Mi quan hgiữa văn học và
điện nh
1. Ngôn ngthế gii hình tượng của văn học điện nh
Đặc trưng của mi loại hình nghthut, xét cho cùng, đều bt ngun t phương
tin nghthut, hay ngôn ngnghthut mà nó s hu. Hi họa “nói” bằng đường
nét , bng màu sc; âm nhạc “nói” bng âm thanh và tiết tu; vũ đạo “nói” bng
hình thể và động tác tay, chân; sân khu “nói” bng din xut và li thoại của din
viên... Các phương tiện để “nói” này khác bit nhau về tính cht, công năng và
hiu quả. Trong “đại gia đình” nghthut, không có mt loại hình nào hoàn toàn
sử dụng cùng ngôn ngvi loại hình khác, cho nên mi “mi ngưi mt vẻhoàn
toàn khác nhau. Văn học và điện nh ng không nm ngoài quy lut này.
Văn học “nói” bng ngôn ng (langue), hay ngôn t(parole), theo đúng nghĩa
chính xác của từ này. Ngôn ngữ văn học được biu hin dưới hai dạng: li nói (đối
với văn học truyn khu), và chviết (đối với văn học viết). Đây là mt dạng cht
liệu đặc bit, bi nó mang tính phi vt cht, trong khi cht liu của mọi nghthut
khác, dù là đường nét, âm thanh, màu sc, tiết tu, hay din xut... ng đều là
nhng dạng thc của vt cht, có thể nghe được, nhìn được bng tai và mt- hai b
phn để cảm nhn, thưởng thc nghthuật trên cơ thể con người. Cht liu của
văn chương thì khác, dù có thnghe đọc, nghe k, hay nhìn vào trang sách, song
đó không phải là nghe, nhìn trc tiếp. Không có mt hình nh, âm thanh trc quan
nào hin lên cả, mà chỉ nhng kí hiu, để ri từ kí hiệu đó, nhng nh nh, âm
thanh mới được liên h, tưởng tượng, hin dần lên trong đầu người đọc, người
nghe. Hình tượng văn học, do đó là hình tượng gián tiếp. Bi vì thế, văn học là
loại hình nghthut phụ thuc nhiu nht vào đối tượng thưởng thc. Bc tranh
“Mùa thu vàng” hin lên ging nhau trong mt mọi người xem, lần đầu ng
ging ln thhai, thba... Bản So-nat Ánh trăng chỉ là mt qua nhiu ln nghe,
vi nhiu ngưi khác nhau (tt nhiên, từ cái “thy”, i “nghe” đó, sự km phá v
ni dung, ý nghĩa có thnhng mức độ khác nhau). Nhưng khi đọc “Chtết”
của Đn Văn C, khung cảnh làng quê ngày tết sẽ hiện lên trong đầu độc giả mi
người mt khác. Hoc cùng là mt kc đàn trong “Tì bà hành” của Bạch Cư Dị,
nhưng mỗi độc giả sẽ tưởng tượng ra một giai điệu khác nhau, thm chí cùng mt
người, nhưng mỗi lần đọc lại là mt ln tưởng tượng khác.
Về phương diện này, kết quả tiếp nhận trong văn học hoàn toàn khác vi trong
điện nh.
Đọc “Cun theo chiu gcủa Margaret Mitchell (mà chưa hxem phim chuyn
thtừ tác phm này), mi người đọc sẽ nh dung ra mt nàng Scarlet O’Hara
khác, tt nhiên là xinh đẹp, nhưng đẹp như thế nào thì không cụ th. Nhưng một
khi đã xem phim “Cun theo chiu gió” của đạo din Victor Fleming, trong đầu
mọi người xem đều có cùng mt hình nh của nàng Scarlet- đó là cô gái tóc dài
qua bvai mt chút, vi vđẹp kiêu k, và khuôn mt nàng được cđịnh qua
khuôn mt ndin viên Vivien Leigh.
Cht liu của văn chương là phi vt th, trong khi của điện nh là vt th.
Tác phẩm văn chương là li kvmt thế gii hin hình, còn điện nh là cả thế
gii hin hình cụ thđể kmt câu chuyện, như nhà phê bình điện nh Pháp Jean
Miltry đã nói: “Tiu thuyết là mt truyn k t cu to mình trong thế gii, còn
đin nh mt thế gii t cu to mình thành chuyn k.”
Thế nào là “truyn kt cu to mình trong thế gii”, chúng ta đã tìm hiu qua
đặc trưng ngôn ng(phi vt thtcu tạo mình thành vt thtrong tưởng tượng
của người thưởng thc). Vy còn thế o là “thế gii t cu to mình thành
chuyn k?
Mt bphim là cả mt thế gii vt th, bi vì cht liệu điện nh là tt cả nhng gì
máy quay phim có ththâu lại- cả hình nh ln âm thanh. Nói rõ hơn, ngôn ng
điện nh bao hàm phương pháp xử lý hình nh và âm thanh thông qua các thủ
pháp điện nh. Da trên hai loại ký hiệu cơ bản nht của xã hi loài người: hình
nh và âm thanh, ngôn ngữ điện ảnh đã có mt sc mạnh ghê gm, bi tt cả mọi
vt thđều có thquy vdưới dạng hình nh hoc âm thanh. Nói cách khác, mọi
loại vt thể đều có thlà cht liu của điện nh. “Bt kỳ một đơn vị văn bản nào:
thị giác, tượng hình, đồ thị hoc âm thanh... đều có thtrở thành yếu tố của ngôn
ngữ điện nh, min là nó hiến cho ta mt khả năng lựa chọn, và min là do đó, nó
xut hiện trong văn bản không phải mt cách tnhiên, mà kết hp vi mt ý
nghĩa.”[1]
Có thnói đơn giản thế này: ngôn ng của văn học không là vt thể nào cả, còn
ngôn ngữ điện nh[2] là du cng của mọi loại vt thể có thnghe, có ththy,
cho nên nó là cả “thế gii”. Người làm phim dùng tt cả cái “thế gii vt thy
để kmt câu chuyn, truyền đi một thông điệp..., trong khi c gia văn chương
làm chuyện đó chỉ bng ngôn t.
ng chính t đặc trưng là “vt thmc tối đa này, nn ngữ điện nh tr
thành thngôn ngthhin hình tượng mạnh mẽ nht, thun tin và hp dn
người thưởng thc nht. Tiếp nhn “truyn k” từ điện nh thoải mái đỡ tn sc
hơn tiếp nhận văn chương, bi với văn chương, người đọc còn phải tưởng tưng,
còn với điện nh thì tt cả đã bày ra trước mt. Mc đích của giả tưởng, theo
Joseph Conrad, là đ “thy, nhìn”, vy rõ ràng điện ảnh đi đến cái đích này dễ hơn
văn chương rất nhiu ln.
2. Nhng cách thc thhin ni tâm và tưởng của văn học điện nh
Không phải vi thế mạnh của “tính hình tượng trc tiếp” trên đây, điện ảnh đã
hoàn toàn “thắng” văn chương trên mọi khía cạnh. Vn có mt góc khut mà điện
nh không thbiu hin trc tiếp bằng văn chương, đó là ni tâm nhân vt và
tưởng, triết lý.
Vì ngôn từ có thế mạnh là “cái vỏ trc tiếp của tư duy” nên văn chương mang tính
“tư duy trc tiếp” [3], nga là có thbc ltrc tiếp tư tưởng, tình cảm của nhà
văn hoc cuả nhân vt. Trong khi điện nh rt khó làm được như vậy. Như Đoàn
Minh Phượng- đạo din phim “Hạt mưa rơi bao lâu” và cũng là tác giả tiu thuyết
“Và khi tro bụi” đã nói “Làm phim hay viết sách cũng đ k mt câu chuyn. Tuy
vy, tôi cho rằng văn chương và đin nh là hai th khác xa nhau. Văn riêng tư
hơn và sâu hơn, chữ viếtth dẫn người đọc đến bt c tng nào ca ni tâm...”
Để khc họa hình tượng nhân vt, din tả tính cách và ni tâm, tác giả của tác
phẩm văn học thoải mái sử dụng hai hình thc: hoc là dùng li k, tả của người
kchuyn (ngưi kể hàm n, hay người ktrc tiếp), hoc là dùng li của nhân
vt (đối thoại hoặc độc thoại ni tâm).
Có thể đưa trực tiếp “li” dưới hai hình thc này vào phim được không?
Đưa lời của người kchuyn thì chc chn là không n. Tt cả “li kđều phải
được cụ tha bng khung cảnh, âm thanh, din xut. Trong phim, thỉnh thoảng
người ta mi cho chạy vài dòng chữ chỉ bi cảnh (như ở đầu phim “Mê thảo- thi
vang bóng”), hoc cho mt “người kể” đọc vài đoạn ts(phim “Áo lụa Hà
Đông”), nhưng hiếm thy trường hp nào trong phim có chạy hng dòng ch,
hoc có đc những câu văn chỉ tâm trạng kiểu như “cô ấy thy đơn”, “anh y
thy mình trng rng” cả!
n độc thoại ni tâm?
Nếu như trong văn học, tác giả có thcho nhân vật độc thoại ni tâm hàng trang
dài để thhin tư tưởng, tình cảm, thì trong điện nh, đó lại là điều ti kỵ. Ni tâm
nhân vt có thể được din tả qua nét mt, cử chỉ của din viên, hay các yếu tố kỹ
thut khác, nhưng nếu để nhân vt nói mt mình, cho dù chỉ mt chút, cũng đã
là gượng ép.