nước cầu vinh.

Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn,

Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ.

Dối trời lừa dân đủ muôn ngàn kế,

Gây thù kết oán trải mấy mươi năm.

Bại nhân nghĩa nát cả đất trời,

Nặng thuế khoá sạch không đầm núi.

Người bị ép xuống biển dòng lưng mò ngọc, ngán thay cá mập thuồng luồng.

Kẻ bị đem vào núi đãi cát tìm vàng, khốn nỗi rừng sâu, nước độc.

Vét sản vật, bắt dò chim sả, chốn chốn lưới chăng,

Nhiễu nhân dân, bắt hươu đen, nơi nơi cạm đặt.

Tàn hại cả giống côn trùng cây cỏ,

Nheo nhóc thay kẻ goá bụa khốn cùng.

Thằng há miệng, đứa nhe răng, máu mỡ bấy no nê chưa chán ;

Nay xây nhà, mai đắp đất, chân tay nào phục dịch cho vừa.

Nặng nề những nổi phu phen,

Tan tác cả nghề canh cửi.

Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội,

Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi.

Lẽ nào trời đất dung tha,

Ai bảo thần dân chịu được?”[11; tr.17 - 18]

Như vậy, văn học có tính nhạc, tính thơ, tính nhân văn trong nội dung, có mối

liên kết mật thiết với lịch sử. Cho nên khi GV sử dụng TLVH trong DHLS sẽ góp phần

đơn giản hóa quá trình khắc sâu kiến thức lịch sử cho các em.

47

2.4.1.3. Sử dụng tài liệu văn học kết hợp với đồ dùng trực quan giúp học sinh hiểu sâu

sắc nội dung lịch sử

Do đặc điểm của việc học lịch sử là HS không thể quan sát trực tiếp các sự kiện,

hiện tượng đã xảy ra nên phương pháp trực quan có ý nghĩa rất quan trọng. ĐDTQ là

một trong những yếu tố đóng vai trò tích cực trong quá trình cung cấp kiến thức cho

HS. Đặc biệt, với HS THPT thành phố Thái Nguyên, việc sử dụng ĐDTQ trong DHLS

sẽ khắc phục được những hạn chế về nhận thức của các em.

Trong DHLS, sử dụng TLVH kết hợp với ĐDTQ mang lại những hiệu quả

cao trong dạy học. Nó khắc phục một phần nào đó tình trạng “hiện đại hóa” lịch sử,

là công cụ để HS hiểu sâu sắc hơn bản chất của lịch sử, là cơ sở để hình thành các

khái niệm và quan trọng nhất, giúp cho HS nắm vững các quy luật phát triển của xã

hội loài người.

Việc sử dụng TLVH kết hợp với ĐDTQ sẽ giúp HS hiểu sâu, nhớ kĩ những quan

niệm, những hiện tượng, nhân vật, kiến thức lịch sử mà các em tiếp thu được, từ đó

phát triển khả năng quan sát, trí tưởng tượng ,tư duy và ngôn ngữ của các em.

Có rất nhiều loại đồ dùng trực quan khác nhau, cách sử dụng và hiệu quả cũng

khác nhau song đều có tác dụng chung là nâng cao chất lượng DHLS. Việc sử dụng

TLVH kết hợp với ĐDTQ trong dạy học lịch sử Việt Nam có thể thực hiện như sau:

Thứ nhất, sử dụng TLVH kết hợp với tranh ảnh.

Ví dụ: khi dạy bài 22: “Tình hình kinh tế ở các thế kỉ XVI - XVIII (SGK Lịch

sử 10), GV có thể sử dụng hình ảnh: thương cảng Hội An cuối thế kỉ XVIII (SGK Lịch

sử 10 - tr.113) kết hợp với một số câu ca dao để thấy tình hình thương nghiệp nước ta

thời điểm đó.

“Ngày dài thuyền chở xe dong

Bán buôn lũ lượt trập trùng chen đua…”.[40; tr.380]

Thứ hai, sử dụng TLVH kết hợp với lược đồ. Lược đồ thuộc nhóm đồ dùng trực

quan quy ước có tác dụng tạo cho các em những hình ảnh tượng trưng khi GV phản

ánh những mặt chất lượng và số lượng của tiến trình lịch sử, đặc trưng khuynh hướng

phát triển của một hiện tượng kinh tế - chính trị - xã hội trong đời sống. Nó không chỉ

là phương tiện để cụ thể hóa các sự kiện, hiện tượng lịch sử, kích thích sự hứng thú học

tập mà còn là cơ sở để hình thành khái niệm cho các em.

48

Ví dụ: khi dạy bài 19: “Những cuộc kháng chiến chống ngoại xâm ở các thế kỉ

X-XV”, mục II “Các cuộc kháng chiến chống xâm lược Mông - Nguyên ở thế kỉ XIII”

(SGK Lịch sử 10) GV có thể sử dụng lược đồ trận địa sông Bạch Đằng trong cuộc

kháng chiến chống quân Mông - Nguyên lần ba của nhà Trần (1288-1289) kết hợp với

đoạn trích tác phẩm “Phú Sông Bạch Đằng” của Trương Hán Siêu để lí giải tại sao nhà

Trần tổ chức chặn đánh quân Mông - Nguyên ở khu vực này thì vừa có thể kết hợp với

nội dung tài liệu lịch sử, vừa kết hợp với TLVH.

“Qua cửa Đại Than, ngược bến Đông Triều,

Đến sông Bạch Đằng, thuyền bơi một chiều.

Bát ngát sóng kình muôn dặm,

Thước tha đuôi trĩ một màu.

Nước trời một sắc, phong cảnh ba thu.

Bờ lau san sát, bến nước đìu hiu”[42; tr.36]

Như vậy, khi sử dụng TLVH trên cơ sở kết hợp với ĐDTQ sẽ giúp HS hiểu sâu

nội dụng lịch sử qua việc trực tiếp quan sát, phân thích các ĐDTQ được sử dụng trong

bài. Từ đó, HS không những tự rút ra được bài học lịch sử thông qua sự hướng dẫn của

GV mà vô hình chung sẽ giúp các em hình thành, phát triển năng lực học tập, đáp ứng

được yêu cầu lấy người học làm trung tâm.

2.4.1.4. Sử dụng tài liệu văn học để tổ chức cho học sinh trao đổi, đàm thoại

Trao đổi, đàm thoại là “công việc mà GV nêu ra câu hỏi để HS trả lời. Đồng

thời các em có thể trao đổi với nhau dười sự chỉ đạo của GV. Qua đó đạt được mục

đích dạy học” [38, tr.168]. Tùy vào nội dung cụ thể của từng bài học, GV có thể vận

dụng nhiều dạng trao đổi đàm thoại khác nhau.

Trên thực tế, DHLS ở các trường THPT thành phố Thái Nguyên hiện nay, GV

đã có sự đổi mới về PPDH, tuy nhiên một số GV vẫn sử dụng phương pháp thuyết trình

là chủ yếu. HS nghe giảng một cách thụ động, thiếu tự duy. Trong khi đó, đa phần các

em vẫn gặp khó khăn trong việc diễn đạt để thể hiện ý kiến của bản thân. Vì vậy, để

HS tích cực, chủ động trong học tập, GV cần tổ chức trao đổi đàm thoại với HS kết

hợp với các nguồn TLVH.

49

Muốn sử dụng TLVH để tổ chức trao đổi, đàm thoại cho các em đạt hiệu quả cao

thì yêu cầu GV phải có khả năng tổ chức lớp học. GV có thể tổ chức thảo luận bằng cách

chia lớp thành các nhóm, cung cấp cho HS một số TLVH và câu hỏi thảo luận. Từ đó, dựa

vào tài liệu GV cung cấp, các thành viên trong các nhóm tiến hành thảo luận để thống nhất,

đưa ra ý kiến chung, ghi vào giấy nộp cho GV hoặc trình bày trước lớp.

Ví dụ: khi dạy bài 20: “Xây dựng và phát triển văn hóa dân tộc trong các thế kỉ

X - XV” (SGK Lịch sử 10), GV có thể cung cấp một câu ca dao sau đây:

Tướng võ quan hầu đều biết chữ

Thợ thuyền, thư lại cũng hay thơ” [6; tr.103].

Sau đó, GV yêu cầu HS tiến hành thảo luận nhóm để trả lời câu hỏi sau: “Tình

hình văn học Việt Nam trong các thế kỉ X - XV phát triển như thế nào?”

Sau khi HS thảo luận và cử đại diện nhóm lên trình bày sản phẩm của nhóm

mình, GV nhận xét, bổ sung:

- Sự phát triển của giáo dục góp phần phát triển văn học.

+ Ban đầu, văn học mang nặng tư tưởng Phật giáo

+ Thế kỉ XV, văn học chữ Hán và chữ Nôm đều phát triển.

+ Có nhiều tác giả nổi tiếng: Nguyễn Trãi, Lê Thánh Tông, Lý Tử Tấn…

+ Nhiều tác phẩm kinh điển: Hịch tướng sĩ, Bình Ngô đại cáo, Xương giang phú…

Như vậy, trong quá trình trao đổi, đàm thoại, GV kết hợp với TLVH một mặt sẽ

giúp các em cụ thể hoá lịch sử dân tộc, mặt khác sẽ rèn luyện cho các em những phương

pháp tiếp cận tài liệu, rèn luyện khả năng tư duy, phát triển ngôn ngữ, tạo được sự tự

tin, dám bày tỏ ý kiến cá nhân trước tập thể.

2.4.1.5. Sử dụng tài liệu văn học để xây dựng các bài tập nhận thức

Để phát huy tính tích cực, sáng tạo của HS trong giờ học, người GV cần phải xây

dựng hệ thống bài tập cụ thể theo đúng đặc trưng của bộ môn. Việc xây dựng hệ thống bài

tâp trên cơ sở đặc trưng bộ môn buộc các em phải tự làm việc dưới sự hướng dẫn của thầy

cô giáo mới có thể đạt được hiệu quả tốt, góp phần hình thành tri thức cho HS, bồi dưỡng

tư tưởng, tình cảm, tạo hứng thú học tập và rèn luyện kĩ năng thực hành.

Bài học nội khóa là bài học chủ yếu nghiên cứu kiến thức mới, cho nên việc đặt

ra câu hỏi, bài tập thông qua TLVH góp phần không nhỏ giúp HS phát triển các năng

50

lực nhận thức. Tuy nhiên cần chú ý, những câu hỏi được nêu phải mang tính chất là

một bài tập nhận thức nhưng phải tập trung khai thác vào những nội dung cơ bản của

bài học.

Ví dụ: khi học bài 26: “Tình hình xã hội ở nửa đầu thế kỉ XIX và phong trào đấu

tranh của nhân dân” (SGK Lịch sử 10), mục 1 “Tình hình xã hội và đời sống nhân

dân”, GV có thể đọc cho HS nghe câu ca dao sau:

“ Con ơi, mẹ bảo con này

Cướp đêm là giặc, cướp ngày là quan” [39; tr.130]

+ GV yêu cầu HS trả lời câu hỏi: “Qua câu ca dao, em có nhận xét gì về tình

hình của xã hội nước ta nửa đầu thế kỉ XIX?”

+ Sau khi HS trả lời. GV nhận xét, bổ sung: “Xã hội nước ta nửa đầu thế kỉ XIX

bị khủng hoảng sâu sắc. Tệ tham quan diễn ra phổ biến, cường hào địa phương ra sức

hiếp, xã hội loạn lạc, lầm than khiến cho cuộc sống nhân dân vô cùng cực khổ. ”.

Như vậy, việc sử dụng TLVH để xây dựng các bài tập nhận thức yêu cầu HS

phải tích cực tư duy, phải đọc hiểu nội dung kiến thức bài học và TLVH minh họa để

thực hiện được yêu cầu GV đưa ra. Từ đó, khắc sâu hơn kiến thức, kích thích năng lực

tự học, hướng các em phát triển các năng lực nhận thức khác.

2.4.1.6. Sử dụng tài liệu văn học để kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học sinh

Trong DHLS, việc kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của HS là khâu quan trọng

cuối cùng và đồng thời cũng khâu là khởi đầu cho một chu trình khép kín tiếp theo của

quá trình giáo dục. Việc kiểm tra, đánh giá có một vị trí, ý nghĩa quan trọng, đó là khâu

không thể tách rời trong dạy học. Kiểm tra đánh giá nhằm cung cấp thông tin để đánh

giá chất lượng dạy và học. Trong lộ trình đổi mới căn bản, toàn diện chương trình giáo

dục PT hiện nay, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã xác định đổi mới kiểm tra đánh giá là

khâu đột phá nhằm thúc đẩy các quá trình khác nhau như: đổi mới các hình thức tổ

chức dạy học, đổi mới PPDH…Cho nên, phương pháp kiểm tra, đánh giá hiện nay rất

đa dạng, phong phú, mang lại rất ý nghĩa tích cực cho giáo dục và một số trong số là

phương pháp kiểm tra đánh giá thông qua TLVH.

Việc sử dụng TLVH trong kiểm tra - đánh giá kết quả học tập có vai trò lớn

trong việc đánh giá năng lực học tập của các em. Đây là biện pháp giúp các em tái hiện,

hoàn thiện được những tri thức lịch sử đã tiếp nhận, giúp các em hình thành các thói

51

quen tốt trong học tập cũng như ý thức tự giác học tập, ý chí quyết tâm vươn lên vượt

qua khó khăn, có tinh thần trách nhiệm, khả năng làm việc độc lập, tự chủ, sáng tạo;

góp phần hoàn thiện năng lực nhận thức của các em, nhất là các thao tác tư duy. Không

những vậy, việc sử dụng TLVH còn giúp các em biết vận dụng những kiến thức được

học để tiếp thu bài mới dễ hiểu hơn và nâng cao hiểu biết thực tiễn hơn.

Kiểm tra, đánh giá thường được tiến hành dưới dạng các câu hỏi tự luận hoặc

trắc nghiệm khách quan. Ở mỗi hình thức kiểm tra đều có những mặt tích cực và hạn

chế riêng do vậy đòi hỏi người GV cần phải kết hợp chúng sao cho hợp lý trong bài

kiểm tra, đặc biệt là việc kiểm tra một tiết và kiểm tra học kì để phát huy tối đa những

ưu điểm của phương pháp được áp dụng. Việc sử dụng TLVH để thiết kế câu hỏi trắc

nghiệm khách quan thường có một số dạng sau: dạng câu hỏi đúng-sai, dạng câu hỏi

điền khuyết, dạng câu hỏi nhiều lựa chọn, câu hỏi dạng ghép đôi ....

Trong quá trình sử dụng TLVH để kiểm tra, đánh giá kiến thức lịch sử, chúng

ta có thể tiến hành bằng hai hình thức:

- Kiểm tra miệng:

Hình thức kiểm tra miệng là hình thức kiểm tra phổ biến, được tiến hành vào

đầu giờ, trong hoặc cuối giờ học nhằm kiểm tra kết quả thu nhận được từ phía HS.

Ví dụ: khi học bài 19: “Những cuộc kháng chiến chống ngoại xâm ở các thế kỉ

X-XV”, mục III “Phong trào đấu tranh chống quân xâm lược Minh và khởi nghĩa Lam

Sơn”(SGK Lịch sử 10), GV yêu cầu HS đọc đoạn trích tác phẩm “Bình Ngô đại cáo”

của Nguyễn Trãi:

“Đem đại nghĩa để thắng hung tàn

Lấy trí nhân để thay cường bạo”[11; tr19]

+ GV yêu cầu HS trả lời câu hỏi: “Đoạn thơ trên nói về sự kiện lịch sử nào? Em

có suy nghĩ gì về hành động của nhân vật trong sự kiện đó?”

+ Sau khi HS trả lời, GV nhận xét, bổ bung: “Đoạn thơ trên nói về sự kiện sau

khi nghĩa quân Lam Sơn đánh bại quân Minh đã không “đuổi cùng giết tận” kẻ địch,

đã “thể đức hiếu sinh” cấp ngựa, thuyền cho chúng rút về nước. Hành động này vừa

chứng minh lòng nhân đạo, thương người của nghĩa quân Lam Sơn, vừa chứng tỏ sự

khôn khéo trong quân sự, ngoại giao nước ta thời điểm đó”.

52

- Kiểm tra viết:

Bài kiểm tra viết trong DHLS bao gồm các bài kiểm tra 15 phút, bài 1 tiết và bài

kiểm tra học kỳ. Bài kiểm tra viết có thể tiến hành bằng câu hỏi tự luận và trắc nghiệm

khách quan.

Thứ nhất, đối với bài kiểm tra 15 phút: GV có thể lựa chọn một trong hai hình

thức kiểm tra bằng câu hỏi tự luận hoặc thiết kế một số câu hỏi trắc nghiệm để tiến

hành đánh giá HS.

Thứ hai, với bài kiểm tra một tiết hay bài kiểm tra học kì: Phụ thuộc vào mục

đích kiểm tra, người GV nên kết hợp giữa các câu hỏi trắc nghiệm khách quan với các

câu hỏi tự luận, tùy thuộc thời gian kiểm tra để có số câu hỏi thích hợp, thời gian HS

làm bài một cách hợp lí.

Ví dụ: sau khi dạy bài 23: “Phong trào Tây Sơn và sự nghiệp thống nhất đất

nước, bảo vệ tổ quốc cuối thế kỉ XVIII” (SGK - Lịch sử 10): GV yêu cầu HS làm bài

kiểm tra 10 phút có sử dụng TLVH để kiểm tra - đánh giá.

+ Đề bài:

Đọc câu ca dao sau sau:

“Lạy trời cho cả gió lên

Cho cờ Bình Định bay trên kinh thành” [39; tr.205].

+ Câu hỏi: Câu ca dao trên nhắc tới sự kiện gì? Trình bày diễn biến sự kiện đó?”

Như vậy, việc kiểm tra - đánh giá trong quá trình dạy học có vai trò rất quan

trọng, đó là khâu không thể tách rời trong dạy học, nhằm cung cấp thông tin để đánh

giá chất lượng giờ học. Việc sử dụng TLVH trong kiểm tra - đánh giá là biện pháp giúp

HS tái hiện tri thức lịch sử đã tiếp nhận, hình thành các thói quen tốt trong học tập,

đồng thời phát triển năng lực nhận thức và thực hành của các em.

2.4.2. Sử dụng tài liệu văn học trong hoạt động ngoại khóa.

2.4.2.1. Sử dụng tài liệu văn học trong hình thức ngoại khóa kể chuyện

Hoạt động kể chuyện là hình thức ngoại khóa vô cùng hấp dẫn, dễ thực hiện và

có kết quả giáo dục cao. Có nhiều cách kể chuyện như kể lại nội dung của một cuốn

sách hay đã đọc, một câu chuyện tìm được qua các tài liệu tham khảo hay chính những

câu chuyện mà người tham gia chứng kiến, trải nghiệm. Kể chuyện không những thu

hút sự chú ý của người nghe mà còn có sự hấp dẫn đối với chính người tham gia kể

chuyện.

53

Sử dụng TLVH trong hình thức ngoại khóa kể chuyện là phương pháp kết hợp

linh hoạt giữa kiến thức văn học và lịch sử với hoạt động kể chuyện. Biện pháp này sẽ

góp phần không nhỏ giúp các em khắc sâu hơn nội dung kiến thức lịch sử có trong bài.

Tuy nhiên, để tiến hành được hoạt động, yêu cầu HS phải có vốn hiểu biết, có năng lực

nhận thức, biết làm việc với các TPVH. Qua đó, HS một lần nữa củng cố cho mình

những tri thức đã được lĩnh hội. Từ những yêu cầu trên, vô hình chung sẽ là động lực

cho HS rèn luyện những kĩ năng cần thiết cho bản thân.

Để việc kể chuyện đạt hiệu quả, người kể phải diễn đạt bằng ngôn ngữ súc

tích, giàu hình ảnh, sinh động, lôi cuốn,thu hút được người nghe. Cách diễn đạt, âm

lượng cũng như tốc độ, sắc thái biểu cảm, ngữ điệu cũng phải phù hợp, bởi đó là

những tác động không nhỏ đối với HS. Người kể phải làm cho người nghe xúc động,

phải làm cho họ như đang được sống, đang được chứng kiến, được tham gia vào sự

kiện cụ thể. Nội dung kể chuyện không chỉ giới hạn ở trong khối lượng sự kiện, tri

thức cung cấp cho HS mà còn phải biết đi sâu phân tích tình tiết, diễn biến để các

em thấy được các mối liên hệ bản chất, các mối ràng buộc bên trong tính chất của

các sự kiện.

Ví dụ: Trong hoạt động ngoại khóa tham quan bảo tàng Bảo tàng lịch sử Việt

Nam (Hà Nội), khi giới thiệu đến các cuộc kháng chiến quân Mông - Nguyên ở thế kỉ

XIII, GV kể cho HS nghe câu chuyện “Bóp nát quả cam” để HS có thêm những góc

nhìn chân thực hơn về sự kiện này thông qua con mắt người trong cuộc.

“Trần Quốc Toản sinh năm 1267, được phong Hoài Văn hầu khi mới 15 tuổi.

Thuộc dòng dõi hoàng tộc, Trần Quốc Toản lớn lên trong cảnh đất nước chuẩn bị

chống quân Nguyên sang cướp phá và xâm lược nước ta lần thứ hai.

Tương truyền thuở nhỏ, Trần Quốc Toản rất ham mê cung kiếm, thao luyện

võ nghệ, học tập binh thư và được Hưng Đạo vương rất khen ngợi. Khi mới 15 tuổi,

thiếu niên này đã hừng hực chí lớn muốn diệt giặc, bảo vệ sự toàn vẹn cho non sông

đất nước.

Trước khi Hoài Văn hầu chào đời 10 năm, quân dân Đại Việt đã khiến giặc Nguyên

Mông thua tan tác. Biết rằng giặc Nguyên Mông không bao giờ từ bỏ giấc mộng thôn tính

Đại Việt, triều đình nhà Trần một mặt giảng hòa với nhà Nguyên, một mặt tích cực chuẩn

54

bị lực lượng sẵn sàng ứng phó. Suốt từ năm 1258 trở đi, trong khoảng 1/4 thế kỷ, nhà Trần

áp dụng phương sách đối ngoại mềm dẻo, linh hoạt nhưng cũng không kém phần cương

quyết. Không ít lần vua Trần khéo léo từ chối những yêu sách quá quắt của Hốt Tất Liệt,

hoàng đế Nguyên Mông.Tuy nhiên, khi chúng ta càng nhân nhượng, nhà Nguyên càng tỏ

rõ ý đồ và chuẩn bị cho cuộc tấn công xuống nước ta. Trước nguy cơ đó, tháng 10/1282,

vua Trần Nhân Tông triệu tập Hội nghị Bình Than để bàn phương hướng kháng chiến và

quyết định lực lượng. Do mới 16 tuổi, Hoài Vương hầu không được mời dự hội nghị.

Chàng thiếu niên này vẫn tới bến Bình Than, đòi được vào. Bị lính canh chặn cửa, Quốc

Toản vặn hỏi: “Ta là Hoài Văn hầu, quan gia truyền gọi tất cả vương, hầu tới họp. Ta là

hầu, cớ sao không cho vào?”. Thấy chuyện ầm ĩ bên ngoài, Trần Nhân Tông hỏi ra mới

biết chuyện, bèn cho người mang ban cho Hoài Văn hầu một quả cam và khuyên lui bước

vì chưa đến tuổi bàn việc nước.Vua thấy Hoài Văn hầu Trần Quốc Toản còn trẻ tuổi,

không cho dự bàn. Quốc Toản trong lòng hổ thẹn, tay cầm quả cam, bóp nát lúc nào không

biết. Sau đó, Quốc Toản lui về, huy động hơn nghìn gia nô và người dân, sắm vũ khí, đóng

chiến thuyền, thêu lên cờ sáu chữ: “Phá cường địch, báo hoàng ân” (phá giặc mạnh, báo

ơn vua. Năm 1285, vua Trần Nhân Tông sai Chiêu Thành Vương, Hoài Văn hầu Trần

Quốc Toản và tướng quân Nguyễn Khoái đem một nhóm binh lính đón đánh quân Nguyên

ở bến Tây Kết. Chỉ sau 1 tháng, quân Nguyên bị đánh bại ở Kinh Thành và Chương

Dương. Tướng Nguyên là Thoát Hoan, Bình Chương A Lạt phải bỏ chạy qua sông Lô.”

[43]

Như vậy, hoạt động ngoại khóa kể chuyện là hoạt động có tính hấp dẫn cao, thu

hút đông đảo HS tham gia. Sử dụng TLVH trong hình thức kể chuyện không những

giúp HS hứng thú với học tập mà còn giúp các em hình thành năng lực tự học, năng

lực liên hệ thực tiễn. Qua đó cũng rèn luyện cho các em kĩ năng thuyết trình, tự tin

trước đám đông, hiểu sâu sắc các sự kiện lịch sử.

2.4.2.2. Sử dụng tài liệu văn học trong hình thức ngoại khóa tổ chức trò chơi

Trò chơi lịch sử là hoạt động ngoại khóa thu hút đông đảo HS tham gia, nó tạo

ra những hấp dẫn, kịch tính, kích thích tinh thần đoàn kết, phát huy được năng lực tư

duy, sáng tạo của các em. Qua hoạt động này sẽ giúp tình cảm giữa thầy trò thêm gắn

bó. Trong thực tế, để tổ chức trò chơi đạt chất lượng tốt đòi hỏi người GV phải đa dạng

hóa các loại hình trò chơi.

55

Trong DHLS, GV có thể sử dụng TLVH trong việc tổ chức một số trò chơi như

sau:

+ Trò chơi “ô chữ bí ẩn”: Đây là một trò chơi quen thuộc, hỗ trợ đắc lực cho

GV và HS trong quá trình dạy học, đặc biệt là trong hoạt động luyện tập. Đó không chỉ

là một trò chơi đơn thuần mà còn là một hình thức học tập tăng giúp khả năng tư duy

của người chơi nếu được thiết lập và sắp xếp phù hợp với chương trình giáo dục. Đồng

thời, trò chơi ô chữ đem lại cho HS sự hứng thú, tăng cường khả năng ghi nhớ kiến

thức, giúp HS ôn luyện kiến thức nhanh, phù hợp với hình thức thi trắc nghiệm mà bộ

Giáo dục - Đào tạo đã lựa chọn cho việc kiểm tra đánh giá và thi cử hiện nay.

* Thể lệ trò chơi: Trò chơi ô chữ là ra những ô vuông để trống, yêu cầu người

chơi phải điền cho đúng những chữ mà người tổ chức đã gợi ý. Căn cứ vào nội dung gợi

ý và năng lực của mình, người chơi cần đưa ra đáp án để hoàn thành ô chữ. Khi thiết kế

ô chữ GV cần đảm bảo các yêu cầu cơ bản: nội dung phải phù hợp với chương trình

SGK, phù hợp đối tượng, tiện lợi, hữu dụng, thẩm mĩ, ngôn từ chính xác.

Ví dụ: Sau khi học xong giai đoạn lịch sử Việt Nam thời phong kiến trong

chương trình Lịch sử 10, GV có thể tổ chức một hoạt động ngoại khóa có lồng ghép

trò chơi giải đáp “Ô chữ bí ẩn” sau:

Q U A N G T R U N G

N H Ư N G U Y Ệ T

C H Ù A D Â U

H Ộ I A N

H Ồ N G Đ Ứ C

M I N H

T I Ề N L Ê

T Â Y S Ơ N

Với ô chữ trống, GVcông bố thể lệ: có 2 đội chơi, mỗi đội có 4 lượt tuỳ chọn (8

câu hỏi), sau khi mỗi đội đã chọn số câu hàng ngang, GVsẽ đọc câu gợi ý hoặc câu hỏi

tương ứng. Đội nào có có tín hiệu xin trả lời nhanh nhất, đội đó giành quyền trả lời

trước. Nếu trả lời đúng, đội đó sẽ được 10 điểm. Nếu sai hoặc không đội nào trả lời

56

được câu hỏi đó sẽ chuyển thành câu hỏi cho khán giả. (Khán giả đúng sẽ nhận được

phần quà từ ban tổ chức). Sau một lượt chọn các ô hàng ngang (2 ô/ 4 đội), các đội có

quyền mở ô hàng dọc nếu đã tìm ra được nội dung ô chữ đặc biệt.

Nếu đúng các em được 40 điểm, nếu sai sẽ mất quyền thi đấu ở các lượt sau.

Còn nếu hết 4 lượt chơi các đội mới đoán ra ô chữ đặc biệt thì chỉ được 20 điểm.

1. Ô thứ nhất (8 ô chữ):

“Đánh cho để dài tóc

Đánh cho để đen răng

Đánh cho nó chích luân bất phản

Đánh cho nó phiến giáp bất hòa

Đánh cho sử tri Nam quốc anh hùng chi hữu chủ”[11; tr.118]

Đây là lời hiểu dụ của ai?

2. Ô thứ 6: Đây là câu thơ nói về tội ác của quân xâm lược nào?

“Dối trời lừa dân đủ muôn nghìn kế

Gây binh kết oán trải hai mươi năm” [11; tr.17]

3. Ô thứ 8: Diego de Jumilla - giáo sĩ người Tây Ban Nha đã viết như sau:

"Ban ngày họ xuống các chợ, kẻ đeo gươm, người mang cung tên, có người

mang súng. Họ không hề làm thiệt hại đến người và của. Trái lại họ tỏ ra muốn bình

đẳng giữa mọi người Đàng Trong; họ vào nhà giàu, nếu đem nộp họ ít nhiều thì họ

không gây tổn hại, nhưng nếu chống cự lại thì họ cướp lấy những của quý đem chia

cho người nghèo; họ chỉ giữ gạo và lương thực cho họ mà thôi... Người ta gọi họ là

bọn cướp đạo đức và nhân từ đối với quần chúng nghèo khổ..."[5; tr.33]

Em hãy cho biết, Diego de Jumilla nhắc tới phong trào nào của Việt Nam giữa

thế kỉ XVIII?

+ Trò chơi “Đoán ý đồng đội”: Hình thức trò chơi yêu cầu sự am hiểu kiến thức

của người chơi và sự đồng điệu giữa các thành viên trong đội.

* Thể lệ trò chơi: GV chia HS thành 4 đội chơi, chuẩn bị 4 bộ câu hỏi, mỗi bộ

khoảng từ 5 đến 6 câu hỏi (Tuỳ theo thời gian tổ chức, năng lực đặc thù của các đối

tượng để chuẩn bị số lượng câu hỏi cho phù hợp nhất). Có 4 lượt chơi, ở mỗi lượt, một

đội được chọn ra 2 thành viên. Thành viên số 1 được nhìn nội dung trò chơi. Thành

viên thứ 2 quay đối lưng với thành viên thứ nhất và không được nhìn hay sử dụng bất

kì thông tin hỗ trợ nào trừ thông tin từ thành viên số 1 cung cấp.

57

Sau thời gian chuẩn bị 1 phút, thành viên số 1 bắt đầu gợi ý để thành viên số 2

đoán ý trả lời các từ khóa trong khoảng thời gian ban tổ chức quy định (1 phút, 2 phút,

3 phút... tương ứng với số từ khóa đưa ra). Câu nào không biết gợi ý cũng như không

trả lời được thì người chơi có quyền bỏ qua. Nếu câu gợi ý có từ nào trùng với đáp án,

hay có ý nghĩa tương đương đáp án là phạm quy, kết quả không được tính.

Mỗi câu trả lời đúng được 10 điểm.

Ví dụ gợi ý thiết kế bộ từ khóa:

1. Âu Lạc

2. Phù Nam

3. Ngô Quyền

4. Quốc triều hình luật

5. Nam quốc sơn hà

6. Nho giáo

Gợi ý cho từ khóa số 1. Câu ca dao sau nhắc tới quốc gia cổ đại nào của Việt Nam?

“Cổ Loa là đất đế kinh

Trông ra lại thấy tòa thành tiên xây”[39, tr.201]

Như vậy, trò chơi lịch sử là một hình thức học tập mới mẻ, nó thu hút đông đảo

HS tham gia và đặc biệt là HS rất hào hứng đón nhận. Trong quá trình tổ chức trò chơi,

việc kết hợp với TLVH sẽ làm cho HS hứng thú hơn, kích thích phát triển các năng lực

học tập của HS như kĩ năng phân tích, so sánh, đối chiếu, liên hệ với thực tế cuộc sống.

Tuy nhiên, trong quá trình thiết kế trò chơi, GV cần lựa chọn TLVH sao cho phù hợp

với yêu cầu chủ đề của trò chơi và nội dung học tập. Nếu làm tốt hoạt động này, HS sẽ

được củng cố chắc chắn kiến thức thêm một lần nữa và yêu thích việc học tập lịch sử

hơn.

2.4.2.3. Sử dụng tài liệu văn học trong dạ hội lịch sử

Dạ hội lịch sử là hoạt động ngoại khoá có tính chất tổng hợp kiến thức, thu hút

đông đảo HS tham dự. Dạ hội lịch sử có tác dụng củng cố thêm, sâu sắc thêm những

tri thức khoa học và nghệ thuật, gợi lên những cảm xúc tích cực, từ đó làm cơ sở giáo

dục tình cảm, bồi dưỡng óc thẩm mĩ, gây hứng thú học tập lịch sử ở các em. Do vậy,

muốn sử dụng TLVH trong dạ hội lịch sử có hiệu quả, yêu cầu đặt ra phải chú ý đến

những tiêu chí sau:

58

- TLVH được chọn phải sát với lịch sử dân tộc.

- Nội dung văn học được chọn phải đảm bảo đạt được yêu cầu bồi dưỡng kiến

thức, giáo dục tư tưởng, tình cảm và phát triển toàn diện HS, phải phù hợp với chương

trình dạy học và đặc điểm tâm sinh lý HS.

- Hình thức tổ chức phải phong phú, đa dạng, tạo được không khí của một buổi

dạ hội theo đúng nghĩa, cần thu hút sự tham gia của đông đảo HS để phát huy tính chủ

động sáng tạo, tinh thần tập thể của các em.

- Có kế hoạch chuẩn bị cụ thể (về thời gian, địa điểm, nội dung, hình thức tổ

chức, kinh phí thực hiện, khách mời...). Có nhiều lựa chọn chủ đề cho dạ hội lịch sử

như “Tiếp nối cha anh”, “Hào khí Đông A”, “Con Rồng cháu Tiên”, “Hồ Chí Minh -

Người là niềm tin tất thắng”...

Ví dụ: Nhân kỉ niệm ngày quốc khánh 2/9, GV có thể tổ chức buổi dạ hội theo

chủ đề “Hào khí Đông A” theo các phần như sau:

a. Các tiết mục văn nghệ

- Tổ chức các hoạt cảnh cho HS, GV biểu diễn nội dung hoạt cảnh mang các

cuộc đấu tranh bảo vệ Tổ Quốc.

- Hát, múa, đọc thơ, ngâm thơ ca ngợi về đất nước.

b. Hái hoa dân chủ

- GV sẽ chuẩn bị những câu hỏi về kiến thức lịch sử sau đó viết vào những băng

giấy đều nhau rồi gập lại đính lên một cái cây đặt trên sân khấu. Sau đó người dẫn

chương trình sẽ mời mọi người lên tham gia trò chơi. Mỗi người chơi sẽ chọn một băng

giấy và đọc to nội dung câu hỏi bên trong của mình, sau đó trả lời. Nếu trả lời đúng sẽ

được nhận một phần quà từ ban tổ chức.

Ví dụ một số câu hỏi có thể sử dụng trong trò chơi này:

Câu 1: Đoạn thơ sau nhắc tới sự kiện gì?

“Bị quân ta chẹn ở Lê Hoan, quân Vân Nam kinh sợ mà

trước đã vỡ mật

Nghe quân Thăng thua ở Cần Trạm, quân Mộc Thạnh

xéo lên nhau để chạy thoát thân.

Lãnh Câu máu chảy thắm dòng, nước sông ấm ức.

Đan Xá thây chồng thành núi, cỏ nội thẫm hồng”[40; tr.313]

59

Câu 2: Câu ca dưới đây nhắc tới vấn nạn gì của thời phong kiến?

“Trăm quan thì được tước hầu

Mười quan tước bá ai nào kém ai” [40; tr.383]

c. Trò chơi lịch sử

GV có thể sử dụng trò chơi “ô chữ bí mật” hay “đoán ý đồng đội” như chúng

tôi đã trình bày ở phần 2.4.2.2. - trang 55 - 58 của luận văn để tổ chức phần này.

Kết thúc buổi dạ hội sẽ bằng một tiết mục văn nghệ có sự tham dự của tất cả HS

và khách mời hát tập thể bài hát “Dòng máu Lạc Hồng” , đồng thời ban tổ chức gửi lời

cảm ơn tới các vị khách mời, các thầy cô giáo cùng toàn thể các em HS đã

nhiệt tình tham gia tạo nên thành công của buổi dạ hội.

Tóm lại, dạ hội lịch sử là hoạt động ngoại khoá hấp dẫn, có tính chất tổng hợp

kiến thức và thu hút đông đảo HS tham dự. Khi HS tham gia vào dạ hội lịch sử, các em

sẽ được củng cố kiến thức và làm sâu sắc thêm những kiến thức ấy. Việc sử dụng

TLVH trong dạ hội lịch sử có vai trò như một chất xúc tác, nó vừa gợi lên những cảm

xúc tích cực từ các em, vừa lồng ghép vào đó nội dung lịch sử thông qua các TPVH.

Từ đó, giáo dục tình cảm, bồi dưỡng óc thẩm mĩ, gây hứng thú học tập lịch sử ở các

em. Tuy nhiên, trong quá trình tổ chức dạ hội lịch sử, GV cần chọn lọc nguồn TLVH

phù hợp, đáp ứng yêu cầu của nội dung dạ hội, tránh sa đà đi sâu vào văn học khiến

buổi dạ hội lịch sử trở thành dạ hội văn học.

2.4.2.4. Sử dụng tài liệu văn học trong hoạt động đọc sách

Văn hóa đọc sách đã hình thành từ lâu đời. Trước đây, khi xã hội chưa phát

triển, các loại hình thông tin còn hạn chế thì việc đọc sách được coi là nguồn cung cấp

thông tin quan trọng. Không đọc sách đồng nghĩa với việc không có thông tin dung

nạp. Tuy nhiên, có một thời gian, việc đọc sách dân bị quên lãng bởi có nhiều nguồn

cung cấp tư liệu tiện dụng hơn. Con người cố tình quên đi việc đọc sách.

Trong những năm gần đây, việc đọc sách đã được mọi người quan tâm trở lại.

Đặc biệt phát triển văn hóa đọc sách ở HS. Hoạt động đọc sách của HS có vai trò quan

trọng trong việc phát triển bản thân các em dựa trên nền tảng của truyền thống giáo dục

gia đình, nhà trường, môi trường cộng đồng và gắn liền với nhu cầu tự học.

Sau mỗi giờ học, ngoài việc ôn tập theo nội dung được ghi trên lớp, HS có thể

tham khảo nhiều loại sách để củng cố lại phần kiến thức được học, mở rộng thêm vốn

hiểu biết, đặc biệt là sách văn học. Bởi, TLVH có mối quan hệ mật thiết với lịch sử.

60

Sau mỗi bài học, GV có thể yêu cầu HS về đọc thêm những TPVH cụ thể có

liên quan đến bài để khắc sâu kiến thức được học hôm nay hay chuẩn bị tài liệu học

tập, tìm hiểu trước nội dung bài mới thông qua TLVH.

Ví dụ: Khi chuẩn bị dạy bài 13: “Việt Nam thời nguyên thủy” (SGK Lịch sử 10),

GV yêu cầu HS về nhà tìm hiểu nội dung một số tác phẩm văn học dân gian như: truyền

thuyết “Con Rồng cháu Tiên”, câu chuyện “Quả Bầu mẹ”, sử thi “Đẻ đất đẻ nước” để

làm tài liệu tham khảo giải thích cho vấn đề: “Con người từ xa xưa đã có ý thức trong

việc tìm hiểu nguồn gốc của mình”

Như vậy, hoạt động đọc sách là hoạt động mang tính chiếm lĩnh tri thức cao, đòi

hỏi sự cần củ, chăm chỉ và tỉ mỉ của con người. Hoạt động đọc sách luôn gắn liền với

hoạt động liên tưởng, tưởng tượng sáng tạo, giúp HS khắc sâu kiến thức, phát huy năng

lực học tập như năng lực tư duy, phân tích, đánh giá, đặc biệt là năng lực tự học ở các

em. Mặc dù hoạt động đọc sách là tốt nhưng tuy nhiên trong quá trình chọn lựa TLVH

cho HS tìm hiểu, GV cần xác định được tính đúng đắn, tính khoa học, tính lí tưởng

trong TPVH, tránh sự suy nghĩ lệch lạc, không đúng dẫn tới tác động xấu cho sự định

hướng thái độ HS.

2.5. Thực nghiệm sư phạm

2.5.1 Mục đích tiến hành thực nghiệm sư phạm.

- Khẳng định cơ sở lí luận và những yêu cầu xác định như trên là khoa học, đúng

đắn, cần được thực hiện, khẳng định sự cần thiết của công việc này đối với việc sử

dụng TLVH trong DHLS để nâng cao chất lượng dạy học bộ môn theo chủ trương đổi

mới PPDH lịch sử hiện này ở trường THPT.

- Kiểm nghiệm tính khả thi của các biện pháp sử dụng TLVH trong DHLS Việt

Nam ở trường THPT theo hướng phát huy tính tích cực học tập của HS hiện nay.

- Qua TNSP phần Lịch sử Việt Nam, chúng tôi đã có những cơ sở khoa học để

khái quát những vấn đề cơ bản về lý luận, những biện pháp sử dụng TLVH cụ thể trong

DHLS Việt Nam nhằm nâng cao chất lượng DHLS nói chung và DHLS ở trường THPT

thành phố Thái Nguyên nói riêng.

2.5.2. Đối tượng, địa bàn và giáo viên thực nghiệm

- Đối tượng và địa bàn thực nghiệm: Đối tượng mà chúng tôi chọn TNSP là HS

lớp 10 của Trường PT Vùng Cao Việt Bắc.

61

 Lớp thực nghiệm:

+ Lớp 10A2

Tổng số: 51 HS HS dân tộc thiểu số: 47/51

HS giỏi: 08 HS khá: 38 HS trung bình: 5

+ Lớp 10A6

Tổng số: 50 HS. HS dân tộc thiểu số: 44/50

HS giỏi: 6 HS khá: 32 HS trung bình: 12

 Lớp đối chứng

+ Lớp 10A3

Tổng số: 51 HS HS dân tộc thiểu số: 50/51

HS giỏi: 9 HS khá:32 HS trung bình: 9

+ Lớp 10A4

Tổng số: 50 HS HS dân tộc thiểu số: 42/50

HS giỏi: 8 HS khá: 30 HS trung bình : 12

- Giáo viên tham gia TNSP:

Để đảm bảo cho công tác TNSP đươc thực hiện tốt, tin cậy và có hiệu quả, chúng

tôi đã chọn những GV có thể đáp ứng tốt các yêu cầu của tác giả luận văn. GV tham

gia TNSP đều tốt nghiệp hệ đại học sư phạm chính quy, chuyên ngành Lịch sử, có trình

độ chuyên môn vững vàng, tâm huyết với nghề, có phẩm chất đạo đức chuẩn mực, tích

cực thực hiện đổi mới PPDH nhằm năng cao chất lượng giáo dục, tự nguyện tham gia

TNSP.

2.5.3. Nội dung và phương pháp thực nghiệm

2.5.3.1. Nội dung

Các bài học TN đều được tiến hành thông qua bài học nội khóa. Chúng tôi chọn

bài 19 (SGK Lịch sử 10) để tiến hành TNSP các biện pháp sử dụng TLVH trong DHLS

ở trường THPT thành phố Thái Nguyên.

2.5.3.2. Phương pháp tiến hành

Chúng tôi đã phối hợp chặt chẽ với nhóm chuyên môn Lịch sử ở trường PT

Vùng Cao Việt Bắc để khảo sát, lựa chọn đối tượng HS và tiến hành triển khai TNSP.

Đối với GV được chọn để dạy TN, chúng tôi đã cung cấp kế hoạch dạy học (giáo án)

62

và trao đổi, thống nhất những yêu cầu, phương án TN. Đối với các lớp TN, HS không

được báo trước về hoạt động nghiên cứu, đánh giá, khảo sát nhằm đảm bảo tính khách

quan của quá trình TN. Để đánh giá kết quả TNSP, chúng tôi đưa vào hai cơ sở sau:

+ Về mặt định lượng: Sau TN, chúng tôi đều tiến hành kiểm tra 10 phút. Bài

kiểm tra được thiết kế thành hai phần: phần trắc nghiệm khách quan và phần tự luận

ngắn. Tiêu chí đánh giá: HS hiều được nội dung cơ bản của bài, rút ra bài học kinh

nghiệm và biết liên hệ với bản thân, vận dụng vào bài học thực tiễn.

+ Về mặt định tính: Chúng tôi quan sát, kết quả HS học tập của HS ở các mặt

hứng thú, say mê, tích cực, tự giác trong việc chiếm lĩnh vốn tri thức, hợp tác với thầy

cô, tích cực tham gia xây dựng bài. Ngoài ra, chúng tôi còn lắng nghe những đóng

góp,ý kiến của GV, HS và lãnh đạo nhà trường nơi tiến hành TN.

Chúng tôi cũng tham dự một số tiết dạy của đồng nghiệp, tiến hành thu thập thông

tin, ý kiến phản hồi của GV, xử lí kết quả học tập của HS qua bài kiểm tra đánh giá theo

công thức thống kê toán học để rút ra kết quả TNSP khách quan, chính xác nhất.

Công tác TNSP được tiến hành dưới hình thức sau:

Chúng tôi chọn tiết 24, bài 19: “Những cuộc kháng chiến chống ngoại xâm ở

các thế kỉ X - XV” để tiến hành TNSP. TNSP mang tính tổng hợp nhiều mặt cho nên

chúng tôi rất chú ý tới việc thực hiện chuẩn xác và sử dụng nhiều biện pháp sư phạm

trong quá trình tiến hành bài học.

Sự khác nhau chủ yếu giữa lớp ĐC và lớp TN đó chính là PPDH được tổ chức trong

hoạt động học tập của HS. Ở lớp ĐC, GV vẫn dạy và tổ chức lớp học như hàng ngày. Đối với

lớp TN, GV sử dụng kết hợp các PPDH mà tác giả đề xuất trong giáo án TN. Kết quả TNSP

thu lại được là cơ sở minh chứng cho tính đúng đắn, khoa học của luận văn.

2.5.4. Đánh giá kết quả thực nghiệm sư phạm

Để có cơ sở đánh giá kết quả TNSP một cách khoa học về mặt định lượng lượng

nhất, chúng tôi đã cho HS các lớp TN và ĐC của các nhóm thực hiện cùng một bài

kiểm tra viết sau khi hoàn thành tiết dạy ở trên lớp.

Nhóm I: Lớp 10A2 và 10A6

Nhóm II: Lớp 10A3 và 10A4

63

Ở đây, chúng tôi thống kê giá trị từ điểm 4 vì không có điểm kiểm tra nào dưới

4. Dựa vào kết quả tổng hợp điểm kiểm tra, chúng tôi đã tính tham số trung bình cộng (𝑋̅), đặc trưng cho sự tập trung số liệu; độ lệch chuẩn (S), tham số đo độ chụm của

các số liệu quanh giá trị trung bình cộng và giá trị khảo sát (t) để xác định ý nghĩa

của công tác TNSP khi đối chiếu với giá trị (𝒕𝜶) tương ứng trong bảng phân phối Student. Cụ thể:

∑ 𝑥𝑖.𝑛𝑖 𝑛

(1) - Công thức ttính trung bình cộng: 𝑋̅ =

Trong đó: + ni là tần số của giá trị xi

+ n là số học sinh tham gia thực nghiệm.

- Công thức tính độ lệch chuẩn: Độ lệch chuẩn (ký hiệu là S), còn tham số

phương sai độ lệch chuẩn (ký hiệu là S2).

- Công thức tính phương sai có dạng như sau:

𝑛−1

S2 = √∑ 𝑛𝑖(𝑥𝑖−𝑥̅)2 (2)

- Độ lệch chuẩn là căn bậc hai của phuơng sai, do vậy công thức tính như sau:

𝑛−1

S = √∑ 𝑛𝑖(𝑥𝑖−𝑥̅)2 (3)

- Tiến hành so sánh sự khác biệt giữa nhóm thực nghiệm và đối chứng. Chúng

tôi sử dụng phép thử Student để tìm sự khác biệt giữa hai nhóm. Sự khác biệt đó được

2 (4)

tính theo công thức sau:

𝑛 2 + 𝑆𝐷𝐶 𝑆𝑇𝑁

𝑡 = (𝑋̅𝑇𝑁 − 𝑋̅𝐷𝐶)√

2 là giá trị trung bình và phƣơng sai của nhóm thực nghiệm.

2 là giá trị trung bình và phƣơng sai của nhóm thực nghiệm.

Trong đó:

𝑋𝑇𝑁 và 𝑆𝑇𝑁 𝑋𝐷𝐶 và 𝑆𝐷𝐶 n là số ngƣời tham gia thực nghiệm

Dùng bảng Student với α = 0,05 và độ lệch chuẩn tự do k = 2n-2 để tìm tα tới

hạn.Sự khác biệt giữa hai nhóm thực nghiệm và đối chứng chỉ có ý nghĩa khi t > tα và

vô nghĩa khi t < tα.

Sau đây là bảng số liệu thống kê minh chứng kết quả của quá trình thực nghiệm

sư phạm sử dụng tài liệu văn học trong quá trình dạy học lịch sử Việt Nam ở trường

phổ thông.

64

Bảng 2.2. Tổng hợp điểm kiểm tra

Nhóm Lớp Điểm 4 Điểm 5 Điểm 6 Điểm 7 Điểm 8 Điểm 9 Điểm 10

00 03 06 10 15 11 06 TN I

01 05 08 15 12 07 03 n=51 ĐC

01 03 10 14 15 05 02 TN II

02 05 12 16 12 02 01 n=50 ĐC

Bảng 2.3. Thống kê tần số lần điểm tại các giá trị điểm số của các lớp TN và ĐC

từ kết quả TNSP. (Đơn vị: %)

Nhóm Lớp Điểm 4 Điểm 5 Điểm 6 Điểm 7 Điểm 8 Điểm 9 Điểm 10

0 5,8 11,8 19,6 29,4 21,6 11,8 TN I

1,9 9,8 15,8 29,4 23,5 13,7 5,9 n=51 ĐC

2 6 20 28 30 10 4 TN II

4 10 24 32 24 4 2 n=50 ĐC

Căn cứ vào bảng tổng hợp về tần số lần điểm tại các giá trị điểm số trên bảng

2.5, chúng tôi đã thể hiện tỉ lệ này trên biểu đồ để xem xét một cách trực quan hơn về

hiệu quả của các biện pháp được tiến hành.

35%

30%

25%

20%

TN

15% ĐC

10%

5%

0%

Điểm 4 Điểm 5 Điểm 6 Điểm 7 Điểm 8 Điểm 9 Điểm 10

Hình 2.1. Biểu đồ sánh tỉ lệ giữa lớp TN và lớp ĐC nhóm I (đơn vị:%)

65

35%

30%

25%

20%

TN

15%

ĐC

10%

5%

0%

Điểm 4

Điểm 5

Điểm 6

Điểm 7

Điểm 8

Điểm 9

Điểm 10

Hình 2.2. Biểu đồ sánh tỉ lệ giữa lớp TN và lớp ĐC nhóm II

Qua quan sát biểu đồ (Hình 2.1 và Hình 2.2) chúng ta có thể thấy rõ sự chênh lệch

điểm số giữa các lớp TN và lớp ĐC. Ở các lớp TN, điểm 8; 9; 10 tập chiếm tỉ lệ nhiều so

với các điểm 4; 5; 6 và ngược lại, ở các lớp ĐC điểm 4; 5; 6 chiếm tỉ lệ cao hơn. Tỉ lệ điểm

số chiếm nhiều nhất ở lớp TN là điểm 8, trong khi đối với lớp ĐC là điểm 7.

Trên cơ sở số liệu kết quả thu nhận được, chúng tôi tiếp tục tiến hành xử lý theo

công thức toán học xác suất thống kê (công thức 1, 2, 3 phụ lục 3) để tính ra điểm trung

bình cho các nhóm lớp (mỗi nhóm có lớp ĐC và lớp TN), tính ra độ lệch chuẩn. Chúng

tôi thu đã được điểm trung bình cộng và lệch chuẩn của nhóm TN và nhóm ĐC như

sau:

Bảng 2.4. Bảng tổng hợp điểm trung bình cộng và lệch chuẩn của nhóm TN và ĐC

Nhóm I II

7,84 7,27 𝑋̅𝑇𝑁

(1,36) (1,28) S

7.27 6,82

(1,40) (1.24) 𝑋̅𝐷𝐶 S

𝑋̅𝑇𝑁 - 0,04 0,04

𝑋̅𝐷𝐶

66

Phân tích bảng thống kê trên, chúng tôi nhận thấy: Ở lớp TN kết quả đạt được

cao hơn lớp ĐC, độ lệch chuẩn trung bình cộng là 0.04. Như vậy, chúng ta thấy rằng

có sự khác biệt giữa lớp TN và lớp ĐC, mặc dù mức độ chênh lệch ở không đáng kể

nhưng đã chứng minh cho thấy hiệu quả bước đầu của phương pháp.

Để khẳng định tính hiệu quả của biện pháp sử dụng TLVH trong quá trình DHLS

Việt Nam ở trường PT, chúng tôi tính phương sai, tham số (t) của nhóm đối chứng và

nhóm thực nghiệm và đã thu được kết qua như sau:

Bảng 2.5. Giá trị t và tα của nhóm thực nghiệm và nhóm đối chứng

NHÓM I II

t 2,09 1,59

0,10 0,08 t

Như vậy, khi so sánh giữa t và α trong 2 nhóm, chúng ta thấy rằng t luôn lớn

hơn tα. Điều đó đã chứng minh về phương diện thống kê, sự khác biệt giữa nhóm TN

và nhóm ĐC là có ý nghĩa, phương pháp này đã tạo ra được sự chuyển biến về nhận

thức của HS. Nó cũng chứng minh rằng các biện pháp sư phạm mà luận văn đề xuất

là đúng, có tính khả thi, phổ biến; bất kì GV lịch sử nào cũng có thể áp dụng được

trong quá trình DHLS Việt Nam hiện nay ở các trường THPT địa bàn thành phố Thái

Nguyên.

2.5.5. Tổng hợp ý kiến GV thực nghiệm

Ngoài việc sử dụng phương pháp toán học xác suất thống kê để phân tích kết quả

thực nghiệm của đề tài, tôi còn tiến hành trao đổi, tổng hợp ý kiến của các GV cùng tham

gia thực nghiệm và một số ý kiến của HS để có những đánh giá khả quan nhất. Đây chính

là những căn cứ giúp tôi có thể rút ra những kết luận khách quan, chính xác.

Đại đa số ý kiến GV và HS đều tập trung xoay quanh một số vấn đề sau :

- GV thực nghiệm khẳng định TLVH đưa vào giáo án TN là vừa đủ, không ôm

đồm kiến thức, không dàn trải, không làm nặng nề giờ học. Các biện pháp sư phạm

được áp dụng trong giáo án TN đã tạo ra được hứng thú học tập cho các em. Bài giảng

không những thoát li ra được tâm trạng nặng nề khi học lịch sử mà trái lại làm cho HS

hết sức thoải mái khi tiếp cận với nguồn tài liệu liên quan trực tiếp đến nội dung bài

67

học, vì vậy các em tích cực chủ động trong quá trình lĩnh hội tri thức. Về điều này, cô

giáo Đỗ Thị Hồng Hạnh đã bày tỏ ý kiến rằng: “Ở các lớp đặc biệt, như một số tiết

trước, không có nhiều HS hào hứng học giờ lịch sử, các em đa phần uể oai và tỏ ra

chán nản. Tuy nhiên, khi thiết kế giáo án theo đề tài này, tôi thấy rõ HS có sự hứng

thú, mặc dù không phải hoàn toàn tập thể nhưng đại đa phần các em đã tích cực tham

gia các hoạt động của giờ học, không khí học tập rất thoải mái”

- Một số ý kiến HS cũng đều đồng thuận với quan điểm sử dụng TLVH trong

DHLS là rất có ích. Theo em Nông Xuân Thụy - HS lớp 10A2 cho biết: “Mặc dù lớp

em đa phần theo ban tự nhiên, các bạn rất ngại học môn xã hội, đặc biệt là môn Lịch

sử nhưng giờ học hôm nay em thấy rất khác. Các bạn đa phần hứng thú với bài giảng,

một số bạn cá biệt đã chú ý đến bài giảng của cô và có sự tương tác làm bài tập trong

nhóm.” Hay ý kiến của em Triệu Đình Đạt - HS lớp 10A6: “Thường ngày em rất sợ

học tiết Lịch sử, nói thật là rất nhàm chán, khô khan nhưng hôm nay tiết học rất khác,

em thấy bài không những dễ hiểu mà còn rất hay, cuốn hút”.

Những ý kiến trên đã chứng tỏ rằng, phương pháp sư phạm mà chúng tôi đề

xuất sử dụng TLVH trong DHLS Việt Nam là cần thiết, nó đáp ứng yêu cầu của

đa số GV phổ thông trong việc khắc phục những lối dạy chay, đọc - chép, truyền

thụ một chiều, góp phần kích thích sự say mê, sáng tạo trong học tập, đặc biết đối

với bộ môn lịch sử.

- Những ý kiến của GV cũng cho rằng, TLVH sử dụng trong DHLS Việt Nam

có tác dụng rõ rệt đối với HS trên cả 3 mặt: giáo dục, giáo dưỡng và kĩ năng. Tuy nhiên,

để có nguồn TLVH sử dụng trong DHLS đòi hỏi GV phải đầu tư thời gian, công sức,

nghiêm túc từ những khâu đầu tiên như sưu tầm, lựa chọn tài liệu cho đến những khâu

thiết kế giáo án, vận dụng vào giờ học.

Tóm lại, trên cơ sở thực nghiệm, xử lý kết quả và tiến hành trao đổi với GV và

HS, chúng tôi có thể kết luận rằng việc sử dụng TLVH trong quá trình DHLS Việt

Nam nếu có sự chuẩn bị công phu và nghiêm túc, chắc chắn rằng chất lượng học tập

môn lịch sử ở chương trình giáo dục PT ngày càng một được cải thiện và phát triển

hơn.

68

Như vậy, chương 2 của luận văn đã tập trung xây dựng hệ thống các phương

án sử dụng TLVH trong DHLS Việt Nam và trình bày công việc TNSP nhằm đánh

giá tính khả thi của các biện pháp được áp dụng ở lớp 10 trường THPT thành phố

Thái Nguyên. Kết quả đã chứng minh, các biện pháp mà tác giả đề xuất được sử dụng

trong bài học nội khóa như: sử dụng TLVH để làm hoạt động khởi động, để khắc sâu

nội dung lịch sử, kết hợp với ĐDTQ giúp HS hiểu sâu sắc kiến thức, để tổ chức trao

đổi, đàm thoại và xây dựng các bài tập nhận thức...bước đầu đã khẳng định tính hiệu

quả.

Do đặc thù về mặt tâm lí, nhận thức của HS THPT thành phố Thái Nguyên và

điều kiện dạy học của từng trường, khi GV sử dụng TLVH trong DHLS cần lưu ý lựa

chọn và vận dụng nhuần nhuyễn những biện pháp mà tác giả đề xuất để nâng cao chất

lượng giờ học, khắc sâu kiến thức, kích thích hứng thú học tập lịch sử của các em đồng

thời định hướng năng lực và giáo dục tư tưởng, thái độ chuẩn mực, lập trường chính trị

vững vàng cho các em.

69

KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ

1. KẾT LUẬN

1. Giáo dục PT nói chung luôn hướng tới mục tiêu đào tạo ra những thế hệ phát

triển toàn diện, năng động, sáng tạo để phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện

đại hóa đất nước. Môn Lịch sử ở trường PT cũng là một trong số những môn có nhiệm

vụ trong việc giáo dục thế hệ trẻ. Vì vậy, nâng cao chất lượng dạy học môn lịch sử là

một nhiệm vụ cần thiết và cấp bách. Hướng nghiên cứu của đề tài là sử dụng TLVH

trong DHLS Việt Nam ở trường PT đã góp một phần nhỏ công sức trong việc giải quyết

các hướng phát triển, đổi mới phương pháp DHLS, phát huy tính tích cực của HS, nâng

cao chất lượng dạy học hiện nay.

2. Trên thực tế, việc nâng cao chất lượng DHLS là một công việc khó. Đòi hỏi

phải có thời gian nghiên cứu kĩ đối tượng, địa điểm dạy học từng khu vực để vận dụng

phương pháp sao cho phù hợp. Do đó, đa phần GV đã nhận thực được tầm quan trọng

của các PPDH mà tiêu biểu đó là phương pháp sử dụng TLVH trong quá trình DHLS

Việt Nam. Mặc dù đã có GV sử dụng phương pháp này nhưng cách thức tiến hành vẫn

chưa đạt yêu cầu, chưa phát huy triệt để hay sử dụng phương pháp này mang tinh thần

đối phó, có hình thức. Cho nên chất lượng giờ học lịch sử chưa thể hoàn toàn đạt mức

tuyệt đối về chất lượng.

3. Trong quá trình sử dụng TLVH hay bất kì một phương pháp nào để dạy học

lịch sử thì GV cần phải chú ý đến những đặc điểm tâm sinh lí, khả năng nhận thức của

từng đối tượng đề vận dụng những biện pháp sư phạm phù hợp nhất nhằm phát huy tối

đa năng lực của các em trong việc tiếp thu kiến thức. Bởi việc hiểu sâu sắc những kiến

thức lịch sử sẽ là cơ sở các em hiểu đúng những quy luật, bản chất của lịch sử, góp

phần không nhỏ vào việc giáo dục tư tưởng, tình cảm, nhân cách HS. Từ đó, các em sẽ

xác định được trách nhiệm của mình đối với gia đình, xã hội, đất nước.

4. Việc sử dụng TLVH trong DHLS Việt Nam ở trường PT sẽ cung cấp cho HS

những hiểu biết sinh động, cụ thể về lịch sử dân tộc; từ đó giúp các em hiểu được mối

quan hệ mật thiết giữa văn học với lịch sử; làm cho bài giảng lịch sử trở nên gần gũi,

có sức hấp dẫn, thuyết phục, kích thích hứng thú của các em đối với môn học. Từ sự

hứng thú học tập, các em sẽ tích cực tìm tòi những kiến thức lịch sử mà các em chưa

biết, sẽ khơi dậy được khả năng tư duy độc lập sáng tạo, sự phát triển năng lực nhận

thức và niềm say mê học tập.

70

5. Khi sử dụng TLVH trong quá trình DHLS, GV hết sức lưu ý, bởi đây là nguồn

tài liệu vô cùng đa dạng và phong phú cho nên cần chọn TLVH sao cho phù hợp với

mục tiêu của từng nội dung và thời gian quy định trong chương trình, không làm loãng

kiến thức lịch sử dân tộc, không “biến giờ sử thành giờ ngữ văn”. Để thực hiện được

điều này, khi sử dụng TLVH cho bài giảng, người GV cần xác định rõ mục đích, hình

thức sử dụng, yêu cầu khi sử dụng và cần xác định cả nguồn tài liệu cũng như đối tượng

được sử dụng. Đây chính là cách thể hiện tính khoa học và cũng ý thức trách nhiệm

của GV khi DHLS Việt Nam.

6. Qua quá trình nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn, bước đầu tôi đã đưa

ra 10 biện pháp sử dụng TLVH trong DHLS nhằm nâng cao sự hứng thú và chất

lượng dạy học bộ môn. GV có thể vận dụng TLVH vào quá trình hoạt động nội

khoá như tổ chức hoạt động khởi động tạo hứng thú học tập cho HS, khắc sâu kiến

thức, kết hợp với đồ dùng trực quan, tổ chức trao đổi, đàm thoại, xây dựng các bài

tập nhận thức và để kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của HS. Đồng thời sử dụng

trong các hoạt động ngoại khoá như chuyện lịch sử, trò chơi lịch sử, dạ hội lịch sử

và hoạt động đọc sách. Mỗi biện pháp đều tiềm ẩn những ưu và nhược điểm riêng.

Do đó, khi tiến hành bất kì hoạt động nào, GVphải lựa chọn, kết hợp khéo léo các

biện pháp trong bài giảng của mình, tránh tình trạng ôm đồm, chất đống tài liệu,

làm nặng nề không khí giờ học.

7. Quá trình TN đề tài đã diễn nghiêm túc. Bước đầu đã đánh giá được kết quả

của phương pháp sử dụng TLVH trong quá trình DHLS Việt Nam ở trường phổ thông.

Hầu hết GV và HS đều hài lòng với phương pháp này và mong muốn phương pháp này

được sử dụng nhiều hơn trng quá trình học tập môn lịch sử của các em. Đây cũng chính

là những căn cứ đầu tiền cho việc khẳng định tính hiệu quả thực tế của phương pháp

này.

8. Kết quả thống kê của hoạt động TNSP luận văn đã chứng minh rằng những

biện pháp sư phạm mà tôi đề xuất là đúng đắn, hợp lý và có tính khả thi. Từ đó, khẳng

định nếu GV và nghiêm túc thực hiện phương pháp này thì chắc chắc chắn sẽ góp phần

không nhỏ nâng cao hiệu quả dạy học bộ môn lịch sử, đáp ứng được mục tiêu giáo dục

mà Đảng và Nhà nước đã đề ra.

71

2. KIẾN NGHỊ

Từ kết quả đạt được bước đầu trong luận văn và từ thực tiễn dạy học hiện nay,

tôi xin đề xuất một vài khiến nghị sau :

1. Việc sử dụng TLVH trong quá trình DHLS hiện nay ở nhà trường PT vẫn

chưa được thực sự quan bởi vẫn còn nhiều GVchưa nhận thức rõ về vị trí, vai trò cũng

như là ý nghĩa của nguồn tài liệu này. Do đó, cần phải thay đổi nhận thức của GV, cải

tiến các phương pháp DHLS thông qua các buổi tập huấn, học tập chuyên đề của nhà

trường, các khu vực...

2. Người GV phải chịu khó đầu tư thời gian, công sức để sưu tầm các nguồn

TLVH, sắp xếp khoa học thành hệ thống theo từng bài học cho phù hợp nhất với nội

dung và kiến thức cơ bản trong SGK. Mỗi đoạn tài liệu nên xác định nên xác định rõ

các phương pháp đồng sử dụng sao cho tiện lợi nhất.

3. GV cần đưa ra những yêu cầu cụ thể đối với HS trong quá trình DHLS như

sưu tầm tài liệu trước khi lên lớp hay đọc thêm những bài học lịch sử thông qua TLVH

theo sự hướng dẫn của GV.

4. Các cấp quản lý giáo dục phải thực sự quan tâm, tạo điều kiện, khuyến khích

GV đầu tư thời gian, công sức trí tuệ vào hoạt động chuyên môn nhất là vấn xoay quanh

việc sử dụng nguồn tài liệu này. Bên cạnh đó, cần thường xuyên dự giờ, trao đổi kinh

nghiệm lẫn nhau, tổ chức các chương trình bồi dưỡng, tập huấn để tăng cường năng

lực nghề nghiệp của GV. Đồng thời, hỗ trợ kinh phí để GV có thể tổ chức các hoạt

động ngoại khóa lịch sử để kích thích sự hứng thú và phát huy tính tích cực chủ động

học tập của các em.

72

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Lại Nguyên Ân (2016), 150 thuật ngữ văn học, NXB Văn học, Hà Nội.

2. Báo Dân trí (2018), https://dantri.com.vn/giao-duc-khuyen-hoc/chuong-trinh-

giao-duc-pho-thong-moi-cap-thpt-giam-den-315-gio-hoc-

20181227161200476.htm, ngày 27/12/2018.

3. Nguyễn Lương Bích, Phạm Ngọc Phụng (1976), Tìm hiểu thiên tài quân sự của

Nguyễn Huệ, NXB Quân đội nhân dân, TP Hồ Chí Minh.

4. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2006), Chương trình giáo dục phổ thông môn Lịch sử,

NXB Giáo dục, Hà Nội.

5. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2013), Hỏi - đáp về một số nội dung đổi mới căn bản,

toàn diện Giáo dục và đào tạo, NXB Giáo dục Việt Nam.

6. Bộ giáo dục và Đào tạo (2006), Lịch sử 10, NXB Giáo dục, Việt Nam.

7. Bộ Giáo dục và Đạo tạo (2010), Ngữ văn 6, tập 1. NXB Giáo dục, Việt Nam 11.Bộ

giáo dục và Đào tạo (2006), Ngữ văn 7, tập 1, NXB Giáo dục, Việt Nam

8. Bộ giáo dục và Đào tạo (2013), Ngữ văn 8, tập 2, NXB Giáo dục, Việt Nam.

9. Bộ Giáo dục và Đạo tạo (2014), Ngữ văn 9, tập 1, NXB Giáo dục, Việt Nam.

10. Bộ Giáo dục và Đạo tạo (2014), Ngữ văn 10, tập 1. NXB Giáo dục, Việt Nam

11. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2010), Ngữ văn 10, tập 2, NXB Giáo dục, Việt Nam.

12. Bộ giáo dục và Đào tạo (2014), Ngữ văn 12, tập II, NXB Giáo dục, Việt Nam.

13. A.G Côvaliốp (1971),Tâm lí học cá nhân, (tập 1), NXB Giáo dục, Hà Nội.

14. B.P.Êxipốp (chủ biên) (1971), Những cơ sở của lí luận dạy học, tập II, III, NXB

Giáo dục, Hà Nội.

15. Nguyễn Hữu Chí (2002), Các cơ sở để lựa chọn Phương pháp dạy học, Tạp chí

Giáo dục số 46 (Chuyên đề quý IV)

16. Nguyễn Nghĩa Dân (2007), Tục ngữ các dân tộc Việt Nam về giáo dục đạo đức

Nxb Giáo dục.

17. Vũ Dung và Vũ Thúy Anh (2003), Ca dao Việt Nam, tập 1, Nxb Văn hóa Thông

tin, Hà Nội

18. Hồ Đắc Duy (2015), Quang Trung hoàng đế (1788-1792), https://www.thivien.

net/H%E1%BB%93-%C4%90%E1%BA%AFc-Duy/Quang-Trung-ho%C3%

A0ng-%C4%91%E1%BA%BF-1788-1792/poem-auLLgEWrTujyfA-s1zsZ0g,

ngày 18/3/2015.

73

19. Hoàng Dương (2019), Huyền Trân công chúa và câu ca dao “tiếc thay cây quế

giữa rừng”, http://thcsdaiang.edu.vn/tin-tuc-thong-bao/thu-vien/huyen-tran-cong-

chua-va-cau-ca-dao-tiec-thay-cay-que-giua-ru.html, ngày 28/9/2019.

20. N.G Đairi (1978), Chuẩn bị giờ học lịch sử như thế nào. NXB Giáo dục, Hà Nội.

21. Đề cương bài giảng Tâm lý học trẻ em và sư phạm (1975). Tư liệu lưu hành nội bộ

trường đại học sư phạm Hà Nội.

22. Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện Hội nghị lần thứ II Ban chấp hành Trung ương

Đảng khóa VIII, Lưu hành nội bộ.

23. Trần Bá Hoành (2020), Đổi mới phương pháp dạy học, chương trình và sách giáo

khoa, NXB Đại học Sư phạm, Hà Nội.

24. Lê Thị Thu Hương (2015), Nâng cao chất lượng dạy học Lịch sử Việt Nam (1930

- 1945) ở trường trung học phổ thông miền núi tỉnh Thái Nguyên, Luận án tiến sĩ,

trường Đại học Sư phạm Hà Nội.

25. I.F Kharlamốp(1979), Phát huy tính tích cực học tập của học sinh như thế nào (tập

2). NXB Giáo dục, Hà Nội.

26. Vũ Trung Kiên (2020), Chiến thắng Kỷ Dậu 1789: Bản hùng ca bất hủ,

http://baolamdong.vn/hosotulieu/202001/chien-thang-ky-dau-1789-ban-hung-ca-

bat-hu-2985347/index.htm, ngày 28/1/2020

27. Nguyễn Xuân Kính (chủ biên) (2002), Kho tàng tục ngữ người Việt, Tập 1, Nxb

Văn hóa thông tin, Hà Nội.

28. Mã Giang Lân (1999), Tục ngữ và ca dao Việt Nam, NXB Giáo dục, Hà Nội

29. I.La.Lescne (1977), Dạy học nêu vấn đề, NXB Giáo dục, Hà Nội.

30. Lênin V.I (2006), toàn tập, tập 29, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

31. Phan Ngọc Liên (chủ biên), Trịnh Đình Tùng, Nguyễn Thế Bình, Lê Quốc Vinh

(2005), Đổi mới phương pháp dạy học Lịch sử ở trường phổ thông, NXB Đại học

Sư phạm, Hà Nội.

32. Phan Ngọc Liên (2002), Phương pháp DHLS - tập I, NXB Đại học Sư phạm,

Hà Nội.

33. Phan Ngọc Liên, Nguyễn Thị Côi, Trịnh Đình Tùng (2010), Phương pháp dạy học

Lịch sử, (tập 2), NXB Đại học Sư phạm, Hà Nội.

74

34. Lê Gia Lộc (2013), Lý Tử Tấn và Xương Giang phú,

https://baodanang.vn/channel/6060/201306/ly-tu-tan-va-xuong-giang-phu-

2248181/, ngày 14/6/2013

35. Luật Giáo dục (2005), NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

36. Luật Giáo dục (2019), https://luatvietnam.vn/giao-duc/luat-giao-duc-2019-

175003-d1.html

37. Phạm Xuân Nam, "Chính sách xã hội trong Cách mạng tháng 8 năm 1945 và trong sự

nghiệp đổi mới ngày nay", Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 11(96) - 2015.

38. Vũ Ngọc Phan (2007), Tục ngữ, ca dao, dân ca Việt Nam. NXB Văn học, Hà Nội.

39. Thu Phương (2004), Ca dao tục ngữ Việt Nam, NXB Thanh niên, Hà Nội.

40. Trương Hữu Quýnh, Phan Đại Doãn, Nguyễn Cảnh Minh (1997), Đại cương Lịch

sử Việt Nam, NXB Giáo dục, Hà Nội.

41. N.V.Savin, Giáo dục học, tập 1, NXB Giáo dục, Hà Nội.

42. Trương Hán Siêu (1962), Bạch Đằng Giang phú, theo bản dịch trong Hợp tuyển

thơ văn Việt Nam, NXB Văn hóa, Hà Nội

43. Tác chiến mạng (2019), Trần Quốc Toản và câu chuyện bóp nát quả cam,

https://tacchienmang.net/2019/10/tran-quoc-toan-va-cau-chuyen-bop-nat-qua-

cam/, ngày 24/10/2019

44. Hoàng Thanh Tú (2002), Phương pháp ôn tập lịch sử trường THPT - một số vấn

đề lí luận và thực tiễn, NXB Đại học Quốc gia, Hà Nội

45. Trịnh Đình Tùng (chủ biên), Trần Viết Thụ, Đặng Văn Hồ, Trần Văn Cường,

(2006), Hệ thống các phương pháp dạy học lịch sử ở trường THCS, NXB Đại học

Sư phạm, Hà Nội.

46. A.A.Vaghin (1972), Phương pháp giảng dạy lịch sử ở trường phổ thông trung học,

NXB Giáo dục, Hà Nội.

47. Nguyễn Như Ý (2002), Từ điển tiếng Việt thông dụng, NXB Giáo dục, Hà Nội.

48. Nguyễn Hải Yến (2012), Sử dụng tài liệu văn học nhằm tạo hứng thú học tập cho

học sinh trong dạy học lịch sử Việt Nam từ 1919 đến 1945 Lớp 9, Trường trung

học cơ sở tỉnh Yên Bái, Luận văn thạc sĩ, trường Đại học Giáo dục - Đại học Quốc

gia, Hà Nội.

49. Mã Giang Lân và Lê Chí Quế (1977), Tục ngữ, câu đố, ca dao, dân ca Việt Nam,

Nxb Đại học Tổng hợp.

75

PHỤ LỤC

PHỤ LỤC 1

Phụ lục 1a.

PHIẾU ĐIỀU TRA

(Dành cho hoc sinh)

Họ và tên: ……………………………………………………………………….

Lớp:………………………………………….. Giới tính: Nam/Nữ

Trường:………………………………………………………………………….

Xin em vui lòng cho biết những ý kiến của mình về tình hình học tập môn lịch sử của

mình ở trường THPT. Nếu đồng ý, vui lòng tích dấu X vào ô trống.

1. Em có thích học lịch sử ở không?

Rất thích. Thích Bình thường Không thích

2. Em thường học lịch sử như thế nào?

Học thuộc lòng vở ghi

Học thuộc lòng SGK

Đọc SGK, ghi bài và làm bài tập

Đọc SGK và tài liệu tham khảo, trả lời câu hỏi trong SGK

Cách học khác

3. Thầy (cô) giáo trên lớp có thường xuyên sử dụng tài liệu văn học trong quá trình

giảng bài lịch sử trên lớp không?

Thường xuyên Thỉnh thoảng Không sử dụng

4. Khi thầy (cô) giáo sử dụng tài liệu văn học trong quá trình dạy học, em cảm thấy

như thế nào?

Rất hứng thú, dễ hiểu Bình thường Không quan tâm

5. Giáo viên có tổ chức cho các em làm việc với nguồn tài liệu văn học không?

Thường xuyên Thỉnh thoảng Không bao giờ

6. Theo em, trong dạy-học lịch sử có cần sử dụng tài liệu văn học không?

Rất cần thiết Bình thường Không cần thiết

76

7. Các em có thường xuyên tìm hiểu, thu thập nguồn tài liệu văn học cho việc học tập

hay không?

Thường xuyên Thỉnh thoảng Không bao giờ

8. Em thường tìm hiểu, thu thập tài liệu văn học bằng cách nào?

Sưu tầm qua sách báo, tạp chí

Sưu tầm qua nguồn internet

Sưu tầm qua tài liệu của bạn bè, thầy cô, ông bà

Sưu tầm qua các hội thi thơ, văn

Xin chân thành cảm ơn các em!

77

Phụ lục 1b.

PHIẾU ĐIỀU TRA

(Dành cho giáo viên)

Họ và tên: ……………………………………………………………………….

Tuổi:……………………………………………………………………………...

Thâm niên nghề:…………………………………………………………………

Đơn vị công tác:………………………………………………………………….

……………………………………………………………………………………

Để góp phần nâng cao chất lượng dạy học Lịch sử ở trường THPT, xin thầy (cô) vui

lòng cho biết những ý kiến của mình thông qua một số câu hỏi sau. Nếu đồng ý, vui

lòng tích dấu X vào ô trống.

1. Theo thầy (cô), hiện nay HS có thích học lịch sử không?

Rất thích. Thích Bình thường Không thích

2. Theo thầy (cô) hãy cho biết tầm quan trọng của việc sử dụng tài liệu văn học trong

dạy học lịch sử ở trường THPT?

Rất quan trọng Quan trọng Bình thường Không quan trọng

3. Theo thầy (cô) trong dạy học lịch sử có những nguồn tài liệu văn học nào?

Văn học dân gian

Tiểu thuyết, nhật kí, hồi kí lịch sử

Kịch, thơ, truyện ngắn, sử thi gắn với nhân vật, sự kiện lịch sử …

Các tác phẩm văn học ra đời từ những sự kiện cụ thể của lịch sử

4. Quan niệm của thầy (cô) về tài liệu văn học đối với dạy học lịch sử?

Nguồn tài liệu minh họa

Nguồn tài liệu tham khảo có vai trò quan trọng

Nguồn tài liệu tham khảo không quan trọng

5. Thầy (cô) có sử dụng tài liệu văn học trong dạy học lịch sử không?

Thường xuyên Thỉnh thoảng Không sử dụng

78

6. Theo thầy (cô), sử dụng tài liệu văn học trong dạy học lịch sử có tác dụng gì?

Nâng cao tầm hiểu biết của học sinh.

Tạo hứng thú cho học sinh trong quá trình học tập lịch sử

Phát triển cho học sinh các kĩ năng, kĩ xảo cần thiết

Giúp các em nhìn nhận vấn đề lịch sử một cách chân thực, đúng đắn

7. Thầy (cô) đã sử dụng tài liệu văn học trong dạy học lịch sử ở hình thức tổ chức dạy

học nào?

Trong giờ nội khóa

Trong giờ ngoại khóa

Trong quá trình giao bài tập về nhà.

8. Thầy (cô) gặp khó khăn nào khi sử dụng tài liệu văn học trong dạy học lịch sử?

Hạn chế thời gian Lúng túng trong quá trình lựa chọn

Thiếu nguồn tư liệu văn học Học sinh thiếu hợp tác

phương pháp

9. Các biện pháp sử dụng tài liệu văn học trong dạy học lịch của các thầy (cô)?

Sử dụng tài liệu văn học để minh họa cho kiến thức

Dùng để phân tích, đối chiếu, giải thích vấn đề

Dùng làm câu hỏi nêu vấn đề

Dùng làm tư liệu xây dựng bài tập cho học sinh

10. Để việc sử dụng tài liệu văn học trong dạy học lịch sử thật sự hiệu quả, thầy (cô)

đề xuất ý kiến gì?

…………………………………………………………………………………………

…………………………………………………………………………………………

…………………………………………………………………………………………

Xin chân thành cảm ơn các thầy (cô) giáo đã nhiệt tình giúp đỡ!

79

Phụ lục 1c

PHIẾU KHẢO SÁT LỰA CHỌN GIÁO VIÊN DẠY THỰC NGHIỆM

Xin thầy (cô) vui lòng cho biết một số thông tin cá nhân sau: Thầy (cô) có thể đánh

dấu (X) hoặc ghi thông tin vào ...... bên cạnh nếu có)

1. Họ và tên:.......................................................Tuổi:.................................................

2. Số năm công tác:............................................Giới tính:..........................................

3. Tốt nghiệp Đại học Sư phạm năm:..........................................................................

4. Đã từng đạt danh hiệu giáo viên dạy giỏi cấp nào sau đây?

- Trường

- Quận/huyện

- Tỉnh/thành phố

5. Các sáng kiến kinh nghiệm, báo cáo chuyên môn:

-Có hàng năm

-Thỉnh thoảng

-Không có

6. Tham gia bồi dưỡng học sinh giỏi các cấp

- Trường Số HS đạt giải: …………………..

- Quận/huyện Số HS đạt giải: …………………..

- Tỉnh/thành phố Số HS đạt giải: …………………..

- Quốc gia Số học sinh đạt giải....................

Xin cảm ơn quý thầy (cô)!

80

PHỤ LỤC 2

Phụ lục 2a

GIÁO ÁN THỰC NGHIỆM

Bài 19: NHỮNG CUỘC CHIẾN ĐẤU CHỐNG NGOẠI XÂM

Ở CÁC THẾ KỶ X - XV

I. Mục tiêu

Sau khi học xong bài, HS cần đạt được:

1. Về kiến thức

- Hiểu được gần 6 thế kỷ đầu thời kỳ độc lập, nhân dân Việt Nam phải liên tiếp

tổ chức những cuộc kháng chiến chống ngoại xâm, bảo vệ Tổ quốc.

- Trình bày được những cuộc kháng chiến chống ngoại xâm, bảo vệ Tổ quốc.

- Phân tích được nguyên nhân thắng lợi và ý nghĩa lịch sử của những chiến thắng

đó.

2. Về kĩ năng

- Rèn luyện kĩ năng khái quát, phân tích, đánh giá, rút ra bài học lịch sử

- Rèn luyện kĩ năng làm việc nhóm.

- Hình thành và phát triển các năng lực tự học, làm việc với đồ dùng trực quan

và TLVH.

3. Về thái độ.

- Giáo dục lòng yêu nước đấu tranh cho sự nghiệp bảo vệ sự toàn vẹn đất nước.

- Bồi dưỡng niềm tự hào về tinh thần đấu tranh của người nông dân Việt Nam.

- Giáo dục lòng yêu nước, tinh đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau giữa các dân tộc, ý

thức bảo vệ nền độc lập và thống nhất của Tổ quốc.

- Bồi dưỡng ý

II. CHUẨN BỊ CỦA GIÁO VIÊN VÀ HỌC SINH

1. Chuẩn bị của giáo viên

- Tranh ảnh: Lược đồ trận đánh Mông - Nguyên lần 3 (1288-1289) của nhà Trần.

Lược đồ địa danh các trận đánh lớn (Hình 37 - SGK Lịch sử 10)

- Tác phẩm văn học “Nam quốc sơn hà” của Lý Thường Kiệt, “Hịch tướng sĩ”

của Trần Hưng Đạo, “Bình Ngô đại cáo” của Nguyễn Trãi, ca dao - tục ngữ nói về các

cuộc kháng chiến thế kỉ X - XV.

81

2. Chuẩn bị của học sinh

- SGK, giấy, bút dạ

- Hoàn thành bài tập đã giao: Đọc và tìm hiểu tác phẩm “Bình Ngô đại cáo”

(Nguyễn Trãi).

III. Các hoạt động dạy học

1. Hoạt động khởi động.

- Mục tiêu: Kích thích tính tò mò của HS về các cuộc kháng chiến chống ngoại

xâm của dân tộc ta. Khái quát mục tiêu cần đạt của bài.

- Phương thức:

+ GV cho HS nghe câu ca dao sau:

“Đá mòn nhưng dạ chẳng mòn

Tình dân nghĩa nước một lòng sắt non.

Đứng trên cầu Cấm em thề

Chưa xong nhiệm vụ chưa về quê hương”.[49; tr.221]

+ GV yêu cầu HS: Trình bày suy nghĩ của em về câu ca dao trên? Theo em nét

văn hóa truyền thống đó được thể hiện ở hành động nào?

- Sản phẩm: HS xác định được nội dung câu ca dao nói về tình yêu quê hương

đất nước và thể hiện trách nhiệm, nghĩa vụ của mình với sự an nguy của Tổ Quốc. Dưới

sự tò mò của HS về những sự kiện có trong đoạn trích, GV dẫn dắt, hình hướng vào

bài để giải quyết các vấn đề khúc mắc trên.

2. Hoạt động hình thành kiến thức.

Hoạt động 1: Tìm hiểu về cuộc kháng chiến chống Tống thời Lê.

- Mục tiêu: Tìm hiểu khái quát về cuộc chống Tống dưới thời nhà Lê.

- Phương thức: Trao đổi, đàm thoại: “Em hãy khái quát về cuộc kháng chiến

chống Tống thời Lê và nguyên nhân thắng lợi của cuộc kháng chiến?”

+ GV yêu cầu HS đọc SGK

+ GV: giới thiệu khái về tình hình chính trị Việt Nam thời Pháp thuộc

- Sản phẩm:

+ Nhân lúc triều đình nhà Đinh gặp khó khăn, vua Tống cử quân sang xâm lược

nước ta. Trước tình hình đó Thái hậu họ Dương và triều đình nhà Đinh đã tôn Lê Hoàn

lên làm vua.

82

+ Năm 981, quân dân Đại Việt dưới sự chỉ huy của Lê Hoàn đã chiến đấu anh

dũng, đánh tan quân xâm lược ngay ở vùng Đông Bắc, củng cố nền độc lập dân tộc.

+ Nguyên nhân thắng lợi: Do triều đình nhà Đinh và Thái hậu họ Dương sẵn

sàng vì lợi ích dân tộc mà hy sinh lợi ích dòng họ đẩ tạo thuận lợi cho cuộc kháng chiến

chống Tống. Do ý chí quyết chiến bảo vệ độc lập của quân dân Đại Cồ Việt và sự chỉ

huy mưu lược của Lê Hoàn.

Hoạt động 2: Tìm hiểu cuộc kháng chiến chống Tống thời Lý

- Mục tiêu: HS hiểu rõ diễn biến, ý nghĩa cuộc kháng chiến chống Tống thời Lý.

- Phương thức: Trao đổi, đàm thoại vấn đề: “ Nguyên nhân, diễn biến, kết quả,

ý nghĩa cuộc kháng chiến chống Tống thời Lý?”

+ GV đọc tác phẩm cho HS: “Nam quốc sơn hà” để khẳng định nền độc lập của

dân tộc ta.

“Nam quốc sơn hà, nam đế cư

Tiệt nhiên định phận tại thiên thư

Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm

Nhữ đẳng hành khan, thủ bài hư” [6; tr. 97]

- Sản phẩm:

HS biết được những kiến thức cơ bản sau:

+ Nguyên nhân: Vào những năm 70, nhà Tống bước vào giai đoạn khủng hoảng,

vua Tống âm mưu xâm lược Đaih Việt để thay đổi tình thế

+ Diễn biến:

 Giai đoạn 1: Lý Thường Kiệt tổ chức thực hiện chiến lược “tiên phát chế

nhân” đem quân đánh trước để chặn thế mạnh của địch. Năm 1075, quân triều đình

cùng các dân tộc miền núi đánh sang đất Tống, đánh tan các đạo quân Tống ở đây, sau

đó rút về phòng thủ.

 Giai đoạn 2: Năm 1077, 30 vạn quân Tống kéo sang xâm lược nước ta bị

đánh bại bên bờ Bắc của sông Như Nguyệt. Ta chủ động giảng hòa và kết thúc

chiến tranh.

+ Ý nghĩa: Khẳng định tinh thần yêu nước và chủ quyền của Đại Việt.

83

Hoạt động 3: Tìm hiểu về cuộc kháng chiến chống quân Mông - Nguyên ở thế kỉ

XIII và cuộc kháng chiến chống quân Minh - khởi nghĩa Lam Sơn.

- Mục đích: Hiểu được nguyên nhân, diễn biến, kết quả, ý nghĩa của hai cuộc

kháng chiến chống quân Mông Nguyên dưới thời nhà Trần và cuộc kháng chiến chống

quân Minh - khởi nghĩa Lam Sơn.

- Phương thức: Hoạt động nhóm

+ GV chia nhiệm vụ cho từng nhóm:

Nhóm 1: Phân tích về cuộc kháng chiến chống quân Mông - Nguyên dưới thời

nhà Trần.

Nhóm 2: Phân tích về cuộc kháng chiến chống quân Minh và khởi nghĩa Lam Sơn.

+ GV sử dụng: Lược đồ cuộc kháng chiến chống quân Mông Nguyên lần 3

(1288-1289)

+ GV đọc một số đoạn trích sau để khắc sâu kiến thức:

* “Hịch tướng sĩ” Trần Quốc Tuấn

“Ta thường tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối, ruột đau như cắt, nước mắt đầm

đìa; chỉ giận chưa thể xả thịt, lột da, ăn gan, uống máu quân thù; dẫu cho trăm thân

ta phơi ngoài nội cỏ, nghìn thây ta bọc trong da ngựa, cũng nguyện xin làm.

Các ngươi ở lâu dưới trướng, nắm giữ binh quyền, không có mặc thì ta cho áo;

không có ăn thì ta cho cơm. Quan thấp thì ta thăng tước; lộc ít thì ta cấp lương. Đi

thủy thì ta cho thuyền; đi bộ thì ta cho ngựa. Lâm trận mạc thì cùng nhau sống chết;

được nhàn hạ thì cùng nhau vui cười. So với Công Kiên đãi kẻ tỳ tướng, Ngột Lang đãi

người phụ tá, nào có kém gì?

Nay các ngươi ngồi nhìn chủ nhục mà không biết lo; thân chịu quốc sỉ mà không

biết thẹn. Làm tướng triều đình đứng hầu quân man mà không biết tức; nghe nhạc thái

thường đãi yến sứ ngụy mà không biết căm. Có kẻ lấy việc chọi gà làm vui; có kẻ lấy

việc cờ bạc làm thích. Có kẻ chăm lo vườn ruộng để cung phụng gia đình; có kẻ quyến

luyến vợ con để thỏa lòng vị kỷ. Có kẻ tính đường sản nghiệp mà quên việc nước; có

kẻ ham trò săn bắn mà trễ việc quân. Có kẻ thích rượu ngon; có kẻ mê giọng nhảm.

84

Nếu bất chợt có giặc Mông Thát tràn sang thì cựa gà trống không đủ đâm thủng

áo giáp của giặc; mẹo cờ bạc không đủ thi hành mưu lược nhà binh. Vườn ruộng nhiều

không chuộc nổi tấm thân ngàn vàng; vợ con bận không ích gì cho việc quân quốc.

Tiền của dẫu lắm không mua được đầu giặc; chó săn tuy hay không đuổi được quân

thù. Chén rượu ngọt ngon không làm giặc say chết; giọng hát réo rắt không làm giặc

điếc tai.

Lúc bấy giờ chúa tôi nhà ta đều bị bắt, đau xót biết chừng nào! Chẳng những thái

ấp của ta không còn mà bổng lộc các ngươi cũng thuộc về tay kẻ khác; chẳng những gia

quyến của ta bị đuổi mà vợ con các ngươi cũng bị kẻ khác bắt đi; chẳng những xã tắc tổ

tông ta bị kẻ khác giày xéo mà phần mộ cha ông các ngươi cũng bị kẻ khác bới đào; chẳng

những thân ta kiếp này chịu nhục đến trăm năm sau tiếng nhơ khôn rửa, tên xấu còn lưu,

mà gia thanh các ngươi cũng không khỏi mang danh là tướng bại trận. Lúc bấy giờ, dẫu

các ngươi muốn vui chơi thỏa thích, phỏng có được chăng?”[11; tr.57-58]

* “Bình Ngô đại cáo” của Nguyễn Trãi

“Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn,

Vùi con đỏ xuống hầm tai vạ.

Dối trời lừa dân đủ muôn nghìn kế,

Gây binh kết oán trải hai mưỡi năm.

Bại nhân nghĩa nát cả đất trời,

Nặng thuế khóa sạch không đầm núi.

…Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội,

Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi.

Lẽ nào trời đất dung tha,

Ai bảo thần dân chịu được” [8; tr.17 - 21]

- Sản phẩm:

 Nhóm 1: Phân tích về cuộc kháng chiến chống quân Mông - Nguyên dưới thời

nhà Trần.

* Năm 1258 - 1288 quân Mông - Nguyên 3 lần xâm lược nước ta.

* Những thắng lợi tiêu biểu: Đông Bộ Đầu, Hàm Tử, Chương Dương, Vạn Kiếp,

Bạch Đằng.

85

+ Lần 1: Đông Bộ Đầu (bên sông Hồng từ dốc Hàng Than đến dốc Hoàng Mai

Ba Đình - Hà Nội).

+ Lần 2: Đẩy lùi quân xâm lược năm 1285.

+ Tiêu biểu nhất là trận Bạch Đằng năm 1288 đè bẹp ý chí xâm lược của quân

Mông - Nguyên bảo vệ vững chắc độc lập dân tộc.

* Ý nghĩa lịch sử:

+ Khẳng định được ý chí chiến đấu của quân và dân nhà Trần

+ Khẳng định tình đoàn kết dân tộc

+ Lòng tự tôn

 Nhóm 2: Phân tích về cuộc kháng chiến chống quân Minh và khởi nghĩa Lam

Sơn.

* Năm 1407 cuộc kháng chiến chống quân Minh của nhà Hồ thất bại, nước ta

rơi vào ách thống trị của nhà Minh.

* Năm 1418: Khởi nghĩa Lam Sơn bùng nổ do Lê Lợi - Nguyễn Trãi lãnh đạo.

* Thắng lợi tiêu biểu:

+ Cuộc khởi nghĩa bắt đầu từ Lam Sơn (Thanh Hóa) được sự hưởng ứng của

nhân dân vùng giải phóng cành mở rộng từ Thanh Hóa vào Nam.

+ Chiến thắng Tốt Động, đẩy quân Minh vào thế bị động.

+ Chiến thắng Chi Lăng - Xương Giang đập tan 10 vạn quân cứu viện khiến

giặc cùng quẫn tháo chạy về nước.

* Ý nghĩa

+ Từ một cuộc chiến tranh ở địa phương phát triển thành cuộc đấu tranh giải

phóng dân tộc.

+ Suốt từ đầu đến cuối cuộc khởi nghĩa tư tưởng nhân nghĩa được đề cao.

3. Hoạt động luyện tập

- Mục đích:

+ Giúp HS nhớ bài ngay trên lớp

+ Duy trì hứng thú học tập của HS đến phút cuối giờ học.

+ Khái quát nội dung cơ bản của bài.

86

- Phương thức:

+ Tổ chức trò chơi ô chữ : Cả lớp được chia thành 3 đội, mỗi đội có 2 lượt tuỳ

chọn (6 câu hỏi), sau khi mỗi đội đã chọn số câu hàng ngang, GVsẽ đọc câu gợi ý hoặc

câu hỏi tương ứng. Đội nào có có tín hiệu xin trả lời nhanh nhất, đội đó giành quyền

trả lời trước. Nếu trả lời đúng, đội đó sẽ được tính điểm (10 điểm). Nếu sai sẽ được

chuyển quyền trả lời cho đội khác. Sau một lượt chọn các ô hàng ngang (2 ô/ 3 đội),

các đội có quyền mở ô hàng dọc nếu đã tìm ra được nội dung ô chữ đặc biệt. Nếu đúng

được 40 điểm, nếu sai sẽ mất quyền thi đấu ở các lượt sau. Còn nếu hết lượt chơi các

đội mới đoán ra ô chữ đặc biệt thì chỉ được 20 điểm.

+ GV đọc gợi ý, yêu cầu HS trả lời

Câu hỏi hàng ngang 1 : Lãnh đạo của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn là ai?

Đáp án: Lê Lợi

Câu hỏi hàng ngang 2: Chiến thắng quan trọng nhất của cuộc kháng chiến

chống quân Mông - Nguyên của nhà Trần?

Đáp án: Bạch Đằng.

Câu hỏi hàng ngang 3: Đọc câu thơ sau:

“Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn

Vùi con đỏ xuống hầm tai vại” [8; tr.17 - 21]

Đoạn thơ nhắc tới tội ác của quân xâm lược nào?

Đáp án: Minh

Câu hỏi hàng ngang 4: Dưới thời Trần, Trần Thủ Độ giữ chức quan gì?

Đáp án: Thái sư

Câu hỏi hàng ngang 5: “Phá cường địch, báo hoàng ân” là câu nói của ai?

Đáp án: Trần Quốc Tuấn

Câu hỏi hàng ngang 6: Đọc đoạn trích sau:

“Ta thường tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối, ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa;

chỉ giận chưa thể xả thịt, lột da, ăn gan, uống máu quân thù; dẫu cho trăm thân ta phơi

ngoài nội cỏ, nghìn thây ta bọc trong da ngựa, cũng nguyện xin làm” [11; tr.56]

Trong đoạn trích, Trần Hưng Đạo nói đến quyết tâm chống quân xâm lược nào?

Đáp án: Mông Nguyên

87

- Sản phẩm:

E L O I L

B A C H D A N G

M I N H

T H A I S U

T R A N Q U O C T U A N

M O N G N G U Y E N

 Ô chữ Bí ẩn: Lam Sơn

4. Hoạt động tìm tòi, mở rộng

- Mục đích: Mở rộng kiến thức về nguyên nhân thắng lợi chung của các cuộc

khởi nghĩa.

- Phương thức: Trao đổi, đàm thoại:“Theo em nguyên nhân nào đã dẫn tới sự

thắng lợi của các cuộc kháng chiến chống giặc ngoại xâm của nước ta từ thế kỉ X -

XV?” Bài học kinh nghiệm rút ra từ đó?

- Sản phẩm:

Nguyên nhân:

+ Do nhân dân có lòng yêu nước nồng nàn, tinh thần tự tôn dân tộc.

+ Có ý chí chiến đấu ngoan cường

+ Sự chuẩn bị chu đáo về mọi mặt cho mỗi cuộc kháng chiến

+ Ccó sách lược đúng đắn, sư chỉ huy tài tình của các nhà lãnh đạo quân sự

+ Do tình đoàn kết quân dân một lòng.

Phụ lục 2b: Đề kiểm tra TNSP (Bài 19- lớp 10)

Thời gian: 10 phút.

I. Phần trắc nghiệm (3đ): Khoanh tròn chữ cái trước đáp án đứng

Câu 1. Liên hệ kiến thức đã học, hãy cho biết ý nghĩa quan trọng nhất của chiến

thắng Bạch Đằng năm 938

A. Đánh tan quân Nam Hán, làm nên chiến thắng thủy chiến lẫy lừng

B. Đập tan mọi ý đồ xâm lược của các tập đoàn phong kiến phương Bắc

C. Mở ra một thời đại mới - thời đại độc lập, tự chủ lâu dài của dân tộc ta

D. Nhân dân ta giành lại quyền tự chủ

88

Câu 2. Ai là người đề ra chủ trương “Ngồi yên đợi giặc không bằng đem quân

đánh trước để chặn mũi nhọn của giặc”?

A. Lý Thường Kiệt

B. Trần Thủ Độ

C. Trần Hưng Đạo

D. Trần Thánh Tông

Câu 3. Để đối phó với thế mạnh của quân Mông - Nguyên, cả ba lần nhà Trần

đều thực hiện kế sách

A. Ngụ binh ư nông

B. Tiên phát chế nhân

C. Vườn không nhà trống

D. Lập phòng tuyến chắc chắn để đánh giặc

Phần tự luận (7đ): Nguyên nhân thắng lợi và ý nghĩa lịch sử của các cuộc

kháng chiến chống giặc ngoại xâm thế kỉ X - XV?

* ĐÁP ÁN

I. Phần trắc nghiệm

Câu 1: C

Câu 2: A

Câu 3: C

II. Phần tự luận

 Nguyên nhân thắng lợi:

- Các tầng lớp nhân dân, các thành phần dân tộc đều tham gia đánh giặc, bảo vệ

quê hương đất nước tạo đã tạo thành khối đại đoàn kết toàn dân, trong đó các quý tộc,

vương hầu là hạt nhân.

- Sự chuẩn bị chu đáo về mọi mặt cho mỗi cuộc kháng chiến.

- Có sự lãnh đạo chiến thuật đúng đắn, sáng tạo đã buộc giặc từ thế mạnh chuyển dần

sang thế yếu, từ chủ động chuyển sang bị động để tiêu diệt chúng, giành thắng lợi.

- Tinh thần quyết chiến quyết thắng của toàn dân, mà nòng cốt là quân đội.

89

 Ý nghĩa:

- Góp phần xây đắp nên truyền thống quân sự Việt Nam, truyền thống chiến đấu

của một nước nhỏ nhưng luôn phải chống lại những kẻ thù mạnh hơn nhiều lần đến

xâm lược.

- Để lại nhiều bài học quý báu về củng cố khối đoàn kết toàn dân trong xây dựng

và bảo vệ Tổ quốc, là sự quan tâm của nhà nước đến toàn dân, dựa vào dân để đánh

giặc.

- Khẳng định sức mạnh của dân tộc Việt Nam, có nâng cao lòng tự hào, tự cường

, củng cố niềm tin cho nhân dân.

90

PHỤ LỤC 3

MỘT SỐ ĐOẠN TRÍCH TRONG CÁC TÁC PHẨM VĂN HỌC CÓ THỂ SỬ

DỤNG ĐỂ DẠY VÀ HỌC LỊCH SỬ VIỆT NAM

1. Sự tích bánh chưng, bánh dày

Ngày xưa, đời Vua Hùng Vương thứ 6, sau khi đánh dẹp xong giặc Ân, vua có

ý định truyền ngôi cho con. Nhân dịp đầu Xuân, vua mới họp các hoàng tử lại, bảo

rằng: “Con nào tìm được thức ăn ngon lành, để bày cỗ cho có ý nghĩa nhất, thì ta sẽ

truyền ngôi vua cho”.Các hoàng tử đua nhau tìm kiếm của ngon vật lạ dâng lên cho

vua cha, với hy vọng mình lấy được ngai vàng.

Trong khi đó, người con trai thứ 18 của Hùng Vương, là Tiết Liêu (còn gọi là

Lang Liêu) có tính tình hiền hậu, lối sống đạo đức, hiếu thảo với cha mẹ. Vì mẹ mất

sớm, thiếu người chỉ vẽ, nên ông lo lắng không biết làm thế nào.

Một hôm, Tiết Liêu nằm mộng thấy có vị Thần đến bảo: “Này con, vật trong

Trời Đất không có gì quý bằng gạo, vì gạo là thức ăn nuôi sống con người. Con hãy

nên lấy gạo nếp làm bánh hình tròn và hình vuông, để tượng hình Trời và Đất. Hãy lấy

lá bọc ngoài, đặt nhân trong ruột bánh, để tượng hình Cha Mẹ sinh thành.”

Tiết Liêu tỉnh dậy, vô cùng mừng rỡ. Ông làm theo lời Thần dặn, chọn gạo nếp

thật tốt làm bánh vuông để tượng hình Đất, bỏ vào chõ chưng chín gọi là Bánh Chưng.

Và ông giã xôi làm bánh tròn, để tượng hình Trời, gọi là Bánh Dàỵ Còn lá xanh bọc ở

ngoài và nhân ở trong ruột bánh là tượng hình cha mẹ yêu thương đùm bọc con cái.

Đến ngày hẹn, các hoàng tử đều đem thức ăn đến bày trên mâm cỗ. Ôi thôi, đủ

cả sơn hào hải vị, nhiều món ngon lành. Hoàng tử Tiết Liêu thì chỉ có Bánh Dày và

Bánh Chưng. Vua Hùng Vương lấy làm lạ hỏi, thì Tiết Liêu đem chuyện Thần báo

mộng kể, giải thích ý nghĩa của Bánh Dầy Bánh Chưng. Vua cha nếm thử, thấy bánh

ngon, khen có ý nghĩa, bèn truyền ngôi Vua lại cho Tiết Liêu con trai thứ 18.

Kể từ đó, mỗi khi đến Tết Nguyên Đán, thì dân chúng làm bánh Chưng và bánh

Dày để dâng cúng Tổ Tiên và Trời Đất. [7; tr.9-11]

2. Truyền thuyết Mị Châu - Trọng Thủy

91

Sau khi An Dương Vương xây thành Cổ Loa, thần Kim Quy cho An Dương

Vương một cái móng của mình để làm lẫy nỏ mà giữ thành. Theo lời thần dặn, nỏ có

được cái lẫy làm bằng móng chân thần sẽ là chiếc nỏ bắn trăm phát trúng cả trăm, và

chỉ một phát có thể giết hàng ngàn quân địch. An Dương Vương chọn trong đám gia

thần được một người làm nỏ rất khéo tên là Cao Lỗ và giao cho Lỗ làm chiếc nỏ thần.

Lỗ gắng sức trong nhiều ngày mới xong. Chiếc nỏ rất lớn và rất cứng, khác hẳn với

những nỏ thường, phải tay lực sĩ mới giương nổi. An Dương Vương quý chiếc nỏ thần

vô cùng, lúc nào cũng treo gần chỗ nằm.

Lúc bấy giờ Triệu Đà làm chúa đất Nam Hải, mấy lần đem quân sang cướp đất

Âu Lạc, nhưng vì An Dương Vương có nỏ thần, quân Nam Hải bị giết hại rất nhiều

nên Đà đành cố thủ đợi chờ thời cơ. Triệu Đà thấy dùng binh không lợi, bèn xin giảng

hòa với An Dương Vương, sai con trai là Trọng Thuỷ sang cầu thân, nhưng chủ ý là

tìm cách phá chiếc nỏ thần.

Trong những ngày đi lại để giả kết tình hoà hiếu, Trọng Thuỷ được gặp Mỵ

Châu, con gái yêu của An Dương Vương, một thiếu nữ mày ngài, mắt phượng, nhan

sắc tuyệt trần. Trọng Thuỷ đem lòng yêu dấu Mỵ Châu, Mỵ Châu dần dần cũng xiêu

lòng. Hai người trở nên thân thiết, không còn chỗ nào trong Loa thành mà Mỵ Châu

không dẫn người yêu đến xem. An Dương Vương không nghi kỵ gì cả. Thấy đôi trẻ

thương yêu nhau, vua liền gả Mỵ Châu cho Trọng Thuỷ.

Một đêm trăng sao vằng vặc, Mỵ Châu cùng Trọng Thuỷ ngồi trên phiến đá

trắng giữa vườn, cùng nhau nhìn dãy tường thành cao nhất. Trong câu chuyện tỷ tê,

Trọng Thuỷ hỏi vợ rằng: Nàng ơi, bên Âu Lạc có bí quyết gì mà không ai đánh được?

Mỵ Châu đáp: Có bí quyết gì đâu chàng, Âu Lạc đã có thành cao, hào sâu, lại có nỏ

thần bắn một phát chết hàng nghìn quân địch, như thế còn có kẻ nào đánh nổi được?

Trọng Thuỷ làm bộ ngạc nhiên, vờ như mới nghe nói đến nỏ thần lần đầu. Chàng ngỏ

ý muốn xem chiếc nỏ. Mỵ Châu không ngần ngại, chạy ngay vào chỗ nằm của cha, lấy

nỏ thần đem ra cho chồng xem. Nàng lại chỉ cho chàng biết cái lẫy vốn là chiếc móng

chân thần Kim Quy và giảng cho Trọng Thuỷ cách bắn. Trọng Thuỷ chăm chú nghe,

chăm chú nhìn cái lẫy, nhìn khuôn khổ cái nỏ hồi lâu, rồi đưa cho vợ cất đi.

92

Hôm sau, Trọng Thủy xin phép An Dương Vương về thăm cha. Hắn thuật lại

cho Triệu Đà biết về chiếc nỏ thần. Đà sai một gia nhân chuyên làm nỏ, chế một chiếc

lẫy nỏ giống hệt của An Dương Vương. Lẫy giả làm xong, Trọng Thuỷ giấu vào trong

áo, lại trở sang Âu Lạc.

An Dương Vương vốn chiều con gái, thấy con mỗi khi gặp chồng thì vui vẻ

sung sướng, liền sai gia nhân bày tiệc rượu để ba cha con cùng vui. Trọng Thuỷ uống

cầm chừng, còn An Dương Vương và Mỵ Châu say tuý luý. Thừa lúc bố vợ say, Trọng

Thuỷ lẻn ngay vào phòng tháo lấy cái lẫy bằng móng chân thần Kim Quy và thay cái

lẫy giả bằng móng rùa thường vào.

Hôm sau, thấy chồng có vẻ bồn chồn, hết đứng lại ngồi không yên, Mỵ Châu hỏi

chồng rằng: Chàng như có gì lo lắng phải không? Trọng Thuỷ đáp: Ta sắp phải đi, Phụ

vương dặn phải về ngay để còn lên miền Bắc, miền Bắc xa lắm nàng ạ. Mỵ Châu buồn rầu

lặng thinh, Trọng Thuỷ nói tiếp: Bây giờ đôi ta sắp phải xa nhau, không biết đến bao giờ

gặp lại! Nếu chẳng may xảy ra binh đao, tôi biết đâu mà tìm? Mỵ Châu nói: Thiếp có cái

áo lông ngỗng, hễ thiếp chạy về hướng nào thì thiếp sẽ rắc lông ngỗng dọc đường, chàng

cứ chạy theo dấu lông ngỗng mà tìm. Nói xong Mỵ Châu nức nở khóc.

Về đất Nam Hải, Trọng Thuỷ đưa cái móng rùa vàng cho cha, Triệu Đà mừng

rỡ vô cùng, reo lên rằng: “Phen này đất Âu Lạc sẽ về tay ta”. Chỉ ít ngày sau, Triệu Đà

đã ra lệnh cất quân sang đánh Âu Lạc.

Nghe tin báo, An Dương Vương cậy có nỏ thần, không phòng bị gì cả. Đến khi

quân giặc đã đến sát chân thành, An Dương Vương sai đem nỏ thần ra bắn thì không

thấy linh nghiệm nữa. Quân Triệu Đà phá cửa thành, ùa vào. An Dương Vương vội lên

ngựa, đèo Mỵ Châu sau lưng, phi ngựa thoát ra cửa sau. Ngồi sau lưng cha, Mỵ Châu

bứt lông ngỗng ở áo rắc khắp dọc đường.

Đường núi gập ghềnh hiểm trở, ngựa chạy luôn mấy ngày đêm đến Dạ Sơn gần bờ

biển. Hai cha con định xuống ngựa ngồi nghỉ thì quân giặc đã gần đến. Thấy đường núi

quanh co dốc ngược, bóng chiều đã xuống, không còn lối nào chạy, An Dương Vương

liền hướng ra biến, khấn thần Kim Quy phù hộ cho mình. Vua vừa khấn xong thì một cơn

gió lốc cát bụi bốc lên mù mịt, làm rung chuyển cả núi rừng. Thần Kim Quy xuất hiện,

bảo An Dương Vương rằng “giặc ở sau lưng nhà vua đấy”. An Dương Vương tỉnh ngộ,

liền rút gươm chém Mỵ Châu, rồi nhảy xuống biểu tự vẫn.

93

Quân của Triệu Đà kéo vào chiếm đóng Loa thành, còn Trọng Thuỷ một mình

một ngựa theo dấu lông ngỗng đi tìm Mỵ Châu. Đến gần bờ biển, thấy xác vợ nằm trên

đám cỏ, tuy chết mà nhan sắc không mờ phai. Trọng Thuỷ khóc oà lên, thu nhặt thi hài

đem về chôn trong thành, rồi đâm đầu xuống giếng trong thành mà xưa kia Mỵ Châu

thường tắm.

Ngày nay, ở làng cổ Loa, trước đền thờ An Dương Vương, còn cái giếng gọi là

giếng Trọng Thuỷ. Tục truyền khi Mỵ Châu đã bị cha giết chết rồi, máu nàng chảy

xuống biển, trai ăn được nên mới có ngọc châu. Lấy được ngọc trai ấy đem về rửa bằng

nước giếng trong thành Cổ Loa thì ngọc trong sáng vô cùng. [10, tr.40-42]

3. Tác phẩm Nam quốc sơn hà

“Nam quốc sơn hà, Nam đế cư

Tiệt nhiên định phận tại thiên thư

Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm

Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư” [7, tr.62]

4. Tác phẩm Hịch tướng sĩ (Trần Hưng Đạo)

Ta thường tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối, ruột đau như cắt, nước mắt đầm

đìa; chỉ giận chưa thể xả thịt, lột da, ăn gan, uống máu quân thù; dẫu cho trăm thân ta

phơi ngoài nội cỏ, nghìn thây ta bọc trong da ngựa, cũng nguyện xin làm.

Các ngươi ở lâu dưới trướng, nắm giữ binh quyền, không có mặc thì ta cho áo;

không có ăn thì ta cho cơm. Quan thấp thì ta thăng tước; lộc ít thì ta cấp lương. Đi thủy

thì ta cho thuyền; đi bộ thì ta cho ngựa. Lâm trận mạc thì cùng nhau sống chết; được

nhàn hạ thì cùng nhau vui cười. So với Công Kiên đãi kẻ tỳ tướng, Ngột Lang đãi người

phụ tá, nào có kém gì?

Nay các ngươi ngồi nhìn chủ nhục mà không biết lo; thân chịu quốc sỉ mà không

biết thẹn. Làm tướng triều đình đứng hầu quân man mà không biết tức; nghe nhạc thái

thường đãi yến sứ ngụy mà không biết căm. Có kẻ lấy việc chọi gà làm vui; có kẻ lấy

việc cờ bạc làm thích. Có kẻ chăm lo vườn ruộng để cung phụng gia đình; có kẻ quyến

luyến vợ con để thỏa lòng vị kỷ. Có kẻ tính đường sản nghiệp mà quên việc nước; có

kẻ ham trò săn bắn mà trễ việc quân. Có kẻ thích rượu ngon; có kẻ mê giọng nhảm.

94

Nếu bất chợt có giặc Mông Thát tràn sang thì cựa gà trống không đủ đâm thủng

áo giáp của giặc; mẹo cờ bạc không đủ thi hành mưu lược nhà binh. Vườn ruộng nhiều

không chuộc nổi tấm thân ngàn vàng; vợ con bận không ích gì cho việc quân quốc.

Tiền của dẫu lắm không mua được đầu giặc; chó săn tuy hay không đuổi được quân

thù. Chén rượu ngọt ngon không làm giặc say chết; giọng hát réo rắt không làm giặc

điếc tai.

Lúc bấy giờ chúa tôi nhà ta đều bị bắt, đau xót biết chừng nào! Chẳng những

thái ấp của ta không còn mà bổng lộc các ngươi cũng thuộc về tay kẻ khác; chẳng

những gia quyến của ta bị đuổi mà vợ con các ngươi cũng bị kẻ khác bắt đi; chẳng

những xã tắc tổ tông ta bị kẻ khác giày xéo mà phần mộ cha ông các ngươi cũng bị

kẻ khác bới đào; chẳng những thân ta kiếp này chịu nhục đến trăm năm sau tiếng

nhơ khôn rửa, tên xấu còn lưu, mà gia thanh các ngươi cũng không khỏi mang danh

là tướng bại trận. Lúc bấy giờ, dẫu các ngươi muốn vui chơi thỏa thích, phỏng có

được chăng?

Nay ta bảo thật các ngươi: nên lấy việc "đặt mồi lửa dưới đống củi nỏ" làm

nguy; nên lấy điều "kiềng canh nóng mà thổi rau nguội" làm sợ. Phải huấn luyện

quân sĩ, tập dượt cung tên, khiến cho ai nấy đều giỏi như Bàng Mông, mọi người

đều tài như Hậu Nghệ, có thể bêu đầu Hốt Tất Liệt dưới cửa khuyết, làm rữa thịt

Vân Nam Vương ở Cảo Nhaị Như thế chẳng những thái ấp của ta mãi mãi vững bền

mà bổng lộc các ngươi cũng suốt đời tận hưởng; chẳng những gia thuộc ta được ấm

êm giường nệm, mà vợ con các ngươi cũng trăm tuổi sum vầy; chẳng những tông

miếu ta được hương khói nghìn thu mà tổ tiên các ngươi cũng được bốn mùa thờ

cúng; chẳng những thân ta kiếp này thỏa chí, mà đến các ngươi, trăm đời sau còn

để tiếng thơm; chẳng những thụy hiệu ta không hề mai một, mà tên họ các ngươi

cũng sử sách lưu truyền. Lúc bấy giờ, dẫu các ngươi không muốn vui chơi, phỏng

có được không?

Nay ta chọn lọc binh pháp các nhà hợp thành một tuyển, gọi là Binh Thư Yếu

Lược. Nếu các ngươi biết chuyên tập sách này, theo lời ta dạy bảo, thì trọn đời là

thần tử; nhược bằng khinh bỏ sách này, trái lời ta dạy bảo thì trọn đời là nghịch thù.

[8; tr.57-58]

95

5. Xương giang phú (Lý Tử Tấn)

“Tiếng trống nổi vang, ba quân thật hùng cường hội sức

Ngọn cờ thẳng tiến, các tướng đều hăng hái liều thân

Này Pha Lũy, Kê Lăng, trận nọ oai hùng đã dậy

Lại Bình Than, Lộng Nhãn, trận kia thế mạnh khôn ngăn

Sấm vang, chớp giật

Ra quỷ, vào thần

Giặc kia mất vía

Phải tan nát dần...”.[35]

6. Tác phẩm Đại cáo bình Ngô (Nguyễn Trãi)

“Từng nghe:

Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân,

Quân điếu phạt trước lo trừ bạo.

Như nước Đại Việt ta từ trước,

Vốn xưng nền văn hiến đã lâu.

Núi sông bờ cõi đã chia,

Phong tục Bắc Nam cũng khác.

Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời xây nên độc lập,

Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương.

Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau,

Song hào kiệt thời nào cũng có.

Vậy nên:

Lưu Cung tham công nên thất bại,

Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong.

Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô

Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã,

Việc xưa nên xem xét,

Chứng cớ còn ghi.’’

“Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn,

96

Vùi con đỏ xuống hầm tai vạ.

Dối trời lừa dân đủ muôn nghìn kế,

Gây binh kết oán trải hai mưỡi năm.

Bại nhân nghĩa nát cả đất trời,

Nặng thuế khóa sạch không đầm núi.

Người bị ép xuống biến dòng lưng mò ngọc trai, ngán thay cá mập, thuồng luồng.

Kẻ bị đem vào núi đãi cát tìm vàng, khốn nỗi rừng sâu, nước độc.

Vét sản vật, bắt chim trả, chốn chốn lười chăng,

Nhiễu nhân dân, bẫy hươu đen, nơi nơi cạm đặt.

Tàn hại cả giống côn trùng cây cỏ,

Nheo nhóc thay kẻ góa bụa khốn cùng.

Thằng há miệng, đứa nhe răng, máu mỡ bấy no nê chưa chán;

Nay xây nhà, mai đắp đất, chân tay nào phục dịch cho vừa.

Nặng nề những nỗi phu phen,

Tan tác cả nghề canh cửi.

Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội,

Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi.

Lẽ nào trời đất dung tha,

Ai bảo thần dân chịu được?” [11, tr.17-18]

7. Hịch ra trận (Quang Trung - Nguyễn Huệ)

“Đánh cho để dài tóc,

Đánh cho để đen răng,

Đánh cho chúng chích luân bất phản,

Đánh cho chúng phiến giáp bất hoàn,

Đánh cho sử tri Nam quốc anh hùng chi hữu chủ!”[6, tr.118]

8. Bài thơ Long thành quang phục kỷ thực (Ngô Ngọc Du)

“Mây tạnh mù tan trời lại sáng

Đầy thành già trẻ mặt như hoa

Chung vai sát cánh cùng nhau nói

Cố đô vẫn thuộc núi sông ta” [6, tr.119].

97

9. Bài thơ Quang Trung hoàng đế (Hồ Đắc Duy)

“Núi Ba Tầng thiết đàn làm lễ

Cáo đất trời xin để lên ngôi

Quang Trung hiệu triệu mấy lời

Lập tức hạ lệnh đi ngay lên đường

Đến Nghệ An lấy quân tinh nhuệ

Mười ngàn người chưa kể dân binh

Vài trăm voi chiến theo mình

Chia quân tả, hữu năm doanh rõ ràng

Vua Quang Trung đường đường trước trận

Áo hoàng bào lẫm liệt oai phong

Gươm thiêng nạm ngọc đeo cùng

Trên đầu voi chiến hào hùng ruổi rong

Sau năm ngày bụi hồng lấm áo

Tới ngang đèo dựng giáo nghỉ chân

Vua cho mở tiệc khao quân

Định ngày mùng bảy đầu xuân sẽ vào

Thăng Long thành ngày đầu năm mới

Từng nụ đào chớm thẹn gió đông

Búp non lấm tâm cành hồng

Mai vàng núp bóng thẹn thùng nắng mai

Vua Quang Trung đến ngay Giáng Khẩu

Hành quân qua đánh đạo Sơn Nam

Hà Hồi ở cách trung tâm

Thăng Long nhắm hướng phía Nam nửa ngày

98

Quân Tây sơn bao vây kín mít

Mà giặc Thanh chẳng biết chút gì

Đầu hôm cho đến nửa khuya

Ẩn vào đồn giặc đợi thì tấn công

Sáng mùng năm Quang Trung vừa đến

Đồn Ngọc Hồi giặc chẳng dám ra

Cửa thành đóng kín chằn qua

Trên thành lố nhố hằng hà chông tre

Vua sai lấy ván che rơm ướt

Cho trăm voi lên trước tấn công

Vượt qua hoả pháo gai chông

Dập dồn súng trận xung phong đánh vào

Xáp lá cà vượt hào chiến luỹ

Quân Mãn Thanh khiếp vía chạy dài

Cúp đầu chúng chẳng vểnh tai

Xác quân giặc chết chất đầy thảm thay

Hứa Thế Hanh chết ngay tại trận

Trương Sĩ Long cũng chẳng hơn gì

Quân Thanh đại bại ê chề

Theo đê Yên Phụ chạy về Đông Quan

Giặc Mãn Thanh đầu hàng tan tác

Một cánh quân chạy lạc vào đầm

Chết vì ngựa đá voi dầm

Chết vì đói khát cạn dần binh lương

99

Đô đốc Long chặn đường lũ giặc

Dùng kỵ binh đánh gắt Đống Đa

Thâu đồn Khương Thượng về ta

Giặc Thanh khốn đốn phải ra đầu hàng

Sầm Nghi Đống cùng đường nhỏ lệ

Thắt cổ mình ở luỹ Nam Đông

Lính thì tên trúng trận vong

Chết hơn quá nửa, nửa làm tù binh

Nghe được tin ở thành Khương Thượng

Đã đầu hàng, binh tướng bị giam

Khiến Tôn Sĩ Nghị kinh hoàng

Kéo quân chạy trốn qua đường cầu phao

Cánh Vân Nam vừa vào cửa ải

Nhận được tin thất bại bàng hoàng

Tổng đốc Lưỡng Quảng vội vàng

Thu quân tháo chạy theo đường Nam Quan

Lê Chiêu Thống theo chân tổng đốc

Cùng tàn quân xâm lược Mãn Thanh

Chạy về đến được Yên Kinh

Lưu vong đến thác giận mình ngu si” [18]

10. Chuyện người con gái Nam Xương (Trích Truyền kì mạn lục - Nguyễn Dữ)

Vũ Thị Thiết, người con gái quê ở Nam Xương. Người đã thùy mị nết na, lại

thêm có tư dung tốt đẹp. Trong làng có chàng Trương sinh, mến vì dung hạnh, xin

với mẹ đem trăm lạng vàng cưới về. Song Trương có tính hay ghen, đối với vợ

phòng ngừa thái quá. Nàng cũng giữ gìn khuôn phép, không từng để lúc nào vợ

chồng phải đến thất hòa. Cuộc đoàn viên chưa được mấy lâu thì nhà nước có việc

100

đi đánh Chiêm Thành, bắt nhiều lính tráng. Trương tuy con nhà dòng, nhưng không

có học, tên đã ghi trong sổ khai tráng phải ra sung binh loạt đầu. Lúc chàng ra đi,

bà mẹ có dặn rằng:

- Nay con phải tạm ra tòng quân, xa lìa dưới gối. Tuy là hội công danh từ xưa ít

gặp, nhưng trong chỗ binh cách, phải lấy việc giữ mình làm trọng, biết gặp nạn thì lui,

lượng sức mà đánh, đừng nên tham miếng mồi thơm, để lỡ mắc vào lưới cá. Quan cao

tước lớn nhường để người ta. Có như thế thì mẹ ở nhà mới đỡ lo lắng vì con được.

Chàng quỳ xuống đất vâng lời dạy. Nàng thì rót chén rượu đầy tiễn chồng rằng:

- Lang quân đi chuyến này, thiếp chẳng dám mong được đeo ấn hầu, mặc áo

gấm trở về quê cũ, chỉ xin ngày về mang theo được hai chữ bình yên, thế là đủ rồi. Chỉ

e việc quân khó liệu, thế giặc khôn lường, rợ man chạy tội, vương sư uổng công; lời

tâu công lớn phá giặc đã chầy, kỳ hẹn thay quân hóa muộn, khiến thiếp ôm nỗi quan

hoài, mẹ già triền miên lo lắng. Trông mảnh trăng Trường An, nhanh tay đập áo rét,

ngắm liễu tàn rủ bóng động nỗi niềm biên ải xa xôi. Giả sử có muôn hàng thư tín, chỉ

e không một tin về.

Nàng nói đến đấy, mọi người đều ứa hai hàng lệ.

Rồi đó chén đưa vừa cạn, dứt áo chinh phu, ngước mắt trông lên đã đẫm nỗi

buồn ly biệt. Bấy giờ nàng đã đương có thai. Sau khi tương biệt được mươi ngày thì

sinh một đứa con trai, đặt tên là thằng Đản.

Ngày qua tháng lại, thoắt đã nửa năm. Mỗi khi thấy bướm bay vườn thúy, mây

ám non Tần, nỗi buồn hải giốc thiên nhai, lại không thể nào ngăn được. Bà mẹ cũng vì

nhớ con mà dần sinh ốm. Nàng hết sức thuốc thang, lễ Phật cầu thần, cúng ma gọi vía

và lấy lời ngọt ngào khôn khéo khuyên lơn. Song bệnh thế mỗi ngày một trầm trọng

hơn, bà mẹ trối lại với nàng rằng:

- Ngắn dài có số, tươi héo bởi trời. Mẹ không phải không muốn đợi chồng con

về, mà gượng cơm cháo. Song tuổi thọ có chừng, số trời khó tránh. Đêm tàn chuông

đổ, số tận mệnh cùng; một tấm thân tàn, nguy trong sớm tối, không khỏi phải phiền

đến con. Chồng con xa xôi, mẹ chết lúc nào, không thể kịp về đền báo được. Sau này

trời giúp người lành, ban cho phúc trạch, giống dòng tươi tốt, con cháu đông đàn, mong

ông xanh kia chẳng phụ con cũng như con đã chẳng nỡ phụ mẹ.

101

Bà cụ nói xong rồi thì mất. Nàng hết lời thương xót, phàm việc ma chay tế lễ;

lo liệu như đối với cha mẹ sinh ra.

Qua sang năm sau, giặc Chiêm chịu trói, quân nước kéo về. Trương sinh tới nhà

thì mẹ đã từ trần, con vừa học nói. Chàng hỏi mộ mẹ rồi dắt con nhỏ đi thăm, song đứa

bé không chịu, gào khóc. Sinh dỗ dành:

- Con nín đi, đừng khóc! Lòng cha đã buồn khổ lắm rồi!

Đứa con nói:

- Ông cũng là cha tôi ư? Ông lại biết nói, chứ không như cha trước kia chỉ nín

thin thít.

Chàng ngạc nhiên gạn hỏi. Đứa con nói:

- Khi ông chưa về đây, thường có một người đàn ông, đêm nào cũng đến. Mẹ đi

cũng đi, mẹ ngồi cũng ngồi, nhưng chẳng bao giờ bế Đản cả.

Tính chàng hay ghen, nghe đứa con nói vậy, tin chắc đinh ninh là vợ hư, không

còn cách gì tháo cởi ra được.

Về đến nhà, mắng vợ một bữa cho hả giận. Nàng khóc mà rằng:

- Thiếp vốn nhà nghèo, được vào cửa tía. Sum họp chưa thỏa tình chăn gối, chia

phôi vì động việc lửa binh. Cách biệt ba năm, giữ gìn một tiết. Tô son điểm phấn, từng

đã nguội lòng, ngõ liễu đường hoa chưa hề bén gót. Đâu có sự mất nết hư thân như lời

chàng nói. Dám xin trần bạch để cởi mối nghi ngờ. Mong chàng đừng một mực nghi

oan cho thiếp.

Chàng vẫn không tin. Nhưng nàng hỏi chuyện kia từ ai nói ra thì giấu không kể

lời con nói; chỉ thường thường mắng mỏ nhiếc móc và đánh đuổi đi. Họ hàng làng xóm

bênh vực và biện bạch cho nàng cũng chẳng ăn thua gì cả. Nàng bất đắc dĩ nói:

- Thiếp sở dĩ nương tựa vào chàng, vì có cái thú vui nghi gia nghi thất, có sự

yên ổn được tựa bóng cây cao. Đâu ngờ ân tình tựa lá, gièm báng nên non. Nay đã bình

rơi trâm gãy, mây tạnh mưa tan, sen rũ trong ao, liễu tàn trước gió; khóc tuyết bông

hoa gãy cuống, kêu xuân cái én lìa màn, nước thẳm buồm xa, đâu còn thể lại lên núi

Vọng Phu kia nữa.

Đoạn rồi nàng tắm gội chay sạch, ra bến Hoàng Giang ngửa mặt lên trời mà than

rằng:

102

- Kẻ bạc mệnh này duyên phận hẩm hiu, chồng con rẫy bỏ, điều đâu bay buộc,

tiếng chịu nhuốc nhơ, thần sông có linh xin ngài chứng giám. Thiếp nếu đoan trang giữ

tiết, trinh bạch gìn lòng, vào nước xin làm ngọc Mỵ Nương, xuống đất xin làm cỏ Ngu

Mỹ. Nhược bằng lòng chim dạ cá, lừa chồng dối con, dưới xin làm mồi cho cá tôm,

trên xin làm cơm cho diều quạ, chẳng những là chịu khắp mọi người phỉ nhổ.

Nói xong gieo mình xuống sông mà chết. Chàng tuy giận là thất tiết, nhưng thấy

nàng tự tận, cũng động lòng thương, tìm vớt thây nàng nhưng chẳng thấy tăm hơi đâu

cả. Một mình phòng không vắng vẻ, đến đêm khêu bấc đèn tàn, không sao ngủ được.

Chợt đứa con nói rằng:

- Cha Đản lại đến rồi!

Chàng hỏi đâu. Nó trỏ bóng chàng ở trên vách:

- Đây này!

Thì ra khi chàng đi vắng, nàng thường đùa trỏ bóng mình mà bảo là cha Đản.

Bấy giờ chàng mới hiểu ra nỗi oan của vợ, nhưng đã chẳng làm gì được nữa.

Cùng làng với nàng, có người tên là Phan Lang khi trước làm đầu mục bến đò

Hoàng Giang, một đêm chiêm bao thấy người con gái áo xanh, đến kêu xin tha mạng. Sáng

dậy, Phan thấy có người phường chài đem vào biếu một con rùa mai xanh, sực nghĩ đến

chuyện mộng, nhân đem phóng sinh con rùa ấy. Cuối đời Khai Đại nhà Hồ, quân Minh

mượn tiếng đưa Trần Thiêm Bình về nước, phạm vào cửa ải. Chi Lăng. Phan và người

làng sợ hãi phải chạy trốn ra ngoài bể không may đắm thuyền đều chết đuối cả. Thây Phan

Lang giạt vào một cái động rùa ở hải đảo, bà Linh Phi trông thấy nói rằng:

- Đây là vị ân nhân cứu sống cho ta xưa đây.

Linh phi bèn sai lấy khăn gấm mà lau, lấy thuốc thần mà đổ, một chốc Phan

Lang liền tỉnh lại. Phan trông thấy cung gấm đài dao, nguy nga lộng lẫy không biết là

mình đã lạc vào trong thủy tinh cung, Linh Phi bấy giờ mặc tấm áo cẩm vân dát ngọc,

đi đôi giày mầu ráng nạm vàng cười bảo Phan rằng:

- Tôi là Linh Phi trong Quy động, phu nhân của Nam Hải Long Vương. Nhớ hồi

còn nhỏ đi chơi ở bến sông, bị người phường chài bắt được, ngẫu nhiên báo mộng, quả

được nhờ ơn. Gặp gỡ ngày nay, há chẳng phải lòng trời có ý cho tôi một dịp đền ơn

báo nghĩa.Phi bèn đặt yến ở gác Triệu Dương để thết đãi Phan Lang, dự tiệc còn có vô

103

số những mỹ nhân bận quần nhẹ và búi tóc xễ. Trong số có một người, mặt chỉ hơi

điểm qua một chút son phấn trông rất giống Vũ nương. Phan thường nhìn trộm luôn,

nhưng không dám nhận. Tiệc xong, người ấy bảo với Phan Lang rằng:

- Tôi với ông vốn người cùng làng, cách mặt chưa bao, đã coi nhau như khách

qua đường xa lạ rồi ư?

Bấy giờ Phan mới nhận đích người ấy là Vũ nương. Gạn hỏi duyên do. Nàng nói:

- Tôi ngày trước không may bị người vu báng, phải gieo mình xuống sông tự tử.

Chư tiên trong thủy cung thương tôi vô tội, rẽ một đường nước để cho tôi được khỏi

chết, nếu không thì đã chôn trong bụng cá, còn đâu mà gặp ông.

Phan nói:

- Nương tử nghĩa khác Tào Nga, hờn không Tinh Vệ mà có mối hận gieo mình

nơi sông. Nay thấm thoát đã một năm chầy, há lại không tưởng nhớ đến quê hương ư!

Vũ thị nói:

- Tôi bị chồng ruồng rẫy, thà già ở chốn làng mây cung nước, chứ còn mặt mũi

nào về gặp mặt chồng!

Phan Lang nói:

Thưa nương tử, tôi trộm nghĩ, nhà cửa của tiên nhân, cây cối thành rừng, phần

mộ của tiên nhân, cỏ gai lấp mắt.

Nương tử dầu không nghĩ đến, nhưng còn tiên nhân mong đợi ở nương tử

thì sao?

Nghe đến đây, Vũ nương ứa nước mắt khóc rồi nói:

- Tôi có lẽ không thể gửi mình ẩn vết ở đây mãi được. Ngựa Hồ gầm gió bắt,

chim Việt đậu cành nam. Cảm vì nỗi ấy, tôi tất phải tìm về có ngày.

Hôm sau, Linh Phi lấy một cái túi bằng lụa tía đựng mười hạt minh châu, sai Xích

Hỗn sứ giả đưa Phan ra khỏi nước; Vũ nương cũng đưa gửi một chiếc hoa vàng mà dặn:

- Nhờ nói hộ với chàng Trương, nếu còn nhớ chút tình xưa, nên lập một đàn giải

oan ở bến sông, đốt cây thần đăng chiếu xuống nước, tôi sẽ hiện về.

Về đến nhà, Phan đem chuyện kể lại với nhà Trương. Ban đầu Trương còn

không tin. Nhưng sau nhận được chiếc hoa vàng, mới kinh sợ nói:

- Đây quả là vật dùng của vợ tôi xưa thật.

104

Chàng bèn theo lời, lập một đàn tràng ba ngày đêm ở bến Hoàng Giang. Rồi quả

thấy Vũ nương ngồi trên một chiếc kiệu hoa đứng ở giữa dòng, theo sau lại có đến hơn

năm mươi chiếc xe nữa, cờ tàn tán lọng, rực rỡ đầy sông, lúc ẩn lúc hiện.

Chàng vội gọi, nàng vẫn ở giữa dòng mà nói với vào:

- Thiếp cảm ơn đức của Linh Phi, đã thề sống chết cũng không bỏ. Đa tạ tình

chàng, thiếp chẳng thể lại về nhân gian được nữa.

Rồi trong chốc lát, những cảnh tượng ấy chìm đi mất.[9; tr.43-48]

11. Hoàng Lê nhất thống trí (đoạn trích hồi thứ mười bốn)

Đánh Ngọc Hồi, quân Thanh bị thua trận

Bỏ Thăng Long, Chiêu Thống trốn ra ngoài

(Đoạn đầu của hồi này nói về việc Tôn Sĩ Nghị kéo quân vào Thăng Long thấy

dễ dàng, cho là vô sư, không đề phòng gì cả. Điều đó làm cho vua tôi Lê Chiêu

Thống vốn biết rất rõ tài cầm quân của Nguyễn Huệ, rất lo lắng).

Nhắc lại, Ngô Văn Sở sau khi đem các đạo quân rút lui, tức tốc sai Nguyễn Văn

Tuyết chay tram vào Nam cáo cấp. Một mặt chặn ngang đất Trường Yên làm giới hạn,

đóng thủy quân ở hải phận Biên Sơn, quân bộ thì chia giữ vùng núi Tam Điệp, hai mặt

thủy bộ liên lạc với nhau, ngăn hẳn miền Nam với miền Bắc. Vì thế, ở bốn trấn Đàng

Ngoài không hề thấu hai xứ Thanh, Nghệ. Vì vậy, việc quân Thanh đến Thăng Long và

việc vua Lê thụ phong ngày 22 tháng 11, từ Thanh Hóa trở vào, không một người nào

được biết. Ngày 20 tháng ấy, Sở lui về Tam Điệp, thì ngày 24 Tuyết đã vào đến thành

Phú Xuân. Bắc Bình Vương tiếp được tin báo, giận lắm, liền họp các tướng sĩ, định thân

chinh cầm quân đi ngay. Nhưng các người đến họp đều nói:

- Chúa công với vua Tây Sơn có sự hiềm khích, đối với ngôi chí tôn, lòng tôn

phò của mọi người chưa thực sư vững bền, nay nghe tin quân Thanh sang đánh, càng

dễ sinh ra ngờ vực hai lòng. Vậy xin trước hết hãy chính vị hiệu, ban lệnh ân xá khắp

trong ngoài, để yên kẻ phản trắc và giữ lấy lòng người, rồi sau sẽ cất quân ra đánh dẹp

cõi Bắc cũng chưa là muộn.

Bắc Bình Vương lấy làm phải, bèn cho đắp đàn ở trên núi Bân, tế cáo trời đất

cùng các thần sông, thần núi, chế ra áo cổn mũ miện, lên ngôi hoàng đế, đổi năm thứ

11 niên hiệu Thái Đức của vua Tây Sơn Nguyễn Nhạc làm năm đầu tiên niên hiệu Quan

105

Trung. Lễ xong, hạ lệnh xuất quân, hôm ấy nhắm vào ngày 25 tháng chạp năm Mậu

Thân (1788).

Vua Quang Trung tự mình đốc suất đại binh, cả thủy lẫn bộ cùng ra đi. Ngà y

29 đến Nghệ An, vua Quang Trung cho vời cống sĩ ở huyện La Sơn là Nguyễn Thiếp

vào dinh và hỏi:

- Quân Thanh sang đánh, tôi sắp đem binh ra chống cự. Mưu đánh và giữ, cơ

được hay thua, tiên sinh nghĩ thế nào?

Thiếp nói:

- Bây giờ trong nước trống không, lòng người tan ra. Quân Thanh ở xa tới đây,

không biết tình hình quân ta yếu hay mạnh, không hiểu rõ thế nên đánh nên giữ ra sao.

Chúa công đi ra chuyến này, không quá mười ngày, quân Thanh sẽ bị dẹp tan.

Vua Quang Trung mừng lắm, bèn sai đại tướng là Hám Hổ Hấu kén linh ở Nghệ

An, cứ ba suất đinh thì lấy môt người, chưa mấy lúc, đã được hơn một vạn quân tinh

nhuệ. Rồi nhà vua cho mở cuộc duyệt binh lớn ở doanh trấn, đem số thân quân ở Thuận

Hóa, Quảng Nam chia làm bốn doanh tiền, hậu, tả, hữu, còn số lính mới tuyển ở Nghệ

An thì trung quân.

Vua Quang Trung cưỡi voi ra doanh yên ủi quân lính, truyền cho tất cả đều ngồi

mà nghe lệnh, rồi dụ họ rằng:

- Quân Thanh sang xâm lấn nước ta, hiện ở Thăng Long, các ngươi đã biết chưa?

Trong khoảng vũ trụ, đất nào sau ấy, đều đã phân biệt rõ ràng, phương Nam, phương

Bắc chia nhau cai trị. Người phương Bắc không phải nòi giống nước ta, bụng dạ ắt

khác. Từ đời nhà Hán đến nay, chúng đã mấy phen cướp bóc nước ta, giết hại nhân

dân, vơ vét của cải, người mình không thể chịu nổi, ai cũng muốn đuổi chúng đi. Đời

Hán có Trưng Nữ Vương, đời Tống có Đinh Tiên Hoàng, Lê Đại Hành, đời nguyên có

Trần Hưng Đạo, đời Minh có Lê Thái Tổ, các ngài không nỡ ngồi nhìn chúng làm điều

tàn bạo, nên đã thuận lòng người, dấy nghĩa quân, đều chỉ đánh một trận là thắng và

đuổi được chúng về phương Bắc. Ở các thời ấy, Bắc, Nam riêng phận, bờ cõi lặng yên,

các vua truyền ngôi lâu dài. Từ đời nhà Đinh tới đây, nhân dân ta không đến nỗi khổ

như hồi nội thuộc xưa kia. Mọi việc lợi, hại, được mất ấy đều là chuyện cũ rành rành

của các triều đại trước. Nay người Thanh lại sang, mưu đồ lấy nước Nam ta đặt làm

106

quận huyện, không biết trông gương mấy đời Tống, Nguyên, Minh ngày xưa. Vì vậy,

ta phải kéo quân ra đánh đuổi chúng. Các người đều là những kẻ có lương tri, lương

năng, hãy nên cùng ta đồng tâm hiệp lực, để dựng nên công lớn. Chớ có quen theo thói

cũ, ăn ở hai lòng, nếu như việc phát giác ra, sẽ bị giết chết ngay tức khắc, không tha

một ai, chớ bảo ta không nói trước !

Các quân lính đều nói: “Xin vâng lệnh, không dám hai lòng !”

Hôm sau, vua Quang Trung hạ lệnh tiến quân. Các quân đều nghiêm chỉnh đội

ngũ mà đi. Khi đến núi Tam Điệp, Sở và Lân ra đón, đều mang gươm trên lưng mà xin

chịu tội.

Vua Quang Trung nói:

- Các ngươi đem thân thờ ta, đã làm đến chức tướng soái. Ta giao cho toàn hạt

cả 11 thừa tuyên, lại cho tùy tiện làm việc. Vậy mà giặc đến không đánh nổi một trận,

mới nghe tiếng đã chạy trước. Binh pháp dạy rằng: “Quân thua chém tướng”. Tội của

các ngươi đều đáng chết một vạn lần. Song ta nghĩ các ngươi đều là hạng võ dũng, chỉ

biết gặp giặc là đánh, đến như việc tùy cơ ứng biến thì không có tài. Cho nên ta để Ngô

Thì Nhậm ở lại đây làm việc với các ngươi, chính là lo về điều đó. Bắc Hà mới yên,

lòng người chưa phục, Thăng Long lại là nơi bị đánh cả bốn mặt, không có sông núi để

nương tựa. Năm trước ta đánh ra đất ấy, chúa Trịnh quả nhiên không thể chống nổi, đó

là chứng cớ rõ ràng. Các ngươi đóng quân trơ trọi ở đấy, quân Thanh kéo sang, người

trong kinh kì làm nội ứng cho chúng, thì các ngươi làm sao mà cử động được. Các

ngươi đã biết nín nhịn để tránh mũi nhọn của chúng, chia ra chặn giữ các nơi hiểm yếu,

bên trong thì kích thích lòng quân, bên ngoài thì làm cho giăc kiêu căng, kế ấy là rất

đúng. Khi mới nghe nói, ta đã đoán do Ngô Thì Nhậm chủ mưu, sau hỏi Văn Tuyết thì

quả đúng như vậy.

Thì Nhậm bèn lạy hai lạy để tạ ơn. Vua Quang Trung lại nói:

- Lần này ta ra, thân hành cầm quân, phương lược tiến đánh đã có tính sẵn. Chẳng

qua mươi ngày có thể đuổi được quân Thanh. Nhưng nghĩ chúng là nước lớn gấp mười

nước mình, sau khi bị thua một trận, ắt lấy làm thẹn mà lo mưu báo thù. Như thế viêc

binh đao không bao giờ chấm dứt, không phải là phúc cho dân, nỡ nào mà làm như vậy.

Đến lúc ấy chỉ có người khéo lời lẽ mới dẹp nổi việc binh đao, không phải Ngô Thì

107

Nhậm thì không ai làm được. Chờ mười năm nữa, cho ta được yên ổn mà nuôi dưỡng

lực lượng, bấy giờ nước giàu quân mạnh, thì ta có sơ gì chúng?

Bọn Sở, Lân đều lạy tạ và nói:

- Chúa thượng thật là lo xa, chúng tôi ngu dại không thể nghĩ tới chỗ đó. Hiện

nay phương lược tiến đánh ra sao, xin chúa thượng nhất nhất chỉ rõ để chúng tôi tuân

theo mà làm.

Vua Quang Trung bèn mở tiệc khao quân, chia quân sĩ ra làm năm đạo, hôm đó

là 30 tháng Chạp. Rồi nhà vua bảo kín với các tướng rằng:

- Ta với các ngươi hãy sửa tạm lễ cúng Tết trước đã. Đến tối 30 Tết lập tức lên

đường, hẹn đến ngày mùng 7 năm mới thì vào thành Thăng Long mở tiệc ăn mừng.

Các ngưỡi nhớ lấy, đừng cho là ta nói khoác !

[…]

Cả năm đạo quân đều lạy vâng mệnh lệnh, đúng ngày, gióng trống lên đường ra

Bắc. Khi quân ra đến sông Gián, nghĩa binh trấn thủ ở đó tan vỡ chạy trước. Lúc đến

sông Thanh Quyết, toán quân Thanh đi do thám từ xa đã trông thấy bóng cũng chay

nốt. Vua Quang Trung liền thúc quân đuổi theo , tới huyện Phú Xuyên thì bắt sống

được hết, không để tên nào trốn thoát. Bởi vậy, không hề có ai chạy về báo tin, nên

những đạo quân Thanh đóng ở Hà Hồi và Ngọc Hồi đều không biết gì cả.

Nửa đêm ngày mồng 3 tháng Giêng, năm Kỉ Dậu (1789), vua Quang Trung tới

làng Hà Hồi, huyện Thượng Phúc, lặng lẽ vây kín làng ấy, rồi bắc loa truyền gọi, tiếng

quân lính luân phiên nhau dạ ran để hưởng ứng, nghe như có hơn vài van người. Trong

đồn lúc ấy mới biết, ai nấy rựng rời sợ hãi, liền xin ra hàng, lương thực khí giới đều bị

quân Nam lấy hết.

Vua Quang Trung lại truyền lấy sáu chục tấm ván, cứ ghép liền ba tấm làm một

bức, bên ngoài lấy rơm dấp nước phủ kín, tất cả là hai mươi bức. Đoạn kén hạng lính

khỏe mạnh, cứ mười người khênh một bức, lựng dắt dao ngắn, hai mươi người khác

đều cầm binh khí theo sau, dàn thành trận chữ “nhất”, vua Quang Trung cưỡi voi đi

đốc thúc, mờ sáng ngày mùng 5 tiến sát đồn Ngọc Hồi. Quân Thanh nổ súng bắn ra,

chẳng trúng người nào cả. Nhân có gió bắc, quân Thanh bèn dùng ống phun khói lửa

108

ra, khói tỏa mù trời, cách gang tấc không thấy gì, hòng làm cho quân Nam rối loạn.

Không ngời trong chốc lát trời bỗng trở gió nam, thành ra quân Thanh tự làm hại mình.

Vua Quang Trung liền gấp rút sai đội khiêng ván vừa che vừa xông thẳng lên

trước, Khi gươm giáo của hai bên đã chạm nhau thì quăng ván xuống đất, ai nấy cầm

dao ngắn chém bừa, những người cầm binh khí theo sau cũng nhất tề xông tới mà đánh.

Quân Thanh chống không nổi, bỏ chạy toán loạn, giày xéo lên nhau mà chết.

Tên Thái thú Điền Châu là Sầm Nghi Đống tự thắt cổ chết. Quân Tây Sơn thừa thế

chém giết lung tung, thây nằm đầy đống, máu chảy thành suối, quân Thanh đại bại.

Trước đó, vua Quang Trung đã sai một toán quân theo bờ đê Yên Duyên kéo lên,

mở cờ gióng trống để làm nghi binh ở phía đông. Đến lúc ấy, quân Thanh chạy về trông

thấy, càng thêm hoảng sợ, bèn tìm lối tắt theo đường Vịnh Kiều mà trốn. Chợt lai thấy

quân voi từ Đại Áng tới, quân Thanh đều hết hồn hết vía, vội trốn xuống đầm Mực, làng

Quỳnh Đô, quân Tây Sơn lùa voi cho giày đạp, chết đến hàng vạn người.

Giữa trưa hôm ấy, vua Quang trung tiến binh đến Thăng Long, rồi kéo vào thành.

[…]

Lại nói, Tôn Sĩ Nghị và vua Lê ở Thăng Long, tuyệt nhiên không nghe tin cấp

báo gì cả. Cho nên trong ngày Tết mọi người chỉ chăm chú vào việc yến tiệc vui mừng,

không hề lo chi đến việc bất trắc. Nào hay, cuộc vui chưa tàn, cơ trời đã đổi. Ngày

mùng 4 bỗng thấy quân ở đồn Ngọc Hồi chạy về cấp báo. Thật là : “Tướng ở trên trời

rơi xuống, quân chui dưới đất lên”.

[…]

Tôn Sĩ Nghị sợ mất mật, ngựa không kip đóng yên, người không kịp mặc áo giáp,

dẫn bọn lính kị mã của mình chuồn trước qua cầu phao, rồi nhằm hướng bắc mà chạy.

Quân sĩ các doanh nghe tin, đều hoảng hồn tan tác bỏ chạy, tranh nhau qua cầu sang sông,

xô đẩy nhau rơi xuống mà chết rất nhiều, lát sau cầu lại bị đứt, quân lính đều rơi xuống

nước, đến nỗi nước sông Nhị Hà vì thế mà tắc nghẽn không chảy được nữa.

Vua Lê trong điện, nghe tin có việc biến ấy, vội vã cùng bọn Lê Quýnh, Trịnh

Hiến đưa thái hậu ra ngoài. Cả bọn chạy đến sông thì thấy cầu phao đã đứt, thuyền bè

cũng không, bèn gấp rút đến Nghi Tàm, thình lình gặp được chiếc thuyền đánh cá, vội

cướp lấy rồi chèo sang bờ bắc. Trưa ngày mồng 6, vua Lê và những người tùy tòng

109

chạy đến núi Tam Tằng, nghe nói Tôn Sĩ Nghị đã đi khỏi đó. Bấy giờ quân Thanh chạy

về nước, trên đường đông nghịt như chợ, đêm ngày đi gấp, không dám nghỉ ngơi. Vua

đưa thái hậu cùng đi với họ đến đồn Hòa Lạc thì gặp một người thổ hào. Hồi trước vua

Lê chạy ra ngoài, người ấy đã được biết mặt; lúc đó thấy vua, người ấy bất giác rơi lệ,

nhân tiện mời vua vào trại trong núi nghỉ tạm. Bấy giờ vua Lê và những người tùy tòng

luôn mấy ngày không ăn, ai nấy đều đã mệt lử. Người thổ hào kia liền giết gà làm cơm

thiết đãi. Vua sai bưng một mâm lên mời thái hậu, còn mình thì cùng ăn với bọn Quýnh,

Hiến ở mâm dưới.

Ăn vừa xong, chơt nghe tin quân Tây Sơn đã đuổi đến nơi. Vua cuống quýt bảo

người thổ hào rằng:

- Muôn đội hậu tình, không có gì để báo đáp, chỉ có trời cao đất dày chứng giám

tấc lòng thành của ông mà ban phúc cho thôi. Bây giờ quân giặc gần tới, trước mắt đây

có con đường sống nào có thể chạy gấp lên cửa ải, xin tính kế ngay cho.

Người thổ hào vội vã sai con đưa đường, theo lối tắt trong núi mà đi. Trời nhá nhem

tối thì nhà vua đến cửa ải, theo kịp chỗ nghỉ của Tôn Sĩ Nghị. Một lát, các viên quan

khác cũng lục tục theo đến, cùng nhìn nhau than thở, oán giận chảy nước mắt. Tôn Sĩ

Nghị cũng lấy làm xấu hổ. [9; tr.64-70]

PHỤ LỤC 4

110

CÔNG THỨC TOÁ HỌC THỐNG KÊ

ĐỂ XỬ LÝ SỐ LIỆU THỰC NGHIỆM

Sau thu thập, chúng tôi đã tiến hành xử lý kết quả thực nghiệm theo công thức

toán học thống kê sau đây:

- Tính trung bình cộng: Đây là tham số đặc trưng cho sự tập trung của số liệu,

trình bày dưới dạng công thức:

∑ 𝑥𝑖.𝑛𝑖 𝑛

(1) 𝑋̅ =

Trong đó: + ni là tần số của giá trị xi

+ n là số học sinh tham gia thực nghiệm.

- Tính độ lệch chuẩn: Độ lệch chuẩn phản ánh sự sai lệch dao động của các số

liệu xung quanh giá trị trung bình cộng. Căn cứ vào độ lệch chuẩn, ta có thể nhận ra

kết quả của việc kiểm tra.

Độ lệch chuẩn (ký hiệu là S), còn tham số phương sai độ lệch chuẩn (ký

hiệu là S2). Công thức tính phương sai có dạng như sau:

𝑛−1

S2 = √∑ 𝑛𝑖(𝑥𝑖−𝑥̅)2 (2)

- Độ lệch chuẩn là căn bậc hai của phuơng sai, do vậy công thức tính như sau:

𝑛−1

S = √∑ 𝑛𝑖(𝑥𝑖−𝑥̅)2 (3)

- Tiến hành so sánh sự khác biệt giữa nhóm thực nghiệm và đối chứng. Chúng

tôi sử dụng phép thử Student để tìm sự khác biệt giữa hai nhóm. Sự khác biệt đó được

2 (4)

tính theo công thức sau:

𝑛 2 + 𝑆𝐷𝐶 𝑆𝑇𝑁

𝑡 = (𝑋̅𝑇𝑁 − 𝑋̅𝐷𝐶)√

2 là giá trị trung bình và phƣơng sai của nhóm thực nghiệm. 2 là giá trị trung bình và phƣơng sai của nhóm thực nghiệm.

Trong đó:

𝑋𝑇𝑁 và 𝑆𝑇𝑁 𝑋𝐷𝐶 và 𝑆𝐷𝐶 n là số ngƣời tham gia thực nghiệm

Dùng bảng Student với α = 0,05 và độ lệch chuẩn tự do k = 2n-2 để tìm tα tới

hạn.Sự khác biệt giữa hai nhóm thực nghiệm và đối chứng chỉ có ý nghĩa khi t > tα và

vô nghĩa khi t < tα.

MỘT SỐ HÌNH ẢNH VỀ TIẾT HỌC TNSP LỊCH SỬ

111

112