Nam quyền có nguồn gốc từ
Nam Thiếu Lâm
Nam Quyền là khái niệm chỉ các phái võ miền Nam Trung Hoa và có nguồn gốc từ
Nam Thiếu Lâm Toàn Châu và tỉnh Pc Kiến là chủ yếu.
Thật ra các võ phái miền nam Trung Hoa đều có t ngữ Thiếu Lâm phía trước
như: Thiếu Lâm Hồng gia, Thiếu Lâm Cu gia, Thiếu Lâm Bạch Mi, Thiếu Lâm Vịnh
Xuân, Thiếu Lâm Bạch Hạc phái, … đều là của Nam Thiếu Lâm chứ không phải
của Thiếu Lâm Tung Sơn Hà Nam, được gọi bằng tên chung là Nam quyền. Người Việt
tch dùng tnam phái, bắc phái như Thiếu Lâm Nam phái hay Thiếu Lâm Bắc phái ch
Trung Hoa chỉ dùng hai t Nam quyn thay cho Thiếu Lâm Nam phái và Trường quyn
thay cho Thiếu Lâm Bắc phái là đầy đủ ý nghĩa. Nội hàm khái niệm không có gì thay đổi.
Lịch sử
Lịch sử Nam Quyền có từ lâu đời, bắt đầu có thể truy gốc đến hơn 400 năm trước lưu
hành ở bờ Nam ng Trường Giang (còn gi là Dương Tử Giang) ở các tnh Phúc
Kiến, Quảng Đông, Giang Tây, Chiết Giang, Hà Nam, Hà Bắc, Tứ Xuyên, Giang Tô, với
ni dung cùng phong phú. Nam quyền ở các nơi tự thành th hệ (chỉ sự vật, ý thức …
liên hệ với nhau kết cấu thành một chỉnh thể) có phong cách riêng.
Vào cui thi nhà Tng, nhà Minh các sư tăng chùa Thiếu Lâm đi vân du khắp miền non
nước nam bắc Trung Hoa đã truyền bá quyền pháp Thiếu Lâm ra bên ngoài làm cho các
môn quyền thuật có dịp bi b và sáng to ra nhiều kỹ thuật phong phú, đa dạng sau này.
Trong Nam Quyn Quảng Đông trừ Hng Gia Quyền, Lưu Gia Quyn, Gia Quyền,
Mạc Gia quyền, Thái Gia Quyền, gọi là “Ngũ Đại lưu phái” ra, còn Thái Lý Phật quyền
(hai hình hổ, hạc), Hiệp Gia quyn, Vnh Xuân Quyền, Bạch Mi Quyền, Nam Cực
Quyền, Nho Quyền, Phật Gia, Điêu Gia Giáo, Châu Gia Giáo, Nhạc Gia Giáo, Chung Gia
Giáo, Côn Luân Quyền v.v…
Nam quyền Quảng Tây Chu Gia quyền, Đồ Long Quyền, Hồng Môn Phục Hổ Quyền
Tiểu Sách Đả v.v…
Nam quyền Phúc Kiến có Ngũ Hình quyn (Long, Xà, H, Báo, Hạc Quyn của Nam
Thiếu Lâm), Ngũ Tổ quyền, La Hán Quyền, Mai Hoa trang, Liên Thành Quyền, Địa
Thuật Quyền Pháp, Vĩnh Gia Pháp, Ngư Pháp, Kê Pháp(gà), Sư Quyền (sư tử), Hầu
Quyền(khỉ), Ngũ Mai Quyền, Nho Pháp, Phỏng Điểu Tích (theo vết chim) v.v… rất
nhiều lưu phái.
Nam quyền Hồ NamVu Gia Quyền, Hồng Gia Quyền, Tiết Gia và Nhạc Gia giáo là
bốn lưu phái lớn.
Nam quyền Hồ Bắc có Hồng Môn Quyền, Khổng Môn Quyn, Nhạc Môn Quyền, Ngư
Môn Quyền, Tôn Môn Quyền là năm phái lớn. Còn Vu Gia Nghệ, Nạin, Phậtn,
Ẩn Tiên Môn, Thy Hử Môn, Nghiên Môn, Hùng Môn, Chưng Môn v.v…
Nam quyền Tứ xuyên Tang, Nhạc, Triệu, Đỗ, Hồng, Hóa, Tự, Hội là tám lưu phái lớn.
Nam quyền Giang Tây 36 lTống Giang Quyền, Hổ Quyền v.v…
Nam quyền Chiết Giang có Hắc Hổ quyn, Kim Cương quyền đến Ôn châu Nam Quyền,
Đài Châu Nam Quyền.
Nam Quyền Giang Tô cũng có sự khác biệt giữa quyền của Tô Châu, Vô Tích, Thượng
Hải, Thường Châu v.v…
Về khí giới chủ yếu có Namn, đạin (gậy), t môn đao, mai hoa đao, hợp t đao (còn
gọi là song hợp đao), song đao, tam tiêm soa (soa ba mũi), đơn giản (giản mt chiếc),
song giản, Liễu công quải (gậy ông Liễu), phủ(búa) , mâu, bừa(bà), thuẫn (mộc); lại còn
biển đán (đòn gánh), xừ đầu (cuốc), ghế ngồi … là các dạng binh k. Các k giới này
luyện tập đều theo đặc điểm của Nam quyền, đồng thi cũng ging như quyn thuật của
Nam quyền tức là có th đơn luyện (1 người), cũng có thể đối luyn, như mâu đối thuấn,
mâu đối đại cán (gậy tầy) hoặc đòn gánh đối ghế ngồi v.v
Đặc trưng kỹ pháp
Đặc điểm chung của Nam quyn là lấy hình làm quyền, lấy ý làm thần, lấy khí thúc lực,
lấy quan phát khí (quan đây là đóng, tức bế khí); động tác giản dị rõ ràng, thế quyền kịch
liệt, giàu vẻ đẹp dương cương; chi trên động tác tương đối nhiều, về thân pháp thì yêu
cầu trầm vai hạ khuỷu, co ngực mlưng; về thủ pháp chuyên đánh ngắn, cầm nã , đim
đánh các huyệt vị; về bộ pháp phần ln yêu cầu ly tứ bình đại mã (trung bình tấn) làm
cơ sở, trọng tâm hạ tương đối thấp, bộ pháp ổn định vững vàng, đồng thời yêu cầu hạ
chân xuống đất như mọc rễ.
Trđịa thuật (lăn đất) và hầu quyền v.v.. là các loại quyền cá biệt ra, Nam quyền chính
ng ít có động tác nhy vọt, lăn, lật, coi trọng xúc kình (co kình lực lại), yêu cầu khí
trầm đan điền, khi phát lực thì kình từ gót chân (túc căn) nổi lên chân, hông, tay quán
xuyến lin mt (một hơi thở khi phát kình khí) phần lớn có tiếng hét để trợ lực (quyền
quyết Thiếu Lâm nói: “Th tất khai thanh”) khí thế ào t.
Trđặc điểm chung, các chi phái Nam quyn lại có đặc đim riêng. Như trong Tượng
hình quyền, Long Hình Quyn lấy luyện “thần” làm cnh, đặc biệt coi trọng khí trầm
đan điền. Hai cánh tay trầm tĩnh (xi lng), “ngũ tâm tương ấn”(tức hai huyệt Lao cung
ở tay, hai huyệt Dũng tuyn ở bàn chân và huyệt Bách Hội ở đỉnh đầu phải thông nhau).
Khi vận động lên t hung mãnh mau lẹ, toàn thân hoạt bát như thần long lướt trên không,
co rút nhưng có lực thế mà không nghiêng vẹo. Khing nời giao đấu thì thường dùng
“long tro” (vuốt rồng) ngoài như sắt trong như bông, trong lng ngoài chặt, trong mềm
ngoài cứng.
HHình Quyền thì lấy luyện cốt (xương) là chính, khi luyện thì phi đẩy k toàn thân,
tay cứng hông thực, sức ở nách phải đầy đủ, mt k liến đủ, từ đầu chí cuối không i
lng. Thường dùng Hchưởng, ly đốt phát kình, lấy khí tạo lực, thế quyền hung mãnh.
Cổ, họng dùng kình cực k mãnh liệt, phải nghiến răng mím miệng, mắt hổ hau háu thể
hiện cho đầy đủ cái oai của h mạnh.
Hạc Hình Quyền lấy luyn tinh làm chủ. Lấy theo hình Hạc thì tinh đủ, thần tĩnh. Khi
luyện phải ngưng tinh đúc thần, lỏng tay động khí, tâm thủ tương ứng. Dùng kê quyn thì
phải coi trọng kỹ xảo, gii dùng ch trảo, đỉnh (ngón tay thẳng, ngón tay quắp như vuốt,
húc), luyện sao cho hai tay bật vung như “gà vỗ cánhlại hay dùng trửu pháp (đánh khủy
tay) như “kê dực” (cánh gà).
Ngoài các thứ kể trênn Báo Hình Quyền, Xà Hình Quyền, Sư (tử) Hình Quyền, v.v…,
đều có đặc điểm riêng cả.
Ngoài Tượng hình quyền, trong các lưu phái Nam Quyền khác cũng đều có đặc điểm
phong cách độc đáo riêng. như Nhc Gia Quyền lấy công làm chủ lấy thủ làm phục, công
thủ đủ đầy (kiêm b) cương kình lực, chú trọng thực dụng, tay trái là hư tay phải là
thực, b pháp linh hoạt. Điêu Gia Quyền lấy thủ là chính lyng là thứ, trong nhu có
cương, trong cương có nhu, mượn sức (lc) của đối phương mà thừa kế phản kích.
Địa Đường Quyền Pháp tt phải động tác chi trên linh hoạt đa biến, lại phi tương
đối nhiều động tác ngã xung đất, ngáng cắt, vặn xoắn, đá gạt v.v… hình thành một
phong cách “chẳng Nam chẳng Bắc”.
Mai Hoa Quyền và Hầu Hình Quyền li không nói đến “như mọc rễ vào đất, thế gii
loi quyn Nam phái dựng riêng một ngọn cờ. Các môn phái Hồng, Lưu, Lý, Mạc, Thái,
Hip gia, Thái Lý Phật Gia v.v.. ngoài các đặc điểm của Nam Quyền vốn ra lại có chỗ
độc đáo riêng.
Nam quyền hiện đại
Năm 1949, sau khi thống nhất Trung Hoa đại lục, nhà nước Trung Quốc đã thống nhất
các phái võ khắp min Nam Bắc Trung Hoa và đặt tt cả dưới sự chỉ đạo của Viện Võ
Thuật Trung Ương Bắc Kinh, Nam Quyn được nghiên cứu lại và hthống thành các bài
Nam Quyền 1-2-3 (nhất lộ, nhị lộ, tam lộ) để tch hợp với các chương trình thi đấu thể
thao quốc gia và các nước trong khu vc châu Á.