Nghệ thuật Múa rối nước
Một con rồng lướt trên mặt nước. Hai con n tranh một quả
cầu lụa theo nhịp trống do một con rối đánh. Con hạc xòe hai
cánh, mổ lên cổ một con rùa đang rẽ nước mặt hồ, vừa bơi vừa lắc
lư đầu.
Múa rối nước
Cảnh tượng quanh ao làng thật náo nhiệt. Nông dân, thợ thủ
công, tiểu thương, đàn ông, đàn bà, các cụ gtrẻ em như đã hẹn
đến đây.
Nơi thường ngày rất yên tỉnh này bỗng rộn tiếng trống, tiếng
chiêng và âm điệu những nhạc cụ dân gian khác: đàn nhị, sáo trúc...
Ở bờ ao nổi lên một công trình bằng gạch lợp ngói có hình dáng như
một ngôi đền. Đây ngôi Thủy đình. Khán giả đứng vây quanh bờ ao.
Tiếng trống nổi lên mỗi lúc một rộn ràng.
Rẽ tấm mành trúc, xuất hiện một con rối bằng glớn bằng một chú
bốn tuổi, đôi mắt đầy vẻ tinh nghịch, nét mặt tươi cười, mặc chiếc áo
nẹp không tay, không khuy cài để hở cái bụng quả dưa rồi cất tiếng hát...
Hát xong, ctiến lại nh pháo treo trên một cây sào cắm giữa ao
châm lửa. Pháo nổ ran mặt nước ban đồng ca cất tiếng hát báo hiệu
sắp kéo cờ. Những cờ nổi lên tmặt nước đi tới cột cờ "phần phật"
trước gió. Tiếng trống càng thêm rộn rã.
Một con rồng lướt trên mặt nước. Hai con lân tranh một quả cầu lụa
theo nhịp trống do một con rối đánh. Con hạc xòe hai cánh, mổ lên cổ một
con rùa đang rẽ nước mặt hồ, vừa bơi vừa lắc đầu. Sau trò tứ linh của
Rồng, Lân, Rùa, Hạc, một ngư ông đi đến. Ông thả câu một lúc sau,
một chú cá cắn câu giẫy giụa.
Đó cảnh tượng một buổi biểu diễn múa rối nước, đỉnh cao tiêu
biểu nhất của nghệ thuật múa rối Việt Nam.
sao biểu diễn múa rối trên nước? sao múa rối nước nghệ
thuật sân khấu độc đáo của Việt Nam?
Hãy thử phân loại
Theo P.L Mi-nhon (Mignon) trong cuốn Bách khoa - Phổ thông, từ
Ma-ri-on-nét (Marionnette - múa rối) là một từ giảm nhẹ của (Mariole) thời
Trung cdùng đchnhững bức tượng Đức Mẹ đồng trinh nhỏ. Người ta
không thấy từ này trong các ngôn ngử khác, từ pup-pê trong tiếng Đức
puppet (búp bê) trong tiếng Anh được dùng để gọi con rối, về ngoại
hình con rối trông giống con búp bê.
Trên thế giới nhiều loại múa rối được xếp loại theo phương thức
hoạt động.
Rối tay: gồm một cái đầu bằng gỗ gọt một túi vải rộng m thân
mình, con rối hoạt động được nhờ các ngón tay bàn tay của người
điều khiển.
Rối que: gồm một que điều khiển đầu mình các que phụ điều
khiển hai tay. Điển hình là rối que Ja-va và múa rối cạn của Việt Nam.
Rối dây: con rối dây đầy đủ các bphận chủ yếu: đầu, cổ, mình,
chân tay... ghép vào nhau bởi các khớp có thể cử động được. Bộy điều
khiển gồm một bàn máycác dây dài nối xuống các bộ phận cần phải cử
động của con rối.
Rối Nhật Bản: kích thước rất lớn (0,8 t đến 1,3 mét) gồm đầy
đủ c bộ phận của thể người. ba người điều khiển đứng đằng sau
con rối. Người điều khiển chính làm cử động đầu tay phải con rối.
Người điều khiển thứ hai làm cử động tay trái con rốingười thứ ba điều
khiển các chân con rối.
Múa rối nước Việt Nam không nằm trong các thể loại nói trên.
Những người điều khiển múa rối nước ngồi ở đâu?
Cạnh bao nổi lên một ngôi nhà làm bằng tre hay gạch gọi ngôi
Thủy đình, một tấm màn tre sơn nhiều màu sắc khác nhau treo từ mái n
xuống mặt nước. Đằng sau tấm màn y, những người điều khiển đứng
ngâm mình trong nước. Qua các khe hở, họ thể thấy cảnh diễn c con
rối và khán giả . Những người hát ngồi bên cạnh người điều khiển con rối.
Đôi khi hát và nói thay cho các nhân vật rối.
Nhạc đệm
Các nhạc công ngồi bên cạnh nhà Thủy đình trống cái đóng một
vai trò quan trọng: chẳng những báo hiệu cho dân làng biết buổi biểu
diễn bắt đầu n nhấn mạnh những đoạn ngâm ngợi hoặc ca hát,
đệm cho những cảnh hùng tráng như cuộc diễu hành của quân lính hay
trò múa lân. c nhạc khí gõ khác thanh la. Tại Đoàn múa rối
trung ương, dàn nhạc tương tự như dàn nhạc của một đoàn chèo: ngoài
trống, mõ, thanh la, sáo trúc, đàn nhị, còn có tiêu, đàn tam thập lục.
Tìm lại cội nguồn
Trong cuốn sách về múa rối nước của Sanh đã cố gắng khai thác
c của những người giữ truyền trong múa rối. Ông đã đến hơn một
trăm địa phương còn giữ các di tích của múa rối nước. Ông cũng đã tra
cứu các tác liệu cổ, các bản chép tay gia phả của các cụ nghệ nhân giữ
những bí truyền múa rối.
Cùng cộng tác với các nhà sử học khảo cổ học để xác định niên
đại của các "Thủy đình", ông đã tìm đọc các bài văn bia. Trên bia Sùng
Thiện Diên Linh (Hà Nam Ninh) dựng m 1121 ca ngợi ng trạng của
vua Nhân Tông, Nguyễn ng Bật nói đến "trò máy" như sau: "Giữa
dòng nước lung linh, một con rùa vàng lớn nổi lên đội ba hòn núi, trên mặt
nước chảy lờ đờ, lộ mai, há miệng phun nước...
Một nhà hon đánh chuông biết quay người lại phía phát ra
tiếng sáo hay phủ phục cúi chào khi tiến đến gần nhà vua". ng trình
nghiên cứu của Sanh đã cho phép chúng ta khẳng định rằng múa rối
nước đã đạt tới trình độ nghệ thuật cao từ đời nhà (1010 - 1225)
được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác liên tục cho tới ngày nay.
Múa rối chỉ còn tồn tại ở Việt Nam
Tại Âấn Độ các nước Đông Nam Aá, chỉ rối tay, rối que rối
dây. Còn múa rối nước người ta chỉ gặp Việt Nam Trung Quốc. Theo
giáo J. Pim-pa-ne-au, múa rối nước đã biến mất Trung Quốc ngày
nay "chỉ còn tồn tại ở Việt Nam".