BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT TRƢỜNG ĐẠI HỌC THỦY LỢI

VŨ THỊ MINH HUỆ

NGHIÊN CỨU CHẾ ĐỘ VẬN HÀNH TÍCH NƢỚC

TRONG THỜI KỲ MÙA LŨ CHO HỆ THỐNG HỒ CHỨA BẬC THANG HOÀ BÌNH VÀ SƠN LA

TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ KỸ THUẬT

Chuyên ngành: Phát triển nguồn nước

Mã số: 62 44 92 01

HÀ NỘI, NĂM 2017

Công trình được hoàn thành tại Trƣờng Đại học Thủy lợi

Người hướng dẫn khoa học 1: PGS.TS Phạm Thị Hƣơng Lan

Người hướng dẫn khoa học 2: GS.TS Hà Văn Khối

Phản biện 01: PGS.TS Nguyễn Tiền Giang

Phản biện 02: PGS.TS Dƣơng Văn Tiển

Phản biện 03: PGS.TS Vũ Minh Cát

Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án tại

…………………………………………………………………………….

Vào lúc …. giờ …ngày … tháng … năm 2017.

Có thể tìm hiểu luận án tại các thư viện:

- Thư viện Quốc gia - Thư viện Trường Đại học Thủy lợi

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Trên thượng nguồn sông Đà hiện nay có nhiều công trình hồ chứa đa mục tiêu

đóng góp tỷ trọng lớn về sản lượng điện, cấp nước phục vụ phát triển kinh tế

cho đồng bằng sông Hồng và tham gia điều tiết chống lũ hạ du với hiệu quả hết

sức to lớn. Hồ chứa Sơn La và Hòa Bình là hai hồ có dung tích dành chống lũ cho hạ du lớn nhất (7 tỉ m3), phần dung tích này được thiết kế nằm dưới mực nước dâng bình thường. Do vậy, nẩy sinh mâu thuẫn giữa nhiệm vụ chống lũ và

phát điện, cấp nước rất gay gắt.

Mặt dù quy trình vận hành liên hồ chứa trên lưu vực sông Hồng được ban thành

theo quyết định số 1622/QĐ-TTg ngày 17 tháng 09 năm 2015 đã tạo khung vận

hành cứng, vận hành cụ thể còn phải căn cứ vào dự báo quá trình nước đến hồ.

Nhưng vẫn còn có hai câu hỏi mà yêu cầu thực tiễn đặt ra cho các nhà nghiên

cứu, đó là:

- Có cho phép các hồ chứa trên được tích nước từ đầu mùa lũ không, và

nếu cho phép thì quy định tích nước phải như thế nào mới đảm bảo an

toàn chống lũ hạ du?

- Theo quy định, thời kỳ lũ muộn các hồ chứa phải tích nước dần đến

mực nước dâng bình thường, nhưng nếu xẩy ra lũ lớn bất thường thì

các hồ chứa sẽ ứng phó như thế nào để giảm lũ cho hạ du mà vẫn đảm

bảo an toàn cho công trình?

Do vậy, nghiên cứu sinh đã lựa chọn đề tài “Nghiên cứu chế độ vận hành tích

nước trong thời kỳ mùa lũ cho hệ thống hồ chứa bậc thang Hòa Bình và Sơn

La” với mong muốn nghiên cứu cơ sở khoa học về chế độ vận hành tích nước

1

các hồ chứa Hòa Bình và Sơn La nhằm nâng cao hiệu quả tích nước cho phát

điện và cấp nước, đảm bảo an toàn công trình và chống lũ hạ du.

2. Nhiệm vụ của luận án

- Nghiên cứu cơ sở khoa học và thực tiễn để xác định chế độ vận hành

tích nước trong kỳ mùa lũ, đảm bảo an toàn tích nước đầy hồ, nâng cao hiệu

quả cấp nước và phát điện mà vẫn đảm bảo an toàn chống lũ hạ du và chống lũ

cho công trình cho hai hồ chứa Hòa Bình và Sơn La.

- Nghiên cứu chế độ vận hành điều tiết cắt lũ cho hạ du trong thời kỳ lũ

muộn, khi mà các hồ chứa Sơn La và Hòa Bình được phép tích nước đầy hồ,

đảm bảo giảm thiểu tác động tiêu cực cho hạ du khi xảy ra lũ lớn bất thường.

3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

Phạm vi nghiên cứu: Vận hành điều tiết tích nước và chống lũ cho hệ thống hồ

chứa bậc thang Hoà Bình và Sơn La trong thời kỳ mùa lũ.

Đối tượng nghiên cứu: Chế độ điều tiết chống lũ hạ du được xem xét trong hệ

thống liên hồ chứa bao gồm 4 hồ Hòa Bình, Sơn La, Tuyên Quang và Thác Bà,

nhưng nghiên cứu chế độ vận hành tích nước theo mục tiêu của đề tài được giới

hạn nghiên cứu với hệ thống hồ chứa Sơn La và Hoà Bình trên sông Đà.

4. Phƣơng pháp nghiên cứu

Luận án sử dụng các phương pháp (i) Phương pháp kế thừa; (ii) Phương pháp

phân tích tổng hợp; (iii) Phương pháp mô hình toán.

5. Những đóng góp mới của luận án

- Đề xuất được chế độ tích nước sớm có điều kiện cho 2 hồ chứa Sơn La

và Hòa Bình. Trên cơ sở đó, đề xuất cơ sở khoa học xác định mực nước giới

hạn trên của quá trình tích nước hồ chứa Sơn La trong thời kỳ tích nước hạn

chế, đảm bảo tích nước hiệu quả mà vẫn an toàn chống lũ hạ du và công trình.

2

- Đề xuất được chế độ vận hành điều tiết chống lũ cho hạ du và phương

thức ứng phó khi xảy ra lũ bất thường trong thời kỳ tích nước đầy hồ ở cuối

thời kỳ mùa lũ.

6. Cấu trúc của luận án

Luận án gồm 118 trang, 30 bảng, 40 hình vẽ và 67 tài liệu tham khảo. Ngoài

phần mở đầu và kết luận, luận án gồm 3 chương:

Chương 1: Tổng quan các nghiên cứu vận hành vận hành hồ chứa đa mục tiêu

Chương 2: Cơ sở khoa học và thực tiễn xác định chế độ vận hành tích nước

trong thời kỳ mùa lũ đối với hệ thống hồ chứa Hòa Bình và Sơn La

Chương 3: Kết quả nghiên cứu chế độ vận hành trong thời kỳ tích nước hệ

thống hồ chứa bậc thang Hòa Bình và Sơn La

TỔNG QUAN CÁC NGHIÊN CỨU VẬN HÀNH CHƢƠNG 1 HỒ CHỨA ĐA MỤC TIÊU

1.1 Hồ chứa và vấn đề vận hành hồ chứa

Để khai thác sử dụng các hồ chứa lợi dụng tổng hợp đem lại lợi ích cao nhất,

các nhà khoa học trên thế giới tập trung tìm ra quy tắc vận hành hợp lý, giải

quyết các mẫu thuẫn giữa các mục tiêu khác nhau nâng cao hiệu quả vận hành

hồ chứa, từ các nghiên cứu đơn giản lượng trữ cấp nước của Rippl (1883) đến

các nghiên cứu phức tạp gần đây vận hành tối ưu hệ thống hồ chứa theo thời

gian thực phục vụ đa mục tiêu của Mehdipour và nnk (2012). Mặc dù đã được

đầu tư nghiên cứu rất bài bản và chi tiết từ các cơ quan quản lý khai thác sử

dụng, nhiều nhà khoa học cũng đã sử dụng các phương pháp khác nhau để thiết

lập quy tắc vận hành cho hệ thống hồ chứa nhưng các ứng dụng thành công chủ

yếu gắn liền với đặc thù từng hệ thống, không có phương pháp luận, công cụ

nào có thể dùng chung cho mọi hệ thống.

3

1.2 Phƣơng pháp quản lý và nguyên tắc vận hành hệ thống hồ chứa đa mục tiêu

Mỗi hệ thống hồ chứa khi hoạt động đều tuân thủ theo một quy trình vận hành

đã được thiết lập sẵn, trong đó có các quy tắc vận hành cho từng thời kỳ mà

người quản lý vận hành phải tuân thủ theo. Quy trình vận hành của các hồ được

thiết lập trong giai đoạn thiết kế kỹ thuật thông qua mô hình mô phỏng hoặc tối

ưu. Các quy tắc vận hành được biểu diễn dưới dạng đồ thị hay bảng hướng dẫn

theo mực nước (dung tích) hồ theo thời gian trong năm (Yeh, 1985) (Long, N.

L, Madsen, H., and Rosbjerg, D., 2007) được thể hiện trong biểu đồ điều phối

là căn cứ chính cho việc ra quyết định khi vận hành hồ chứa. Các đường cong

quy tắc điều hành là một trong những cách quản lý đơn giản và phổ biến nhất,

nhằm hỗ trợ việc ra quyết định điều hành hồ chứa của người quản lý (Liu P;

Guo S.L; Xu X.W; Chen J.H, 2011). Đối với hệ thống hồ chứa đa mục tiêu có

hai hướng quản lý: (i) Quản lý theo biểu đồ điều phối và (ii) Quản lý vận hành

theo thời gian thực.

Quy tắc điều hành hệ thống hồ chứa bậc thang đa mục tiêu: (i) với mục tiêu

chống lũ là khi cần cắt lũ, tích đầy hồ thượng lưu trước, khi cần dung tích trống

chuẩn bị điều tiết trận lũ sau thì xả trống hồ hạ lưu trước, (ii) với mục tiêu cung

cấp nước chỉ đơn giản là trữ vào các hồ chứa cao hơn trước, và thấp nhất cuối

cùng.

1.3 Tổng quan các phƣơng pháp xây dựng quy trình vận hành hệ thống hồ chứa đa mục tiêu

Bài toán vận hành hệ thống hồ chứa là bài toán đa dạng và phức tạp, cho đến

nay các nghiên cứu về lĩnh vực này trên thế giới, đặc biệt các nghiên cứu này ở

Việt Nam đã được nhiều cơ quan chức năng và nhà khoa học quan tâm. Nghiên

cứu xây dựng quy trình vận hành hệ thống hồ chứa thường tập trung sử dụng

công cụ mô hình toán như áp dụng lý thuyết tối ưu hoặc mô phỏng. Kỹ thuật tối

ưu thường được sử dụng để thiết lập ra quy tắc vận hành khung, xây dựng biểu

đồ điều phối cho từng hồ chứa trong hệ thống. Phương pháp mô phỏng giúp chi

tiết hoá vận hành hệ thống hồ chứa với những các kịch bản khác nhau để lựa

4

chọn phương án vận hành hợp lý giải quyết các mâu thuẫn nhằm tối đa hoá các

mục tiêu của hệ thống hồ chứa. Chính vì vậy, mặc dù phương pháp sử dụng mô

hình tối ưu ngày càng phát triển mạnh mẽ nhưng tìm ra quy tắc vận hành tối ưu

vẫn gặp nhiều khó khăn (Labadie, 1997), nên phương pháp mô phỏng vẫn được

ứng dụng rộng rãi nhằm xác định các quy tắc vận hành hợp lý và linh hoạt.

1.4 Tổng quan về lƣu vực sông Hồng

Hệ thống hồ chứa

Lưu vực sông Hồng là lưu vực sông lớn nhất miền Bắc Việt Nam. Hệ thống

sông Hồng bắt nguồn từ tỉnh Vân Nam, Trung Quốc với 05 phụ lưu lớn khi

chảy vào địa phận Việt Nam hợp thành 03 nhánh sông chính là Đà, Thao, Lô.

Hình 1-6: Bản đồ lưu vực sông Đà

Do điều kiện địa hình thuận lợi, lưu vực sông Hồng ngày càng khai thác mạnh

mẽ nguồn nước thượng nguồn. Trên thượng lưu sông Đà (sông Lý Tiên) thuộc

Trung Quốc, hiện có 11 hồ chứa được quy hoạch, trong đó có 9 hồ đã đi vào

vận hành.

Phía Việt Nam, ngoài nhiệm vụ cấp nước và phát điện trong thời kỳ mùa lũ, hồ chứa Sơn La và Hòa Bình (trên sông Đà) dành 7 tỷ m3 cùng với 1,0 tỉ m3 của

5

Tuyên Quang (trên sông Gâm) và 0,45 tỉ m3 của Thác Bà (trên sông Chảy) bảo vệ an toàn cho Hà Nội không vượt mực nước 13,4 m với trận lũ có chu kỳ lặp

lại 500 năm.

Quy trình vận hành hệ thống hồ chứa trên lƣu vực sông Hồng

Nhận thấy tầm quan trọng của các hồ chứa này, ngay khi hồ chứa Hòa Bình đi

vào hoạt động đã có nhiều nhà khoa học nghiên cứu để hỗ trợ cơ quan quản lý

ra văn bản pháp lý quy định quy trình vận hành phù hợp với sự phát triển của hệ

thống. Các quy trình đã ban hành quy định vận hành hệ thống hồ chứa trong

thời kỳ tích nước khá linh hoạt với việc được duy trì mực nước hồ lên trên mực

nước trước lũ. Tuy nhiên chưa có quy định rõ ràng về thời điểm được tích và

khi hồ chứa đã được tích lên mực nước cao mà gặp lũ lớn thì xử lý như thế nào?

Vấn đề vận hành hệ thống hồ chứa trong thời kỳ tích nước còn một số hạn chế

gây khó khăn cho người ra quyết định vận hành (vấn đề này sẽ được phân tích

kỹ trong chương 2) cần được nghiên cứu để nâng cao hiệu quả vận hành.

Vấn đề dự báo lũ

Dự báo dòng chảy đến hồ là một trong những nhiệm vụ quan trọng cần thiết

trong công tác vận hành hệ thống hồ chứa, chất lượng dự báo trong các bản tin

tư vấn ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả vận hành liên hồ chứa, mà đặc biệt là

dự báo dòng chảy trong thời kỳ tích nước. Dự báo lũ trên hệ thống sông Hồng

là bài toán phức tạp, còn nhiều khó khăn khi ngày càng nhiều hồ chứa thượng

nguồn được xây dựng và tình trạng thiếu thông tin từ các trạm đo trên địa phận

Trung Quốc, vấn đề về chất lượng dự báo mưa số trị. Tuy nhiên, báo lũ trên hệ

thống đã được nhiều nhà khoa học (Trịnh Quang Hòa và nnk, 1994) (Nguyễn

Văn Điệp, 2013) (Bùi Đình Lập, 2016) quan tâm ứng dụng những công nghệ

hiện đại, tiên tiến trên thế giới nâng cao lượng dự báo phục vụ hiệu quả vận

hành hệ thống hồ chứa trên lưu vực sông Hồng, đảm bảo yêu cầu vận hành theo

thời gian thực. Dự báo dòng chảy lũ với thời gian dự kiến 72h đạt mức dự báo

“Tốt” là một trong những điều kiện cho việc giải quyết mâu thuẫn giữa tích

nước và phòng lũ hệ thống hồ chứa trên hệ thống sông Hồng.

6

1.5 Định hƣớng nghiên cứu

Hệ thống hồ chứa Sơn La, Hoà Bình đã có nhiều nghiên cứu làm cơ sở khoa

học cho việc xây dựng quy trình vận hành hệ thống hồ chứa trên sông Hồng

cùng rất nhiều báo cáo phân tích thực tiễn vận hành với nhiều công nghệ hiện

đại tuy nhiên người ra quyết định vận hành còn gặp rất nhiều khó khăn ở những

thời điểm mà quy trình không có quy định cụ thể. Vì vậy, luận án lựa chọn

nghiên cứu làm cơ sở khoa học cho việc vận hành hệ thống hồ chứa trên lưu

vực sông Hồng trong thời kỳ tích nước, sơ đồ nghiên cứu được thể hiện trong

Hình 1-7 dưới đây.

Hình 1-7: Sơ đồ khối nghiên cứu chế độ vận hành tích nước cho hệ thống hồ chứa Hòa Bình và Sơn La

Quy trình vận hành hệ thống hồ chứa trên lưu vực sông Hồng hiện nay

(QT1622), đã đề ra một khung vận hành cứng cho việc quản lý vận hành hồ

chứa. Do vậy, luận án lựa chọn phương pháp mô phỏng với ưu điểm giúp chi

tiết hoá vận hành hệ thống hồ chứa khi vận hành theo các kịch bản khác nhau

7

để lựa chọn phương án vận hành hợp lý, giải quyết các mâu thuẫn nhằm tối đa

hoá các mục tiêu của hệ thống.

CƠ SỞ KHOA HỌC VÀ THỰC TIỄN XÁC ĐỊNH

CHƢƠNG 2 CHẾ ĐỘ VẬN HÀNH TÍCH NƢỚC TRONG THỜI KỲ MÙA LŨ ĐỐI VỚI HỆ THỐNG HỒ CHỨA HÒA BÌNH VÀ SƠN LA

2.1 Nhận xét về các quy trình đã ban hành và đề xuất hƣớng nghiên cứu chế độ vận hành tích nƣớc

Nhiệm vụ chống lũ hạ du

QT 1622 quy định hồ chứa Sơn La và Hòa Bình dành phần dung tích đủ lớn để

để đảm bảo khi xảy ra lũ thiết kế có thể khống chế được mực nước lớn nhất tại

Hà Nội theo mức 13,1 m với lũ 300 năm và 13,4 m với lũ 500 năm tại Sơn Tây

(xem Bảng 2-1).

Bảng 2-1: Quy định về phân bổ dung tích phòng lũ dành cho cắt lũ hạ du theo

mực nước khống chế tại Hà Nội của các hồ Sơn La và Hòa Bình trong QT1622. Dung tích dành cắt lũ theo mực nƣớc khống chế tại Hà Nội (tỷ m3)

Hồ Sơn La Hồ Hòa Bình Tổng cộng Mức nƣớc cần khống chế tại Hà Nội

2,13 ZHN 11,5 m

4,87 ZHN > 13,1 m Đến 13,4 m 1,00 (mực nước hồ từ 197,3÷203 m) 3,00 (mực nước hồ từ 203 ÷217,2 m) 1,13 (mực nước hồ từ 101÷107m) 1,87 (mực nước hồ từ 107 ÷117 m)

Một số hạn chế của quy trình vận hành

Trong thời kỳ lũ sớm và lũ chính vụ quy trình vận hành chủ yếu quan tâm

đến các quy định cắt lũ khi mực nước Hà Nội có khả năng vượt cao trình

11,5 m, chưa có quy định vận hành cụ thể khi mực nước Hà Nội ở dưới mức

này. Tính toán trong hồ sơ kỹ thuật, lập quy trình sử dụng 3 mô hình lũ bất lợi

tần suất 0,33% và 0,2% với mực nước chân lũ tại Hà Nội ở ngưỡng 10,5 đến

8

11,5 m mà không tính cho trường hợp không xảy ra lũ lớn. Do vậy, quy trình

QT198 và QT1622 chỉ quy định chung chung là trường hợp không có lũ, tùy

theo diễn biến của thời tiết và mực nước tại Hà Nội, cho phép dâng mực nước

các hồ chứa cao hơn MNTL và khi dự báo có lũ xảy ra, xả nước để đưa mực

nước các hồ về MNTL. Như vậy, cần xác định mực nước cao hơn có giới hạn là

bao nhiêu và dự báo thế nào thì cho phép dâng mực nước cao hơn ? Mặt khác,

theo tài liệu thống kê 56 năm (từ năm 1959-2015) chỉ có 9 năm ( 16%) mực

nước Hà Nội trong điều kiện tự nhiên có khả năng vượt 11,5 m, các hồ chứa

phải tham gia cắt lũ cho hạ du. Do vậy, việc quy định cụ thể chế độ vận hành hồ

chứa trong mùa lũ khi không có lũ (mực nước Hà Nội <11,5 m) là rất cần thiết.

Chưa có quy định cụ thể về chế độ vận hành cắt lũ hạ du trong thời kỳ tích

nước (lũ muộn) khi xảy ra lũ bất thường. Khi dự báo mùa lũ kết thúc sớm các

hồ chứa được phép tích nước từ ngày 10/8 nghĩa là Hoà Bình ở ngưỡng 110 m

và Sơn La là 209 m (theo QT1622), dung tích chống lũ hạ du chỉ còn khoảng 2,65 tỷ m3, không đủ khả năng chống lũ hạ du với mức lũ 300 năm tại Sơn Tây.

Trong các hồ sơ kỹ thuật phục vụ lập quy trình vận hành chưa thấy có nội dung

tính toán kiểm tra khả năng cắt lũ và phương án ứng xử trong vận hành điều tiết

các hồ chứa trong trường hợp xảy ra lũ bất thường vào thời kỳ tích nước này.

Quy định chế độ vận hành cắt lũ hạ du khi xảy ra lũ lớn hợp lý nhưng chưa

đầy đủ. Các hồ chứa được quy định vận hành cắt lũ hạ du khi mực nước tại Hà

Nội có khả năng vượt 11,5 m, tuy nhiên không có sự phân bổ dung tích của hồ

chứa giữa hai mức khống chế 13,1 m và 13,4 m. Điều này gây khó khăn cho

người vận hành hệ thống hồ chứa chống lũ hạ du trong thực tế.

Chia mùa lũ thành 3 thời kỳ với mốc thời gian cố định để xây dựng chế độ

điều tiết vận hành cho từng thời kỳ đó. Trong các quy trình đã được ban hành,

đều quy định chế độ vận hành hệ thống hồ chứa mùa lũ theo 3 thời kỳ: lũ sớm,

9

lũ chính vụ và lũ muộn. Thời điểm bắt đầu tích nước vào hồ chứa được quy

định vào đầu thời kỳ lũ muộn (sau ngày 21 tháng 08 hàng năm) và chỉ cho phép

tích nước sớm từ ngày 10 tháng 8 hàng năm với điều kiện dự báo mùa lũ kết

thúc sớm.

Phân tích thực trạng và những bất cập của các quy trình vận hành theo

các quy trình đã ban hành. Mặc dù các quy trình đã quy định mực nước lớn

nhất trong thời kỳ mùa lũ, nhưng trong quá trình vận hành thực tế đã vận hành

theo hướng tích nước trước thời điểm cho phép. Cụ thể, 04 năm (2012-2015)

sau khi có hồ chứa Sơn La, vận hành hệ thống hồ chứa tuân theo QT 198, quy

định MNTL của Sơn La là 194 m và Hòa Bình là 101 m, thời điểm tích nước

không sớm hơn ngày 10/08 nhưng các hồ đều giữ mực nước cao hơn quy định

mặc dù không có lũ (Hình 2-1). Đặc biệt năm 2012, mực nước hồ chứa Sơn La

lớn nhất đạt 201,84 m cao hơn 5,84 m, mực nước lớn nhất hồ Hòa Bình là

106,76 m cao hơn 5,76 m. Các hồ chứa đã tích sớm nhưng cuối mùa lũ, dòng

chảy trong sông giảm nhanh, các hồ chứa này có những thời gian giảm công

suất phát điện để đảm bảo tích nước được đầy hồ chứa an toàn cấp nước cho hạ

du mùa kiệt.

Hình 2-1: Biểu đồ quá trình mực nước hồ Sơn La thời kỳ mùa lũ từ năm 2012-2015

10

Định hƣớng nghiên cứu chế độ vận hành tích nƣớc hồ chứa Hòa Bình và

Sơn La. Từ những phân tích về quy trình và thực tiễn vận hành, luận án định

hướng nghiên cứu với hai nội dung chính như sau:

- Nghiên cứu chế độ vận hành tích nước thời kỳ mùa lũ nhằm nâng cao

hiệu quả phát điện, cấp nước, đảm bảo an toàn tích nước đầy hồ và vẫn an toàn

chống lũ cho hạ du và cho công trình.

- Nghiên cứu xây dựng chế độ vận hành điều tiết cắt lũ, giảm thiểu tác

động tiêu cực cho hạ du trong trường hợp xảy ra lũ lớn bất thường vào thời kỳ

tích nước sau ngày 21/8 hàng năm hoặc sau ngày 10/8 khi cho phép tích nước

sớm.

2.2 Cơ sở khoa học nghiên cứu xây dựng chế độ vận hành tích nƣớc

Quan điểm nghiên cứu. Luận án đề nghị nghiên cứu áp dụng chế độ tích nước

sớm có điều kiện (phương án trung gian) đối với hồ chứa Sơn La và Hòa Bình.

Tuy nhiên, dù hồ chứa được tích nước sớm nhưng không có nghĩa là nên tích

nước ngay đến mực nước dâng bình thường trước thời điểm kết thúc mùa lũ mà

chỉ nên tích nước đến một giới hạn nào đó để khi dự báo có lũ lớn xảy ra, thì

phải kịp đưa mực nước hồ về mực nước trước lũ, sẵn sàng làm nhiệm vụ chống

lũ theo thiết kế. Chế độ tích nước được gọi là có điều kiện vì tại mỗi thời điểm

tích nước, mực nước được tích trong hồ phụ thuộc vào 3 yếu tố: (1) Mực nước

hồ chứa và mực nước hạ du (tại Hà Nội) tại thời điểm tích nước; (2) Mức độ dự

báo lũ và diễn biến dòng chảy đến hồ và mực nước hạ du trong thời gian dự

kiến; (3) Ràng buộc về chế độ điều tiết xả lũ qua công trình xả lũ. Theo đó, mùa

lũ được phân thành 02 thời kỳ vận hành:

Thời kỳ tích nước hạn chế (trước ngày 21/08 hàng năm): là thời kỳ vận hành

tích nước hạn chế gồm thời kỳ lũ sớm và lũ chính vụ. Đây là thời kỳ mà nhiệm

vụ cắt lũ cho hạ du là chính, bởi vậy các hồ chứa chỉ cho phép tích nước đến

mực nước nhất định gọi là mực nước giới hạn Hgh. Hgh được xác định sao cho khi dự báo hoặc cảnh báo có lũ lớn kịp đưa mực nước hồ về mực nước trước lũ

để kịp sẵn sàng cắt lũ an toàn cho hạ du.

11

Thời kỳ tích nước đầy hồ (sau ngày 21/08 hàng năm): là thời kỳ tích nước bắt

buộc các hồ chứa phải tích nước đến mực nước dâng bình thường. Đối với

trường hợp này phải xây dựng chế độ vận hành cắt giảm lũ để hạn chế đến mức

tối thiểu thiệt hại cho hạ du khi các hồ chứa không đủ khả năng cắt lũ theo đúng

tiêu chuẩn thiết kế phòng lũ hạ du.

Phƣơng pháp thiết lập chế độ vận hành trong thời kỳ tích nƣớc hạn chế.

Trong thời kỳ tích nước hạn chế, hệ thống hồ chứa Hòa Bình và Sơn La vận

hành tương ứng với các Hgh. Xác định Hgh theo các mức khác nhau của mực nước tại Hà Nội, sao cho trong thời gian dự kiến dự báo (cảnh báo lũ), kịp đưa

mực nước về mực nước trước lũ và mực nước tại Hà Nội không vượt quá 11,5

m. Từ đó lập quan hệ Hgh phụ thuộc vào mực nước Hà Nội, được gọi là “Bảng nguyên tắc vận hành tích nƣớc” để sử dụng trong quá trình vận hành tích

nước. Để xác định Bảng nguyên tắc vận hành tích nước cần thực hiện 2 nội

dung tính toán sau:

Nội dung 1: Với mỗi kịch bản về mực nước Hà Nội tại thời điểm quyết định

tích nước, xác định mực nước giới hạn Hgh khi có dự báo xuất hiện lũ lớn tương đương với lũ thiết kế phòng lũ tại tuyến phòng lũ (lũ 500 năm tại Sơn Tây). Từ

đó xác định các phương án Hgh theo cấp mực nước Hà Nội. Giá trị mực nước giới hạn Hgh phụ thuộc vào thời gian dự kiến của phương pháp dự báo đã áp dụng. Đối với lưu vực sông Hồng, thời gian dự kiến của dự báo có thể chọn

bằng 3-5 ngày (sẽ phân tích ở mục 2.3).

Nội dung 2: Tính toán kiểm tra với các trận lũ lớn đã xảy ra trong thực tế. Trên

cơ sở đó lựa chọn phương án Hgh thiết lập “Bảng nguyên tác vận hành”. Nếu thấy không đáp ứng yêu cầu chống lũ cho hạ du cần phải tiến hành xác định lại

Hgh theo các bước nội dung 1.

Xây dựng chế độ vận hành ứng phó trong trƣờng hợp xảy ra lũ bất thƣờng

trong thời kỳ tích nƣớc.

12

Trong phạm vi nghiên cứu, luận án chỉ tập trung nghiên cứu trường hợp xảy ra

lũ bất thường trong giai đoạn tích nước của các hồ chứa nghĩa là khi hồ chứa

không còn đủ khả năng phòng lũ cho hạ du ứng với trận lũ thiết kế. Phương

hướng nghiên cứu được thể hiện trong Hình 2-7.

Hình 2-7: Sơ đồ tiếp cận nghiên cứu đề xuất giải pháp vận hành ứng phó trong

trường hợp lũ bất thường.

2.3 Phân tích cơ sở thực tiễn và tính khả thi xác định mực nƣớc giới hạn Hgh cho hồ chứa Sơn La và Hòa Bình

2.3.1 Thực trạng thay đổi chế độ mực nước hạ du thời kỳ mùa lũ

Diễn biến mực nước hạ du sông Hồng càng ngày càng phức tạp với xu thế giảm

dần, đặc biệt là tại Hà Nội. Theo thống kê dòng chảy tại trạm thuỷ văn Hà Nội

từ năm 1960 đến năm 1988 và dòng chảy hoàn nguyên từ năm 1989 đến năm

2013 cho thấy:

- Mực nước lớn nhất trong mùa lũ rơi vào thời kỳ lũ chính vụ và có 09 năm

mực nước Hà Nội lớn nhất vượt cao trình 11,5 m, như vậy chỉ có 16% số năm

các hồ chứa thượng nguồn bắt buộc phải làm nhiệm vụ cắt lũ cho hạ du.

- Xu thế mực nước thấp nhất ngày càng giảm theo thời gian, nếu như những

năm trước 2002 mực nước thường trên 6,0 m thì những năm sau lại giảm nhỏ

13

hơn nhiều đặc biệt năm 2006, 2011 xuống còn 2,6 m trong thời kỳ lũ chính vụ

và trong mùa lũ có thời điểm giảm xuống dưới 2,0 m.

- Mực nước chân lũ tại Hà Nội nằm dưới 6,0 m và tăng dần từ đầu mùa đến thời

kỳ lũ chính vụ sau đó giảm dần.

- Mặt khác, theo tài liệu phân tích ( Hà Văn Khối, 2010), khi mực nước Hà Nội nhỏ hơn 7,0 m thì lòng dẫn có thể tải thêm 1300 m3/s để tăng mực nước thêm 1,0 m. Lòng dẫn tải thêm được 2000 m3/s khi tăng mực nước Hà Nội từ 8,0 m lên 9,0 m. Trong toàn mùa lũ, có tới 50% thời gian mùa lũ mực nước Hà Nội

thấp hơn 8,0 m.

2.3.2 Phân tích đặc điểm mưa lũ và sự hình thành lũ lớn trên lưu vực

Mưa lũ lớn trên diện rộng toàn lưu vực thường do sự phối hợp của các hình thế

thời tiết chủ yếu với các hình thế thời tiết khác tạo gây nên. Phần lớn các trận lũ

lớn trên sông Hồng tại Hà Nội có mực nước đỉnh lũ (Hmax) trên mức báo động

III (11,5 m) đều do hoạt động liên tiếp các loại hình thế thời tiết nêu trên gây ra.

Các trận lũ lớn trên sông Hồng vào các năm: 1968, 1969, 1971, 1986, 1996

(Hmax > 12,0m) đều do 02 hoặc nhiều loại hình thời tiết cùng hoạt động hay

hoạt động liên tiếp gây ra. Chưa xảy ra tổ hợp bất lợi nhất hình thành lũ sông

Hồng khi có mưa lũ đặc biệt lớn đồng bộ trên cả 3 sông Đà, Thao, Lô. Song các

trận đặc biệt lớn 1969, 1971 và 1996 đều do mưa lớn xảy ra trên cả 3 lưu vực

sông nhánh và không phải đều đã gây lũ lớn lịch sử ở 3 sông. Lũ đặc biệt lớn tại

Hà Nội xảy ra khi có lũ đặc biệt lớn trên 01 hoặc 02 sông. Lũ đặc biệt lớn tại

Hà Nội thường do 01 đến 03 đợt lũ liên tiếp, kéo dài 08 - 10 ngày với lượng

mưa phổ biến 100 - 300 mm, có nơi tới 500 - 700 mm và tâm mưa khoảng 700 -

800 mm.

2.3.3 Khả năng dự báo và nhận dạng lũ lớn trên hệ thống sông Hồng

Dự báo ngắn hạn và hạn vừa (5 ngày) rất quan trọng cho bài toán vận hành liên

hồ chứa. Theo đánh giá của Trung tâm dự báo KTTV Trung Ương, chất lượng

dự báo hạn vừa đối với trạm Hà Nội và đến hồ chứa Sơn La đạt chất lượng tốt

14

( 80%); đối với hồ chứa Hòa Bình, Tuyên Quang và Thác Bà đạt mức trên

70%. Mức đảm bảo đối với dự báo hạn ngắn trong những năm gần đây đạt trên

85% với thời gian dự kiến 24h, trên 80% với thời gian dự kiến 36h và trên 75%

với thời gian dự kiến 48h. Chất lượng nhận dạng lũ ngày càng được nâng cao

do nguyên nhân gây lũ lớn ở khu vực miền Bắc hầu như là do hoạt động liên

tiếp hoặc tổ hợp từ hai hình thế thời tiết trở nên gây ra. Bởi vậy, chất lượng bản

tin dự báo lũ lưu vực sông Hồng hoàn toàn đảm bảo yêu cầu vận hành tích nước

theo đề xuất của luận án, nghĩa là có thể khi các phân tích hình thế thời tiết gây

mưa lớn có thể nhận được khá sớm. Đây là một trong những cơ sở có đủ thời

gian hạ mực nước của hồ chứa Hòa Bình và Sơn La về MNTL theo kết quả dự

báo.

2.4 Công cụ tính toán

2.4.1 Ứng dụng MS Excel tính toán điều tiết dòng chảy qua hồ chứa

Thiết lập chương trình tính toán điều tiết dòng chảy qua hệ thống hồ chứa trên

sông Hồng trên MS Excel. Với nguyên lý tính toán như sau:

Nguyên lý tính toán điều tiết dòng chảy qua hồ chứa: dựa vào hệ phương trình

cân bằng nước và phương trình động lực cùng với các đường đặc trưng, tham số

mô tả đặc tính của hệ thống công trình

Diễn toán dòng chảy trên sông: sử dụng phương pháp Muskingum để diễn

toán dòng chảy trong một đoạn sông tự nhiên là một phương pháp cổ điển

nhưng rất hiệu quả.

2.4.2 Mô hình MIKE 11

Diễn toán dòng chảy cho toàn lưu vực sông Hồng của các nghiên cứu trước đây

sử dụng mô hình Mike 11 cho kết quả mô phỏng dòng chảy rất sát với thực tế.

Vì vậy, tác giả kế thừa toàn bộ mạng lưới sông, mặt cắt và các thông số của

MIKE 11 đã được thiết lập cho lưu vực sông Hồng làm công cụ tính toán để mô

phỏng dòng chảy từ sau hệ thống hồ chứa về đến hạ du. Toàn bộ hệ thống sông

15

gồm có 25 sông chính chia thành 52 nhánh sông, được thiết lập trên mặt cắt đo

đạc năm 2012.

Biên trên và biên dưới: Là quá trình lưu lượng xả từ các hồ chứa Hòa Bình

(sông Đà), Thác Bà (sông Chảy), Tuyên Quang (sông Gâm). Quá trình lưu

lượng và mực nước tại trạm thủy văn (Yên Bái, Hàm Yên, Quảng Cư, Thác

Huống, Cầu Sơn, Chũ, Chí Thủy, Hưng Thi, Như Tân, Phú Lễ, Ba Lạt, Định

Cư, Đông Xuyên, Quang Phục, Kiến An và Cửa Cấm)

Biên khu giữa: Các khu giữa được xác định trên cơ sở các tài liệu địa hình và

tài liệu khí tượng thuỷ văn. Các khu giữa có nguồn bổ sung dòng chảy đáng kể

cho hệ thống sông được xác định gồm 06 khu vực.

2.5 Kết luận chƣơng 2

Luận án phân tích những tồn tại của quy trình vận hành, những bất cập trong

thực tiễn điều hành từ đưa ra quan điểm nghiên cứu chế độ vận hành tích nước

theo hướng đồng nhất vận hành tích sớm có điều kiện. Với quan điểm nghiên

cứu này, luận án đề xuất phương pháp tính toán mực nước giới hạn Hgh (cho thời kỳ tích nước hạn chế) và thiết lập phương án vận hành trong trường hợp

xảy ra lũ bất thường. Luận án phân tích cơ chế hình thành mưa lũ lớn, chế độ

dòng chảy lũ và chất lượng dự báo lũ, chứng minh tính khả thi của định hướng

nghiên cứu.

KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU CHẾ ĐỘ VẬN HÀNH

CHƢƠNG 3 TRONG THỜI KỲ TÍCH NƢỚC HỆ THỐNG HỒ CHỨA BẬC THANG HÒA BÌNH VÀ SƠN LA

3.1 Thiết lập bài toán

Thiết lập bảng nguyên tắc vận hành, luận án tiến hành thử dần xác định Hgh, sơ đồ tính thể hiện trong Hình 3-2, với mực nước Hà Nội theo 3 cấp: (i) Từ 6,0-8,0

m; (ii) Từ 4,0-6,0 m; (iii) và nhỏ hơn 4,0 m; với mực nước lớn hơn 8,0 m thì

duy trì mực nước hồ chứa bằng MNTL.

16

Lựa chọn mực nước khống chế an toàn tại Hà Nội là 10,5 m (do sai số dự báo).

Trạng thái ban đầu hồ chứa Tuyên Quang và Thác Bà bằng MNTL. Mô hình lũ

1996 là mô hình bất lợi cho vận hành điều tiết các hồ chứa trên sông Đà (lưu lượng đỉnh lũ vào hồ chứa Sơn La là 31.863 m3/s, tổng lượng lũ 20 ngày nhánh sông Đà chiếm hơn 50% tổng lượng hạ du) nên luận án chọn mô hình lũ này để

tính toán.

Quá trình dòng chảy lũ 3 ngày trước tại các biên được xác định từ trạng thái

ban đầu của hệ thống nối với điểm bắt đầu của quá trình lũ thiết kế.

Hình 3-1: Sơ đồ tính toán thiết lập bảng nguyên tắc vận hành

Để đơn giản trong tính toán lựa chọn cố định mực nước Hòa Bình là 101 m, thử

dần nâng dần mực nước của hồ chứa Sơn La. Sau đó điều chỉnh theo nguyên tắc

bảo toàn tổng lượng tích vào hồ. Kết quả tính toán được trình bày trong Bảng 3-

1 và Bảng 3-3.

Bảng 3-1: Kết quả tính toán Hgh của hồ chứa Sơn La

Mực nước (m)/ Lưu lượng (m3/s)

Mực nước Hà Nội (m)

Hgh của Hồ Sơn La (m) 207,5 205,5 200,5 197,3

9,67 9,75 8,3

Mực nước Hà Nội (m) Qmax Hoà Bình (m3/s) 11.289 11.126 Ban đầu Sơn La xuống MNTL 8.270

17

Bảng 3-3: Tổng hợp các phương án điều chỉnh Hgh

Phương án 1

Phương án 2

Phương án 3

Phương án 4 197,3 101,0 197.3 101,0 197,3 101,0 197,3 101,0 205,5 101,0 203 103,5 202,4 104,0 201,5 105,0 200,5 101,0 200.5 101,0 200,5 101,0 200,5 101,0 207,5 101,0 205 103,5 204,4 104,0 203,5 105,0 Mực nước Hà Nội (m) Z Sơn La (m) Z Hòa Bình (m) Z Sơn La (m) Z Hòa Bình (m) Z Sơn La (m) Z Hòa Bình (m) Z Sơn La (m) Z Hòa Bình (m)

Để đánh giá tính khả thi của các phương án mực nước Hgh của hồ chứa Sơn La

và Hòa Bình, luận án tiến hành vận hành hệ thống hồ chứa thử nghiệm 10 trận

lũ lớn đã xảy ra trong thực tế 1969, 1970, 1971, 1972, 1996, 1999, 2000, 2002,

2006 và 2008. Kết quả vận hành điều tiết thử nghiệm theo các phương án Hgh

đề xuất đều khả thi. Vận hành điều chỉnh mực nước hồ chứa theo cấp mực nước

Hà Nội linh hoạt và không gây lũ nhân tạo cho hạ du, hồ chứa Hòa Bình chỉ

vận hành mở tối đa 7 cửa xả đối với hai trận lũ lớn 1971 và 1996. Đối với các

trận lũ tính toán, mực nước hồ chứa đều được đưa về gần MNTL theo quy định

để sãn sàng cắt lũ hạ du và mực nước Hà Nội không vượt quá cao trình 10,5 m.

Luận án lựa chọn phương án chỉ nâng cao mực nước hồ chứa Sơn La hơn

MNTL (197,3 m) và đề xuất bảng nguyên tắc vận hành tích nước (Bảng 3-5) để

chủ động trong vận hành thực tế và an toàn khi xảy ra lũ lớn ở khu giữa.

Bảng 3-5: Bảng nguyên tắc vận hành tích nước Mực nước Hà Nội (m)

Hgh của Hồ Sơn La (m) 205,5 200,5 197,3 207,5

Hgh của Hồ Hòa Bình (m) 101,0 101,0 101,0 101,0

18

Bảng 3-6: Bảng tổng hợp mực nước hồ chứa Sơn La, Hòa Bình và Hà Nội vận hành theo phương án 1 và 3

Mực nƣớc Ban đầu

Số cứa xả lớn nhất của hồ chứa

Thứ tự

Trận Lũ

Mực nƣớc ban đầu hồ Hòa Bình

hồ Sơn La

Mực nƣớc lớn nhất tại Hà Nội (m)

Mực nƣớc cao nhất hồ chứa Sơn La khi cắt lũ

Mực nƣớc ban đầu tại Hà Nội

Mực nƣớc thấp nhất hồ chứa Sơn La

(m)

Hòa Bình

(m)

Mực nƣớc cao nhất của hồ chứa Hòa Bình khi cắt lũ (m)

(m)

(m)

(m)

1

8/1969

6,43

200,49

197,18

205,33

100,99

108,33

7

11,79

7/1970

4,43

205,49

197,52

202,19

101,01

101,96

6

10,25

2

7/1970

4,43

202,49

197,31

201,76

104,01

103,21

6

10,23

3

8/1971

6,12

200,5

197,52

211,93

101,00

113,19

5

12,02

7/1972

4,41

205,49

196,97

198,27

101,01

103,34

6

10,91

4

7/1972

4,41

202,39

197,25

198,66

104,01

102,38

6

10,91

5

8/1996

6,32

200,5

197,05

201,88

101,00

106,63

7

11,67

9/1999

4,47

205,49

197,32

200,01

101,09

101,84

6

10,28

6

9/1999

4,47

202,37

197,33

201,11

101,09

102,37

6

10,04

7/2000

4,63

205,51

197,03

200,16

101,06

101,86

6

11,22

7

7/2000

4,63

202,39

197,21

200,6

103,99

102,77

6

11.02

8

8/2002

7,15

200,45

197,81

201,61

101,00

106,9

6

11,61

7/2006

5,84

205,50

197,41

201,88

101,04

104,56

6

11,25

9

7/2006

5,84

202,37

197,22

202,73

104,02

105,07

6

11,41

10

8/2008

6,48

200,57

197,43

201,29

100,96

104,25

5

11,91

19

3.2 Kết quả nghiên cứu phƣơng án vận hành ứng phó trong trƣờng hợp xảy ra lũ bất thƣờng trong thời kỳ tích nƣớc

Luận án chỉ nghiên cứu chế độ vận hành với trường hợp xảy lũ bất thường

trong thời kỳ tích nước (trường hợp 1: xảy ra từ 10/8 đến 22/8; trường hợp 2: từ

22/08 đến 15/09) theo hai bước sau:

-Tiến hành phân tích các giải pháp có thể sử dụng trong các tình huống khẩn

cấp cùng với nghiên cứu đặc điểm của thành phần dung tích chống lũ hạ du và

công trình của hệ thống hồ chứa Sơn La và Hoà Bình để đề xuất giải pháp hợp

lý vận hành khi xảy ra tình huống lũ bất thường.

-Đánh giá tính khả thi của phương án vận hành đề xuất thông qua việc vận hành

thử nghiệm với các trường hợp lũ bất thường xảy ra trong các giai đoạn khác

nhau của thời kỳ tích nước.

Đề xuất phƣơng án vận hành

Trong nghiên cứu này, lựa chọn giải pháp xem xét sử dụng một phần dung tích

chống lũ cho công trình để tham gia phòng lũ hạ du khi trong trường hợp cần

thiết mà vẫn đảm bảo an toàn cho công trình. Giải pháp này có nhiều ưu điểm

như là giảm thiệt hại cho hạ du (do không phân lũ); nâng cao hiệu quả tích nước

và không phải phân lũ nên giảm được thiệt hại về kinh tế và xã hội. Luận án đề

xuất phương án vận hành cụ thể như sau:

Khi HHN< 6,0 m, dự báo trong 72h có khả năng xảy ra lũ lớn, các hồ chứa trên hệ thống mở dần các cửa xả để đưa Zhồ về mực nước quy định, Qxả Hòa Bình không vượt quá 12.000 m3/s và HHN<12,5 m.

Khi HHN>12,5 m và dự báo lũ trên sông Đà tiếp tục tăng lên, Zhồ Sơn La >215,0 m và Zhồ Hoà Bình >115,0 m thì xem xét cho phép hồ chứa Sơn La tích lên trên 217,83 m khi lưu lượng lũ trên sông Đà nhỏ hơn 20.000m3/s và đang giảm.

20

Bảng 3-7: Quy định mực nước thấp nhất các hồ chứa được phép hạ xuống để đón lũ theo QT 1622 Từ 10/8-22/8 Từ 22/8 - hết mùa lũ Thời kỳ

Mực nƣớc hồ

Sơn La 197,3 209

Hoà Bình 101 110

Tuyên Quang 105 110 hoặc thấp hơn

Kịch bản tính toán

Thống kê phân tích về mực nước lũ tại Hà Nội trong thời kỳ mùa lũ cho thấy

mực nước chân lũ ở Hà Nội luôn nằm dưới 6 m và có xu thế giảm dần theo thời

gian suốt thời kỳ tích nước (Hà Văn Khối, 2010). Do đó có thể lấy điều kiện

ban đầu của mực nước tại Hà Nội là 6 m. Lựa chọn các kịch bản lũ bất thường

dạng lũ tự nhiên, lũ có chu kỳ lặp lại 500 năm và 300 năm xảy ra trong thời kỳ

lũ chính vụ (trước ngày 22/8); thời kỳ lũ muộn chỉ tính với kịch bản lũ có chu

kỳ lặp lại 300 năm và lũ thực nhiên theo mô hình lũ 1969, 1971 và 1996.

Kết quả tính toán

Trong trường hợp 1, xảy ra lũ bất thường với quy mô như lũ 500 năm thì các hồ

chứa thượng nguồn có đủ năng lực cắt lũ đảm bảo an toàn cho hạ du nếu sử

dụng thêm một phần dung tích chống lũ cho công trình. Thời gian duy trì mực

nước Hà Nội trên 13 m kéo dài từ 5- 8 ngày.

Trong trường hợp 2, xảy ra lũ có chu kỳ lặp lại 300 năm thì các hồ chứa thượng

nguồn phải sử dụng một phần của dung tích chống lũ công trình (Sơn La tích

lên mực nước 222 m) sẽ bảo vệ được Hà Nội, thời gian duy trì mực nước Hà

Nội trên 13 m khoảng từ 6-8 ngày.

Hai hồ chứa luôn an toàn và bảo vệ hạ du trước mọi trận lũ đặc biệt lớn quy mô

tương đương các trận lũ lịch sử đã xảy ra trên sông Hồng trong suốt thời kỳ tích

nước mà không cần sử dụng phần dung tích chống lũ của công trình.

21

3.3 Đề xuất cơ chế vận hành tích nƣớc hệ thống hồ chứa bậc thang Hòa Bình và Sơn La

3.3.1 Thời kỳ tích nước hạn chế (từ 15/06 đến 21/08 hàng năm)

Thời kỳ này, luận án đề xuất cơ chế vận hành khi mực nước Hà Nội nhỏ hơn

11,5 m như sau: Vận hành các hồ chứa thượng nguồn dựa vào kết quả cảnh báo,

dự báo lũ hạn vừa (3-5 ngày) và mực nước Hà Nội hiện tại. Mực nước hồ chứa

Sơn La được dao động từ 197,3 m đến 207,5 m. Hồ chứa Hoà Bình giữ nguyên

MNTL (101,0 m) quy định cụ thể trong Bảng 3-5.

-Khi dự báo mực nước tại Hà Nội trong 3 ngày tới thấp hơn cao trình 4,0 m,

điều tiết để mực nước hồ Sơn La duy trì ở mức không cao hơn cao trình 207,5

m, mực nước hồ Hòa Bình duy trì ở mức không cao hơn cao trình 101,0 m.

-Khi dự báo mực nước tại Hà Nội trong 3 ngày tới nằm trong khoảng cao trình

4,0 m ÷6,0 m, điều tiết để mực nước hồ Sơn La duy trì ở mức không cao hơn

cao trình 205,5 m, mực nước hồ Hòa Bình duy trì ở mức không cao hơn cao

trình 101,0 m.

-Khi dự báo mực nước tại Hà Nội trong 3 ngày tới nằm trong khoảng cao trình

6,0 m ÷ 8,0 m, điều tiết để mực nước hồ Sơn La duy trì ở mức không cao hơn

cao trình 200,5 m, mực nước hồ Hòa Bình duy trì ở mức không cao hơn cao

trình 101 m.

-Khi dự báo mực nước tại Hà Nội trong 3 ngày tới vượt cao trình 8,0, điều tiết

để mực nước hồ Sơn La duy trì ở mức không cao hơn cao trình 197,3 m, mực

nước hồ Hòa Bình duy trì ở mức không cao hơn cao trình 101,0 m.

3.3.2 Phương án vận hành hồ chứa Sơn La và Hoà Bình ứng phó trường hợp xảy ra lũ bất thường trong thời kỳ tích nước.

-Khi mực nước Hà Nội nhỏ hơn 6 m, dự báo trong 72h tới có khả năng xảy ra lũ

lớn (tương đương quy mô lũ 300 năm hoặc 500 năm hoặc lớn hơn). Các hồ

chứa trên hệ thống sông Hồng tiến hành mở dần các cửa xả để đưa mực nước

22

hồ về mức quy định trong Bảng 3-7 tuỳ từng thời điểm xảy ra, nhưng phải đảm

bảo an toàn cho hạ du. Lưu lượng xả xuống thị xã Hoà Bình không vượt quá 12.000 m3/s và khống chế mực nước Hà Nội luôn nhỏ hơn 11,5 m.

-Khi Hà Nội có khả năng vượt 11,5 m và dự báo lũ trên sông Đà tiếp tục tăng

lên, mực nước hồ Sơn La đạt trên 215 m và Hoà Bình đạt trên 115 m thì xem

xét cho phép hồ chứa Sơn La tích lên trên 217,83 m. Chỉ huy động dung tích

chống lũ cho công trình của hồ chứa Sơn La và Hoà Bình khi lưu lượng lũ trên sông Đà nhỏ hơn 20.000 m3/s và đang giảm nhưng khống chế mực nước hồ chứa Sơn La nhỏ hơn 228 m và hồ chứa Hoà Bình không quá 122 m (ngang

mực nước kiểm tra).

Tuy nhiên, khi có dấu hiệu lũ lớn hơn lũ 500 năm xảy ra đặc biệt là lũ có dạng

như lũ 1969 hay bất lợi hơn nữa có thể xảy ra thì sử dụng kết hợp với giải pháp

phân lũ sang sông Đáy theo nghị định 04 của Thủ tướng chính phủ.

3.4 Kết luận chƣơng 3

Chương 3 trình bày kết quả tính toán thử dần xác định Hgh của hồ chứa và vận

hành thử nghiệm với một số 10 trận lũ lớn đã xảy ra, từ đó cho thấy tính khả thi

của quan điểm nghiên cứu phương án tích nước sớm có điều kiện cho hệ thống

hồ chứa Sơn La và Hòa Bình của luận án, lập cơ sở khoa học vận hành hệ

thống hồ chứa Sơn La và Hòa Bình tích nước trong suốt thời kỳ mùa lũ.

Kết quả nghiên cứu bước đầu nghiên cứu tính khả thi của giải pháp sử dụng

một phần dung tích chống lũ cho công trình của hệ thống hồ chứa Sơn La và

Hoà Bình tham gia phòng lũ hạ du khi xảy ra lũ khẩn cấp trong thời kỳ tích

nước (với quy mô lũ tương đương lũ 300 năm).

KẾT LUẬN – KIẾN NGHỊ

Kết luận

1) Quy trình vận hành mới nhất hiện nay QT1622 vẫn còn tồn tại một số

bất cập. Luận án đã nghiên cứu, phân tích các quy trình vận hành và quá trình

23

thực tiễn điều hành hệ thống. Trên cơ sở đó, định hướng nghiên cứu vận hành

tích nước hệ thống hồ chứa bậc thang Hòa Bình và Sơn La theo quan điểm tích

nước sớm có điều kiện, với 2 thời kỳ tích nước: thời kỳ tích nước hạn chế và

thời kỳ tích nước đầy hồ. Theo đó, quyết định vận hành hệ thống sẽ phụ thuộc

vào kết quả dự báo lũ 3 ngày và trạng thái mực nước Hà Nội.

2) Luận án đã thiết lập căn cứ khoa học để xác định giới hạn trên của quá

trình tích nước của hệ thống hồ chứa bậc thang Hòa Bình và Sơn La. Kết quả

xác định Hgh theo từng cấp mực nước Hà Nội đã đánh giá tính khả qua vận

hành thử nghiệm đối với 10 trận lũ lớn đã xảy ra. Vận hành theo cơ chế luận án

đề xuất giúp nâng cao hiệu quả tích nước đầy hồ mà vẫn đảm bảo an toàn chống

lũ hạ du (mực nước hồ chứa Sơn La có thể tăng thêm 10 m so với MNTL khi

Hà Nội ở dưới mức 4,0 m).

3) Với đề xuất sử dụng một phần dung tích chống lũ cho công trình tham

gia phòng lũ hạ du để ứng phó trường hợp xảy ra lũ bất thường khi các hồ chứa

Sơn La (trên 209 m) và Hòa Bình (trên 110 m), đem lại một giải pháp dự phòng

trong quá trình vận hành hồ chứa thực tiễn và là cơ sở cho những nghiên cứu

thiết lập quy trình vận hành trong các tình huống khẩn cấp.

Kiến nghị

Những đề xuất cơ chế vận hành tích nước hệ thống hồ chứa bậc thang Hòa Bình

và Sơn La cùng phương án ứng phó của luận án cần phải được kiểm chứng

trong thực tiễn một thời gian. Với phương pháp luận về cơ sở khoa học nêu

trong luận án có thể là một hướng nghiên cứu để giúp cho các nhà quản lý

phòng chống lũ điều chỉnh bổ sung vào quy trình vận hành liên hồ chứa trên

sông Hồng để tăng hiệu quả tích nước của các hồ chứa, nâng cao công suất phát

điện và phòng chống lũ hạ du.

24

DANH MỤC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ

1. Vũ Thị Minh Huệ “Nghiên cứu đề xuất phương án vận hành hệ thống

bậc thang Hòa Bình và Sơn La chống lũ hạ du khi xảy ra lũ bất thường

trong thời kỳ tích nước”, Tuyển tập hội nghị Khoa học thường niên,

Đại học Thủy Lợi, 2016

2. Vũ Thị Minh Huệ "Nghiên cứu chế độ vận hành tích nước hồ chứa Sơn

La và Hoà Bình", Tạp chí khoa học kỹ thuật Thuỷ lợi và Môi trường.

vol.54, pp 81-88, Sept.2016.

3. Vũ Thị Minh Huệ, Hà Văn Khối "Nghiên cứu nâng cao mực nước

trước lũ hồ chứa thuỷ điện Sơn La, Hoà Bình trong giai đoạn khai thác

vận hành", Tuyển tập hội nghị Khoa học thường niên, Đại học Thuỷ

Lợi, 2015.

4. Ngô Lê An, Vũ Thị Minh Huệ "Nghiên cứu dự báo dòng chảy lũ đến

hồ chứa Sơn La, Hoà Bình và Tuyên Quang trên sông Hồng", Tạp chí

khoa học kỹ thuật Thuỷ Lợi và Môi Trường. vol.49, pp 73-79, Jun.2015.

5. Hà Văn Khối, Vũ Thị Minh Huệ. "Phân tích ảnh hưởng của các hồ

chứa thượng nguồn trên địa phận Trung Quốc đến dòng chảy hạ lưu

sông Đà, sông Thao", Tạp chí khoa học kỹ thuật Thuỷ Lợi và Môi

Trường. vol.38, pp 3-8, Sep.2012