TƯ LIÊU FOLKLORE
61
NGHỀ LäM GiầY DÓ
TRUYÊN THÔNG
Ở VIỆT N8M
TRIỆU THÊ HÙNG?
1. Lịch sử ra đời và phát triển
Theo một thư tịch cổ nước ngoài, nước
ta đã có nghề làm giấy từ thế ki LHII (sau
GN). Người Giao Chỉ thời đó đã biết dùng
gỏ mật hương để chế tác thành một loại
giấy bàn tốt. gọi là giấy mật hương. Một tài
liệu khác nói răng: Khoảng năm 384 các lái
buôn l¿a Mã đã mua được hàng van tở giây
mặt hương của ta. Theo sách "Thập dị kí”
của Vương Gia người Trung Quốc (thế ki
IV) cùng cho biết: người Giao Chỉ đã biết
làm giấy từ rong rêu lấy từ lòng biển, gọi
tên là giấy Trắc Lí...
Khác với phương Tây công nghệ thương
phát triên ở các đô thị sầm uất thì ở Việt
Nam các nghề phát triên ở các làng, sự
hình thành của nghề gắn liền với sự tích về
ông tổ nghề và tên tuổi của một làng.
Theo thư tịch cô, vào thế kỉ XIII ở phía
Tây kinh đô Thăng Long, có một xóm thợ
chuyên nghề làm giấy; theo thân phả còn
được lưu giữ tại các đình ở vùng nàyv cho
biết. từ thời luý. làng Dịch Vọng đã có nhiều
si đình chuyên nghề làm giấy. Thời đó
dòng Tô Lich còn chảy qua làng, có chiếc cầu
gỗ bắc qua sông, dân làng đặt tên cầu là
Cầu Giấy - cầu của làng có nghề làm giấy,
dê ghi nhớ nghề nghiệp của quê hương.
Ngày nay cầu cũ không còn. nhưng dấu tích
của nghề làm giấy ở cế đô Thăng Long vân
gắn mãi với địa danh này. Đến thế kỉ XV, do
nhu cầu của xã hội, việc học hành, giao dịch
I '}
Phịc si, Trường Cao dàng Sư phạm Xhaạc
hoạ Trung ương,
thi cử phát triển nên đã xuất hiện thêm làng
nghề làm giấy ở phường Yên Thái, cũng
nằm trong vùng Bưởi ven Hồ Tây, tiếng
chày giã dó đã đi vào tâm thức của người
Kñnh kì, cho tới nay vẫn còn đọng lại trong
kí ức của nhiều người:
Mit mù bhói toa ngàn sương
Nhịp chày Yên Thúi mặt gương Tây Hồ.
Vậy ai là người đã khởi xướng truyền
dạy cho dân nghề làm giấy? Cổ sử Trung
Hoa nói rõ ông tô của nghề làm giấy là Thái
Luân - một viên quan nhỏ sống vào thời
Đông Hán (năm 105 sau CN). Nhưng thực
ra, giây đã ra đơi trước Thái Luân chừng
hai thế kỉ, Thái Luân có lẽ chỉ là người đã
đúc kết kinh nghiệm trong dân gian để làm
ra giấy một cách quy mô, bài ban hơn. Ỏ
làng An Cốc, xã Hồng Minh, huyện Phú
Xuyên - Hà Tây. một trong những làng có
nghề làm giấy lâu đời hiện vân giữ dược
một quyên sách viết bằng chữ Nôm nói về
cụ tô nghề, có đoạn như sau:
Mừng công nghĩa hiệp hheéo tay
Khuôn phép ngày rày học được Thơi
Luán
Chữ răng nghệ tỉnh thân uinh
Nhờ ơn ngày trước Thúi Luân học cùng.
Ngoài cụ tô nghề giấy Thái Luân mà
làng tôn thơ, dân làng nơi đây còn kể lại:
Có cụ tô nghề giấy người Việt (không rõ họ
tên) người làng An Cốc đã học nghề từ
Trung Quốc đem về truyền dạy cho ba làng:
An Cốc, Yên Thái, Yên Hòa.
Người vùng Bưởi thì kể rằng, không rô
cụ từ đâu tới, chỉ biết đầu tiên cụ đến làng
Yên Quyết Thượng (tức Yên Hòa) dạy cho
đân cách làm giấy, nên gọi là làng Giây,
nhưng vì không hài lòng với cách cư xử ở
đây, nên cụ chỉ dạy cho dân làng này làm
ra loại giấy thô. Cụ bỏ sang làng Hà Khẩu
dạy cho dân biết cách làm giấy quỳ vừa
móng lại vừa dai. Đến làng Yên Thái. cụ
đạav dân ba xóm: Đông, Thọ. Đoài cách làm
giấy lệnh, cuối cùng sang Nghĩa Đô cụ dạy
cho gia dình họ ¿ai cách làm giấy sắc, loại
62
giấy này phải “nghè”, tức là dùng vồ gỗ nện
vào những tờ giấy đặt trên mặt tảng đá,
làm cho giấy thêm nhăn và dai, bền. Vì thế,
Nghĩa Đô còn có tên gọi là làng Nghè.
Hàng năm dân làng An Cốc làm lễ tế
cụ tổ nghề Thái Luân và cụ tổ nghề người
Việt vào ngày mồng 9 và mồng 10 tháng
Giêng, để nhớ ngày cụ tổ bỏ làng ra đi đến
làng Yên Thái và không bao giờ trở về nữa.
Còn dân làng vùng Yên Thái, Yên Hòa...
thì lấy ngày 16 tháng 3 âm lịch hàng năm
làm ngày giỗ tô, đó là ngày cụ tô từ biệt
làng Nghĩa Đô ra di.
Trong nước ta còn có một số nơi có nghề
làm giấy như làng Xuân Ổ còn goi là làng Ô
ở Tiên Sơn - Bắc Ninh, làng Mai Chử (làng
Mơ) thuộc huyện Đông Sơn, Thanh Hóa
làm giây ban. Làng Lộc Tụy và Đại Phú (Lệ
Thủy - Quang Bình) sản xuất giấy bằng vỏ
cây niết, làng Từ Vân - Thanh Oai - Hà
Tây làm giấy bìa bối... nhưng không đâu
nổi tiếng bằng vùng giấy Bưởi - Thăng
Long. Sách Dư địa chí viết năm 1435,
Nguyễn Trãi đã nhận xét “Đương thời
phương Yên Thái (Bươi) chuyên làm giấy.
Thợ ở dây có thể làm được giấy thị, giấy
lệnh, còn làng Nghĩa Đô chuyên làm giấy
sắc màu, ngà vàng vẽ rồng và mây gọi là
giấy long án”.
Nghề giây phát triển góp phần thúc
đây nghề in mộc bản từ thời Lý, các nhà sư
đã khắc rất nhiều ván in cho nhà chùa để
n kinh Phật. Năm 1786, đơi vua Thuận
Tông nhà Lê, chúa Trịnh Giang đã cho In
Tứ thư, Ngũ binh bằng giấy sản xuất trong
nước, không phai mua của Trung Hoa nữa.
Nghề giấy phát triển là do nhu cầu của thị
trường, xã hội, song một phần cũng do sự
quan tâm khuyến khích của các triều đại
phong kiến. Sử sách còn ghi: Sau khi Lê
Lợi đánh thắng quân xâm lược nhà Minh,
triều đình đã lập ra "Tạo Chỉ cục” ở phường
Quảng Đức đề làm các loại giấy lệnh, giấy
thì...
TRIỆU THẾ HÙNG
2. Công nghệ chế tác
Nghề làm giấy thật là vất va và nặng
nhọc. Đề làm ra tờ giấy, người thợ Yên Thái.
Hồ Khẩu phải có tay nghề thuần thục.
Nguyên liệu chính để làm giấy là vỏ cây đó
tươi, người ta phải đến tận miền ngược dọc
triển sông Thao, Vũ En để mua về.
Võ đó tươi phai ngâm nước vôi loãng
hai ngày rồi cho vào vạc nấu cách thủy liền
trong bốn ngày. Xưa kia làng Yên Thái
thường đắp lò nấu đó ngay bên bờ sông Tô
Lịch để tiện việc ngâm, dặm, đãi vỏ đó và
thuận tiện cho việc vân chuyển. Ỏ đây có
một giếng làng khá lớn, dân vừa lấy nước
để ăn lại vừa lấy nước để sản xuất. Cứ vào
địp tháng 3 âm lịch hàng năm. dân làng lại
vét giếng cho nước thêm sạch, thêm trong.
Rất tiếc giờ đây những lò nấu dó, giếng
nước xanh trong nay không còn nữa. Có lẽ
nó cũng đã bị lãng quên với nghề làm giấy
đã từng vang bóng một thơi!
Vỏ đó sau nhiều lần ngâm, nấu để cuối
cùng tạo ra một loại xơ trắng muốt. Đây
chính là chất liệu tỉnh khiết để làm ra giấy.
Đem vo dó đã được xử lí cho vào cối giã thật
mạnh, thật nhuyễn thành một thứ bột
quánh rồi thả vào tàu seo. Công việc giã dó
vất và nặng nhọc lắm, chỉ đàn ông mới đảm
đương nổi. Tàu seo giấy là một bể nước có
pha sẵn loại keo bằng nhựa cây mò. Vữa dó
tha vào đây sẽ thành một thứ nước sền sệt,
khi đem tráng trên liềm seo sẽ hình thành
nên những trang giấy. Khâu seo giấy tuy
nhẹ nhàng hơn, nhưng phải khéo léo, kiên
trì nên phụ nữ thường đảm nhiệm công
việc này. Họ đứng bên tàu seo, hai tay
dùng liểm seo múc nước bột giấy rồi gác lên
"đòn cách” bằng tre trên mắt tàu seo cho
nước rỏ xuông hết, chỉ còn bột giấy đọng lại
trên liềm. Nước khô dân, bột giấy se lại,
trang giấy hiện ra trên liềm seo.
Giấy seo xong lại phải ép, uốn cho thật
kiệt nước (giấy ướt xếp chồng lên nhau gọi
là uốn) rồi bóc uốn (còn gọi là can), cuối
cùng mới cho vào lò sấy, sấy xong giấy được
TƯ LIỆU FOLKLORE
63
Ï_FÏ.Ï5T"ỊÏýYỚẶỚNNNN..ĩ TT ——————————————ộDộDpDpnp................
bóc rơi từng tở, miết lên tường cho khô và
phẳng. Đó chính là quá trình chế biến từ vỏ
cây dó tươi đến khi thành ra tờ giấy cho
bạn cầm được trên tay. Tuy nhiên, đây mới
chỉ là cách thức làm ra giấy bản, loại giấy
dùng cho nho sĩ hoặc để in sách. Có những
loại giấy chất lượng kém hơn như giấy moi,
giây phèn, hay như làng Cót chuyên sản
xuất giấy xề làm bằng đầu thừa, đuôi thẹo
của vo đó.
Lại còn có thứ giây vừa quý, vừa đẹp
nền nổi hình rồng và mây gọi là giấy sắc
(dân gian gọi là giây phè) chỉ dành riêng
cho vua dùng. Đây là loại giấy đặc biệt,
được dân gian đánh giá vào loại thượng hảo
hang, là sản phâm của làng Nghĩa Đô. Vào
những năm 40 của thế kỉ trước, thợ giấy
vùng Bưởi đã chế tác được loại giấy đó lụa,
giấy nhung để ¡in sách và in những bức
tranh quý có giá trị lâu bến...
Nói đến nghề làm giấy, ta không thể bỏ
qua một công cụ đặc biệt lại rất quan trọng
đó là chiếc liềm seo. Có điểu lạ, người làm
giấy bao đời đều phải mua liểm seo của
làng Xuân Đỉnh, người Xuân Đỉnh thường
làm liềm seo để bán cho các làng làm giấy.
Liềm được làm băng cật nứa ngâm, chẻ nhỏ
như sợi chỉ, mỗi nan dài chừng 60 - 70
phân (chiều dài của ông nứa - không dùng
đầu mặt), nan để mộc thì bột giấy không
bám, do đó phai đem hun khói, kĩ thuật
hun công phu lắm, người ta dùng mùn cưa
trộn với phân bò để đốt, vì chất liệu này
cháy chỉ có khói chứ không bốc thành ngọn
lửa. Mỗi lò xếp chừng 6000 nan, cứ hai giờ
đồng hồ lại đảo một lần. Người ta hun liền
trong hai ngày, lúc nào thấy nan vàng đều
là được. Công đoạn tiếp nối là dệt mành
seo, tương tự như cách dệt mành mành
nhưng dụng cụ nhỏ hơn. Khung dệt đơn
gian bằng gỗ, có thanh ngang bào trơn, chia
đều khắc thành rãnh nhỏ cách nhau chừng
hai phân, sợi chỉ dùng để dệt được quấn
quanh những quả vắt giấy nhỏ, xinh xắn
như ngón tay cái, làm băng đá xanh gọt
nhắn. Trước đây chỉ dùng để dệt mành seo
ca làng Xuân Đỉnh phải đi đặt mua ở làng
khác, nhiêu khê, phiền toái lắm. Sau này
để khép kín công đoạn, người làng phai tìm
về làng Triều Khúc (nay thuộc huyện
Thanh Trì, ngoại thành Hà Nộ)) là làng có
nhiều nghề thủ công nôi tiếng để mua tơ
tăm về se lại rồi nhuộm đen. Chỉ se bằng tơ
tăm nên rất chắc, bền lại chịu được nước.
Ngày nay, với sự xuất hiện của các nhà
máy giấy hiện đại như Bãi Bằng, Trúc
Bạch... Rồi thì các loại giấy cao cấp nhập
ngoại tràn lan, nghề giấy làng Bưởi không
đủ sức cạnh tranh, người ta chỉ sản xuất
giấy đề gói hàng, làm quạt, làm hàng mã...
Tương lai của nghề giấy Bưởi thật mờ mịt,
nó kéo theo nghề làm liềm seo cũng có nguy
cơ thất truyền. Hiện ở Xuân Đỉnh chỉ còn
duy nhất bà Huệ Nga là người cuối cùng vẫn
còn giữ được nghề làm liềm seo. Con cháu bà
đều đi làm nhà nước, chẳng ai chịu giữ lấy
nghề tổ liềm seo. Vì vậy, sản phẩm làm ra
phải mang sang tận vùng Thuận Thành để
bán cho những người seo giây làm hàng mã,
in tranh ở làng Mái, Đông Hồ.
Trên đây là đôi điều về nghề làm giấy
dó truyền thống ở Việt Nam. Để góp phần
bảo tổn và tái phát triển nghề này, thiết
nghĩ nhà nước cần có chính sách thích hợp
nhằm hỗ trợ và khuyến khích đối với người
làm nghề giấy. Có như vậy mới có thể cứu
vân được một nghề quý vốn tồn tại trên đất
nước ta qua nhiều thế kỉ.
T.T1.H
TẢI LIỆU THAM KHẢO
1. Trần Tư Hoà, Trung Việt lưỡng quốc
nhân đích hưu hqo quan hệ uăn hoá giao lưu,
Nxb Bắc Kinh, 1957.
2. Phạm Đình Hổ, Vũ trung tuỳ bút, Nxb
Văn học, Hà Nội, 1972.
3. Đại Nam nhất thống chí, bàn dịch của
Viện Sư học, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội,
LÑ TL,
1. Đặng Bích Ngân, Từ điên thuật ngữ mi
thuật phô thông, Nxb Giáo dục, 2002.