Luận văn

Tranh chấp lao động, cách giải

quyết tranh chấp .Trình bầy một

vụ tranh chấp lao động được giải

quyết tại DN hoặc tại cơ quan

lao động huyện hoặc tòa án

LỜINÓIĐẦU

Từ lâu, khoa học luật lao động đã quan tâm nghiên cứu về tranh chấp

lao động vàđã cóđược những kết quảđáng kể. Tuy nhiên để hiểu được một

cách sâu sắc về tranh chấp lao động thì cần phải có sự nghiên cứu sâu rộng

hơn nhằm mổ xẻ những khiá cạnh căn bản của tranh chấp lao động và

nghiên cứu những vấn đề liên quan trong tổng thể các vấn đề kinh tế – xã

hội là cơ sở nảy sinh các tranh chấp cũng như cơ chế pháp luật đIều chỉnh

quan hệ tranh chấp .

Với mong muốn được nghiên cưu vấn đề này, đặc biệt ở khía cạnh sử

dụng công cụ pháp luật trong việc giải quyết tranh chấp lao động, từđó

mạnh dạn đề suất những kiến nghị nhằm từng buớc hoàn thiện hệ thống

pháp luật về tranh chấp lao động, tôi đã chọn cho mình đề tài “Tranh chấp

lao động, cách giải quyết tranh chấp .Trình bầy một vụ tranh chấp lao

động được giải quyết tại DN hoặc tại cơ quan lao động huyện hoặc tòa

án“. Bài viết này đề cập một số nội dung nhằm làm rõ hơn những vuớng

mắc đóđể trao đổi cùng bạn đọc.

Nội dung đề tài đươc trình bày qua 4 phần :

Phần I. Những vấn đề chung về tranh chấp lao động.

Phần II. Giải quyết tranh chấp lao động.

Phần III. Thời hiệu giải quyết tranh chấp lao động và thực tiễn về

một vụ tranh chấp lao động xảy ra ở DN vàng bạc đá quý ACT.

Phần IV. Ý nghĩa của việc giải quyết tranh chấp lao động :

Có thể khẳng định rằng, đây là một đề tài phức tạp và khó. Trong điều

kiện khả năng còn hạn chế của một sinh viên cả vềđiều kiện nghiên cứu và

kinh nghiệm thực tiễn, chắc chắn bài tiểu luận sẽ không tránh khỏi những

hạn chế và khiếm khuyết. Do đó, tôi rất mong muốn nhận được sự góp ý,

phê bình của thầy cô, các nhà chuyên môn cùng toàn thể bạn đọc quan tâm

đến đề tài này.

PHẦNI

NHỮNGVẤNĐỀCHUNGVỀTRANHCHẤPLAOĐỘNG

1. Khái niệm tranh chấp lao động (TCLĐ ).

Tranh chấp lao động (TCLĐ) là hiện tượng kinh tế – xã hội tất yếu

trong đời sống lao động ở bất kì quốc gia nào. Điều này xuất phát chủ yếu từ

sự khác nhau về lợi ích của 2 bên chủ thể tham gia quan hệ lao động.

Trong nền kinh tế thị trường, quan hệ lao động chủ yếu được thiết lập

qua hình thức hợp đồng lao động theo nguyên tắc tự do, tự nguyện, bình

đẳng giữa người lao động (NLĐ) và người sử dụng lao động (NSDLĐ).

Thực chất đây là quan hệ hợp tác cùng có lợi, trên cơ sở hiểu biết và quan

tâm lẫn nhau để cùng đạt được lợi ích mà mỗi bên đãđặt ra. Song, chính do

mục tiêu đạt được lợi ích tối đa làđộng lực trực tiếp của cả 2 bên, mà giữa

họ khó có thể dung hòa được quyền lợi trong suốt qúa trình thực hiện quan

hệ lao động. Hơn nữa, quan hệ lao động thường là quan hệ tương đối lâu dài

cho nên trong qúa trình duy trì quan hệ, việc lúc này hay lúc khác có thể xảy

ra những bất đồng, mâu thuẫn giữa các bên cũng làđiều dễ lí giải. Người lao

động thường có nhu cầu tăng lương, gỉam thời gian lao động vàđược làm

việc trong điều kiện lao động ngày càng tốt hơn….người sử dụng lao động

lại luôn có xu hướng tăng cường độ, thời gian làm việc, giảm chi phí nhân

công…nhằm đạt được lợi nhuận cao hơn. Những lợi ích ngược chiều này sẽ

trở thành những bất đồng, mâu thuẫn nếu 2 bên không biết dung hòa quyền

lợi với nhau. Do đó, sự phát sinh tranh chấp lao động giữa người lao động

và người sử dụng lao động là một điều khó tránh khỏi.

Hiên nay, tuy giải quyết tranh chấp lao động được qui định trong pháp

luật của hầu hết các nước trên thế gíơi, nhưng tùy theo đặc điểm kinh tế,

chính trị, xã hội của từng nước mà khái niệm tranh chấp lao động được hiểu

khác nhau .

Tại Việt Nam vấn đề tranh chấp đãđược qui định ở ngay những văn

bản đầu tiên của nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa dưới thuật ngữ “việc

kiện tụng “, “việc xích mích” (sắc lệnh số 29-SL ,ngày 12/3/1947). Tuy

nhiên, chỉđến khi có bộ luật lao động (23/6/1994) thì mới cóđịnh nghĩa

chính thức về tranh chấp luật lao động.

Điều 157 BLLĐ qui định về TCLĐ ,trong đó khoản 1 đề cập khái

niệm tranh chấp lao động về mặt nội dung (hoặc đối tượng tranh chấp

).Theo đó, xét về mặt nội dung thì“TCLĐ là những tranh chấp về quyền và

lợi ích liên quan đến việc làm, tiền lương, thu nhập và các Điều kiện lao

động khác, về thực hiện hợp đồng lao động, thoảước tập thể và trong qúa

trình học nghề". Đây là một định nghĩa tương đối hoàn chỉnh bởi vì nó

không những chỉ ra được nội dung tranh chấp mà còn phân biệt được các đối

tượng tranh chấp .

2 . Đặc điểm của tranh chấp lao động :

Tranh chấp lao động phát sinh tồn tại gắn liền với quan hệ lao động .

Mối quan hệ này thể hiện ở hai điểm cơ bản : Các bên tranh chấp bao giờ

cũng là chủ thể của quan hệ lao động vàđối tượng tranh chấp chính là nội

dung của quan hệ lao động đó . Trong quá trình thực hiện quan hệ lao động ,

có nhiều lý do để các bên không thực hiện đúng vàđầy đủ các quyền và

nghĩa vụđãđược thống nhất ban đầu . Ví dụ , một trong hai bên chỉ quan tâm

đến lợi ích riêng của mình , hoặc điều kiện thực hiện hợp đồng , thoảước đã

thay đổi làm cho những quyền và nghĩa vụđã xác định không còn phù hợp ,

hoặc cũng có thể do trình độ xây dựng hợp đồng và sự hiểu biết về pháp luật

còn hạn chế dẫn đến các bên không hiểu đúng các qui định của pháp luật ,

các thoả thuận trong hợp đồng …

 Tranh chấp lao động không chỉ là những tranh chấp về quyền , nghĩa

vụ mà còn bao gồm cả những tranh chấp về quyền và lợi của các bên trong

quan hệ lao động . Thực tế , hầu hết các tranh chấp khác ( như tranh chấp

dân sự ) thường xuất phát từ sự vi phạm pháp luật , vi phạm hợp đồng hoặc

do không hiểu đúng quyền và nghĩa vụđãđược xác lập mà dẫn đến tranh

chấp . Riêng tranh chấp lao động có thể phát sinh trong trường hợp không có

vi phạm pháp luật . Đặc điểm này bị chi phối bởi bản chất quan hệ lao động

và cơ chếđiều chỉnh của pháp luật . Trong nền kinh tế thị trường các bên của

quan hệ lao động được tự do thương lượng , thoả thuận hợp đồng , thoảước

phù hợp với quy luật của pháp luật cũng như khả năng đáp ứng của mỗi bên

. Quá trình thoả thuận thương lượng đó không phải bao giờ cũng đạt kết quả

. Ngay cả khi đạt kết quả thì những nội dung đã thoả thuận được cũng có thể

trở thành không phù hợp do các yếu tố mới phát sinh tại thời điểm tranh

chấp

 Tính chất và mức độ của tranh chấp lao động luôn phụ thuộc

vào quy mô và số lượng tham gia của một bên tranh chấp là người

lao động.

 Sựảnh hưởng của nóđến hoạt động sản xuất kinh doanh chỉở mức độ

hạn chế nên thường được xem làít nghiêm trọng. Nhưng nếu trong một thời

điểm, có nhiều người lao động cùng tranh chấp với người sử dụng lao động,

những tranh chấp đó lại cùng nội dung và nhất là khi những người lao động

này cùng liên kết với nhau thành một tổ chức thống nhất đểđấu tranh đòi

quyền lợi chung thì những tranh chấp lao động đóđã mang tính tập thể. Mức

độảnh hưởng của tranh chấp tập thể tuỳ thuộc vào phạm vi xảy ra tranh

chấp. Tranh chấp lao động cóảnh hưởng trực tiếp đến đời sống của bản thân,

gia đình người lao động , nhiều khi còn tác động đến an ninh công cộng.

Tranh chấp lao động nếu chỉ phát sinh giữa một người lao động và người sử

dụng lao động ( đối tượng tranh chấp là quyền , nghĩa vụ , lợi ích chỉ liên

quan đến một cá nhân người lao động ) thì tranh chấp đóđơn thuần là tranh

chấp cá nhân .

Đặc điểm này xuất phát từ bản chất quan hệ lao động là quan hệ chứa đựng

nhiều vấn đề mang tính xã hội như thu nhập , đời sống , việc làm …của

người lao động . Thực tế hầu hết mọi người lao động tham gia quan hệ lao

động để có thu nhập đảm bảo cuộc sống và gia đình họ cũng trông chờ vào

nguồn thu nhập đó . Vì vậy , khi tranh chấp lao động xảy ra , quan hệ lao

động có nguy cơ bị phá vỡ , người lao động có thể bị mất việc làm , mất thu

nhập , mất nguồn đảm bảo cuộc sống thường xuyên cho bản thân và gia đình

nên đời sống của họ trực tiếp bịảnh hưởng .

Người sử dụng lao động sẽ phải tốn thời gian , công sức vào quá trình

giải quyết tranh chấp nên có thể việc sản xuất kinh doanh bị gián đoạn dẫn

đến mất các cơ hội kinh doanh , mất một phần lợi nhuận và khả năng đầu tư

phát triển sản xuất . Nghiêm trọng hơn , là khi tranh chấp lao động tập thể

xảy ra ở những doanh nghiệp thiết yếu của nền kinh tế quốc dân hoặc an

ninh quốc phòng , trong một ngành hoặc một địa phương , thì còn có thểảnh

hưởng đến sự phát triển vàđời sống xã hội trong cả một khu vực , thậm chí

có thểảnh hưởng đến toàn bộ nền kinh tế . Nếu không giải quyết kịp thời ,

những tranh chấp đó có thểảnh hưởng tới an ninh công cộng vàđời sống

chính trị xã hội của quốc gia .

3. Phân loại tranh chấp lao động.

Sự phân loại TCLĐ là nhằm đểđánh giáđúng thực chất của các tranh

chấp lao động trên cơ sởđó mà giải quyết chúng có hiệu qủa.

Theo cách nhìn nhận khái quát, tranh chấp lao động được chia thành

nhiều loại dựa trên những tiêu chí khác nhau, tùy theo mối quan tâm của

những người phân loại.

a. Căn cứ vào quy mô của tranh chấp(mục đích tham gia của các bên

tranh chấp ), có thể phân chia các tranh chấp lao động gồm tranh chấp lao

động cá nhân và tranh chấp lao động tập thể. Cách phân loại này cóý nghĩa

trong việc xác định cơ chế giải quyết thích hợp nhằm đạt được hiệu qủa

mong muốn đồng thời trực tiếp xác định chủ thể tham gia TCLĐ (chỉ có thể)

là NLĐ, tập thể lao động và NSDLĐ.

Thực tế, có thể hiểu tranh chấp lao động cá nhân là tranh chấp giữa

nguời sử dụng lao động với cá nhân người lao động (hoặc một nhóm nhỏ

người lao động ) đó. Loại tranh chấp này thường phát sinh trong quá trình áp

dụng pháp luật lao động hoặc thực hiện, thay đổi, chấm dứt các hợp đồng

lao động cá nhân.Trong quá trình giải quyết tranh chấp cá nhân, công đoàn

thường chỉ tham gia với tư cách là người bảo vệ quyền và lợi ích của người

lao động chứ không với tư cách là người đại diện cho một bên tranh chấp.

Như vậy tranh chấp cá nhân thường mang tính đơn lẻ, riêng rẽ, không có

tính tổ chức chặt chẽ. Tranh chấp lao động cá nhân hầu như không ảnh

hửơng đến những quan hệ lao động khác và giải quyết các tranh chấp này

chủ yếu nhằm thừa nhận, khôi phục các quyền, lợi ích hợp pháp của các bên

trong quan hệ lao động.

Tranh chấp lao động tập thể là tranh chấp gĩưa tập thể người lao động

với người sử dụng lao động về quyền, lợi ích liên quan đến tập thể lao động.

Người đại diện cho tập thể người lao động là tổ chức công đoàn tham gia

với tư cách là một bên tranh chấp, yêu cầu người sử dụng lao động đáp ứng

các quyền, lợi ích mà tập thể lao động đặt ra. Trong một số trường hợp tranh

chấp lao động cá nhân được chuyển hóa thành tranh chấp lao động tập thể

và nguợc lại. Do vậy việc phân biệt tranh chấp lao động tập thể và tranh

chấp lao động cá nhân là một vấn đề khó khăn, phức tạp cả về mặt lý luận

và trong thực tiễn đời sống.

b. Căn cứ vào tính chất của tranh chấp, có thể chia tranh chấp lao

động thành các tranh chấp về quyền và các tranh chấp về lợi ich. Tuy nhiên,

hiện tại không có qui định nào của pháp luật giải thích như thế nào là tranh

chấp về quyền và như thế nào là các tranh chấp về lợi ích. Sự giải thích về

vấn đề này chỉ hiện hữu trong các quan điểm của các nhà khoa học pháp lí.

Theo quan điểm của các nhà khoa học, tranh chấp về quyền là tranh

chấp về những cái đãđược pháp luật xác định hoặc đãđược thoả thuận hợp

pháp. Những đối tượng được ghi nhận rõ ràng, cụ thể trong các qui định của

pháp luật hoặc đã thoả thuận trong hợp đồng lao động, thỏa ước lao động tập

thể như tiền lương tối thiểu, tiền lương làm thêm giờ, thời giờ làm việc tối

đa, số ngày nghỉ hàng năm, tiền bồi thường tai nạn lao động. Nếu được đưa

vào vụ phân tranh thìđóđược goi là các tranh chấp về quyền. Ngược lại,

những đối tượng được đưa vào vụ phân tranh dưới dạng những yêu cầu mới

chưa được xác định trứơc, ví dụ người lao động đòi tăng lương cao hơn mức

cũ 15% nhưng chưa có bằng chứng xác định việc tăng lương này trong hợp

đồng lao động, thỏa ước lao động tập thể hoặc trong các văn bản pháp luật

thìđược gọi là các tranh chấp về “lợi ích”. Cách phân loại đó lấy tiêu chí là

tính chất pháp líđể phân định các loại tranh chấp lao động nhằm tạo cơ sở

pháp lí cho các phương thức giải quyết tranh chấp lao động, đặc biệt có tác

dụng trong việc đưa ra các quyết định của các chủ thể tài phán lao động.

Bên cạnh đó, cơ sở phân loại khác ít được nhắc tới, đó là dựa vào

tính chất vật chất của tranh chấp lao động. Nếu theo cơ sở này, tranh chấp

lao động cũng vẫn được chia thành 2 loại là tranh chấp về quyền và tranh

chấp về lợi ích nhưng cách hiểu thì hoàn toàn không gíông cách phân loại

dựa vào cơ sở tính chất pháp lí . Theo cách phân loại này, các tranh chấp về

quyền gồm các tranh chấp cóđối tượng là những vấn đề phi vật chất, bao

gồm tranh chấp về quyền tiếp tục làm việc theo hợp đồng lao động, tranh

chấp về việc giao kết hợp đồng lao động; tranh chấp về quyền thành lập, gia

nhập, hoạt động công đoàn; tranh chấp về quyền nghỉ ngơi: tranh chấp về

việc có bị xúc phạm danh dự, nhân phẩm đối với người lao động …còn các

tranh chấp về lợi ích bao gồm các đối tượng tranh chấp là các vấn đề vật

chất, như tranh chấp về tiền lương, tranh chấp về bảo hiểm xã hội , tranh

chấp về khoản bồi thường thiệt hại tài sản đối với người sử dụng lao động

Tranh chấp lao động là loại tranh chấp có chiều hướng gia tăng trong

nền kinh tế thị trường, đăc biệt trong quá trình hôi nhập và Toàn cầu hóa

kinh tế. Việc nghiên cứu về tranh chấp lao động để hoạch định các chính

sách , pháp luật vàáp dụng vào thực tiễn giải quyết các tranh chấp lao động

là việc làm cần thiết và có tính thiết thực trong giai đoạn hiên nay.

4. Trình tự giải quyết tranh chấp lao động :

a. Đối với các tranh chấp lao động cá nhân :

-Hội đồng hoà giải lao động cơ sở tiến hành hoà giải chậm nhất bảy

ngày , kể từ ngày nhận được đơn yêu cầu hoà giải. Tại phiên họp hoà giải ,

phải có mặt hai bên tranh chấp hoặc đại diện được uỷ quyền của họ .

- Hội đồng hoà giải lao động cơ sởđưa ra phương án hoà giải để các bên

xem xét. Nếu hai bên chấp nhận phương án hoà giải thì lập biên bản hoà giải

thành, có chữ ký của hai bên tranh chấp , của Chủ tịch và thư ký Hội đồng

hoà giải lao động cơ sở . Hai bên có nghĩa vụ chấp hành các thoả thuận ghi

trong biên bản hoà giải thành .

Trong trường hợp hoà giải không thành , Hội đồng hoà giải lao động cơ

sở lập biên bản hoà giải không thành , ghi ý kiến của hai bên tranh chấp và

của Hội đồng , có chữ ký của hai bên tranh chấp , của Chủ tịch và thư ký

Hội đồng. Bản sao biên bản phải được gửi cho hai bên tranh chấp trong thời

hạn ba ngày kể từ ngày hoà giải không thành . Mỗi bên tranh chấp đều có

quyền yêu cầu Toàán nhân dân cấp huyện xét xử tranh chấp . Hồ sơ gửi

Toàán nhân dân phải kèm theo biên bản hoà giải không thành .

- Toàán nhân dân

Toàán nhân dân cấp huyện giải quyết các tranh chấp lao động cá nhân

mà Hội đồng hoà giải lao động cơ sở hoặc hoà giải viên lao động hoà giải

không thành , khi cóđơn yêu cầu của một hoặc hai bên tranh chấp .

b. Đối với tranh chấp lao động tập thể :

Bước 1 : Hội đồng hoà giải

- Hội đồng hoà giải lao động cơ sở hoặc hoà giải viên lao động tiến

hành hoà giải chậm nhất bảy ngày , kể từ ngày nhận đơn yêu cầu hoà giải .

Tại phiên họp hoà giải , phải có mặt hai bên tranh chấp hoặc đại diện được

uỷ quyền của họ .

- Hội đồng hoà giải lao động cơ sở hoặc hoà giải viên lao động đưa ra

phương án hoà giải để các bên xem xét. Nếu hai bên chấp nhận phương án

hoà giải thì lập biên bản hoà giải thành , có chữ ký của hai bên tranh chấp ,

của Chủ tịch và thư ký Hội đồng hoà giải lao động cơ sở hoặc của hoà giải

viên lao động . Hai bên có nghĩa vụ chấp hành các thoả thuận ghi trong biên

bản hoà giải thành .

- Trong trường hợp hoà giải không thành , thì Hội đồng hoà giải

lao động cơ sở hoặc hoà giải viên lao động lập biên bản hoà giải không

thành , ghi ý kiến của hai bên tranh chấp và của Hội đồng hoặc của hoà giải

viên lao động , có chữ ký của hai bên tranh chấp , của Chủ tịch và thư ký

Hội đồng hoặc của hoà giải viên lao động ; mỗi bên hoặc cả hai bên tranh

chấp có quyền yêu cầu Hội đồng trọng tài lao động cấp tỉnh giải quyết .

Bước 2 :Hội đồng trọng tài lao động cấp tỉnh

Hội đồng trọng tài lao động tiến hành hoà giải và giải quyết vụ tranh

chấp lao động tập thể chậm nhất 10 ngày kể từ ngày nhận được yêu cầu .Tại

phiên họp giải quyết tranh chấp lao động tập thể , phải có mặt các đại diện

được uỷ quyền của hai bên tranh chấp .

Hội đồng trọng tài lao động đưa ra phương án hoà giải để hai bên xem

xét. Trong trường hợp hai bên nhất trí thì lập biên bản hoà giải thành , có

chữ ký của hai bên tranh chấp , của Chủ tịch Hội đồng trọng tài lao động .

Hai bên có nghĩa vụ chấp hành các thoả thuận ghi trong biên bản hoà giải

thành .

Trong trường hợp hoà giải không thành , thì Hội đồng trọng tài lao động

giải quyết vụ tranh chấp và thông báo ngay quyết định của mình cho hai bên

tranh chấp ; nếu hai bên không cóý kiến thì quyết định đóđương nhiên có

hiệu lực thi hành .

Bước 3 :Toàán nhân dân

Trong trường hợp tập thể lao động không đồng ý với quyết định của Hội

đồng trọng tài lao động thì có quyền yêu cầu Toàán nhân dân giải quyết

hoặc đình công .

Trong trường hợp người sử dụng lao động không đồng ý với quyết định

của Hội đồng trọng tài lao động , thì có quyền yêu cầu Toàán nhân dân xét

lại quyết định của Hội đồng trọng tài . Việc người sử dụng lao động yêu cầu

Toàán nhân dân xét lại quyết định của Hội đồng trọng tài không cản trở

quyền đình công của tập thể lao động .

PHẦN II

GIẢIQUYẾTTRANHCHẤPLAOĐỘNG

1.Nguyên tắc giải quyết tranh chấp lao động

Theo điều 158 BLLĐ tranh chấp lao động được giải quyết theo

nguyên tắc sau ;

- Nguyên tắc thứ nhất; Thương lượng trực tiếp và tự dàn xếp giữa các

bên tại nơi phát sinh tranh chấp .

Hiện nay, các bên của quan hệ lao động được tự do thoả thuận hợp

đồng lao động, thỏa ước tập thể trong khuôn khổ của pháp luật lao động.

Khi các thoả thuận của các bên bi phá vỡ, tranh chấp lao động xảy ra thì các

bên có quyền và nghĩa vụ tự thương lượng, dàn xếp để thoả thuận lai

.Nguyên tắc này vừa đảm bảo cho quyền và nghĩa vụ của các bên luôn phù

hợp với điều kiện của họ, vừa ngăn ngừa những hậu qủa xấu xảy ra do tranh

chấp lao động phát sinh. Sự tự thương lượng, dàn xếp còn được nhận cả sau

khi các bên đã gửi đơn đến cơ quan có thẩm quyền yêu cầu giải quyết vàđó

là căn cứđể chấm dứt vụ tranh chấp lao động đó.

- Nguyên tắc thứ hai; Thông qua hoà giải để gỉai quyết tranh chấp

trên cơ sở tôn trọng quyền và lợi ích của 2 bên, tôn trọng lợi ích chung của

xã hội.

Nếu các bên đã thương lượng không thành, và một trong 2 bên, họăc

cả 2 bên gửi đơn yêu cầu giải quyết thì cơ quan có thẩm quyền trứơc hết

phải hoà giải tranh chấp giữa các bên. Đây là cách giải quyết tiếp tục quá

trình thương lượng, thoả thuận giua 2 bên có sự thuyết phục, giải thich của

người hoà giải. Mục đích của hòa giải là làm cho các bên hiểu nhau, hiểu

pháp luật để chính các bên lựa chọn hướng giải quyết phù hợp, đảm bảo

được sự duy trì quan hệ lao động sau tranh chấp. Vi vây, hoà giải là nguyên

tắc xuyên suốt quá trình giải quyết tranh chấp , là thủ tục bắt buộc ở tất cả

các cấp, các giai đoạn. Thực tế, công tác hoà giải chỉđạt được hịêu qủa nếu

người hoà giải biết tôn trọng lợi ích của cả hai bên tranh chấp và lợi ích

chung của xã hội và có phương pháp hoà giải thích hợp.

- Nguyên tắc thứ ba ; giải quyết tranh chấp lao động công khai,

khách quan, nhanh chóng, đúng pháp luật .

Một đặc điểm của tranh chấp lao động là cóảnh hửơng lớn tới đời

sống người lao động, tới sản xuất và Toàn xã hội nên cần giải quyết nhanh

chóng kịp thời để hạn chế những ảnh hưởng xấu. Song, muốn giải quyết

được nhanh chóng, muốn khôi phục, thừa nhận quyền và lợi ích hợp pháp

của các bên vàổn định sản xuất thì cơ quan có thẩm quyền phải thật khách

quan, công khai vàđúng pháp luật.

- Nguyên tắc thứ tư; đảm bảo quyền tham gia của đại diện các bên

trong quá trình giải quyết tranh chấp lao động.

Nếu các bên tham gia thì việc cung cấp thông tin, tài liệu sẽđầy đủ

hơn và cơ quan có thẩm quyền cóđiều kiện đánh giá về vụ tranh chấp chính

xác hơn, đại diện các bên lại thường là người am hiểu pháp luật, hiểu điều

kiện của các bên, tự do có thể gíup cơ quan có thẩm quyền có các phương án

giải quyết phù hợp . Tuy nhiên vì nhiều lý do mà hiện nay pháp luật chưa cụ

thể nguyên tắc này một cách rõ nét, nhất là sự tham gia của đại diện người

sử dụng lao động. Nhưng, một trong các quyền của các bên tranh chấp

đãđược pháp luật ghi nhận làđược “trực tiếp hoặc thông qua người đại diện

của mình để tham gia quá trình giải quyết tranh chấp “k1, Điều 60 BLLĐ )

2. Các cơ quan tổ chức có thẩm quyền giải quyết tranh chấp lao

động.

Các cơ quan giải quyết tranh chấp lao động gồm có; Hội đồng hoà

giải lao động ở cơ sở hoặc là hoà giải viên lao động của cơ quan lao động

cấp huyện; Hội đồng trọng tài do cơ quan lao động địa phương cấp quận,

huyện trở lên cử ra; Tòa án nhân dân.

a.Hội đồng hoà giải lao động cơ sở hoặc hoà giải viên lao động cấp

huyện.

Theo qui định hiện hành, về nguyên tắc vụ TCLĐ trứơc khi đưa ra

toàán nhân dân hoặc hội đồng trọng tài lao động giải quyết phải được giải

quyết trứơc tại hội đồng hoà giải lao động (HĐHGLĐ) hoặc hoà giải vien

(HGV) nhưng không thành, trừ một số trừơng hợp đặc biệt HĐHGLĐ cơ

sởđược thành lập ở các doanh nghiêp sử dụng thường xuyên từ 10 lao động

trở lên và có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp lao động cá nhân và tập

thể xảy ra tại DN đó. HGVdo cơ quan lao động và xã hội cấp huyện cử ra,

có thẩm quyền hoà giải các TCLĐ cá nhân và tập thể xảy ra o các DN sử

dụng duoi 10 NLĐ .

Hội đồng hoà giải có nhiệm vụ hoà giải các tranh chấp lao động cá

nhân và tranh chấp lao động tập thể phát sinh trong đơn vị khi đương sự yêu

cầu trong thời hiệu luật định. Khi hoà giải, hội đồng hoà giải có quyền;

- Tìm hiểu vụ việc, gặp gỡ các bên tranh chấp, người co liên quan,

người làm chứng.

- Thu thập tài liệu chứng cứ, yêu cầu đương sự cung cấp đầy đủ các

tài liệu có liên quan tới vụ việc phải hoà giải.

-Đưa ra phuong án hoà giải để 2 bên tranh chấp cung xem xét thương

lượng.

Hoà giải viên của cơ quan lao động cấp huyện là những cán bộ cóđủ

năng lực, phẩm chất, trinh độ và uy tin, giải quyết tranhchấp gĩưa người

gíup việc gia đình và người sử dụng lao động và tranh chấp về thực hiện hợp

đồng học nghề và chi phí dạy nghề. Khi hoà giải các tranh chấp nay, hoà

giải viên có các quyền tương tự hội đồng hoà giải cơ sở.

Tuy nhiên, thực tiễn thực hiện những qui định trên đã làm phát sinh 1

số vướng mắc. Nhiều DN sử dụng từ 10 NLĐ trở lên không thể thành lập

HĐHGLĐ vì không có tổ chức công đoàn (70%các DN ngoài quốc doanh

và DN có vốn đầu tư nước ngoài chưa thành lập tổ chức công đoàn cơ sở ).

Cũng không ít có tổ chức công đoàn cơ sở nhưng không thành lập

HĐHGLĐ hoặc có thành lập nhưng không hoạt động. Các điều 163, 164,

165, 166 BLLĐ hiện hành liên quan đến thẩm quyền và hoạt động của

HĐHGLĐ và HGV. Theo đó, HĐHGLĐ bắt buộc phai được thành lập trong

các DN có tổ chức công đoàn cơ sở hoặc ban chấp hành công đoàn lâm thời,

không phụ thuộc vào số lượng lao động mà DN đó sử dụng (có thể dưới 10

NLĐ). Nếu vì lí do nào đó màđơn vị chưa thành lập HĐHGLĐ thì các bên

tham gia tranh chấp lao động cá nhân có thể yêu cầu HGV giải quyết. Ngoài

ra, trong quá trình giải quyết tranh chấp lao động cá nhân, nếu đã triệu tập

hợp lệđến lần thứ 2 mà 1 bên tranh chấp vẫn vắng mặt không lý do chính

đáng nên không thể tiến hành hoà giải được thì HĐHGLĐ hoặc HGV lập

biên bản hoà giải không thành làm cơ sở cho biên bản kia có thể khởi kiện

tiếp tục tại toàán. Đây cũng làđiểm mới mà pháp luật hiện hành chưa đặt ra

để bảo vệ kịp thời quyền và lợi ích hợp pháp của một bên tranh chấp khi bên

đối phương cốý vắng mặt nhằm trì hoãn dẫn đến vô hiệu hoá giải quyết quá

trình tranh chấp. Ngoài ra, trường hợp một hoặc cả hai bên tranh chấp đã

yêu cầu mà HĐHGLĐ và HGV không giải quyết tranh chấp trong thời hạn

qui định thi các bên vẫn có quyền yêu cầu TAND Giải quyết mặc dù không

có biên bản hoà giải không thành.

Có thể nói những sửa đổi, bổ sung nêu trên là hoàn toàn hợp lý nhằm

bảo vệ kịp thời vàđầy đủ hơn quyền và lợi ích hợp pháp của các bên tranh

chấp. Tuy nhiên, lại là chưa thỏa đáng và chưa hoàn chỉnh khi việc sửa đổi,

bổ sung các qui định pháp luật hiện hành về HĐHGLĐ và HGV trong luật

sửa đổi bổ sung chỉ nhằm vào lĩnh vực giải quyết TCLĐ cá nhân mà “bỏ

qua“ lĩnh vực giải quyết TCLĐ tập thể. Khó có thể tìm ra căn cứđể lí giải

cho sự giới hạn này những vẫn cần tiếp tục sửa đổi, bổ sung các điều về

BLLĐ về quá trình giải quyết TCLĐđểđược hòan thiện hơn.

b. Hội đồng trọng tài lao động.

Hội đồng trọng tài lao động do chủ tịch ủy ban nhân dân cấp tỉnh

quyết định theo đề nghị của giám đốc sở Lao động thương binh và Xã hội.

Thành phần của hội đồng trọng tài lao động được thành lập theo số lẻ, từ 5

đến 9 thành viên.

Hội đồng trọng tài có nhiệm vụ hoà giải và giải quyết các tranh chấp

tập thể mà hội đồng hoà giải cơ sở hoặc hoà giải viên của các cơ quan lao

động cấp huyện hoà giải nhưng không thành, các bên đương sự cóđơn yêu

cầu hội đồng trọng tài giải quyết. Khi giải quyết, Hội đồng trọng tài có

quyền;

- Tìm hiểu vụ việc, gặp gỡ các bên tranh chấp, người làm chứng và

người có liên quan.

- Thu thập tài liệu, chứng cứ, yêu cầu đương sự, Hội đồng hoà giải cơ

sở hoặc hoà giải viên cung cấp đầy đủ tài liệu có liên quan đến tranh chấp.

- Yêu cầu đương sự tới phiên họp giải quyết của hội đồng.

- Đưa phương án hoà giải, ra quyết định giải quyết vụ việc.

Nếu hoà giải không thành và trọng tài không có hiệu qủa, mỗi bên có

thểđưa vụ tranh chấp ra toàán nhân dân xét xử.

c.Toàán nhân dân.

Điều 1 luật sửa đổi bổ sung 1 sốđiều của luật tổ chức toàán nhân dân

đã ra quyết định “Toàán xét xử những vụán hình sự, dân sự, hôn nhân gia

đình, lao động, kinh tế và những việc khác theo qui định của pháp luật.Vì

vậy ngày 1/7/1996 , toà lao động được thành lập trong hệ thống toàán nhân

dân với tư cách là một toà chuyên trách, có phân toà từ cấp tỉnh trở lên , ở

toàán cấp huyện có các thẩm phán lao động do chánh án phân công phụ

trách .

Là một toà chuyên trách, co quyền nhân danh nhà nước, đua ra các

quyết định, kết luận, bản án. Toà lao động có nhiệm vụ xét xử các vụán lao

động đãđược cơ quan hoà giải, trọng tài giải quyết những các bên tranh chấp

không đồng ý và khởi kiện ra toàán và giải quyết các cuộc đình công. Do

đặc trưng của quan hệ lao động mà toàán không chỉ là một cơ quan xét xử

thuần túy. Ngoài việc xét xử, toàán còn có thẩm quyền công nhận sự thoả

thuận của các đương sự và tuyên bố cuộc đình công hợp pháp hay là bất hợp

pháp theo yêu cầu của các cá nhân, tổ chức hữu quan. Đây cũng làđiểm khác

nhau gĩưa nhiệm vụ của toàán lao động và nhiệm vụ của một số toà chuyên

trách khac.

Điều 166 BLLĐđược sửa đôi, bo sung, theo hướng mở rộng hơn

phạm vi các TCLĐ cá nhân có thể yêu cầu toàán nhân dân giải quyết ngay

mà không nhất thiết phải qua hoà giải trước tại cơ sở, trong đóđặc biệt là

tranh chấp người gíup vịêc gia đình với NSDLĐ; tranh chấp về BHXH hoặc

gĩưa NSDLĐ với cơ quan BHXH và tranh chấp ve bồi thường thiệt hại giữa

NLĐ voi DN xuất khẩu lao động. Tuy nhiên qui định này vẫn cần tiếp tục

sửa đổi để hoàn thiện hon, ví dụ cần bổ sung 1 số tranh chấp liên quan đến

quá trình học nghề ….

Rõ ràng điều này đang đặt ra những vướng mắc cần được tiếp tục

nghiên cứu tháo gỡ .

PHẦN III.

THỜIHIỆUGIẢIQUYẾTTRANHCHẤPLAOĐỘNGVÀTHỰCTIỄNV

ỀMỘTVỤTRANHCHẤPLAOĐỘNGXẢYRAỞ DN

VÀNGBẠCĐÁQUÝ ACT.

1.Thời hiệu giải quyết tranh chấp lao động(TCLĐ) .

a.Thời hiệu giải quyết TCLĐ cá nhân .

Theo điều 167, 172 BLLĐ thì thời hiệu yêu cầu giải quyết TCLĐ cá

nhân, kể từ khi mỗi bên tranh chấp cho rằng quyền và lợi ích bị vi phạm .

Các TCLĐ cá nhân phải qua Hội đồng hoà giải hay hoà giải viên lao động

hoà giải (Hoà giải cơ sở ), chỉ khi hoà giải không thành, các đương sự mới

có quyền khởi kiện ra toàán, trừ những TCLĐ cá nhân qui định sau đây;

- Một năm đối với các TCLĐ về xử lý kỷ luật lao động theo hình thức

sa thải hoặc về trừơng hợp bịđơn phương chấm dứt hợp đồng lao động;

tranh chấp về bồi thường thiệt hại, trợ cấp khi chấm dứt hợp đồng lao động;

tranh chấp giữa người giúp việc gia đình với người sử dụng lao động .

- Một năm đối với tranh chấp về bảo hiểm xã hội giữa NLĐđã nghỉ

vịêc theo chếđộ với NSDLĐ hoặc với cơ quan BHXH.

- Ba năm đối với tranh chấp về bồi thường thiệt hại giữa NLĐ với DN

xuất khẩu lao động .

- Sáu tháng đối với các tranh chấp lao động khác .

Điều 172 không nhất thiết phải qua hoà giải cơ sở trứơc khi khởi kiện

ra toàán .

Theo điều 32 pháp lệnh thủ tục giải quyết các TCLĐ thì các TCLĐ cá

nhân không nhất thiết phải qua hoà giải cơ sở hoà giải trước khi khởi kiện ra

toàán thi thời hiệu khởi kiện là 1 năm kể từ ngày phát sinh tranh chấp, còn

nhữngTCLĐ cá nhân phải qua hoà giải cơ sở hoà giải trứơc khi khởi kiện ra

toàán và những TCLĐ cá nhân không nhất thiết phải qua hoà giải cơ sở hoà

giải, nhưng đã qua hoà giải cơ sở hoà giải trứơc khi khởi kiện ra toàán thì

thời hiệu khởi kiện là 6 tháng kể từ khi hoà giải cơ sở hoà giải không thành.

Như vậy, khi giải quyết tranh chấp lao động toàán phải áp dụng thời

b.Thời hiệu giải quyết TCLĐ tập thể .

hiệu khởi kiện qui định tại điều 167 BLLĐ vàđiều 32 pháp lệnh.

Điều 32 pháp lệnh TTGQCT-CLĐ qui định; Thời hiệu khởi kiện các

TCLĐ tập thể là 3 tháng kể từ khi có quyết định của hội đồng trọng tài lao

động cấp tỉnh, những bộ luật lao động lại không qui định thời hiệu giải

quyết TCLĐ tập thể, nên thời hạn các bên TCLĐ tập thể yêu cầu Hội đồng

hoà giải lao động cơ sở hay hoà giải viên lao động giải quyết không được

xác định. Khắc phục tình trạng này, Luật sửa đổi bổ sung một sốđiều của

BLLĐđã qui định;” Thời hiệu yêu cầu giải quyết TCLĐ tập thể là một năm

kể từ khi các bên tranh chấp cho rằng quyền và lợi ích của mình bị vi phạm.

“Song TCLĐ tập thể bao giờ cũng phải qua hoà giải cơ sở hoà giải trứơc;

nếu hoà giải không thành mà các bên có tranh chấp thì phải thông qua Hội

đồng trọng tài lao động cấp tỉnh giải quyết và chỉ sau khi có phán quyết của

trọng tài lao động cấp tỉnh, nếu các bên không đồng ý với phán quyết đó

mới được khởi kiện ra toàán; tuy nhiên khoảng thời gian sau khi hoà giải cơ

sở hoà giải đến khi các bên tranh chấp yêu cầu trọng tài lao động giải quyết

thì vẫn chưa được qui định. Như vậy, về TCLĐ tập thể vấn đề thời hiệu,

Luật vẫn qui định chưa đầy đủ và chặt chẽ. Vì vậy, cần phải tiếp tục sửa đổi

và bổ sung nhằm hoàn thiện hơn bộ máy pháp luật nhà nứơc.

2. Ví dụ về tranh chấp lao động ở DN vàng bạc đá qúy ACT.

Tại công ty vàng bạc đá qúi ACT bà HồThị H được tuyển dụng vào

ngân hàng tỉnh AG từ ngày 1-1-1982. Ngày 28-9-1996 bà H và công ty vàng

bạc đá qúy ACT kí hợp đồng lao động không xác định thời hạn với chức

danh “Trưởng phòng khai thác kinh doanh , “ hệ số lương 2,98, phu cấp

chức vụ 0,3. Ngày 14-7-1998 Công ty sát nhập phòng khai thác kinh doanh

do bà H làm trưởng phòng với phòng nghiệp vụ cầm đồ do ông Trần Anh N

làm trưởng phòng thành phòng kinh doanh. Căn cứ vào sự tín nhiệm của tập

thể ngày 1-9-1998 Công ty bổ nhiệm ông N làm trưởng phòng kinh doanh.

Từđó bà H trở thành nhân viên dưới sựđiều hành của ông N, và không được

hưởng phụ cấp chức vụ 0,3. Ngày 4-10-2000 Gíam đốc Công ty ra quyết

định số 255 miễn nhiệm chức vụ Trưởng phòng khai thác kinh doanh của bà

H.

Ngày 1-12-2000, Công ty ra quyết định số 304 xử lý kỷ luật bà H với

hình thức chuyển làm công việc khác có mức lượng thấp hơn trong thời hạn

6 tháng kể từ ngày 1-12-2000 với lý do vi phạm về tổ chức và có hành vi

chiếm giữ trái phép tài sản của Công ty, bụôc bà H nộp trảCông ty

12.311.000 dong. Không đồng ý với 2 quyết định trên bà H yêu cầu Hội

đồng hoà giải lao động giải quyết. Ngày 28-2-2001 Hội đồng hoà giải lao

động hoà giải không thành. Ngày 19-3-2001 ba H khởi kiện đến Toàán yêu

cầu công ty phải hủy bỏ Quyết định 255 ngày 4-10-2000 và quyết định 304

ngày 1-12-2000, phuc hồi chức danh Trưởng phòng và các quyền lợi vật

chất khác như tiền phụ cấp, Tiền điện thoại, ..không đồng ý nộp lại

12.311.000 đồng.

Trong vụán trên tôi không đi sâu vào phần giải quyết nội dung vụán,

chỉ phân tích về thời hiệu khởi kiện. Căn cứđiều 32 Pháp lệnh thì thời hiệu

khởi kiện các loại việc trên là 6 tháng kể từ ngày Hội đồng hoà giải lao động

hoà giải không thành. Trong vụán trên ngày 28-2-2001 Hội đồng hoà giải

lao động hoà giải không thành. Ngày 19-3-2001 bà H đã khởi kiện đến

Toàán. Nếu chỉ căn cứ vào Điều 32 Pháp lệnh thì bà H khởi kiện trong thời

hạn luật định. Song căn cứ vào điều 167 Bộ luật lao động thi đối với các loại

việc trên thời hiệu yêu cầu giải quyết TCLĐ là 6 tháng kể từ ngày các bên

cho rằng quyền và lợi ích của mình bị vi phạm.

a. Về yêu cầu đòi huỷ Quyết định 255 ngày 4-10-2000 thực chất là bà

H yêu cầu khôi phục chức trưởng phòng cùng các chếđộ kèm theo cua bà H.

Việc bà H mất chức vụ trưởng phòng không phải xảy ra từ khi có Quyết

định 255 mà nó xảy ra từ ngày 1-9-1998 vì từ ngày đó bà H đã phải làm

nhân viên dứơi sựđiều hành của trưởng phòng N. Đồng thời, bà H cũng

không được hửơng các chếđộ trưởng phòng từ ngày 1-9-1998. Như vậy

ngay từ ngày 1-9-1998, bà H đã biết được quyền và lợi ích của mình bị vi

phạm, nên thời hiệu yêu cầu giải quyết TCLĐ phải tính từ ngày 1-9-1998

chứ không phải tính từ ngày 4-10-2000. Công ty ra quyết định 255 chỉ là thủ

tục hành chính mà pháp luật lao động không đòi hỏi phải ra quýêt định đó.

Chức trưởng phòng là do bà H kí hợp đồng lao động với công ty. Công ty

không để bà H làm trưởng phòng tức công ty đã thay đổi nội dung hợp đồng

lao động. Nếu bà H không đồng ý, bà H phải yêu cầu các cơ quan giải quyết

TCLĐ trong thời hạn 5 tháng. Vi vậy, khi bà H yêu cầu Hội đồng hoà giải

lao động giải quyết thìđã quá 6 tháng. Theo hứơng dẫn của TANDTC thì các

trừơng hợp này đã hết thời hiệu khởi kiện.

b. Đối với yêu cầu đòi huỷ Quyết định kỷ luật số 304 ngày 1-12-2000

của bà H thì còn thời hiệu. Vì vậy vụán này Toàán phải đình chỉ giải quyết

yêu cầu hủy Quyết định 255 khôi phục chức vụ trưởng phòng cua bà H. Rat

tiec tại bản án sơ thẩm lao động số 01 ngày 5-9-2001 Toàán thành phố LX

và tại bản án phúc thẩm lao động số 2 ngày 18-12-2001 Toàán tỉnh AG đều

chấp nhận cả 2 yêu cầu của bà H về việc hủy Quyết định 255 và quyết định

304 buộc công ty khôi phục chức trưởng phòng và các chếđộ cho bà H. Bản

án đóđã bị Phó chánh án TANDTC kháng nghị phán quyết định hủy Quyết

định 255 khôi phục chức trưởng phòng cho bà H.

PHẦNIV

ÝNGHĨACỦAVIỆCGIẢIQUYẾTTRANHCHẤPLAOĐỘNG

- Giải quyết tranh chấp lao động nhằm duy trì và củng cố , đảm bảo

sự hoà bình vàổn định trong quan hệ lao động .

- Giải quyết tranh chấp lao động giúp bảo vệ quyền và lợi ích hợp

pháp của các bên trong quan hệ lao động , qua đó tạo điều kiện thuận lợi

cho người lao động làm việc nhiều hơn , kết quả lao động tốt hơn , động

viên khuyến khích sản xuất phát triển .

- Giải quyết tranh chấp lao động còn góp phần hoàn thiện pháp luật ,

nhằm đảm bảo các quy phạm pháp luật được áp dụng một cách thống nhất

vàđúng đắn .

KẾTLUẬN

Bằng gần 30 điều luật tại chương XIV Bộ luật lào động (BLLĐ) cùng

với pháp lệnh thủ tục giải quyết các tranh chấp lào động (TCLĐ) và một số

nghịđịnh của Chính phủ về Hội đồng hòa gỉai lao động cơ sở và hội đồng

trọng tài lao động cấp tỉnh, TCLĐ và cơ chế, nguyên tắc giải quyết

TCLĐđãđược qui định khá cụ thể vàđược điều chỉnh tương đối toàn diện.

Qua 6-7 năm thực hiện, các quy định đã dần đi vào cuộc sống, phần lớn

đãđược thực tiễn kiểm nghiệm chấp nhận và ngày càng phát huy tác dụng.

Song bên cạnh đó cũng không tránh khỏi một số qui định đã bộc lộ những

hạn chế nhất định, làm ảnh hưởng không nhỏđến hiệu quả giải quyết tranh

chấp. Để cóđược cách giải quyết tranh chấp lao động phù hợp với tình hình

hiện nay đòi hỏi pháp luật của chúng ta phải được từng bước hoàn thiện và

hướng hoàn thiện cũng xuất phát từ nhu cầu thực tiễn cuộc sống.

TÀILIỆUTHAMKHẢO

1. Giao trình Luật Lao Động (Trường Đại học Quốc Gia Hà Nội)

2. Giáo trình Luật kinh tế (Trường Đại học Quản Lí và Kinh Doanh

Hà Nội)

3. Giáo trình Luật Lao Động(Trường Đại học Luật Hà Nội)

4. Tạp Chí Luật học số 1/2003

5. Tạp Chí Luật học số 4/2003

6. Tạp Chí Lao Động và Công Đoàn số 291/2003

7. Toàán Nhan Dan 2003

MỤCLỤC

Lời nói đầu .................................................................................................... 1

Phần I. Những vấn đề chung về tranh chấp lao động ............................... 2

1. Khái niệm tranh chấp lao động (TCLĐ) ..................................................... 2

2. Đặc điểm của tranh chấp lao động .............................................................. 3

3. Phân loại tranh chấp lao động ..................................................................... 5

4. Trình tự giải quyết tranh chấp lao động ...................................................... 7

Phần II. Giải quyết tranh chấp lao động .................................................. 10

1. Nguyên tắc giải quyết tranh chấp lao động .............................................. 10

2. Các cơ quan tổ chức có thẩm quyền giải quyết tranh chấp lao động ........ 11

Phần III. Thời hiệu giải quyết tranh chấp lao động và thực tiễn về một

vụ tranh chấp lao động xảy ra ở doanh nghiệp vàng bạc đá quý ACT ... 16

1. Thời hiệu giải quyết tranh chấp lao động .....................................................

2. Ví dụ về tranh chấp lao động ở doanh nghiệp vàng bạc đá quý ACT ........ 17

Phần IV. Ý nghĩa của việc giải quyết tranh chấp lao động ..................... 20

Kết luận

Tài liệu tham khảo