TRUNG TÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN QUỐC GIA

VIỆN KHẢO CỔ HỌC

Chƣơng trình KX - 06

NHỮNG VẤN ĐỀ VĂN MINH VĂN HÓA

VÌ SỰ PHÁT TRIỂN VÀ TIẾN BỘ XÃ HỘI

Đề tài KX 06 - 02

QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH

BẢN SẮC VĂN HÓA VIỆT NAM

Chủ nhiệm đề tài

Giáo Sƣ Hà Văn Tấn

Các tác giả

CHỬ VĂN TẦN, HÀ VĂN TẤN, HOÀNG XUÂN CHINH

PHẠM LÝ HƢƠNG, VŨ THẾ LONG

Hà-Nội - 1995

TRUNG TÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN QUỐC GIA

VIỆN KHẢO CỔ HỌC

Chƣơng trình KX - 06

NHỮNG VẤN ĐỀ VĂN MINH VĂN HÓA

VÌ SỰ PHÁT TRIỂN VÀ TIẾN BỘ XÃ HỘI

Đề tài KX 06 - 02

QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH

BẢN SẮC VĂN HÓA VIỆT NAM

Chủ nhiệm đề tài

Giáo Sƣ Hà Văn Tấn

Các tác giả

CHỬ VĂN TẦN, HÀ VĂN TẤN, HOÀNG XUÂN CHINH

PHẠM LÝ HƢƠNG, VŨ THẾ LONG

Hà-Nội - 1995

DANH SÁCH CÁC THÀNH VIÊN

THAM GIA NGHIỀN CỨU ĐỀ TÀI KX06 - 02.

Chủ nhiệm đề tài: Giáo sƣ HÀ VĂN TẤN

Các thành viên (xếp theo A, B, C):

1/ NCV. Bùi Văn Vinh.

2/ PGS. Chử Văn Tân (Chủ nhiệm đề tài nhánh).

3/ PTS. Hà Hữu Nga.

4/ PT5. Hà Văn Phùng (Thƣ ký đề tài).

5/ GS. Hà Văn Tấn (Chủ nhiệm đề tài nhánh).

6/ PGS. Hoàng Xuân Chinh (Chủ nhiệm đề tài nhánh).

7/ PTS. Nguyễn Thị Kim Dung

8/ PGS-PTS. Phạm Lý Hƣơng (Chủ nhiệm đề tài nhánh).

9/ PTS. Nguyễn Trƣờng Kỳ

10/ PTS. Trịnh Các Tƣởng

11/ PTS. Trịnh Văn Sinh.

13/ NCV. Vũ Thế Long.

MẤY LỜI NÓI ĐẦU

Bản sắc văn hóa dân tộc là hệ thống các giá trị văn hóa mà mỗi dân tộc chấp nhận. Tất

nhiên nói" giá trị" ở đây, ta không hề dùng khái niệm đó theo nghĩa giá trị học (axiologic),

nghĩa là tiến bộ hay không tiến bộ, theo nhận thức chủ quan của chúng ta. Mỗi dân tộc có một

bản sắc văn hóa riêng gồm những giá trị phù hợp với nó, kể cả những giá trị trung tính

(neutre).

"Ví dụ ăn là một yêu cầu sinh học. Nhƣng ăn bốc ăn đũa hay ăn bằng thìa thì đó là

văn hóa. Và chúng ta không thể coi cách ăn nào là tiến bộ hơn cách ăn nào. Đó là những giá

trị trung tính. Cũng nhƣ thế cái đói là động lực sinh học nhƣng khẩu vị để thỏa mãn cái đói

chính là văn hóa.

Nhƣng nói nhƣ vậy không có nghĩa là tách rời tự nhiên và văn hóa. Ngƣời ta thƣờng

nói cái gì không phải tự nhiên thì là văn hóa. Nhƣng có điều văn hóa không thể tách rời với

môi trƣờng tự nhiên. Tất nhiên, văn hóa gắn liền với ứng xử và ứng xử là cả thiên nhiên và xã

hội. Và ứng xử thì phải có chuẩn mực của cộng đồng. Chính ở những chuẩn mực cộng đồng

này, bản sắc văn hóa lộ ra rõ ràng. Và sau cùng, chúng ta cần thấy rằng văn hóa cũng phụ

thuộc vào lịch sử : lịch sử biến đổi và do đó, văn hóa cũng biến đổi theo, do những điều kiện

mà lịch sử đƣa lại.

Nhƣ vậy chúng ta cần chú ý đến ba điểm :

1. Văn hóa và môi trƣờng tự nhiên

Trong thƣ Triệu Đà viết cho vua Hán có câu" Âu Lạc ở phía Tây, ở trần mà cũng

xƣng vƣơng''. Chắc là câu đó không tránh khỏi có ý miệt thị. Nhƣng ở trần ở nƣớc Âu Lạc, và

trƣớc đó, ở thời đại các vua Hùng. thì là một đặc điểm gắn liền với văn hóa, với bản sắc văn

hóa : ở trần đóng khố đối với nam và mặc váy đối với nữ . Đóng khố mặc váy thì ở nông thôn

Việt Nam cho đến trƣớc cách mạng tháng tám còn rất phổ biến . Chúng tôi nghĩ rằng điều đó

phù hợp với điều kiện khí hậu. Đó là nói chuyện cái mặc. Cũng nhƣ vậy trong cái ăn, bát

canh có vị tri quan trọng trong bữa cơm Việt Nam. Chan canh là cách ăn đặc biệt Việt Nam.

Lấy ví dụ nhƣ ngƣời Nhật, họ không bao giờ chan lẫn cơm với canh mặc dầu nƣớc này cũng

ăn cơm và ăn canh. Và trong

I

các thứ rau làm canh, ngƣời Việt Nam lại thích loại rau nhớt nhƣ rau mồng tơi, rau đay ...

Cũng lại do điều kiện tự nhiên.

Tất nhiên, cũng do điều kiện khí hậu, giũa các vùng có khác nhau. Miền Nam, nhƣ

hiện nay, thích uống trà đá, còn miền Bắc, thì lại thích chè nóng. Nhƣng nhìn chung, cần chú

ý môi trƣờng tự nhiên đối với văn hóa.

Môi trƣờng tự nhiên, từ thời dựng nƣớc đến nay, lại ít thay đổi. Do đó, nhiều yếu tố

bản sắc văn hóa gắn liền với môi trƣờng có lẽ là ít thay đổi.

2.Văn hóa và môi trƣờng xã hội

Môi trƣờng xã hội thì biến đổi có phần nhanh hơn môi trƣờng tự nhiên. Thế nhƣng ở

Việt Nam, văn hóa nói chung là văn hóa xóm làng và văn hóa nông nghiệp cho đến nay tình

hình đó gần nhƣ không có mấy thay đổi.

Cái mô hình làng, liên làng và trên đó là siêu làng, vẫn là cái mô hình đã hình thành từ

ngày lập nƣớc cho đến hôm nay.

Các chuẩn mực văn hóa vẫn đƣợc quy định bằng thói quen. phong tục, cấm kỵ đã

hình thành từ nghìn xƣa. Mà chuẩn mực là việc áp dụng các giá trị vào đời sống.

"Miếng giầu là đầu câu chuyện'' Một miếng ở làng bằng sàng trong bếp"."Một giọt

máu đào hơn ao nƣớc lã", v.v và v.v... là những ứng xử mà chúng tôi nghĩ rằng đó là những

chuẩn mực khá bền vững. Và suy cho cùng, những chuẩn mực đó chắc đã nẩy sinh từ thời

dựng nƣớc. Ví dụ : Mối quan hệ giữa họ và làng ở Việt Nam, không bao giờ công xã láng

giềng hay công xã nông thôn trở nên thuần nhất, mà vẫn gắn liền với công xã thị tộc nghĩa là

vai trò của huyết tộc bao giờ cũng lớn. Chắc là ai cũng biết rằng cho đến nay, ở nông thôn

vẫn còn các "chi bộ họ ta".

Nói nhƣ vậy là phải nói đến nguyên nhân lịch sử. Đáng lý ra, khi nhà nƣớc đã xuất

hiện, thì các tàn dƣ thi tộc , các cơ sở cộng đồng dần dần biến đi. Nhƣng ở Việt Nam lại khác.

Các cuộc xâm lƣợc đã buộc các yếu tố cộng đồng phải cố kết lại. Và trong một lịch sử mà các

cuộc đấu tranh chống ngoại xâm xảy ra liên miên thì các yếu tố cộng đồng phải tồn tại lâu

dài. Trƣớc quyền lợi của dân tộc thì cá nhân phải quên đi và cộng đồng là trên hết.

Vì vậy nhìn nhận về văn hóa, về bản sắc văn hóa. chúng ta không nên quên điều kiện

lịch sử và xã hội.

3.Bản sắc văn hóa dân tộc cũng thay đổi.

Đi tìm bản sắc văn hóa, ta thƣờng đi tìm những hằng số của văn hóa. Ta hãy nghe

Trần Văn Khê nói :"Khi ngƣời phụ nữ Việt Nam mặc áo dài, khác với áo "Ki mô nô"

II

của Nhật, áo "Sari" của Ấn Độ, áo dài "xẻ từ đùi tới chân" nhƣ áo Thƣợng Hải, chúng ta cho

rằng áo dài có tính dân tộc. Ai thấy áo dài cũng biết ngay là áo của dân tộc Viêt Nam. Khi

chúng ta ăn thịt kho, cá kho bằng nƣớc dừa xiêm, có bỏ nƣớc màu, khác hẳn với thịt heo xào

"chua ngọt" và cá chƣng tƣơng của ngƣời Trung Quốc, thì thịt kho, cá kho đã mang tính "dân

tộc" Việt Nam. Nói chi đến cách "gói nem chua", thì dân tộc Trung Quốc, Nhật Bản, Triều

Tiên, Thái Lan nhất định không biết làm món ấy ."Nem chua" rất đậm màu dân tộc Việt

Nam".

Nhƣng ta bỗng tự hỏi rằng cái áo dài Việt Nam kia có từ bao giờ ? Cái áo dài đó sản

sinh ra gần đây thôi, chứ đâu phải có từ đầu. Thế mới biết, trong các yếu tố bản sắc dân tộc,

có những cái xuất hiện sau, có những cái hấp thụ từ bên ngoài những cái biến đi, phù hợp với

con ngƣời Việt Nam

Có ngƣời nói rằng văn hóa Việt Nam vốn là thuộc nền văn hóa Đông Nam Á, rồi sau

đó do ảnh hƣởng của văn hóa Trung Quốc, văn hóa Việt Nam chuyển dần sang văn hóa Đông

Á.

Chúng ta cần phân tích rõ điều này. Lấy ví dụ trong âm nhạc. Có ngƣời cho rằng dƣới

ảnh hƣởng của Trung Quốc. chúng ta mới có thêm đàn đáy, đàn nguyệt... Nhƣng cũng có

ngƣời cho rằng đàn đáy của Trung Quốc (Tạm huyển cầm) và Mông Cổ (sandfe) bịt bằng da

trăn thùng đàn Shamisen của Nhật bịt bằng da mèo ở phía mặt và da chó ở phía lƣng. Còn

đàn đáy Việt Nam, tuy cũng có 3 dây nhƣng rất khác các loại đàn trên. Đàn nguyệt Việt Nam

cũng không giống với đàn nguyệt cầm (Yuegin) Trung Quốc. Nguyệt cầm Trung Quốc có

cần đàn ngắn, phím không cao, đàn có chữ chuyền, thiếu chữ nhấn. Do đó đàn đáy, đàn

nguyệt phải coi là có tính dân tộc. Và gần đây thôi, ta lại phải nói đến đàn ghi-ta phím lõm

dùng cho hát cải lƣơng.

Do đó không nên đối lập sự vay mƣợn và sự biến đổi sáng tạo. Tất cả cái đó, đều có

thể làm cho bản sắc văn hóa dân tộc thêm giàu có.

Điều đáng chú ý là lúc nào thì yếu tố ngoại sinh vay mƣợn của ngƣời đã trở thành yếu

tố nội sinh của dân tộc mình.

Với một cách nhìn nhƣ thế chúng tôi nghiên cứu "Quá trình hình thành bản sắc văn

hóa Việt Nam". Theo giới hạn của đề tài, chúng tôi chỉ nghiên cứu những yếu tố bản sắc văn

hóa của ngƣời Việt cổ hình thành vào buổi khai sinh của văn minh. Mà muốn làm đƣợc điều

đó, chúng tôi không thể không tìm hiểu các vấn đề :

1. Môi trƣờng sống của ngƣời Việt cổ.

2. Sự hình thành nền văn minh Việt cổ.

3. Nguồn gốc ngƣời Việt

III

4. Văn minh kỹ thuật của ngƣời Việt cổ.

5. Thế giới tinh thần của ngƣời Việt Cổ.

Nhƣ đã nói ở trên, bản sắc văn hóa không thể không gắn với môi trƣờng tự nhiên. Còn

sự hình thành văn minh Việt cổ thì cho chúng ta biết các bƣớc tiến tới văn minh cũng nhƣ

bản chất của văn minh mà ở đây là nền văn minh Đông Sơn. Và nhƣ vậy. ta có thể thấy bản

sắc văn hóa xuất hiện vừa là lâu đời vừa là nhảy vọt. Lâu đời vì đã có những yếu tố từ thời

Tiền Đông Sơn, nhƣng nhảy vọt, khi một nền văn minh với quốc gia, với nhà nƣớc đã xuất

hiện - văn minh Đông Sơn. "Cộng đồng ngƣời Việt tổ tiên ta đã sớm trở thành một dân tộc,

một quốc gia, đó là một sức mạnh, một thế mạnh rất cần thiết và quý báu. Đó là một sự tự

khẳng định giàu giá trị văn hóa để tự bào vệ mình để tồn tại và phát triển" (Phạm Văn Đồng,

Văn hóa và đổi mới).

Bản sắc văn hóa lộ rõ hơn trong văn minh kỹ thuật cũng nhƣ thế giới tinh thần. Viết

các phần này, chúng tôi cũng đã cố gắng nêu lên các yếu tố bản sắc văn hóa dân tộc.

Chúng tôi cũng coi việc tìm hiểu nguồn gốc ngƣời Việt nhƣ là một nhiệm vụ cơ bản

trong việc tìm về cội nguồn của văn hóa Việt cổ, và do đó, tìm về cội nguồn của bản sắc văn

hóa.

Và sau cùng, là phần" Bản sắc văn hóa Việt cổ". thử phác họa những yếu tố bản sắc

văn hóa Việt Nam thời khai sinh.

Tất nhiên là vào thời đó, chúng ta thấy trong bản sắc văn hóa. vắng bóng những yếu

tố mà sau này mới có.

Nhƣng xem ra, văn hóa Việt Nam có nhiều lớp, nhƣng không xếp chồng lên nhau,

chúng ta đều có thể nhìn thấy các lớp văn hóa đó, qua dặm dài lịch sử . Chẳng những thế có

nhiều yếu tố bản sắc văn hóa đã xuất hiện trong buổi bình minh của văn minh vẫn tiếp tục tồn

tại đến ngày nay. Những yếu tố mới của văn hóa không làm suy giảm chúng, mà ngƣợc lại,

còn rèn luyện, hun đúc chúng, làm cho chúng trở thành sức sống trƣờng tồn của dân tộc.

Tất nhiên ở đây chúng tôi cũng suy nghĩ đến những nhƣợc điểm của văn hóa truyền

thống, vì không có cái gì chỉ có mặt tốt mà không có mặt xấu, mặt yếu. Đó là biện chứng.

Nhƣng dẫu sao, chúng tôi không nghĩ rằng công trình này đã hoàn hảo, hẳn là còn

nhiều vấn đề cần bàn cãi.

Để hoàn thành công trình này, chúng tôi đã phân thành các đề tài nhánh, do những tập

thể cán bộ nghiên cứu đảm nhiệm. Chúng tôi cũng đã tiến hành nhiều hội

IV

thảo mong tập hợp đƣợc ý kiến rộng rãi của nhiều học giả. Viết công trình tổng hợp này

chúng tôi phân công nhƣ sau :

"Khái quát về môi trƣờng sống của ngƣời Việt cổ" do Vũ Thế Long ; " Sự hình thành

nền văn minh Việt cổ ",do Chử Văn Tần ; " Nguồn gốc ngƣời Việt", do Hà Văn Tấn ;"Văn

minh kỹ thuật của ngƣời Việt cổ "do Phạm Lý Hƣơng ; "Thế giới tinh thần của ngƣời Việt

cổ", do Hoàng Xuân Chinh; "Bàn sắc văn hóa Việt cổ", do Chử Văn Tần và Hà Văn Tấn.

Công trình do Hà Văn Tấn chủ biên.

Chúng tôi cảm ơn giáo sƣ Nguyễn Hồng Phong, chủ nhiệm chƣơng trình "Văn hóa

văn minh vì sự phát triển và tiến bộ xã hội " và giáo sƣ Vũ Khiêu đã đóng góp nhiều ý kiến

quý báu. Chúng tôi cũng cảm ơn các nhà nghiên cứu trong và ngoài Viện Khảo cổ học đã

nhiệt tình tham gia các cuộc hội thảo thuộc đề tài này.

HÀ VĂN TẤN

V

CHƢƠNG I: KHÁI QUÁT VỀ MÔI TRƢỜNG SỐNG CỦA NGƢỜI VIỆT

CỔ

Môi trƣờng tự nhiên có một ảnh hƣởng to lớn lên đời sống của con ngƣời. Môi trƣờng

là yếu tố rất quan trọng, nó góp phần tạo nên bản sắc văn hóa của mỗi dân tộc. Dân cƣ trên

thảo nguyên sống đời sống du mục thì mang bản sắc khác với dân chài trên sông biển. Ngƣời

sống trên núi cao có cuộc sống khác với ngƣời sống ở đồng bằng. Đó là lẽ tự nhiên. Vậy môi

trƣờng sống tự nhiên của ngƣời Việt cổ ra sao ? Ảnh hƣởng của môi trƣờng tự nhiên lên đời

sống của ngƣời Việt cổ nhƣ thế nào ? Đó là điều cần tìm hiểu đầu tiên khi muốn biết bản sắc

văn hóa của ngƣời Việt.

Môi trƣờng tự nhiên chính là những yếu tố quan trọng tạo nên bản sắc văn hóa của

ngƣời Việt. Để tìm hiểu khái quát về môi trƣờng sống tự nhiên của ngƣời Việt cổ chúng ta có

thể xem xét trên một số phƣơng diện chính sau : vị trí địa lý hay không gian sinh. tồn ; Chế

độ khí hậu ; Hệ động thực vật; Đất đai và khoáng sản.

Để hiểu đƣợc môi trƣờng sống của ngƣời Việt cổ đƣơng nhiên chúng ta cần phải dựa

vào các tƣ liệu khảo cổ học, cổ sinh vật học, cổ địa lý, cổ khi hậu, các thƣ tịch cổ cùng nhiều

nguồn tƣ liệu tổng hợp khác. Trong tinh hình hiểu biết hiện tại. Ở đây, chỉ xin nêu một số nét

khái quát về môi trƣờng sống của ngƣời Việt cổ trong mối quan hệ giữa môi trƣờng tự nhiên

và văn hóa.

Không gian sinh tồn của ngƣời Việt cổ : Thật khó có thể phân định một cách rạch ròi

không gian sinh tồn của một tộc ngƣời. Nhƣ là một trong những động vật sống trên hành tinh

này, theo luật tự nhiên, con ngƣời có thể mở rộng hoặc thu hẹp địa bàn cƣ trú của mình tuy

theo hoàn cảnh cũng nhƣ nhu cầu nội tại của mình. Ranh giới lãnh thổ quốc gia hiện tại

không phản ánh đƣợc ranh giới sinh tồn của các tộc ngƣời trong quá khứ. Bởi thế, đây là một

vấn đề khá phức tạp. Hiện tại. các tài liệu khảo cổ học cho biết cƣ dân Việt cổ đã từng có mặt

chủ yếu trong khu vực nay là phần lãnh thổ phía bắc Việt Nam. Các nhóm cƣ dân Việt cổ

sống tập trung ở các đồng bằng lớn. Đó là đồng bằng Sông Hồng, đồng bằng Sông Mã và

đồng bằng sông Lam (trừ vùng đất bồi ven biển mới đƣợc bồi tụ trên dƣới 1000 năm trở lại

đây). Ngoài vùng đồng bằng, dấu tích văn hóa của ngƣời Việt cổ còn đƣợc tìm thấy cả ở miền

núi.

Nhƣ vậy, không gian sinh tồn của ngƣời Việt cổ là một không gian mở, có núi cao ở

phía tây, tây bắc, bắc và đông bắc, có vùng đồi trung du và đồng bằng. Có đồng bằng cao tiếp

giáp trung du và đồng bằng thấp ven biển cùng một số hải đảo. Dân cƣ sinh sống Về yếu tập

trung ở vùng đồng bằng. Do hoàn cảnh địa lý đặc biệt nhƣ vậy nên cƣ dân Việt cổ sinh tồn

trong những hệ sinh thái đa dạng bao gồm hệ sinh thái núi

1

cao, hệ sinh thái thung lũng, hệ sinh thái trung du, hệ sinh thái đồng bằng phù sa, hệ sinh thái

ven biển. Bản thân các hệ sinh thái khác biệt này đã góp phần tạo nên sự phong phú trong bản

sắc văn hóa của ngƣời Việt.

Tuy sống trong các hệ sinh thái khác nhau nhƣng ngƣời Việt vẫn có đƣợc những mối

giao lƣu chặt chẽ giữa các tộc ngƣời và cả với các tộc láng giềng vì ngƣời Việt vốn sinh tồn

trong một không gian mở. Không gian mở này bao gồm toàn bộ phần phía đông là biển có thể

đón nhận mọi luồng văn minh khác từ biển vào và ngƣợc lại cũng qua các cửa biển mà văn

minh Việt có thể lan tỏa ra các vùng hải đảo hoặc các vùng ven biển xa xôi khác. Các dòng

sông lớn nhỏ và hệ thống những thung lũng là những huyết mạch giao thông nối liền các

cộng đồng cƣ dân Việt sống ở đồng bằng và núi cao. Đồng thời những hệ thống sông ngòi

này cũng chính là những mạch nối giữa cƣ dân sống trong các miền đồng bằng và mạch nối

Bắc - Nam.

Không gian mở là một điều kiện thuận lợi cho sự phát triển kinh tế, văn hóa của ngƣời

Việt từ khi hình thành cho mãi tận ngày nay. Không gian mở là một trong những nhân tố địa

lý hết sức quan trọng giúp cho văn hóa Việt Nam không đơn điệu mà luôn luôn đa dạng và

phong phú. Nhờ đó, ngƣời Việt có khả năng hội nhập và lan tỏa nền văn hóa của mình, tạo

nên một bản sắc văn hóa độc đáo nhƣng không cô lập. Nền văn hóa đó mang những sắc thái

riêng phù hợp với hoàn cảnh sống và môi trƣờng của riêng mình nhƣng cũng mang những sắc

thái chung của cả khu vực Đông Nam Á rộng lớn.

Tuy nhiên, không gian mở mặt khác cũng có những bất lợi của nó. Đó là ngƣời Việt

luôn luôn một mặt phải chăm lo xây dựng cuộc sống kinh tế, văn hóa của mình trong cộng

đồng thống nhất đa sắc tộc, mặt khác phải lo phòng thủ và chống trả quyết liệt với các kẻ thù

từ bên ngoài với mọi hình thức, từ xâm lấn đất đai bờ cõi cho đến âm mƣu đồng hóa về văn

hóa.

Có thể nói không gian sinh tồn mở đã là tiền đề tự nhiên thuận lợi giúp cho ngƣời

Việt ngay từ thời mới khai sinh đã có một khả năng tiếp xúc với nhiều nền văn hóa khác và

chính quá trình tiếp xúc đa phƣơng đó đã giúp ngƣời Việt không bị đồng hóa hay lệ thuộc quá

chặt chẽ vào bất cứ một nền văn hóa mạnh nào. Ngƣời Việt đã tạo dựng cho mình một nền

văn hóa riêng trên cơ sở tự phát triển và hội nhập những tinh hoa của các nền văn hóa khác

rồi biến đổi cho phù hợp với phƣơng thúc sống trong môi trƣờng tự nhiên và tâm thức sống

của riêng mình trong cộng đồng xã hội và cộng đồng nhân loại.

Chế độ khí hậu : Hiện tại, chƣa có những nghiên cứu về vật hậu học để tìm hiểu

những đặc trƣng và những diễn biến về khí hậu trong môi trƣờng sống của ngƣời Việt cách

đây từ 3-4 nghìn năm về trƣớc cho tới ngày nay. Tuy nhiên, những khảo sát trên

2

quy mô rộng hơn đã cho thấy từ giai đoạn đầu Holocene cho tới giờ, về mặt khí hậu, cũng có

một số biến đổi nhƣng không phải là những đột biến lớn. Khí hậu trong vòng 3-4 nghìn năm

trở lại đây núi chung có thể hình dung cũng tƣơng tự nhƣ khí hậu hiện tại.

Ngƣời Việt hình thành trong một vùng khí hậu gió mùa, lắm mƣa, nhiều nắng và rất khắc nghiệt(1)Tính chất khắc nghiệt thể hiện ở chỗ trong mùa hè thì nhiệt độ và độ ám thƣờng

rất cao, rất không thuận lợi cho sức khỏe của con ngƣời và nhiều loài gia súc, nhiều nấm

mốc, vi trùng côn trùng độc hại dễ sinh sôi và phát triển. Mùa hè cũng là mùa mƣa bão, lũ lụt.

Có những trận bão ghê ngƣời mạnh tới cấp 11, 12 làm tốc nhà cửa, đổ cây cối. đắm thuyền

bè. Có những trận lũ lụt cuốn phăng theo dòng sông ngƣời, nhà cửa, mùa màng và gia súc.

Về mùa đông, tuy nhiệt độ tronn vùng không hạ thấp nhƣ nhiều vùng khác trên thế giới

nhƣng chế độ thời tiết trong mùa đông ở Bắc Việt Nam rất thất thƣờng. Có những ngàỵ giữa

mùa đông, trời bỗng nóng nực nhƣ mùa hè rồi bất thình lình một trận gió mùa tràn tới trời đột

ngột trở rét. Cái rét cắt da cắt thịt tạo nên bởi sự hạ nhiệt độ đột ngột kèm theo gió lạnh và

mƣa phùn là một dạng thời tiết độc hại khiến nhiều ngƣời xứ lạnh đến vùng này cũng cảm

thấy rất khó chịu. Biến đổi nhiệt độ và độ ẩm đột ngột là một trong những nguyên nhân gây ra tật bệnh cho ngƣời và gia súc.(2)

Tuy nhiên, chế độ khí hậu trên lại là tiền đề thuận lợi cho nhiều loài thực vật cả lợi lẫn

hại đua nhau phát triển. Chế độ khí hậu này cũng cho phép ngƣời Việt có điều kiện du nhập

và phát triển một số cây ăn quả, cây lƣơng thực và đặc biệt là một số cây trồng ngắn ngày

trên vùng đất này làm đa dạng và phong phú nền văn hoá trồng trọt của mình. Đó là điều

nhiều cƣ dân sống trong các vùng khác dẫu có muốn cũng khó có thể thực hiện đƣợc.

Môi trƣờng khí hậu có nhiều thay đổi khiến cho ngƣời Việt phải sáng tạo ra nhiều

kiểu nhà ở, quân áo khác nhau sao cho phù hợp với thời tiết với môi trƣờng sống đặc thù của

từng vùng trong từng mùa. Tìm ra cách ăn uống phù hợp với từng mùa các cách phòng và

chống bệnh tật mỗi khi trái gió trở trời và quan trọng nhất là tìm ra

(1) Theo những số liệu thống kê khoa học thì lƣợng bức xạ tổng cộng; ở nƣớc ta vƣợt quá 100 kcal/cm2 trong một năm. Cân bằng bức xạ quanh năm dƣơng và đạt đến 75 kcal/cm2 /năm. Nhiệt độ trung bình năm là từ 22 đến 27 độ C. Tổng lƣợng nhiệt trên l0 độ C cả năm hay là tổng lƣợng nhiệt hoạt động lên đến 8000 độ. Nói chung về mùa hè, mỗi tháng chúng ta có tới 200 giờ nắng còn trong mùa đông, số giờ nắng cũng không dƣới 70 giờ hàng tháng (theo Lê Bá Thảo, 1977) (2) Nói chung khu vực Bắc Việt Nam kề từ đèo Hải Vân trở ra, về mùa đông có những đợt lạnh thực sự. Vùng Hà Nội có năm nhiệt độ hạ xuống dƣới 5 dộ C. ở một số vùng núi cao. có năm nhiệt độ hạ xuống dƣới 0 độ C làm cho mặt nƣớc tạo thành lớp băng mỏng, có năm có cả tuyết rơi.

3

những lịch thời vụ gieo trồng và chăm sóc hoa màu trong sản xuất nông nghiệp. Rõ ràng là

yếu tố khí hậu đã để lại những dấu ấn rất đặc trƣng trong mọi hoạt động văn hóa vật chất và

tinh thần của cƣ dân Việt. Chính đây là những yếu tố rất quan trọng tạo nên bản sắc độc đáo

của ngƣời Việt.

Khí hậu khắc nghiệt cũng chính là điều kiện rèn đúc con ngƣời Việt Nam. Do giỏi

chịu đựng và sinh tồn trong những điều kiện thời tiết khác nghiệt, ngƣời Việt có khả năng

chịu đựng một cách dẻo dai, bền bỉ trƣớc những biến đổi của môi trƣờng và sức tấn công của

bệnh tật. Đây là tiền đề thuận lợi giúp cho tổ tiên ta từ bao đời nay có khả năng giỏi đánh giặc

và mở mang bờ cõi. Khí hậu khắc nghiệt cũng là điều bắt lợi cho kẻ thù bên ngoài nhiều phen

muốn xâm lấn và đồng hóa dân tộc ta.

Môi trƣờng động vật và thực vật: Nhƣ đã trình bày ở phần trên. do đặc thù của vị trí

địa lý tự nhiên và điều kiện khí hậu đặc biệt nên thế giới động vật và thực vật ở khu vục phía

bắc nƣớc ta rất đa dạng và phong phú. Theo kết quả thống kê ban đầu thì trong vùng hiện còn

loài động vật và loài thực vật. Tuy nhiên, các di tích động vật đã tìm thấy trong các di chỉ

khảo cổ học cho thấy trong thời kỳ khai sinh, thế giới động vật ở nƣớc ta phong phú hơn ngày

nay cả về thành phần lẫn số lƣợng.

Lúc bấy giờ, nhiều vùng của miền Bắc nƣớc ta mà nay là đồng bằng hoặc trung du lúc

đó vẫn là các khu rừng nguyên sinh và rừng rậm. Ngay khu vực lân cận Hà Nội ngày nay, lúc

đó vẫn là rừng. Nhiều loài thú bây giờ đã khan hiếm nhƣ hƣơu, nai. lợn rừng, voi, hổ, báo,

khỉ... lúc đó sống nhan nhản khắp nơi. Thậm chí, tê giác là loài vật nay đã đƣợc coi nhƣ hoàn

toàn bị xóa sổ ở miền Bắc thì lúc đó vẫn còn khá nhiều . Di tích tê giác đã tìm thấy ở Thủy

Nguyên ( Hải Phòng ), Thiệu Dƣơng ( Thanh Hóa )...

Thời dựng nƣớc, ngƣời Việt sống hài hòa với tự nhiên. Việc chặt cây, đốt rừng làm

nƣơng hay khai phá đất phù sa ven sông, ven biển để canh tác lúa đã diễn ra mạnh mẽ nhƣng

tốc độ khai phá trong điều kiện lúc đó diễn ra một cách hài hòa chứ không khốc liệt nhƣ các

thời kỳ sau này. Ngƣời Việt có săn bắt một số loài thú rừng nhƣng việc săn bắt đó không phải

là một nghề chính nhƣ các dân tộc chuyên nghề săn bắt khác. Săn là để bảo vệ ngƣời và gia

súc tránh bị thú dữ tàn hại, săn để bảo vệ mùa màng khỏi bị các loài chim thú phá hoại là

chính chứ không phải săn để lấy thịt làm hàng đầu nhƣ các cƣ dân sống bằng nghề săn bắt

các bầy đàn thú lớn. Động vật nƣớc ta đa dạng và phong phú, giàu về thành phần loài nhƣng

không phong phú về số lƣợng của từng bầy nên văn hóa săn thú không thể hiện rõ trong văn

minh Việt.

Đánh cá biển hầu nhƣ không phải là một hoạt động phổ biến và thƣờng xuyên của hầu

hết các cộng đồng cƣ dân Việt cổ mặc dầu toàn bộ phần phía đông của nƣớc ta là biển cả.

Dân cƣ ven biển thƣờng chỉ mới khai thác các nguồn lợi thủy sản ven bờ

4

chứ chƣa khai thác trên biển xa. Điều này chúng ta có thể nhận thấy rõ trong cuộc sống của

các nhóm cƣ dân cận đại sống ven biển.

Ngƣời Việt cổ vẫn duy trì tập quán hái lƣợm vốn có từ hàng vạn năm trƣớc và kéo dài

dai dẳng cho tới tận ngày nay. Đó là phƣơng thức kiếm sống dựa vào việc khai thác và chế

biến từ các tài nguyên da dạng và phong phú sẵn có nhƣ mò cua, bắt ốc, thu lƣợm tôm tép,

ếch nhái, đánh bắt cá và hái nhặt những loại rau có trong tự nhiên, quanh nhà và trong rừng.

Đây là cách khai thác các nguồn tài nguyên có thể tái phục hồi một cách hợp lý và khoa học.

Việc khai thác tự nhiên theo kiểu hái lƣợm trong thời bấy giờ đã tạm thỏa mãn với nhu cầu

tiêu dùng thƣờng ngày.

Có thể nói nguồn đạm trong khẩu phần ăn của ngƣời Việt từ thời cổ xƣa cho tới tận

gần đây chủ yếu đƣợc khai thác từ các loài động vật thủy sản và một số cây họ đậu chứ

không phải từ nguồn thịt thú rừng hay sản phẩm chăn nuôi.

Trong quá trình hái lƣợm từ thiên nhiên, ngƣời Việt đã phát minh ra những cách chế

biến. bảo quản thực phẩm rất độc đáo của mình nhƣ cách nấu những món ăn tổng hợp gồm

nhiều thành phần động thực vật và gia vị hợp lại, cách chế biến các loại mắm, các loại thực

động vật phơi khô ủ chua lên men.. Những cách chế biến sản vật tự nhiên theo nhiều kiểu và

theo mùn đã tạo nên bản sắc độc đáo trong văn minh ăn uống của ngƣời Việt.

Việc hái lƣợm và sinh tồn trong một môi trƣờng sinh thái đa dạng và đa dạng về thành

phần loài đã cho phép ngƣời Việt tìm ra nhiều loại thảo mộc nhiều loại động vật và khoáng

vật đặc biệt có thể cấu thành những bài thuốc đặc sắc trong việc phòng và chữa bệnh của

ngƣời Việt Nam.

Do đặc thù của khí hậu nóng ấm, nhiều vi trùng độc hại nên việc chăn nuôi gia súc

của cƣ dân Việt cổ không đƣợc phát triển mấy. Các súc vật nuôi lúc bấy giờ chỉ có chó, trâu

bò, lợn và voi. Những gia súc nuôi để lấy thịt cũng không đƣợc sử dụng thƣờng xuyên mà chỉ

sử dụng trong những dịp hội hè lễ tết.

Thuần voi và sử dụng voi là một trong những thành tựu văn hóa cao của ngƣời Việt.

Trong lao động sản xuất cũng nhƣ trong chiến tranh giữ nƣớc qua các thời đại, con voi đã

đóng một vai trò đáng kể.

Đất đai và khoáng sản : Cho đến nay, chúng ta vẫn chƣa tổ chức nghiên cứu đầy đủ về

các tầng đất trong khảo cổ học để hiểu đƣợc chế độ khai thác và sử dụng đất của ngƣời xƣa.

Các phƣơng thức tìm và khai thác khoáng sản của ngƣời Việt cổ mới chỉ đƣợc nhắc tới trong

một số công trình lẻ tẻ và mảng nghiên cứu này cũng chƣa đƣợc

5

đi sâu. Tuy nhiên, qua các tƣ liệu đã có, ta có thể hình dung đƣợc phần nào phƣơng thức sử

dụng đất đai và khai thác khoáng sản đƣơng thời.

Ngƣời Việt đã tận dụng triệt để việc khai thác các vùng đất phù sa và bãi bồi ven sông

ven biển, vùng đất phì nhiêu, màu mỡ nhất để trồng lúa nƣớc. Các thung lũng hẹp cũng đƣợc

khai thác từ lâu đời.

Trong canh tác lúa nƣớc, đất luôn phải gắn liền với nƣớc và ngƣời Việt từ xƣa đã biết

xây dựng các hệ thống thủy lợi để điều tiết nƣớc trong các vùng ruộng cao và vùng ruộng

thấp. Vùng đất thấp ven biển thì đƣợc tƣới tiêu bằng cách lợi dụng mực nƣớc lên xuống hàng

ngày của thủy triều.

Canh tác ở vùng cao thì đốt rẫy làm nƣơng, chọc lỗ tra hạt. ở vùng thấp thì dùng trâu

dẫm cho nát đất rồi mới cấy lúa.

Chƣa có mấy tƣ liệu nghiên cứu về việc sử dụng phân bón làm tăng độ phì đất của

ngƣời Việt cổ trong thời xa xƣa.Việc dùng phân gia súc và nhân Bắc có lẽ chỉ xuất hiện trong

những giai đoạn muộn hơn sau này. Dùng một số loại thủy sinh nhƣ bèo hoa dâu làm phân

bón là một phƣơng pháp khá độc đáo của ngƣời Việt.

Chính nhờ canh tác lúa nƣớc nên phân lớn đất đai trong các vùng đồng bằng nƣớc ta

mới giữ đƣợc độ màu mỡ, phì nhiêu một cách lâu dài. Từng tấc đất trồng trọt ở đồng bằng

ngày nay có đƣợc là kết tinh của quá trình khai phá, gìn giữ và chăm sóc cần mẫn từ đời này

sang đời khác của bao thế hệ ông cha chúng ta.

Nƣớc ta nằm trong vùng có chứa nhiều khoáng sản, đó là tiền đề thuận lợi cho việc

phát triển khai khoáng và luyện kim. Việc khai thác đồng, sắt có lẽ cũng đã đƣợc thực hiện từ

lâu đời trong một số vỉa quặng vùng Lào Cai, Thái Nguyên và một số khu vực khác. Chúng ta

chƣa tìm đƣợc nhiều chứng liệu có liên quan đến các khu mỏ cổ và nghề khai mỏ cổ xƣa

nhƣng hàng loạt hiện vật đồng, trống đồng Đông Sơn với số lƣợng và mật độ cao, các khuôn

đúc, xỉ đồng có trong các di chỉ khảo cổ là những bằng chứng gián tiếp cho thấy sự phát triển

kỹ nghệ khai khoáng, luyện kim trong khu vực và trong văn minh Việt cổ đã hình thành và

phát triển từ lâu đời.

Nhiều loại đá qúi đã đƣợc khai thác và chế tác một cách công phu, tài khéo mà di tích

của chúng bao gồm hàng loạt công cụ, các loại đồ trang sức độc đáo đƣợc tìm thấy hàng loạt

trong các di chỉ khảo cổ và công xƣơng chế tác đá. Chế tác đồ trang sức đã thể hiện tài khéo

và hiểu biết về các loại đá quý cũng nhƣ công nghệ khai thác chế tác chúng của ngƣời Việt

bao đời nay.

Nƣớc ta có nhiều dạng đất sét, cao lanh là những vật liệu truyền thống lâu đời trong

nghề gốm sứ. Các loại hình gốm sứ phát triển từ thấp đến cao qua các thời đại

6

chính là những "trang sử" lâu bền và rực rỡ thể hiện bản sắc và tài trí của ngƣời Việt trong

việc khai thác các nguồn nguyên liệu chế tác và sáng tác nên những vật dụng và các tác phẩm

nghệ thuật độc đáo, hoàn mỹ.

Đất Nƣớc sản sinh ra con ngƣời cũng là cái nôi sản sinh ra văn hóa, nơi hình thành,

củng cố và phát huy rực rỡ các bản sắc vốn có, đã có và sẽ có trong tƣơng lai. Khi tìm về cội

nguồn của văn hóa của cội nguồn của chính mình để vƣơn cao hơn bay xa hơn trong tiến

trình phát triển, soi xét kỹ lại chính mình trong tấm gƣơng lịch sử trong mối hòa đồng giữa

con ngƣời và tự nhiên, một cái nhìn đầy đủ về sự phát triển hài hòa giữa ngƣời Việt Nam

trong thiên nhiên Việt Nam sẽ cho ta hiểu đƣợc nguồn gốc và bản sắc của chính mình.

Dẫu cho thiên nhiên có thay đổi theo chiều hƣớng này hay chiều hƣớng khác nhƣng

truyền thống ứng xử của ngƣời Việt với thiên nhiên Việt Nam có lẽ đã là một hằng số góp

phần tạo nên bản sắc không phai nhạt của chúng ta.

7

CHƢƠNG II: SỰ HÌNH THÀNH NỀN VĂN MINH VIỆT CỔ

Nƣớc ta khởi đầu từ Hùng Vƣơng đã khá văn minh. Núi non kỳ lạ, đất đai linh thiêng,

nhân dân anh hào, chuyện tích thần kỳ, thƣờng thƣờng vẫn có". Đó là những dòng chữ Vũ

Quỳnh viết cho bài tựa sách Lĩnh Nam chích quái cách đây đã 5 thế kỷ. Lĩnh Nam chích quái

đã tái hiện nên bức tranh khái quát với những đƣờng nét, những kết cấu cơ bản của nền văn

minh buổi đầu dân tộc. Bức tranh đó cũng nhuốm màu huyền thoại, nhƣ ở văn minh buổi đầu

của mọi dân tộc. Bởi lẽ từ bán khai bƣớc vào văn minh, con ngƣời cảm thấy mình trở thành

khổng lồ, làm đƣợc những chuyện thần kỳ, tự làm ra thức ăn đồ dùng, không còn thụ động

chờ ân huệ của thiên nhiên ban phát. Chính lao động sáng tạo của con ngƣời trong đấu tranh

sinh tồn đƣợc kết tinh trong những thành quả của văn minh là cơ sở cho những suy nghĩ bay

bổng đó. "Thần thánh chẳng qua là thân thánh hóa sức mạnh của con ngƣời" (Feurbach.).

Non sông, đất đai quả là kỳ lạ và linh thiêng trong cảm xúc của con ngƣời ở thời kỳ mở nƣớc

và tiếp nối sau đó.

Non sông, đất đai bờ cõi, không gian sống này quả là đã khác xƣa. Nó không còn là

hoang sơ, u tịch chùm lên những đốm lửa bập bùng trong những buổi chiều tà hay đêm dài

lạnh lẽo quanh nơi ở của con ngƣời. Giờ đây, điểm vào nền cảnh sơn thủy hữu tình, cùng với

cây đa giếng nƣớc là những cánh đồng lúa xanh tốt thẳng cánh cò bay, xóm làng đông vui tỏa

khói lam chiều. Hạt gạo trắng thơm - nguồn năng lƣợng nuôi sống ngƣời đƣợc sản sinh ra từ

hòn đất đỏ nâu thô phác. Một cuộc đổi đời thực sự nhƣ vậy hỏi rằng không phải là kỳ lạ, linh

thiêng sao đƣợc ?

Và cái sức mạnh tạo ra sự kỳ lạ sinh thiêng đó, tạo ra bộ mặt văn minh đó, chính là

nhân dân anh hùng đã lớn lên lẫm liệt trong khí thiêng sông núi - cái khi thiêng do chính con

ngƣời tạo ra bằng những giọt mồ hôi, nƣớc mắt và máu đào. Bức tranh lịch sử, bộ mặt văn

minh buổi đầu dân tộc đƣợc vẽ nên, đƣợc khôi phục lại bằng huyền thoại đó đã phần nào

phản ảnh đƣợc sự thật, đáp ứng đƣợc tình cảm của nhân dân ta hƣớng về cội nguồn, song vấn

đề lại không ít hoài nghi.

Ngô Sĩ Liên, nhà sử học nổi tiếng thời trung cổ nƣớc ta, đã mạnh dạn đƣa thời Hùng

Vƣơng vào chính sử, song cũng đã tỏ ra hết sức dè dặt khi viết: "Hãy tạm thuật lại chuyện cũ

để truyền lại sự nghi ngờ thôi" (Ngô Sĩ Liên 1967: 63)

Dƣới thời Pháp thuộc, một số nhà khảo cổ học Phƣơng Tây tuy có phát hiện ra di tích

khảo cổ của nền văn hóa Đông Sơn nổi tiếng, nhƣng họ không nhìn ra vết tích văn hóa đó

nhƣ là cơ sở vật chất của nền văn minh sơ khởi của dân tộc Việt Nam

8

Chỉ từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, cùng với sự hình thành và phát triển của

nền sử học mác xít mang đƣợm tính dân tộc và nhân dân sâu sắc cùng với ý thức dân tộc

đƣợc khỏi dậy mạnh mẽ, những chuẩn mực, những giá trị chứa đựng trong di sản văn hóa

đƣợc khai thác, bảo tồn và phát huy, lịch sử Việt Nam dần đƣợc nghiên cứu và viết lại, văn

minh Việt Nam thời dựng nƣớc dần đƣợc nghiên cứu đánh giá và dựng lại một cách chuẩn

xác hơn đầy đủ hơn.

Câu nói của Hồ Chủ tịch về dƣới mái đền Hùng năm 1954, trƣớc hàng quân tiến về

giải phóng Thủ đô : "Các vua Hùng đã có công dựng nƣớc" ý tƣởng đó nhƣ một luận đề sử

học nổi tiếng gắn thời kỳ lịch sử của vua Hùng với thời kỳ dựng nƣớc, xây đắp văn minh đầu

tiên của dân tộc Việt Nam định hƣớng cho những suy nghĩ tìm tòi về cội nguồn dân tộc.

Văn minh Việt cổ đƣợc soi sáng về mọi mặt.

Dƣới đây, chúng tôi xin trình bầy về quá trình hình thành và diễn tiến của nền văn

minh sơ khai đó trong thời đại dựng nƣớc và giữ nƣớc đầu tiên của dân tộc dựa trƣớc hết vào

các căn cứ khảo cổ học thu thập đƣợc, trong không gian phân bố và thời gian tồn tại đƣợc thƣ

tịch cổ và truyền thuyết gọi là nƣớc Văn Lang đời các vua Hùng.

I. CỘI NGUỒN - NHỮNG HỢP NGUỒN ĐẦU TIÊN VÀ ĐIỂM XUẤT PHÁT

CỦA VĂN MINH VIỆT CỔ

A. CỘI NGUỒN.

Văn hóa Hòa Bình và hậu Hòa Bình là cội nguồn xa xƣa của văn minh Việt Nam. đã

chứa đựng một số yếu tố của bản sắc văn hóa Việt Nam. Nhìn vào bản đồ phân bố, phân tích

các đặc điểm và theo dõi khuynh hƣớng phát triển của các văn hóa nguyên thủy trên đất nƣớc

ta thấy nổi lên hai hiện thƣợng tƣơng phản : sự phân bố rộng rãi và tồn tại dài lâu của văn hóa

Hòa Bình - Bắc Sơn với địa bàn chủ yếu là các thung lũng miền núi và sự phân lập hình

thành các văn hóa hậu Hòa Bình và hậu kỳ đá mới nhỏ hẹp hơn có phạm vi phân bổ chủ yếu

trên các dài đồng bằng ven biển sát núi.

Các di tồn vật chất của ngƣời Hòa Bình để lại thể hiện ở bộ công cụ đá và các phế thải

thức ăn trong sinh hoạt cho thấy những nét văn hóa truyền thống đã đƣợc hình thành từ một

nền kinh tế hái lƣợm và sân bắt phổ tạp, mang lại nguồn thức ăn chính cho con ngƣời là : rau

- củ - quả trên rừng và cua - ốc - cá dƣới nƣớc. Tuy nhiên ở mỗi giai đoạn phát triển của văn

hóa này, bên cạnh bộ công cụ đá gồm các loại hình truyền thống chủ yếu nhƣ chặt nạo, rìu

ngắn. dĩa... ghi nhận có sự gia tăng công cụ hình rìu - xuất hiện ngày càng nhiều công cụ đào

đất dạng cuốc - kỹ thuật mài lƣỡi công cụ đá phát triển mạnh xuất hiện đồ gốm... nhƣ những

bằng- chứng về sự manh

9

nha một phƣơng thức kiếm sống mới: chăm sóc và thuần dƣỡng cây con từ dạng hoang dại

sang dạng nuôi trồng. Thêm vào đó đã tìm thấy phấn hoa của họ rau đậu (Laguminosae) trong

một số hang động Hòa Bình nhƣ Sũng Sàm (Hà Tây), Thẩm Khƣơng (Lai Châu)... Niên đại

cácbon phóng xạ (C14) của hang Sũng Sàm là 11.365 ± 80 năm cách ngày nay, của hang

Đắng là 7580 ± 100 năm cách ngày nay cho thấy văn hóa này có thời gian tồn tại khoảng

5000 năm từ khoảng 12.000 năm đến 7000 năm cách ngày nay.

Nhờ kết quả cửa sự chuyển biến cách mạng từ nền kinh tế chiếm đoạt sản phẩm tự

nhiên sang nền kinh tế sản xuất này sinh do tiến bộ kỹ thuật và tăng dân số và nhờ vào hoàn

cảnh sinh thái thay đổi ở cuối kỳ canh tân, đầu kỳ toàn tân : khí hậu trở nên nóng ẩm, biển

rút... hình thành các dải đồng bằng hẹp kẹp giữa núi biển... cƣ dân Hóa Bình-Bắc Sơn đã

phân thành hai nhóm chính : nhóm nội địa và nhóm biển, nhóm miên núi, thƣợng du và nhóm

đồng bằng duyên hải hạ bạn, nhóm ở lại và nhóm ra đi

Nhóm ở lại miền núi tiếp tục sống trong môi trƣờng quen biết và nếp sinh hoạt truyền

thống, khiến những yếu tố của nền kinh tế mới không có điều kiện phát triển nhanh mạnh.

Trái lại nhóm tràn ra các đồng bằng duyên hải, ở đây môi trƣờng tự nhiên mới đã tạo

điều kiện thuận lợi cho sự phát triển nhanh chóng nhiều ngành kinh tế : đánh bắt cá. thu lƣợm

các loài thủy sản sông biển, chăn nuôi gia súc trâu, bò chó, lợn... và sản xuất nông nghiệp.

Mặt khác, chính do điêu kiện tự nhiên phong phú nguồn thức ăn có sẵn này lại làm chậm quá

trình "đá mới hóa" ở đây. Ở nhóm cƣ dân sống dọc duyên hải Bắc bộ và Bắc Trung bộ này đã

hình thành nên các nhóm di tích, các văn hóa cụ thể khác nhau : nhóm di tích Cái Bèo ở vùng

biển Quảng Ninh. Hải Phòng, văn hóa Đa Bút ở Thanh Hóa và văn hóa Quỳnh Văn ở Nghệ

An. Có thể lấy niên dại C14 5645 ± 115 năm cách ngày nay của di chỉ Cái Bèo (lớp dƣới) ;

6430 ± 50 năm cách ngày nay của di chỉ Đa Bút (độ sâu 1,2m) và 4785 ± 100 năm cách ngày

nay của di chỉ Quỳnh Văn (độ sâu 0,5m) để ƣớc đoán thời gian tồn tại của các nhóm di tích

và văn hóa hậu Hòa Bình duyên hải này vào khoảng 7000 năm - 4000 năm cách ngày nay.

Mặc dù có những khác biệt do các hoàn cảnh cụ thể qui định, nhìn chung, các văn hóa

vẫn là sự phát triển tiếp tục trong da dạng, một truyền thống văn hóa chung bắt nguồn từ văn

hóa Hòa Bình từ một nền kinh tế khai thác phổ tạp với nguồn thức ăn từ thực vật và lƣợm bắt

thủy sản là chính, chuyển sang nền kinh tế sản xuất đa canh với nghề cá (sông nƣớc) và chăn

nuôi gia súc gia cầm. Đứng ở góc độ kỹ thuật và công cụ, có thể ghi nhận sự tiếp tục phát

triển các yếu tố tiềm ẩn của truyền thống chế tạo và sử dụng đồng thời hay sử dụng trong mối

tƣơng quan trội - lặn rìu bôn tứ giác và rìu bôn có vai, là sự hình thành truyền thống gốm văn

thừng đáy tròn miệng rộng loe.

10

Những thành tựu văn hóa của các nhóm cƣ dân hậu Hòa Bình sống trong không gian

mới này, mặc dù chƣa đƣợc nhiều tƣ liệu soi sáng đầy đủ, còn tỏ ra khiêm tốn, song ý nghĩa

của chúng thật lớn lao. Trong điều kiện thiên nhiên vừa ƣu ái vừa khắc nghiệt, trong hoàn

cảnh, nhìn chung là có sự thử thách quyết liệt do đợt biển tiến Holocene Trung gây ra, con

ngƣời phải đấu tranh kiên trì, dành dật lại tùng khoảnh không gian sinh tồn nhỏ, từng bƣớc

khắc phục tập quán làm ăn cũ, không thụ động tìm hƣởng nguồn sống do thiên nhiên ban

phát, mà chủ động tạo ra nguồn sống mới thông qua lao động sàn xuất. Chính nhờ vào đức

tính kiên trì bám trụ và cài tạo không gian sống này, đã tạo cơ sở vững chắc cho sự tiếp tục

phát triển và dần hình thành nên một truyền thống vô cùng quí báu: tha thiết và bảo vệ nơi

sống - cốt lõi của lòng yêu quê hƣơng này đƣợc tiếp tục nhân lên ở các thể hệ tiếp sau. trở

thành lòng yêu nƣớc sớm nở, nồng nàn, sâu đậm.

Nhƣ vậy là, công cuộc chiếm lĩnh đồng bằng và ven biển đƣợc tiến hành trong giai

đoạn hậu Hòa Bình-Bắc Sơn thực sự vừa là nguyên nhân dẫn đến sự phân hóa văn hóa vừa là

động lực thúc đẩy, phát triển văn hóa, khiến chúng trở nên đa dạng hơn phong phú hơn.

Bƣớc vào giai đoạn cuối đá mới và sơ kỳ kim khí văn hóa tiền sử trên đất nƣớc ta tiếp

tục phân chia thành nhiều văn hóa đƣợc hình thành trong các khu vực nhỏ hơn. Nhƣng văn

hóa mang tính khu vực này theo thời gian có sự biến chuyển và đã trở thành các nguồn hợp

đầu tiên của văn minh Việt Nam thời khai sinh.

Trong số các văn hóa hậu kỳ đá mới - sơ kỳ kim khí này, văn hóa Phùng Nguyên ở

miền trung du và đồng bằng Bắc bộ đã giữ một vị trí quan trọng, có ý nghĩa nhƣ hạt nhân kết

tinh văn hóa đầu tiên của văn hóa Việt cổ.

B. CÁC NGUỒN HỢP ĐAU TIÊN - CÁC VĂN HÓA TRƢỚC HOẶC GỐI TIẾP

PHÙNG NGUYÊN

1. Văn hóa khu vực vùng núi phía Bắc

Trong nhiều hang động, trên các thềm sông suối, trong các thung lũng miền núi phía

Bắc ngày càng phát hiện ra nhiều di tích văn hóa thuộc giai đoạn cuối đá mới -đầu thời đại

kim khí.

Ở vùng núi Đông Bắc dấu vết văn hóa thời kỳ này thƣờng phát hiện rải rác trong các

lớp gần trên mặt của các hang động văn hoá Bắc Sơn nhƣ Làng Lục. Cồn Khế, Làng Cƣờm,

Nà Con, Khắc Kiệm... thuộc các tỉnh Lạng Sơn, Cao Bằng, Bắc Thái. Những di tích quan

trọng khác ở khu vục này là các hang Ba Xã, Mai Pha (Lạng Sơn) và địa điểm khảo cổ học

ngoài trời Lò Gạch (thị xã Hà Giang).

11

Ở vùng núi Tây Bắc, các di tích và di vật thuộc thời đại hậu kỳ đá mới - sơ kim khí

cũng đƣợc tìm thấy rải rác trong các hang động chứa các di tích thuộc các văn hóa Sơn Vi

hay Hòa Bình nhƣ trong hang Nậm Tum (Lai Châu), hang Puốc, hang Cò Lằm, hang Bản

Gièm, Bản Buôn, Bản Mé, Bản Tham (Sơn La).

Đặc biệt trong khu vực này đã phát triển ra công xƣởng chế tạo đồ đá ở mái đá Bản

Mòn, và hàng loạt các di tích thềm sông, ngoài trời nhƣ Bản Phố, Sập Việt, Cụm Đồn, Thọc

Kim mà ở đó các vết tích hậu kỳ đá mới - sơ kỳ kim khí nằm phủ lên hang lẫn vào các lớp

chứa di tích hay mang truyền thống Hòa Bình hay tiền Hòa Bình.

Trong không ít hang động văn hóa Hòa Bình thuộc tỉnh Hòa Bình nhƣ hang Khoái,

hang Bƣng, hang Xóm Trại... đều phát hiện ra dấu tích văn hóa của thời kỳ này.

Riêng ở các vùng núi miền bắc Trung bộ, cũng đã phát hiện dấu vết văn hóa của thời

kỳ hậu đá mới - sơ kim khí ở các hang Nà Thẩm, Thẩm Tiên (Thanh Hóa), Mé Muôn. Ké

Sang, Thẩm Hoi (Nghệ An). Đáng chú ý là việc phát hiện ra di tích ngoài trời Đồi Đền, nằm

ở ngã ba sông Nậm Non và Nậm Mô, chứa vết tích văn hóa của nhiều thời đại từ Sơn Vi đến

Đông Sơn, song chủ yếu là các di vật ở tuyến văn hóa Phùng Nguyên. Ở miền Tây các tỉnh

Quảng Bình và Quảng Trị, các di tích của thời kỳ này cũng phát hiện đƣợc ở Hang Rào, Khe

Tong, Minh Cầm, Yên Lạc, Kim Bảng, Xóm Thâm, Đúc Thi (Quàng Bình), Cù Bai, Bản Rạc,

Tà Pảng (Quàng Trị)...

Nhƣ vậy có thể nói, hầu hết các vùng núi phía Bắc bao gồm từ miền Đông Bắc-Tây

Bắc qua Hòa Bình tới các cùng núi miền Tây khu Bốn cũ đều tìm thấy dấu vết văn hóa giai

đoạn cuối đá mới và sơ kỳ thời đại kim khí. Vùng này là khu vực - vùng không gian sinh tồn

của cƣ dân hậu Hòa Bình ở lại vùng "đất tổ" của mình sau khi đã chia tay với các ngƣời anh

em đến miền đất mới.

Một mặt do cuộc sống tƣơng đối biệt lập trong các khu vực thung lũng cụ thể khác

nhau, mặt khác, nhờ có những tiếp xúc nhất định và thƣờng xuyên mà chủ yếu với" các nhóm

tiến xuống các miền đồng bằng và duyên hải gần đó, mà khối cƣ dân này đã tạo ra cho mình

một diện mạo văn hóa vừa có những nét riêng vừa mang những nét chung.

Những nét tƣơng đồng giữa các văn hóa ở các miền núi lẫn đồng bằng và ven biển

đƣợc thể hiện ở chỗ đều phát hiện đƣợc loại công cụ sản xuất chủ yếu bằng đá là những chiếc

cuốc đá hình tứ giác hay có vai, những rìu bôn đá tứ giác, có vai hay có nấc. Đồ gốm thƣờng

là loại đồ đựng đáy tròn hay có chân đế và đƣợc trang trí bằng hoa văn thừng chải hay khắc

vạch.

Đồ trang sức có vòng đeo tai hình vành khăn, các kiểu vòng đeo tay bằng đá có

12

mặt cắt hình chữ nhật, hình vuông, hình tam giác, hình chữ D... cùng các hạt trang sức bằng

đá, xƣơng và vỏ nhuyễn thể.

Nét riêng biệt của các dạng văn hóa vùng núi ở đây chính là ở chỗ mỗi khu vực đều

mang những phong cách riêng.

a. Đối với vùng núi Đông Bắc : Sắc thái văn hóa địa phƣơng ở đây hiện biết, thể hiện

rõ hơn cả trong 2 nhóm di tích.

Nhóm phía Đông gồm các di tích phân bổ trong sơn khối Bắc Sơn với các di tích Mai

Pha và Ba Xã (Lạng Son) là đại diện. Đặc trƣng cơ bản của nhóm di tích này là sự nổi trội

của rìu bôn, đục cuốc đá có hình chữ nhật hay tứ diện cùng với đồ gốm văn thừng đáy tròn

song có cổ eo và đôi khi có gắn-quai hay có tai xuyên lỗ có chân đế đƣợc trang trí bằng thủ

pháp khắc vạch thành hình hoa thị bốn cánh mà ở giữa và trên các cánh hoa đƣợc trổ lỗ

thủng.

Nhóm phía Tây phân bố ở các tỉnh Cao Bằng, Bắc Thái. Hà Giang và Tuyên Quang,

trong đó di tích Lò Gạch (Hà Giang) chứa đầy đủ hơn cả các đặc điểm văn hóa điển hình cho

nhóm di tích này.

Tƣơng phản với hang Mè Bạc (nhóm Ba Xã - Mai Pha), nơi rìu bôn tứ giác đƣợc dùng

phổ biến còn ở đây, trong di tích Lò Gạch thì cuốc rìu bôn có vai lại nổi trội lên.

Trong đó có những chiếc rìu bôn vai có nấc ngang hết sức độc đáo. Gốm thô, vỡ vụn

thƣờng trang trí văn thừng, hoa văn các dải chấm trong hai đƣờng song song. Chính dựa vào

tổng thể các nét khác biệt này mà một số nhà nghiên cứu nƣớc ta đã nghĩ tới khả năng về sự

tồn tại một văn hóa khảo cổ riêng biệt mang tên văn hoá Hà Giang -một văn hóa có mối giao

lƣu và cùng ở bình tuyến với văn hóa Hạ Long và Phùng Nguyên (Hà Vãn Tấn, Bùi Vinh và

Võ Quý 1989)

b. Ở vùng Tây Bắc: Vết tích văn hóa thuộc hậu kỳ đá mới sơ kỳ kim khí tìm đƣợc rải

rác trong một số hang động nhƣ trong hang Nậm Tum (Lai Châu) đã phát hiện đƣợc 3 ngôi

mộ, trong một mộ có chôn một nồi có dáng đáy gãy cao, vai xuôi. trang trí những đƣờng cong

kép hình chữ X. trong lớp đất gần mặt rải rác còn tìm đƣợc một số mảnh gốm và nhiều công

cụ xƣơng đọc mài nhắc hoàn toàn, ở hang Thẩm Khƣơng (Lai Châu) - cũng tìm đƣợc 7 công

cụ xƣơng mài trong đó có 1 mũi tên và 1 đục làm bằng xƣơng ống khỉ, 1 rìu vai mài toàn

thân, ở hang Puốc (Yên Châu - Sơn La) đã tìm đƣợc một nồi gốm lớn mà ở phần ngoài gần

miệng đƣợc trang trí hoa văn khắc vạch dạng chữ S biến thể nằm ngang và thân đƣợc trang trí

hoa văn dấu thừng. Chiếc nồi này phảng phất bóng dáng Phùng Nguyên.

Điều đáng chú ý là dọc bờ sông Đà trong 2 huyện Thuận châu. Yên Châu, đã

13

phát hiện một loạt di tích ngoài trời, hay hang động sát bờ sông nhƣ Hang Tọ (Thuận Châu)

Bản Phố, Sập Việt, Cụm Đồn, Núi Mỏ, Thọc Kim, Cò Lâm, Hang Chƣơng (Yên Châu)....

Tập hợp các di tích ở đây đã phác họa một diện mạo riêng biệt với các nét nổi lên nhƣ : rìu tứ

diện đƣợc sử dụng vƣợt trội rìu có vai. Tỷ lệ đó ở Sập Việt là 7/1, ở Bản Phố là 5/0. Đồ trang

sức đeo tay đƣợc chế bằng đá spilit có mặt cắt hình tam giác và chữ D. Những chiếc vòng này

đƣợc chế tạo ở các công xƣởng làm đồ trang sức ở Núi Mỏ, Thọc Kim hay ít nhiều ở ngay

khu cƣ trú nhƣ Sập Việt...

Đồ gốm ở đây, tuy có mang những nét kỹ thuật và phong cách chung nhƣ văn chải.

thừng, khắc vạch... song nét riêng biệt vẫn hiện lên rõ ràng dễ thấy, đó là sự nổi trội của văn

chài so với văn thừng, ở Sập Việt tỷ lệ đó là 1325/392, ở Thọc Kim là 19/3. Phổ biến loại

gốm miệng đứng, thành miệng phẳng hay hơi vát ra ngoài. Thứ đến là loại gốm miệng khum,

đáy tròn. Hoa văn trang trí khắc vạch cũng rất đa dạng có tới 16 loại. trong đó đáng chú ý hoa

văn vẽ bằng que nhiều răng (từ 2 đến 6 răng), có những mảnh ở đó văn vạch đè lên nền văn

chài. có những chiếc bát mà hoa văn khắc vạch đƣợc vẽ lên toàn bộ bề mặt ngoài hiện vật

nhƣ chiếc bát gốm ở Hang Chƣởng. Ngoài ra còn phải kể đến loại hoa văn ấn lõm kiểu cuống

rạ (tức hoa văn chấm tròn) ấn lõm rồi chấm nhỏ xung quanh thành hình hoa, hoa văn nụ dinh

dán thêm trên giao điểm các đƣờng khắc vạch (Chử Văn Tần 1992)

Bên cạnh những nét riêng đó, đồ đá và đồ gốm ở đây phản ánh mối liên hệ khá gắn bó

chặt chẽ với miền trung du Vĩnh Phú, nơi sông Đà hợp lƣu vói sông Thao. Về phƣơng diện

đồ đá có thể nhìn thấy rõ mối liên hệ đó, qua nguyên liệu, kỹ thuật và loại hình hiện vật ở các

công xƣởng chế tạo công cụ sản xuất rìu tứ diện ở Bản Mòn (Sơn La) và Gò Chè (Vĩnh Phú),

chế tạo đồ trang sức ở Núi Mỏ, Thọc Kim (Sơn La) và Hồng Đà (Vĩnh Phú)... Về đồ gốm, sự

gần gũi đƣợc thể hiện qua sự tồn tại của chạc gốm ở Sập Việt, Bản Phố, qua hoa văn trang trí

khuông nhạc ở đây khá giống ở di chỉ Đoan Thƣợng (Vĩnh Phú). Lối trang trí ấn vỏ sò hay ấn

lõm chấm xung quanh thành hình bông hoa - một đặc trƣng của gốm Hoa Lộc. có thấy cả ở

Gò Ghệ (Vĩnh Phú) lẫn ở Sập Việt.

Trên quê hương gốc của văn hóa Hòa Bình (các tỉnh Hòa Bình, Ninh Bình. Thanh

Hóa) trong nhiều địa điểm của văn hóa này nhƣ Hang Khoài (Mai Châu, Hòa Bình) Hang

Bƣng (Đà Bắc, Hoà Bình); Xóm Trại, Làng Vành. Đa Phúc (Lạc Sơn, Hòa Bình) Đồng Nội

(Lạc Thủy, Hòa Bình) Hang Đắng (Nho Quan, Ninh Bình) Đồng Giao (Ninh Khánh, Ninh

Bình) Thạch Sơn (Cẩm Thủy, Thanh Hóa) Mỹ Tế (Thạch Thành, Thanh Hóa)... cũng ghi

nhận nhiều vết tích văn hóa thuộc hậu kỳ đá mới, sơ kỳ kim khí. Tƣ liệu khảo cổ học ở đây

chƣa cho phép nhận ra xem dân cƣ ở đây lúc này ƣa sử dụng trội loại công cụ đá gì, rìu bôn,

cuốc có vai hay tứ diện. Đồ trang sức bằng đá

14

chƣa nói đƣợc gì nhiều ngoài loại khuyên tai vành khăn. vòng tay, hạt chuỗi bằng đá ngọc

kiểu Phùng Nguyên cặp đƣợc trong các mộ táng ở Hang Khoài. Cũng trong mộ táng của hang

này lại gặp đồ trang sức bằng ốc biển, những vòng trang sức bằng vỏ ốc hay đốt xƣơng cá

nhỏ li ti. Trang sức bằng ốc biển Cyrpaea còn thấy ở Hang Bƣng. Điều đáng lƣu ý hơn cả là

đồ gốm. Ở đây gặp các loại đồ đựng miệng vuông độc đáo trang trí trên thân loại hoa văn

dạng chữ S biến thể nhƣ thấy ở Thanh Sơn, ở Xóm Lác (Mai Châu, Hòa Bình). Hoa văn khắc

vạch, chấm tròn vẽ phóng khoáng hơn, trang trí trên một bề mặt rộng hơn nhƣng nhìn chung

có phong cách và các hoa tiết trang trí gần gũi hoa văn gốm Phùng Nguyên, nhƣ gặp trên các

mảnh gốm ở Xóm Trại, Thạch Sơn. Mỹ Tế...

Bộ mặt văn hóa vùng núi Bắc Trung bộ bao gồm các khu vực từ nam Thanh Hóa đến

Quảng Trị cũng phản ánh tính đa dạng của nó, thế hiện ra ở hai nhóm di tích quan trọng:

nhóm vùng núi Thanh Nghệ và nhóm vùng núi Bình Trị Thiên

Ở nhóm miền tây Thanh Nghệ : Các di tích tập trung ở vùng Quỳ Châu Nghệ An) và

Thƣờng Xuân (Thanh Hóa) bao gồm các di tích Thầm Mé Muôn. Thẩm Ké Sang, Thẩm

Pông, Nà Tham, Thẩm Tiên... Trong các di tích này đã phát hiện đƣợc nhiều rìu đá tứ giác

hay có vai mài nhắn toàn thân. Nhiều đồ trang sức nhƣ vòng tay, hoa tai bằng đá xanh hay

phiến thạch, hạt chuỗi hình ống và vỏ ốc biển xuyên lỗ. Đồ gốm cũng rất phong phú, phổ

biến là loại gốm đáy tròn. bên cạnh đó có các loại gắn chân đê hay đáy bằng. Hoa văn phổ

biến là loại in dấu thừng trên thân, bên cạnh đó các hoa văn trang trí đƣợc tạo nên bằng cách

dùng que nhiều răng vạch lên bề mặt gốm ở các phần cổ và vai thành các đồ án hoa văn sóng

nƣớc, sóng xoắn chéo thành hình số 8. thành văn xoáy ốc hay chữ S mang phong cách trang

trí của gốm Thạch Lạc - Bàu Tró. Cƣ dân ở đây còn tạo hoa văn trang trí bằng cách in lên đồ

gốm những vòng tròn to nhỏ khác nhau xếp thành hàng giới hạn trong hai hàng vạch song

song hay trong các đƣờng vạch thành các đồ án trang trí. Đáng chú ý là hoa văn chấm giải

giữa các đƣờng vạch chìm phát hiện trên đồ gốm ở Thầm Tiên và Thẩm Pông (Hà Vãn Tấn

1978) cũng nhƣ trên một nồi gốm đáy tròn đƣợc chôn cùng vói 1 khuyên tai đá hình vành

khăn trong một ngôi mộ ở Thẩm Hoi.

Cƣ dân sống ở miền núi phía tây Bình Trị Thiên đã để lại những dấu tích văn hóa có

diện mạo tƣơng tự nhƣ của cƣ dân đƣơng thời miền tây Thanh - Nghệ, trong một số hang

động nhƣ Hang Rào, Khe Tong, Minh Cầm, hay trên các đồi gò thềm sông nhu Cù Bai. Bản

Rác, Tà Păng...

Đặc điểm nổi bật của các di tích ở đây là sự tồn tại phổ biến của loại rìu bôn có vai

dƣờng nhƣ trội hơn loại rìu bôn không vai, chúng thƣờng có mặt cắt ngang thân hình bầu dục.

phần lớn đƣợc chế tạo từ đá lửa và đƣợc làm ở ngay nơi ở. Họ còn sử

15

dụng công cụ bằng xƣơng nhƣ mũi nhọn. Đồ gốm ở đây thƣờng gặp các loại nồi đáy tròn

bụng tròn miệng loe mép cuốn cong ra phía ngoài, mặt gắn phía ngoài đƣợc in dấu thừng.

Trên nền thừng thƣờng đƣợc vẽ bằng bút kẻ khuông nhạc có 2 hoặc 3 răng tạo ra các họa tiết

hoa văn hình sóng nƣớc, hình ô trám hoặc "răng sói". Cƣ dân ở đây còn ƣa dùng gốm màu

với các vành tranh trí màu đỏ thổ hoàng hay màu đen ánh chì. Đồ trang sức khá phong phú đa

dạng, đặc biệt ƣa chuộng đồ trang sức làm từ vỏ nhuyễn thể biển. Đó là những vỏ ốc xuyên

lỗ, những vòng vỏ sò ở giữa xuyên lỗ nhƣ đồng xu, nhiều vòng nhỏ li ti. Có loại hoa tai bằng

vỏ sò dùi lỗ ở một đầu. Ngoài ra còn gặp loại hạt chuối bằng đá xanh, hoa tai hình 6 cạnh

bằng ngà.

Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng văn hóa ở khu vực này có mối liên hệ với văn hóa

Bàu Tró đồng thời phân bố ở ven biển. thậm chí còn nghĩ nhóm di tích tây Bình Trị Thiên và

Nghệ Tĩnh chỉ là dạng địa phƣơng của văn hóa Bàu Tró (Phạm Thị Ninh. 1991 : 44). Tuy

nhiên phân tích hoa văn trang trí gốm - thƣờng mang đậm đà dấu ấn về đặc trƣng tộc ngƣời -

có thể nhìn thấy mối quan hệ xa hơn về. phía bắc biểu hiện qua gốm văn thừng và khắc vạch

trong có in các giải chấm mang phong cách Phùng Nguyên. Vì vậy có thể coi khu vực này

nhƣ địa bàn xa hơn cà về phía nam hiện biết là nguồn hợp văn hóa góp tạo nền văn minh Việt

cổ thời đại kim khí.

2. Các văn hóa ven biển

Bƣớc vào giai đoạn cuối đá mới và sơ kỳ thời đại kim khí, đồng thời với các nhóm cƣ

dân ở lại sống bám trụ với núi rừng, trên các vùng đất mới, các dải đồng bằng hẹp ven biển

miền Bắc nƣớc ta, con cháu của những ngƣời Cái Bèo - Đa Bút - Quỳnh Văn, trong bối cảnh

tiếp xúc văn hóa mới đã kế thừa, nâng cao và đổi mới lối sống và nếp sinh hoạt của tổ tiên,

tạo ra các văn hóa mới, đến nay đã xác định đƣợc là các văn hóa : Hạ Long, Hoa Lộc và Bàu

Tró.

a. Văn hóa Hạ Long phân bố chủ yếu ở vùng ven biển và hải đảo Đông Bắc Việt

Nam, cho tới nay dấu tích của văn hóa này đã thấy ở 20 địa điểm phân bố trên các cồn cát,

sƣờn đồi và hang động của vùng bờ biển và hải đảo từ Móng Cái đến Hải Phòng. Những di

tích này đều chứa những nét chung điển hình cho văn hóa Hạ Long. Đó là sự tồn tại phổ biến

của loại bôn đá có vai có nấc, lƣỡi xoè. Đôi khi ở nhiều chiếc có vai kép. dùng nhiều loại bàn

mài có những rãnh mài hình lòng máng cắt chéo nhau đƣợc gọi là "dấu Hạ Long". Đồ gốm

chủ yếu là loại hình gốm xốp, bên cạnh gốm chắc tồn tại loại gốm có miệng hình đa giác.

Hoa văn đắp nổi thành hình chủ S nằm hay trổ lỗ thủng thành hình tam giác là nét riêng của

gốm Hạ Long, bên cạnh lối trang trí văn thừng hay in mép sò, khắc vạch hình sóng nƣớc,

chữ S.

Có thể nói những nét riêng của Hạ Long, những dấu hiệu nhận biết về văn hóa

16

những chiếc bôn có vai có nấc nhƣng không phổ biến nhƣ t`rong văn hóa Hạ Long

Đồ gốm Hoa Lộc hết sức độc đáo cả về hình dáng lẫn hoa văn trang trí. Bên cạnh

những nồi vò có hình dáng thông thƣờng, ngƣời Hoa Lộc còn ƣa dùng những loại bình vai

gãy có miệng gấp vào trong, đặc biệt có loại bình vành miệng rộng có hình tứ giác hoặc bát

giác. Gốm đƣợc trang trí những hoa văn đẹp. Đó là những vạch thẳng hay xiên, những đƣờng

cong, những nhóm chấm. Các hoa văn đƣợc làm nổi bật trên nền đƣợc tạo ra bằng cách ấn

mép sò thành các đƣờng sóng li ti.

Một đặc điểm Hoa Lộc khác là sự có mặt của các hộp đựng phẩm và những con dấu

in, lăn hoa văn có hình dáng rất khác nhau : hình trụ, hĩnh chữ nhật, hình tròn, hình bàu dục.

Trên mặt những con dấu thƣờng đƣợc khắc rất sâu các họa tiết hoa văn chữ S tròn góc hay

gãy nóc, những đƣơng hồi văn liên hoàn. Những con dấu nhƣ vậy cũng gặp trong nhiều văn

hóa đá mới và đồng thau vùng Ấn Độ. Ban-căng,cũng gặp cả trong văn hóa Bản Chiềng (Thái

Lan).

Mối quan hệ giữa văn hóa Hoa Lộc với văn hóa Thạch Lạc đƣợc ghi nhận rõ nét qua

việc sử dụng đồ trang sức bằng đất nung, việc trang trí đồ gốm bằng hoa văn dùng que nhiều

kiểu bút kẻ khuông nhạc.

Gốm Hoa Lộc còn gặp xa hơn. sâu hơn trong các miền núi từ Tây Thanh-Nghệ cho

tới Sơn La. Đó là đồ gốm có hoa văn là dấu in mép sò, in dấu chấm và ấn lõm thành hình

bông hoa ở các di tích Sập Việt. Bản Gièm (Sơn La), có thể sông Mã đã đóng vai trò chuyển

tải và giao lƣu văn hóa Núi-Biển.

Về phía nam, trong hang Pò Cung (Nghệ An) đã tìm thấy nhiều mảnh gốm có hoa văn

chữ S với dấu in mép sò mang phong cách Hoa Lộc.

Đặc biệt cƣ dân văn hóa Hoa Lộc đã có mối quan hệ gắn bó với cƣ dân ở lƣu vực

sông Hồng. Ngƣời Hoa Lộc đã tham gia khai phá đồng bằng sông Hồng, cộng cƣ và trao đổi

với cƣ dân Phùng Nguyên sống ở các dẻo đồng bằng cao trƣớc núi. Trên đƣờng đi họ đã để

lại các dấu vết hiển nhiên biếu hiện qua di tồn vật chất trong các di chỉ cƣ trú nhƣ ở Núi Lê

dã tìm thấy đƣợc các đồ dùng bằng gốm nhƣ bát vuông kiểu nghiên mực, bình vai rộng trang

trí các dải băng hoa văn sò, những mảnh gốm chấm lỗ bằng đầu que khá to. Tại di chỉ Mã

Đống (Hà Tây) đã tìm thấy những di vật điển hình của văn hóa Hoa Lộc, đó là các rìu bôn có

vai, các vòng trang sức đá thô có mặt cắt hình cho T, chữ D hay tam giác, các khuyên tai hình

đĩa bằng đất nung, những mảnh gốm có hoa văn trang trí ấn lõm và chấm thành hình hoa,

chấm vạch kiểu que diêm.

Xa hơn nữa, gốm Hoa Lộc còn tìm thấy trong các di chỉ Phùng Nguyên ở ngay quê

hƣơng văn hóa này tức ở vùng đất Tổ Phong Châu tại các địa điểm nhƣ Ghệ, Dạ

18

đã phát hiện đƣợc các mảnh gốm trang trí thành các hoa văn ấn lõm hình hoa, hoặc các nhóm

chấm nằm trong hai đƣờng khắc vạch gấp khúc.

Riêng mối quan hệ giữa văn hóa Hoa Lộc với các văn hóa khảo cổ khác ở lƣu vực

sông Mã chƣa rõ ràng, mới chỉ hé mở qua các di tồn vật chất phát hiện đƣợc ở di chỉ Cồn

Chân Tiên nằm sát chân Núi Đọ. Đó là các bàn xoa gốm kiểu Hoa Lộc, những mảnh gốm

đƣợc tạo bằng kỹ thuật in lăn, những mảnh gốm có hoa văn tạo ra bằng que đầu tù, to in

thành hình hạt mè, giọt nƣớc...

Điều đó chứng tỏ vào cuối đá mới, đầu thời đại đồng thau, cách đây chừng 4 nghìn

năm đã có một nhóm ngƣời mang yếu tố văn hóa vùng biển tham gia chinh phục vùng đồng

bằng sông Mã : nhóm Hoa Lộc.

c. Văn hóa Bàu Tró

Trên địa bàn ven biển phía Nam của văn hóa Hoa Lộc, kéo dài từ Nghệ An tới Quảng

Bình là vùng cƣ trú của cƣ dân văn hóa Bàu Tró (Phạm Thị Ninh 1991). Một nền văn hóa

đƣợc nảy sinh từ văn hóa Quỳnh Văn trƣóc đó.

Niên đại của văn hóa Bàu Tró kéo dài từ khoảng cuối thiên kỷ III đến nửa đầu thiên

kỷ II trƣớc công nguyên.

Ở giai đoạn sớm, còn nhiều công cụ ghè đẽo và tồn tại phổ biến loại nồi miệng thẳng

đứng có đáy nhọn nhƣ đã gặp trong vùng hóa Quỳnh Văn. Về đặc trƣng đồ đá nói chung, có

thể nói rằng, chủ nhân văn hóa Bàu Tró đã sử dụng cả rìu có vai và rìu tứ giác đƣợc mài toàn

thân song vẫn còn lại những vết ghè đẽo sau. Rìu thƣờng có thiết diện ngang thân hình bầu

dục hay thấu kính đƣợc chế bằng đá trầm tích hoặc đá lửa. Rìu vai thƣờng có đặc điểm vai

xuôi. hẹp và chiếm tỷ lệ lớn hơn rìu tứ diện ở giai đoạn sớm. Ở khu vực Quảng Bình còn gặp

rìu vai nhọn và bôn "răng trâu". Đặc điểm chung của gốm Bàu Tró là đƣợc làm bằng đất sét

pha nhiều cát hoặc vỏ sò nghiền nhỏ, phổ biến nhất là loại gốm đáy tròn, ngoài ra còn có đồ

đựng có chân đế nhƣ bình, âu, chậu, bát, mâm bồng..., đặc biệt tồn tại loại đồ đựng có tai.

Hoa văn in dấu thừng và in mai rùa là hoa văn kỹ thuật chủ đạo. Hoa văn trang trí không

nhiều chiếm tỷ lệ từ 5 đến 6% so với hoa văn kỹ thuật và đƣợc tạo ra bằng các thủ pháp khác

nhau : khắc vạch bằng bút một răng hay nhiều răng, dán đắp thêm những giải đai, trổ lổ thủng

in ấn bằng lƣng, miệng mép vỏ sò hoặc tô màu lên đồ đựng.

Hoa văn phổ biến nhất là loại văn khắc vạch tạo ra các hoa văn khuông nhạc, làn sóng

hay chữ S gối đầu nhau, các tam giác đối đỉnh đƣợc điền đầy bằng các vạch chéo song song

theo một cạnh tam giác.

Gốm tô màu cũng là một nét riêng của văn hoá Bàu Tró. Màu đỏ đƣợc dùng phổ

19

biến nhất bên cạnh màu đen. Phong cách tô màu lên miệng đồ đựng thƣờng đƣợc kết hợp

chặt chẽ với văn kẻ khuông nhạc, văn chữ S gối đầu nhau.

Đồ trang sức bằng đá với các loại vòng có mặt cắt hình chữ T, chữ D. hình tam giác,

đã gặp trong các di chỉ nhƣng với số lƣợng không nhiều. Đã phát hiện đƣợc một số khuyên

tai, mảnh vòng bằng đất nung. Vết tích luyện kim đồng đã xuất hiện.

Ở những di chỉ, nhất là ở những di chỉ đồi vỏ sò điệp của văn hóa này. dấu vết của

hoạt động săn bắt đánh cá và hái lƣợm còn thể hiện đậm đà. đã tìm đƣợc một số xƣơng hƣơu

nai, lợn rừng, sừng dê. ngà voi. xƣơng sọ và nhiều đốt xƣơng sống cá biển, có đốt có đƣờng

kính tới 15cm. Nhƣng cần nhấn mạnh rằng, nông nghiệp là hoạt động sản xuất chủ yếu của

con ngƣời Bàu Tró. Ở nhiều di chỉ nhƣ Bãi Phôi Phối. Cồn Nền... tảng văn hóa dày chứa

nhiều mảnh gốm, mật độ mảnh gốm ở Cồn Nền lên tới 65 nghìn mảnh trên một diện tích khai quật 90m2. Cuốc đá, một công cụ làm đất chủ yếu, không những tìm đƣợc trong các di chỉ cƣ trú mà còn gặp trong các mộ táng đôi khi còn tìm đƣợc với số lƣợng lớn trong các hố cất dấu.

Đặt văn hóa Bàu Tró trong mối tƣơng quan với các văn hóa đƣơng đại cho thấy cƣ

dân Bàu Tró cũng đã có mối liên hệ với nhiều văn hóa khác nhau.

Mối quan hệ hay sự tƣơng đồng của văn hóa Bàu Tró với các văn hóa duyên hải phía

bắc nhƣ Hoa Lộc, Hạ Long, thể hiện ở chất liệu gốm thô pha trộn vỏ nhuyễn thể, ở hoa văn in

mép sò, hoa văn trổ lỗ thủng, hoa văn đắp nổi thể hiện ở việc sử dụng đồ trang sức bằng đất

nung, ở việc sử dụng bàn mài có dấu Hạ Long. Mối quan hệ với văn hóa tiền Sa Huỳnh ở

dọc ven biển nam Trung bộ đƣợc thể hiện ở những chiếc rìu bôn răng trâu, những khuyên tai

đất nung, những đồ gốm khắc vạch kết hợp với in ấn mép sò đặc biệt là ở gốm tô màu thổ

hoàng kết hợp với tô màu đen ánh chì thành từng giải và màu trắng thành các nhóm vạch hay

chấm vạch đứt quãng, rồi táng thức mộ nhƣ gặp ở Thạch Lâm là những nét văn hóa đặc trƣng

của các di tích tiền Sa Huỳnh và Sa Huỳnh.

Mối quan hệ giữa văn hóa Bàu Tró với văn hóa Phùng Nguyên ở lƣu vực sông Hồng

đƣợc bộc lộ rõ nhất qua loại hoa văn kẻ khuông nhạc thành các mô típ chữ V, hình sóng hay

chữ S nằm ngang - đặc trƣng của hoa văn gốm Bàu Tró - cũng thƣờng thấy trong gốm nhiều

di tích Phùng Nguyên. Trong một số di chỉ văn hóa Bàu Tró, cũng tìm thấy những mảnh gốm

có hoa văn chấm đều đặn giữa những đƣờng khắc vạch bao quanh, giống hệt nhƣ gốm loại

này trong văn hóa Phùng Nguyên.

20

C. VĂN HÓA PHÙNG NGUYÊN - ĐIỂM LÕI VÀ XUẤT PHÁT CỦA VĂN MINH

VIỆT CỔ

Một trong những thành tựu nổi nét nhất của khảo cổ học Việt Nam là việc phát hiện ra

hàng loạt các di chỉ khảo cổ học có niên đại trƣớc Đông Sơn ở vùng trung du và đồng bằng

Bắc bộ, mà trƣớc đó chƣa hề biết tới. Với hơn 50 địa điểm hiện biết, trong đó Phùng Nguyên

(Phong Châu, Vĩnh Phú) là di chỉ phát hiện đƣợc đầu tiên (1958) của văn hóa này cho thấy

các di tích Phùng Nguyên tập trung dày đặc và nhiều nhất là ở ngã ba các con sông Hồng và

sông Đà. Các di tích Phùng Nguyên còn thấy nhiều trên đất Hà Tây, Hà Bắc, Hà Nội và còn

lan rộng ra tới Hải Phòng nhƣ di chỉ Tràng Kênh hay tiến sâu xuống miền đồng bằng ở Nam

Hà nhƣ di tích Núi Hổ. Các xóm làng phùng Nguyên thƣờng có qui mô khá lớn -trên chục nghìn m2 thậm chí hàng trăm nghìn m2 và định cƣ khá lâu dài, các di chỉ cƣ trú có tầng văn hóa dày trên 1m.

Các di vật thu đƣợc trong các di tích Phùng Nguyên có số lƣợng hết sức lớn với

nhiều loại hình phong phú da dạng.

Công cụ sản xuất bằng đá gốm các loại cuốc, rìu bôn chữ nhật hay hình thang đôi khi

có vai, đục khoan, cƣa, bàn mài, dao gặt, mũi tên, mũi khoan... Nhiều đồ trang sức nhƣ vòng,

khuyên tai, nhẫn, hạt chuỗi... Đồ gốm Phùng Nguyên có nhiều loại hình phong phú nhƣ nồi,

bình, vò, bát, chậu, mâm bồng, "chân chạc", dọi xe chỉ. bi, tƣợng động vật (gà, chim, bò...)

Tiếp tục nghề nông trồng lúa nƣớc mà phấn hoa của loài lúa nƣớc Oryza tìm đƣợc ở

di chỉ Tràng Kênh, nhiều hạt gạo cháy tìm đƣợc trong các hố bếp ở lớp dƣới thuộc văn hóa

Phùng Nguyên của di chỉ Đồng Đậu, vết tích hạt lúa tìm đƣợc trong xƣơng gốm ở các di chỉ

Gò Hên, Đồng Đậu, Đồng Vông, Xuân Kiều... Lúc này dụng cụ làm nông đã đổi mới khá rõ.

Những kinh nghiệm sử dụng bàn xoay trong sản xuất đồ gốm đã giúp hoàn thiện kỹ

thuật khoan ren tiện đá mà sự biểu hiện trình độ tuyệt đỉnh của nó đƣợc thấy qua các sản

phẩm đồ trang sức, các vòng ống với nhiều đƣờng ren nổi, các vòng ống bản gờ cao rộng tạo

mặt cắt hình chữ T. Kỹ thuật luyện kim và chế tạo kim loại đã xuất hiện. Vết tích sử dụng

kim loại đã thấy ở 11 địa điểm trong đó ở Gò Bông bên cạnh các mảnh đồng gãy, còn tìm

thấy nhiều cục xỉ đồng. Điêu đó nói lên khả năng đúc chế kim loại tại chỗ của ngƣời Gò

Bông. Các mẫu phân tích quang phổ kim loại tìm đƣợc ở Đông Vông, Gò Bông, Đoan

Thƣợng cho hay phần lớn đồ đồng Phùng Nguyên có hợp kim đồng thiếc. Ở đi chỉ Bãi Tự

còn tìm đƣợc một vòng tay và ở Chùa Lái tìm thấy đƣợc một hòn bi bằng chì. Điều đó cho

thấy, bƣớc đầu tiếp xúc với kim loại ngƣời Phùng Nguyên đang trong quá trình tìm tòi để

khẳng định hợp kim tối ƣu. Tiếp xúc

21

với kim loại còn rụt rè, một loại nguyên liệu hiếm quí không có sẵn trong tự nhiên mà phải

tinh chế công phu nên ngƣời Phùng Nguyên mới chỉ dùng đồ đồng thau để chế ra các công cụ

nhỏ bé nhƣ kim, dùi...

Tài năng kỹ thuật và nghệ thuật của ngƣời Phùng Nguyên đƣợc bộc lộ trên các đồ

trang sức bằng đá và trên đồ gốm. Những công cụ gọt vót cắt hình rìu đục nhỏ nhắn xinh xắn,

nhƣng ống chuỗi hình trụ dài tới 4-5cm mài nhẵn bóng, khoan lỗ nhỏ xuyên suốt những vòng

ống với nhiều đƣờng ren nổi... đều đặn xinh xắn. xanh mát, nhẫn bóng tƣởng nhƣ các vòng

nhựa ngày nay, biểu hiện kỹ thuật chế tác đá của ngƣời Phùng Nguyên đã đạt tới đinh cao mà

các thời đại trƣớc nó khó đạt tới và các thời đại sau nó khó có thể vƣợt qua.

Trình độ tƣ duy và thẩm mỹ cao của ngƣời Phùng Nguyên còn biểu hiện ở sự tạo

dáng và trang trí hoa văn các đồ gốm. Những bát bồng chân cao. những bình hình tháp hình

quả dƣa đƣọc phủ lớp áo màu đỏ sáng nhẵn bóng, đƣợc trang trí hoa văn các đƣờng cong nềm

thoáng, liên hoàn, các hoa văn đối xứng đăng đối chặt chẽ thành các đồ án chữ S rời hay dính

liền nhau có những hình tam giác đệm kèm, thể hiện sự kết hợp khéo léo giữa hoa văn và

kiểu dáng.

Một đặc điểm khác của tƣ duy suy cảm của ngƣời Phùng Nguyên là phản ánh thế giới

khách quan một cách ước lệ, chú trọng các bộ phận hàm chứa cái thần của đối tƣợng. Phong

cách nghệ thuật đó có thể thấy sự phản ảnh qua các tác phẩm nghệ thuật nhƣ ở đầu gà bằng

đất tung ở Xóm Rền, ngƣời Phùng Nguyên nhấn mạnh tới cái cổ cao, cái mào to của chú gà

trống. Còn tƣợng ngƣời đàn ông bằng đá tìm thấy ở di chỉ Văn Điển thì nghệ nhân không thể

hiện tay còn mặt đƣợc thể hiện ƣớc lệ trong khi đó chú ý làm nổi rõ bộ phận sinh dục. Điều

đó cũng còn liên quan đến tín ngƣỡng phồn thực của ngƣời Phùng Nguyên và có thể là một

minh chứng về sự xác lập của chể độ phụ hệ trong một xã hội nông nghiệp, nơi mà vai trò của

ngƣời đàn ông ngày một tăng một xã hội mà ở đó cấu trúc xã hội nguyên thuỷ bình đẳng đã

có mầm mống tan rã biểu hiện qua sự khác biệt về qui mô và đồ táng chôn theo trong các

ngôi mộ ở khu mộ táng Lũng Hòa. Trong số 12 mộ ở đây có 2 ngôi mộ ít hiện vật nhất (chỉ

có 2 hiện vật), 2 ngôi mộ giàu đồ tùy táng nhất trên 20 hiện vật trong đó mộ số 8 có 23 hiện

vật. Các mộ còn lại từ 3 đến 13 hiện vật.

Dựa vào niên đại cacbon phóng xạ của một số địa điểm nhƣ ở Đồng Chỗ là 1850 ± 60

trƣớc công nguyên, lớp dƣới Đồng Đậu là 1380 ± 100 trƣớc công nguyên của di chỉ Tràng

Kênh là 1455 ± 100 trƣớc công nguyên những mẫu than này đƣợc lấy từ các lớp chứa di tích

văn hóa Phùng Nguyên thuộc giai đoạn muộn. Từ đó có thể đoán định văn hóa Phùng

Nguyên đã tồn tại chủ yếu trong nửa đầu thiên kỷ II trƣớc công nguyên.

22

Trên đây là những nét đặc trƣng quan trọng của văn hóa Phùng Nguyên. Nghiên cứu

mối quan hệ giữa văn hóa Phùng Nguyên và các văn hóa trƣớc và cùng thời với nó, cho thấy

văn hóa Phùng Nguyên đã tiếp thu và hội nhập nhiều yếu tố văn hóa của những văn hóa này.

Điều đó đƣợc phản ánh ngay trong bộ di vật của văn hóa Phùng Nguyên. Có thể gặp rải rác

trong bộ di vật Phùng Nguyên những phiến đá mang dấu vết lõm tròn kiểu Hòa Bình, những

rìu cuội mài lƣỡi, dấu Bắc Sơn, những rìu bôn có vai có nấc và gốm xốp kiểu Hạ Long,

nhƣng hoa văn trang trí in mép sò, khắc vạch khuông nhạc kiểu Hoa Lộc, Thạch Lạc...

Dựa vào những thành quả nghiên cứu mới nhất về địa chất và khảo cổ học đƣợc biết:

vào thời điểm cực đại của đợt biển tiến Holocene Trung cách ngày nay khoảng 7000-4000

năm "... bờ biển tiến sâu vào đất liền phủ kín đồng bằng sông Hồng từ Chƣơng Mỹ vòng lên

Đan Phƣơng, Hà Nội rồi sang Phả Lại. Mực nƣớc biển lúc này cao hơn bây giờ tới 4m" (Vũ

Tự Lập, Đàm Trung Phƣờng, Ngô Đức Thịnh, Tô Ngọc Thanh 1991 :11). Đƣờng bờ biển này

cũng là giới hạn thấp của rìa đồng bằng sông Hồng lúc đó. Nhƣ vậy diện tích đồng bằng còn

khá nhỏ hẹp thực chất chỉ bao gồm miền trung du hiện nay. Trên miền đất này khảo cổ học

đã phát hiện đƣợc những di tích sớm của văn hóa Phùng Nguyên, thậm chí có những di tích

tiền Phùng Nguyên hay khác Phùng Nguyên. Đó là các kiểu dạng di tich nhƣ Gò Con Lợn,

nơi mà rìu có vai nhiều gấp ba lần rìu tứ diện cũng vậy vòng trang sức thô dàỵ có mặt cắt

ngang hình tam giác cân hay chữ D cùng với những mảnh gốm thô vỡ vụn không thuộc gốm

Phùng Nguyên những di tích kiểu Núi Xây thể hiện những mối liên hệ về thời gian với sự bảo

tồn những yếu tố văn hóa sớm nhƣ rìu mài lƣỡi và dấu Bắc Sơn cũng nhƣ những mối liên hệ

về không gian với văn hoá Hạ Long và các văn hóa đƣơng đại ven biển Hoa Nam đƣợc nhận

ra qua những rìu bôn có nấc, rìu vai ngang vai xuôi rìu có khoan lỗ trên thân... Điều dáng chú

ý là nhóm di tích kiểu Bá Nội - Mã Đống lớp dƣới, nơi mà riu tứ diện dƣờng nhƣ là chiếm ƣu

thế tuyệt đối cùng với những mảnh gốm xốp có hoa văn in mép sò tồn tại song song với

những mảnh gốm chắc đã gợi suy nghĩ : phải chăng trƣớc khi có một văn hóa Phùng Nguyên

bừng nở rực rỡ với những mối tiếp xúc rõ ràng với các văn hóa Hạ Long, Hoa Lộc..., thì trên

dải đồng bằng hẹp quanh vịnh Hà Nội lúc ấy đã cƣ trú một nhóm cƣ dân tiền Phùng Nguyên

với đặc trƣng văn hóa lấy rìu tứ giác và gốm trang trí hoa văn khắc vạch làm tiêu biểu có mặt

sớm nhất ở đây, cùng cƣ trú bên cạnh các nhóm cƣ dân khác mới đến sau ngày một đông, mở

đầu quá trình cộng cƣ dung hợp và tiếp biến văn hóa lâu dài.

Ngƣời Phùng Nguyên không chỉ cộng cƣ, dung hợp văn hóa với các bộ lạc khác trên

địa bàn gốc của mình, họ còn mở rộng địa bàn cƣ trú và giao tiếp với các bộ lạc ở miền đất

khác.

23

Khắp mọi nơi từ vùng núi đến vùng đồng bằng ven biển, từ vùng biên giới phía bắc

cho tới Nghệ An, khảo cổ học đã phát hiện đƣợc nhiều dấu vết văn hóa mang sắc thái Phùng

Nguyên nhƣ thấy ở di tích Lò Gạch thị xã Hà Giang, ở Tràng Kênh ven biển Hài Phòng, ở

Núi Hổ, Mã Cao thuộc Nam Hà. ở cồn Chân Tiên thuộc lƣu vực sông Mã, ở Đền Đồi ven

biển Nghệ An. Sự có mặt các yếu tố điển hình của văn hóa Phùng Nguyên bên cạnh các yếu

tố văn hóa địa phƣơng ngoài địa bàn của văn hóa Phùng Nguyên cho phép hình dung bƣớc

đầu của một quá trình hòa hợp văn hóa và tộc người đầu tiên trên phạm vi miền bắc nước ta.

Theo dõi quá trình hình thành và phát triển của các văn hóa Tiền Đông Sơn và Đông

Sơn tiếp theo, có thể nhận ra những nét đặc trƣng của các nền văn hóa này đều có liên hệ với

văn hóa Phùng Nguyên. Từ những hình dáng của công cụ, vũ khí và đồ dùng. đến những nét

hoa văn. những kiểu vòng trang sức... đều đƣợc tạo lập từ thời Phùng Nguyên. Rõ ràng văn

hóa Phùng Nguyên là cội nguồn của văn minh sông Hồng và cư dân Phùng Nguyên là cái tôi

đầu tiên của dân tộc Việt.

II. BẢY THẾ KỶ TẠO NỀN

Giai đoạn phát triển văn hóa Việt cổ tiếp theo để vạch ra hơn, có thể cho rằng nó dài

lâu bảy thế kỷ.

Trong vùng trung du và đồng bằng Bắc bộ - địa bàn trung tâm của nƣớc Văn Lang.

giai đoạn này phát triển tiếp theo giai đoạn văn hóa Phùng Nguyên bao gồm 2 văn hóa khảo

cổ phát triển kế tiếp nhau văn hóa Đồng Đậu và văn hóa Gò Mun.

1. Giai đoạn hay văn hóa Đồng Đậu

Giai đoạn này mang tên địa điểm khảo cổ học đầu tiên phát hiện đƣợc ở gõ Đồng Đậu

thuộc xã Minh Tân huyện Yên Lạc tỉnh Vĩnh Phú vào năm 1964. Cho đến nay đã tìm đƣợc

19 di tích thuộc văn hóa này đƣợc phân bố trong các tỉnh Vĩnh Phú. Hà Tây, Hà Nội, Hà Bắc.

Nhiều di tích thuộc giai đoạn muộn của văn hóa Phùng Nguyên nhƣ Đồng Đậu (lớp

dƣới), Lũng Hòa (Vĩnh Phú). An Thƣợng (lớp trên) (Hà Tây). Từ Sơn (Hà Bắc) đã chứa đựng

những yếu tố văn hóa đặc trƣng cho giai đoạn Đồng Đậu tiếp theo thể hiện ở hoa văn kẻ

khuông nhạc thành các đƣờng vạch song song hay hình làn sóng đƣợc trang trí bên trong hay

bên ngoài bản miệng đồ gốm.

Đặc trƣng cơ bản của văn hóa Đồng Đậu đƣợc thể hiện trong bộ di vật hết sức phong

phú và độc đáo. vừa kế tục nâng cao vừa đổi mới các yếu tố văn hóa truyền thống có từ giai

đoạn Phùng Nguyên.

24

Công cụ sản xuất, vũ khí, đồ trang sức bằng đá vẫn tiếp tục phát triển các loại hình đã

tồn tại trong văn hóa Phùng Nguyên. Rìu bôn tứ diện vẫn dùng phổ biến những mảnh qua đá

hình lá dài bẹt, những mũi tên có mặt cắt ngang hình tam giác... các vùng trang súc đeo tay

bằng đá to nặng có mặt cắt hình chữ T, chữ D, tam giác, rồi khuyên tai 4 mấu đƣợc cải tiến

hơn thể hiện ở các mấu đƣợc làm rõ và tròn trịa.

Một trong những đặc trƣng quan trọng của văn hóa Đồng Đậu là sự phát triển "bùng

nổ" của kỹ thuật luyện kim và chế tác kim loại bằng đồng thau. Nếu nhƣ ở bình tuyến Phùng

Nguyễn vết tích đồng thau chỉ mới gặp ở một số nơi thể hiện trên các mảnh đồng vỡ nhỏ

không rõ ràng hoặc ở đôi ba công cụ bị gãy sứt khiến việc đoán định chức năng và định loại

gặp khó khăn thì đến giai đoạn Đồng Đậu, đồ đồng thau đã đƣợc dùng khá phổ biến. Tỷ lệ

hiện vật bằng đồng thau chiếm khoảng trên dƣới 1/5 số công cụ và vũ khí với các loại hình đa

dạng đã phát triển ổn định, ít ra có tới 14 loại hình nhƣ rìu, mũi lao, mũi tên, lƣỡi câu, búa,

giữa, vòng...

Đã tìm thấy nhiều khuôn đúc mũi tên, mũi nhọn, rìu bằng đá và bằng đất nung, tìm

thấy đƣợc khuôn đúc một hiện vật và khuôn đúc một lần nhiều hiện vật. Đặc biệt ở di chỉ

Đồng Đậu. ở độ sâu 1,5m thuộc lớp văn hóa Đồng Đậu đã phát hiện đƣọc 4 chiếc lò nấu

đồng. Tất cả đều có kích thƣớc nhỏ đƣờng kính khoảng 0,4m cao 0,5m, có lò còn nhận ra cả

miệng lò và lỗ thông gió, trong một chiếc lò đã tìm đƣợc mảnh nồi nấu đồng... Ở Đồng Đậu

còn tìm đƣợc nhiều xỉ đồng, vật đúc lỗi và cả đe đá, búa đồng dùng để gia công nguội sau đúc

thể hiện rõ nhất trong việc: chế tạo những lƣỡi câu.

Phát triển trên nền tảng nghề nông đang bƣớc vào thế phát triển ổn định, đến lƣợt

mình, nghề đúc đồng đã tạo ra những sản phẩm mới, những công cụ mới bằng kim loại mang

lại năng suất cao hơn, thúc đẩy trở lại nghề nông phát triển, khiến ngƣời Đồng Đậu trụ vững

và mở mang không gian sinh tồn của mình ở miền sông nước châu thổ sông Hồng.

Một đặc trƣng khác về văn hóa Đồng Đậu là đồ gốm. Về chất liệu, gốm Đồng Đậu

tiến bộ hơn gốm Phùng Nguyên cả về tạo tác kỹ thuật và độ nung. Chất liệu pha trộn mang

tính kết dính cao. Đồ gốm đạt độ nung cao hơn, dày, cứng hơn và thƣờng có màu xám nhạt.

Điều đáng chú ý là đồ đựng có kích thƣớc lớn gia tăng nói lên sự đáp ứng nhu cầu xản xuất

và sinh hoạt gia tăng, đồng thời còn phản ảnh trình độ kỹ thuật chế tạo gốm của ngƣời Đồng

Đậu đã dạt tới trình độ cao hơn.

Nếu nhƣ gốm và hoa văn gốm Phùng Nguyên thể hiện tính nhẹ nhàng uyển chuyển,

tính chau chuốt và tinh tế thể hiện chiều sâu tâm hồn và tƣ duy thông qua dáng gốm tròn, mặt

gốm đƣợc miết láng mang các dải hoa văn in chấm hay các đồ án

25

đối xứng chặt chẽ, đăng đối, thi gốm Đồng Đậu lại thể hiện một tính cách mạnh mẽ, phóng

khoáng nhận ra ở bề mặt cứng đanh, xám của đồ gốm. Hoa văn trang trí chủ yếu là những

đƣờng vạch khắc chạy song song, thẳng, cắt chéo nhau hay xoáy tròn hoặc thành những dải

chữ S đơn, kép đứng, nghiêng, nằm ngang nối đuôi nhau tạo ta những băng hoa văn sóng

nƣớc tù lăn tăn, nhấp nhô hay cuồn cuộn nhƣ những con sóng dậy trào. Mô típ hoa văn sóng

nƣớc này đã có từ bình tuyến Phùng Nguyên song chỉ đến giai đoạn Đồng Đậu mới phát triển

thành các dạng hết sức đa dạng, phản ảnh không những tính cách của ngƣời Đồng Đậu mà

đồng thời cũng phản ảnh hiện tƣợng thiên nhiên khách quan xảy ra gây ấn tƣợng mạnh mẽ

đối với con ngƣời. Ngoài lƣu vực sông Hồng, vết tích gồm văn sóng kiểu Đồng Đậu còn gặp

cả trong các di tích cùng thời vùng sông Mã, sông Cả nhƣ Đan Nê. Núi Cáo Trắng. Núi Nấp

(Thanh Hóa). Rú Cật (Nghệ An)... Loại gốm này không những chỉ tìm thấy trong các di chỉ

sát chân núi mà còn gặp trong các hốc núi ở những độ cao khác nhau cùng với những vỏ sò,

trai, ốc biển là chứng tích của một thời con ngƣời phải đƣơng đầu với những trận lũ lớn hoặc

có thể của một đợt biển dâng mà trong khảo cổ học đƣợc gọi là hiện tƣợng Đan Nê.

Giai đoạn Đồng Đậu có niên đại tồn tại vào khoảng nửa sau thiên niên kỷ thứ II trƣớc

công nguyên. Khung niên đại từ thế kỷ 15-14 đến thế kỷ 8-7 trƣớc công Nguyên là khoảng

thời gian của các nhóm di tích Đồng Đậu - Gò Mun kế tiếp nhau ra đời và phát triển.

2. Giai đoạn hay văn hóa Gò Mun

Giai đoạn này mang tên di chỉ Gò Mun thuộc xã Tứ Xã huyện Phong Châu tỉnh Vĩnh

Phú đƣợc phát hiện đầu tiên vào năm 1961. Đến nay đã có tới 34 di tích phân bổ trong các

tỉnh Vĩnh Phú, Hà Bắc, Hà Nội, Hà Tây, Ninh Bình. Thuộc binh tuyển này ở lƣu vực sông

Mã. có các di chỉ nhƣ Núi Nấp (lớp văn hóa và mộ táng sớm), Quỳ Chử (lớp giữa), Đông Sơn

(lớp văn hóa và nhóm mộ sớm). Núi Trịnh Thiệu Dƣơng (lớp văn hóa sớm) Đồng Ngầm.

Đồng Vừng họp thành nhóm di tích Quỳ Chử, cũng vậy, ở lƣu vực sông Cả có di tích Rú

Trăn mang những nét tƣơng đồng về văn hóa và thời gian với các di tích vùng sông Hồng và

sông Mã.

Theo nhịp độ rút của nƣớc biển và tạo lập đồng bằng, ngƣời Gò Mun đã mở rộng

phạm vi cƣ trú xa rộng hơn về phía nam và đông nam. Trên mặt đồng bằng còn lầy lội đã

xuất hiện thêm nhiều điểm cƣ trú mới nhƣ Vinh Quang, Chiền Vậy, Gò Thông. Đại Áng,

Dƣơng Xá... Chủ nhân văn hóa Gò Mun bằng lao động sáng tạo của mình dựa trên nền tảng

kinh tế và kỹ thuật của thời Đồng Đậu đã vƣơn lên làm chủ kỹ thuật đồng và chế tạo ra những

sản phẩm mới. Đồ đồng ngày càng vƣơn lên chiếm ƣu thế trong hoạt động sàn xuất và đời

sống. Về loại hình, nhiều đồ đồng vẫn mang phong cách truyền thống nhƣ rìu tứ giác, rìu xoè

cân, giáo hình búp đa, lao hình lá hay mũi

26

nhọn, tên cánh én..., song ngƣời Gò Mun còn tạo ra những loại hình di vật mới nhƣ liềm

đồng, rìu xéo đồng...

Đồ đá có chiều hƣớng giảm sút về số lƣợng cũng nhƣ loại hình. Tuy nhiên một số

kiểu dáng trang sức vẫn đƣợc duy trì ƣa chuộng nhƣ các loại vòng ống chữ T vành rộng,

riêng loại vòng đeo tai hình vành khăn đƣợc đặc biệt ƣa chuộng đƣợc sản xuất với số lƣợng

nhiều vào cuối giai đoạn này.

Gốm văn hóa Gò Mun thƣờng dày, độ nung cao, có màu xám, rất cứng, có khi gần

nhƣ sành. Các loại đồ đựng nhƣ nồi vò có miệng bẻ ngửa ra ngoài, bản miệng rộng thƣờng

đƣợc trang trí hoa văn hình học với những đƣờng nét gấp khúc thành các hình tam giác. hình

hình hành, chữ nhật... phối trí hài hòa với các vòng tròn nhỏ. Một số ít đồ gốm còn đƣợc

trang trí hoa văn hình bọt nƣớc, hình trăng khuyết, hình chim hay hình cá.

Nổi nét trong, sƣu tập gốm Gò Mun là sự tổn tại phổ biến của loại hình gọi là chạc

gốm lúc này đƣợc trang trí khá cầu kỳ và có nhiều hoa văn đẹp là các đƣòng cong đƣợc đắp

nổi hay khắc sâu. Ngƣời Gò Mun còn tạo ra những khối tƣợng bằng đất nung nhƣ các tƣợng

bò, chó. gà, vịt, rùa...

Ở bình tuyến Gò Mun, trong sự phát triển nội tại của mình. thể hiện qua quá trình

cộng cƣ khai phá đồng bằng và giao lƣu trao đổi, cƣ dân các vùng sông Hồng, sông Mã. sông

Cả ngày càng tạo ra sự gắn bó và thống nhất văn hóa thể hiện ở sự giống nhau cơ bản của các

công cụ, vũ khí và đô dùng bằng đá, bằng đồng cũng nhƣ bằng gốm. Sự khác nhau mang tính

địa phƣơng hay sắc tộc thể hiện ở sự khác biệt về hoa văn trang trí trên gốm và một phần ở

màu sắc của đồ gốm. Ví nhƣ trên gốm Gò Mun, vùng sông Hồng lối trang trí trở về với

truyền thống Phùng Nguyên : thể hiện sự ƣa chuộng các đƣờng chấm giải (mặc dù có thô

hơn), hoa văn chữ S nằm rời hay liền nhau, tiền thân của hoa văn vòng tròn tiếp tuyến trên

các trống Đông Sơn sau này, gốm thƣờng có màu xám. Trong khi đó gốm Quỳ Chử vùng

sông Mã thƣờng có màu bạc xám, miệng khum lòng máng (không phẳng nhƣ gốm Gò Mun)

bên trong trang trí các nhóm vạch chéo song song hay vạch chéo ngang dọc thành các ô hình

bình hành. Còn gốm Rú Trăn vùng sông Cả lại có màu nâu với nhiều sắc độ từ hồng tƣơi tới

xẫm màu mận chín, trên vai đồ gốm đƣợc trang trí hoa văn in răng lƣợc liên tiếp thành hình

răng sói.

Căn cứ vào một loạt niên đại cacbon phóng xạ ở nhiều địa điểm thuộc văn hóa Gò

Mun, trong đó có niên đại ở lớp dƣới di chỉ Vinh Quang là 1095 ± 120 năm trƣớc công

nguyên, của địa điểm Đông Sơn (lớp văn hóa sớm) là 850 ± 100 năm trƣớc công nguyên, của

địa điểm Đồng Ngầm (độ sâu 1,27m thuộc lớp Quỳ Chử) là 725±40 năm trƣớc công nguyên,

có thể định niên đại chung cho bình tuyến văn hóa Gò Mun là các thế kỷ XI-VIII trƣớc công

nguyên.

27

Nhìn bao quát về giai đoạn văn hóa Đồng Đậu - Gò Mun có thể thấy tính chất tạo nền

của nó đƣợc thể hiện ở sự chọn lọc xác lập các yếu tố văn hóa. biến chúng thành đặc điểm,

truyền thống văn hóa phản ánh tính cách, đặc trƣng của cộng đồng. Hàng loạt các công cụ sản

xuất bằng đá, bằng đồng với các kiểu loại khác nhau : chữ nhật, xoè cân, lƣỡi lệch, có vai...,

các vòng trang sức đá có mặt cắt hình tam giác cân. hình chữ U. chữ T nằm ngang, vòng ống,

các khuyên tai hình vành khăn, khuyên tai 4 mấu, những vũ khí nhƣ giáo búp đa, tên hình lá...

đều tham gia vào sự hình thành bộ di vật Đông Sơn. Những yếu tố hoa văn chấm giải, vạch

thẳng song song, hình tam giác, hình chữ S, hình vòng tròn, các đƣờng hồi văn gấp khúc

trang trí thành băng tròn trên đồ gốm Tiền Đông Sơn đều đƣợc thế hiện trên đồ Đông Sơn có

trang trí sau này.

Ý nghĩa tạo nền đƣợc thể hiện ở chỗ đã tạo ra những biến chuyển mạnh mẽ trong kỹ

thuật sản xuất nông nghiệp, vết tích lúa gạo tìm thấy ở nhiều nơi nhƣ Đồng Đậu, Gò Mun. Gò

Chiền, Thành Đèn (Vĩnh Phú) Từ Sơn (Hà Bắc) Chợ Gềnh (Ninh Bình) Dông Tiến (Thanh

Hóa).

Ý nghĩa tạo nên còn thấy ở sự dần hình thành các trung tâm luyện kim và chế tạo dù

kim loại. Ở vùng trung tâm đất tổ Hùng Vƣơng từ những đốm lửa luyện chế kim loại ở Mã

Lao ở Gò Mun đã dẫn đến trung tâm đúc Làng Cả, từ những điểm đúc rải rác nhỏ bé chƣa đủ

lớn nhƣ ở Đồng Đậu, ở Thanh Đền ở Đình Chàng, đã hình thành trung tâm đúc đồng cổ Loa

(Mà Tre) rực rỡ. Cũng vậy ở bên hữu ngạn sông Hồng, trung tâm đúc đồng Vinh Quang thời

Đông Sơn có thê đã đƣợc chuẩn bị từ các nhóm đúc đồng ở Đồi Đà, ở Đồng Đền.

Vùng sông Mã, vết tích đúc đồng Quỳ Chử đã dẫn tới hình thành các trung tâm lớn

nhƣ ở Đông Sơn. Cũng vậy, những phát hiện về nồi đúc và những bọt xỉ đồng ở Rú Trăn sẽ

dẫn tới các trung tâm luyện kim nhƣ ở Đồng Mỏm. Làng Vạc v.v...

Dấu hiệu của sự tạo nền chuyển lƣợng thành chất còn thể hiện ở sự xuất hiện vào cuối

giai đoạn Gò Mun một số loại hình công cụ sản xuất và vũ khí mới nói lên sự gia tăng của

nhu cầu sản xuất và chiến đấu. Đó là những công cụ gặt gọi là liềm hay vằng kiểu Gò Mun,

những mũi tên đồng lớn có 2 cánh cong khum dài có chuôi và sống nổi tìm thấy ở Gò Mun.

Đồng Gio, những mũi tên 3 cạnh có chuôi, có trụ ở Đại Áng, những con dao xéo lƣỡi cong

kiểu sừng trâu gặp trong các địa điểm Đông Sơn (lớp mộ sớm). Quỳ Chử, những con dao

găm chuôi bẹt, đốc nhỏ, lƣỡi rộng chƣa có chắn tay kiểu Đồi Đà còn tìm thấy ở Gò Ghệ.

những con dao phạng lƣỡi rộng, mũi cong ở Gò Diễn ở Thanh Đinh...

Những cứ liệu khảo cổ học của các nhóm di tich Đồng Đậu - Gò Mun đƣợc phân tích

ở một số mặt trên đây và khi nhìn gộp lại cho thấy sự vận động của nội lực, mà

28

những nhân tố tự thân bên trong với sự tham gia, xâm nhập của những yếu tố văn hóa từ

ngoài khu vực là đặc điểm phát triển văn hóa của giai đoạn này, có phần khác với quá trình

hỗn dung và tiếp biến văn hóa diễn ra ở giai đoạn Phùng Nguyên trƣớc đó và cũng khác hơn

so với quá trình này ở giai đoạn Đông Sơn sau đó.

III. VĂN HÓA ĐÔNG SƠN - BIỂU HIỆN VẬT CHẤT CỦA VĂN MINH VIỆT CỔ

Những tiền đề vật chất - xã hội đƣợc chuẩn bị từ các giai đoạn Đông Đậu - Gò Mun

nay trong hoàn cảnh môi trƣờng và các mối giao tiếp văn hóa mới đã đƣợc phát huy mạnh

mẽ, tạo ra diện mạo Đông Sơn với những đƣờng nét hết sức phong phú, đa sắc và độc đáo.

Văn hóa Đông Sơn nổi tiếng đã đƣợc giới khảo cổ học thế giới biết đến và chú ý ngay

từ khi di tích văn hóa Đông Sơn đầu tiên bên bờ phải sông Mã, sát chân núi Rồng, gần ngay

phía trên cầu Hàm Rồng đƣợc phát hiện. Không kể những hiện vật hay nhóm hiện vật phát

hiện ngẫu nhiên, đến nay hàng trăm di tích của văn hóa này đã đƣợc biết đến, chúng phân bố

trên hầu khắp miền Bắc Việt Nam tập trung ở các lƣu vực sông lớn nhƣ sông Cả, sông Mã,

sông Hồng, dày đặc ở lƣu vực sông Mã và đậm đặc nhất ở lƣu vực sông Hồng, đã có ít ra 80

di tích phát hiện đƣợc ở đây. Mỗi khu vực có những khác biệt "nhất định mang tính chất địa

phƣơng, nhƣng nhìn chung văn hóa Đông Sơn mang những đặc trƣng chung thể hiện tính

thống nhất trong toàn vùng phân bố của văn hoá này.

Trƣớc hết vẻ sự phân cƣ, ngƣời Đông Sơn lúc này đã cƣ trú và làm ăn sinh sống trên

mọi địa hình trong nhiều vùng sinh thái khác nhau nhằm khai thác tối ƣu những sản phẩm của

tự nhiên và phát triển nghề nông trồng lúa nƣớc. Nơi cƣ trú thƣờng là những khoảng đất cao,

bên bìa rừng hay mé nƣớc. Và ở mỗi khu vực, do phụ thuộc vào vị trí địa lý và hoàn cảnh xã

hội dần nổi lên một hay vài làng cổ có vị trí nhƣ các trung tâm quần cƣ quan trọng thu hút và

chi phối hoạt động của cƣ dân toàn vùng. Đó là các trung tâm Lào Kai, Đào Thịnh ở thƣợng

du, Làng Cả ở trung du và Cổ Loa, Nhổn ở đồng bằng sông Hồng; Xuân Lập, Định Công ở

trung du và Đông Sơn, Thiệu Dƣơng ở hạ du sông Mã, Làng Vạc ở trung du và Đồng Mỏm ở

đồng bằng sông Cả...

Chính sự cƣ trú trong các vùng sinh thái khác nhau này cộng với những khác biệt chi

tiết về sắc tộc, về trình độ phát triển của từng nhóm tộc trong khu vực đã tạo ra sự khác biệt

địa phƣơng của văn hóa Đồng Sơn.

Với khối tƣ liệu hiện biết và xem xét chúng trong mối tƣơng quan tổng thể, có thể

nhận ra ba loại hình tiêu biểu

• Loại hình Đƣờng Cô vùng sông Hồng

• Loại hình Đông Sơn vùng sông Mã

• Loại hình Làng Vạc vùng sông Cả.

29

Loại hình Đƣờng Cồ

Loại hình này mang tên một địa điểm thuộc văn hóa Đông Sơn mà ở đó chứa loại

gốm mịn màu trắnn mốc hay hồng nhạt với hoa văn thừng đập thành hình mắt võng và

thƣờng ấn lõm thành hoa văn nhặn tổ ong rất độc đáo, gây ấn tƣợng lần đầu tiên phát hiện

đƣợc ở đây và mang ý nghĩa tiêu biểu cho gốm Đông Sơn vùng sông Hồng. Địa bàn của loại

hình Đƣờng Cồ trùng hợp với địa bàn của văn hóa Gò Mun và có phần mở rộng hơn về phía

đồng bằng thấp so với địa bàn văn hóa Gò Mun. Qua nhiều di tích đã đƣợc tiến hành thám sát

khai quật và nghiên cứu ti mỉ đều nhận thấy ở những di tích có tầng văn hóa dày nhiều lớp,

bao giờ lớp chứa di tích Đông sơn cũng nằm trên lớp văn hóa Gò Mun. Nghiên cứu đồ gốm

ở các di tích này có thể thay đƣợc sự diễn biến và phát triển trực tiếp của gốm Gò Mun sang

gốm Đƣờng Cồ thể hiện ở sự tăng dần, sự chuyển hóa về màu sắc và dáng miệng gốm từ Gò

Mun sang Đƣờng Cồ từ dƣới lên trên.

Sự khác biệt của loại hình Đƣờng Cồ còn thể hiện ở sự tồn tại phổ biến loại mộ táng

có quan tài hình thuyền, làm bang thân cây khoét rỗng có thêm loại mộ đất có quan tài dùng

đính ghim, ghép nhƣ thấy ở khu mộ táng Làng Cả, trong khi đó ở loại hình Đông Sơn hay

sông Mã lại tồn tại kiểu mộ đất có kè đá hay rải gốm giống ở khu mộ Làng Vạc.

Cái riêng của bộ đồ đồng Đƣờng Cồ là ở những lƣỡi cày đồng hình tam giác hay hình

tim, những dao gặt có hình vỏ trai, những dao găn hai rìu lƣỡi uốn lƣợn và có chắn tay thẳng,

những kiểu giáo, lao có phần họng gắn khoảng 1/3 chiều dài của cả lƣỡi, có sống nổi cao, rìa

lƣỡi cong lồi, cánh không có lỗ thủng, những rìu lƣỡi xéo hình hiu hay hình bàn chân có gót

vuông hoặc tròn. Ở vùng trung du hay thƣợng du của loại hình này, sắc thái địa phƣơng còn

thể hiện ở những lƣỡi thuồng đồng vai xuôi, rìa lƣỡi cong lồi, họng dài thân dày chắc khỏe,

những lƣỡi cuốc có họng tra cán nằm ngang vuông góc với trục thân, những lƣỡi giáo hình

búp đa họng ngắn. Mối quan hệ và giao lƣu văn hóa của chủ nhân văn hóa Đông Sơn loại

hình Đƣờng Cồ với khu vực Lƣỡng Quảng và Vân Nam (Trung Quốc) làm tăng thêm sắc thái

đa dạng trong văn hóa thể hiện ở sự có mặt những công cụ vũ khí có họng tra cán có miệng

họng xẻ lõm hình đuôi cá, những mũi lao đồng hình ngòi bút... cùng với những di vật đồng

rất điển hình và đặc sắc nhƣ lƣỡi cày hình tim kiều Cổ Loa, cuốc chữ U, rìu vai kép, riu xéo

gót tròn mũi dài hình bàn chân... và cả với những di vật độc đáo khác nhƣ muôi đồng hình

quả bầu, vùng tai đá hình vành khăn có cạnh đáy gần phẳng dáng gần vuông hay có mấu,

những kiếm đồng 2 rìa lƣỡi thẳng, chuôi dẹt có lỗ đƣợc gắn tháp với chuôi nắm tròn... tạo

thành tập hợp di vật mang phong cách Đông Sơn trùm phủ khắp miền Bắc Việt Nam, Đông

Nam Vân Nam và Tây Nam Quảng Tây.

30

Loại hình Đông Sơn

Loại hình này có địa bàn phân bổ chủ yếu là vùng lƣu vực sông Mã, đến nay đã biết

tới 70 địa điểm Đông Sơn phân bố ở trung du, đồng bằng và ven biển tỉnh Thanh Hóa.

Trong vòng 35 năm lại đây, nhờ những cuộc điều tra thăm dò rộng và những cuộc

khai quật lớn ở một số địa điểm then chốt nhƣ Thiệu Dƣơng, Đồng Sơn, Đông Tiến, Núi Nấp,

Quỳ Chử..., diện mạo văn hóa và chủ nhân chung của văn hóa Đông Sơn ở khu vực này dần

đƣợc làm sáng tỏ. Nguồn gốc bản địa của văn hóa Đồng Sơn đƣợc xác minh qua phân tích

các tầng văn hóa nhiêu lớp ở các di tích kể trên đều khẳng định dƣới lớp văn hóa Đông Sơn là

các lớp chứa các di tích, di vật thuộc các giai đoạn Tiền Đông Sơn, mà khảo cổ học đã phác

họa đƣợc một khung các giai đoạn phát triển từ sớm đến muộn bao gồm : Cồn Chân Tiên -

Bái Man (huy Đan Nê)- Quỳ Chử - Đông Sơn, tƣơng ứng với 4 giai đoạn Phùng Nguyên -

Đồng Đậu - Gò Mun - Đƣờng Cồ ở vùng sông Hồng. Địa điểm Đồng Ngầm có thể đƣợc xem

nhƣ một trong những di tích mang tính chất chìa khóa mở ra khả năng khảo sát sự diễn biến

văn hóa liên tục từ sơ kỳ thời đại đồng đến sơ kỳ thời đại sắt, và có sự hình thành văn hóa

Đông Sơn ở khu vực sông Mã này. Với tầng văn hóa dày 2m, di chỉ Đồng Ngầm chứa các lớp

văn hóa kế tiếp nhau phát triển từ dƣới lên trên nhƣ sau : lớp sâu nhất có độ dày khoảng 0,4m

nằm ở độ sâu từ 2m đến khoảng 1,6m chứa các vòng ngọc, rìu đá nephơrít nhỏ nhắn kiểu

Phùng Nguyên, cùng với đồ gốm có miệng rộng, bẻ cong và mép nhọn hoặc đƣợc đắp dày ở

phía trong đƣợc trang trí bằng hoa văn khuông nhạc nét dõi tạo ra các hình chữ S nằm nối

tiếp nhau - tiền thân của hoa văn vòng tròn tiếp tuyến trên đồ đồng Đông Sơn, hoa văn các

vòng tròn chấm cuống dạ trong các khung chữ nhật trên bản miệng phía trong.., đặc biệt chạc

gốm có đế hình bầu dục dẹt, đầu nhọn và bẻ cong, mặt đế trang trí văn vạch khuông nhạc.

Lớp văn hóa tiếp theo dày khoảng 0,4m nằm ở độ sâu 1,6 - 1,2m chứa những rìu đục,

vòng bằng đá nephơrit kiểu Phùng Nguyên, lƣỡi câu đồng nhỏ thân dài, phần móc cuốn ngắn,

vật hình ống. Đồ gốm có cổ cao, miệng lõm nhẹ, dày đều, thành miệng phẳng vát, đƣợc trang

trí bên trong vành miệng và ở vai những hoa văn kẻ khuông nhạc nhiều răng thành các đƣờng

song song, các đƣờng sóng và uốn khúc hình chữ S hoặc các chữ S rời nằm nghiêng, văn

vạch chéo đan thành ô lƣới..., xuất hiện dạng gốm hình chày hai đầu phẳng loe. Lớp văn hoá

thứ ba dày cũng khoảng 0,4m nằm ở độ sâu 1,4-1,00m chứa rìu đục vòng bằng đá ngọc ít

hơn, rìu tứ diện bằng đá ba dan nhiều hơn. Đồ đồng có mũi nhọn đồng hình ống dài, đục

chuôi liền dài, lƣỡi bẹt hơi xoè, dao đồng hình sừng trâu, khâu đồng lõm hai canh... Đồ gốm

phổ biến có đồ đựng miệng cong hình lòng máng và gờ nổi phía ngoài, thành miệng gốm vát

xiên, hoa văn trang trí là những nhóm vạch xiên song song hay cắt chéo nhau thành hình bình

hành, gốm có màu bạc xám.

31

Riêng lớp 1,2 - 0,8m đồ gốm thấy có sự chuyển dần từ Quỳ Chử lên Đông Sơn, thể

hiện rõ nhất ở diễn biến bản miệng, từ cong lõm sâu ở giai đoạn Quỳ Chử chuyển sang lõm

nông và phẳng dần, màu sắc từ bạc xám sang hồng nhạt dân thành hồng xẫm.

Lớp trên cùng từ độ sâu 0,8m trở lên chứa những di vật Đông Sơn điển hình. Đồ gốm

phổ biến là loại gốm đỏ, nâu, bản miệng phẳng, phía mặt ngoài có gờ nổi. Xuất hiện chạc

gốm không móng đế nhỏ trên mặt có nét ấn lõm một nét hay chữ thập, tồn tại phổ biến loại

chạc gốm thân rỗng lớn, chân có chạc chẽ đôi hình đuôi cá lệch.

Đặt gốm Đồng Ngầm trong mối tƣơng quan với gốm ở các địa điểm quan trọng nêu ở

trên cho thấy một sự diễn biến nội tại của gốm thời đại kim khí vùng sông Mã (Nguyễn Việt.

1978)

Đồ đồng loại hình sông Mã là những đồ đồng mang đặc trƣng chung nhất của đồ đồng

Đông Sơn, từ công cụ vũ khí, nhạc khí đồ dùng sinh hoạt đồ trang sƣc nghệ thuật... gặp ở khu

vực Thanh Hoá cũng gặp ở mọi nơi trên địa bàn chung của văn hóa Đông Sơn.

Cái riêng của loại hình sông Mã thể hiện ở sự tồn tại phổ biến ở sự vƣợt trội về số

lƣợng của những loại hình ở đây.

Chẳng hạn về công cụ sản xuất có thể nhận ra loại lƣỡi cày đồng hình chân vịt hay

hình cánh bƣớm là riêng cho loại hình sông Mã mới chỉ gặp một hai chiếc không điển hình ở

Rú Trăn (Nghệ An) có vị trí ráp gianh với rìa nam của loại hình Đông Sơn.

Những vũ khí phổ biến trong loại hình Đông Sơn nhƣ giáo họng dài bằng 1/2 toàn

lƣỡi, mặt lƣỡi hình thoi, hai bên mặt cánh có một hàng hay hai hàng lỗ đối xứng, loại dao

găm bản lƣỡi hình lá tre, chắn tay quặp sừng trâu hay vòng thành lỗ khuyên, có cán hình

chữ T.

Bên cạnh đó, loại giáo lƣỡi hình lá mía, sống nổi cao, có chuôi tra cán dƣờng nhƣ là

sản phẩm riêng của vùng sông Mã, mới chỉ gặp đôi chiếc ở Làng Vạc hay ở Mả Tre (Cổ Loa

- Hà Nội). Riêng loại rìu xéo có dáng cong hình thuyền với giây chằng gắn hai đầu mũi rìu

với họng, đôi chiếc trên mặt còn trang trí hình thuyền cong theo bản lƣỡi, trên thuyền có

những ngƣời chèo, kiếm ngắn chuôi tƣợng là độc đáo nơi đây, chƣa từng gặp nơi đâu ngoài

khu vực sông Mã này.

Những chiếc thố hình lẵng hoa cũng là sản phẩm độc đáo của vùng này cho tới nay

mới chỉ tìm thấy 2 chiếc ở Việt Khê và 1 chiếc ở Bàu Khê (Quảng Bình).

Đồ đồng minh khi ở loại hình Đông Sơn cũng nhiều hơn ở bất cứ loại hình nào. Riêng

loại thạp minh khí mới chỉ tìm thấy 1 chiếc ở khu mộ Yên Từ .( Nam Hà),còn

32

thố minh khí thì chƣa gặp ở đâu ngoài khu vực sông Mã.

Cần nói thêm rằng, ngƣời Đông Sơn ở Thanh Hóa có sự ƣa thích đặc biệt dùng đồ

trang sức đeo tai là những khuyên tai hình vành khăn bằng đá ngọc, ở giai đoạn muộn đƣợc

làm bằng đá thạch anh. Có cả một cụm công xƣơng là Bái Tê, Mả Chùa, Cồn Cấu (lớp trên) ở

xã Đông Lĩnh huyện Đông Sơn chuyên sản xuất vòng đeo tai bằng loại đá thạch anh này.

Tƣ liệu về cổ nhân - chủ nhân văn hóa Đông Sơn vùng sông Mã cũng góp phần soi

sáng những đặc điểm văn hóa khu vực. Kết quả nghiên cứu 25 cốt sọ ở các khu mộ táng Núi

Nấp (19), Quỳ Chử (5) và Thiệu Dƣơng (1) cho thấy những cốt sọ mang đặc điểm của loại

hình In-đô-nê-diêng có 19 chiếc so với 5 chiếc thuộc loại hình Đông Nam Á, chiêm tỷ lệ

76%; tỷ lệ đó ở khu vực Sông Hồng là 23/10 hay 67%,còn ở khu vực sông Cả là 4/0 chiếm

100% (Nguyễn Lân Cƣờng 1993). Nhƣ vậy là loại hình In-đô-nê-diêng giảm dần từ nam ra

bắc và ngƣợc lại loại hình Đông Nam Á tăng dần từ bắc vào nam, hiện tƣợng đó chứng tỏ

rằng tính chất In-đô-nê-diêng đậm đà trong chủ nhân văn hóa Đông Sơn. Điều đó cũng còn

nói lên rằng cƣ dân Đông Sơn là tổ tiên của nhiều tộc ngƣời hiện sống trên lãnh thổ Việt

Nam. Điều đó đƣợc soi sáng thêm bằng tƣ liệu về hiện tƣợng cà răng của ngƣời Đông Sơn

loại hình In-đô-nô-dieng ở Núi Nấp hẳn có mối liên hệ với tục cả răng hiện còn bảo lƣu ở

một số dân tộc Tây Nguyên.

Loại hình Làng Vạc

Việc nghiên cứu văn hóa Đông Sơn từ Nghệ Tĩnh trở vào còn nhiều hạn chế. Có

những phát hiện lẻ tẻ, ngẫu nhiên và rải rác, song cũng không nhiều. Những cuộc điều tra,

thám sát và đặc biệt là khai quật qui mô lại rất ít. Những cuộc thám sát và khai quật ở Đồng

Mỏm và Làng Vạc đã cung cấp những tƣ liệu cơ bản cho khái quát bƣớc đầu về diện mạo văn

hóa Đông Sơn ở vùng này. Cùng với những hiện vật do trao đổi bên trong và bên ngoài là bộ

di vật hết sức độc đáo làm nên nét riêng của loại hình văn hóa này. Đó là bên cạnh những rìu

giáo, lao, tên, dao găm, khóa, đai lƣng bằng đồng, những trang sức bằng đá và thủy tinh

mang nét chung Đông Sơn, nối lên những loại hình di vật mới chỉ thấy ở khu vực này. Đó là

những lƣỡi cày đồng vai ngang, những dao găm chuôi tƣợng động vật nhƣ rắn đỡ voi, hay rắn

ngậm chân báo, hổ đỡ voi... những bao chân, bao tay và chuỗi vòng trang sức có đính lục

lạc...

Nét riêng của gốm loại hình Làng Vạc là ở sự tồn tại phổ biến các bình vò, nồi miệng

loe đáy phình rộng thƣờng có màu vàng xám hay hơi hồng, và nổi lên là các loại chõ gốm và

thạp gốm. Về tục táng có thể nhận ra sự đa dạng của các loại hình mộ khác nhau cùng tồn tại

trong một khu mộ nhƣ mộ vò chôn nằm và chôn đứng, mộ rải, kè phù gốm, kè phủ lợp đá...

(Phạm Minh Huyên 1991)

33

Cƣ dân vùng sông Cả có những mối liên hệ rộng rãi với thế giới bên ngoài, đặc biệt

với cƣ dân vùng Tây Nam Vân Nam và thông qua họ liên hệ xa hơn với cƣ dân vùng thảo

nguyên Âu - Á thể hiện rõ nét hơn cả ở sự có mặt của loại búa đồng hai lƣỡi có họng tra cân

là lỗ ngang xuyên ở giữa thân, ở sự phát triển của dòng tƣợng tròn Tấn Ninh song khác hẳn

về phong cách và đề tài thể hiện.

Thông qua loại hình Làng Vạc mối quan hệ giữa cƣ dân văn hóa Đông Sơn với cƣ dân

văn hóa Sa Huỳnh thể hiện đậm đà hơn. Ví nhƣ, bộ di vật đồng mang phong cách Đông Sơn

nhƣ rìu lƣỡi lệch, dao găm chuôi cán hình chủ T tìm thấy ở Phú Hòa (Quảng Nam Đà Nẵng).

thố đồng Đông Sơn tìm thấy ở Bàu Khê (Quảng Bình), trống đồng Đông Sơn tìm thấy ở Phù

Lƣu (Quảng Bình), ở Phong Mỹ (Thừa Thiên Huế), ở Nha Trang (Khánh Hòa)... Ngƣợc lại

mộ vô chôn đứng - đặc trƣng của Sa Huỳnh -cũng hiện diện ở Làng Vạc, rồi cả loại trang sức

độc đáo nhƣ khuyên tai thủy tinh có 3 mấu dài nhọn cũng gặp trong khu mộ Làng Vạc,

khuyên tai hai đầu thú và khuyên tai 3 mầu tìm thấy ở Xuân An (Hà Tĩnh)...

Những sắc thái văn hóa địa phƣơng mang dấu ấn môi trƣờng sinh thái tự nhiên, trình

độ phát triển và những mối quan hệ xã hội cụ thể của mỗi vùng kể trên đƣợc trùm phủ lên bởi

những đƣờng nét, những đặc điểm văn hóa cơ bản chung nhất thể hiện tính thống nhất của

văn hóa Đông Sơn cũng nhƣ phản ảnh sự vận động chất biến "bƣớc vào văn minh" của chủ

nhân văn hóa này, mà vết tích vật chất hàm chứa các đặc điểm văn hóa trên, đƣợc khảo cổ

học ghi nhận ở sự xuất hiện tòa thành độ sộ nhƣ Cổ Loa, những khu mộ táng rộng lớn nhƣ

Làng Cả, Vinh Quang, Đông Sơn, Thiệu Dƣơng, Làng Vạc... Ở đó bên cạnh những ngôi mộ

giàu có nhiều hiện vật chôn theo là phần lớn các mộ táng chôn ít hiện vật và không hiếm

nhƣng ngôi mộ nghèo nàn không một đồ tùy táng. Sự vận động chất biến này còn thể hiện ở

sự xuất hiện một loạt các công cụ mới bằng đồng rồi bằng sắt, trong đó nổi lên là hàng trăm

lƣỡi cày đồng thau nhiều kiểu loại: hình tam giác, hình tim, hình chân vịt...

Nhiều lƣỡi mai, cuốc thuổng, nhíp, liềm... bằng đồng, bằng sắt xuất hiện (Chử Văn

Tần 1979) khiến công cụ bằng đá không còn thích hợp. Song cùng với đồ thủy tinh vừa ra

đời, đồ trang sức bằng đá quí vẫn đƣợc đặc biệt ƣa chuộng và phổ biến rộng rãi. Đồ gốm chế

tác không còn cầu kỳ, tuy vẫn phong phú về số lƣợng và kiểu loại song đã nghèo nàn hẳn về

hoa văn trang trí.

Đặc biệt đồ đồng có sự nở rộ, mạnh mẽ ; ít ra có thể tới 56 loại hình cùng nhiều phụ

loại, kiểu khác nhau đƣợc chế với thành phần và tỷ lệ hợp kim khác nhau. Trong đó hợp kim

đồng thiếc chì đƣợc áp dụng rộng rãi. Xuất hiện những trung tâm đúc đồng mang tính chất

quan xƣởng nhƣ thấy ở Cổ Loa.

34

Đỉnh cao của kỹ thuật và nghệ thuật đồng thau Đông Sơn là những trống thạp đồng

tinh mỹ, nổi tiếng nhƣ trống Ngọc Lũ, Hoàng Hạ, Cổ Loa, thạp Đào Thịnh, Vạn Thắng, Xuân

Lập...

Trong các sƣu tập đồng thau Đông Sơn, điều đặc biệt đáng lƣu ý là bộ sƣu tập vũ khí

hết sức phong phú về kim loại và cực kỳ to lớn về số lƣợng phản ảnh những biến động xã hội

to lớn xảy ra hồi đó. Chỉ thống kê ở 5 địa điểm Đông Sơn tiêu biểu là Vinh Quang, Làng Cả,

Đông Sơn, Thiệu Dƣơng, Làng Vạc cho thấy trong số 2280 hiện vật đồng thau tìm thấy ở đây

thì vũ khí đã có tới 1110 chiếc chiếm 48,6% tổng số hiện vật đồng nói chung, có khi chỉ riêng

một loại hình vũ khí là dao găm trong chỉ một khu mộ táng nhƣ Làng Vạc đã có trên 100

chiếc. Đặc biệt kho mũi tên đồng Cầu Vực (Cổ Loa) đã có tới hàng vạn chiếc... Nhiều vũ khí

mới độc đáo ra đời nhƣ dao găm, kiếm chuôi tƣợng, tên đồng ba cánh, giáp che ngực hình

vuông hay chữ nhật, khiên mộc bằng da có hình chữ nhật hay hình tim, bao tay bao chân có

đính nhạc, khóa đai lƣng có tƣợng rùa. Đồ sắt đã xuất hiện, trong đó dấu vết nghề luyện sắt

đã thấy ở một số nơi nhƣ đoạn ống bể có đinh xỉ sắt tìm đƣợc ở di chỉ Vinh Quang (Hà Tây),

lò luyện sắt xốp ở Đồng Mỏm (Nghệ An) cùng nhiều xỉ sắt tìm thấy ở đây cũng nhƣ ở Xuân

Giang (Hà Tĩnh). Nhiều loại hình công cụ vũ khí cơ bản đƣợc làm bằng sắt nhƣ rìu, cuốc, mai

thuổng, liềm, giáo, kiếm, dao găm, tên...

Trƣớc đây văn hóa Đông Sơn đƣợc xem là văn hóa đồng thau có niên đại muộn màng

chỉ vào khoảng trƣớc sau đầu công nguyên, hoặc các thế kỷ VII-V trƣớc công nguyên. Những

kết quả nghiên cứu mới gần đây cho phép xác định văn hóa Đông Sơn thuộc sơ kỳ thời đại

sắt hay ít ra cũng thuộc giại đoạn chuyển tiếp từ hậu kỷ thời đại đồng thay sang sơ kỳ thời đại

sắt. Căn cứ vào một loạt niên đại C14 ở nhiều di tích văn hóa Đông Sơn khác nhau cũng nhƣ

căn cứ và phân tích tổng thể di vật, có thể thấy niên đại mở đầu và kết thúc của văn hóa Đông

Sơn ở các khu vực, các loại hình địa phƣơng khác nhau là không đều nhau. Sự chuyển biến từ

các văn hóa Tiền Đông Sơn sang văn hóa Đông Sơn diễn ra sớm hơn cả ở lƣu vực sông

Hồng. Niên đại C14 của lớp Gò Mun - Đƣờng Cô ở các địa điểm Đồi Đà là 2740 ± 90 năm

cách ngày nay và ở Gò Chùa là 2655 ± 90 năm cách ngày nay có thể xem nhƣ niên đại thuộc

giai đoạn mở đầu của văn hóa Đông Sơn vùng sông Hồng.

Ở vùng sông Mã, giai đoạn chuyển tiếp từ Quỳ Chử lên Đông Sơn diễn ra muộn hơn.

Mẫu than tro lấy ở độ sâu l,27m thuộc văn hóa Quỳ Chử của di chỉ Đồng Ngầm cho niên đại

2675 ± 40 năm cách ngày nay, cũng vậy 2 mẫu than tro lấy ở độ sâu 1,16 thuộc lớp văn hóa

Quỳ Chử ở địa điểm Quỳ Chử cho các niên đại 2520 ± 55 và 2450 ± 45 năm cách ngày nay.

Các lớp văn hóa này xét cùng với tổng thể các di vật đƣợc chứa trong nó, đều thuộc giai đoạn

phát triển của nhóm di tích Quỳ Chử, từ đó có thể đoán

35

định văn hóa Đông Sơn ở vùng sông Mã đƣợc bắt đầu từ khoảng các thế kỷ 6-5 trƣớc công

nguyên.

Giai đoạn Đông Sơn muộn chuyển sang Đông Sơn vẫn đƣợc nhận biết qua sự gia tăng

của đồ đồng minh khí, sự xuất hiện ngày càng nhiều các yếu tố văn hóa Hán. Quá trình

chuyển biến và giải thể cấu trúc Đông Sơn này diễn ra không đồng đều ở các khu vực. Ở

vùng sông Hồng, khu mộ Phú Lƣơng với lớp mộ muộn chứa tiền ngũ thù Đông Hán, ấm đầu

gà ba chân, bát, thau đồng... ứng với niên đại C14 2060 ± 50 cách ngày nay của địa điểm này,

có thể cho rằng văn hóa Đông Sơn vùng sông Hồng kết thúc vào khoảng thể kỳ 2 sau công

nguyên. Trong khi đó ở vùng sông Mã, văn hóa Đông Sơn chấm dứt muộn hơn, vào khoảng

thế kỷ 3 sau công nguyên mà niên đại C14 ở khu mộ táng Núi Nấp 280 ± 85 năm sau công

nguyên đã mách chi. Cũng vậy niên đại C14 40 ± 85 năm trƣớc công nguyên ở khu mộ táng

Làng Vạc cũng nói lên sự bảo lƣu lâu dài các đặc trƣng văn hóa Đông Sơn sau khi đất nƣớc

đã rơi vào ách thống trị của ngoại bang một thời gian dài, mà dáng của văn hóa ngoại lai mới

chỉ thấp thoáng

Tới đây nhìn chung lại chúng ta thấy, văn hóa Đông Sơn hay văn minh Việt Nam thời

khai sinh đƣợc hình thành và vận động liên tục trong không gian và thời gian từ các nền văn

hóa Tiền Đông Sơn đƣợc hình thành tại chỗ và hội nhập và chuyển hóa các yếu tố văn hoá

bên ngoài mang tính thống nhất đa dạng rộng lớn đầy sức sống phản ảnh sự hình thành quốc

gia vào hàng sớm nhất trong khu vực Đông Nam Á.

Môi trƣờng sống và những di tồn vật chất còn lƣu lại cho thấy bản chất của nền văn

minh Đông Sơn là văn minh nông nghiệp xóm làng. Ở đó quan hệ gia đình-họ hàng-làng

nƣớc gắn bó với nhau thành một thể thống nhất chặt chẽ. Gia đình vừa là đơn vị cơ bản của

sản xuất, vừa là tế bào cơ bản của xã hội và vai trò ngƣời phụ nữ còn rất lớn. Họ hàng và làng

nƣớc đóng vai trò gắn kết và điều tiết. Mặc dù trong xã hội đã có sự phân hóa thành giàu

nghèo song quan hệ cộng đồng còn rất vững chắc. Tính cộng đồng này đã in dấu lên mọi mặt

của đời sống, là chỗ dựa và nguồn sức mạnh cho tinh thần tự chủ, chống đồng hóa, trở thành

một đặc điểm của phong cách ứng xử văn hóa Việt Nam.

Tính phong phú và đa dạng, tính hòa đồng và chuyển hoá của văn hóa Đông Sơn còn

đƣợc soi sáng thêm bởi các mạch giao lƣu văn hóa từ các phức hợp văn hóa đƣơng đại cùng

tồn tại trên đất nƣớc ta khi ấy.

36

CHƢƠNG III :NGUỒN GỐC NGƢỜI VIỆT

Vấn đề nguồn gốc ngƣời Việt từ lâu đã đƣợc nhiều ngƣời quan tâm. Từ năm 1923,

L.Aurousseau đã nêu lên thuyết thiên di của tộc Việt từ Hoa Nam. Theo ông, khi nƣớc Việt ở

Chiết Giang bị nƣớc Sở diệt vào năm 333 trƣớc công nguyên, dân nƣớc Việt chạy về phía

nam, và một bộ phận định cƣ lại ở miền bắc Việt Nam, trở thành tổ tiên của ngƣời Việt Nam

(Aurousseau 1923). Về thuyết này, Henri Maspéro (1924) viết rằng "tốt nhất là để nó qua đi

trong im lặng". Claude Madrolle cũng phê phán thuyết Aurousseau, nhƣng thực ra, Madrolle

chỉ thay đổi chủ nhân của cuộc thiên di. Ông chủ trƣơng rằng tộc Hoklo cổ ở vùng Phúc Kiến

đã thiên đi đến châu thổ sông Hồng và trở thành Lạc việt, tổ tiên của ngƣời Việt Nam hiện

nay (Madrolle 1937).

Đào Duy Anh cũng cho rằng tổ tiên của ngƣời Việt là ngƣời Lạc Việt từ miền bờ biển

Giang Nam (Trung Quốc) vƣợt biển tới miền bắc Việt Nam. "Ngƣời Lạc Việt ở Bắc Việt

Nam đã tạo nên một nền văn hóa đồ đồng đặc biệt mà tiêu biểu là những trống đồng... Xem

những hình thuyền chạm trên thân trống đồng Ngọc Lũ, ngƣời ta lại thấy rõ ràng đó là thuyền

đi biển có cột buồm và bánh lái mũi. Những điểm ấy khiến chúng ta thấy rằng những ngƣời

đúc trống ấy - ngƣời Lạc Việt - tất đã từng vƣợt biển. Những chim hậu điểu ấy ngƣời ta thấy

khắc trên trống đồng chính là chim tô -tem của những ngƣời chủ nhân của những trống đồng

ấy, tức là ngƣời Lạc Việt. Tìm ý nghĩa chữ Lạc hay là họ, tức tên thị tộc của ngƣời Lạc Việt,

chúng ta thấy chữ ấy chỉ một loài hậu điểu ở miền Giang Nam" (Đào Duy Anh 1957: 83).

Theo Đào Duy Anh, ở Việt Nam, ngƣời Lạc Việt đã gặp những ngƣời Indonesien chủ nhân

văn hóa đá mới. "Những ngƣời này còn ở trình độ văn hóa lạc hậu, tiếp xúc với một giống

ngƣời mới đến văn hóa cao hơn phải lui dần để nhƣờng những miền đất rộng rãi phì nhiêu

cho họ. Sự thắng lợi của ngƣời Lạc Việt tất phải trải qua những cuộc đấu tranh gay go" (Đào

Duy Anh 1957 : 89). Theo ông, cuối cùng ngƣời Indonesian cũng bị đồng hóa.

Văn Tân thì cho rằng nguồn gốc dân tộc Việt Nam là những ngƣời Melanesien và

Indonesien và "rất có thể ngƣời Việt nguyên thủy xƣa là một tộc nào đó ở các đảo thuộc châu

Úc vì kế sống đã theo gió mùa di cƣ sang bán đảo Đông Dƣơng rồi định cƣ luôn ở đấy" (Văn

Tân 1959).

Nhìn chung, những luận điểm về nguồn gốc dân tộc Việt Nam nói trên đã đƣợc đƣa ra

từ lâu, khi mà những cứ liệu khảo cổ học, nhân chứng học và ngôn ngữ học lịch sử chƣa thu

thập đầy đủ. Ngày nay, vấn đề nguồn gốc ngƣời Việt vẫn chƣa thể coi là đã giải quyết, nhƣng

chúng ta có thể đƣa ra những giả thuyết trên cơ sở các nguồn tài liệu thu đƣợc nhiều hơn và

đáng tin cậy hơn.

37

NGUỒN GỐC NGƢỜI VIỆT QUA TÀI LIỆU KHẢO CỔ HỌC

Các thƣ tịch cổ đều cho rằng cƣ dân cổ ở Bắc Việt Nam là ngƣời Lạc Việt. Dƣ địa chí

của cố Dã Vƣơng chép rằng: "Giao Chỉ đời Chu là Lạc Việt, đời Tân là Tây Âu, tức Tây Âu

Lạc". Sách Giao Châu ngoại vực ký dẫn ở sách Thủy kinh chú, nói rằng Giao Chỉ lúc chƣa có

quận huyện - có nghĩa là lúc chƣa bị sự thống trị của ngƣời Hán - Giao chỉ thì gọi là ruộng

Lạc, dân thì gọi là dân Lạc. Cho đến cuộc xâm lƣợc của Mã Viện, ngƣời dân ở đây vẫn đƣợc

sách Hậu Hán thư gọi là ngƣời Lạc Việt.

Cuộc hành quân của Mã Viện là để chống lại cuộc nổi dậy của Hai Bà Trƣng. Mà

nhân thời dân thời Hai Bà Trƣng thì không ai nghi ngờ gì nữa, là tổ tiên của chúng ta. Vậy có

thể kết luận rằng ngƣời Lạc Việt là tổ tiên của người Việt hiện đại.

Thực ra, khi đƣa ra cái tên Lạc Việt, các tác giả Trung Quốc muốn gắn nhóm ngƣời

này vào một nhóm lớn hơn, đó là Việt hay Bách Việt. Lời chú sách Hán Thư thiên Địa lý chí

chép : "Từ Giao Chỉ đên Cối Kê, bảy tám nghìn dặm, ngƣời Bách Việt ở lẫn lộn, đều có

chủng tính". "Đều có chủng tính" nghĩa là đều có các tộc danh khác nhau. nhƣ Câu Ngô. Mân

Việt. Đông Âu. Nam Việt. Tây Âu, Lạc Việt... Theo những công trình nghiên cứu hiện nay.

những tộc ngƣời trong nhóm Việt này khác nhau về văn hóa cũng nhƣ ngôn ngữ. Nhƣ vậy,

Việt chỉ là một cái tên phiếm chỉ những cƣ dân khác Hán (non Chinese) ở vùng Nam Trung

Quốc, cũng nhƣ là tên Man vậy, chứ không phải là tộc danh cụ thể.

Chúng ta biết rằng tên Bách Việt đã có từ sớm. Sử ký chép rằng đời Chu An Vƣơng

(401-376 tr.CN), Sở Điệu Vƣơng (401-3S0 tr.CN) đã sai tƣớng Ngô Khởi đánh dẹp Bách

Việt ở phƣơng nam. Điều đó bác bỏ luận thuyết cho rằng Bách Việt là con cháu dân nƣớc

Việt của Câu Tiễn, khi nƣớc Việt bị nƣớc Sở diệt (vào năm 333 tr.CN), chạy về phƣơng nam.

Từ đó, chúng ta thấy rằng thuyết của L.Aurousseau về nguồn gốc dân tộc Việt Nam là không

có cơ sở.

Nhƣng cũng theo thƣ tịch cũ Trung Quốc (nhƣ Cựu Đường thư (q.41. Địa lý chi),

Bách Việt tiên hiền chí, Thông điển (q. 184) Dư địa quảng ký (q.37). Hán thư (Giả Quyên Chi

truyện)...), ngƣời Lạc Việt có mặt trên một vùng khá rộng: Quảng Đông, Quảng Tây, Quý

Châu, Hải Nam và cả ở vùng sông Hán.

Có thể là các sách này - phần lớn là chép thời sau - đã lầm lẫn nhƣng cũng có thể là

ngƣời Lạc Việt đã phân bố rộng thời đó và tiền thân của những dân tộc khác nhau ngày nay.

Vì vậy, hiện tại chúng ta chỉ có thể chấp nhận ngƣời Lạc Việt sống trên đất Việt Nam là tổ

tiên của ngƣời Việt hay Việt và Mƣờng hiên đại mà thôi.

38

Điều quan trọng là qua các thƣ tịch cổ, chúng ta có thể nhận ra mối liên hệ giữa ngƣời

Lạc Việt và văn hóa Đông Sơn. Sách Hậu Hán thư (Mã Viện truyện) chép : "Viện thích cƣỡi

ngựa, giỏi phân biệt ngựa hay, đƣợc trống đồng Lạc Việt ở Giao Chỉ, bèn đúc thành các kiểu

ngựa, đem về dâng vua". Lâm Ấp ký dẫn ở Thủy kinh chú cũng chép tƣơng tự Hậu Hán thư:

"Cửa ấy thông với Đồng Cổ, ngoài vƣợt đến cửa Hoàng Cƣơng Tâm Khẩu huyện An Đinh.

Nhờ cửa sông ấy mà qua Đồng Cổ, tức đất Lạc Việt. Vì đấy có trống đồng nên gọi tên là

Đồng Cổ. Mã Viện lấy trống đồng ở đó để đúc ngựa đồng". Thế là rõ, những ngƣời Lạc Việt

mà Mã Viện gặp ở Giao Chỉ là những ngƣời đúc trống đồng. Hiện nay, chúng ta biết rằng văn

hóa Đông Sơn còn tiếp tục tồn tại ở Việt Nam vài thế kỷ sau công nguyên. Vì vậy, có thể nói

chắc chắn rằng người Lạc Việt ở Việt Nam là chủ nhân của văn hoá Đônq Sơn, mà đặc trƣng

là những chiếc trống đồng nổi tiếng.

Chúng ta cũng biết rằng văn hóa Đông Sơn bắt đầu vào khoảng thế kỷ 7 tr.CN. Trong

thời kỳ tồn tại của văn hóa này, không có một dấu hiệu nào nói lên sự thay đổi về chủ nhân.

Vì vậy, hoàn toàn có đủ lý do để nói rằng chủ nhân văn hóa Đông Sơn, ngay từ lúc ban đầu,

là tổ tiên của ngƣời Việt, hay nói đúng hơn, của nhóm Việt-Mƣờng.

Nhƣng chúng ta không dừng lại ở đây. Chúng ta biết rằng văn hóa Đông Sơn là bắt

nguồn từ các văn hóa Tiền Đông Sơn. Điều này đã đƣợc trình bày rõ ở các phần trƣớc. Tất

nhiên, văn hóa Đông Sơn phân bố trên một địa bàn khá rộng, từ biên giới phía bắc cho đến

khoảng tỉnh Quảng Bình ngày nay. Mặc dầu có những loại hình địa phƣơng nhƣng văn hóa

Đông Sơn vẫn biểu hiện một tính thống nhất văn hóa lớn trên một không gian rộng. Tính

thống nhất văn hóa lớn rộng đó nói lên rằng một quốc gia đã hình thành.

Trong khi đó, các văn hóa Tiền Đông Sơn không có không gian phân bố rộng nhƣ văn

hoá Đông Sơn. Có sự khác nhau giữa các văn hóa Tiền Đông Sơn trong lƣu vực sông Hồng,

sông Mã và sông Lam. Nhƣng trong từng khu vực, các văn hóa Tiền Đông Sơn này đều phát

triển liên tục, không dứt đoạn, và cuối cùng, đều hội tụ vào văn hóa Đông Sơn.

Hiện nay, hệ thống văn hóa Tiền Đông Sơn ở lƣu vực sồng Hồng đƣợc nghiên cứu kỹ

lƣỡng hơn cả. Nhƣ ta đã biết, đó là phổ hệ các văn hóa Phùng Nguyên, Đồng Đậu, Gò Mun.

Vì sự phát triển từ Phùng Nguyên, qua Đồng Đậu, đến Gò Mun là liên tục cho nên ngƣời ta

cũng cho các văn hóa này là các giai đoạn trong một quá trình phát triển văn hóa thống nhất.

Tất nhiên mỗi văn hóa hay giai đoạn nhƣ vậy có những đặc điểm văn hóa riêng để

phân biệt. Đặc biệt, chúng ta có thể phân biệt dễ dàng các văn hóa này qua đồ gốm.

39

Khi cầm trong tay những đồ gốm có miệng loe rộng ra ngoài, bên trong thành miệng

có hoa văn khắc vạch, hoa văn bên ngoài đồ gốm thƣờng là văn "nan chiếu", loại hoa văn này

đƣợc tạo nên bằng một bàn dập cuộn dây thực vật, ta biết đó là những di vật của văn hóa Gò

Mun. Ta cũng có thể nhận ra các di tích văn hóa Đồng Đậu với những đồ gốm có đồ án hoa

văn gồm những đƣờng song song, tạo nên bởi cái que có nhiều răng nhƣ cái bút kẻ khuông

nhạc ngày nay. Đồ gốm văn hóa Phùng Nguyên lại bày ra trƣớc mắt chúng ta những đồ án

trang trí có nhiều đƣờng cong, giữa những đƣờng vạch là những chấm li ti đều và thẳng hàng.

Nhƣng sự khác biệt giữa các văn hóa Tiền Đông Sơn cũng nhƣ sự khác biệt giữa các

văn hóa này với văn hóa Đông Sơn không hề phá vỡ tính liên tục giữa chúng.

Hiện nay, chúng ta có thể chứng minh sự phát triển liên tục của các văn hóa này qua

nhiều mặt. Các nhà khảo cổ học đã phát hiện đƣợc những địa điểm quan trọng có tầng văn

hóa dày, trong đó các di tích của các văn hóa này chồng trực tiếp lên nhau không có lớp trống

ngăn cách Chẳng hạn ở địa điểm Đông Đậu (Vĩnh Phú), lớp dƣới thuộc giai đoạn cuối của

văn hóa Phùng Nguyên, lớp giữa là thuộc văn hóa Đồng Đậu và chồng lên lớp này là lớp văn

hóa Gò Mun. Gần đây, ngƣời ta còn tìm thấy dấu vết mộ táng Đông Sơn ở lớp trên di chỉ

Đồng Đậu. Ở địa điểm Đình Chàng (Hà Nội), lớp dƣới cùng là lớp văn hóa Đồng Đậu, lớp

trên là lớp văn hóa Gò Mun, sau đó chủ nhân văn hóa Đông Sơn lại chôn vào lớp cƣ trú Gò

Mun những ngôi mộ của họ. Cũng có nơi ở di chỉ Đình Chàng ngƣời Đông Sơn tạo thành một

lớp cƣ trú trên lớp Gò Mun.

Ngoài những địa điểm có ba hay bốn văn hóa nhƣ Đồng Đậu và Đình Chàng chúng ta

biết khá nhiều địa điểm có di tích hai văn hóa chồng lên nhau và những địa điểm mang di tích

có tính chất hỗn hợp giữa hai văn hóa. Nhờ những địa điểm nhƣ vậy, chúng ta thấy đƣợc rằng

phổ hệ Phùng Nguyên - Đồng Đậu - Gò Mun - Đông Sơn trong vùng lƣu vực sông Hồng mà

các nhà khảo cổ học đã xác lập là hoàn toàn chính xác. Trật tự sớm muộn của các văn hóa

này còn đƣợc xác nhận bằng niên đại các bon phóng xạ.

Các văn hóa này không phải chỉ là nối tiếp nhau trong thời gian mà chính là từ văn

hóa này đã phát triển thành văn hóa kia. Qua sự phát triển của bất kỳ một loại hình di vật nào

chúng ta cũng thấy rõ tính liên tục. Chúng ta có thể thấy sự gần gũi giữa mũi giáo đá Phùng

Nguyên với những mũi giáo đồng trong các văn hóa sau. Sự phát triển liên tục nhƣ vậy cũng

có thể nhận ra ở đồ trang sức. Loại vòng đồng rỗng có bàn rìa xung quanh rộng tìm thấy

trong văn hóa Đông Sơn gần nhƣ là sao y nguyên bản loại hình vòng đá Đồng Đậu, và đến

lƣợt, loại vòng đá Đồng Đậu lại bắt nguồn từ những vòng đá thiết diện chữ T trong văn hóa

Phùng Nguyên. Chiếc hoa tai đồng có bốn mấu xung quanh tìm thấy trong văn hoá Đông Sơn

có khởi hình từ những chiếc

40

hoa tai bốn mấu bằng đá có mặt trong cả ba văn hóa trƣớc Đông Sơn (Hà Văn Tấn. 1974). Có

thể kể ra nhiều hơn những thí dụ tƣơng tự. Tính liên tục cũng thể hiện rõ ràng ở sự phát triển

đồ gốm. Điều đặc biệt thú vị là ở những lớp trung gian giữa hai văn hóa nhƣ giữa Phùng

Nguyên và Đồng Đậu hay giữa Đồng Đậu và Gò Mun, có những loại gốm mang tính chất

chuyển tiếp, vừa có yếu tố của văn hóa này lại vừa có yếu tổ của văn hóa kia. Sự có mặt của

loại gốm chuyển tiếp này nói lên tính liên tục của sự phát triển các văn hóa.

Nhiều hoa văn trang trí trên đồ đồng Đông Sơn rất giống với hoa văn trên đồ gốm Gò

Mun hay Phùng Nguyên. Không những chỉ có sự gần gũi về đồ án hoa văn mà có cả sự gần

gũi về bố cục hoa văn. Ngƣời Đông Sơn đã tiếp thu từ các văn hóa trƣớc đó không những chỉ

"từ vựng" hoa văn mà cả "ngữ pháp" hoa văn (Hà Văn Tấn 1974b).

Thế là cho đến nay, có nhiều chứng cứ chắc chắn để chứng minh cho sự phát triển

liên tục từ các văn hoá Tiền Đông Sơn, đặc biệt là hệ thống Phùng Nguyên - Đồng Đậu - Gò

Mun. đến văn hóa Đông Sơn. Những chứng cứ này đồng thời nói lên rằng văn hóa Đông Sơn

là một văn hóa bản địa, phát triển lên từ các văn hóa trƣớc nó. Chủ nhân văn hóa Đông Sơn

không phải là từ bên ngoài thiên di đếnViệt Nam. Chủ nhân văn hóa Đông Sơn mà các thƣ

tịch cổ chép là ngƣời Lạc Việt chỉ là con cháu của chủ nhân các văn hóa Tiền Đông Sơn

trƣớc đó (Hà Văn Tấn 1975).

Nhƣ vậy, chúng ta có thể bác bỏ thuyết nguồn gốc ngƣời Việt thiên đi từ Giang Nam

(Trung Quốc) hay từ các nơi khác đến, mà kéo dài cội nguồn của ngƣời Việt lên đến đầu

thiên niên kỷ thứ hai hay cuối thiên niên kỷ thứ ba trƣớc Công nguyên.

Hiện nay, chúng ta chƣa có đủ tài liệu để trình bày rõ ràng về nguồn gốc của văn hóa

Phùng Nguyên cũng nhƣ các văn hóa cùng bình tuyến trong vùng sông Mã và sông Lam. Tuy

nhiên, có thể nghĩ rằng, phải tìm nguồn gốc của các văn hóa này trong sự phân hoá tiếp tục

của các văn hóa Hậu Hòa Bình. Nói cách khác, các văn hóa này cũng có nguồn gốc bản địa.

Để giải quyết vấn đề này, chúng ta cần kết hợp với nguồn tài liệu nhân chủng học và

ngôn ngữ học.

NGUỒN GỐC NGƢỜI VIỆT QUA TÀI LIỆU NHÂN CHỦNG HỌC

Để nghiên cứu nguồn gốc ngƣời Việt, chúng ta có hai nguồn tài liệu nhân chủng học :

tài liệu nhân chủng các tộc Việt và Mƣờng hiện đại và tài liệu các di cốt do các cuộc khai

quật khảo cổ học đƣa lại.

41

Trƣớc Cách mạng Tháng Tám, các học giả Pháp đã tìm đƣợc trong các địa điểm thuộc

văn hóa Hòa Bình, Bắc Sơn và hậu kỳ đá mới những di cốt và xƣơng sọ mà họ cho là thuộc

các chủng tộc khác nhau nhƣ Australoide, Mélanésien, Inđonésien, Nétiritos hoặc hỗn chủng

giữa các chủng tộc đó nhƣ Australo-Mélanésien, Indo-Mon-goloide, Indo-Mélanésien,

Nétzritos-Indonésien... Nhƣng nhìn chung, các sọ vỡ nát nhiều, thiếu nhiều bộ phận, nên việc

định chủng cho các sọ gặp khó khăn, thiếu chính xác. Nhìn chung trong thời đại đá, chúng ta

gặp nhiều đại biểu cho đại chủng Austruloid (đƣợc coi là Mélanésien), nhƣng cũng đã thấy

xuất hiện một loại hình nhân chủng đƣợc coi là Indonesien chiếm khá đông trong thành phần

dân cƣ. Chẳng hạn nhƣ ở hang Làng Cƣờm (Bắc Sơn), số sọ đƣợc coi là Indonesien chiếm

già nửa (8 sọ). Các sọ ở hậu kỳ đá mới nhƣ chợ Ghềnh, Hàm Rồng cũng là thuộc Inđonesien.

Những xƣơng sọ thuộc thời đại đá do các nhà khảo cổ học Việt Nam tìm đƣợc gần

đây đều có yếu tố Australoid pha lẫn yếu tố Moimoloid, hay là sọ Indonesien.

Sọ Indonesien có những đặc trƣng sau:

• Sọ dài hoặc trung bình (theo chỉ số sọ)

• Sọ cao - ngắn và hẹp (theo chỉ số cao - ngang)

• Mặt ngắn và trung bình (theo chỉ số mặt)

•Hốc mắt trung bình thiên Về phía hốc mắt cao (theo chỉ số hốc mắt)

• Hốc mũi rộng (theo chỉ số mũi) (Nguyễn Đăng Khoa I983 :116)

Theo chúng tôi, loại hình Indonesia vừa có những đặc trƣng Australoid vừa có những

đặc trƣng Mongoloid và đƣợc xếp vào ngành Mongoloid phƣơng Nam (Hà Văn Tấn 1962).

Chúng tôi cho rằng cần phải đặc biệt chú ý đến sự đóng góp của loại hình Indonesia cổ vào

sự thành hình cơ cấu nhân chủng của ngƣời Việt.

Điều đặc biệt quan trọng là đến thời kỳ văn hóa Đông Sơn, loại hình Indonesia vẫn

tiếp tục tồn tại. Trong các khu mộ Đông Sơn nhƣ Vinh Quang, Châu Can. Xuân La (Hà Tây),

Đọi Sơn (Nam Hà), Thiệu Dƣơng, Núi Nấp, Quỳ Chử (Thanh Hóa) đã tìm thấy những sọ

Indonesien điển hình. Nhìn chung trong các mộ Đông Sơn, sọ Inđonesien chiếm đa số.

Đáng tiếc là chúng ta chƣa tìm đƣợc các sọ nguyên vẹn có thể xác định đƣợc đặc

điểm chủng tộc trong các di tích Tiền Đông Sơn.

Có một số nhà nghiên cứu khi nghiên cứu xƣơng đùi và xƣơng sên, trong khu mộ

Lũng Hòa, thuộc văn hóa Phùng Nguyên, đã cho rằng ngƣời cổ ở đây có đặc trƣng của đại

chủng Austriilo-Negroid (Nguyễn Quang Quyền và Lân Cƣờng 1969). Ý kiến này thật ít sức

thuyết phục. Nếu bằng cách so sánh xƣơng ngƣời cổ với xƣơng ngƣời hiện đại, thì chúng ta

lại thấy xƣơng sên của ngƣời cổ ở Xóm Rền, một di tích cũng thuộc

42

văn hóa Phùng Nguyên, gần với đại chủng Mongoloid. Thực ra khó mà xác định đúng đắn về

chủng tộc qua các xƣơng chi, nhất là qua một xƣơng nhỏ nhƣ xƣơng sên. Trong thực tế,

chúng ta có thể gặp những xƣơng chi giống nhau ở các chủng tộc khác nhau, chẳng hạn,

xƣơng sên của ngƣời Nhật Bản trong nhiều đặc điểm lại gần gũi với xƣơng sên của ngƣời

Melanesien. Vì vậy, chúng ta phải chờ các sọ định chủng đƣợc tìm thấy trong các di tích Tiền

Đông Sơn.

Tuy nhiên, do chỗ ngƣời Inđonesien đã tìm thấy trong thời đại đá ở Việt Nam, lại vẫn

tìm đƣợc nhiều trong văn hóa Đông Sơn, chúng tôi cho rằng theo lô gích, ngƣời Indonesien

vẫn tiếp tục tồn tại trong thời kỳ Tiền Đông Sơn. Và nhƣ vậy, sự tồn tại của loại hình

Indonesien là không hề dứt đoạn từ thời đại đá sang thời đại kim khí ở Việt Nam

Nhƣng bên cạnh loại hình nhân chủng Indonesien, trong văn hóa Đông Sơn, còn gặp

một loại hình nhân chủng khác, mà ngƣời ta thƣờng gọi theo cách phân loại của các nhà nhân

chủng học Liên Xô (cũ) là loại hình Nam Á. Để tránh lầm lẫn với tên của một ngữ hệ - ngữ

hệ Nam Á - chúng tôi gọi loại hình này là loại hình Đông Nam Á, theo đề nghị đầu tiên của

nhà nhân học Pháp G.Olivier (Olivier - 1968 (race d' Asie du Sud-est), mà sau đó, nhiều học

giả khác cũng đồng ý.

Sọ loại hình Đông Nam Á có những đặc trƣng sau :

• Sọ trung bình hoặc sọ ngắn (theo chỉ số sọ)

• Sọ trung bình hoặc cao-ngắn thiên về trung bình (theo chỉ số cao-ngang)

• Mặt trung bình thiên về phía ngắn (theo chỉ số mặt)

• Hốc mắt trung bình (theo chỉ số hốc mắt)

• Hốc mũi trung bình và rộng thiên về trung bình (theo chỉ số mũi) ( Nguyễn Đình

Khoa 1983 :116)

Sọ Đông Nam Á đã gặp ở các khu mộ Đông Sơn nhƣ Vinh Quang, Minh Đức (Hà

Tây), Châu Sơn, Đọi Sơn (Nam Hà), Núi Nấp (Thanh Hóa).

Sọ Đông Nam Á rõ ràng là gần với sọ ngƣời Việt hiện đại hơn. Có thể nói là ngƣời

Việt hiện đai đã bắt nguồn trực tiếp từ loại hình này. Loại hình Đông Nam Á cũng thuộc

ngành Mongoloid phƣơng Nam nhƣng yếu tố Mongoloid trội hơn là ở loại hình Inđonesien.

Vấn đề đặt ra là loại hình Đông Nam Á đã hình thành nhƣ thế nào? Theo chúng tôi,

loại hình Đông Nam Á đã ra đời trên cơ sở loại hình Indonesien, hay nói cách khác, loại hình

Đông Nam Á là loại hình Indonesia đƣợc Mongoloid hóa thêm một bƣớc.

43

Nhƣng nhƣ chúng ta biết, quá trình Momioloid hóa là một quá trình lâu dài, xảy ra đã

từ lâu. Có thể đến văn hóa Đông Sơn, quá trình đó đã đƣợc mạnh hơn. Nhƣng nhìn chung,

trong các khu mộ Đông Sơn, đã song song tồn tại hai loại hình Inđonesien và Đông Nam á,

nhƣng thành phần Đông Nam Á cố phần ít hơn. Nhƣ vậy, có thể nói ngƣời Lạc Việt đƣợc

chép trong các thƣ tịch cổ, về mặt nhân chủng là gồm cả hai thành phần nhân chủng. Cho đến

sau Công nguyên, tình hình vẫn xảy ra nhƣ vậy.

Vả lại, trong nhiều khu mộ Đông Sơn, tuy ta nhận thấy có sự khác biệt trên sọ hai loại

hình nhân chủng, nhƣng có thể, trong các di tích Đông Sơn nói trên. sự khác nhau đó là trong

nội bộ quần thể. Thực ra, trong những sọ cổ xếp vào loại hình Indonesia không hiếm những

sọ có những đặc điểm của loại hình Đông Nam Á hoặc ngƣợc lại (Nguyễn Đinh Khoa 1983 :

115)

Có một điều cần chú ý là loại hình Inđonesien có dạng sọ dài còn loại hình Đông Nam

Á thì có dạng sọ ngắn. Sự biến chuyển này có thể không do ảnh hƣởng từ bên ngoài mà do sự

phát triển nội tại. Sự biến đổi từ sọ dài sang sọ ngắn đã xảy ra nhiều nơi trên thế giới nhƣ một

hiện tƣợng đồng quy sinh học, thƣờng đƣợc cắt nghĩa là gắn liền với điều kiện sống nhƣ sự

phát triển đến giai đoạn văn minh (thƣờng là từ thời đại đá sang thời đại kim khí). Vì vậy.

hiện tƣợng "đầu ngắn hóa" (brachyce phalisation) ở loại hình Đông Nam Á có thể không phải

là sự hỗn chủng tiếp tục với ngƣời Mongoloid. G.Olivier nhận xét rằng ngƣời Trung Quốc thì

đầu trung bình, ngƣời Tây Tạng cũng có đầu trung bình (mésocéphale), ngƣời Ấn Độ có đầu

dài (dolichucéphale), ngƣời Mélanésien ở phía Nam cũng có đầu dài. chỉ có Đông Dƣơng là

một trung tâm đầu ngắn (un fover de brachycéphalie). Và ông coi đó là một đề tài quan trọng

để nghiên cứu trong tƣơng lai: những nhân tố khí hậu. dinh dƣỡng, bệnh lý và văn hóa nào có

thể cắt nghĩa đƣợc các đặc điểm nhân chủng của cƣ dân Đông Dƣơng và Đông Nam Á?

(Olivier 1968 :100)

Phải chăng quá trình "đầu ngắn hoá' của cƣ dân Đông Dƣơng đã bắt đầu với sự xuất

hiện của loại hình Đông Nam Á ở văn hóa Đông Sơn và quá trình đó không chịu ảnh hƣởng

từ bên ngoài? Quá trình đó có thể cắt nghĩa bằng sự phát triển của điều kiện sống cao hơn về

văn hóa, về dinh dƣỡng, của văn hóa Đông Sơn.

Nhƣ vậy, ngay nguồn tài liệu cổ nhân học cũng nói lên nguồn gốc bản địa của ngƣời

Việt. Ngƣời Lạc Việt là tổ tiên của ngƣời Việt hiện đại, về mặt nhân chủng, là gồm cả hai loại

hình Inđnnesien và Đông Nam Á. Loại hình Đông Nam Á thì gần với ngƣời Việt hiện đại hơn

nhƣng cũng bắt nguồn từ loại hình Inđonesien mà loại hình Indonesien thì có cội nguồn xa

xƣa từ trong thời đại đá.

44

Dựa vào các số liệu đo đạc nhân chủng ở cƣ dân Đông Sơn (xem các bảng sau đây),

Nguyễn Lân Cƣờng so sánh với 13 xêri sọ khác bằng khoảng cách Penrose, thì thấy ngƣời

Đông Sơn gần gũi với ngƣời khơ-me, ngƣời Nam Trung Quốc và ngƣời Việt hiện đại. Còn so

sánh riêng từng nhóm loại hình của cƣ dân Đông Sơn, dựa theo công thức của F.Heincke,

Nguyễn Lân Cƣờng thấy rằng loại hình Đông Nam Á của cƣ dân Đông Sơn gần gũi nhất là

với ngƣời Việt hiện đại và loại hình Indonesien của cƣ dân Đông Sơn gần gũi nhất là với

ngƣời Tagal, rồi đến ngƣời Việt hiện đại (Nguyên Lân Cƣờng 1994: 193,206- 207). Nhƣ vậy,

dẫu chƣa phải là đồng nhất về mặt nhân chứng, ngƣời Đông Sơn đã rất gần với ngƣời Việt

hiện đại. Do đó, có thể khẳng định rằng cƣ dân Đông Sơn là tổ tiên của ngƣời Việt. Mà cƣ

dân Đông Sơn, nhƣ đã nói ở trên, có loại hình nhân chủng đƣợc hình thành từ bản địa.

Tài liệu nhân chủng học ngƣời Việt hiện đại cũng giúp ta hiểu thêm về nguồn gốc

ngƣời Việt. Sau khi đo sọ của ngƣời Việt hiện đại. Olivier bằng cách tính khoảng cách

Penrose, cho thấy rằng ngƣời Việt hiện đại trƣớc hết là gần gũi với ngƣời Dayak (Inđonêxia),

sau đó mới đến ngƣời Trung Quốc,và ngƣời Khơ-me (Olivier 1966 :83). Cũng bằng phƣơng

pháp tính khoảng cách Penrose. Võ Hƣng lại cho sọ ngƣời Việt hiện đại gần gũi với các

nhóm Khơ-me. Khạ và Mã Lai và có quan hệ với ngƣời Nam Trung Quốc xa hơn nhiều (Võ

Hƣng 1974). Tuy những luận điểm đó có khác nhau nhƣng đều xác nhận mối quan hệ gần gũi

giữa sọ ngƣời Việt với một số nhóm mà ta thƣờng coi là Indonesien (Khạ, Dayak...). Còn

quan hệ với ngƣời Nam Trung Quốc thì ngƣời Coi là gần. ngƣời coi là xa, nhƣng đều ở sau

mối quan hệ với các nhóm khác. Nhƣ vậy, cái thuyết cho rằng ngƣời Việt là ngƣời Nam

Trung Quốc thiên đi đến cũng không đứng vững đƣợc với tài liệu nhân chứng học.

Theo Olivier thì trong số sọ ngƣời Việt hiện đại, chỉ có 63.7% là sọ ngắn

(brachycéphale) và có đến 36.390 là sọ dài (dolichocéphale), trong khi đó, ngay ở ngƣời

Khơ-me, chỉ có 33.8% là sọ dài và 67.2% là sọ ngắn. Còn những nhóm Đông Nam Á khác

nhƣ Lào, có 2,6% sọ dài và 97,4% sọ ngắn, Thái Lan có 8,3% sọ dài và 91,7% sọ ngắn

(Olivier 1966 :77). Nhƣ vậy, ta thấy rõ ở ngƣời Việt hiện đại còn có quan hệ với ngƣời

Indonesien. Trên ngƣời sống, Olivier cũng nhận xét rằng ngƣời Việt có mũi bé, khá rộng và

thấp, mặt ngắn, chỉ số mặt khoảng 83.5 và nhƣ thế là gần với ngƣời Indnnesien hơn ngƣời

Trung Quốc và ngƣời Thái (Olivier 1968 :89).

Tóm lại, tài liệu cổ nhân học cũng nhƣ tài liệu nhân chủng học hiện đại, đều chứng

minh ngƣời Việt có nguồn gốc bản địa.

45

KÍCH THƢỚC VÀ CHỈ SỐ TRUNG BÌNH CỦA CÁC SỌ CỔ

VĂN HÓA ĐÔNG SƠN Ở VIẺT NAM (SỌ NAM)

46

Đặc điểm 52:51a 52:51 54 55 54:55 75(1) SC SS SS : CS DC DS DS:DC 62 63 63:62 68 (1) 68 79 66 70 69 C' < N 8 20 22 18 18 15 14 14 8 8 8 6 20 6 23 21 25 22 21 25 9 Min-Max 72.5 - 94.87 71.11 - 90.24 24 - 33 46 - 58 46.55 - 62.25 6 - 15.5 0.7 - 4.7 6.6 - 57.69 20.8 - 25.6 7.4 - 10.8 31.9 - 43.33 44 - 50 37 - 50 80 - 97.78 74 - 114 65 - 87 108-133 79 - 106 55 - 69 30.5 - 38 66 - 95 ̅ 84.16 78.62 27.8 51.97 53.67 10.02 2.59 28 22.74 8.81 38.85 46. 75 41.66 88.01 103.22 77.9 121.06 96.84 62.02 33.7 77039 S 8.16 10.56 2.47 3.38 4.63 2.82 1.24 14.04 1.74 1.05 4.4 2.44 2.99 6.43 8.19 6.00 6.35 7.71 5.02 2.30 8.28 ̅ 2.88 2.36 0.53 0.8 1.09 0.73 0.33 3.75 0.61 0.37 1.55 1.0 0.67 2.62 1.71 1.31 1.27 1.64 1.1 0.46 2.76 V 9.70 13.43 8.88 6.50 8.63I 28.14 47.881 50.14 7.65 11.92 11.33 5.22 7.18 7.31 7.93 7.7 5.25 7.96 8.09 6.82 10.70

KÍCH THƢỚC VÀ CHỈ SỐ TRUNG BÌNH CỦA CÁC SỌ CỔ VĂN HÓA ĐÔNG

N 24 23 23 12 12 12 22 11 20 20 20 16 9 9 15 SƠN Ở VIỆT NAM (SỌ NỮ) S 6.80 5.16 3.79 5.31 3.48 4.08 9.78 6.03 4.67 2.84 4.60 2.94 5.80 7.18 5.28 Min-Max 164- 191 123 - 144 67.5 - 82.29 123- 140 70.7- 81.4 94.6- 106.8 86- 137 89 - 106.3 84-104 63.16-76.3 106-119 74.34 - 86.55 82 - 97 74 - 95 90- 110 ̅ 175.94 131.S5 74.84 131.33 75.40 100.52 112.02 96.75 93.33 70.84 112.25 82.71 89.11 84.44 102.07 ̅ 1.39 1.08 0.79 1.53 1.01 1.18 2.09 1.82 1.04 0.64 1.03 0.74 1.93 2.39 1.36 V 3.86 3.91 5.06 4.04 4.62 4.06 8.73 6.23 5.00 4.01 4.10 3.55 6.51 8.50 5.17 Đặc điểm 1 8 8:1 17 17:1 17 :8 20 5 9 9:8 10 9:10 32 9-m/f 12

47

48

NGUỒN GỐC NGƢỜI VIỆT QUA TÀI LIỆU NGÔN NGỮ HỌC

Vị trí của tiếng Việt và tiếng Mƣờng trong các ngữ hệ đã từng đƣợc thảo luận sôi nổi.

Từ giữa thế kỷ 19, đã có những học giả xếp tiếng Việt vào ngữ hệ Môn-Khmer, mà nhƣ J.R.

Logan, gọi là ngữ hệ Môn-An Nam (Logan 1852). Nhƣng từ năm 1912, Henri Maspéro đã

xếp tiếng Việt vào nhóm ngôn ngữ Hán - Thái trong ngƣ hệ Hán -Tạng (Sino - Tibetan). Ông

dựa vào chỗ trong tiếng Việt có nhiều từ vựng cơ bản gốc Thái và tiếng Việt là tiếng có thanh

điệu (Maspéro 1912). Quan điểm của Maspéro đã ảnh hƣởng đáng kể đến nhiều học giả khác.

Thậm chí, W.Schmidt, năm 1905 đã xếp tiếng Việt vào mũi hệ Môn - Khmer (Schmidt 1905),

thì trong công trình năm 1926 đã thay đổi ý kiến, xếp tiếng Việt vào tiếng Thái (Schmidt

1926)

Nhƣng những cố gắng liên tục của André Haudricourt (1953, 1954. 1955) đã thuyết

phục mọi ngƣời rằng tiếng Việt thuộc ngữ hệ Nam Á (Austroasiatic). Những từ vựng cơ bản

đƣợc Maspéro cho là gốc Thái thì Haudricourt chứng minh là của tiếng.

Môn – Khmer, Còn về thanh điệu thì không thể nhận định một cách tiên nghiêm rằng

một ngôn ngữ vốn không có thanh điệu không thể nào trở thành một ngôn ngữ có thanh điệu

đƣợc. Càng ngày ngƣời ta càng tin theo quan điểm của Haudricourt. Những công trình gần

đây (Gage 1985) chỉ củng cố quan điểm của Haudricourt.

Nhƣ vậy, hiện nay tiếng Việt - và cả tiếng Mƣờng - đƣợc coi là thuộc ngữ hệ Nam Á

(có ngƣời còn gọi là Môn - Khmer). Nhƣng một ảnh hƣởng lâu đời của tiếng Thái, thậm chí

cả tiếng Malayo - Polynesien hay tiếng Nam Đảo (Austronesien) vào tiếng Việt Mƣờng thì

không ai nghi ngờ gì. Giải thích hiện tƣợng đó nhƣ thế nào?

Từ năm 1942, Paul K.Benedict đã tách tiếng Thái ra khỏi ngữ hệ Hán Tạng ( Benedict

1942). Việc làm đó đã đƣợc nhiều học giả ủng hộ. Ông ta đã nhận thấy những mối quan hệ

gần gũi giữa ngôn ngữ Thái và ngôn ngữ Nam Đảo, và cho tiếng Thái vào ngữ hệ mà ông gọi

là Thai - Kadai. Nhƣng vào các năm 1966 và 1967, trong một loạt bài viết mà sau này đƣợc

tập hợp trong quyển sách năm 1975, Benedict đã gắn ngữ hệ Thái với ngữ hệ Nam Đào, và

gọi chung là ngữ hệ Austro - Thai (Benedict 1915). Các chuyên gia lớn về ngôn ngữ Nam

Đào nhƣ Isidore Dyen (1982) đều bác bỏ thuyết này. Nhƣng dẫu sao thì mối quan hệ giữa

ngôn ngữ Thái và ngôn ngữ Nam Đảo là không thể phủ nhận.

Trong khi gắn ngôn ngữ Thái với ngôn ngữ Nam Đảo thành ngôn ngữ Austro -Thai,

Beneclict lại phủ nhận mối quan hệ giữa ngữ hệ Nam Á với ngữ hệ Nam Đảo. Nhƣng điều

này đã không đƣợc nhiều ngƣời ủng hộ- Năm 1974, Saveros Pou và Philip Jenner đã chứng

minh mối liên hệ giữa ngôn ngữ Nam Đảo (Proto - Indonesia) với ngôn ngữ Mon - Khmer

(Pou and Jenner 1974). Lawrence A.Reid cũng lƣu ý chúng

49

ta mối liên hệ giữa hệ Nam Á và ngữ hệ Nam Đảo. Reid đã thấy tiếng Nancowry của cƣ dân

quần đảo Nicobar, mà tất cả các nhà ngôn ngữ học đã nhất trí là một ngôn ngữ Nam Á, giống

hệt một cách ngạc nhiên về công cụ hình thái (morphological apparatus) cả về hình thức lẫn

chức năng với ngôn ngữ Proto - Nam Đào (Proto -Austronesian) mà các nhà Nam Đào học đã

khôi phục. Do sự cô lập của ngôn ngữ Nancowry. Reid cho rằng sự giống nhau này không thể

là do tiếp xúc mà có khả năng là do mối liên hệ nguồn gốc giữa các ngữ hệ Nam Á và Nam

Đào. Từ đó, Reid nhắc chúng ta trở lại giả thuyết mà W.Schmidt đƣa ra từ năm 1906, về một

ngữ hệ Austric (Nam Phƣơng) bao trùm cả ngôn ngữ Nam Á và ngôn ngữ Nam Đảo.

Giả thiết về một ngôn ngữ Austric, cội nguồn của ngữ hệ Nam Á và Nam Đào thì cho

đến nay đƣợc nhiều học giả khẳng định. Còn mối liên hệ giữa ngôn ngữ Thái và ngôn ngữ

Nam Đào thì lại đƣợc các nhà ngôn ngữ, đặc biệt là Thurgood, coi không phải là liên hệ

nguồn gốc mà chỉ là liên hệ do tiếp xúc (Reid 1994).

Về quê hƣơng của các ngữ hệ trên, còn có nhiều ý kiến khác nhau, có những học giả

coi quê hƣơng của ngƣời Nam Đào là ở trong vùng hải đảo Đông Nam Á, nhƣng cũng có

nhiều ngƣời khác tim quê hƣơng của ngƣời Nam Đào ở miền bờ biển Nam Trung Quốc hay

Đài Loan. Còn quê hƣơng của ngữ hệ Thái thì đƣợc nhiều ngƣời cho là Nam Trung Quốc và

một phần Bắc Việt Nam. Nếu thừa nhận mối liên hệ giữa ngôn ngữ Thái và ngôn ngữ Nam

Đào, dù chỉ là mối liên hệ tiếp xúc, thì phải thừa nhận cƣ dân nói hai ngữ hệ này phải cƣ trú

cạnh nhau lâu đời. Vì vậy xem ra quan điểm cho rằng quê hƣơng của cƣ dân nói tiếng Nam

Đào ở Đông Nam Trung Quốc là hợp lý hơn.

Ngày nay đa số cƣ dân nói ngôn ngữ Nam Á là ở vùng lục địa Đông Nam Á. Tìm quê

hƣơng của cƣ dân nói tiếng Nam Á ở vùng lục địa Đông Nam Á là hợp lý. Với lại, nếu ta ủng

hộ lý thuyết có một ngữ hệ Nam Phƣơng (Austric), cội nguồn chung cho cả ngữ hệ Nam Á và

ngữ hệ Nam Đảo, thậm chí cả ngữ hệ Thái, thì chúng ta chỉ có thể liên hệ ngôn ngữ rộng lớn

này với vùng phân bố của văn hóa Hòa Bình rộng khắp Đông Nam Á lục địa .

Nhƣ vậy, tiếng Việt là một ngôn ngữ Nam Á. Chỉ có thể có quê hƣơng ở Đông Nam

Á lục địa. Nhƣng ở đây, chúng ta cần bàn thêm về lịch sử của tiếng Việt để thấy rõ quá trình

hình thành của nó.

Khi bàn về tiếng Việt đã tách ra từ ngữ hệ Nam Á nhƣ thế nào, ta gặp khái niệm

Proto-Việt-Mƣờng mà một số nhà ngôn ngữ học đã đƣa ra (Ferlus 1975). Sau khi xem xét cái

đƣợc gọi là Proto-Việt-Mƣờng mà một số nhà ngôn ngữ học cố gắng khôi phục, chúng tôi

cho rằng ngôn ngữ đó chỉ là là ngôn ngữ tổ tiên của tiếng Việt và tiếng Mƣờng

50

Chúng tôi đề nghị gọi nó là Việt-Mƣờng chung. Trong khi đó, các ngôn ngữ trong nhóm

Việt-Mƣờng còn tồn tại hiện nay ở các tỉnh Bắc Trung bộ và một phân trên đất Lào nhƣ tiếng

Cuối, tiếng Poọng, tiếng Mã Liềng, tiếng Chứt, tiếng Tha Vƣng, tiếm: A Hơ... có trình độ

phát triển không giống với tiếng Việt và tiếng Mƣờng. Có ngôn ngữ có hình thức CCVC hay

CVCVC. Chúng tôi dành thuật ngữ Proto -Việt-Mƣờng (Tiền Việt Mƣờng) là cho ngôn ngữ

tổ tiên chung của các ngôn ngữ Việt - Mƣờng nói trên, kết cả tiếng Mƣờng và tiếng Việt.

Vì thế, năm 1976, chúng tôi đã đề nghị một sơ đồ hình thành tiếng Việt qua các giai

đoạn : Proto-Việt-Mƣờng Việt-Mƣờng Chung Việt và Mƣờng (Hà Văn Tấn 1976)

PROTO – VIỆT – MƢỜNG

VIỆT – MƢỜNG CHUNG

CHỨT, POONG V.V... VIỆT MƢỜNG

Về sau, thuật ngữ Việt Mƣờng Chung mà chúng tôi đƣa ra đã đƣợc một số nhà ngôn

ngữ học Việt Nam sử dụng (Nguyễn Văn Tài 1988). Phạm Đức Dƣơng và chúng tôi cũng đã

phát triển thêm lý thuyết này (Hà Văn Tấn và Phạm Đức Dƣơng 1978).

Gần đây, Gérard Diffot, trong một hội thảo gồm những nhà khảo cổ học và ngôn ngữ

học tổ chức ở Hua Hin, Thái Lan vào tháng giêng 1991, đã coi nhóm các ngôn ngữ mà trƣớc

đây chúng ta gọi là Việt Mƣờng là một nhánh (branh) của ngữ hệ Môn -Khmer, với cái tên là

Vietic. Từ đó, cái mà chúng tôi gọi là Việt-Mƣờng Chung thì ông vẫn gọi là Proto-Việt-

Mƣờng, còn cái chúng tôi gọi là Proto-Việt-Mƣờng thì ông gọi là Proto-Vietic (Difflot 1991).

Chúng tôi cho rằng sự khác nhau đó chỉ có ý nghĩa danh pháp, không quan trọng mấy

đối với lịch sử hình thành tiếng Việt.

Chúng tôi thấy rằng tiếng Proto-Việt-Mƣờng (hay Proto-Vietic của Difflot) là một

nhóm trong ngữ hệ Nam Á, mà dấu vết của nó còn để lại trong các ngôn ngữ Bắc Trƣờng Sơn

nhƣ Chứt, Poọng... Một động lực để ngôn ngữ Proto-Việt-Mƣờng biến chuyển thành ngôn

ngữ Việt-Mƣờng Chung có thể là ảnh hƣởng của ngôn ngữ Thái. Vì vậy, có thể coi tiếng Thái

cũng là một cội nguồn lâu đời của tiếng Việt, mặc dầu không phải là cội nguồn đầu tiên.

Có lẽ Nguyễn Văn Tài đã có lý khi cho rằng tiếng Việt và tiếng Mƣờng đã tách khỏi

tiếng Việt-Mƣờng Chung vào khoảng thế kỷ 7 hoặc 8 sau Công nguyên (Nguyễn Văn Tài

1978). Và nhƣ vậy, ta có thể nghĩ rằng ảnh hƣởng của tiếng Hán đến tiếng Việt có thể có tác

dụng trong quá trình phân hóa tiếng Việt và tiếng Mƣờng.

51

Nếu quả tiếng Mƣờng và tiếng Việt chỉ tách rời nhau cuối thời Bắc thuộc thì trƣớc đó,

trong thời kỳ văn hóa Đông Sơn, đại bộ phận cƣ dân là tổ tiên của ngƣời Việt và ngƣời

Mƣờng ắt hẳn nói ngôn ngữ Việt-Mƣờng Chung. Tất nhiên là trong văn hóa Đông Sơn cũng

có bộ phận nói tiếng Thái.

Còn cƣ dân Tiền Đông Sơn, thì theo chúng tôi, còn nói ngôn ngữ Proto-Việt-Mƣờng

(Hà Văn Tấn 1993).

Ở trên, chúng ta đã nói rằng chƣa tìm đƣợc rõ ràng nguồn gốc văn hóa Phùng

Nguyên. Chỉ biết rằng sau biến tiến Holocene Trung, khi đồng bằng sông Hồng, hình thành

do biển rút lui thì mới thấy cƣ dân văn hóa Phùng Nguyên đến cƣ trú. Nhƣng họ từ đâu đến

thì ta chƣa thể trả lời chắc chắn đƣợc. Có điều có thể dứt khoát là không phải đến từ Nam

Trung Quốc, vì ở vùng này, không có một văn hóa nào có nét tƣơng tự với văn hóa Phùng

Nguyên, nhất là về hoa văn đồ gốm. Chỉ có di chỉ Đại-Đôn Tử ở Vân Nam là có một số mảnh

gốm gần giống với gốm Phùng Nguyên nhƣng lại chỉ ở lớp trên và niên đại muộn. Vì thế, đã

có lần chúng tôi đề ra giả thuyết là văn hóa Phùng Nguyên có mặt ở đồng bằng sông Hồng

sau một cuộc đi từ phía nam ra ( Hà Văn Tấn 1976 ; Hà Văn Tấn và Phạm Đức Dƣơng 1978).

Gần đây, G.Difflot, sau khi nghiên cứu các ngôn ngữ mà ông gọi là Vietic ở Trung

Lào và Trung bộ Việt Nam, đã đƣa ra giả thuyết rằng những ngƣời nói ngôn ngữ Vietic xƣa

(vào khoảng thiên niên kỳ thứ nhất trƣớc công nguyên) đã thiên đi từ vùng Trung Lào) đến

Nghệ Tĩnh (Việt Nam) rồi từ đó, đi lên phía bắc, đến châu thổ sông Hồng (Difflot .1991).

Theo chúng tôi, do sự phân bố rộng của các nhóm ngôn ngữ Vietic (Tiền Việt-

Mƣờng) rộng rãi hai bên sƣờn đông và tây của Trƣờng Sơn, mà hiện nay ta còn thấy hiện

tƣợng chuyển dịch của các nhóm dân tộc bên này sang bên kia hay ngƣợc lại, việc đƣa ra giả

thuyết về cuộc thiên di của ngƣời Vietic từ Trung Lào vào Việt Nam là không cần thiết và

cũng không có cơ sở. Nhƣng cuộc di cƣ ra phía bắc của ngƣời Vietic cổ xƣa mà Difflot đã

nêu lên là đáng suy nghĩ. Có điều, theo chúng tôi, nếu có cuộc thiên di này thì nó đã xảy ta

sớm hơn, có thể là cuối thiên niên kỷ thứ ba hay đầu thiên niên kỷ thứ hai trƣớc công nguyên.

Chính ở vùng lƣu vực sông Hồng, những cƣ dân nói tiếng Proto-Việt-Mƣờng đã tiếp

xúc với cƣ dân nói tiếng Tày Thái và có thể với cả nhóm cƣ dân nói tiếng Nam Đào ở vùng

ven biển Đông Bắc. Điều đó giải thích dễ dàng vì sao trong tiếng Việt có ảnh hƣởng của tiếng

Thái và của cả tiếng Nam Đào.

Tóm lại, bằng tài liệu ngôn ngữ học, chúng tôi muốn dùng phƣơng pháp hồi cố để

ngƣợc lại lịch sử tiếng Việt, và cũng từ đó, ngƣợc lên cội nguồn của những ngƣời nói

52

tiếng việt hiện đại. Đó là một cội nguồn bản địa, vì tiếng Việt bắt nguồn từ tiếng Việt-Mƣờng

Chung, và đến lƣợt, ngôn ngữ này lại bắt nguồn từ tiếng Proto-Việt-Mƣờng (hay Proto-

Vietic), một ngôn ngữ của ngữ hệ Nam Á, ngữ hệ của vùng Đông Nam Á lục địa.

*

* *

Nhƣ vậy là bằng tài liệu khảo cổ học, tài liệu nhân chủng học và tài liệu ngôn ngữ

học, chúng tôi đã trình bày quan điểm của mình về nguồn gốc ngƣời Việt. Đó là một giả

thuyết bản địa về nguồn gốc ngƣời Việt. Chúng tôi không chấp nhận nguồn gốc ngƣời Việt là

thiên di từ các vùng khác đến. Có thể tìm nguồn gốc ngƣời Việt từ văn hóa Phùng Nguyên và

các văn hóa cùng bình tuyến. Chúng ta chƣa làm sáng tỏ nguồn gốc văn hóa Phùng Nguyễn

nhƣng về mặt nhân chủng học thì có thể chứng minh một quá trình phát triển liên tục từ thời

đại đá cho đến văn hóa Đông Sơn. Chúng ta cũng có thể chứng minh cội nguồn bản địa của

tiếng Việt.

Nhƣng khi trình bày một giả thuyết bản địa về nguồn gốc ngƣời Việt, chúng tôi không

hề phủ nhận các ảnh hƣởng bên ngoài. Ảnh hƣởng đó bao gồm cả các nhân tố văn hoá, nhân

chủng và ngôn ngữ. Chính những nhân tố bên ngoài này, cùng với sự biến dị, chuyển biến

của những nhân tố bên trong, đã làm cho cộng đồng tộc ngƣời không ngừng thay đổi và nhƣ

vậy, chúng ta mới thấy tộc Việt nhƣ ngày nay.

53

CHƢƠNG IV: VĂN MINH KỸ THUẬT CỦA NGƢỜI VIỆT CỔ

Công cuộc nghiên cứu khảo cổ học, cổ sử, dân tộc học, cổ sinh học, cổ địa lý, địa chất

và hàng loạt các ngành khoa học phụ trợ khác trong nhiều thập kỷ qua đã cung cấp cho ta

nhiều tài liệu quí giá, nhiều luận cứ khoa học đáng tin cậy để vẽ nên bức tranh toàn cảnh về

nền văn minh kỹ thuật của tổ tiên chúng ta - những ngƣời Việt cổ ở buổi bình minh lập nƣớc

- thời kỳ Hùng Vƣơng - An Dƣơng Vƣơng. Đƣơng nhiên, đây là bức tranh có rất nhiều những

mảng tối - sáng, mờ - tỏ khác nhau. Hoàn thiện bức tranh vẫn còn là nhiệm vụ của tƣơng lai.

Ở đây chúng tôi sẽ cố gắng trình bày một cách cô đọng những nét chính yếu nhất, những

thành tựu kỹ thuật mà ngƣời Việt cổ đã đạt tới thời đó.

Nhƣ đã rõ, "kỹ thuật" là một khái niệm hết sức chung rộng. Nó bao hàm toàn bộ

những phƣơng tiện hoạt động của con ngƣời, đƣợc con ngƣời tạo ra để thực hiện các quá

trình sản xuất và phục vụ cho những đòi hỏi phi sản xuất của xã hội (Bách Khoa toàn thƣ Xô

Viết 1985). Để nghiên cứu đầy đủ văn minh kỹ thuật của một xã hội cụ thể, ta buộc phải xem

xét toàn diện cà 2 bộ phận - kỹ thuật sản xuất và kỹ thuật phi sản xuất. Những công việc này

chẳng đơn giản, dễ dàng chút nào khi phải đối mặt với một xã hội đã lùi quá xa vào dĩ vãng,

và càng khó khăn hơn gấp bội khi xã hội đó chƣa có văn tự, nhƣ xã hội ngƣời Việt cổ thời

Hùng Vƣơng - An Dƣơng Vƣơng. Trong ý đồ của mình, chúng tôi cũng đặt trọng tâm vào

lĩnh vực kỹ thuật sản xuất, bởi nó chính là tiêu chí căn bản xác định diện mạo, tính chất và

trình độ văn minh xã hội.

Nền văn hóa Đông Sơn đƣợc thừa nhận là nền văn hóa căn cứ của ngƣời Việt cổ.

Nhƣng để tìm hiểu sự hình thành và phát triển của văn minh kỹ thuật Việt cổ, chúng ta không

thể bỏ qua các văn hóa Tiền Đông Sơn ở lƣu vực sông Hồng Phùng Nguyên - Đồng Đậu - Gò

Mun và các văn hóa tuơng đƣơng với chúng ở nơi khác.

I. CÁC KỸ THUẬT SẢN XUẤT

A. KỸ THUẬT NÔNG NGHIỆP

Cho đến nay, các nhà nghiên cứu còn đang phân vân khi nói về thời điểm xuất hiện

nền nông nghiệp ở Việt Nam : có thể ở vào giai đoạn văn hóa Hòa Bình chăng? Có công trình

nghiên cứu dấu vết lao động trên sƣu tập công cụ đá Xóm Trại - một di tích Hòa Bình rất điển

hình, đã lọc ra đƣợc một số công cụ có chức năng cuốc. Hơn thế, đã có công bố về những hạt

thóc tìm thấy trong tầng văn của chính địa điểm này. Nhƣng sự nghi ngờ vẫn tồn tại. Công cụ

có chức năng cuốc có thể đơn giản để đào rễ.

54

củ trong kinh tế thu lƣợm. Còn hạt thóc, tuy tìm thấy trong tầng văn hóa, nhƣng chƣa ai dám

chắc chúng có cùng niên đại với những công cụ đá Hòa Bình điển hình. Tầng văn hóa Xóm

Trại ken nhiều vỏ ốc, tơi xốp, những di vật đời sau dễ dàng lọt xuống tận tầng sâu.

Niên đại mở đầu chắc chắn hơn đƣợc gắn với các văn hóa sơ kỳ đá mới Bắc Sơn (ở

vùng núi Bắc Bộ) và Đa Bút (vùng ven biển Thanh Hóa). So với văn hóa Hòa Bình trƣớc đó,

trong các văn hóa này đã có những biến đổi đáng kể trong hoạt động kinh tế. Rìu mài lƣỡi,

trong đó có nhiều chiếc đƣợc sử dụng nhƣ cuốc, chiếm ƣu thế trong văn hóa Bắc Sơn. Những

dấu tích thức ăn chứa đựng trong tầng văn hóa Bắc Sơn với sự giảm đáng kể của vỏ ốc so với

văn hóa Hòa Bình, làm chúng ta phải nghĩ đến sự đổi hƣớng chiến lƣợc lƣơng thực - thực

phẩm của ngƣời Bắc Sơn. Có lẽ ngƣời Bắc Sơn đã bƣớc đầu biết đảm bảo nguồn thức ăn của

mình bằng cách chăm sóc – trồng trọt (?) một vài loại cây củ có sẵn nhƣ củ mài, củ mỡ...

Theo các nhà nghiên cứu, có những dấu hiệu chứng tỏ cƣ dân Đa Bút đã chắc chắn

biết trông trọt. Họ đã dần dần rời xa vùng núi, tiến xuống miền đồng bằng, nơi thuận lợi cho

trồng trọt. Công cụ kiểu cuốc đá mài lƣỡi xuất hiện và nhanh chóng đạt tới số lƣợng lớn phản

ánh sự đổi thay trong phƣơng thức kiến sống trồng trọt xuất hiện và nhanh chóng chiếm vị trí

quan trọng. Đồ gốm trong văn hóa Đa Bút đặc biệt phát triển về số lƣợng. Hiện tại chƣa có

bằng chứng trực tiếp nào để nói về cơ cấu cây trồng trong thời đại này, liệu cây lúa đã đƣợc

biết đến hay chƣa? Và những bƣớc đi tiếp theo - từ sơ kỳ đá mới đến hậu kỳ đá mới của nền

nông nghiệp trên vùng đất mà sau này trở thành địa bàn sinh cƣ của ngƣời Việt cổ, diễn ra

nhƣ thế nào? Đây còn là những khoảng trống cần có thêm thời gian để tìm hiểu.

Chỉ biết chắc chắn đƣợc rằng, chủ nhân của những nền văn hóa vật chất đã đƣợc các

nhà khảo cổ học nhất trí khẳng định là thuộc thời kỳ Hùng Vƣơng dựng nƣớc đã là những

ngƣời nông dân trồng lúa nƣớc thành thục ngay từ giai đoạn văn hóa Phùng Nguyên.

Dấu tích hạt thóc, gạo không còn là những phát hiện quá hiếm hoi và lẻ tè, ở khá

nhiều di chỉ thuộc các giai đoạn văn hóa từ Phùng Nguyên đến Đông Sơn, phân bố rải rác ở

nhiều vùng sinh thái khác nhau - từ vùng trung du - đồng bằng trƣớc núi đến vùng đồng bằng

phù sa ven biển. Có niên đại sớm hơn cả hiện biết là vài hạt thóc tìm thấy lè tẻ ở các địa điểm

Phùng Nguyên nhƣ Gò Bông, Xuân Kiều. Muộn hơn một chút là phát hiện tại lớp văn hóa

Phùng Nguyên muộn ở địa điểm Đồng Đậu. niên đại C14 của lớp này đƣợc định vào khoảng

dƣới 4000 năm cách ngày nay. Cũng tại địa điểm này, hạt gạo cháy còn tìm thấy tƣơng đối

phổ biến ở các kíp văn hóa Đồng Đậu, Gò Mun. Tại di chỉ Gò Mun, các nhà nghiên cứu đã

tìm thấy cả "hầm ngũ cốc". Chúng ta

55

còn tìm thấy những hạt thóc lúa, vỏ trấu trong các vật bằng đất nung (khuôn đúc, nồi nấu

đồng, chạc gốm, cục đất nung...) ở nhiều di chỉ khác nữa nhƣ Từ Sơn, Làng Cả, Gò Chiền,

Trung Mâu, Đông Tiến, Làng Vạc...

Qua phân tích về mặt hình thái hạt thóc gạo tìm thấy ở các địa điểm nêu trên, các nhà

nông sinh học đã đƣa ra ý kiến về,tính đa dạng của các giống lúa. Đa số chúng thuộc giống

lúa hạt tròn (có thể là nếp, lúa chiêm), ngoài ra còn có giống lúa hạt bầu và dài (Đào Thế

Tuấn, 1983, 1984 ; Nguyên,Xuân Hiển, Nguyễn Việt 1982...). Sự ra đời của nhiều giống lúa

hẳn phải nhờ quá trình lai tạo thuần dƣỡng lâu năm nhằm đáp ứng nhu cầu mở rộng đất đai

đến những vùng đất mới, cũng nhƣ nhằm tăng thêm mùa vụ trong năm, đáp ứng nhu cầu

lƣơng thực ngày một lớn của những trung tâm dân cƣ tập trung đông đúc, đặc biệt là vào giai

đoạn cuối - giai đoạn văn hóa Đông Sơn (trung tâm Làng Cả ở lƣu vực sông Hồng, Đông Sơn

ở lƣu vực sông Mã, Làng Vạc ở lƣu vực sông Cả). Ngày nay, bằng những phƣơng pháp

nghiên cứu hiện đại trên một nghìn giống lúa trồng ở khu vực Đông Nam Á, trong đó có Việt

Nam, các nhà khoa học đã đi đến kết luận rằng Việt Nam có thể là một trung tâm phát sinh

cây lúa và là một trung tâm đa dạng của cây lúa. Tính đa dạng của cây lúa thế hiện đặc biệt

tập trung ở miền Bắc Việt Nam - địa bàn sinh cƣ của ngƣời Việt cổ. Ngoài những giống lúa

Inlica, Japonica còn có hàng loạt giống trung gian giữa hai loại Indica và Japonica hoặc

giống lúa thuộc loài phụ Japonica (Đào Thế Tuấn 1994). So với các chứng tích khảo cổ học,

chúng ta thấy rất rõ tính đa dạng cây lúa ở miền Bắc Việt Nam không phải là hiện tƣợng xuất

hiện tƣơng đối muộn sau này, mà đã xuất hiện ngay từ buổi đầu dựng nƣớc của dân tộc. Đây

là một nét đặc trƣng một thành tựu đáng kể của kỹ thuật trồng lúa của ngƣời Việt. Nó chứng

minh khả năng thích ứng môi sinh rất linh hoạt, cũng nhƣ bề dày kinh nghiệm trồng lúa hàng

nghìn đời của họ. Thâm canh đƣợc coi là một nét đặc sắc của nền văn minh lúa nƣớc của dân

tộc ta (Trần Đức 1993 ; 19).

Vai trò chủ đạo của lúa nƣớc, truyền thống thâm canh và sử dụng nhiều giống lúa để

sản xuất của ngƣời Việt cổ, còn đƣợc ghi lại trong khá nhiêu văn bản Hán ngữ cổ. Mặc dù

chúng ta chƣa biết đến một văn bản nào ra đời cùng thời Hùng Vƣơng -An Dƣơng Vƣơng,

nhƣng những ghi chép của các sử gia, những quan lại nhà Hán sống vào thời gian sau đó vài

thế kỷ, cũng cho ta những tài liệu tham khảo quý giá. Có thể kể ra đây vài tài liệu tiêu biểu.

Sách Dị vật chí của Dƣơng Phù thời Đông Hán (thế kỷ 1 công nguyên) đã thất truyền, nhƣng

đã đƣợc dẫn lại trong nhiều cuốn sách đời sau, viết khá nhiều về tình hình nông nghiệp Giao

Chỉ, Cửu Chân. Trong sách có đoạn viết rằng, lúa ở Giao Chỉ một năm chín 2 lần (2 vụ).

Trong Thủy kinh chú còn có những đoạn viết cụ thế về mùa vụ ở Giao Chỉ, Cửu Chân rằng, ở

đây có ruộng lúa trắng, tháng 7 làm tháng 10 chín, ruộng lúa đỏ tháng 12 làm tháng 4 chín,

đó là lúa hai mùa - lúa sớm, lúa muộn, tháng nào cũng tốt. Muộn hơn, có sách Quảng chí của

Quách Nghĩa

56

Cung đầu thời Tấn (dẫn trong Sơ học ký quyển VIII) nói kỹ hơn về tập đoàn giống lúa trồng ở

Giao Châu. Sách chép rằng, ở đây mỗi năm có 3 vụ lúa chín vào mùa xuân, hạ đông và kể ra

tới trên 10 giống lúa với những tên gọi khác nhau. Sách Nam phương thảo mộc trạng của Kê

Hàm đời Tây Tấn (thế kỷ 3) có nói đến việc trồng nhiều lúa nếp và dùng nếp nấu rƣợu vào

buổi đầu công nguyên ở vùng Giao Châu, trong đó có miền Bắc Việt Nam. Những thông tin

tƣơng tự còn tìm thấy trong Thủy kinh chú. Theo sách này, vào năm 111 trƣớc công nguyên

sứ giả của Giao Chỉ và Cửu Chân đã cống nộp cho tƣớng Hán Lộ Bác Đức tới 1000 hũ rƣợu

(dẫn theo Trần Quốc Vƣợng 1963).

Trên thực tế, sự định hƣớng phát triển nông nghiệp trong đó trƣớc hết là việc lựa chọn

cây trồng, vật nuôi, bị chi phối bởi 2 yếu tố căn bản, một là con ngƣời sản xuất có ý thức

chọn lựa, định hƣớng cho mình trên cơ sở những kinh nghiệm tích lũy qua nhiều thế hệ và hai

là môi trƣờng tự nhiên. Việc lựa chọn các giống lúa chủ yếu là lúa nƣớc của ngƣời Việt cổ

ngay từ buổi đầu dựng nƣớc là hoàn toàn hợp lý, khôn ngoan, nhƣng đồng thời cũng là tất

yếu. Cả vùng Đông Nam Á nhiệt đới gió mùa đều chọn loại cây lƣơng thực này làm cây trồng

chính, có thể chăng cái làm nên bản sắc riêng của nông nghiệp trồng lúa Việt Nam ngay từ

thời cổ là sự đa dạng giống lúa. Theo kết quả nghiên cứu của các nhà nông sinh, trong khi các

vùng Nam Trung Quốc, Bắc Lào, Bắc Thái Lan chỉ gặp 3-4 nhóm giống lúa thì ở Bắc Việt

Nam con số đó lên tới 8 (đổi với vùng đồng bằng) hoặc 9 (đối với vùng núi) (Đào Thế Tuấn

1994). Đƣơng nhiên, đây là bức tranh của các tập đoàn giống lúa hiện đại, nhƣng với những

chứng tích khảo cổ học, thƣ tịch nêu trên, chúng ta có thể mạnh dạn mà nói rằng, bức tranh

thời cổ chắc cũng không khác quá nhiều.

Nghề trồng trọt ở miền Bắc Việt Nam chƣa bao giờ mang tính chất độc canh cây lúa,

dù cây lúa bao giờ cũng chiếm vị trí hàng đầu. Do sự da dạng về địa hình, khí hậu, thổ

nhƣỡng, lại nằm ở vị trí ngã ba của 3 luồng di cƣ các hệ thực vật từ Nam Trung Hoa xuống,

từ vùng núi Hymalaya sang và từ Indonexia - Malaysia lên, nên hệ thực vật và cây trồng ở

miền Bắc Việt Nam vô cùng đa dạng (Vũ Thế Long, Nguyễn Tiến Hiệp 1994). Hệ sinh thái

phồn tạp đặc trƣng của Việt Nam và Đông Nam Á nhiệt đới đã tạo ra ở đây, ngay từ thời tối

cổ, những cƣ dân sống chính bằng hái lƣợm không phải săn bắn) theo phổ rộng (không phải

chuyên biệt) (Hà Văn Tấn 1982). Với môi trƣờng sinh thái cơ bản không thay đổi, với truyền

thống kinh tế hái lƣợm nhƣ vậy, đƣơng nhiên sẽ dẫn đến một nền nông nghiệp trong đó trồng

trọt trội hơn chăn nuôi, trồng trọt và chăn nuôi đều theo hƣớng đa canh, đa dƣỡng. Trong các

tài liệu khảo cổ học, thƣ tịch cổ, dân tộc học... có thể tìm thấy những bằng chứng cụ thể.

Dấu tích các loại cây quả, rau đậu tìm thấy khá phổ biến trong nhiều địa điểm khảo cổ

học từ Phùng Nguyên đến Đông Sơn, Hạt na, mơ, trám, hạt đậu tìm thấy ở di

57

chỉ Đồng Đậu, hạt nhãn ở Đƣờng Mây, hạt và ở Cửa Đình. Hạt đậu còn tìm thấy ở Hoàng

Ngô, hạt trám ở Tiên Hội, Đình Chàng, Đƣờng Mây. Vỏ quả bầu khá thƣờng gập trong các

mộ quan tài hình thuyền Đông Sơn nhƣ Phƣợng Tú, Cửa Đình, Kim Đƣờng. Dấu tích quả cau

cũng gặp đôi khi trong mộ quan tài hình thuyền (Chử Văn Tần 1994).

Trong các thƣ tịch cổ, ngoài những cây quả nhƣ đã thấy trong các địa điểm khảo cổ

nêu trên, danh mục các loại rau quả ở Giao Chỉ. Cửu Chân còn kéo dài gấp nhiều lần. Trong

các loại sách "Dị vật chí" như Di vật chí của Dƣơng Phù thời Đông Hán (còn gọi là Giao

Châu dị vật chí hay Nam duệ chí), Nam châu dị vật chí của Vạn Chấn, nƣớc Ngô thời Tam

Quốc (còn nói là Nam phương dị vật chí), Lâm hải dị vật chí của Thẩm Oánh, nƣớc Ngô thời

Tam Quốc... đặc biệt là trong các loại sách "Nam phương thảo vật trạng" nhƣ Nam Phương

thảo vật trạng của Từ Trung, Nam phương thảo mộc trạng của Kê Hàm thời Tây Tấn

(khoảng thế kỷ 3)... hoặc loại sách "Địa chí" nhƣ Giao Châu ký của Lƣu Hân Kỳ thời

ĐôngTấn. Nam Việt chí của Thẩm Hoài Viễn thời Tống, Nam Trung bát quận chí của Nguy

Hàn thời Tây Tấn... có chép tên hàng trăm loại cây cỏ mọc tự nhiên hay đƣợc trồng ở vùng

đất thuộc địa bàn cƣ trú Về yếu của ngƣời Việt cổ. Ngoài lúa ta còn gặp các loại cây cho chất

bột nhƣ cam chƣ (có thể là khoai lang hoặc một loại củ mài), củ từ, quang lang, búng báng...,

các loại cây ăn quả đặc biệt phong phú và đƣợc nhắc đến nhiều nhu quýt (quất), cam, nhãn,

chuối, bƣởi, dừa, đào, mơ, vải, lựu, khế, trám, chanh, sấu.... các loại rau đậu và cây gia vị nhƣ

rau muống, rau cải, cà, hồ tiêu, tỏi, riềng, đậu núi, quế, trầm hƣơng, trầu không, lá lốt, thảo

quả..., các loại cây nguyên liệu nhƣ mía, bông, rất nhiều loại tre, trúc, nứa, xoan, cọ. sa mu,

sơn, dâu tằm... (dẫn theo Hà Văn Tấn 1994)

Qua hệ thực vật nêu trên, chúng ta cũng có thể hình dung đƣợc phần nào sự đa dạng

trong cơ cấu cây trồng, phƣơng thức tạp canh, xen canh, làm ruộng đi đôi với làm vƣờn,

trồng trọt kết hợp với việc thu lƣợm. khai thác rau quả tự nhiên. Lối canh tác này đƣợc duy trì

và ngày càng phát triển trong suốt chiều dài lịch sử nông nghiệp -nông thôn - nông dân dân

tộc Việt cho tới tận thời kỳ cận - hiện đại.

Bộ mặt ngành chăn nuôi trong nền nông nghiệp dân tộc Việt từ cổ chí kim, cũng

mang sắc thái "phồn tạp" nhƣ vậy. Điều kiện tự nhiên nơi đây không tạo ra đƣợc những tiền

đề thuận lợi cho chăn nuôi lớn theo kiểu bầy đàn chăn thả, ngƣợc lại, nó cho phép đƣa vào

chăn nuôi lẻ nhiều giống loài động vật khác nhau nhƣ trâu, bò, lợn, gà, chó, voi... (Vũ Thế

Long 1994). Theo các dấu tích khảo cổ học, trâu thuộc số con vật đƣợc chăn nuôi sớm nhất ở

nƣớc ta và có nhiều khả năng có nguồn gốc bản địa. Xƣơng răng trâu tìm thấy trong nhiều di

chỉ khảo cổ thuộc các thời đại tù đá mới đến đồng thau, sắt sớm. Dấu tích của bò tìm thấy ở

di chỉ Đa Bút thuộc sơ kỳ đa mới có thể đã là bò

58

nhà. Vào thời kỳ muộn hơn, xƣơng bò đƣợc tìm thấy trong mộ Quỳ Chủ, tƣợng bò tả thực

bằng đất nung tìm thấy trong di chỉ Đồng Đậu, Cồn Chân Tiên. Đến thời Đông Sơn, bò trở

thành một trong những mô típ hoa văn trang trí trên trống đồng. Lợn, gà, chó là những gia súc

gần gũi và đƣợc nuôi phổ biến nhất trong mọi gia đình ngƣời Việt ở nông thôn ngay từ thời

cổ. Di cốt của những con vật này đƣợc tìm thấy phổ biến trong nhiều địa điểm khảo cổ học

thời đá mới - đồng thau - sơ sắt: Hoa Lộc, Tràng Kênh, Đồng Đậu, Lũng Hòa, Quỳ Chừ...

Xƣơng voi cũng đƣợc tìm thấy ở Gò Chiền Vậy, Đông Sơn. Trên một số đồ đồng Đông Sơn

có hình tƣợng voi chở hàng - loại voi đƣợc nuôi dƣỡng, thuần hóa. Một số sách sử cổ nhƣ

Thủy kinh chú, có những đoạn nói đến việc nuôi và sử dụng bò, voi... ở Giao Chỉ, Cửu Chân.

Nhƣ vậy, qua các tài liệu khảo cổ học, cổ sử, cổ thực vật - động vật, cổ sinh thái...

diện mạo nền nông nghiệp của ngƣời Việt cổ hiện lên khá rõ trên những nét tổng thể. Đây là

một nền nông nghiệp nghiêng hẳn về phía trồng trọt, chăn nuôi đóng vai trò phụ trợ. Trong

trồng trọt, cây lúa, trƣớc hết và chủ yếu là lúa nƣớc ngày từ buổi đầu đã đƣợc chọn làm cây

trồng chính, nhƣng không phải là cây trồng duy nhất. Da canh và thâm canh là những biện

pháp kỹ thuật sản xuất truyền thống của nền nông nghiệp này. Vai trò quyết định của điều

kiện tự nhiên - môi sinh đối với sự hình thành một nền nông nghiệp nhƣ vậy là rõ ràng. Điều

cần nói ở đây chính là cách thức ửng xử hợp lý của ngƣời Việt cổ. Chính họ đã đặt những

viên gạch đầu tiên cho lịch sử nông nghiệp tồn tại hàng nghìn năm của dân tộc Việt Nam. Nét

đặc trƣng của nền nông nghiệp này cũng nhƣ của ngƣời sáng tạo ra nó, nhƣ có nhà nghiên

cứu nhận đinh, là sự "thích nghi tối ƣu với các điều kiện tự nhiên" (Trần Quốc Vƣợng 1994).

có lẽ cũng có thể nói, về một phƣơng diện nào đó, đây là một khía cạnh tinh thần của kỹ thuật

- ý thức kỹ thuật. Chinh ý thức kỹ thuật này chỉ đạo những hoạt động kỹ thuật cụ thể của họ.

Để làm rõ cái "bản sắc ứng biến của nông dân - nông nghiệp Việt Nam" (Trần Quốc

Vƣợng 1994) ngay từ buổi đầu dựng nƣớc nhƣ thế và cũng tức là làm rõ văn minh kỹ thuật

nông nghiệp thời đó, chúng ta cần phải tìm hiểu cụ thể các phƣơng thức canh tác, hệ thống

nông cụ đƣợc sử dụng và các biện pháp kỹ thuật cụ thể.

Qua một vài thƣ tịch cổ, chúng ta có thể biết đến một vài phƣơng thức canh tác đã tồn

tại trong các tộc ngƣời vùng phía Nam Dƣơng Tử, trong đó có dân tộc Việt vào những thế kỷ

trƣớc sau Công nguyên, tức là vào thời kỳ tồn tại văn hóa Đông Sơn. Theo Hậu Hán thư,

Đông quan Hán ký, cho đến khỏang đầu Công nguyên, Cửu Chân vẫn canh tác theo lối "đao

canh, thủy nậu" "đao canh hỏa chủng" "hỏa canh thủy nậu" đốt cỏ mà trồng trọt ở ruộng,

không biết cày bằng trâu bò". Sách Lĩnh Nam chích quái cũng chép "Cửu Chân cỏ tục đốt cỏ

mà trồng trọt ở ruộng". Còn sách Sử ký thì chép rằng "miền Sở, miền Việt đất rộng, ngƣời

thƣa, trồng lúa. đánh cá mà ăn, dùng lối hỏa canh

59

thủy nậu"... Có những cách giải nghĩa khác nhau đối với các đoạn chép này. Có ý kiến cho rằng "dao canh" "hỏa canh" là nói về lối làm ruộng nƣơng (ruộng khô) còn "thủy nậu" là lối làm ruộng nƣớc (Nguyễn Duy Hinh 1973). Có ý kiến cho rằng đó là những lối canh tác theo kiểu trồng lúa khô là chính : chặt phát cây cỏ để khô rồi đốt ở những nƣơng rẫy, các bãi đất cao (Ngô Đức Thịnh 1994). "Thủy nậu" đƣợc dành cho loại chân ruộng thấp hơn, có mùa bị ngập nƣớc. Trƣớc khi ruộng bị ngập nƣớc thì tiến hành phát cây, cỏ rồi đốt. Đến mùa nƣớc, cây cỏ đó đƣợc ngâm thêm cho mục ra, rồi có thể dùng súc vật hay ngƣời dẫm cho ngầu trƣớc khi gieo mạ hay cấy lúa. Kiểu làm đất này đƣợc biết đến khá cụ thể qua tài liệu dân tộc học. Chắc chắn những phƣơng thức canh tác nhƣ trên đã xuất hiện sớm và rất phổ biến ở thời dựng nƣớc của ngƣời Việt, đặc biệt là vào các giai đoạn đầu. Đến giai đoạn muộn, khi ngƣời Việt cổ mở rộng địa bàn cƣ trú, dần dần di dân xuống vùng đồng bằng thấp ven các cửa sông, ven biển, xuất hiện thêm những lối canh tác mới trên những thừa ruộng nƣớc thực sự. Dù là lối canh tác trên loại ruộng Lạc nhƣ đƣợc nhắc đến trong sách Giao Châu ngoại vực ký. Quảng Châu ký là "ruộng ấy (ruộng Lạc) theo thủy triều lên xuống mà làm". Nhiều ngƣời giải thích đây là cách lợi dụng thủy triều lên xuống để dẫn nƣớc ngọt từ các con sông vào ruộng. Khi triều lên, mức nƣớc vùng cửa sông cũng đƣợc nâng cao, bằng hệ thống kênh mƣơng dẫn nƣớc, ngƣời ta có thể dễ dàng đƣa nƣớc vào các cánh đồng ven sông. Lối dẫn thuỷ nhập điền này, ngày nay vẫn còn đƣợc sử dụng ở những cùng duyên hải nƣớc ta.

Theo các chuyên gia nông - sinh học, lúa là giống ƣa nƣớc. Nhƣ vậy, việc phổ biến loại ruộng nƣơng, rẫy trồng lúa khô nhƣ cách hiểu thu tịch của các nhà nghiên cứu nêu trên chƣa hẳn là biểu hiện của sự lạc hậu về kỹ thuật, mà có thể chỉ nói lên một xu hƣớng thích nghi vói những điều kiện đất đai mới. Có ý kiến đánh ngang đồng thời gian và quá trình tiến triển của hai hƣớng diễn tiến cây lúa từ cùng một xuất phát điểm là vũng thung lũng - một hƣớng tiến lên vùng cao thành lúa nƣơng, hƣớng kia -xuống vùng đồng bằng thành lúa nƣớc trồng đại trà (Nguyễn Việt 1980). Chúng ta còn chƣa thật rõ các bƣớc cụ thể của cả hai hƣớng diễn tiến đó, nhƣng đã rõ là đến thời đại của những ngƣời Phùng Nguyên - Đông Sơn thì cả nghề trồng lúa khô nƣơng rẫy, cả nghề trồng lúa nƣớc đại trà ở đồng bằng đã rất quen thuộc với họ rồi.

Thực tế cho thấy, đối với mỗi loại đồng đất khác nhau, con ngƣời phải sử dụng những bộ nông cụ và có những biện pháp kỹ thuật thích ứng. Với loại ruộng khô, sau khi đã chặt phát cây củ rồi đốt, ngƣời ta thƣờng sử dụng phƣơng pháp dùng gậy chọc lỗ để tra hạt hoặc dùng cuốc xới tơi đất rồi tra hạt. Đây là những cách trừng đơn giản nhất. Cũng không loại trừ khả năng dùng cày làm tơi đất ở những chân ruộng bãi phù sa bồi tụ với thành phần cơ giới nhẹ, sau đó vãi hạt giống theo kiểu gieo sạ. Trong Vân đài loại ngữ của Lê Quý Đôn có đoạn nói về cách gieo sạ này. Với loại ruộng nƣớc, phƣơng thức canh tác phổ biến nhất là làm cho đất ngấu nhuyễn bằng

60

nhiều cách khác nhau - đơn giản nhất là cho ngƣời hoặc trâu dẫm, hoặc dùng cuốc lật gốc cỏ vùi xuống bùn, tiến bộ nhất là dùng cày làm tơi đất rồi dùng bừa làm cho nhuyễn đất. Sau đó trồng lúa bằng phƣơng pháp cấy. Những cách thức canh tác này còn tồn tại ở khắp nơi, cả vùng núi lẫn vùng đồng bằng, cho đến tận ngày nay, kể cả lối dùng ngƣời hoặc trâu dẫm dành cho những loại ruộng lầy thụt, chua mặn nhiều. Chắc hẳn ở thời Đông Sơn, ngƣời Việt mới xuống khai thác đồng bằng trũng còn ngập mặn (những vùng trũng ở Hà Tây, Nam Hà, Hải Phòng... ngày nay) thì phƣơng thức làm đất kiểu này phải rất phổ biến.

Cho đến nay, chúng ta hầu nhƣ chƣa có tài liệu trực tiếp nào để tìm hiểu các biện

pháp chăm bón cây trồng, trƣớc hết là cây lúa, của ngƣời Việt cổ. Họ có bón phân làm cỏ cho

lúa hay không? Họ đã dùng những biện pháp diệt cỏ nào, đã bón những loại phân gì? Đó còn

là những câu hỏi chƣa có lời giải đáp. Nhƣng có lẽ cũng có thể nói đƣợc rằng, việc làm cỏ

phải là biện pháp chăm sóc cây trồng đƣợc ngƣời Việt đặc biệt chú trọng. Câu nói "Công cấy

là công bỏ, công làm cỏ là công ăn" không biết đã xuất hiện và phổ biến từ bao giờ, đã nói

lên rất rõ ý nghĩa của việc trừ cỏ đối với năng suất lúa trồng ở nƣớc ta theo kinh nghiệm dân

gian. Ở những chân ruộng khô ngƣời ta có thể làm cỏ bằng tay, bằng cuốc. Ở ruộng nƣớc,

ngoài làm cỏ bằng tay, có thể ngƣời ta dùng cào cỏ có răng bằng tre gỗ, chế tạo đơn giản.

Một trong những biện pháp diệt cỏ tích cực cho chân ruộng khô chỉ trồng lúa một vụ mùa của

ngƣời nông dân Việt sau này là trồng xen những loại cây mầu hay rau đậu. Biện pháp này

không chỉ làm đất quay vòng nhiều hơn (thâm canh), làm cỏ dại không có thời gian phát triển

còn có tác dụng che giữ độ ẩm, chống xói mòn cho đất. Ở trên chúng tôi đã nói tới tính đa

dạng của các loại cây trồng của ngƣời Việt cổ. Nhƣ vậy, nhiều khả năng họ cũng đã biết tới

biện pháp trồng xen diệt cỏ giữ đất này.

Còn về phân bón, phải chăng ở vào những giai đoạn đầu văn minh nông nghiệp Việt

cổ, chƣa phải là yếu tố quan trọng bậc nhất để cây trồng phát triển mạnh? Bởi vì lúc đó

những cánh đồng ven sông hàng năm, đều phủ lớp phù sa màu mỡ. Theo tính toán của các

nhà chuyên môn, hàng năm sông Hồng tải một lƣợng phù sa tối thiếu là trên 50 triệu tấn, tối

đa là trên 100 triệu, đôi khi lên tới trên 200 triệu (Nguyễn Viết Phổ 1983). Đây là nguồn cung

cấp chất màu vô tận cho cây trồng. Đa số làng xóm lớn của ngƣời Việt cổ từ thời Phùng

Nguyên đến Đông Sơn đều phân bố dọc bờ những con sông lớn thuộc hệ thống sông Hồng,

sông Mã, sông Cả. Việc chọn nơi định cƣ nhƣ vậy rõ ràng không phải chỉ vì cần sống gần

sông nƣớc mà còn vì điều kiện đất đai màu mỡ thuận lợi cho canh tác nông nghiệp, cây trồng

có thể phát triển tốt, cho năng suất khá dù chƣa đƣợc bón phân một cách đều đặn có chủ đích.

Cũng không loại trừ khả năng ngƣời Việt cổ đã biết đến kỹ thuật bón phân cho đồng ruộng.

Ngay phƣơng thức canh

61

tác thô sơ "đao canh hỏa chủng", "đao canh thủy nậu"... cũng đã tạo ra nguồn phân bón cho

đất bằng than tro cây cỏ bị đốt, hay những thân cây cỏ bị mục thối sau một thời gian bị ngâm

trong bùn đất. Đây rõ ràng là những gợi ý đầu tiên cho kỹ thuật dùng phân bón có chủ đích.

Và nhƣ vậy thì chắc hằn phân xanh phân rác thực vật phải là loại phân đầu tiên đƣợc ngƣời

nông dân sử dụng một cách có ý thức. Dần dần với sự gia tăng của chăn nuôi, lúc đầu là lợn,

sau là trâu bò, rơm rác cây cỏ kết hợp với phân gia súc trở thành loại phân chuồng rất thích

dụng đối với những ngƣời nông dân Việt Nam xƣa nay.

Công cụ sản xuất là yếu tố quan trọng bậc nhất của sản xuất, phản ánh khách quan

tính chất và trình độ sản xuất. Nó cũng là yếu tố động, sự cải tiến kỹ thuật thƣờng bắt đầu

trƣớc hết ở cải tiến công cụ. Có thể nói rằng, bộ nông cụ Phùng Nguyên - Đông Sơn là tài

liệu trực tiếp cơ bản để chúng ta tìm hiểu kỹ thuật sản xuất nông nghiệp của ngƣời Việt cổ

thời dựng nƣớc. Căn cứ vào chức năng công cụ, có thể phân chia bộ nông cụ này thành các

nhóm ứng với các khâu cơ bản của quá trình sản xuất: phát hoang, làm đất, thu hoạch và cất

giữ sản phẩm nông nghiệp.

Thực tế cho thấy, rìu là loại công cụ phát hoang gần nhƣ là duy nhất tồn tại suốt từ

Phùng Nguyên đến Đông Sơn. Và ở giai đoạn nào nó cũng chiếm tỷ lệ cao nhất trong tổng số

các loại hình công cụ lao động. Ví nhƣ tại địa điểm Phùng Nguyên. tỷ lệ này là trên 80% địa

điểm Gò Mun, rìu đá chiếm trên 80%, rìu đồng chiếm trên 11% ; địa diêm Đông Sơn : rìu đá

chiếm trên 11%, rìu đồng chiếm gần 65%, rìu sắt chiếm trên 42% (Chử Văn Tân 1994).

Duong nhiên, rìu thuộc loại công cụ đa chức năng, không chỉ đƣợc dùng trong sản xuất nông

nghiệp. Nhƣng phải thừa nhận rằng, chức năng nông cụ của chúng là cơ bản, đặc biệt là ở

giai đoạn sớm, khi bộ nông cụ còn chƣa phát triển đa dạng và chuyển hóa. Đối với các

phƣơng thức canh tác "đao canh hỏa chủng", "đao canh thủy nâu", công cụ hàng đầu rõ ràng

phải là rìu. Dao đá, thậm chí cả dao đồng chắc không đảm nhiệm chức năng chặt phát cây cối

tốt bằng rìu. Trong các văn hóa Phùng Nguyên - Đông Sơn chƣa gặp loại dao đá hay đồng

nào khả dĩ có thể dùng để chặt cây, dù là cây nhỏ.

Rìu còn là công cụ căn bản để chế tác ra các loại nông cụ hoặc cán nông cụ bằng

tre,gỗ nhƣ cày, bừa, cuốc, xẻng...

Nghiên cứu sƣu tập rìu Phùng Nguyên - Đông Sơn, chúng ta có thể thấy sự phát triển

của chúng theo thời gian. Về mặt chất liệu. đó là xu thể giảm đi của rìu đá, tăng lên của rìu

đồng. Điều đáng chú ý là sự tăng, giảm này không diễn ra ra từ từ, đều đặn mà có sự đột biến

ở giai đoạn Đông Sơn. Xin đƣa ra bảng so sánh tỷ lệ rìu đá và đồng ở 4 địa điểm tiêu biểu

cho 4 giai đoạn phát triển liên tục từ Phùng Nguyên đến Đông Sơn (dựa vào số liệu của Chử

Văn Tần 1994).

62

Chất liệu

Đá Đồng Sắt

Địa điểm Tổng số rìu Số lƣợng % Số lƣợng % Số lƣợng %

Đông Sơn 187 3 1,60 181 97,80 1.60 3

Gù Mun Đồng Dậu 100 183 87 172 87,00 94,00 13 11 13,00 6,00 0 0

Phùng Nguyên 1138 1138 100,0 0 0 0

Rìu làm bằng sắt chỉ xuất hiện ở văn hóa Đông Sơn.

Về mặt loại hình, nếu loại trừ một số loại hình rìu đồng mang nặng chức năng rìu

chiến hay nghi trƣợng, thì dƣơng nhƣ sự biến cải của loại hình nông cụ phát hoang này không

đáng kể lắm, đặc biệt là các loại rìu đá. Có lẽ hình dáng, kỹ thuật chế tác rìu đá đã đạt đến độ

tối ƣu ngay từ giai đoạn Phùng Nguyên. Từ đó về sau ngƣời ta không thay đổi gì, mà chỉ có

phần gia tăng kích thƣớc và bớt đi sự trau chuốt cầu kỳ. Những chiếc rìu đồng mới ra đời gần

nhƣ là bản sao nguyên xi hình dáng rìu đá, chỉ khác ở chỗ có họng để tra cán. Dần dần, nhờ

ƣu thế về chất liệu và kỹ thuật chế tác hình dáng rìu đồng đƣợc cải tiến hơn (lƣỡi xòe rộng

hơn, tăng độ dài rìa tác dụng, mặt cắt ngang thân rìu không chỉ là hình chữ nhật nhƣ rìu đá

mà có thêm những dạng mới, trên thân có lỗ trổ chốt hãm thuận lợi cho việc tra cán...)

Trong nông nghiệp, khâu làm đất luôn là công đoạn tốn nhiều sức lực và cần dùng

nhiều đến nông cụ nhất. Bộ nông cụ đƣợc sử dụng trong công nghiệp làm đất ( xin lể vào đây

cả công việc đào đắp mƣơng phai kênh rãnh dẫn nƣớc tƣới) tìm thấy trong các văn hóa Phùng

Nguyên - Đông Sơn khá đa dạng, gồm cuốc, mai, thuổng, xẻng, cày.

Cuốc thuộc loại nông cụ có lịch sử phát triển lâu dài nhất. Có lẽ chƣa bao giờ ngƣời

nông dân Việt Nam lại thiếu cây cuốc trong tay. Theo các nhà nghiên cứu, công cụ đa có

chức năng cuốc đã xuất hiện từ các văn hóa Sơn Vi, Hòa Bình, Bắc Sơn. Đa Bút. Hình dáng cuốc thời này chƣa định hình và khó phân biệt với công cụ chặt đập, rìu... Phải bằng kết quả

phân tích các dấu vết lao động để lại trên lƣỡi, mới có thể tách chúng ra thành nhóm riêng

đƣợc. Tình trạng này còn gặp ở các giai đoạn văn hóa Tiền Đông Sơn. Lúc đầu, tất cả công

cụ đá hình tứ giác hay có vai ở Phùng Nguyên, Đồng Đậu, Gò Mun đều đƣợc xếp chung vào

nhóm rìu. Về sau, một số chiếc trong đó có kích thƣớc tƣơng đối lớn và có dấu vết sử dụng

kiểu cuốc mới đƣợc tách ra thành cuốc. Nhƣng quả thực sự phân định này cũng chƣa thật

rạch ròi. Những chiếc cuốc đá thực sự không gây nghi ngờ gì cho các nhà nghiên cứu, đƣợc

phát hiện trong tầng văn

63

hóa với số lƣợng lớn đầu tiên là sƣu tập cuốc Hoa Lộc - dạng văn hóa Tiền Đồng Sơn vùng

sông Mã. Sau đó là những phát hiện khác nhƣ nhóm cuốc đá Đoan Thƣợng (Vĩnh Phú), kho

cuốc đá Nam Hƣng (Nghệ An), Chòm Pheo (Thanh Hóa)... Theo tài liệu hiện biết, cuốc đá

đƣợc tìm thấy nhiều và tập trung hơn ở vùng đất miền Trung, địa bàn cƣ trú phía nam của

ngƣời Việt cổ. Cuốc đá ở đây thƣờng có kích thƣớc lớn, trọng lƣợng nặng (trung bình dài trên

dƣới 20cm, rộng lƣỡi gần 10 cm, dày khoảng lcm, nặng khoảng trên dƣới lkg). Còn ở phía

Bắc, trên lƣu vực sông Hồng, ngoài Đoan Thƣợng đƣợc coi là di chỉ - xƣởng chế tác cuốc đá

phiến thạch, cuốc đá chỉ đƣợc phát hiện lẻ tẻ từng chiếc nhƣ ở Mả Đồng, Tràng Hƣơng, Eo

Bùa... Đa sổ cuốc Đoan Thƣợng kích thƣớc nhỏ (dài trên dƣới 10cm, rộng khỏang 5cm, nặng

không tới 500g).

Nhìn chung cuốc đã đƣợc mài nhắn toàn thân, chế tác khá cẩn thận. Về hình dáng,

cũng nhƣ rìu, chúng gồm 2 loại là cuốc hình tứ giác và cuốc có vai có chuôi tra cán. Qua sự

phân bố các loại cuốc, có thể thấy rõ là cuốc đá thích hợp với loại đất pha nhiều cát, thành

phân cơ giới nhẹ của vùng đồng bằng ven biển. Với loại ruộng đất thịt nặng, độ ẩm cao hay

loại ruộng nƣớc hoặc ruộng lầy thụt phổ biến ủ vùng đồng bằng châu thổ sông Hồng thì cuốc

đá kém hiệu quả. Tại đây, đặc biệt là đối với loại ruộng lầy thụt, loại cuốc gỗ thô sơ, lƣỡi dài

lại đắc dụng hơn hẳn. Các nhà khảo cổ học đã tìm thấy một số chiếc cuốc nhƣ thế trong mộ

quan tài hình thuyền ở vùng đất trũng Hà Tây, Nam Hà thuộc giai đoạn Đông Sơn muộn. Ở

các giai đoạn sớm hơn chúng ta chƣa tìm đƣợc bằng chứng trực tiếp nhƣ thế, nhƣng có thể

đoán định rằng chúng đã từng có mặt phổ biến hơn. Có một thực tế là trong suốt các giai

đoạn văn hóa Tiền Đông Sơn, ở lƣu vực sông Hồng, rìu đá luôn là công cụ chiếm vị trí hàng

đầu. Dù bằng phƣơng pháp nghiên cứu dấu vết lao động và căn cứ vào kích thƣớc, có thể

nhặt ra đƣợc một số cuốc đá trong đám rìu đá nhƣng cũng chỉ với số lƣợng nhỏ thôi. Chúng

ta lại cũng thấy khá rõ ràng, cuốc và các nông cụ làm đất khác bằng kim loại chỉ xuất hiện

chắc chắn ở thời Đông Sơn. Vậy thì ngƣời Tiền Đông Sơn khu vực này dùng loại nông cụ

làm đất nào, nếu không phải là các loại cuốc, mai, xẻng... và muộn hơn là cây làm bằng gỗ.

Rìu đá lúc này đƣợc ngƣời ta sử dụng trƣớc hết để chế tác các công cụ trực tiếp canh tác bằng

tre gỗ. Chức năng trọng yếu này của rìu đá góp phần giải thích ý nghĩa của sự có mặt rất

nhiều kiểu loại, kích cỡ rìu đá, đặc biệt là các loại rìu cỡ nhỏ, không thể dùng để chặt phá,

phát cây cối đƣợc, nhƣng lại rất phổ biến trong các di chỉ Phùng Nguyên - Đồng Đậu - Gò

Mun. Bằng thực nghiệm, các nhà nghiên cứu đã chứng minh đƣợc rằng các loại rìu đá to nhỏ

khác nhau đều có thể đƣợc sử dụng rất hiệu quả vào các công đoạn khác nhau của quá trình

chế tác các loại nông cụ tre, gỗ (Phạm Lý Hƣơng 1994 a).

Lƣỡi cuốc bằng đồng và bằng sắt mới tìm thấy trong văn hóa Đông Sơn. Cuốc đồng

thƣờng có kích thƣớc nhỏ, dáng ngắn, lƣỡi rộng. Đã biết đến 4 loại hình cuốc

64

khác nhau. Có số lƣợng nhiều hơn cả là loại cuốc có vai đơn hoặc kép gần giống những chiếc

rìu có vai. Họng tra cán tiết diện chữ nhật. Chuôi cuốc tƣơng đối dài so với thân, rìa lƣỡi ít

xoè. Loại cuốc có lỗ tra cán hình bầu dục dọc, thân lƣỡi xoè rộng mới tìm thấy một tiêu bản

duy nhất ở Lào Cai (Ngô Đức Thịnh, Ngô Sĩ Hồng 1988). Tƣơng tự nhƣ vậy là loại cuốc thứ

3 đƣợc gọi là cuốc bƣớm tìm thấy ở Núi Nhón (Nghệ An), chuôi tra cán ngắn, thân phình

rộng, lƣỡi rộng hơn chiều cao thân cuốc (15/12 cm). Loại cuốc thứ 4 có phần thân lƣỡi hình

chữ U, rất giống phần lƣỡi sắt của những chiếc mai hiện đại. Rìa lƣỡi cuốc cong vòng và xoè

rộng. Những chiếc cuốc sắt Đông Sơn đã biết đều thuộc lại hình này.

Theo tài liệu đã biết cho đến nay, đại đa số cuốc kim khí kể trên tìm thấy ở lƣu vực

sông Hồng. Hơn thế, mật độ phân bố của các loại cuốc không giống nhau. Loại cuốc chữ U

tập trung chủ yếu ở vùng đồng bằng trũng. Loại cuốc có vai thƣờng có phạm vi phân bố rộng

hơn gập ở cả vùng đồng bằng trũng, cả ở vùng đồng bằng cao. Hai loại cuốc còn lại số lƣợng

quá ít, chƣa thể rút ra đƣợc nhận xét xác đáng. Dù sao. nhìn chung cũng thấy đƣợc rằng,

ngƣời Đông Sơn có sự chọn lựa rõ rệt đối với các loại cuốc sao cho thích hợp nhất với đồng

đất từng vùng.

Thuộc nhóm nông cụ làm đất còn có các loại mai, xẻng, thuổng, Những nông cụ này

có những chức năng khác nhau và khác với cuốc. Ngày nay chúng ta dễ dàng phân loại chúng

vì chúng đƣợc chế tạo theo những hình dáng rất khác nhau, nhƣng ở vào thời kỳ xa xƣa ấy,

các loại nông cụ này chƣa có đƣợc sự phân hóa rạch ròi nhƣ vậy. Nhiều khi chúng chỉ khác

nhau nhờ cách tra cán. Vì vậy khi mất cán rồi (mà đây là trƣờng hợp phổ biến tuyệt đối) thì

thật khó mà phân loại chúng cho thật chính xác. Tiêu chuẩn phân định chủ yếu vẫn là theo

hình dáng, trong đó đặc biệt chú ý vào một vài chi tiết kỹ thuật, và phần nào theo kích thƣớc.

Mai đƣợc phân biệt với cuốc ở chỗ thƣờng có bề mặt phẳng, 2 mặt vát dần, chiều dài

lƣỡi thƣờng lớn gấp 2, 3 lần bề rộng. Theo tiêu chuẩn phân định này thì số lƣợng mai đá tìm

thấy trong các di tích Phùng Nguyên - Đông Sơn không nhiều. Chúng thƣờng to và nặng với

chiều dài 20-30cm, rộng lƣỡi khoảng trên dƣới 7cm, dày khoảng 2, 3cm, nặng từ l đến 3 kg.

Hiện chúng ta còn chƣa có tài liệu về mai đồng hay sắt, nhƣng có nhiều khả năng một sự lƣỡi

cuốc chữ U đƣợc lắp cán, thẳng để sử dụng nhƣ mai. Kiểu mai này ngày nay còn đƣợc dùng

rộng rãi. Mai là công cụ đào, sắn đất rất cần thiết trong công việc đào mƣơng máng dẫn nƣớc

vào ruộng hay đắp bờ vùng, bờ thửa, Đây là những việc làm tối cần thiết đối với loại nông

nghiệp trồng lúa nƣớc. Đƣơng nhiên nó đã đƣợc những nhà nông Phùng Nguyên - Đông Sơn

đặc biệt quan tâm. Có thể ngƣời ta sử dụng những loại công cụ đào xúc đất khác và cũng rất

có thể, họ đã dùng mai chế tạo hoàn toàn bằng gỗ cứng để làm. Các thực nghiệm cho thấy

mai gỗ thực

65

hiện chức năng sắn đất mềm rất hiệu quả.

Thuổng là loại công cụ dùng để đào đất, thƣờng đào chỗ đất rắn hoặc đào những lỗ

sâu, nhỏ. Với cách hiểu này, thì thuổng phải ra đời rất sớm, từ thời kỳ kinh tế hái lƣợm. Thực

tế khảo cổ học nƣớc ta cho thấy việc phân biệt thuổng với rìu, cuốc mai không dễ, nhất là đối

với loại thuổng đá. Các nhà nghiên cứu cho rằng có thể nhặt ra trong đám rìu đá một số chiếc

đƣợc dùng với chức năng thuổng nếu chúng đƣợc tra cán thẳng.

Thuổng đúc từ đồng thau có phần dễ phân biệt hơn với rìu, xẻng đồng ở một số chi

tiết kỹ thuật. Ở giai đoạn Tiền Đông Sơn mới tìm thấy vài chiếc, thân thuổng hình chữ nhật.

chiều dài lớn gấp hơn 2 lần bề rộng, một mặt thân hơi lõm (đây là chi tiết không thích hợp

với rìu). Đến giai đoạn Đông Sơn thuổng tăng đáng kể về số lƣợng cũng nhƣ loại hình. Theo

hình dáng ít ra cũng có thể phân chia thành 4 kiểu khác nhau, phổ biến nhất là loại thuổng

mang tên thuổng Gò De. Thuổng có dáng chắc khỏe, có 2 vai hẹp và xuôi, chuôi dài có họng

tra cán hình gần bầu dục, thân thon dần từ vai xuống rìa lƣỡi, rộng lƣỡi hẹp hơn rộng ngang

vai. Đây là đặc điểm kỹ thuật phù hợp với chức năng đào hố của thuổng, làm chúng phân biệt

với lƣỡi rìu hay cuốc là những công cụ cần phần rìa lƣỡi rộng. Loại thuổng Gò De tập trung ở

vùng trung du Bắc bộ. Loại thuổng Làng Vạc đứng vị trí thứ 2 về số lƣợng. Chúng đƣợc tìm

thấy chủ yếu ở địa điểm Làng Vạc. Thuổng có 2 vai rất xuôi. thân rộng nhất ở ngang vai, rồi

thót mạnh về phía rìa lƣỡi, phần họng tra cán dài hơn thân.

Thuổng sắt mới tìm đƣợc 1 chiếc ở Đồng Mỏm (Nghệ An), hình dáng giống nhƣ

thuổng hiện đại.

Kích thƣớc các loại thuổng xê dịch trong khoảng dài 12-l5cm, rộng thân, chỗ ngang

vai 6-8cm, họng ăn sâu xuống quá 2/3 chiều dài thuổng. Hình dáng và kích thƣớc nhƣ vậy

của thuổng rất thích hợp với công việc đào đất cứng.

Xẻng cũng đƣợc coi là một công cụ dùng trong các công việc làm đất. Có lẽ ít có khả

năng tìm đƣợc những chiếc xẻng đá. Ngay xẻng đồng ở giai đoạn Đông Sơn cũng chƣa hẳn

rõ ràng. Các nhà nghiên cứu cho rằng, có một số chiếc lƣỡi cày Cổ Loa có thể gọi là xẻng vì

phần rìa lƣỡi không tạo thành mũi nhọn nhƣ cày mà lại cong vòng hình cung rộng, hợp với

chức năng xúc, sắn đất của xẻng. Số công cụ này không nhiều. Trong hơn 100 lƣỡi cày tìm

đƣợc ở địa điểm Mả Tre, chỉ tách ra đƣợc 4 chiếc có hình dáng nhƣ thế, kích thƣớc trung bình

của chúng là dài khoảng trên dƣới 12cm, rộng nhất ở ngang vai khoảng 11cm, dày khoảng

0.3cm. Họng tra cán của xẻng ăn sâu đến gần rìa lƣỡi. Còn có thể xếp vào loại công cụ làm

đất, những chiếc vên đồng Làng Vạc. Trên 50 chiếc vên đã tìm thấy ở đây, tạo nên một nét

đặc trƣng văn hóa cho loại hình

66

Đông Sơn lƣu vực sông Cả. Dựa vào cách sử dụng những chiếc vên sắt của cƣ dân hiện đại

tại vùng này, có thể cho rằng những chiếc vên đồng Đông Sơn cũng có những công dụng

tƣơng tự : vừa dùng để đào, để cuốc, vừa để xới đất. Vên có hình dáng giống những chiếc

xẻng nhỏ (dài trung bình 9cm, rộng 6cm) có họng tra cán ăn sâu tới khoảng 1/2 chiều dài toàn

thân vên, hai vai xuôi.

Công cụ làm đất quan trọng nhất, tiến bộ nhất của kinh tế nông nghiệp tiểu nông là

chiếc cày tay. Theo tài liệu hiện có, ngƣời Việt cổ đã dùng cày trong canh tác nông nghiệp,

muộn nhất cũng là vào thời Đông Sơn phát triển.

Các nhà khảo cổ học đã dựa trƣớc hết vào sự có mặt của gần 200 lƣỡi cày đồng tìm

thay trong các di tích Đông Sơn để khẳng định rằng cày không xa lạ gì với những nhà nông

Đông Sơn. Cũng có ý kiến nghi ngờ chức năng cày của những công cụ này,nhƣng bằng

những phƣơng pháp tiếp cận khác nhau, các nhà nghiên cứu đã chứng minh có sức thuyết

phục chức năng cày của chúng.

Căn cứ vào hình dáng, gần 200 lƣỡi cày đƣợc phân thành 4 loại khác nhau và đƣợc

đặt tên theo chính hình dáng, đồng thời cũng đặt tên theo địa danh nơi phát hiện đƣợc những

tiêu bản điển hình. Đó là loại cây hình tam giác (hay Vạn Thắng), cày hình tim (hay Cổ Loa),

cày cánh bƣớm (hay Đông Sơn), cày vai ngang (hay Đồng Môm). Đặc điểm chung của các

loại lƣỡi cày là chúng đều có họng nằm giữa thân, ăn sâu xuống đến mũi, có trổ chốt hãm.

Mũi cày thƣờng nhọn - đặc điểm kỹ thuật quan trọng, để phân biệt với cuốc, nó làm cho cày

thực hiện tốt chức năng rạch đất theo chuyển động lực theo chiều ngang. Thân lƣỡi cày nở

rộng ở khoảng 1/2 hay 2/3 chiều dài thân, sau đó đột ngột thu hẹp lại, có tác dụng làm cho đất

sau khi bị phanh rộng dễ đổ ra ngoài, không đọng lại trên lƣỡi gây sức cản lớn khi cày. Hình

dáng các lƣỡi cày cũng không thích hợp với công việc của xẻng, vì tuy có mũi nhọn dẽ cắm

sâu vào đất nhƣng phần thân lại hẹp không liên cho việc xúc đất (Nguyễn Duy Hinh 1973).

Số đo trung bình của các loại cày trên nhƣ sau:

Loại hình Dài (cm) Rộng (cm) Dày (cm) Nặng (gram) Góc lƣỡi (trong khoảng)

18,00 12.00 Vạn Thắng

20,94 16.41 2,60 561,75 Cổ Loa

9,32 10.25 2,43 140,00 Đông Sơn

5.50 10.45 760 -1660 620- 1230 Đông Môm

67

Vết mòn do lao động để lại trên các lƣỡi cày cũng bƣớc đầu đƣợc chú ý. Trong số 99

lƣỡi cày đƣợc phân tích thì chỉ có 48 lƣỡi thấy rõ vết mòn, trong đó 19 chiếc mòn trái, 19

chiếc mòn phải, 10 chiếc mòn đều hai bên (Chử Văn Tân 1985,1994). Qua đây có thể suy

đoán rằng các lƣỡi cày đƣợc sử dụng tƣơng đối linh hoạt. Tùy thuôc vào thao tác của ngƣời

cày mà cày bị mòn trái hay mòn phải nhiều hơn hoặc mòn đều 2 bên. Cấu tạo cân đối của

lƣỡi cày tạo điều kiện cho thợ cày có thể ứng xử tùy thuộc vào thói quen lao động của mình.

Thực tế này đƣợc chứng minh cụ thể bằng thực nghiệm cày bằng chính kiểu lƣỡi cày Cổ Loa

(Hoàng Văn Khoán 1982)

Theo phân tích của các nhà nghiên cứu, sự khác nhau về hình dáng và qui mô lƣỡi cày

là do điều kiện đất đai và yêu cầu kỹ thuật canh tác từng vùng quyết đinh là chính. Cày Vạn

Thắng và Cổ Loa sử dụng tốt trên những đồng đất có thành phần cơ giới tƣơng đối nặng nhƣ

kiểu đất vùng đồng bằng cao, và đáp ứng đƣợc yêu cầu thâm canh cần cày sâu. Hai loại cày

này đều có dáng thon dài, mũi nhọn, cánh mở rộng vừa phải, họng không nhô cao khỏi vai,

quy mô cày tƣơng đối lớn (dài trên dƣới 20cm). Loại cày này có thể bắt nguồn từ xẻng, mài

và phát triển theo dòng cày thân đế (cày cán). Cày Đông Sơn và Đông Mỏm có quy mô nhỏ

(dài không quá 10cm), rộng ngang (chiều rộng lƣỡi bằng hoặc gần gấp đôi chiêu dài), họng

nhô cao khỏi vai, 2 cánh xoè rộng. Loại cày này dùng tốt trên những đồng đất có thành phần

cơ giới nhẹ pha nhiều cát, đáp ứng đƣợc yêu cầu xới đất ở độ sâu vừa phải. Chúng có thẻ bắt

nguồn từ loại cuốc có vai và phát triển theo dòng cày đế. Nhìn từ góc độ tiến bộ kỹ thuật thì

loại cày Cổ Loa và Vạn Thắng ở vào trình độ phát triển hơn hai loại cày sau (Chử Văn Tân

1994).

Nhƣ vậy, các công trình nghiên cứu đã khẳng định sự có mặt của lƣỡi cày trong văn

hóa Đông Sơn, nhƣng có phải ngƣời Việt cổ chỉ mới biết dùng cày vào giai đoạn phát triển

cuối cùng của thời dựng nƣớc hay không. Điều này là đúng nếu chỉ căn cứ vào niên điểm

xuất hiện các lƣỡi cày kim loại kể trên và phần nào căn cứ vào vài đoạn văn chép trong thu

tịch Hán cổ. Đa số lƣỡi cày phát hiện đƣợc trong lớp Đông Sơn muộn. Nhƣng thực tế hẳn

không phải thế. Riêng sự phổ biến của lƣỡi cày đồng thau, cộng thêm tính da dạng về mặt

loại hình của chúng đã khiến chúng ta phải nghĩ rằng, kỹ thuật đúc cày, dùng cày của ngƣời

Đông Sơn muộn không còn ở giai đoạn ban đầu nữa. Hàng trăm lƣỡi cày đƣợc phát hiện tại

một địa điểm (Cổ Loa) chứng tỏ chúng đã đƣợc sản xuất hàng loạt, đã hình thành những

trung tâm đúc lƣỡi cày chuyên nghiệp. Lƣỡi cày đồng là sản phẩm độc đáo của ngƣời Đông

Sơn muộn, đồng thời đó cũng là kết quả của một quá trình phát minh và sử dụng cày - loại

nông cụ đã mang đến cho canh tác nông nghiệp bƣớc tiến có tính cách mạng, của những thế

hệ trƣớc. Ở đây chúng tôi muốn nói rằng, có nhiều khả năng trƣớc khi biết đúc và dùng cày

có lƣỡi kim loại. ngƣời Việt cổ Đông Sơn đã từng có thời gian dài dùng cày gỗ không có phần lƣỡi

68

kim loại.

Hiện tại chúng ta chƣa có bằng chứng trực tiếp nào để xác định thời điểm ra đời

những chiếc cày gỗ đầu tiên. Có thể những ngƣời Việt cổ Tiền Đông Sơn đã là tác giả của

phát minh quan trọng này. Nếu không thì cũng không thể đƣa thời điểm đó về phía sau giai

đoạn Đông Sơn phát triển. Cơ sở của sự phát triển rực rỡ của giai đoạn này còn có thể là gì

khác ngoài sự tăng trƣởng về mặt kinh tế mà trƣớc hết phải là nền sản xuất lúa nƣớc. Vào lúc

này, nhu cầu chiếm lĩnh đồng bằng, mở rộng diện tích trồng trọt trở nên bức bách hơn, yêu

cầu thời vụ nghiêm ngặt của cây lúa nƣớc cũng buộc ngƣời ta phải tìm kiếm những giải pháp,

những công cụ canh tác mới. Cái cày gỗ do ngƣời hoặc trâu bò kéo là giải pháp tối ƣu mà

ngƣời Đông Sơn lựa chọn.

Cày và sức kéo cày là hai vấn đề có mối quan hệ gắn bó. Tuy không nên lấy sức kéo

của gia súc hay của ngƣời để xác định sự tồn tại của cày chân chính hay không , chân chính,

nhƣng cũng phải thừa nhận rằng chỉ có cày bằng sức kéo gia súc thì mới tạo ra đƣợc bƣớc

ngoặt đáng kể trong canh tác. Cày do ngƣời kéo năng suất không hơn cuốc là bao. Chỉ có cày

với sức kéo gia súc mới đáp ứng đƣợc nhu cầu mở rộng diện tích canh tác, làm đất nhanh cho

kịp thời vụ. Ngƣời Việt cổ đã dùng sức gia sức kéo cày từ bao giờ?

Theo sách sử cổ thì mãi đến khoảng trƣớc sau Công nguyên các quan đô hộ ngƣời

Hán mới dạy dân Cửu Chân đúc đồ điền khi dạy dân cày bừa. Sự cày bừa ở đây đƣợc hiểu là

cày bằng sức kéo trâu bò. Tài liệu khảo cổ học cung cấp một vài bằng chứng khác. Đó là phát

hiện xƣơng hàm trâu bò cùng một chỗ với lƣỡi cày Vạn Thắng. Trâu bò là một trong số loài

súc vật đƣợc thuần dƣỡng và chăn nuôi sớm ở nƣớc ta.Tại địa điểm Gò Mun và nhiều địa

điểm Đông Sơn tìm thấy xƣơng trâu bò nhà. Tƣợng bò gặp trong di chi Đồng Đậu. Bò là hình

tƣợng nghệ thuật thƣờng gặp trên đồ đồng Đông Sơn... Chúng ta có thể nghĩ rằng, có nhiều

khả năng ngƣời Việt cổ Đông Sơn đã dùng sức kéo trâu bò để cày ruộng vào khoảng đầu giai

đoạn Đông Sơn điển hình (thế kỷ 5-3 trƣớc Công nguyên).

Công cụ thu hoạch của ngƣời nông dân Việt cổ, theo tài liệu đã biết gồm ba loại chủ

yếu là dao gặt, nhíp, liềm.

Dao gặt bằng đá đã tìm thấy trong một vài di chỉ Phùng Nguyên, số lƣợng ít. Dao gặt

Gò Bông đƣợc coi là dao gạt sớm nhất. Các dao đều đã bị gãy mũi và sứt mẻ nhiều nên

không biết thật chính xác hình dáng của chúng. Phần còn lại cho biết chúng có phần thân

cong, sống dao dày, mỏng dần Về phía lƣỡi, rìa lƣỡi cong lõm, khá sắc bén, kích thƣớc nhỏ

(dài toàn thân khoảng trên dƣới 10cm). Chuyển sang giai đoạn Đồng Đậu - Gò Mun, xuất

hiện một số dao gạt đồng có hình dáng tƣơng tự dao đá Phùng

69

Nguyên. Hẳn rằng, những dao đồng này có nguồn gốc từ những con dao đá. Tại địa điểm Cổ

Loa thuộc giai đoạn Đông Sơn cũng tìm thấy 2 con dao đồng, hình dáng khác loại dao kể

trên: một chiếc hình tứ giác không có lỗ và một chiếc có lỗ buộc dây, rìa lƣỡi chạy song song

với trục thân, một mặt thân có gờ nổi (Ngô Đức Thịnh 1989).

Nhíp là một loại dụng cụ dùng để thụ hoạch lúa bằng cách ngắt từng bông. Chúng ta

chƣa tìm thấy những chiếc nhíp bằng đá thực sự hay nhíp bằng vỏ trai tự nhiên nào, nhƣng

cũng không loại trừ sự tồn tại của chúng vào giai đoạn sớm. Những chiếc nhíp hình vỏ trai

phổ biến dƣới thời Đông Sơn rất có thể bắt nguồn từ loại nhíp vỏ trai tự nhiên ở giai đoạn

sớm. Có ý kiến đặt vấn đề tìm những chiếc nhíp đá trong số những chiếc rìu đá rất nhỏ, lƣỡi

mài sắc bén, toàn thân nhẵn bóng.

Vấn ddề nhíp đồng của giai đoạn Đồng Đậu - Gò Mun có phần khả quan hơn. Khảo

cổ học đã tìm thấy 2 hiện vật bằng đồng có khả năng là nhíp với hình dáng hơi khác nhau.

Một là mảnh đồng mỏng hình gần vuông (3,7 x 2,6cm) có 2 rìa lƣỡi sắc song song nhau. Một

là hiện vật đồng hình dao khắc mũi nhọn, lƣỡi hơi lõm vào.

Đến giai đoạn Đông Sơn, nhíp đồng phổ biến hơn hẳn. Đặc điểm chung của nhíp

Đông Sơn là kích thƣớc nhỏ, hình bầu dục, bán nguyệt hay gần hình thang, dài trung bình

6cm. làm từ lá đồng mỏng (không quá 1mm), rìa cắt thƣờng có hình răng cƣa nhờ một mặt

thân nhíp đúc những gân chỉ nổi chạy song song theo trục ngang thân, trên thân nhíp thƣờng

có 2 lỗ để xò dây. Cách tra cán gỗ (hoặc,tre) cho lƣỡi nhíp đƣợc biết chính xác nhờ phát hiện

ở mộ Đƣờng Dù có niên đại Đông Sơn muộn. Trong số đồ tùy táng trong mộ có một chiếc

cán nhíp cùn nguyên bàng gỗ, hình chữ nhật, có 2 lỗ để buộc lƣỡi nhíp vào.

Nhíp là dụng cụ thu hoạch phù hợp với giống lúa cứng cây không bị đổ. Theo các nhà

chuyên môn, các giống lúa. Japonica hạt tròn và hạt bầu thƣờng có thân cứng. Đây chính là

giống lúa đƣợc tìm thấy phổ biến trong các di tích văn hóa thời dựng nƣớc của ngƣời Việt cổ.

Ở đây, chúng ta thấy có sự phù hợp giữa loại hình nông cụ và giống cây trồng. Điều cần bổ

sung thêm là, cho đến bây giờ nhíp mới tìm thấy nhiều ở vùng lƣu vực sông Hồng và sông

Mã. Còn ở lƣu vực sông Cả chƣa tìm thấy nhíp. Đi đôi với hiện tƣợng này là sự có mặt ở

Làng Vạc những di tích hạt thóc dạng thon, một giống lúa khác lúa trồng phổ biến ở các vùng

phía bắc.

Dao gặt và nhíp là những dụng cụ thu hoạch thô sơ, khó tạo ra đƣợc năng suất cao.

Muốn thu hoạch đại trà, nhanh gọn, phải sử dụng những nông cụ có trình độ kỹ thuật cao

hơn. Đó là liềm và hái. Căn cứ vào một số đặc trƣng hình dáng và tính năng tác dụng có ý

kiến cho rằng liềm đƣợc phát triển từ dao gặt, còn hái thì bắt nguồn từ nhíp (Chử Văn Tần

1994 ; Ngô Đức Thịnh 1994).

70

Liềm thuộc loại dụng cụ thu hoạch tiến bộ, cho hiệu suất lao động cao, có khả năng

thích hợp với nhiều giống lúa khác nhau, chân ruộng khác nhau. Có lẽ những chiếc liềm đồng

thuộc giai đoạn Gò Mun là những chiếc liềm cổ nhất còn nguyên hình phát hiện đƣợc trong

khu vực cƣ trú của ngƣời Việt cổ? Chúng không thật giống kiểu liềm hiện đại; bản liềm rộng,

trên thần có đƣờng sống nổi, thân liềm cong, 2 rìa lƣỡi sắc, có họng tra cán nằm ở vị trí

vuông góc với trục thân liềm. Vì những đặc điểm này có ý kiến cho đây là vằng hoặc một loại

vũ khí (Trịnh Sinh 1978 ; Đào Quý Cảnh. Nguyễn Trung Chiến 1980)

Ở địa điểm Thiệu Dƣơng tìm thấy 2 hiện vật đồng có thể là liềm. Một chiếc hình lá

mía, có 2 rìa cạnh sắc. Một chiếc có dáng cong nhƣ liềm hiện đại nhƣng rìa lƣỡi sắc lại ở phía

cạnh lồi. Kích thƣớc của chúng đều nhỏ (dài không quá 9cm, rộng bản khoảng l cm). Phải

đến giai đoạn Đông Sơn muộn ta mới gặp đƣợc loại liềm giống nhƣ liềm hiện đại. Chiếc liềm

này đƣợc làm bằng sắt, bị gãy mũi, phần còn lại đo đƣợc 20cm, bản lƣỡi rộng gần 3cm, phần

chuôi thu nhỏ, dáng cong.

Hái có lẽ xuất hiện muộn hơn liềm nhiều. Cho tới nay chƣa tìm thấy dấu tích hái trong

các địa điểm Đông Sơn, nhƣng các nhà nghiên cứu đã chú ý liến chiếc nhíp tƣơng đối đặc

biệt phát hiện trong mộ Đông Sơn muộn Đọi Sơn. Nhíp này khác các nhíp kể trên ở chỗ có

phần đầu nhíp thu nhỏ và uốn cong có thể dùng để móc bông lúa đƣa vào lƣỡi cắt. Phải chăng

đây là một gợi ý cho việc tạo thành mỏ hái của bƣớc cải tiến tiếp theo, biến nhíp thành hái.

Sau thu hoạch, ngƣời nông dân còn phải chú ý đến việc cất trữ, bảo quản lƣơng thực.

thực phẩm, đặc biệt là việc lựa chọn, bảo quản giống dành trồng vụ sau. Ở khâu này cũng cần

có những kỹ thuật, kinh nghiệm riêng. Tiếc rằng chúng ta chƣa có tài liệu để nghiên cứu vấn

đề này ở thời dựng nƣớc của ngƣời Việt cổ, ngoài một vài gợi ý nhỏ. Ví nhƣ, có ngƣời gọi

ngôi nhà sàn thấp hình tròn trang trí trên trống đồng là kho cất giữ thóc. Ngƣời Việt cổ cũng

có thể cất giữ thóc kiểu để nguyên bó treo gác lên cao để tránh ẩm mốc. Kiểu cất trữ thóc cả

lƣợng thế này còn đƣợc sử cổ nhắc đến và còn đƣợc nhiều cƣ dân hiện đại thực hiện.

Qua bộ nông cụ đƣợc giới thiệu ở trên, có thể thấy rõ hơn tính chất, đặc điểm, xu

hƣớng phát triển kỹ thuật nông nghiệp trong suốt thời kỳ dựng nƣớc của ngƣời Việt cổ. Thời

kỳ này trải dài trong khoảng 2 thiên niên kỷ. Ở giai đoạn đầu, nông cụ đá chiếm ƣu thế tuyệt

đối. Về cơ bản, bộ nông cụ chƣa có sự phân hóa chức năng rõ ràng. Công cụ hình rìu thực tế

là công cụ đa chức năng. Chúng có thể là rìu chặt cây phát hoang, chế tác công cụ, dụng cụ

tre gỗ, có thể là nhíp dùng trong thu hoạch lúa, có thể là cuốc, thuổng để làm đất canh tác...

Các chức năng khác nhau tùy thuộc nhiều vào

71

kích thƣớc của các loại rìu. Đây chính là giai đoạn nông nghiệp dùng cuốc chiếm địa vị độc

tôn. Ngay từ giai đoạn này lúa đã trở thành cây lƣơng thực quan trọng nhất của cƣ dân, nhƣng

những cây trồng khác nhƣ các loại khoai củ, rau đậu... hẳn còn đóng vai trò không nhỏ. Cuốc

đá, loại nông cụ chân chính còn lƣu giữ đến tay các nhà nghiên cứu bây giờ, có lẽ đƣợc dùng

chủ yếu để trồng trọt loại cây củ và làm vƣờn. Cây lúa vốn ƣa nƣớc, lúc này hẳn vẫn chỉ có

thể đƣợc trồng ở những vùng đất bãi, vùng lầy tự nhiên ven sông, đầm hồ. Tại đây cuốc đá

không đắc dụng. Phƣơng thức canh tác tối ƣu là dùng rìu chặt phát cây cỏ, để khô đốt, dùng

chân hay gia súc lớn dậm cho ngấu bùn hoặc dùng cuốc gỗ lƣỡi dài cuốc sục bùn rồi vãi hạt

hoặc cấy mạ. Lối canh tác này chiếm ƣu thế ở lƣu vực sông Hồng (văn hóa Phùng Nguyên),

trong khi ở lƣu vực sông Mã phƣơng thức trồng khoai củ ở đất bãi bằng cuốc đá chiếm ƣu

thế (văn hóa Hoa Lộc).

Chuyển sang giai đoạn Đồng Đậu - Gò Mun, mặc dù nghề luyện kim đồng thau đã có

bƣớc tiến vƣợt bậc, nhƣng hầu nhƣ chƣa thấy kim loại đƣợc dùng để chế tạo những công cụ

chuyên dùng trong canh tác nông nghiệp. Sự đổi mới đáng kể nhất trong giai đoạn này là xuất

hiện những chiếc rìu đồng - những công cụ phát hoang ƣu việt hơn hẳn rìu đá. Không có gì

phải nghi ngờ vai trò của rìu đồng trong canh tác nông nghiệp lúc này. Nó giúp cho ngƣời

Đồng Đậu - Gò Mun mở rộng diện tích canh tác lúa nƣớc có hiệu quả hơn hẳn giai đoạn

trƣớc, cũng nhƣ làm cho việc chế tạo đề tre gỗ nói chung, đồ tre gỗ dùng trong nông nghiệp

nói riêng, dễ dàng, năng suất hơn. Theo tài liệu đã biết thì nông cụ chuyên dùng đƣợc làm

bằng kim loại xuất hiện vào giai đoạn này chủ yếu là công cụ thu hoạch (dao gặt, liềm), ngoài

ra còn có thuổng. Có lẽ phƣơng thức canh tác của giai đoạn này vẫn chƣa có bƣớc nhảy vọt

về chất so với giai đoạn Phùng Nguyên. Nhƣng hoàn toàn không phải là không có sự tiến bộ

nào. Riêng sự có mặt của những loại công cụ thu hoạch mới cũng đã nói lên nhiều điều.

Bƣớc nhảy vọt trong kỹ thuật nông nghiệp xảy ra vào thời Đông Sơn. Nhƣ đã trình

bày ở trên, bộ nông cụ bằng đồng thau, sau đó có cả bằng sắt, phát triển đến đáng kinh ngạc

cả về chất lƣợng cả về số lƣợng. Xu hƣớng phân hóa và chuyển hóa nông cụ thể hiện rõ ràng

không chỉ ở sự ra đời của hầu hết các loại nông cụ truyền thông (cuốc, cày, mai xẻng, liềm,

nhíp...) mà còn ở sự phân chia chi tiết thành các kiểu dáng khác nhau trong từng loại hình

nông cụ nhằm đáp ứng những nhu cầu canh tác ở từng vùng sinh thái khác nhau. Phải thừa

nhận rằng, thành tựu kỹ thuật lớn nhất trong canh tác nông nghiệp thời này là chiếc cày, lúc

đầu có thể là cày gỗ, sau đó là cày có lƣỡi cày kim loại. Phƣơng thức canh tác vói cày do trâu

bò kéo dần dần chiếm vị trí chủ đạo. Những công trình thủy lợi, nhờ sự giúp sức của loạt

công cụ đào đất lƣỡi kim loại sắc bén (mai, xẻng, thuổng) phát triển nhanh hơn, quy mô hơn.

Thực tế, việc tƣới tiêu đối với cây lúa có ý nghĩa quan trọng hàng đâu (nhất nƣớc, nhì

phân...), buổi đầu

72

do chƣa tích lũy đƣợc kinh nghiệm, chƣa có công cụ lao động thích hợp. ngƣời ta phải triệt để

lợi dụng tự nhiên, phụ thuộc hoàn toàn vào tự nhiên (theo thủy triều lên xuống mà làm). Còn

đến lúc này, tình hình đã đổi khác rất nhiều, sách sử cổ đã có những ghi chép nhất định về

tình hình thủy lợi ở Giao Chỉ, Cửu Chân vài thế kỷ trƣớc sau công nguyên. Giao châu ký

được dẫn lại trong Hậu Hán thư chép, ở huyện Phong Khê (khu vực Cổ Loa và phụ cận ngày

nay) có đê phòng nƣớc lụt. Hậu Hán kỷ có đoạn kể chuyện Mã Viện cho sửa sang kênh ngòi.

Thủy kinh chú nhắc đến việc Mã Viện đào ngòi thông đƣờng lấy nƣớc tƣới ruộng... (dẫn theo

Trần Quốc Vƣợng 1963). Nhƣ vậy có thể nghĩ rằng thời Đông Sơn đã có những hệ thống đê

điều và mƣơng máng nhất định.

Nhờ những tiến bộ đáng kể trong kỹ thuật canh tác nông nghiệp kể trên mà ngƣời

Đông Sơn đã tạo ra đƣợc một tiền nông nghiệp thâm canh tiến bộ với phổ biến 2 vụ lúa một

năm. Năng suất lúa có thể đã khá cao. Sách Hậu Hán thư nói đến sự kiện năm thứ 2 hiệu

Diên Quang (năm 124) đã xuất hiện điềm tốt, tháng 6 Cửu Chân có lúa tốt sinh 156 gốc lúa

cỡ 768 bông. Nghĩa là 1 gốc lúa đẻ 5 bông (ngày nay mỗi gốc đẻ 7.8 bông đƣợc coi là có

năng suất cao). Có thể ngƣời Đông Sơn trƣớc đó 1,2 thế kỷ cũng đã làm ra đƣợc năng suất

nhƣ vậy, đặc biệt là ở vùng đồng bằng sông Hồng, đất đai vốn phì nhiêu hơn.

B. KỸ THUẬT THỦ CÔNG NGHIỆP

Ngƣời Việt cổ thời dựng nƣớc đã biết đến hầu hết những nghề thủ công quan trọng,

có mặt trong các xã hội văn minh cổ đại : luyện kim, làm gốm, chế tác đá làm mộc, sơn, dệt,

nấu thủy tinh.

1. Luyện kim

Những vết tích kim loại đầu tiên ở Việt Nam đã biết cho tới nay đƣợc tìm thấy trong

tầng văn hóa của một sổ di chỉ Phùng Nguyên có niên đại vào khoảng 1/2 đầu thiên niên kỷ II

trƣớc Công nguyên. Đây mới chỉ là dấu vết xỉ đồng hay cục đồng nhỏ, chƣa phát hiện đƣợc

một di vật nguyên vẹn nào. Điều đáng lƣu ý là đồng ở đây là hợp kim rồi, không phải đồng

đỏ. Tuy nhiên, số lƣợng vết tích kim loại này còn rất hiếm và loại hình chƣa rõ, chủ yếu là

những vật dụng nhỏ bé vi thế dễ bị thời gian hủy hoại. Trong giai đoạn văn hóa này đồ đá vẫn

chiếm ƣu thế tuyệt đối.

Sang đến giai đoạn tiếp theo - giai đoạn Đồng Đậu, lịch sử luyện kim Việt cổ bƣớc

vào một giai đoạn mới với sự tiến bộ vƣợt trội hơn hẳn so với giai đoạn Phùng Nguyên.

Trong các di chỉ Đồng Đậu tỷ lệ di vật đồng chiếm trên 20% tổng số di vật phát hiện đƣợc.

Loại hình di vật khá phong phú, tuy chủ yếu vẫn là đồ vật nhỏ nhƣ giáo; lao, mũi tên, mũi

nhọn. Ngoài ra bắt đầu xuất hiện vài loại hình dụng cụ sản xuất nhƣ rìu, dũa, lƣỡi câu. Tình

hình đồ đồng ở giai đoạn Gò Mun. về cơ bản tƣơng tự giải

73

đoạn Đồng Đậu. Loại hình di vật đồng thau chƣa có những thay đổi lớn nhƣng về mặt số

luợng thì tăng lên rõ rệt. Tỷ lệ đồ đồng thau ở Gò Mun chiếm khoảng 40%, thậm chí lên tới

60% đối với giai đoạn muộn, so với tổng số hiện vật thu lƣợm đƣợc. Chúng ta thấy khá rõ

quá trình thay thế đồ đá của loại di vật làm từ chất liệu ƣu thế này.

Bƣớc nhảy vọt trong nghề luyện kim Việt cổ xảy ra chính vào thời Đông Sơn, không

chỉ hơn hẳn về số lƣợng (tỷ lệ đồ đồng trong các sƣu tập hiện vật khai quật thƣờng chiếm từ

70% trở lên), mà còn hơn hẳn về sự phong phú, đa dạng của các loại hình kiểu dáng, đặc biệt

là sự xuất hiện của loạt sản phẩm mới quy mô. tinh tế trống, thạp, thố...) đòi hỏi trình độ kỹ

thuật và nghệ thuật cao. Theo thống kê, đồ đồng Đông Sơn có thể đƣợc phân chia thành 6

nhóm lớn (công cụ, vũ khí, nhạc khí, đồ dùng sinh hoạt, đồ trang sức nghệ thuật); trong mỗi

nhóm lại có hàng loạt loại hình di vật khác nhau (ví dụ nhóm vũ khí có 10 loại; nhóm công cụ

có 9 loại; nhóm nhạc khí có 2 loại...) Mỗi loại di vật lại bao gồm nhiều loại hình, kiểu dáng

(vi dụ, loại rìu trong nhóm công cụ có thể đƣợc phân thành 11 loại hình với trên 20 kiểu

dáng). Đỉnh cao của kỹ thuật luyện kim Đông Sơn đƣợc phản ánh khách quan bằng sự hiện

diện của những chiếc trống đồng tháp đồng lớn...Đỉnh cao kỹ thuật đúc đồng và bàn tay tài

hoa của những ngƣời thợ Việt cổ này đạt tới không dễ dàng gì ngay cả đối với những tay thợ

lão luyện hiện tại. Chúng ta đã tìm vài lần thử đúc lại trống Ngọc Lũ mà chƣa lần nào đạt

đến trình độ hoàn hảo nhƣ trống mẫu.

Luyện kim Đông Sơn còn là bƣớc tiến vọt so với Tiền Đông Sơn ở chỗ vào thời này,

ngoài luyện kim màu (đồng thau), ngƣời ta còn biết đến luyện kim đen (sắt). Sự ra đời của

luyện kim sắt, của đồ sắt tạo nên bƣớc ngoặt lớn trong lịch sử loài ngƣời. Chỉ có sắt mới hoàn

toàn loại bỏ đƣợc đồ đá ra khỏi nền sản xuất xã hội. Từ giai đoạn Đông Sơn phát triển trở đi.

chúng ta hầu nhƣ không còn gặp công cụ lao động bằng đá nữa. Đồ sắt Đông Sơn đƣợc bảo

lƣu tới nay không nhiều có lẽ đa số chúng đã bị oxy hóa, rỉ nát. Số đồ sắt còn lại đến tay

chúng ta ngày nay thƣờng là công cụ sản xuất (cuốc, thuổng liềm...).

Trong mấy thập kỷ qua, ngoài việc chú ý phát hiện hàng loạt di tích văn hóa thời đại

đồng - sơ kỳ thời đại sắt, tập hợp, thống kê phân loại toàn bộ những sƣu tập đồ đồng, đồ sắt

thuộc các văn hóa Tiền Đông Sơn - Đông sơn, các nhà nghiên cứu còn rất chú ý tìm hiểu các

vấn đề có liên quan đến kỹ thuật luyện kim của chủ nhân các văn hóa này. Nhờ vậy chúng ta

đã có thể nhìn thấy tƣơng đối rõ những nét cơ bản của một trong những mảng kỹ thuật quan

trọng nhất của nền sản xuất Việt cổ này.

a. Kỹ thuật luyện kim màu. Vấn đề thứ nhất đƣợc các nhà nghiên cứu lịch sử luyện

kim màu quan tâm là nguồn nguyên liệu. Đồng, thiếc, chì, kẽm... đều là những kim loại

không có sẵn trong thiên nhiên mà phải luyện ra từ quặng. Việc tìm kiếm các

74

mỏ cổ đã đƣợc đặt ra ít nhiều trong những năm qua, nhƣng cho đến nay chúng ta vẫn chƣa

tìm đƣợc một mỏ quặng nào chắc chắn là mỏ thời Phùng Nguyên - Đông Sơn. Đây là công

việc khó khăn phức tạp, cần đầu tƣ nhiều công sức và phƣơng tiện nghiên cứu liên ngành mới

có thể thu đƣợc kết quả. Nhƣng chúng ta cũng có cơ sở để tin rằng nguyên liệu chế tạo đồ

đồng, đồ sắt ở ta đƣợc khai thác tại chỗ. Theo điều tra tài nguyên khoáng sản. nƣớc ta có

nhiều mỏ đồng, mỏ thiếc, sắt... ở Thái Nguyên, Tuyên Quang Lạng Sơn, Sơn La, Cao Bằng,

Vĩnh Phú, Thanh Hóa. Nghệ An... ở một số nơi còn tìm thấy dấu vết công cuộc khai mỏ

luyện quặng tại chỗ vào thời phong kiến. Trong một sổ sách sử cũ như Bản quốc sản xứ ký

(dẫn lại trong Dư địa chí của Nguyễn Trãi). Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy

Chú, thấy liệt kê tên hàng chục mỏ đồng, thiếc, chì... Các nhà khảo cổ đã tiến hành diều tra.

khảo sát một số mỏ (mỏ đa kim ở huyện Kỳ Sơn - Hòa Bình, mỏ Bát Xát, Làng Nhơn, Đá

Chông, Yên Cƣ. Đồng Giang. Giái Cả, Dốc Cun... (Hà Văn Phùng .1981). Phần lớn các mô

cổ là những điểm quặng nhỏ. trữ lƣợng không lớn, nằm lộ thiên hay nông dƣới mặt đất và ở

vị trí thuận tiện giao thông đƣờng thủy. Chúng ta có thể tin rằng những ngƣời Việt cổ thời

dựng nƣớc hoàn toàn có khẳ năng phát hiện và khai thác quặng tại các mỏ tƣơng tự nhƣ thế.

Bằng phân tích thành phần hóa học đồ đồng Phùng Nguyên - Đông Sơn, các nhà

nghiên cứu đi đến nhận định rằng, chúng đƣợc làm từ nhiều nguồn quặng khác nhau, mang

tính địa phƣơng rõ nét (Trịnh Sinh 1988, 1990 ; Diệp Đình Hoa, Nguyễn Văn Bửu, Phạm

Minh Huyền 1976).

Chúng ta cũng còn chƣa thật rõ kỹ thuật luyện quặng của thời kỳ này ra sao. Chắc hẳn

quặng đƣợc luyện ngay tại nơi khai thác. Tại những mỏ cổ đã biết tìm thấy nhiều xỉ quặng,

thậm chí có nơi (nhƣ mỏ Nậm Hét - Sơn La) còn tìm thấy cả những khối kim loại nguyên, sản

phẩm sau tinh luyện. Có lẽ kỹ thuật luyện quặng buổi sơ khai đƣợc ngƣời Phùng Nguyên -

Đông Sơn sử dụng không khác lắm so với kỹ thuật luyện thủ công sau này.

Vấn đề thứ hai đƣợc các nhà nghiên cứu đặc biệt chú ý là vấn đề họp kim màu. Bằng

phƣơng pháp phân tích quang phổ, ngay từ đầu những năm 70, quan điểm về 2 giai đoạn hợp

kim đồng thau cổ đại ở nƣớc ta đã đƣợc đề xuất (Hoàng Văn Khoán. Hà Văn Tấn 1970 ; Phan

Văn Thích, Hà Văn Tấn 1970 ; Hà Văn Tấn, Hoàng Văn Khoán 1971). Tính đúng đắn của

quan điểm này ngày càng đƣợc chứng minh bằng hàng loạt các nghiên cứu phân tích tiếp sau.

Ngày nay đã khá đủ cơ sở để nói về các loại hợp kim, các nhóm luyện kim thời đó.

Khoảng gần 1000 mẫu đồng đã đƣợc phân tích quang phổ định lƣợng và bán định

lƣợng tại nhiều phòng thí nghiệm khác nhau trong và ngoài nƣớc. Các mẫu đƣợc lấy từ các

địa điểm khảo cổ học thuộc các giai đoạn văn hóa khác nhau, phân bố trong

75

đảm bảo chất lƣợng, sản phẩm bền chắc. Và nó rất thích hợp trong việc chế tạo vũ khí, công

cụ sản xuất cần độ cứng và sắc nhọn.

Khả năng nắm vững và sử dụng đúng chỗ các loại hợp kim đƣợc ngƣời thợ Đông Sơn

thể hiện khá ngoạn mục. Có thể thấy rõ những mối tƣơng quan có chủ ý giữa hợp kim với

loại hình di vật : gần nhƣ toàn bộ các loại hình đồ trang sức (vòng, nhẫn, chuông, nhạc...) đều

đƣợc làm từ hộp kim 3 thành phần đồng - thiếc - chì và đồng - chì - thiếc ; trên 60% mẫu đồ

đựng đƣợc làm từ 2 loại hộp kim nhƣ trên ; đại đa số mẫu trống thuộc nhóm hợp kim đồng -

thiếc - chì; đại đa số mẫu dao và dao găm đƣợc làm từ hợp kim đồng - thiếc ; hầu nhƣ toàn bộ

lƣỡi cày đƣợc làm từ đồng đỏ...

Xem xét chi tiết hơn mối quan hệ giữa loại hình di vật và thành phần hợp kim trong

từng loại hợp kim, có thể thấy cụ thể hơn tầm hiểu biết của những ngƣời thợ Đông Sơn về

tính chất hóa lý của từng kim loại, hợp kim. Kết quả phân tích thành phần hóa học các mẫu

cho thấy, tuy cùng là hợp kim có chì, nhƣng hàm lƣợng chì rất khác nhau ở từng loại di vật.

Các mẫu trống đồng có lƣợng chì cao nhất từ 10-20%. Mũi tên, mũi giáo thƣờng có hàm

lƣợng chỉ khoảng 4-5% còn dao, rìu có hàm lƣợng chì thấp nhất (trên dƣới 1%).

Chúng ta có thể dễ dàng thừa nhận một thực tế là hợp kim có chì ra đời ở thời Đông

Sơn và ngay lập tức chiếm vị trí chủ đạo. Hợp kim có chì là một thành tựu lớn của ngƣời

Đông Sơn. Nó xuất hiện không ngẫu nhiên, mà do nhu cầu kinh tế - xã hội đƣơng thời đòi

hỏi. Ở giại đoạn này, đồng thau không chỉ đƣợc dùng làm công cụ, vũ khí thông thƣờng mà

đã mở rộng đối tƣợng sản xuất - những đồ đựng sang trọng (thạp. thố, âu, bình ...), những

nhạc khi quyền uy (trống, chuông...), những đồ trang trí nghệ thuật (đồ trang sức, tƣợng...).

Những sản phẩm này thƣờng có yêu càu thẩm mỹ cao, trang trí nhiều hoa văn tinh tế, một số

trong đó lại có kích thƣớc rất lớn. Để có thể đúc thành công những đồ vật này, ngƣời ta

không thể dùng hợp kim đồng-thiếc cứng, ròn nhƣ cũ, mà phải phát minh ra loại hợp kim mới

dễ nóng chảy hơn, dẻo hơn, dễ điền đầy vào các chi tiết vật đúc. Hợp kim có chì chính là loại

hợp kim cần thiết đó.

Xung quanh kỹ thuật chế tạo hợp kim đồng thau Đông Sơn còn có những nhận xét về

các thành phần phụ có mặt trong hợp kim. Chẳng hạn, có thể coi hợp kim đồng thau Đông

Sơn là hợp kim có kẽm. Đây là một yếu tố tiến bộ bởi vì nhờ có kẽm mà hợp kim dễ nóng

chảy hơn. Thành phần phốt pho có mặt trong hợp kim Đông Sơn chứng tỏ phốt pho đã đƣợc

sử dụng để khử oxy trong hợp kim có chì và làm tăng độ dẻo, bền của hợp kim (Diệp Đình

Hoa, Nguyễn Văn Bửu, Phạm Minh Huyền 1985)

Đúc đồng là một khâu kỹ thuật quan trọng, ảnh hƣởng rất lớn đến chất lƣợng sản

phẩm. Có đủ cơ sở để nói rằng đồ đồng của ngƣời Việt cổ thời dựng nƣớc, cơ bản đƣợc

77

lớn, hết sức quan trọng. Để đúc các đồ đồng đơn giản và nhỏ thì tƣơng đối đơn giản. Tài liệu

khảo cổ đã cung cấp những mẫu hình nồi nấu đồng, muôi múc và rót đồng vào khuôn... Ở

Làng Cả tìm thấy nồi nấu có thể nấu đƣợc khoảng 12kg nƣớc đông (Vũ Ngọc Thƣ, Nguyên

Duy Tỳ 1978). Nhƣng để đúc những vật lớn và tinh xảo nhƣ trống, thạp... thì thực tế chúng ta

chƣa tìm đƣợc dấu vết gì của lò nung, lò nấu. Đây còn là công việc tìm hiểu trong tƣơng lai,

cũng nhƣ nhiều vấn đề khác xoay quanh kỹ nghệ luyện kim màu của tổ tiên dân tộc Việt.

Khâu kỹ thuật cuối cùng, tuy không thật quan trọng, những cũng không thể thiếu của

quá trình chế tác đồ đồng là khâu tu chỉnh, gia đông nguội sau đúc. Trên phần lớn di vật đúc

Phùng Nguyên - Đông Sơn còn tìm thấy dấu vết kỹ thuật giữa, mài nhẵn những đƣờng chỉ

đúc, có một số chi tiết của sản phẩm đƣợc gấn chắp vào nhau bằng kỹ thuật khoan lỗ, tán trên

đe. Các họa tiết hoa văn trang trí hoặc các chi tiết trên tƣợng tròn, phù điêu Đông Sơn cũng

đƣợc tu chỉnh sau đúc cho thêm phần sắc sảo... Trong bộ di vật Đông Đậu - Đông Sơn có

những, dụng cụ phục vụ cho công việc này nhƣ giữa đục nhỏ, mũi nhọn...

Nhƣ vậy, kỹ thuật luyện kim màu của ngƣời Việt cổ đã trải qua những bƣớc phát triển

từ thấp lên cao. Vào thời Đông Sơn, kỹ thuật này đã đạt đến đỉnh cao. Với những sản phẩm

tuyệt hảo nhƣ trống Ngọc Lũ, Hy Cƣơng, Cổ Loa, tháp đồng Đào Thịnh... chúng ta có thể nói

đƣợc rằng kỹ thuật luyện kim màu của ngƣời Việt cổ không thua kém các trung tâm luyện

kim đƣơng đại khác trên thế giới.

b. Kỹ thuật luyện kim đen - chế tạo đồ sắt ..đã ra đời trong văn hóa Đông Sơn. Đó là

điều đƣợc khẳng định, nhƣng ra đời vào thời điểm nào cụ thể hơn thì còn là vấn đề chƣa đƣợc

trả lời dứt khoát. Dựa theo các sách sử cổ Trung Quốc thì đồ sắt xuất hiện ở nƣớc Âu Lạc vào

khỏang 1, 2 thế kỷ trƣớc sau công nguyên, nhờ sự khai hóa của quan quân nhà Hán. Nhƣng

tài liệu khảo cổ học lại cho phép kéo niên đại xuất hiện đồ sắt ở đây lùi xa hơn vào quá khứ

vài thế kỷ. Dựa vào sự có mặt của những công cụ sắt ở Gò Chiền Vậy, một di chỉ Đông Sơn

đƣợc xác định niên đại C14 cho kết quả 2350±100 BP, các nhà nghiên cứu cho rằng niên đại

ra đời đồ sắt Đông Sơn muộn nhất cũng phải ở vào khoảng thế kỷ 4 trƣớc Công nguyên.

Nhƣng các nhà nghiên cứu còn lƣu ý ở một điểm là đồ sắt Gò Chiền Vậy, trong đó có chiếc

cuốc sắt đã đƣợc chế tạo băng kỹ thuật khá cao, không thể thuộc loại sản phẩm của buổi đầu

vào nghề. Do vậy, có khả năng đồ sắt Đông Sơn có tuổi sớm hơn nhƣ vậy. Thêm nữa, khi

khảo sát bãi luyện quặng lấy sắt ở Nghi Xuân và Đồng Mỏm (Nghệ An) dựa vào dấu tích lò

luyện và những di vật tìm thấy lẫn trong đó, những nhà nghiên cứu - khảo sát đã định cho

chúng niên đại khoảng thế kỷ 5 trƣớc Công nguyên (Hoàng Văn Khoán 1978).

79

lớn, hết sức quan trọng. Để đúc các đồ đồng đơn giản và nhỏ thì tƣơng đối đơn giản. Tài liệu

khảo cổ đã cung cấp những mẫu hình nồi nấu đồng, muôi múc và rót đồng vào khuôn... Ở

Làng Cả tìm thấy nồi nấu có thể nấu đƣợc khoảng 12kg nƣớc đông (Vũ Ngọc Thƣ, Nguyên

Duy Tỳ 1978). Nhƣng để đúc những vật lớn và tinh xảo nhƣ trống, thạp... thì thực tế chúng ta

chƣa tìm đƣợc dấu vết gì của lò nung, lò nấu. Đây còn là công việc tìm hiểu trong tƣơng lai,

cũng nhƣ nhiều vấn đề khác xoay quanh kỹ nghệ luyện kim màu của tổ tiên dân tộc Việt.

Khâu kỹ thuật cuối cùng, tuy không thật quan trọng, những cũng không thể thiếu của

quá trình chế tác đồ đồng là khâu tu chỉnh, gia đông nguội sau đúc. Trên phần lớn di vật đúc

Phùng Nguyên - Đông Sơn còn tìm thấy dấu vết kỹ thuật giữa, mài nhẵn những đƣờng chỉ

đúc, có một số chi tiết của sản phẩm đƣợc gấn chắp vào nhau bằng kỹ thuật khoan lỗ, tán trên

đe. Các họa tiết hoa văn trang trí hoặc các chi tiết trên tƣợng tròn, phù điêu Đông Sơn cũng

đƣợc tu chỉnh sau đúc cho thêm phần sắc sảo... Trong bộ di vật Đông Đậu - Đông Sơn có

những, dụng cụ phục vụ cho công việc này nhƣ giữa đục nhỏ, mũi nhọn...

Nhƣ vậy, kỹ thuật luyện kim màu của ngƣời Việt cổ đã trải qua những bƣớc phát triển

từ thấp lên cao. Vào thời Đông Sơn, kỹ thuật này đã đạt đến đỉnh cao. Với những sản phẩm

tuyệt hảo nhƣ trống Ngọc Lũ, Hy Cƣơng, Cổ Loa, tháp đồng Đào Thịnh... chúng ta có thể nói

đƣợc rằng kỹ thuật luyện kim màu của ngƣời Việt cổ không thua kém các trung tâm luyện

kim đƣơng đại khác trên thế giới.

b. Kỹ thuật luyện kim đen - chế tạo đồ sắt ..đã ra đời trong văn hóa Đông Sơn. Đó là

điều đƣợc khẳng định, nhƣng ra đời vào thời điểm nào cụ thể hơn thì còn là vấn đề chƣa đƣợc

trả lời dứt khoát. Dựa theo các sách sử cổ Trung Quốc thì đồ sắt xuất hiện ở nƣớc Âu Lạc vào

khỏang 1, 2 thế kỷ trƣớc sau công nguyên, nhờ sự khai hóa của quan quân nhà Hán. Nhƣng

tài liệu khảo cổ học lại cho phép kéo niên đại xuất hiện đồ sắt ở đây lùi xa hơn vào quá khứ

vài thế kỷ. Dựa vào sự có mặt của những công cụ sắt ở Gò Chiền Vậy, một di chỉ Đông Sơn

đƣợc xác định niên đại C14 cho kết quả 2350±100 BP, các nhà nghiên cứu cho rằng niên đại

ra đời đồ sắt Đông Sơn muộn nhất cũng phải ở vào khoảng thế kỷ 4 trƣớc Công nguyên.

Nhƣng các nhà nghiên cứu còn lƣu ý ở một điểm là đồ sắt Gò Chiền Vậy, trong đó có chiếc

cuốc sắt đã đƣợc chế tạo băng kỹ thuật khá cao, không thể thuộc loại sản phẩm của buổi đầu

vào nghề. Do vậy, có khả năng đồ sắt Đông Sơn có tuổi sớm hơn nhƣ vậy. Thêm nữa, khi

khảo sát bãi luyện quặng lấy sắt ở Nghi Xuân và Đồng Mỏm (Nghệ An) dựa vào dấu tích lò

luyện và những di vật tìm thấy lẫn trong đó, những nhà nghiên cứu - khảo sát đã định cho

chúng niên đại khoảng thế kỷ 5 trƣớc Công nguyên (Hoàng Văn Khoán 1978).

79

Kỹ thuật luyện sắt đƣợc thể hiện cụ thể qua 2 khâu :

1- Luyện quặng lấy sắt;

2 - Rèn và gia công đồ sắt.

Khâu đầu phải kể từ bƣớc khai thác quặng. Tiếc rằng, cũng nhƣ với các kim loại màu,

cho tới nay chúng ta chƣa có đủ tài liệu về các mỏ, cách khai thác lấy quặng của ngƣời Đông

Sơn. Chỉ biết rằng ở nƣớc ta, mỏ quặng sắt có nhiều hơn mỏ đồng và thƣờng là mỏ lộ thiên,

dễ khai thác.

Tài liệu về kỹ thuật luyện quặng lấy sắt có phần khả quan hơn. Sau nhiều năm nghiên

cứu điều tra, các nhà khoa học đã phát hiện đƣợc những khu luyện sắt và dựng lại đƣợc quy

trình luyện quặng lấy sắt dựa vào những khảo sát 2 kim bãi luyện quặng Nghi Xuân và Đồng

Mỏm. kết hợp với nghiên cứu thực nghiệm và phân tích các mẫu sắt bằng phƣơng pháp kim

tƣớng học (Hoàng Văn Khoán 1994). Trong những hố thám sát tại Nghi Xuân các nhà khảo

cổ đã phát hiện đƣợc một số lò cổ có những đặc điểm chung : đƣợc dựng trên gò đất cao để

lợi dụng gió Lào mùa hè; lò hình tròn đƣờng kính gần 1,5 m thành lò kè đá hay xỉ sắt rồi trát

kín bằng đất sét trộn rơm, trấu dày 8- 10cm, phần còn lại cao 40-60cm. Tại Đông Mỏm, đã

phát hiện đƣợc vết tích 6 lò cổ Các lò hình tròn có 2 cửa thông gió và 1 cửa thải xỉ, thành lò

đắp bằng đất sét. Nhƣ vậy là gió quặng ở cả 2 địa điểm giống nhau về cơ bản. Nguyên lý vận

hành cụ thể ở các lò này đƣợc phục dựng bằng thực nghiệm với sự tham gia của những ngƣời

thợ luyện sắt thủ công địa phƣơng Quặng sắt đƣợc luyện theo phƣơng pháp hoàn nguyên trực

tiếp : than trộn với quặng theo tỷ lệ 1/1, gió đƣợc thổi vào lò liên tục có khả năng đƣa nhiệt độ trong lò lên từ 10000 C đến 1300 - 14000 C. Nhờ vậy phản ứng hoàn nguyên diễn ra tuần tự:

3Fe2 O3+ C = 2 Fe3 O4+ CO Fe3 O 4 + C = 3 FeO + CO FeO + C = Fe + CO

Sắt thu đƣợc từ phƣơng pháp này thuộc loại sắt xốp có thành phân là 95% Fe. 0.3%

Mn. 0.32% C. Với thành phần này, sắt xốp thu đƣợc có tính dẻo, dễ rèn, dễ gia công

Với cấu trúc lò và phƣơng pháp luyện nhƣ trên ngƣời ta chỉ thu đƣợc hơn 1/2 lƣợng

sắt có trong quặng. Số còn lại lẫn trong xỉ thải. Theo thực nghiệm cứ 1 tạ than trộn với 1 tạ

quặng, luyện trong vòng 5 giờ thì thu đƣợc tảng sắt nặng 31kg.

Ở lƣu vực sông Hồng chƣa tìm thấy địa điểm luyện quặng tƣơng tự Nghi Xuân, Đông

Mỏm. Tại đây mới phát hiện đƣợc những dấu vết lẻ tẻ, nhỏ trong vài địa điểm

80

nhƣ Vinh Quang, Cổ Loa. Ở Vinh Quang, trong lớp đất văn hóa sâu 0,60-0,80m gặp nhiều xỉ

sắt, có đám tập trung dày đặc, gần đó tìm thấy một đoạn ống đất nung đầu dính rỉ sắt (có thể

là một đoạn của ống thổi lửa?).

Khâu rèn và gia công đồ sắt đƣợc các nhà nghiên cứu tìm hiểu thông qua nhiều phân

tích kim tƣớng mẫu di vạt sắt Đông Sơn (Hoàng Văn Khoán 1994).

Đồ sắt Đông Sơn đƣợc chế tạo bằng 2 phƣơng pháp cơ bản : rèn và đúc. Nhiều di vật

sắt nhƣ rìu, dao, kiếm, dao găm, cuốc, dục... còn những dấu vết chứng tỏ chúng đƣợc tạo

bằng phƣơng pháp rèn nóng. Bằng cách này ngƣời thợ không chỉ tạo dáng đồ vật mà nhờ

nhiệt độ và các thao tác đập bằng búa trên đe, đồ vật trở nên cứng rắn hơn, chất lƣợng tốt

hơn. Qua xem xét tình hình các hạt phôrit của các mẫu, các nhà chuyên môn cho rằng thợ rèn

Đông Sơn tỏ ra thông thạo kỹ thuật đùng lửa trong quá trình rèn. Nhiệt độ vừa đủ, thích hợp

làm cho các hạt sắt giữ đƣợc kích thƣớc nhỏ, góp phần làm tăng độ bền cơ học của sản phẩm.

Ngoài kỹ thuật rèn nóng thông dụng, đồ sắt Đông Sơn còn đƣợc rèn bằng phƣơng

pháp rèn thép, phƣơng pháp thẩm thán, gia công ram và tôi lạnh. Chiếc cuốc Đông Lâm đƣợc

chế tạo bằng cách rèn thép. Đây là lối dùng thỏi thép đã tôi lạnh lót vào giữa thỏi thép có

nồng độ cacbon thấp, rồi đƣa vào lò nung nóng, sau đó đập kỹ trên đe cho đến khi 2 thỏi thép

đó kết chặt thành một khối. Một số mẫu lấy từ giáo, dao găm có hiện tƣợng nồng độ cacbon

tập trung cao ở 2 bên rìa lƣỡi, có khá năng chúng đƣợc gia công bằng phƣơng pháp thẩm

thán. Nhờ phƣơng pháp sản xuất này sản phẩm vừa có độ dẻo, khó gãy lại vừa có hai rìa lƣỡi

cứng, sắc, rất phù hợp với tính năng của các loại vũ khí kể trên. Phƣơng pháp thẩm thán đƣợc

sử dụng phổ biến hơn trong kỹ nghệ luyện sắt Sa Huỳnh.

Ngƣời Đông Sơn cũng dùng phƣơng pháp đúc để tạo hình đồ sắt của mình. Chiếc rìu

sắt tìm thấy trong một ngôi mộ ở địa điểm Đông Sơn còn hẳn rõ 2 đƣờng chỉ đúc ở 2 rìa - dấu

vết của khuôn đúc 2 mang. Chiếc cuốc sắt Gò Chiên. Vậy qua phân tích kim tƣớng cho kết

quả thật đáng chú ý. Mẫu có cấu trúc hình bông của tổ chức graphit trên nền tổ chức

xemăngtit và pectit, độ cứng tế vi 128/HV. Mẫu vật sạch, chứng tỏ kim loại đƣợc luyện kỹ.

Những đặc điểm trên cho phép kết luận rằng chiếc cuốc này đƣợc đúc tù gang rèn, loại gang

có tính dẻo cao hơn gang xám thông thƣờng (Hoàng Văn Khoán 1978).

Nhƣ vậy có thể di đến nhận đinh chung rằng, kỹ thuật luyện kim đen Đông Sơn có

đặc điểm là đùng phƣơng pháp hoàn nguyên trực tiếp để luyện quặng lấy sắt, dùng phƣơng

pháp rèn và đúc để tạo dáng và gia công đồ sắt. Những kỹ thuật này còn đƣợc bảo lƣu rất lâu

dài trong nhiều lò luyện và chế tạo đồ sắt thủ công ở nƣớc ta.

81

2. Làm gốm

Đồ gốm xuất hiện sớm nhất ở Việt Nam, theo tài liệu hiện biết, vào khoảng trên dƣới

6000 năm cách ngày nay, nếu nhƣ không tính đến sự có mặt của vài mảnh gốm thô trong tầng

văn hóa Hòa Bình, có tuổi C14 khoảng trên dƣới 10.000 năm cách ngày nay. Từ đó đến lúc ra

đời nền văn hóa của những thế hệ đầu tiên đặt nền móng cho sự hình thành dân tộc Việt - văn

hóa Phùng Nguyên (và tƣơng đƣơng), thời gian không phải quá dài trong lịch sử xã hội

nguyên thủy, nhƣng nghề chế tạo đồ gốm, ở đây đã có những bƣớc tiến rất rõ rệt. Đồ gốm

Phùng Nguyên - Đông Sơn đã đạt đƣợc những tiến bộ kỹ thuật cao hơn hẳn những đồ gốm

tiền bối, tuy rằng nó vẫn chƣa đạt đến sự nhảy vọt về chất, chuyển từ giai đoạn "đồ đất nung"

sang giai đoạn sành sứ. Và nhìn chung nó vẫn bảo lƣu đậm nét truyền thống kỹ thuật tiêu

biểu của cả khu vực Đông Nam Á là chất liệu gốm pha cát, kỹ thuật tạo hình với bàn đập hòn

kê và hoa văn kỹ thuật phổ biến là văn thừng.

Kỹ thuật làm gốm thời chúng ta đang đề cập đến ở đây, về cơ bản là thống nhất,

tƣơng tự nhau giữa các vùng phân bố trong cƣơng vực dựng nƣớc của ngƣời Việt cổ. Đƣơng

nhiên đây là sự thống nhất tƣơng đối, ở từng giai đoạn nhất định chúng ta vẫn thấy những

khác biệt kỹ thuật giữa vùng này với vùng khác thể hiện cụ thể ở những khâu kỹ thuật hay vài

chi tiết kỹ thuật nhất định. Do yêu cầu của công trình khái quát này, chúng tôi sẽ không đi sâu

phân tích, giới thiệu chi tiết những khác biệt địa phƣơng, mã chỉ giới thiệu những đặc điểm

kỹ thuật mang tính chất chung, tiêu biểu cho kỹ nghệ sản xuất đồ gốm của ngƣời Việt cổ.

Những khác biệt địa phƣơng chỉ nhắc tới khi thật cần thiết.

Nếu nhƣ đối với nghề luyện kim, việc đầu tiên và cũng là việc khó khăn nhất trong

nghiên cứu là tìm kiếm mỏ và cách khai thác quặng, thì đối với nghề gốm, vấn đề này lại trở

nên đơn giản. Nguyên liệu chủ yếu làm các loại đồ đất nung, hay nhƣ ta thƣờng gọi là đồ

gốm (để phân biết với đồ sành, sứ) chỉ đơn giản là đất sét mà hầu nhƣ địa phƣơng nào cũng

có. Đồ gốm Phùng Nguyên - Đông Sơn cũng đƣợc làm chủ yếu từ các loại đất sét thƣờng.

Theo sự tạo thành tự nhiên, sét này thƣờng bị lẫn những tạp chất hữu cơ sau khi nung gốm dễ

có màu thẫm. Chúng tôi cho rằng đất gốm trong hệ thống Phùng Nguyên - Đông Sơn không

đƣợc giảm tính dẻo dính, khó tạo hình và định hình bằng những tạp chất hữu cơ một cách chủ

ý. Chất chống dính - chất gầy truyền thống của gốm này chủ yếu là cát. Chúng ta còn chƣa đủ

cứ liệu để phân định giữa thành phần cát vốn có trong đất sét với cát pha vào khi tạo đất gốm,

nhƣng bằng quan sát, phân tích các mẫu gốm khảo cổ, kết hợp so sánh tài liệu dân tộc học, có

thể khẳng định rằng một phần đáng kể cát có mặt trong đất gốm là do đƣợc thợ gốm trộn vào.

Ngoài ra cũng cân nhắc đến sự có mặt của một loại chất gầy vô cơ khác - vỏ sò ốc

82

nghiền vụn, trong kỹ thuật pha chế đất gốm của những ngƣời láng giềng đồng đại với Phùng

Nguyên - những cƣ dân gốc gác ở vùng biển, trong quá trình phát triển đã dần dần hội nhập

với ngƣời Phùng Nguyên để cùng nhau xây dựng một nền văn hóa thống nhất với đỉnh cao

Đông Sơn. Đó trƣớc hết là gốm Hạ Long - Mả Đống - Tràng Kênh, phần nào là gốm Hoa

Lộc. Nhƣng loại chất gầy này nhanh chóng bị loại bỏ về cơ bản trong các giai đoạn sau của

quá trình hội nhập văn hóa kể trên. Những nhƣợc điểm dễ nhận biết của chất gầy vỏ ốc

nghiền vụn làm giảm chất lƣợng đồ gốm là lý do chủ yếu cho sự loại bỏ này.

Mặc dù đã lựa chọn chất gầy là cát, nhƣng thợ gốm Việt cổ, trong suốt quá trình tồn

tại của mình, luôn trăn trở, tìm kiếm một giải pháp tối ƣu khi sử dụng nó để chế đất gốm,

nhằm ngày càng nâng cao chất lƣợng sản phẩm, nghĩa là tìm cách làm cho đồ gốm cứng, chắc

hơn, ít thấm nƣớc hơn mà vẫn giữ đƣợc vẻ thanh thoát, nhẹ nhàng. Đây là một việc làm

không dễ dàng. Có thể thấy rằng thợ gốm Tiền Đông Sơn hầu nhƣ chƣa tìm ra giải pháp thích

hợp. Nhƣ đã biết, gốm Phùng Nguyên nhìn chung đƣợc làm từ loại đất mịn hạt, thậm chí có

loại gốm có xƣơng gốm rất mịn, thành gốm mỏng (trung bình 0,6cm) có khi rất mỏng (không

tới 0,3cm) và thanh nhẹ. Nhƣng gốm Phùng Nguyên lại có độ thấm nƣớc khá cao, gốm bở, dễ

vỡ nát. Kỹ thuật phủ lóp áo bằng chất dát rất mịn hạt và kỹ thuật miết láng ngoài mục đích

làm đẹp, còn nhằm làm cho gốm đỡ thấm nƣớc hơn. Nhƣ vậy là ngƣời thợ Phùng Nguyên

mới chỉ làm cho gốm trở nên thanh thoát, nhẹ nhàng, mà không đạt đƣợc độ cứng rắn và

chống thấm nƣớc cần thiết.

Thợ gốm Đồng Đậu, rồi Gò Mun giải quyết vấn đề bằng cách khác ngƣời Phùng

Nguyên. Họ gia tăng hàm lƣợng cát và phần nào cà kích thƣớc thành phần hạt này. Chúng ta

tháy rõ xu huống thô di của xƣơng gốm, thành gốm dày lên và đồ gốm trở nên nặng nề hơn.

Nhung bù vào, gốm Đồng Đậu, đặc biệt là gốm Gò Mun, trở nên cứng rắn hơn hẳn, độ thấm

nƣớc rõ ràng giảm đi. Tất nhiên vai trò của kỹ thuật nung và độ nung có ảnh hƣởng quyết

định đến độ cứng rắn của đồ gốm (về vấn đề này chúng tôi sẽ nói đến ở những trang sau),

nhung chất liệu gốm cũng có ý nghĩa đáng kể.

Dƣòng nhƣ thợ gốm Đông Sơn (loại hình Đƣờng Cồ) đã phần nào giải quyết đƣợc

mâu thuẫn giữa chất lƣợng thẩm mỹ và chất lƣợng sử dụng nêu trên. Gốm Đƣờng Cồ thƣờng

có màu sáng (trắng mốc, hồng, xám nhạt...), xƣơng gốm mịn và đều hạt hơn gốm Gò Mun,

thành gốm khá mỏng, nhìn chung đồ gốm có đánh vẻ nhẹ nhàng hơn, độ nung gốm khá cao,

xƣơng gốm đanh cứng. Rõ ràng đất gốm Đƣờng Cồ đƣợc lựa chọn và sàng lọc cẩn thận hơn.

Có nhiều khả năng ngƣời Đƣờng Cồ sắp sửa tiếp cận đƣợc với kỹ thuật dùng đất sét trắng.

Nhƣng họ chƣa kịp đi xa hơn theo hƣớng đã chọn thì đã phải dừng lại do những biến động về

kinh tế - xã hội - chính trị nào đó. Bởi vì

83

thay thế cho gốm Đƣờng Cồ là loại gốm đƣợc gọi là gốm Làng Cả (Nguyên Việt 1982) có

chất lƣợng kém hơn. Đây là loại gốm chủ đạo của văn hóa Đông Sơn giai đoạn hậu kỳ.

Chất liệu gốm của hệ thống tƣơng đƣơng Phùng Nguyên - Đồng Sơn ở lƣu vực sông

Mã cũng có những bƣớc đi tuơng tự phần nào, nhƣng chƣa đạt tới chất lƣợng gốm Đƣờng Cồ.

Ngƣời Việt cổ đã biết đến nhiều phƣơng pháp tạo hình đồ gốm và thƣờng sử dụng kết

hợp trong quá trình sản xuất.

Mặc dù chƣa phát hiện đƣợc bàn xoay nhƣng thông qua những tài liệu gián tiếp, các

nhà nghiên cứu cho rằng từ thời Phùng Nguyên bàn xoay đã có mặt trong nghề gốm (Hà Văn

Tấn, Hán Văn Khẩn 1973 ; Phạm Lý Hƣơng. Hà Văn Tấn 1974 ; Hán Văn Khẩn 1982...). Có

nhiều khả năng đồ gốm trải qua khâu tạo hình trên bàn xoay. Bằng kỹ thuật dài cuộn hay con

chạch ngƣời thợ gốm tạo dáng cơ sở cho sản phẩm trên bàn xoay : thân hình ống, đáy bằng.

Điều quan trọng trong khâu này là miết liền thổ các dải đất, vuốt cho thành gốm có độ dầy

cần thiết và đặc biệt là tạo dáng miệng. Vai trò của bàn xoay thòi này phát huy tác dụng chủ

yếu ở khâu tạo dáng miệng, bẻ cổ. Tài liệu dân tộc học cho thấy, phần cổ và miệng bao giờ

cũng đƣợc trau chuốt cẩn thận bằng một miếng giẻ nhúng đẫm nƣớc trong tốc độ quay khá

nhanh của bàn xoay. Điều đáng lƣu ý là bao giờ phần miệng cũng đƣợc hoàn thành trên bàn

xoay. Khâu chỉnh hình, cạo sửa tiếp sau không bao giờ động đến phần miệng nữa. Quy định

bất thành văn này đuợc thợ gốm tuân thủ một cách tự giác. Từ đây chúng ta có cơ sở để hiểu

vì sao đa số đồ gốm Phùng Nguyên - Đông Sơn lại chỉ có thể nhìn đuợc dấu bàn xoay để lại

trên đồ gốm ở phần eo cổ và miệng. Sau khi tạo hình trên bàn xoay, đồ gốm đƣợc đem ra

khỏi mâm quay, để phơi ở nơi thoáng gió, không chịu nắng trực tiếp, cho tới lúc đất hơi se,

thành gốm không quá mềm, dễ sụp, ngƣời thợ bắt tay vào việc tạo dáng. Đây chính là lúc bàn

đập - hòn kê đƣợc sử dụng tích cực nhất. Mọi loại hình đồ gốm, có thân phình hình cầu, đáy

tròn (kể cả những đò gốm có phần thân. để tƣơng tự nhƣng có chân đế đƣợc gắn sau) - đây là

loại hình phổ biến nhất của hệ thống gốm Phùng Nguyên - Đông Sơn, đều đƣợc tạo dáng

bằng phƣơng pháp bàn đập hòn kê này. Bàn đập có thể để trơn, có thể khía rãnh hoặc buộc

dây, nhƣng có lẽ bàn đập rãnh và buộc dây phổ biến hơn. Phƣơng pháp bàn đập -hòn kê

không chỉ có tác dụng tạo dáng thân và đáy tròn mà còn làm tăng chất lƣợng sản phẩm, làm

thành gốm chắc. làm mát những vết rạn nứt. Bàn đập có khía rãnh hay buộc dây còn giúp cho

thành gốm bền chắc hơn, đỡ rạn nứt khi phơi khô và nung chín.

Quan sát đồ gốm Phùng Nguyên - Đông Sơn, chúng tôi chƣa gặp loại đồ gốm nào

chắc chắn đƣợc tạo hình hoàn toàn trên bàn xoay. Đồ gốm nào có lẽ cũng phải trải qua 2

bƣớc tạo hình và tạo dáng - cạo sửa nêu trên. Các lò gốm thủ công làm gốm

84

bằng tay hay bàng bàn xoay tay hiện đại ở nƣớc ta cũng có các bƣớc kỹ thuật tạo hình đồ

gốm nhƣ vậy. Những dụng cụ dùng trong khâu chỉnh hình, cạo sửa có lẽ cũng đƣợc làm chủ

yếu từ tre gỗ nên chẳng thể đƣợc bảo lƣu cho đến ngày nay. Chỉ tại địa điểm Thiệu Dƣơng

mới phát hiện đƣợc hơn 50 hiện vật gốm có thể đƣợc dùng làm bàn đập và bàn xoa để tạo

hình đồ gốm. Nếu dùng nhƣ vậy thì càng có cơ sở để khẳng định vai trò quan trọng của kỹ

thuật bàn đập hòn kê trong nghề gốm của ngƣời Việt cổ.

Ngoài các phƣơng pháp tạo hình đồ gốm cơ bản trên chúng ta còn thấy có mặt cả kỹ

thuật nặn tay, kỹ thuật tạo bằng cách đổ khuôn (Diệp Đình Hoa 1977...)

Nhìn chung, các kỹ thuật tạo hình đồ gốm tù Phùng Nguyên đến Đông Sơn không có

những bƣớc thay đổi lớn. Bàn xoay - kỹ thuật tiên tiến nhất trong giai đoạn này đã xuất hiện

từ giai đoạn đầu, trình độ hoạt động của nó, vai trò của nó hầu nhƣ không thay đổi gì đáng kể

cho đến tận giai đoạn cuối. Kỹ thuật bàn đập - hòn kê phổ biến từ đầu đến cuối. Nhƣng cũng

có thể thấy đƣợc sự tiến bộ về mặt tạo hình thông qua tính đa dạng ngày càng cao của các

kiểu dáng đồ gốm và dáng nhìn nghiên phức tạp, nhiều góc gãy của chúng. Đồ gốm Đông

Sơn có khoảng trên 20 loại và rất nhiều kiểu. So với đồ gốm Tiền Đông Sơn, hình dáng gốm

Đông Sơn có phần đƣợc phức tạp hóa bởi những góc gãy đột ngột, bởi lối tạo phần bụng

phình rộng (kiểu binh hình con tiện chẳng hạn). Gốm Đƣờng cô không có những loại hình

tƣơng tự nhƣ thế; nhƣng lại xuất hiện khá nhiêu loại đồ đựng lớn, đƣờng kính miệng tới 50- 60cm, dung tích có khi đạt tới 50.000cm3 (Trịnh Sinh, Hà Nguyên Điềm 1977)

Để tăng giá trị thẩm mỹ và thực dụng của sản phẩm, thợ gốm Phùng Nguyên -Đông

Sơn thƣờng dùng kỹ thuật tạo lớp áo phủ và trang trí hoa văn. Kỹ thuật áo phủ cả mặt trong,

mặt ngoài đồ gốm gặp phổ biến ở giai đoạn Phùng Nguyên, Đồng Đậu giai đoạn sớm. Áo phủ

đƣợc tạo từ loại nƣớc đất dẻo nhuyễn có thành phần không khác lắm so vói đất xƣơng gốm,

chì khác ở độ mịn. Gốm Phùng Nguyên ở giai đoạn sớm (giai đoạn Gò Bông) có khi còn

đuợc miết đến láng bóng. Kỹ thuật áo phủ cũng đƣợc cƣ dân Đông Sơn vùng sông Mã ƣa

chuộng. Đặc biệt là vào giai đoạn Đông Sơn phát triển, đồ gốm thƣờng đƣợc phủ lớp áo màu

đỏ thổ hoàng. Trong khi đó, chúng tôi có phần nghi ngờ sự có mặt của lớp áo phủ trên gốm

Đồng Đậu giai đoạn muộn, gốm Gò Mun và đặc biệt là tiếng Đƣờng Cồ. Chúng ta không gặp

hiện tƣợng bong lớp áo nhu đã gặp trên gốm có lớp áo kể trên.

Kỹ thuật tạo hoa văn cũng có những bƣớc đi riêng. Đồ gốm Phùng Nguyên đƣợc

trang trí hoa văn phong phú, cầu kỳ và đẹp hơn cả. Càng về sau hoa văn càng trở nên đơn

giản và mất dần những hoa văn mang ý nghĩa trang trí, chỉ còn lại chủ yếu hoa văn kỹ thuật -

văn thừng, văn chải... Kỹ thuật tạo hoa văn cũng theo xu hƣớng đó mà ngày càng trở nên

nghèo nàn đi. Trong giai đoạn Phùng Nguyên có thể gặp nhiều phƣơng.

85

cách tạo hoa văn: vạch bằng que nhọn đầu, ấn chấm dải bằng cách dùng răng lƣợc hãy dùng

con lăn khắc ô vuông nhỏ li ti, chải bằng lƣợc vài răng, ấn lỗ vũm, trổ lổ thủng... chuyển sang

giai đoạn Đồng Đậu, đồ gốm đƣợc trang trí chủ yếu bằng răng lƣợc (tạo ra hoa văn hình

khuông nhạc). Gốm Gò Mun lại trở về với kỹ thuật vẽ hoa văn bằng que nhọn đầu, nhƣng

hoa văn chỉ đƣợc vẽ trên một số loại miệng loe gãy và hình vẽ cũng đơn giản hơn nhiều so

với hoa văn Phùng Nguyên. Đến gốm Đông Sơn thì hoa văn trang trí hầu nhƣ mất hẳn, chỉ

còn lại loại hoa văn kỹ thuật (văn thừng chải trên gốm Đông Sơn vùng sông Mã, văn nhăn tàn

ong, ô trám... trên gốm Đƣờng Cồ). Cũng cần nhớ rằng ở các giai đoạn Tiền Đông Sơn, đồ

gốm có hoa văn kỹ thuật vẫn thuộc loại phổ biến nhất. Chúng xuất hiện trên mặt ngoài đồ

gốm nhờ kỹ thuật bàn đập - hòn kê.

Chất lƣợng đồ gốm phụ thuộc rất lớn vào độ nung và chế độ nung. Đồ gốm Phùng

Nguyên - Đông Sơn đƣợc nung nhƣ thế nào. còn là câu hỏi chƣa đƣợc trả lời thỏa đáng vì

thiếu hẳn những chứng tích lò lung, bãi nung gốm. Những gì đƣợc về vấn đề này bây giờ, chủ

yếu dựa vào những bằng chứng gián tiếp - những đồ gốm cổ những so sánh dân tộc học thực

nghiệm và một vài phân tích bằng các phƣơng pháp thạch học, độ thấm nƣớc... Xin tóm tắt

những nhận định bƣớc đầu về vấn đề này nhƣ sau :

• Gốm Phùng Nguyên (và tƣơng đƣơng) chủ yếu có màu mặt ngoài đỏ, hồng ngả nâu

với những sắc độ khác nhau xƣơng gốm màu đen hoặc xám đen độ nung gốm không cao,

gốm bở, độ thấm nƣớc lớn. Gốm có thể đƣợc nung nóng hố hở, trên phủ rơm củi, thời gian

đốt và ủ tƣơng đối dài. Độ nung đạt khoảng 700°C.

• Gốm Đồ mi Dậu - Gù Mun có sự đổi khác về màu sắc so với gốm Phùng Nguyên.

Chúng chuyển từ đỏ sang xám với sắc độ các nhau xƣơng gốm cơ bản vẫn màu đen. Gốm

cứng và danh mặt hơn, nhất là gốm Gò Mun. Nung trong đống lửa ngoài trời khó tạo ra độ

cứng nhƣ thế. Chúng phải đƣợc nung trong lò rồi, tuy kiểu lò còn đơn giản, nhiên liệu không

cầu kỳ, có thể vẫn là các loại cành lá dễ kiếm quanh nơi cƣ trú. Độ nung gốm Gò Mun đạt khoảng 9000 C.

• Gốm Đông Sơn loại hình Đƣờng Cồ có kỹ thuật nung tiến bộ hơn cả ; mặt ngoài

gốm màu sáng đều, ít thấy hiện tƣợng màu sắc loang lổ, ám khói đen, ngay cả với những đồ

gốm lớn. Gốm chín đều, cứng, chắc, chứng tỏ đƣợc nung trong lò, chế độ nung ổn định, tạo đƣợc nhiệt độ cao. Độ nung dạt xấp xỉ 10000C (Phạm Lý Hƣơng 1994).

Việc chúng ta chƣa tìm thấy lò nung trong các di tích khảo cổ học không phải là

86

lý do để phủ nhận sự có mặt của lò nung gốm (cũng nhƣ lò nung khuôn và nấu chảy kim loại

trong kỹ thuật luyện kim kể trên). Ở nhiều trung tâm văn minh cổ đại thế giới, lò gốm chuyên

dụng đã xuất hiện từ thời đại đá mới. Chẳng hạn, gốm Ngƣỡng Thiền đã đƣợc nung trong lò

và đạt tới nhiệt độ gần 1000° C từ thiên niên kỷ V-IV trƣớc Công nguyên. Chúng ta còn chƣa

rõ có sự ảnh hƣởng nào không của trung tâm sản suất đồ gốm tiên tiến này đến sự phát triển

kỹ thuật sản xuất gốm thời tiền sử và sơ sử Việt Nam, nếu có thì cụ thể ra sao. Cần nghiên

cứu nhiều nữa mới có thể tìm đƣợc lời giải đáp. Đã có những ý kiến bàn luận về vấn đề giao

lƣu kỹ thuật, trong đó có kỹ thuật gốm, nhƣng trọng tâm chú ý lại hƣớng vào khu vực Đông

Nam Á (Hà Văn Tấn 1994). Nhƣ vậy cũng cần tìm kiếm những mối giao lƣu kỹ thuật nung

gốm theo hƣớng đó nữa.

3. Chế tạo thủy tinh.

Ngƣời Việt cổ chỉ biết đến đồ thủy tinh vào giai đoạn Đông Sơn. Nguồn gốc đồ thủy

tinh và nghề thủy tinh ở đây vẫn đang đƣợc các nhà nghiên cứu bàn luận. Có ý kiến gắn sự ra

đời của đồ thủy tinh Đông Sơn với ảnh hƣởng lan tỏa của văn hóa Sa Huỳnh - một trung tâm

văn hóa phát triển cao ở miền Trung, nơi đồ thủy tinh ra đời tƣơng đối sớm và phát triển

mạnh (Nguyễn Trƣờng Kỳ 1983). Có nhiều cơ sở để tin vào nhận định đó. Loại hình đồ thủy

tinh Đông Sơn có nhiều nét tƣơg tự Sa Huỳnh : đồ thủy tinh chủ yếu là đồ trang sức, phổ biến

nhất là hạt chuỗi, vòng tai (hình vành khăn có xẻ rãnh), vòng tay (mặt cắt tam giác. chữ D),

khuyên tai 3 mấu nhọn. Chất liệu, màu sắc thủy tinh Đông Sơn và Sa Huỳnh cơ bản tƣơng tự

nhau. Các nhà nghiên cứu còn lƣu ý đến hiện tƣợng phần lớn loại hình đồ trang sức thủy tinh

gặp ở Đông Sơn có thể tìm thấy nguyên mẫu là những đồ trang sức bằng đá mà ngƣời Tiền

Đông Sơn và Đông Sơn thích dùng (Nguyên Trƣờng Kỳ 1990 ; Phạm Minh Huyền 1993...).

Nhƣ vậy, có thể cho rằng đồ thủy tinh Đông Sơn vừa đƣợc sản xuất tại chỗ dƣới ảnh hƣởng

của Sa Huỳnh, thậm chí có thể có mặt những ngƣời thợ Sa Huỳnh tại chính lò thủy tinh trên

đất Đông Sơn, vừa có thể có nhờ trao đổi sản phẩm với cƣ dân Sa Huỳnh.

Về chất liệu, thủy tinh Đông Sơn đƣợc xếp vào loại thủy tinh kiềm. Một số mẫu thủy

tinh địa điểm Làng Vạc đƣợc phân tích có thành phần hóa học cơ bản nhƣ sau : oxit kali (K2O) có hàm lƣợng cao hơn cả (không kể hàm lƣợng SiO2 - cơ sở của mọi loại thủy tinh) từ 18 - 20%; oxit canxi (CaO) từ 2,8-7%; oxit nhôm (Al2O3) từ 0,6 - 1,3% ; oxit magiê (MgO) từ 0,5- 0,8% ; oxit chì không có hoặc chỉ chiếm tỷ lệ không đáng kể, không phải đƣợc cố ý

đƣa vào hợp chất.

Một số mẫu thủy tinh Bái Tê, Xóm Đình cũng khẳng đinh tính chất thủy tinh kiềm. không có chì của các đồ thủy tinh Đông Sơn. Các oxit CaO, Na2O. Al2O3... chiếm tỷ lệ cao trong các mẫu này.

87

Theo thành phần hoá học và kinh nghiệm chế tạo thủy tinh thủ công, có thể đoán rằng

ngƣời Đông Sơn đã nấu cát trộn tro với tƣ cách là chất phụ gia cân thiết. Việc có mặt oxit chì

(PHO) trong thủy tinh dƣờng nhƣ là một yếu tố tiến bộ. Theo tài liệu phân tích hiện có, loại

thủy tinh có chì ở Việt Nam xuất hiện vào vài thế kỷ đầu Công nguyên, nhƣ thủy tinh Đại

Làng, Trà Kiệu.

Để nấu chảy đƣợc cát và chất phụ gia thành nƣớc thủy tinh cần có lò chuyên dụng.

Đối với loại thủy tinh nhẹ (thủy tinh tro hay sođa) nhƣ thủy tinh Đông Sơn, Sa Huỳnh, chỉ cần có lò đạt tới khoảng 1050-11000C. Hẳn đây không phải việc khó đối với ngƣời Đông Sơn- những ngƣời đã thạo nghề luyện kim, có thể tạo ra lò có nhiệt độ cao hơn thế nhiều.

Theo tài liệu dân tộc học, để đạt tới nhiệt độ đó chỉ cần loại lò mở, cấu trúc đơn giản. Phải

chăng vì vậy mà dấu tích của chúng dễ bị mai một theo thời gian để đến nay các nhà khảo cổ

chƣa tìm ra chúng. Chúng ta cũng chƣa tìm thấy dấu tích nồi nấu thủy tinh.

Với kiểu lò mở và nhiệt độ nhƣ nói trên, chỉ có thể tạo ra đƣợc loại thủy tinh đục, lẫn

nhiều tạp chất, có thể dùng những dụng cụ đơn giản để gia công nó nhƣ gia công đồ đá. Tình

hình này hoàn toàn phù hợp với đồ thủy tinh Đông Sơn. Đồ thủy tinh Đông Sơn không đƣợc

tạo bằng phƣơng pháp thổi mà bằng phƣơng pháp ép khuôn và gia công sau dỡ khuôn

(Nguyễn Trƣờng Kỳ 1990). Dấu vết của kỹ thuật tạo tác này còn để lại trên các vòng tay,

vòng tai, khuyên tai... Đông Sơn. Theo tài liệu dân gian, khuôn có thể đƣợc làm bằng đá hoặc

bằng gỗ. Nói chung khuôn gỗ chóng hỏng nhƣng lại tạo đƣợc sản phẩm có chất lƣợng cao

hơn khuôn đá. Có thể ngƣời Đông Sơn chỉ dùng khuôn gỗ nên đến nay chúng ta không tìm

đƣợc dấu tích khuôn nữa.

Tóm lại, ngƣời Việt cổ biết đến nghề thủy tinh khá muộn và do nhiều nguyên nhân

nghề này không phát triển. Kỹ thuật chế tạo đồ thủy tinh mà ngƣời Đông Sơn học tập đƣợc ở

Sa Huỳnh còn đang ở vào giai đoạn sơ khai, và chƣa có biểu hiện của những bƣớc phát triển

tiếp sau. Nghề thủy tinh thổi chỉ xuất hiện trên đất Việt Nam vào những thế kỷ sau công

nguyên và có thể dƣới ảnh hƣởng của những trung tâm chế tạo thủy tinh Trung Á, Ấn Độ

(Lịch sử Việt Nam 1971)

4. Nghề dệt

Nghề dệt đã có mặt phổ biến ngay từ những giai đoạn Tiền Đông sơn. Dọi xe sợi bằng

đất nung là loại di vật thƣờng gặp trong các di chỉ Phùng Nguyên, Đồng Đậu Gò Mun. Sự

phổ biến đặc biệt của loại văn thừng từ rất mịn đến rất thô trên đồ gốm các giai đoạn văn hóa

này là những bằng chứng cho thấy công việc xe sợi lúc này đã trở thành công việc rất quen

thuộc trong cƣ dân. Sợi xe không phải bao giờ cũng đƣợc dùng vào việc dệt vải, nó có thể chỉ

đƣợc dùng làm dây buộc, để đan lƣới bẫy thú, đánh

88

cá. Nhƣng rất may là các nhà khảo cổ học đã tìm thấy bằng chứng về vải ở thời kỳ này. Đó là

dấu vải in trên cục đất nung phát hiện đƣợc ở một địa điểm thuộc giai đoạn Gò Mun (Hà Văn

Tấn 1973).

Chứng tích về nghề xe sợi, dệt vải ở giai đoạn Đông Sơn phong phú hơn nhiều. Một

mặt, các dọi xe sợi và văn thừng vẫn là những điều luôn gặp, mặt khác, quan trọng hơn là

hàng loạt dấu tích vải tìm đƣợc trong các cuộc khai quật và không ít những bức tƣợng tròn,

những hình vẽ ngƣời trang trí trên đồ đồng với xiêm y đa dạng, khiến chẳng có lý do gì để mà

nghi ngờ vai trò của nghề dệt trong xã hội.

Quy trình dệt vải có thể đƣợc tính từ khâu tìm chế các loại sợi và xe sợi. Sợi vỏ cây

rừng chắc phải là nguyên liệu đầu tiên, ở giai đoạn Phùng Nguyên tìm thấy những bàn đập

bằng đá có khía rãnh, mọi ngƣời đều đồng ý cho chúng đƣợc dùng để đập vỏ cây lấy sợi.

Chúng ta còn chƣa biết ngƣời Việt cổ biết trồng cây cho sợi nhƣ đay gai, bông từ lúc nào,

nhƣng qua thƣ tịch cổ và dấu vải để lại thì biết chắc rằng đến giai đoạn Đông Sơn muộn các

loại sợi đó đã trở thành nguồn nguyên liệu chính của nghề dệt của ngƣời Đông sơn. Đay, gai

là những cây bản địa, chúng có thể đƣợc ngƣời Việt cổ trồng từ rất sớm. Ngƣời Đông Sơn

dùng sợi đay gai tạo ra nhiều loại vài khác nhau và đƣợc sách sử cổ nhắc đến nhƣ một thứ

hàng đặc sản của nƣớc ta thời đó. Cây bông có thể đƣợc trồng muộn hơn một chút nhƣng đến

thời Đông Sơn thì cũng đã trở thành rất quen thuộc với vùng Giao Chỉ. Cửu Chân rồi (theo Di

vật chí, Ngô Lục địa lý chí). Tơ tằm cũng có thể là nguồn nguyên liệu dệt truyền thống của

ngƣời Việt cổ. Thƣ tịch cổ, những truyền thuyết dân gian có đôi chỗ nói tới nghề tầm tang-

đó.

Chúng ta cũng không rõ kỹ thuật chế biến sợi đay, gai, bông ra sao trƣớc khi trở thành

nguyên liệu cho khâu xe sợi. Có lẽ cũng tƣơng tự nhƣ cách thức làm thủ công của đồng bào

dân tộc ít ngƣời ngày nay. Dụng cụ dùng cho công việc này hết sức đơn giản hầu nhƣ không

có loại công cụ chuyên dụng nào, trừ cái trục gỗ dùng để cán bông. Theo các nhà nghiên cứu

thì kiểu dáng cán bông này giống nhƣ cái cán bông tìm thấy ở Ấn Độ trong các di chỉ khảo cổ

thuộc đầu thiên niên kỳ II trƣớc công nguyên. Sợi đay, gai chỉ cần dùng bàn đập đập dập vỏ

cây sau đó tƣớc nhỏ rồi chuyển sang công đoạn xe, còn bông thì cần qua thao tác rút thành

sợi rồi cũng chuyển sang xe.

Ngƣời Phùng Nguyên - Đông Sơn đều xe sợi với sự trợ giúp của quả dọi mà chúng ta

biết rất rõ qua các cuộc khai quật khảo cổ. Chúng ta không gặp quả dọi xe sợi bằng đá, nhƣng

cũng không loại trừ việc dùng quả dọi bằng gỗ hoặc bằng một thứ quả rừng khô nào đó, nhƣ

đã thấy ở một số vùng đồng bào thiểu số. Có lẽ quả dọi bằng gốm là tiện lợi hơn cả vì nó vừa

bền lại vừa dễ chế tạo theo hình dáng và trọng lƣợng cần thiết. Theo các nhà nghiên cứu thì

cũng có sự cải tiến nhất định về hình dáng các dọi gốm từ Phùng Nguyên đến Đông Sơn. Dọi các giai đoạn Tiền Đông Sơn thƣờng da dạng

89

nhƣng đến giai đoạn Đông Sơn thi quả dọi hình chóp - hình dáng có lẽ là hợp lý nhất chiếm

ƣu thế tuyệt đối (Hà Văn Phùng 1982).

Theo những dấu vết vài tìm thấy khá nhiều trong các di tích Đông Sơn. có thể thấy sợi

đƣợc xe thô mảnh, săn lỏng khác nhau. Đa số sợi có cỡ trung bình, bằng sợi chỉ khâu hiện tại.

Sợi xe không thật đều, chỗ mảnh chỗ dày. ,

Vải Đông Sơn, qua dấu vết để lại, đều đƣợc dệt theo kiểu lóng mốt - lối dệt đơn giản

nhất, sợi ngang và sợi dọc lần lƣợt xen nhau. Chúng chỉ khác nhau ở độ thƣa, màu của sợi.

Có khi cả sợi ngang và sợi dọc đƣợc dệt rất sít, làm cho mặt vải đanh, chắc. Mảnh vải Làng Vạc có mật độ sợi 11 x 5/1 cm2 , có khi thƣa hơn, sợi nọ cách sợi kia tới 0,2cm nhƣ mảnh vải ở Châu Can (Lƣu Trần Tiêu 1977). Thƣờng gặp loại vải sợi dọc thƣa hơn sợi ngang. Kiểu dệt

lóng mốt nhƣ thế này không đòi hỏi những khung cửi có cấu trúc phức tạp. Loại khung cửi

đơn sơ dùng để dệt vải gia đình, cho mãi tới gần đây vẫn đƣợc làm chủ yếu bằng gỗ, tre.

Dụng cụ phụ trợ cho việc dệt cũng hết sức đơn giản và cũng làm bằng tre gỗ. Trong một vài

mộ quan tài hình thuyền, còn có mặt dụng cụ đƣợc coi là của nghề dệt: cái gạt sợi bằng mảnh

gỗ dẹt đầu có 2 răng, lõi cuộn sợi bằng tre...

Ở giai đoạn Đông Sơn đã có loại vải khổ rộng, có khả năng đƣợc dệt bằng những

khung cửi có cấu trúc tƣơng đối hoàn chỉnh, kiểu nhƣ những khung cửi phổ biến ở các dân

tộc miền núi hiện đại.

Có những bằng chứng về việc nhuộm vải của ngƣời Việt thời Đông Sơn. Một vài di

tích vải tìm thấy ở Làng Vạc có màu xanh chàm. Còn theo Nam Phương thảo mộc trạng,

ngƣời vùng Cửu Chân dùng cây vang để nhuộm vải thành màu đỏ sẫm.

5. Gia công tre gỗ và nghề sơn

Gia công tre gỗ hẳn là công việc rất gần gũi với cƣ dân Phùng Nguyên - Đông Sơn.

Hầu hết các lĩnh vực đời sống xã hội thời đó đều cần đến tre gỗ. Từ chế tác công cụ, nông cụ

đến làm nhà, săn bắt, đánh cá, dệt vải, làm gốm... đều cần phải biết hoặc phải thông thạo các

kỹ thuật gia công tre gỗ.

Có lẽ các biện pháp kỹ thuật trong nghề này hàng nghìn năm nay vẫn cứ là chặt, đẽo,

gọt, đục, cƣa, bào. Chỉ có công cụ dùng vào việc này là thƣờng thay đổi, cải tiến theo những

bƣớc tiến chung của trình độ văn minh. Hãy xem xét những khía cạnh này qua hệ thống

Phùng Nguyên - Đông Sơn.

Trong bộ sƣu tập di vật Phùng Nguyên các công cụ có thể đƣợc dùng để gia công tre

gỗ chiếm ƣu thế tuyệt đối. Chúng đều đƣợc làm bằng đá cứng (spilite và các đá họ bazan), và

có thể phân thành 3 nhóm chính : rìu (lƣỡi vát cân) bôn (lƣới vát lệch) đục (hình dạng không

khác lắm so với rìu, bôn, nhƣng, thƣờng có kích thƣớc nhỏ và chiều

90

dài lớn hơn hẳn chiều rộng. Những công cụ đá này có phần rìa lƣỡi khá sắc, cứng rắn đủ sức

chặt, đẽo tre gỗ. Qua thực nghiệm có thể khẳng định công dụng thực tế của các loại rìu, bôn,

đục Phùng Nguyên, dù rằng chúng có quy mô nhỏ. Chúng ta đều biết rằng, rìu, bôn, đục

Phùng Nguyên có nhiều kiểu dáng, kích thƣớc khác nhau, phần lƣỡi, phần đốc có độ dày

mỏng khác nhau. Sự khác nhau này thƣờng ứng với những công việc cụ thể. những công

đoạn, thao tác khác nhau của quá trình gia công tre gỗ. Loại rìu chặt cây không nhất thiết phải

thật lớn, yêu cầu quan trọng nhất là phải đƣợc làm từ loại đá cứng mà không ròn, thân rìu

phải dày dặn, chắc khỏe. lƣỡi mài vát cân nhƣng không quá mỏng sẽ dễ bị mẻ. Trong số rìu

Phùng Nguyên có không ít loại rìu đủ tiêu chuẩn kỹ thuật nhƣ thế. Việc đẽo thô trong những

bƣớc đầu chế tác cán công cụ, đẽo cột nhà... cũng cần đến loại rìu đó. Còn khi cần đẽo tinh,

làm nhãn những sản phẩm mộc thì ngƣời ta lại dùng những chiếc rìu thân mong hơn, và sau

đó thì phải dùng lƣỡi bôn - ở đây bôn đóng vai trò của chiếc bào).

Đục đá thuộc loại công cụ khá phổ biến ở Phùng Nguyên. Ngƣời ta dùng đục đá để

đục các lỗ mộng cho các loại sản phẩm của nghề mộc. Tuy ở Phùng Nguyên không tìm thấy

bằng chứng trực tiếp của những đồ gỗ có đục lỗ nhƣ các cột, xà nhà sàn nhƣ đã tìm thấy ờ

thời Đông Sơn. nhƣng qua đó và qua sự có mặt của nhiều chiếc đục đá, chúng ta cũng có thể

nghĩ rằng, truyền thống sử dụng liên kết mộng (mà không phải dùng dây buộc hay nhựa cây

để gắn kết là chính nhƣ ở một số dân tộc khác) trong kiến trúc và trong chế tạo nhiều loại đồ

gỗ rất tài tình của ngƣời Việt không chỉ xuất hiện từ thời Đông Sơn mà từ những giai đoạn

Tiền Đông Sơn.

Công việc gia công đồ tre gỗ Đồng Đậu - Gò Mun trở nên thuận lợi hơn nhờ sự tham

gia của những công cụ đồng nhƣ rìu, đục, dao khắc... Dao khắc là dụng cụ mới, nó ra đời hẳn

nhằm đáp ứng những nhu cầu gia công đồ gỗ cầu kỳ tinh tế hơn. Dù sao thì ở thời Đồng Đậu-

Gò Mun công cụ đá vẫn đóng vai trò chính trong hoạt động sản xuất nói chung, trong nghề

mộc nói riêng. Tình hình chỉ khác đi về chất bắt đầu từ thời Đông Sơn. Công cụ đồng và sắt

đã thay thế cho công cụ đá, làm cho việc gia công đồ tre gỗ đạt hiệu quả hơn rất nhiều, đặc

biệt là trong những công việc đòi hỏi tỷ mỷ, cẩn thận, kỹ thuật cao. Chẳng hạn, việc cƣa xẻ

gỗ thành ván. Ngƣời Đông Sơn đã biết sử dụng cƣa lƣỡi kim loại trong nghề mộc. Cƣa tìm

thấy trong mộ quan tài hình thuyền có hình dáng. cấu trúc rất giống cƣa thủ công hiện nay

vẫn dùng.

Có nhiều cơ sở để khẳng định rằng kỹ thuật gia công đồ gỗ thời Đông Sơn tiến bộ

vƣợt bậc so với các giai đoạn trƣớc đó. Bên cạnh lề thôi làm mộc cũ, đã xuất hiện những

ngƣời thợ mộc chuyên nghiệp, có tay nghề cao và hẳn là không chỉ làm đồ gỗ cho gia đình

mình mà còn làm giúp, làm thuê cho ngƣời khác, chúng ta đã tìm thấy trong một ngôi mộ gần

nhƣ đầy đủ một bộ đồ nghề thợ mộc minh khí gồm cƣa đục,

91

dùi, đột, dùi đinh, đục bằng, đục vũm, vời, khoan (Đinh Văn Kiền, Lê Xuân Diệm 1973).

Xem ra bộ đồ nghề của các bác thợ mộc nông thôn gần đây chẳng khác là mấy. Tay nghề và

kỹ thuật làm mộc tiến bộ của ngƣời Đông Sơn đƣợc chứng minh thực tế qua chứng tích nhà

sàn làm bằng gỗ đục đẽo công phu ở địa điểm Đông Sơn, qua những chiếc thuyền lớn có

chạm khắc trang trí mũi thuyền uốn cong. Đây không còn là những chiếc thuyền độc mộc, chỉ

cần cƣa và rìu với sức ngƣời là xong, mà đã cần đến cả tay nghề lẫn tri thức khoa học của

những ngƣời tạo ra chúng.

Vào thời đại Đông Sơn, chúng ta còn tìm thấy dấu tích của đồ sơn và nghề làm sơn.

Đa số đồ sơn có cốt là đồ gỗ, nên có thể thấy, nghề mộc và nghề sơn "có quan hệ rất khăng

khít. Tất nhiên, vẫn tồn tại cả đồ sơn có cốt là đồ đan. da thú...

Cho tới nay đồ sơn chỉ đƣợc tìm thấy trong các mộ quan tài hình thuyền nhờ diều kiện

bảo lƣu tốt của, loại hình di tích này. Phần lớn đồ sơn có cốt tin, và là những đồ dùng thông

thƣờng nhƣ chén có tai, đĩa, đấu, bát, khay... Mầu sơn khá đa dạng : đỏ, đen, vàng, cánh gián,

nghĩa là đã có đủ mầu gần giống nhƣ các màu của nghệ thuật sơn mài hiện tại. Theo nhận xét

của các nhà nghiên cứu thì kỹ thuật tạo lớp nƣớc sơn cùng ngƣời Đông Sơn nhƣ thế là cao.

Mặc dù bị ngâm lâu đến hơn 2000 năm trong lòng đất ẩm, thậm chí thƣờng xuyên bị ngập

nƣớc, mà lớp sơn không bị bong, xin mà vẫn bóng tƣơi nhƣ mới (Phạm Quốc Quân. Nhã

Long 1991).

Nghề sơn thời Đông Sơn đƣợc biết tƣợng đối cụ thể qua phát hiện bộ đồ nghề sơn tìm

thấy trong mộ quan tài hình thuyền. Bộ dụng cụ này gồm đến 14 hạng mục: bát đựng có tay

cầm, chổi quét và vét sơn hình móng ngựa có nhiều răng nhỏ nhƣ lƣợc bí, cái vầy dùng để

miết và quấy sơn, cái thép một đầu khía răng cƣa, chày để nghiền... (Đinh Văn Kiền, Lê

Xuân Diệm 1973 ; Phạm Quốc Quân 1978). So sánh với bộ đồ nghề sơn thủ công hiện tại, bộ

dụng cụ trên không khác nhiều tuy có phần sơ sài hơn, Ở đây không thấy có những dụng cụ

của cắt để khảm trai hay cái râv sàng vàng bạc hay dụng cụ đánh bóng (Lê Huyên 1991). Có

thể thấy rằng dụng cụ tìm đƣợc ở thời Đông Sơn chủ yếu dùng trong việc chế biến sơn.

Ở trên đã giới thiệu rằng đồ sơn thời Đông Sơn có 4 màu : cánh gián, đỏ, đen, vàng.

Theo kinh nghiệm dân gian, màu cánh gián là màu sơn đẹp nhất, đƣợc ƣa chuộng nhất và

đƣợc chế tạo chỉ bằng cách nguấy kỹ lớp nƣớc sơn có chất lƣợng cao nhất. Sơn đỏ (sơn son)

nhờ pha thêm đầu chẩu hay bột đá thần sa, sơn đen (sơn then) nhờ pha nhựa thông, than củi

hay bột đá đen.

Đồ sơn của thời Đông Sơn đƣợc thấy là rất bền đẹp. Theo kinh nghiệm của nghề sơn,

để có đƣợc chất lƣợng nhƣ vậy, cần phải sơn nhiều lớp, nhiều lần và phải làm hết sức cẩn

thận, tỷ mỷ (Lê Huyên 1991).

92

Theo tài liệu hiện biết, đƣờng nhƣ đồ sơn chỉ phổ biến ở lƣu vực sông Hồng. Đây

cũng là vùng trồng cây sơn chủ yếu của ta. Hiện nay chúng ta cũng chƣa có đủ tài liệu để bàn

về nguồn gốc nghề sơn ở Việt Nam. Cũng có thể trong sự ra đời của nó có ảnh hƣởng không

nhỏ từ phía Trung Quốc, nơi có nghề sơn rất phát đạt.

6. Nghề đan lát

Nghề đan lát có mặt ở khắp mọi nơi trong mọi dân tộc trên thế giới, nhƣng chúng rất

khác nhau ở nguyên liệu dùng để đan, cách thức và kỹ thuật đan. Còn loại hình đồ đan thì cực

kỳ phong phú, đa dạng. Tre nứa là những nguyên liệu lý tƣởng cho nghề này, thuộc giống cây

bản địa của Đông Nam Á, trong đó Việt Nam là một trong những nơi giàu tài nguyên tre nứa

nhất. Chẳng thế mà sử sách cổ đã không ít lần nhắc đến sự phong phú đặc biệt của giống cây

này ở nƣớc ta. Và chính tre nứa đã tạo nên những sắc thái cho nghề đan đồ đan khu vực này.

Chẳng cần nói thì ai cũng đã quá rõ đồ đan và nghề đan phổ biến thế nào trong lao

động sản xuất và đời sống sinh hoạt của mối gia đình ngƣời Việt xƣa nay.

Kỹ thuật và các kiểu đan của ngƣời Phùng Nguyên - Đông Sơn đã bỏ xa lối đan của

những cƣ dân thời đại đá mới mà chúng ta biết đƣợc nhờ dấu vết của nó còn in dấu trên đồ

gốm của thời đại này. Trên mảnh đáy của một số đồ gốm đáy bằng suốt từ thời Phùng

Nguyên đến Đông Sơn còn hằn rõ phên đan kiểu long mốt và long đôi, nan đan khi rộng khi

hẹp. Hai lối đan này là lối đan cơ bản tồn tại gần nhƣ không đổi cho đến tận ngày nay.

Kỹ thuật và công cụ dùng trong nghề này thật đơn giản không có gì đáng bàn. Nhƣng

cũng không phải không bị phân vân khi trong các bộ công cụ thuộc các giai đoạn văn hóa nêu

trên hầu nhƣ không thấy có mặt những con dao - loại dụng cụ gần nhƣ cần duy nhất cho công

việc đan lát. Bằng thực nghiệm dùng rìu đá Phùng Nguyên để gia công đồ đan từ khâu đầu

tiên là chặt cây tre, đến pha nan chẻ lạt vót nan vót sợi mây để cạp miệng rổ rá... Chúng tôi

thấy hoàn toàn yên tâm khi kết luận rằng rìu đá hoàn toàn làm tốt mọi chức năng nhƣ những

con dao, chỉ cần chú ý lụa chọn từng loại rìu, bôn sao cho thích hợp nhất với từng công đoạn

làm việc. Và nhƣ vậy thì đối với rìu đồng, sau đó là sắt, thì không còn gì để nghi ngờ nữa.

Đƣơng nhiên con dao sắt vẫn là dụng cụ lý tƣởng cho những ngƣời làm đồ đan. Rất nhiều khả

năng ở cuối thời kỳ này đã có dao sắt (chúng ta đã biết đến liềm sắt Đông Sơn).

Ngoài tre nứa, ngƣời Việt cổ còn dùng cói trong đan lát. Cây cói chỉ trồng đƣợc ở một

số vùng ngập nƣớc, nó không có tính phổ thông nhƣ tre nứa. Cói chủ yếu dùng để đan chiếu.

Chứng tích về cói đƣợc tìm thấy trong một số mộ Đông Sơn có tục bọc thi thể trong chiếu cói

rồi mới để vào trong quan tài. Chúng ta rất khó biết trƣớc Đông

93

Sơn, ngƣời Việt cổ đã dùng đồ đan bằng cói chƣa, bởi vì đây là loại vật liệu dế bị tiêu hủy.

Chúng ta cũng chƣa đủ tài liệu đổ nói về kỹ thuật trồng, thu hoạch, gia công nguyên

liệu cói ở thời đó. Chỉ thấy dấu vết chiếu cói còn lại cũng tƣơng tự kiểu đan chiếu cói ngày

nay. Kỹ thuật dệt cói nhƣ bây giờ chƣa thể xuất hiện ở thời Đông Sơn, dù là ở dạng sơ khai.

Có lẽ ngƣời ta chỉ dùng lối đan bện đơn giản.

7. Nghề chế tác đá.

Kỹ thuật chế tác đá của ngƣời Việt cổ đã đƣợc đẩy lên đỉnh cao của kỹ nghệ gia công

đá thời tiền sử - sơ sử. Nếu tính đến ý nghĩa, vai trò của nghề chế tạo đồ đá trong nền sản

xuất- kinh tế xã hội nói chung thì chúng ta có thể thấy rõ xu hƣớng ngày càng giảm sút của

nó từ giai đoạn đầu hình thành ngƣời Việt cổ đến giai đoạn phát triển đỉnh cao Đông Sơn.

Đƣơng nhiên sự suy thoái này không gắn với tri thức kỹ thuật và các kỹ thuật cụ thể đƣợc

ngƣời thợ đá sử dụng. Về mặt này, trong những lĩnh vực chế tác đá đã nhất định (chẳng hạn

chế tác đồ trang sức) lại có sự cải tiến kỹ thuật nhất định và hẳn là đã đƣa vào sản xuất những

dụng cụ gia công mới cho hiệu quả cao hơn. Những tài liệu hiện có cho phép các nhà nghiên

cứu tìm hiểu đƣợc khá kỹ các quy trình kỹ thuật và các kỹ thuật cụ thể đã đƣợc tin) đá Việt

cổ sử dụng để sản xuất các loại sản phẩm của mình. Ở đây chúng tôi sẽ chỉ điểm qua những

nét chung nhất về các kỹ thuật đó.

Nếu nhƣ ở trên đã nói về sự phong phú của tƣ liệu để nghiên cứu nghề đá, thì có lẽ

nên mở ngoặc trừ đi phần nào sự thiếu hụt tài liệu để tìm nguồn nguyên liệu và khai thác

nguyên liệu chế tác đá ở vùng lƣu vực sông Hồng. Những loại đá spilite (và một số đá có gốc

basalt) để chế tác công cụ và các loại đá ngọc nephrite và jaspe để chế tạo đồ trang sức, mũi

khoan đá đƣợc dùng phổ biến trong các công xƣởng ở vùng này không có nguồn mỏ tại chỗ

nhƣ trƣờng hợp công xƣởng chế tác công cụ đá bằng đá basalt ở lƣu vực sông Mã. có nhiều

khả năng các loại đá này đƣợc chở từ xa đến, xuôi theo dòng chảy của sông Hồng, sông Đà

và các chi lƣu của chúng. Thậm chí không loại trừ khả năng chúng đƣợc mang đến đây từ

những vùng rất xa, ngoài biên giới Việt Nam ngày nay.

Tài liệu ở khu công xƣởng Đông Khối cho thấy, khi khai thác nguyên liệu đá gốc,

ngƣời thợ đá thời này thƣờng sơ chế tại chỗ, chỉ đem về công xƣởng gia công đồ đá những

phác vật hội đủ những yêu cầu kỹ thuật cho những bƣớc gia công tiếp sau. Nhƣ thế họ đã tiết

kiệm đƣợc rất nhiều công sức chuyên chở nguyên liệu. Kỹ thuật chủ yếu đƣợc sử dụng ở đây

là ghè đẽo trực tiếp.

Kỹ thuật ghè đẽo đƣợc sử dụng rất rộng rãi trong khâu chế tạo phác vật. Mặc dù đây

là kỹ thuật chế tác đá xuất hiện ngay từ buổi đầu hình thành con ngƣời. nhƣng cho

94

đến tận thời đại kim khí này, nó vẫn là khâu kỹ thuật thuộc loại khó nhất, đòi hỏi tay nghề

cao, không phải ai cũng có thể làm đƣợc nhƣ những kỹ thuật cƣa, mài. Và chắc hẳn đây cũng

là khâu kỹ thuật dễ tạo ra phế vật nhất. Chúng ta đã gặp ở công xƣởng Đông Khối vô cùng

nhiều mảnh tƣớc, phác vật thuộc những bƣớc gần nhƣ tiếp nối nhau tiến dần từ phác vật so

chế đến, phác vật hoàn chỉnh, phác vật đã có dấu mài nhiều ít khác nhau... Hẳn là trong số đó

có không ít chiếc đã trở thành phế vật.

Qua phác vật chúng ta cũng có thể đoán định đƣợc rằng, chúng đã đƣợc ghè đẽo bằng

những phƣơng pháp và dụng cụ khác nhau. Cách ghè trực tiếp thƣờng dùng để chế những

phác vật thô ban đầu. Càng về sau, nhát ghè càng phải làm sao tạo ra đƣợc những mảnh tƣớc

mỏng, mặt âm của chúng để lại trên phác vật thật nông. Nhƣ thế khi mài sẽ đỡ tốn công hơn

rất nhiều. Để ghè ra đƣợc những mảnh tƣớc mỏng, nhỏ. ngƣời ta phải sử dụng phƣơng tiện

ghè gián tiếp. Dụng cụ dùng trong khâu kỹ thuật này đơn giản chỉ là những hòn ghè, chày

vồ... bằng đá hoặc bằng gỗ cứng.

Kỹ thuật ghè đẽo đƣợc dùng không chỉ để tạo phác vật công cụ (rìu, bôn, đục...) mà

còn dùng để tạo phác vật đồ trang sức (công xƣơng Hồng Đà)...

Kỹ thuật tu chỉnh ép không phổ biến ở nƣớc ta thời tiền sử, nhƣng không phải là

không có. Những mũi khoan đá ở công xƣởng Bãi Tự. Tràng Kênh đƣợc tạo ra chính bằng kỹ

thuật này. Các nhà nghiên cứu còn tìm thấy tại đây một loại dụng cụ bằng đá có khả năng

dùng làm que ép. Những vẩy tƣớc li ti đƣợc tách ra từ những phác vật mũi khoan bé tý bằng

đá thì jaspe, không khỏi làm chúng ta ngạc nhiên trƣớc kỹ thuật gia công đá của tổ tiên chúng

ta.

Kỹ thuật cƣa có lẽ xuất hiện gần nhƣ đồng thời với kỹ thuật mài. Thực chất, cƣa là

mài liên tục trên một đƣờng thẳng. Kỹ thuật cƣa rất phổ biến trong chế tác công cụ và đồ

trang sức của ngƣời Phùng Nguyên - Đồng Đậu - Gò Mun vùng lƣu vực sông Hồng. Trong

khi đó, ở lƣu vực sông Mã tình hình có phần khác: tại di chỉ xƣởng Đông Khối chúng ta chƣa

tìm thấy dấu vết kỹ thuật cƣa (Hà Văn Tấn 1968). Còn những rìu nhỏ bằng đá quý có dấu cƣa

tìm thấy ở vùng này có thể đƣợc du nhập (Hà Văn Tấn 1994). Đến thời Đông Sơn, nghề đá

chế tác công cụ đã suy giảm hẳn chỉ còn gặp công xƣởng chế tác đồ trang sức tại lƣu vực

sông Mã. Kỹ thuật cƣa hầu nhƣ không đƣợc sử dụng. Ngƣời ta tạo phác vật chủ yếu bằng kỹ

thuật ghè đá thành các hòn đá tròn dẹt, sau đủ mài nhẵn rồi khoan.

Dụng cụ dùng để cƣa là những lƣỡi cƣa đá các cỡ, từ dày đến mỏng đƣợc tạo từ loại

sa thạch cỡ hạt khác nhau, nhƣng nhìn chung không có loại thật thô. Lƣỡi cƣa thƣờng là

những phiến đá dẹt. một bên rìa lƣõi vát chữ V cân. Khi cƣa ngƣời ta phải nhỏ nƣớc vào

đƣờng cƣa và có thể rắc thêm cát để tăng độ mài mòn. Các lƣỡi cƣa

95

thƣờng đƣợc sử dụng rất triệt để. Những lƣỡi cƣa tìm thấy trong các cổngxƣởng thƣờng chỉ

là những mảnh nhỏ, mỏng. Có thể chúng đã đƣợc sử dụng mòn gần hết không còn đủ độ rộng

bản để kẹp vào cán cƣa. Có thể chúng đã bị gãy thành nhiều mảnh trong khi làm việc.

Cũng không loại từ khả năng dùng thanh tre hay dây sợi thực vật kết hợp với cát và

nƣớc để cƣa nhƣ tài liệu dân tộc học đã cho biết.

Kỹ thuật khoan bao gồm 2 loại - khoan lỗ và khoan tách lõi. Cả hai kỹ thuật khoan

đƣợc sử dụng chủ yếu trong việc chế tạo đồ trang sức bằng đá: vòng tay, khuyên tai, hạt

chuỗi...

Kỹ thuật khoan lỗ tƣơng đối đơn giản. Có thể có các phƣơng pháp : khoan cung,

khoan đĩa thậm chí chỉ đơn giản dùng tay dùi hoặc vo bằng hai tay. Trong mộ Đông Sơn

muộn đã tìm thấy một chiếc khoan đĩa có cấu trúc giống khoan đĩa của ngƣời Mƣờng hiện

đại. Dụng cụ dùng để khoan quan trọng nhất là mũi khoan. Tại Bãi Tự, Tràng Kênh chúng ta

đã tìm thấy nhiều mũi khoan bằng đá jaspe. Các nhà thực nghiệm đã sử dụng thành công mũi

khoan này lắp vào thân khoan kiểu khoan đĩa để khoan lổ hạt chuỗi ( Nguyên Kim Dung

1992). Chúng ta chƣa tìm thấy những di vật bằng đồng hoặc bằng sắt có thể tin chắc là những

mũi khoan, nhƣng không thể loại trừ khả năng, ít ra thì cũng là ở giai đoạn Đông Sơn, dùng

mũi khoan kim loại. Vào thời Đông Sơn chúng ta không còn gặp những mũi khoan đá nữa.

Khoan tách lõi là kỹ thuật chủ chốt trong quy trình chế tạo vòng trang sức. Theo tài

liệu đã biết khoan tách lõi có thể thực hiện bằng một số phƣơng pháp khác nhau. Đơn giản và

phổ biến hơn cả là cách khoan cung và khoan đĩa tƣơng tự phƣơng pháp khoan lỗ, chỉ khác ở

chỗ mũi khoan đƣợc thay thế bằng ống khoan. Một phƣơng pháp khác có thể đƣợc sử dụng

là khoan compa biến thế, mũi khoan đƣợc đặt cố định nhờ hệ thống compa đặt cố định bên

ngoài bàn xoay, vật để khoan đƣợc kẹp chặt trên bàn xoay- Khi quay bàn xoay mũi khoan cố

định sẽ vạch trên vật khoan đƣờng rãnh hình tròn (Nguyễn Kim Dung 1992). Chúng ta khó

khẳng định đƣợc thợ đá thời này chọn cách khoan nào, chỉ biết rằng, tay nghề của họ rất cao,

những lõi vòng tìm thấy trong các công xƣởng chế tác đồ trang sức rất tròn đều, kể cả những

lõi vòng dày hơn lcm, thành lõi thƣờng khá thẳng góc, có khi rất thẳng. Nhƣng để tránh tình

trạng rãnh khoan bị chạy xiên, ảnh hƣởng đến chất lƣợng và tốn phí nguyên liệu, ngƣời ta

thƣờng dùng cách khoan từ 2 mặt. Thƣờng sự lệch pha giữa 2 mặt không lớn lắm, chứng tỏ

độ chính xác của dụng cụ và kỹ thuật khoan. Ở thời Đông Sơn hầu nhƣ không thấy lối khoan

từ 2 phía. mặc dù cũng có những lõi vòng dày đến lcm và đƣờng kính chỉ nhỏ tí (khoảng

0,5cm). Điều này không thể giải thích bằng cách nào khác, là ở đây đã xuất hiện dụng cụ

khoan và mũi khoan mới có chất lƣợng hơn, cho phép ngƣời ta khoan liền một mạch.

96

Loại mũi khoan vừa mảnh vừa cứng sắc có lẽ phải đƣợc làm bằng sắt?

Kỹ thuật đục đá ở giai đoạn Tiền Đông Sơn, nếu không tính đến cùng đoạn đục đá

gốc khai thác nguyên liệu, đƣợc sử dụng phổ biến ở công xƣởng chế tạo vòng tay Hồng Đà.

Tại đây ngƣời ta kết hợp giữa khoan tách lõi ở một mặt, mặt kia dùng lối đục dần. Cũng có

khi đục từ cả 2 mặt cho đến thủng mà không dùng đến cách khoan. Cách đầu sẽ đỡ công mài

sửa, nhƣng đảm bảo khoan thành công không phải dễ. Lối đục cả 2 mặt có thể mất không ít

thời gian, nhƣng kỹ thuật đơn giản hơn, dễ thực hiện hơn.

Kỹ thuật đục còn đƣợc dùng để chế tác các khuôn đúc bằng đá. Nhƣ chúng tôi đã giải

thích ở phần luyện kim, từ giai đoạn Đồng Đậu tiến Đông Sơn, gặp nhiều khuôn đúc bằng đá

đáp ứng đƣợc đầy đủ những yêu cầu kỹ thuật. Một phần việc quan trọng, tạo ra chất lƣợng

cao cho vật đúc chính là kỹ thuật dục mặt lõm trên 2 mang khuôn đúc.

Kỹ thuật mài lẽ đƣơng nhiên là thuộc loại kỹ thuật thông dụng số một kể từ lúc con

ngƣời bƣớc vào thời đại đá mới. Kỹ thuật mài đƣợc sử dụng trong chế tác mọi loại đồ đá - từ

công cụ đến đồ trang sức. khuôn đúc... Có nhiều kiểu bàn mài khác nhau : mài bằng hơi lõm

lòng chảo, mài rãnh, mài trong. Mỗi loại bàn mài lại ứng với những thao tác hoặc loại hình

hiện vật cụ thế nhƣ mài thân rìu. mài rìa cạnh rìu. mài lƣỡi, màn thân vòng, mài cạnh trong

vòng...

Độ thô mịn của bản mài cũng đƣợc ngƣời thợ rất quan tâm lựa chọn dùng một cách

hợp lý. Đầu tiên, phức vật vừa tạo xong bằng kỹ thuật ghè đẽo sẽ đƣợc mài phá trên bàn mài

thật thô. Càng đi tiếp những bƣớc mài sau bàn mài càng cần bớt độ thô đi, tiến dần đến bàn

mài mịn, rất mịn, để làm vật mài trở nên nhẵn bóng. Ở cụm công xƣởng chế tác đồ trang sức

Bái Tê đã tìm thấy những mảnh khuyên tai đã đƣợc đánh bóng đến mức đáng ngạc nhiên.

Theo tài liệu dân tộc học. muốn cho vòng đá có màu sắc và độ bóng hấp dẫn, ngƣời thợ phải

nhuộm, nung vòng mộc theo một quy trình kỹ thuật khá cầu kỳ. Phải chăng đồ trang sức Bái

Tê cũng đƣợc gia công theo những bƣớc tƣơng tự (?).

II. CÁC KỸ THUẬT PHI SẢN XUẤT

Có thể kể vào đây tất cả những kỹ thuật phục vụ cho đời sống sinh hoạt vật chất (ăn.

ở, mặc, giao thông vận tải...) và tinh thần (âm nhạc, múa, tôn giáo...) của con ngƣời. Nhƣng ở

đây chúng tôi sẽ không giới thiệu đầy đủ tất cả đƣợc. Vấn đề quá rộng, không thể gói gọn

trong vài trang. Hơn nữa, lúc này chúng tôi chƣa đủ tài liệu. Chúng tôi chỉ có thể trình bày sơ

lƣợc về vài ba kỹ thuật tƣơng đối quan trọng và có phần nào tài liệu để bàn luận.

97

1. Kiến trúc

Có một thực tế là trừ địa điểm Đông Sơn, nơi đã tìm thấy những dấu tích nhà sàn,

hàng trăm di chỉ Phùng Nguyên - Đông Sơn đã đƣợc khai quật, nhƣng chƣa tìm thấy một dấu

tích nhà cửa rõ ràng, chắc chắn nào, ngoài một số dấu vết có thể là lỗ chôn cột hoặc dấu vét

nền đất nện chặt hay những hố rác bếp, những dấu vết than tro ken dày có thể là nơi đun nấu

thƣờng xuyên. Chúng ta có nhiều cơ sở để khẳng định rằng nhà cửa của ngƣời Việt cổ đƣợc

xây dựng hoàn toàn bằng tre gỗ lợp lá, rơm rạ. Đây là loại nhà phù hợp nhất với điều kiện

môi trƣờng nhiệt đới gió mùa nhƣ Việt Nam.

Cấu trúc cụ thể của nhà ngƣời Việt cổ, kỹ thuật xây dựng của họ, chúng ta nhận biết

đƣợc phần nào nhờ vào dấu tích nhà tìm thấy ở địa điểm khảo cổ học Đông Sơn, vào những

hình nhà trang trí trên đồ đồng Đông Sơn và vào một vài điều ghi chép trong sách sử cổ. Qua

những tài liệu nhƣ vậy chúng ta biết rằng, nhà sàn là loại nhà phổ biến hơn cả. Sách Lĩnh

Nam chích quái viết rằng dân ta "bắc gỗ làm nhà để tránh hổ sói". Những ngôi nhà đƣợc

khắc trên trống đồng đều thuộc loại nhà sàn. Vết tích nhà ở địa điểm Đông Sơn cũng là vết

tích nhà sàn. Tại địa điểm này đã tìm thấy nhiều cây cột, đoạn gỗ đƣợc đục đẽo khá cẩn thận

(đẽo vạt, đục mộng, cƣa...). Tại đây còn tìm thấy những hố đất ăn sâu xuống lớp sinh thổ, bố

trí theo trật tự nhất định kiểu nhƣ những lỗ chôn cột nhà sàn. Tìm thấy dấu phên đan có lẽ là

phên lát sàn và thƣng vách nhà.

Nhƣ vậy, chúng ta có thể đƣa ra vài đặc điểm cấu trúc nhà Đông Sơn nhƣ sau : nhà

sàn có những cột cái đƣợc chôn chặt xuống đất. Khung nhà dựng bằng gỗ tròn, cố kết với

nhau bằng kỹ thuật mộng - ngoăm là chính. Sàn nhà đƣợc lát phên đan bằng tre nứa lên trên

hệ thống đầm sàn. Mái nhà lợp bằng những vật liệu nhẹ, dễ kiếm tại địa phƣơng : lá cây (cọ),

cỏ gianh, rơm rạ, có 2 kiểu mái nhà sàn đƣợc khắc họa trên trống đồng là mái dài và mái tròn.

Mái dài đƣợc thể hiện bằng hình thang, cạnh đáy lớn ở trên nóc, cạnh nhỏ ở đuôi rìa mái.

Ngày nay, nhà sàn ngƣời Mƣờng không còn có kiểu mái này. Nhà mái tròn đƣợc phủ kín các

phía thấp xuống đến sàn nhà. hai đầu mái cũng nhô cao. Các nhà nghiên cứu cho rằng hai

kiểu nhà ứng với hai loại công: dụng khác nhau - nhà dài có thể mang ý nghĩa nhà công cộng

- kiểu nhà rông Tây Nguyên ngày nay. Nhà mái tròn - có thể là nơi chứa đựng lƣơng thực.

Đƣơng nhiên, nhà ở thông thƣờng của cƣ dân cũng không khác xa loại nhà công cộng này.

Chắc rằng ngƣời Việt thời Đông Sơn chƣa ở trong những ngôi nhà đất nhƣ sau này.

khi đã chịu ảnh hƣởng mạnh mẽ văn hóa phƣơng Bắc. Nhƣng ngƣời Việt cũng chỉ tiếp thu

yếu tố ngoại lai một cách hạn chế : chỉ bỏ nhà sàn, nhƣng các kỹ thuật dựng nhà, các cấu trúc

cột kèo, vì mái, chất liệu lợp mái, thƣng vách... vẫn làm theo truyền thống cũ, không giống

kiểu nhà ngƣời phƣơng Bắc.

98

Chúng ta còn chƣa có tài liệu nào về các công trình kiến trúc mang tính chất tôn giáo.

Rõ ràng ngƣời Việt cổ không có ý định xây dựng những công trình tôn giáo quy mô. Ngay cả

sau này, những nơi thờ cúng của làng xã chủ yếu vẫn là những "thảo am" làm bằng tranh tre

(Hà Văn Tấn 1993). Thời Đông Sơn càng là vậy. Chúng ta đã khai quật hàng trăm di tích

Tiền Đông Sơn và Đông Sơn, nhƣng chƣa hề gặp một dấu tích nào của đền đài, miếu mạo.

Về dụng cụ dùng để đựng nhà, chúng tôi đã nói tới ở phần nghề mộc: những giai đoạn

đầu, dụng cụ làm mộc chủ yếu làm bằng đá, chủ lực là rìu, bôn, đục, sau đó xuất hiện rìu

đồng, đến Đông Sơn dụng cụ bằng đồng, sắt thay thế gần nhƣ hoàn toàn cho dụng cụ đã. Với

sự ra đời của bộ dụng cụ làm mộc tƣơng đối hoàn chỉnh, tiến bộ, công việc xây dựng nhà cửa

tiến hành đƣợc thuận lợi, hiệu quả hơn.

Vào giai đoạn muộn của văn hóa Đông Sơn xuất hiện một công trình xây dựng đặc

biệt - thành ốc Cổ Loa. Thực ra, theo sách sử cổ, trƣớc thành Cổ Loa còn thấy nói đến thành

Văn Lang của Kinh Dƣơng Vƣơng (?) ở vùng Bạch Hạc - Việt Trì. Nhƣng chúng ta chƣa tìm

thấy dấu vết thành này. Thành Cổ Loa đƣợc đắp hoàn toàn bằng đất. Đất đắp thành đƣợc lấy

ngay ở phía ngoài chân thành. Nhƣ vậy, việc đắp thành đƣợc thực hiện song song vói đào

hào. Tƣờng thành hiện tồn khá quy mô : chân thành rộng đến 20m đƣợc kè đá chống sụt lở,

thành cao từ 3.4m đến 12m. Vòng thành ngƣời và giữa đều lợi dụng những gò đất tự nhiên,

chỉ đắp những đoạn nổi các gò này lại với nhau nên chúng có hình dáng tự nhiên khác vòng

thành trong cùng, có hình chữ nhật rất chỉnh, đƣợc đắp có quy hoạch rõ ràng. Các vòng thành

đều có cửa thành : vòng trong 1 cửa, vùng giữa 4 cửa, vòng ngoài 3 cửa.

Thành Cổ Loa không chỉ lợi dụng những quả gò tự nhiên để tạo tƣờng thành, mà còn

triệt để lợi dụng thế sông. Sông Hoàng bọc lấy một đoạn thành ngoài trở thành hào chắn tự

nhiên, đồng thời cung cấp nƣớc cho hệ thống hào đào của cả 3 vòng thành. Sông Hoàng còn

là con đƣờng giao thông thủy tiện lợi, thông thƣơng giữa thành với bên ngoài (Đỗ Văn Ninh

1983).

Về niên đại và chủ nhân thành Cổ Loa còn những ý kiến khác nhau (Trần Quốc

Vƣợng 1963 ; Phạm Văn Kinh 1969 ; Đỗ Văn Ninh 1983) nhƣng nhìn chung các ý kiến đều

thừaa nhận có một thành Cổ Loa của An Dƣơng Vƣơng. Nó không hẳn là cả 3 vòng thành

còn tồn tại tới nay, nhƣng cũng không khác nhiều về cấu trúc, kỹ thuật đắp thành, vị tri các

vùng thành.

Trong kiến trúc của ngƣời Việt cổ từ thời Đông Sơn trở về trƣớc, chƣa thấy sự có mật

của các vật liệu nào khác ngoài gỗ, tre nứa, lá, cỏ, rơm rạ. Mặc dù ngƣời Việt rất ƣa chuộng

và sản xuất nhiều đồ gốm, nhƣng chƣa có ngành sản xuất vật liệu xây dựng nhƣ ngói, gạch.

Những vật liệu xây dựng này xuất hiện ở ta dƣới ảnh hƣởng của ngƣời Hán.

99

2. Giao thông

Có thể nói ngay rằng, phƣơng tiện giao thông vận tải đƣờng xa quan trọng nhất đối

với ngƣời Việt thời dựng nƣớc là thuyền bè. Hầu hết các di chỉ cƣ trú của họ nằm liền kề

những con sông lớn và chi lƣu của chúng. Ngay cả những di tích mô cổ cũng nằm sát bờ

sông, suối. Trên hoa văn đồ đồng, thuyền là một trong những môtíp chủ đạo và là phƣơng

tiện chuyên chở duy nhất đƣợc thể hiện cụ thể. Loại mộ quan tài hình thuyền phát hiện đƣợc

khá nhiều ở những vùng đồng trũng.

Theo tài liệu khảo cổ học, chúng ta biết đƣợc hai loại thuyền của ngƣời Đông Sơn ( ở

giai đoạn Tiền Đông Sơn chúng ta chƣa tìm thấy dấu tích thuyền). Một là thuyền độc mộc

làm từ một cây gỗ nguyên khoét lòng. Theo cách thông thƣờng, thuyền đƣợc khoét lông nhờ

lửa và rìu. Thuyền đƣợc chèo bằng mái chèo hình dạng giống nhƣ mái chèo hiện đại. Loại

thuyền thứ 2 đƣợc chế tác chắc phức tạp hơn thuyền độc mộc - nó có thể mang tính chất

thuyền lễ nghi vì nó đƣợc dùng trong những lễ hội nhƣ đƣợc miêu tả trên hoa văn đồ đồng

Đông Sơn. Những thuyền này có quy mô lớn hai đầu cong vút lên thuyền có nhiều ngƣời

đang đứng ngồi ở những tƣ thế khác nhau. Thuyền có nhiều ngƣời chèo. Rõ ràng đây không

còn là thuyền độc mộc đơn giản nữa.

Ngoài ra chắc chắn còn những kiểu thuyền đơn giản hơn hoặc những kiểu bè mảng

ghép bằng tre nứa hoặc bằng gỗ cây. Những vật liệu kém bền vững này đã bị thời gian làm

tan biến từ lâu, không thể còn để chúng ta nghiên cứu nữa.

Tất nhiên, so với giao thông đƣờng thủy kể trên. giao thông đƣờng bộ vẫn là phổ biến.

Đi bộ và mang vác. gánh gồng hẳn là cách di chuyển phổ thông nhất. Trong lĩnh vực này có

lẽ không có kỹ thuật gì đáng bàn luận. Tuy theo hoàn cảnh tự nhiên mà ngƣời ta chọn lối

chuyên chở đồ đạc thích hợp: ở vùng núi dùng gùi đan bằng tre nứa đeo sau lƣng, ở vùng

đồng bằng dùng quang gánh... Chúng tôi chƣa có tài liệu nào nói về sự có mặt của một loại xe

kéo hay xe có bánh do ngƣời hoặc súc vật kéo trong thời Đông Sơn hay sớm hơn. Nhƣng

chúng ta lại biết sự việc ngƣời Đông Sơn dùng voi chở hàng qua hoa văn trang trí trên đồ

đồng Đông Sơn. Voi là một trong số súc vật đƣợc thuần dƣỡng sớm ở nƣớc ta và đƣợc sử

dụng khá phổ biến trong đời sống ngƣời Việt cổ. Chẳng thế mà đến những năm đầu công

nguyên Hai Bà Trƣng đã dùng voi đánh trận. Voi là loài vật rất thích hợp với việc đi lại,

chuyên chở trong vùng rừng nhiệt đới. Ngƣời Việt đã hiểu rõ khả năng của voi và sử dụng

chúng.

Các kỹ thuật xoay quanh việc thoa mãn nhu cầu ăn. uống của con ngƣời hết sức đa

dạng và thƣờng mang đậm những sắc thái riêng của từng dân tộc. Ngƣời Việt cổ thịnh hành

những kỹ thuật ăn uống nào, chúng ta thật khó trả lời chính xác đƣợc. Chỉ có thể đƣa ra vài

điều trên cơ sở tài liệu ít ỏi. Chẳng hạn, ngƣời Việt có cách nấu cơm

100

nếp trong ống tre - gọi là cơm lam ăn rất thơm ngon. Nấu chín đồ ăn bằng cách hấp cũng

đƣợc ngƣời Việt sử dụng. Trong văn hóa Tiền Đông Sơn và Đông Sơn tìm thấy những chiếc

chõ gốm dùng vào việc này. Ngƣời Việt đã biết cách nấu rƣợu từ gạo nếp (có chuyện nộp cho

tƣớng Hán cả nghìn hũ rƣợu). Một trong những cách ăn đƣợc ngƣời Việt ƣa thích là làm

mắm, muối dƣa... Nghĩa là các kỹ thuật lên men thức ăn đƣợc ngƣời Việt sử dụng thông thạo

(mắm của ngƣời Việt làm ngon nổi tiếng, đƣợc dùng làm cống phẩm).

Các kỹ thuật săn bắt và đánh cá cũng là những lĩnh vực rất đáng quan tâm nhƣng

chúng ta cũng không có nhiều tài liệu cụ thể để xem xét, cơ bản vẫn phải dựa vào những tài

liệu gián tiếp để suy đoán. Trong săn bắn thì có các kỹ thuật bắn bằng cung tên, nỏ có cách

bẫy bằng các loại bẫy khác nhau. Trong đánh cá thì cách câu (lƣỡi câu đồng xuất hiện sớm và

có mặt khá phổ biến trong cả thời Tiền Đông Sơn và Đông Sơn). Bằng các loại đăng, đó đan

bằng tre nứa và bằng lƣới (chì lƣới tim thấy khá nhiều trong các di tích).

101

CHƢƠNG V: THẾ GIỚI TINH THẦN CỦA NGƢỜI VIỆT CỔ

Văn hóa tinh thần là mặt vô cùng quan trọng của văn hóa dân tộc. Nội dung của văn

hóa tinh thần rất phong phú, đa dạng nên việc phân loại chúng cũng rất phức tạp.

Trƣớc đây khi nói đến văn hóa, ngƣời ta thƣờng chia ra văn hóa vật chất và văn hóa

tinh thần .Văn hóa vật chất gồm các mặt ăn, mặc, ở, đi lại kỹ thuật sản xuất .v.v...Văn hóa

tinh thần bao gồm tin ngƣỡng, lễ hội phong tục tập quán, tƣ duy khoa học, các loại hình nghệ

thuật nhƣ nghệ thuật tạo hình. âm nhạc, múa, sân khấu .v.v...

Thực ra việc phân chia này có tính chất ƣớc lệ, có nhiều hiện tƣợng văn hoá không thể

tách bạch ra là thuộc phạm trù văn hóa vật chất hay văn hóa tinh thần. Chẳng hạn nhƣ mặc.

thƣờng xếp vào phạm trù văn hóa vật chất. Đó là áo quần, khăn khố, dày dép đồ trang sức

v.v...Nhƣng rõ rằng ăn mặc dẹp hay xấu, các kiểu quần áo, các cách trang điểm là thể hiện

con ngƣời có văn hóa hay không? đúng về một khía cạnh nào đó, cũng nằm trong phạm vi

tìm hiểu của văn hóa tinh thần, cái đẹp về kiểu dáng và hình thức trang trí.

Thức ăn và ăn là thuộc phạm trù văn hóa vật chất, song cách nấu nƣớng. cách pha

chế. cách ăn phản ánh cuộc sống tinh thần của từng cộng đồng cƣ dân. Nhà ở là thuộc phạm

trù văn hóa vật chất, song các kiểu nhà và các kiểu trang trí khác nhau lại phản ánh cảm quan

nghệ thuật của con ngƣời ở các khu vực, các thời đại khác nhau.

Việc đi lại cũng nhƣ vậy xe tầu thuyền bè là một mặt của đời sống vật chất. Song các

kiểu xe tầu thuyền bè, các hình thức trang trí trên đó cùng cách thức sử dụng các phƣơng tiện

đi lại lại thể hiện cuộc sống tinh thần của các cộng đồng cƣ dân.

Đơn cử một số ví dụ nhƣ vậy cũng đủ nói lên rằng việc phân loại các yếu tố văn hóa

là không đơn giản, vô cùng phức tạp.

Việc phân loại văn hóa vốn đã phức tạp thì ngày nay các cuộc cách mạng khoa học kỹ

thuật đang tạo nên sự nhất thể hóa mạnh mẽ giữa hai thành tố vật chất và tinh thần của văn

hóa. Với sự ra đời hàng loạt các phƣơng tiện thông tin, báo chí, phát thanh, ghi hình v.v... đã

làm cho khía cạnh vật chất của văn hóa tinh thần tăng lên. Mặt khác, trong văn hóa vật chất

cũng tiếp nhận động lực về tinh thần mạnh mẽ. Hơn nữa, sự xuất hiện những hiện tƣợng văn

hóa xã hội khiến cho việc phân loại văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần đã phức tạp càng

trở nên khó khăn. Chẳng hạn kỹ thuật công nghiệp hay công việc của các nhà kiến trúc tạo

nên những bản đồ án đẹp trên các bản can trong phòng thiết kế là thuộc văn hóa tinh thần hay

văn hóa vật chất.

102

Vì vậy, mà gần đây, có ngƣời phân văn hóa thành văn hóa vật chất, văn hóa tinh thần

và văn hóa xã hội. Thậm chí, có ngƣời lại tách thêm văn hóa ứng xử.

Mặc dù sự phân loại văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần chỉ là tƣơng đối nhƣ thế,

song giữa chúng vẫn có những tiêu chí đủ để chúng ta xem xét theo những hệ thống tƣơng

đối độc lập.

Từ những cơ sở lý luận vừa trình bầy và trong tình hình tƣ liệu hiện nay, chúng tôi

nêu lên một số mặt mà chúng tôi cho rằng nó thể hiện rõ nét cuộc sống tinh thần của ngƣời

Việt cổ. Đó là nghệ thuật tạo hình, âm nhạc, múa, phong tục tín ngƣỡng lễ hội v.v...

Tƣ liệu sử dụng để tìm hiểu đời sống văn hóa tinh thần của ngƣời Việt cổ là tƣ liệu

khảo cổ văn hóa Đông Sơn và các truyền thuyết dân gian về thời đại các vua Hùng Trong

chừng mực nhất định, có sử dụng tƣ liệu văn hoá Tiền Đông Sơn.

Trên những nhận thức nhƣ vậy, chúng ta đi khảo sát các mặt của đời sống tinh thần

ngƣời Việt cổ.

*

* *

Nghệ thật tạo hình của người Việt cổ phát triển rực rỡ và đạt đến đỉnh cao trong giai

đoạn văn hóa Đông Sơn.

Một biểu hiện rõ nét của nghệ thuật tạo hình này đƣợc thể hiện trên nghệ thuật tạo

dáng và trang trí hoa văn.

Đồ gốm cũng nhƣ đồ đồng, đồ đá của ngƣời Việt cổ, từ vũ khí, đồ trang sức đến dụng

cụ sinh hoạt hàng ngày đều có dáng cân đối, hài hòa, chắc chắn. Với dáng tang phình, thân

thẳng, chân choãi đã khiến cho trống Đông Sơn chắc chắn cân đối. Thạp đồng cả nắp đã đƣợc

tạo dáng gọn trong một hình bầu dục làm cho thạp có dáng nghiêm túc, nhƣng thanh thoát.

Đồ gốm thƣờng chia làm 3 phần : miệng loe, thân tròn, chân đế cao nên có dáng thanh thoát

nhẹ nhõm v.v... Có thể nói ngƣời Việt cổ đã tập trung những cảm hứng nghệ thuật của mình

vào nghệ thuật trang trí trên đồ gốm và đồ đồng.

Những ngƣời thợ gốm giai đoạn Phùng Nguyên đã tạo nên những đồ án hình chữ S

phong phú sinh động đối xứng thành băng bao quanh thân gốm. Nhìn vào hoa văn đồ gốm

Tiền Đông Sơn ta có cảm giác phong phú đa dạng mà không rối rắm, đối xứng lặp đi lặp lại

mà không đơn điệu, buồn tẻ. Có thể nói đến lúc này ngƣời Việt cổ đã đạt đến đỉnh cao của

nghệ thuật trang trí gốm.

103

Đến giai đoạn văn hóa Đông Sơn, nghệ thuật trang trí lại đƣợc tập trung thể hiện trên

đồ đồng. Hầu hết đồ đồng lớn đều đƣợc trang trí hoa văn, thậm chí một số vũ khí nhƣ giáo,

dao găm, hộ tâm phiến, rìu chiến cũng đƣợc trang trí rất đẹp.

Đỉnh cao của nghệ thuật trang trí đƣợc thể hiện trên trống và thạp đồng.

Từ những hình kỷ hà đơn giản, đã phổ biến trang trí hình chim, thú, ngƣời và các sinh

hoạt của một cƣ dân nông nghiệp. Đó là cảnh nhà sàn, giã gạo, cảnh đánh trống, đánh chiêng,

ca hát nhảy múa, cảnh bơi trải, cảnh thuyền chiến. Tất cả những cảnh này đều trang trí quanh

một trung tâm là hình mặt trời nhiều tia.

Với kỹ thuật chạm khắc bằng những đƣờng nét cô đọng, với tài quan sát thiên nhiên

và hoạt động thực tiễn của con ngƣời một cách nhạy bén, ngƣời nghệ sĩ lúc bấy giờ đã sáng

tạo nên những bức tranh sinh hoạt của con ngƣời một cách chân thật, sinh động, có tính khái

quát cao.

Hoa văn đồ đồng phong phú đa dạng song đƣợc bố trí một cách hài hòa, hợp lý, cân

đối và nhịp điệu. Tất cả những bố cục hài hòa nhịp điệu đó, có thể nói là rất khoa học, thể

hiện một trình độ thẩm mỹ cao.

Bút pháp của nghệ thuật trang trí trên đồ đồng, mà rõ nét nhất là trên trống đồng là kỹ

thuật khắc vạch bằng những đƣờng nét chuẩn xác, khái quát một cách sinh động các đối

tƣợng mô tả. Các đối tuợng thƣờng đƣợc miêu tả theo lối bổ nghiêng kết hợp giữa tả nghiêng

và tả chính diện. Chẳng hạn tả chim bay ngang có đủ mắt chân, nhƣng cánh chim lại xòe ra

nhƣ nhìn từ trên xuống. Ngoài ra họ còn có thủ pháp tạo hoa văn theo lối "chiếu điện". Chẳng

hạn khắc họa ngôi nhà sàn có mái che xuống sát đất, nhƣng lại nhìn rõ các cảnh sinh hoạt ở

bên trong nhà.

Đáng chú ý là nghệ thuật trang trí của ngƣời Việt cổ bằng một phong cách diễn tả sinh

động, không chú ý đến chi tiết bề ngoài, mà tập trung làm nổi bật những nét cơ bản của đối

tƣợng. Điểm này rất khác với nghệ thuật Điền ở Vân Nam Trung Quốc.

Càng về sau nghệ thuật trang trí của ngƣời Đông Sơn càng có xu hƣớng giảm bớt mô

típ - giảm bớt chi tiết và xu hƣớng cách điệu hóa, nhƣ trên trống Quảng Xƣơng, hình nhà sàn

chỉ còn là một hình thang cân hoặc trên các trống muộn. hình ngƣời múa chỉ còn là văn cò

bay v.v...

Bên cạnh nghệ thuật trang trí, ngƣời Việt cổ cũng đã sáng tác một số tƣợng tròn bằng

đá, bằng đất nung và đồng. Đó là tƣợng ngƣời bằng đá ở Văn Điển, tƣợng đầu ngƣời, tƣợng

bò, lợn, gà... bằng đất nung ở Đồng Đậu, Xóm Rền, tƣợng 4 đôi trai gái, trên nắp tháp đồng

Đào Thịnh, tƣợng ngƣời thổi khèn trên muôi Việt Khê. tƣợng hình voi trên muôi, tƣợng hình

rắn cắn chân voi trên cán dao găm Làng Vạc. Tƣơng phụ

104

nữ trên cán dao găm Núi Nƣa, Đông Sơn, Thủy Nguyên, Hải Phòng, Hà Tây, Thái

Nguyên.v.v...

Phải nói rằng tƣợng của ngƣời Việt cổ chƣa phát hiện đƣợc nhiều. Song tất cả đều thể

hiện một trình độ nghệ thuật cao và mang đầy đủ tính hiện thực. Đáng chú ý là phần lớn các

tƣợng đồng Đông Sơn đều là bộ phận trang trí của một vật nào đó nhƣ : thạp, muôi, dao găm

v.v... làm cho tính nghệ thuật và tính thực dụng gắn chặt với nhau.

Những pho tƣợng này đƣợc thể hiện bởi hình khối khái quát và ƣớc lệ, nhƣng có năng

lực diễn tả rất sinh động. Ngƣời nghệ sĩ chỉ nhấn mạnh những chi tiết cần gửi gắm. cần làm

nổi bật, mà lƣợc bỏ những chi tiết không cần thiết. Trên nắp thạp đồng Đào Thịnh, những cặp

trai gái đƣợc miêu tả những hình khối tròn cùng hình sinh thực khí cho thấy cái bình dị đời

thƣờng thể hiện những ƣớc mơ phồn thực của con ngƣời đƣơng thời.

Một đặc điểm nổi rõ của nghệ thuật tạc tƣợng của ngƣời Việt cổ là không theo xu

hƣớng bề thế, hùng vĩ nhƣ tƣợng cự thạch, tƣợng cổ Ai Cập, mà đi vào những đƣờng nét tinh

tế, những hình ảnh gần gũi với cuộc sống hàng ngày của cƣ dân nông nghiệp

Nhìn chung lại,nghệ thuật tạo hình của ngƣời Việt cổ thời các vua Hùng là một nền

nghệ thuật nhân hậu và nhân bản. Ta không hề gặp trong nghệ thuật Đông Sơn những cảnh

rùng rợn, hãi hùng, những con ngƣời quyết đấu, những con thú cắn xé nhau nhƣ trong nền

nghệ thuật Điền láng giềng.

Nghệ thuật Đông Sơn miêu tả cuộc sốnn lạc quan, bình dị trong các làng xã. Đó là các

hội làng, trai gái ca hát nhảy múa, kể chuyện bên những dàn nhạc trống đồng, cồng chiêng,

giã gạo v.v... Đó là những cuộc đua thuyền trên các dòng sông trong xanh khắp xóm làng đất

Việt.

Trong nghệ thuật Đông Sơn , nghệ thuật đồ họa phát triển lên đến đỉnh cao. Hình nhƣ

đây là loại hình nghệ thuật đƣợc ƣa thích nhất lúc bấy giờ. Những ngƣời thợ gốm, thợ đúc

đồng trong một ý nghĩa nào đó đã trở thành những nghệ sĩ.

Tiêu biểu nhất của nghệ thuật đồ họa đƣợc tập trung thể hiện trên trống đồng. Cho

đến hôm nay khó có thể tìm đƣợc một tác phẩm điêu khắc nào phản ánh đƣợc một nội dung

phong phú, có bố cục chặt chẽ và các đƣờng nét thanh lọc nhƣ sự thể hiện trên các trống

Đông Sơn.

Một đặc trƣng nổi bật của nghệ thuật Việt cổ thời các vua Hùng là tính hiện thực.

Miêu tả cuộc sống hàng ngày một cách chân thực. Chân thực nhƣng không phải là tự nhiên

chủ nghĩa mà cũng không đi vào thần bí khó hiểu.

105

Phần lớn nghệ thuật của văn hóa Đông Sơn đều phản ánh những thông tin mà mọi

ngƣời đều có thể đọc đƣợc. Đó là các hình kỷ hà đơn giản, vòng tròn đồng tâm, hình tam giác

v.v...những ngƣời thổi khèn, những hội đƣa thuyền v.v... Hoàn toàn không thấy những loại

hoa văn biểu tƣợng rối rắm, thần bí, khó hiểu nhƣ các loại hoa văn thao thiết hổ phù của văn

hóa Hán.

Tƣợng đầu ngƣời, tƣợng bò ở Đồng Đậu, tƣợng gà ở Xóm Rền, hình ngƣời trên trống

Đông Sơn v.v... đều rất hiện thực, song khác hẳn với các hình có tính chất mô phỏng nhƣ thật

của nghệ thuật Điền.

*

* *

Âm nhạc múa là lĩnh vực văn hóa tinh thần đóng vai trò quan trọng trong đời sống cƣ

dân nông nghiệp. Ngƣời Việt cổ, một cƣ dân nông nghiệp cũng là những ngƣời sùng trọng

nhạc múa. Trong buổi đầu bình minh của lịch sử, ngƣời Việt cổ đã xem nhạc múa nhƣ một

phƣơng tiện bộc lộ tình cảm , xúc cảm không chỉ của mỗi cá nhân mà gắn liền với các lễ thức

hội hè, niềm vui, nỗi buồn và khát vọng của cả cộng đồng.

Không hiểu ngƣời Việt cổ thời đại các vua Hùng đã biết ghi chép lời ca và giai diệu

chƣa? Câu hỏi đó vẫn chƣa có lời giải đáp. Song dựa vào tƣ liệu khái cổ học, qua nhạc cụ

phát hiện đƣợc cùng các hình khắc trên trống đồng, thạp đồng, chúng ta có thể hình dung

cuộc sống âm nhạc múa của ngƣời Việt cổ lúc bấy giờ.

Trình độ sáng tạo và thƣởng thức âm nhạc của ngƣời Việt thời các vua Hùng đã khá

cao, đã hình thành những sinh hoạt âm nhạc của xã hội.

Nói đến âm nhạc, trƣớc hết phải nói đến nhạc cụ. Nhạc cụ của ngƣời Việt cổ rất

phong phú đa dạng, nhiều chủng loại, kích thƣớc khác nhau. Đặc trƣng nổi bật của nhạc cụ

ngƣời Việt cổ là sự phát triển của nhạc cụ bộ gõ, mà tiêu biểu hơn cả là trống đồng. Trống

đồng đƣợc sử dụng nhƣ một nhạc cụ quan trọng nhất trong các lễ hội, tang lễ và trong các

nghi thức quân sự. Đã có nhiều công trình mô tả chi tiết về trống đồng. Ở đây xin không nhắc

lại nữa, chỉ xin nhấn mạnh thêm là những ngƣời chế tạo trống đồng đã có những hiểu biết độc

đáo về sự cộng hƣởng và truyền âm cùng với nhiều cách đánh trống khác nhau : Đặt trên mặt

nƣớc, đật trên hố đất hoặc treo ngang để phát huy cƣờng độ tiếng trống khiến cho trống đồng

trở thành vừa, là một nhạc cụ vừa là một vật thiêng lúc bấy giờ.

Bên cạnh trống đồng lúc bấy giờ còn có trống da. Đây là loại trống gõ. Mặt trống

bằng da trâu hoặc da ếch. Trống đƣợc để ngang trên hai cọc đỡ. Ngƣời đánh trống đứng hoặc

ngồi, gỗ trống đệm cho trai gái múa hát.

106

Cùng với trống, nhạc cụ bộ gỗ quan trọng khác đƣợc khắc chạm trên mặt trống đồng

là dàn chiêng. Chiêng không đánh lẻ từng chiếc, từng đôi mà đƣợc tổ chức thành dàn. Hình

khắc trên trống Ngọc Lũ cho thấy cành đánh chiêng trong nhà cầu mùa với hai dàn chiêng.

Mỗi dàn có 7 chiêng, trong đó một chiếc ở đầu, còn 6 chiếc xếp thành hai hàng mỗi hàng 3

chiếc. Cấu tạo dàn chiêng này giống với cấu tạo dàn chiêng của ngƣời Ê-Đê ngày nay.

Cũng thuộc nhạc cụ bộ gõ còn có chuông, quà nhạc, sênh, phách.

Hình khắc trên trống đồng cho thấy chuông và quả nhạc do một ngƣời sử dụng cùng

với ngƣời thổi khèn dùng để đệm cho múa có đạo cụ. Chuông nhỏ có đính với bao tay, vòng

bao chân giống nhƣ những lục lạc. Tiếng chuông sẽ vang lên khi nhảy múa.

Ngoài bộ gõ, ngƣời thời Hùng Vƣơng còn sử dụng các nhạc cụ bộ hơi. Tiêu biểu hơn

cả là chiếc khèn mà hình ảnh còn để lại trên chiếc muôi đồng Việt Khê ( Hải Phòng) và tƣợng

ngƣời cõng nhau ở Đông Sơn ( Thanh Hoa). Khèn có hai loại: loại bầu dài nhƣ khèn ngƣời

Mông và loại bầu ngắn nhƣ khèn ngƣời Thái. Sách Lĩnh Biên lục dị của Trung Quốc có chép:

"Ngƣời Giao Chỉ thƣờng lấy quả bầu không cuống , cắm 13 cái ống vào làm cái sinh. Trên

đầu gắn 13 miếng đồng mỏng làm lƣỡi gà để thổi, tiếng nghe trong trẻo và khớp với tiếng

luật lệ ". Rõ ràng đây là chỉ cái khèn. Nhƣ vậy là tƣ liệu khảo cổ cũng nhƣ thu tịch cổ cho

thấy ngƣời Việt thời Hùng Vƣơng ƣa chuộng thổi khèn. Khèn là một loại nhạc cụ hơi phức

hợp cũng dụng khá phong phú, có thể cùng một lúc phát ra một chùm âm thanh vừa có phần

giai điệu vừa có phần đệm. Tất nhiên là ở mức độ đơn giản cho thấy trình độ thầm âm của

ngƣời xƣa đã khá tinh tế. Ngoài khèn ngƣời Việt có thể còn có tiêu là loại sáo dọc, mà hình

ảnh của nó đƣợc ghi nhận tù một hình khắc trên trống Ngọc Lũ.

Với bộ nhạc cụ mà nổi bật là sự phong phú của bộ gõ cùng tiết tấu độc đáo của nó,

ngƣời Việt cổ thời các vua Hùng đã mở đầu cho truyền thống âm nhạc dân tộc trong suốt

hàng ngàn năm lịch sử.

Một đặc trƣng nổi bật của âm nhạc ngƣời Việt cổ thời các vua Hùng là gắn bó rất chặt

chẽ với lao động với thiên nhiên và với tín ngƣỡng. Phần lớn các nhạc cụ hoặc là mô phỏng

hình dáng các công cụ lao động , mô phỏng các động tác lao động : nhƣ trống đồng mô

phỏng chiếc cối giã gạo, động tác đánh trống mô phỏng động tác giã gạo; hoặc sử dụng chất

liệu thiên nhiên ngay tại chỗ nhƣ quả bầu, tre, trúc v.v...Việc sử dụng âm nhạc thƣờng gắn

liền với các lễ nghi nông nghiệp, nghi lễ quân sự, sinh hoạt cộng đồng xóm làng. Hình ảnh

các dàn trống, dàn chiêng trong các buổi lễ còn in trên mặt trống đồng, hình ảnh các cuộc

nhảy múa ca hát giao duyên trai gái v.v... cho thấy sinh hoạt âm nhạc lúc bấy giờ cũng gắn

chặt với các sinh hoạt trong cộng đồng.

107

Âm nhạc của ngƣời Việt thời Hùng Vƣơng có yếu tố tiết tấu rất rõ. Bộ gõ phát triển

đặc biệt là sự mô phỏng tiếng sấm, tiếng chày giã gạo, bộ hơi mô phỏng tiếng gió.

Trong các nhạc cụ của ngƣời Việt thời Hùng Vƣơng, một số nhạc cụ đƣợc thiêng hóa.

Trống cái, trống đực phải chăng là biểu hiện một quan niệm về lƣỡng phân : một cấu trúc văn

hóa rất phổ biến của cƣ dân nông nghiệp Đông Nam Á : âm - dƣơng, đực-cái. sông-núi, trời-

đất v.v...

Trống cái, trống đồng, chiêng là những nhạc cụ có âm hƣởng lớn, có khả năng thông

tin giữa các thành viên trong cộng đồng, hoặc giữa các cộng đồng với nhau, và quan trọng

hơn cả là do có âm lƣợng cao, các nhạc cụ đó còn có khả năng đƣợc sử dụng nhƣ một vật thể

giúp con ngƣời giao tiếp với thiên nhiên, với thần linh, và những nhạc cụ đó đƣợc xem nhƣ là

những vật thiên.

Âm nhạc thời các vua Hùng thƣờng để đệm cho hát múa và thƣờng có sự kết hợp của

cả ba loại hình này. Các nhạc cụ đồng thời có thể trở thành đạo cụ và nhạc công đồng thời là

ngƣời biểu diễn múa.

Thanh nhạc đã ra đời trong đời sống âm nhạc thời Hùng Vƣơng chƣa? Hiện chƣa có

đủ tƣ liệu khẳng định, song có thể đoán định về một số điệu hát câu hò đã ra đời trong quá

trình lao động - làm ruộng, đốn gỗ trong sinh hoạt cộng đồng nhƣ bơi thuyền, lễ hội v.v..

Âm nhạc thời Hùng Vƣơng đã phát triển đến trình độ biết hòa âm. phối khí. Qua việc

dùng khèn , dàn chiêng, có thể đi đến nhận định âm nhạc thời Hùng Vƣơng có khuynh hƣớng

nhiều bè, trong đó việc dùng một hoặc nhiều bè đóng vai trò bè nên khá phổ hiến. Vào thời

này, cùng một lúc, có thể sử dụng với số lƣợng cao, với nhiều âm thanh, âm vực, âm sắc và

cả âm hƣởng nữa, nhiều nhạc cụ khác nhau. Cùng một lúc có thể vang lên những âm thanh

phong phú của cả trống đồng, trống da. cồng chiêng, sênh phách lẫn khèn sáo và cả giọng hát

của con ngƣời.

Tóm lại nhìn vào một nhạc cụ nhƣ chiếc khèn hay toàn bộ nhạc cụ của ngƣời Việt

thời Hùng Vƣơng cũng thấy xu hƣớng nâng cao, làm phong phú cho âm nhạc bằng đồng âm.

hoa âm hay hòa tấu, đánh dấu trình độ phát triển và tƣ duy âm nhạc qua nghệ thuật âm thanh

của ngƣời Việt lúc bây giờ.

Gắn liền với âm nhạc là múa. Ngƣời Việt cổ luôn sống lạc quan, yêu đời, yêu lao

động nên rất thích nhảy múa. Múa là một sinh hoạt không thể thiếu đƣợc trong sinh-hoạt

cộng đồng xóm làng.

Rất may mắn là tƣ liệu về múa thời Hùng Vƣơng đã đƣợc khắc họa phong phú trên

nhiều trống đồng Đông Sơn.

108

Trong bản thống kê trống Đông Sơn loại lớn và loại vừa, có 51 trống có khắc 125

hình ngƣời nhảy múa và hoa văn. Trong đó có 93 hình ngƣời nhảy múa. Nghệ thuật nhảy

múa thời Hùng Vƣơng hết sức phong phú về nội dung và đa dạng về hình thức. Dựa vào nội

dung biểu hiện có ngƣời đã phân loại các hình khắc nhảy múa trên trống thành nhóm múa

biểu diễn, nhóm múa sinh hoạt và nhóm múa nghi lễ tín ngƣỡng. Về hình thức nhảy múa có

ngƣời phân thành múa tay không và múa có đạo cụ. Có ngƣời lại phân ra múa tay không và

múa có hóa trang. Có ngƣời lại cho rằng thời Hùng Vƣơng có tồn tại loại múa võ trang. Qua

đó, có thể thấy sự phong phú của nghệ thuật múa thời Hùng Vƣơng.

Một đặc trƣng nổi bật về múa của ngƣời Việt thời các vua Hùng là gắn chặt với các

sinh hoạt hàng ngày và lễ nghi tín ngƣỡng.

Những động tác, điệu bộ trong sinh hoạt hàng ngày, trong lao động chiến đấu, vui

chơi, hội hè đã có tác động trực tiếp tới nghệ thuật múa đƣơng thời. Những điệu múa này

thƣờng mô phỏng các động tác, các điệu bộ trong cuộc sống hàng ngày phản ánh tinh thần

hăng say lao động, chiến đấu cùng tình đoàn kết cộng đồng của cƣ dân nông nghiệp. Những

điệu múa này mang yếu tố múa tạo hình nhiều hơn là những động tác múa hoàn chỉnh trong

múa biểu diễn. Những điệu múa gắn chặt với sinh hoạt thƣờng gắn liền với đạo cụ, những vật

dụng sinh hoạt hàng ngày nhƣ chày giã gạo, cung tên, giáo mác, khiên, trống đồng, khèn,

thuyền v.v...Kết hợp với đạo cụ để múa khiến các điệu múa càng trở nên gần gũi, thân

thƣơng, gắn bó với con ngƣời về tình cảm cũng nhƣ quan niệm thẩm mỹ. Tên các đạo cụ

thƣờng trở thành tên gọi các điệu múa nhu múa giã gạo, múa trống đồng, múa chèo thuyền

múa khiên v.v...

Nhiều điệu múa gắn với lễ nghi tín ngƣỡng từ trang phục đến nội dung múa. Chẳng

hạn trong nhiều điệu múa đƣợc khắc họa trên trống đồng, ngƣời múa thƣờng đƣợc hóa trang

lông chim phải chăng những điệu múa này có liên quan đến tín ngƣỡng vật tổ của tổ tiên họ.

Lễ hội" cầu mùa ", một lễ hội quan trọng nhất đối với cƣ dân nông nghiệp Việt cổ thời Hùng

Vƣơng, thành phần múa đƣợc khác ghi ở vị trí quan trọng trong hình nhà sàn, nhà lẽ cầu mùa.

Những điệu múa liên quan đến sinh hoạt và lễ nghi tín ngƣỡng của ngƣời Việt cổ đã

đi sâu vào tâm hồn tình cảm ngƣời Việt nhiều thế hệ , mà sau này chúng ta có thể khảo sát

trong nhiều xóm làng ngƣời Việt. Đó là những điệu múa có liên quan đến lễ nghi nông

nghiệp nhƣ các điệu múa đèn, múa chạy đèn, múa chèo thuyền, múa chèo tầu, múa tế thần,

múa ếch, múa trống Ngũ Lôi.v.v...thƣờng đƣợc tổ chức ở vùng đồng bằng Bắc Bộ, Thanh

Hóa trƣớc đây. Nghệ thuật múa của ngƣời Việt cổ thời các vua Hùng đã có những quy luật

quy tắc và mang một phong cách riêng.

109

Múa thời này, có bài là múa biểu diễn đơn một ngƣời, múa đôi hai ngƣời, song phổ

biến hơn cả là múa tập thể đông ngƣời phản ánh cuộc sống của cộng đồng làng xóm.

Múa có loại là múa tay không, có loại có đạo cụ ... song phổ biến hơn cả là múa có

đạo cụ. Múa tay không thƣờng là múa biểu diễn, tập trung vào các động tác múa tay chân,

đầu và thân. Các động tác tay chân lên xuống phải hài hòa, đầu ngực phải uyển chuyển. Nói

chung: múa tay không là biểu hiện trình độ thẩm mỹ của nghệ thuật múa đƣơng thòi. Những

điệu múa đơn, múa tay không đã chú ý tới yếu tố tạo hình điêu khắc, tạo dáng múa ở phân

khu tâm cao.

Trong quá trình phát triển, quá trình sàng lọc, cƣ dân ngƣời Việt thời các vua Hùng đã

sáng tạo nên những quy tắc về cái đẹp trong nghệ thuật múa. Nhƣng quy tắc này tƣơng đối

thổng nhất, ổn định trong các loại hình múa. Đó là các quy tắc có trƣớc có sau, có phải có

trái, có trên có dƣới. Những điệu múa thƣờng bảo đảm quy luật đối xứng và không đối xứng.

Quy luật không đối xứng không phá vỡ hoàn toàn quy luật đối xứng mà giúp cho xem giảm

bớt sự đều đều, đơn giản mà đem lại sự cảm hứng thích thú. Những điệu múa cũng bảo đảm

quy luật tuyến cong lƣợn và quy luật tuyến gấp khúc. Các điệu múa thƣờng đi theo đội hình

vòng tròn ngƣợc chiều kim đồng hồ, vòng tròn thu nhỏ, mở rộng, song quy luật tuyến gấp

khúc đem lại vẻ đẹp khỏe mạnh, chắc chắn sinh động. Thống kê các hình múa trên các trống

đồng thì thấy có tới 112 hình có tuyến múa gấp khúc trong tổng số 145 hình có ngƣời nhảy

múa.

Nhìn chung nghệ thuật múa của ngƣời Việt cổ không những phản ánh cuộc sống lao

động lạc quan yêu đời trong đời sống cộng đồng và gắn liền với các nghi lễ tín ngƣỡng nông

nghiệp mà còn cho thấy trình độ thẩm mỹ cao của họ. Nghệ thuật múa lúc bấy giờ đã tuân thủ

những quy tắc nhất định. đồng thời giàu tính sáng tạo và tính cách điệu.

Múa của ngƣời Việt cổ là sự gắn bó giữa nghệ thuật múa và nghệ thuật tạo hình trên

cơ sở bản chất cái đẹp. Nghệ thuật múa của ngƣời Việt cổ là bắt nguồn từ những hiện thực

hàng ngày nhƣ mặt trời mặt trăng, mây gió, cỏ cây hoa lá, chim nuông, săn bắn, lao động,

chiến đấu v.v...song những hiện thực đấy đã đi vào nghệ thuật múa với tính cách điệu cao, có

tính cách ƣớc lệ.

Nghệ thuật âm nhạc múa có tầm quan trọng trong đời sống tinh thần của ngƣời Việt

cổ. Đó là một xã hội hòa nhịp đƣợc những âm thanh xáo động của trống đồng, cồng chiêng

với dìu dặt của khèn sáo, là sự hài hoa tuyệt diệu giữa sự hài hòa uyển chuyển nhịp múa cầu

mùa vói sụ rung động mạnh mẽ của múa vũ trang.

Nhạc múa thời Hùng Vƣơng đã xây dựng đƣợc một nền tảng vững chắc cho nhạc múa

dân gian Việt Nam của các thời kỳ lịch sử sau này.

110

Phong tục - tín ngưỡng - lễ hội là một mặt hết sức quan trọng trong thế giới tinh thần.

Chính nó đã giữ vai trò liên kết cộng đồng làng xóm để hình thành bản sắc lối sóng truyền

thống của dân tộc, và chính nó đã trỏ thành vũ khí bảo vệ nền văn hóa dân tộc.

Đối với lĩnh vực này, tƣ liệu khảo cổ học dƣờng nhƣ không cung cấp cho chúng ta

đƣợc bao nhiêu thông tin.

May chăng, chỉ có vài dòng tƣ liệu ít ỏi của ngƣời Hán ghi chép về những thế kỷ đầu

công nguyên, cùng một ít tƣ liệu khảo cổ có thể so sánh đối chiếu với nguồn văn hóa dân gian

phong phú đặng góp phần phục dựng mảng văn hóa tinh thần này.

Dƣới đây xin đƣợc trình bầy về phong tục ngƣời Việt cổ qua vòng đời con ngƣời.

Sách Lĩnh nam chích quái chép về thời các vua Hùng "Việc hôn thú giữa nam nữ lấy

gói muối làm đầu" phải chăng đó là hƣơng vị đậm đà đằm thắm của muối là thức ăn cần thiết

hàng ngày của con ngƣời đặc biệt đối với cƣ dân trung du và vùng núi.

Tƣ liệu dân tộc học và sách Trung Quốc viết về hôn nhân ngƣời Việt buổi đầu Công

nguyên cho biết hôn lễ cần hai bƣớc lễ hội và lễ cƣới. Đám cƣới không chỉ là niềm vui chung

của đôi trai gái, của hai gia đinh mà còn là của xóm làng. Lĩnh nam chích quái chép "giết trâu

để làm đồ lễ, lấy cơm nếp để nhập phòng cùng ăn, sau đó mới thành thân". Trong hôn lễ

không thấy tƣ liệu phản ánh công nhận dâu rể của hai gia đình. Nhƣng qua ngày hội trình

diễn đám cƣới Tản Viên và Mỵ Nƣơng ở làng Phù Ninh (Vĩnh Phú) cũng nhƣ phong tục cƣới

xin ở ngƣời Mƣờng, thời cận đại, có thể là kèm với trò vui của ngƣời thân và bạn bè, có tục

ném đất, đổ nƣớc, ném hoa quả vào cô dâu chú rể.

Trong hôn lễ còn có hình thức lễ đồ tế bằng gia súc và ăn cơm chung. Tục cô dâu chú

rể ăn một bát cơm nếp trƣớc lúc nhập phòng ở ngƣời Mƣờng phải chăng là bắt nguồn từ thời

các vua Hùng.

Một phong tục hôn nhân bảo lƣu hết sức lâu dài là sau khi thành hôn cô dâu trở về nhà

cha mẹ đẻ một thòi gian dài.

Có thể nói, ở thời đại Hùng Vƣơng, chế độ hôn nhân phụ quyền đã đƣợc xác lập.

Song trong các cuộc hôn nhân , ngƣời phụ nữ còn có vai trò chủ động nhất định tiêu biểu hơn

cả là câu chuyện Tiên Dung chủ động lấy Chử Đồng Tử.

111

Những tàn dƣ của chế độ hôn nhân mẫu quyền vẫn còn khá dậm nét và nó tồn tại nhƣ

là một phong tục dân tộc.

Về sinh đẻ, Lĩnh Nam chích quái ghi "đẻ con ra lấy lá chuối lút cho nằm". Trƣớc cách

mạng Tháng Tám, ngƣời Mƣờng vẫn thƣờng để trẻ nằm trên mẹt lót lá chuối.

Về việc tang, khi có ngƣời từ giã cõi đời thì tục lệ đầu tiên, Lĩnh nam chích quái cho

biết "Có ngƣời chết thì giã cối làm lệnh , nguôi lân cận nghe tiếng đến cứu". Phải chăng đây

là biểu tƣợng của sự Giao lƣu âm dƣơng, cái chết là sự sống vẫn còn tiếp tục ở một hình thái

khác nhƣ hạt lúa trở thành hạt gạo.

Trong tang lễ, có lẽ đã diễn ra nhiều nghi lễ tiễn biệt ngƣời quá cố, và vai trò của thầy

cúng, thày mo là rất quan trọng, là ngƣời dẫn đƣờng cho ngƣời chết về thế giới bên kia.

Thƣờng thƣờng ngƣời chết còn quàn lại nhà nhiều ngày, có khi có tới hàng tháng trời

lƣu luyến chẳng muốn chia ly. Theo quan niệm, ngƣời chết vẫn có cuộc sống ở thế giới bên

kia , nên ngƣời chết phải mang theo mình các công cụ dụng cụ hàng ngày và cả vũ khí nhƣ

rìu cuốc, giáo mác, nồi niêu vò v.v... dƣới dạng đồ vật thật hoặc thu nhỏ lại . Điển hình hơn

cả là trong ngôi mộ văn hóa Đông Sơn Việt Khê ngƣời chết đƣợc mang theo hàng trăm hiện

vật bằng đồng, trong đó có cả trống đồng.

Táng tục thời Hùng Vƣơng khá đa dạng. Nói chung đều đƣợc chôn trong các huyệt

đất, huyệt hình chữ nhật bình thƣờng hoặc có nhiều cấp để đƣa quan tài xuống sâu. Có mộ

còn đƣợc kè thêm đá hoặc rải thêm mảnh gốm vỡ. Quan tài phần lớn có hình chữ nhật, đóng

bằng đinh hình chữ U, song đáng chú ý là một số mộ đƣợc chôn trong quan tài thân cây khoét

rỗng hình thuyền độc mộc. Loại quan tài hình thuyền này đã phát hiện đƣợc ở vùng chiêm

trũng từ Hải Phòng, Hải Hƣng, Thái Bình, Nam Hà, Hà Tây và Hà Nội cho thấy sự phổ biến

của loại hình này.

Ngoài ra thời Hùng Vƣơng cũng có tục hỏa táng ở một số nơi, song không phổ biến

lắm. Tro than cùng với các tài sản mang theo đƣợc đựng trong các thạp đồng , thố đồng, hoặc

trong các vò gốm đem chôn xa nơi cƣ trú. Thạp đồng Đào Thịnh (Yên Bái), tháp đồng Vạn

Thắng (Vĩnh Phú) là những "bình đựng tro" hỏa táng thời Hùng Vƣơng.

Trẻ em thƣờng đƣợc chôn trong hai chiếc vò úp vào nhau.

Có thể nói hệ thống tang ma của ngƣời Việt thời Hùng Vƣơng bộc lộ thái độ đổi với

ngƣời chết, cái chết và cõi chết. Đó là sự chia tay ân cần, chu đáo, xuất phát từ tình ngƣời chứ

không phải là sự lo lắng, sợ hãi, và cắt đứt mối giây liên hệ. Vì thế nên ngƣời

112

Việt cổ coi trọng ngày chết hơn ngày sinh. Truyền thống này vẫn còn đƣợc bảo lƣu vững

chắc cho đến ngày nay.

Về phong tục ăn uống của ngƣời Việt cổ đã đƣợc Lĩnh nam chích quái ghi vắn tắt rải

rác trong nhiều đoạn "đất sản đƣợc nhiều gạo nếp", Lang Liêu dâng bánh chƣng bánh dày lên

Hùng Vƣơng làm đồ sính lễ", "Lấy ống tre mà thổi cơm", "lấy cầm thú và ba ba làm mắm",

"lấy cốt gạo làm rƣợu", "tục ăn trầu nhuộm răng".

Những ghi chép trên đây hầu hết đã đƣợc tƣ liệu dân tộc học và khảo cổ học chứng

thực . Đó là dấu vết cạo và nếp ở Đông Đậu , Gò Mun, là những mảnh chõ đồ xôi Đồng Đậu

răng ngƣời nhuộm đen trong mộ Châu Can, Việt Khê v.v...

Qua đó có thể thấy là một phong tục ăn uống đã hình thành ổn định với các biểu hiện

ăn cơm nếp, làm bánh chƣng bánh dày, ăn mắm, uống rƣợu, ăn trầu nhuộm răng v.v....đã trở

thành phong cách dân tộc trong sinh hoạt.

Tín ngƣỡng - một mặt quan trọng của cuộc sống tâm linh thời Hùng Vƣơng thật là đa

dạng phức tạp.

Trƣớc hết có thể nhận thấy một tàn dƣ của tín ngƣỡng nguyên thuỷ trong cuộc sống

tinh thần ngƣời Việt cổ là tín ngƣỡng vật tổ.

Trên trống đồng cũng nhƣ tài liệu văn hóa dân gian đều thống nhất phản ánh hai con

vật đóng vai trò chủ yến trong tín ngƣỡng thời bấy giờ là chim và rắn. Sau này hòa nhập với

các con vật khác để trở thành con vật tƣợng trƣng là rồng.

Trên trống đồng, thạp đồng, rìu đồng có từng đoàn ngƣời hóa trang lông chim nháy

múa chèo thuyền cùng những chim nƣớc, rắn nƣớc. Phải chăng hình thức tín ngƣỡng này

đƣợc đặt trong cấu trúc tƣ duy lƣỡng hợp của cƣ dân nông nghiệp.

Cấu trúc lƣỡng hợp này, trong tín ngƣơng của ngƣời Việt cổ, thể hiện điển hình nhất

trong huyền thoại khai sáng Lạc Long Quân lấy Âu Cơ để ra một bọc trăm trứng. 50 con theo

mẹ lên núi, 50 con theo cha xuống biển.

Hoạt động tâm linh chủ yếu của ngƣời Việt cổ là tín ngƣỡng nông nghiệp, mà hạt

nhân là tục thờ mặt trời. Hình mặt trời đƣợc khắc trên mật tất cả trống đồng, đã núi rõ vai trò

chủ đạo của nó.

Quanh trục mặt trời là các hiện tƣợng thiên nhiên liên quan đến mùa màng, thời vụ

nhƣ mây, mƣa, sấm, chớp. Các hiện tƣợng này trong tâm thức ngƣời Việt đã hóa thân thành

các nữ thần Bà Dâu, Bà Dậu, Bã Dim, Bà Tƣớng...

113

Thần nƣớc giữ một vai trò quan trọng trong tín ngƣỡng nông nghiệp. Hàng năm các

làng đều mở hội cầu nƣớc, rƣớc nƣớc và tiễn đƣa nƣớc. Lễ hội đua thuyền ở ta cũng nhƣ ở

nhiều nƣớc Đông Nam Á là lễ tiễn đƣa nƣớc của cƣ dân nông nghiệp.

Cũng trong hệ thống tín ngƣỡng nông nghiệp còn có tín ngƣỡng phồn thực. Tục thờ

sinh thực khí và các biểu hiện của nó chắc chắn đã có từ thời Hùng Vƣơng mà hình ảnh còn

để lại là 4 đôi nam nữ đang tiến hành tính giao trên nắp thạp Đào thịnh -một di vật tiêu biểu

của văn hóa Đông Sơn. Mục đích của tín ngƣỡng phồn thực là cầu mong cho vạn vật sinh sôi

nảy nở, mùa màng tốt tƣơi, cháu con đầy đàn.

Ngoài ra, ngƣời thời Hùng Vƣơng còn có những biểu hiện đặc sắc trong tín ngƣỡng

của mình là thờ cúng tổ tiên và tôn thờ nhân thần.

Vị thần đƣợc tôn vinh trƣớc tiên là Hùng Vƣơng. Sự sùng kính vua Hùng đã thể hiện

ý thức cộng đồng nòi giống sớm hình thành trong tƣ duy ngƣời Việt. Tín ngƣỡng thờ tổ tiên

là một thứ tình cảm tôn giáo đƣợc nhân dân ta rất coi trọng

Cùng với việc sùng kính tổ tiên, ngƣời Việt cổ còn sùng kính các anh hùng văn hóa,

anh hùng trận mạc. Những kỳ tích văn hóa thƣờng đƣợc gắn cho các nữ thần: Bà Tô Cô. Bà

Nhi Nƣơng, bà Đế, bà chúa Mía, chúa Mụ v.v... là những anh hùng văn hóa đƣợc tôn thờ.

Anh hùng trận mạc là các nam thần : Sơn tinh, Thánh Gióng, Cao sơn, Quý Minh ...

Những công trạng của họ đƣợc thần hóa trong các truyền kỳ, mô phỏng lại ở các hội lễ và đời

đời đƣợc hƣơng khói.

Tóm lại, tín ngƣỡng của ngƣời Việt cổ, dù có sự pha trộn và da dạng, song nhìn chung

nó là tín ngƣỡng của cƣ dân nông nghiệp trong không gian văn hóa cấu trúc theo hai nửa

lƣỡng hợp. Trong tâm linh của ngƣời Việt cổ thể hiện một Sự cộng cảm với tự nhiên hơn là

sụ cầu xin các lực lƣợng tự nhiên.

Lễ hội là một phạm trù sinh hoạt văn hóa tinh thần da dạng nhất của con ngƣời thời

các vua Hùng. Đây là một dịp mà mọi ngƣời trong cộng đồng bày tỏ sự cộng cảm rõ rệt nhất

của họ trƣớc thần linh cũng nhƣ giữa họ với nhau.

Lễ hội vừa là một sinh hoạt văn hóa vừa là một hoạt động có tính chất tín ngƣỡng, nó

thấm sâu vào tâm linh từng ngƣời dân trong cộng đồng, đƣợc bảo lƣu, bồi đắp thêm từ thế hệ

này sang thế hệ khác và trở thành một bộ phận quan trọng nhất của văn hóa dân tộc truyền

thống.

Lễ hội của ngƣời Việt cổ đã đƣợc khắc chạm trên mặt trống đồng. Các hình ngƣời,

muông thú, đồ vật trên trống đồng Ngọc Lữ, Hoàng Hạ, Cổ Loa v.v... đều đƣợc

114

khắc họa ở, dạng động, phản ảnh những hoạt động hội hè và lễ thức đã đƣợc định hình cùng

nhƣng phong tục rất xƣa, mà ngày nay dƣờng nhƣ chúng vẫn vận hành dƣới nhiều dạng vẻ ở

xóm làng nhiều vùng khác nhau, nhƣ vang bóng, nhƣ tàn dƣ, nhƣ mô phỏng . Vì vậy những

ghi chép về lễ hội các làng xã ngƣời Việt trƣớc đây ở trung du và đồng bằng Bắc Bộ có giá trị

nhƣ những bổ sung, những tài liệu tham khảo quý giá.

Qua các hình khác trên mật trống đồng, có thể thấy rõ hình ảnh lễ hội của cƣ dân nông

nghiệp. Đó là lễ đánh trống đồng, đánh cồng chiêng, lễ hội cầu mƣa mà biểu hiện trên tang

trống là tục bơi trải và hiến tế, là trò giã cối, là tục hát kể chuyện trong các buổi hội làng v.v...

Các lễ hội đã đƣợc thực hiện với ca hát, âm nhạc và nhảy múa. Chúng cùng với những

nghi lễ tạo thành một thể thống nhất của lễ hội.

Tƣ liệu phản ánh trên mặt trống đồng là chân thực, đồng đại với lễ hội thời Hùng

Vƣơng. Song đó mới chỉ là cái chất, cái cốt lõi của lễ hội. Còn cái nghi thức diễn tiến của lễ

hội, các câu ca, điệu nhảy diễn ra nhƣ thế nào, ở đâu, nghĩa là muốn có đƣợc một bức tranh

đầy đủ về hội của ngƣời Việt cổ phải tìm hiểu văn hóa dân gian vẫn còn dữ lại đƣợc những

mảnh vỡ vụn, những âm hƣởng còn dội lại cho ta hiểu thêm về lễ hội xƣa. Đó là tƣ liệu đƣợc

giữ gìn trong các hội làng.

Hội làng là sinh hoạt văn hóa, tôn giáo, nghệ thuật của cộng đồng làng xã, xuất phát

tù nhu cầu cuộc sống, sự tồn tại và phát triển cho cả làng, sự bình yên cho từng cá nhân, niềm

hạnh phúc cho từng gia đình, vững mạnh cho từng dòng họ, sự sinh sôi của gia súc, sự bội

thu của mùa màng mà từ bao đời quy tụ niềm mơ ƣớc chung vào 4 chữ "nhân khang vật

thịnh".

Ý nghĩa của hội làng lớn lao bao trùm nhƣ vậy nên ngay từ thời Hùng Vƣơng, hội

làng vẫn là lễ hội quan trọng nhất trong sinh hoạt làng xã lúc bấy giờ.

Cƣ dân Việt cổ là cƣ dân nông nghiệp. Hội làng của ngƣời Việt cổ cũng mang sắc thái

của hội làng cƣ dân nông nghiệp, song tùy theo đời sống kinh tế xã hội của mỗi vùng mà hội

làng cũng có những nội dung khác nhau. Cƣ dân chuyên về nghề nông tiến hành lễ hội không

giống với cƣ dân làm nghề đánh cá hoặc săn bắn. Nhiều khi hai làng gần nhau, do nghề

nghiệp khác nhau nên hội làng đƣợc tiến hành với các nội dung khác hẳn nhau. Trái lại có

trƣờng hợp, do có mói quan hệ về nguồn gốc, cùng nghề nghiệp mà 3, 4 làng cùng làm hội

làng chung.

Làng xã ngƣời Việt đã hình thành từ rất lâu. Trong quá trinh phát triển, từ thành phần

cƣ dân cho đến nghề nghiệp đã khác trƣớc rất nhiều, nhƣng hội làng thƣờng có

115

nội dung gợi về nguồn cội, cảm ơn tiền bối, do đó qua hội làng ta có dịp tìm hiểu nhiều nét

sinh hoạt của tổ tiên.

Không thể nào kể hết hội làng của ngƣời Việt chỉ xin đơn cử một vài lễ hội có tính

chất tiêu biểu, qua đó có thể gạn lọc ra đƣợc lớp văn hóa lễ hội của ngƣời Việt thời các vua

Hùng dựng nƣớc.

Đối với các cƣ dân sống bằng nghề săn bắn có trò múa săn bắn trong lễ hội mở cửa

rừng ở xã Phú Lộc, Vĩnh Phú vào dịp dầu xuân. Đáng chú ý là sau nghi thức tế lễ có cuộc

múa "ngƣời thợ săn", con trai đóng khố cầm cung tên làm thiện xạ, con gái mặc váy ngắn.

yếm, không mặc áo làm con mồi. Cuộc quần vũ thể hiện cuộc săn lớn của cả cộng đồng. Gần

hết tuần hƣơng từng đôi trai gái tỏa ra múa với nhau theo yêu cầu giao phối của nghi lễ gọi là

"gà phủ", phải chăng tục cúng cùng tên và điệu múa săn "gà phủ" cùng nghi thức đƣợc tiến

hành trong đêm trong lễ hội mở cửa rừng này là một trong những, sinh hoạt của nghề săn bắn

nguyên thủy.

Đối với cƣ dân sống bằng nghề chài lƣới đánh cá có tục lệ đánh cá thờ vào dịp đầu

năm mới. Tục lệ này còn thấy ở Tứ Xã, Đào Xá (Vĩnh Phú ),Đền Và ( Sơn Tây) và cả ở

ngƣời Mƣờng xóm Lá huyện Thanh Sơn. Hội đánh cá đƣợc thực hiện ở làng cá thời trong

những ngày nhất đinh. Cá đánh đƣợc chọn con to nhất cúng thần, còn lại chia đều cho mọi

nhà gọi là "lộc thánh". Hội đánh cá cũng là hội cầu ngƣ. có nơi cá đánh đƣợc tập trung lại để

tất cả mọi ngƣời không kể giàu nghèo, già trẻ, trai gái cùng làm lễ cỗ cá gỏi ở tại nơi đánh cá

và cúng thần linh .

Rất có thể lễ hội đánh cá thờ này ra đời từ rất sớm, cũng nhƣ tục lễ mở cửa rừng,

trƣớc cả thời Hùng Vƣơng và tồn tại cho mãi tới thời cận đại nhƣ là một tàn dƣ.

Ngƣời Việt cổ là cƣ dân nông nghiệp, nên có nhiều lễ hội nông nghiệp đƣợc tổ chức

quanh năm, mà tập trung hơn cả là hội làng.

Lễ hạ điền là nghi thức đầu tiên trong hệ thống lễ cầu mùa nghề nông. Đây là lễ mở

đầu vòng cây trồng của một vòng thời gian của cộng đồng. Nghi lễ vừa có tính ma thuật vừa

có tính tƣợng trƣng, phù hợp với đầu óc của ngƣời nông dân. Lễ hội này đi liền với tín

ngƣỡng thờ mẹ lúa và tín ngƣỡng phồn thực với nhiều hình thức biểu hiện khác nhau. Lễ

xuống đồng ra đời từ rất sớm, cho đến thời Tiền Lê và thời Lý không những bách tính mà nhà

vua cũng làm lễ xuống đồng ở ruộng tịch điền.

Lễ xuống đồng phổ biến ở nhiều làng Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ . Giữa các làng lễ

đƣợc tiến hành không khác nhau bao nhiêu. Dƣới đây chúng tôi xin đơn cử lễ xuống đồng ở

làng Quốc Tƣớc, huyện Yên Lập (Vĩnh Phú ) làm ví dụ. Lễ đƣợc cử hành vào ngày 1 tháng 5

âm lịch tại thửa ruộng trƣớc đình. Ruộng đã đƣợc cày bừa làm sạch cỏ

116

từ mấy hôm trƣớc. Sáng tinh mơ chủ lễ nổi ba hồi chiêng trống gọi lễ. Bốn giáp mang lễ gồm

xôi gà , trầu rƣợu và một bó mạ tới. Bốn giáp chọn 4 phụ nữ trung niên làm "mẹ lúa". Chủ lễ

cùng quan viên, chức sắc trong làng sau lúc làm lễ mật khẩn trong đình thì ra ruộng. Họ đúng

trên bờ , mặt hƣớng về phƣơng đông lễ khấn. Chủ lễ nói lớn:

Cầu cho

Cây mạ làng ta tốt nhƣ dâu

Lúa tốt bằng đầu

Bông cái bằng bông lau

Bông con bằng bông sậy

Tiếng đồn đã dậy

Hỏi lúa làng nào

Thì nói:

"Lúa Đông Lạc ta nhé".

Bốn "mẹ lúa" đồng thanh đáp "ở " rồi lội xuống ruộng cấy. Ngƣời làng đứng quanh

bờ xem cấy vừa hò reo, chiêng trống đổ đồn cho tới lúc cấy xong. Chủ lễ mang một cây nêu

là một cành tre trổ dù lá ngọn , trên đó có những vòng nan nứa đan lồng nhau. Một hồi trống

thu quân báo lễ đã xong. Chủ lễ đem mâm xôi gà cho từng phụ nữ đem về hƣờng lộc lấy

khƣớc. Đó là cỗ dâng mẹ lúa.

Ở làng Cổ Tích xã Hy Cƣơng, huyện Phong Châu (Vĩnh Phú) lễ hạ điền đƣợc tổ chức

ngày 25 tháng 5 âm lịch, ông chúa đồng mặc áo đỏ, chít khăn đỏ cấy lúa. Khi chúa đồng cấy

xong thì ngƣời ta lấy bùn nhão tung ƣớt ngƣời chúa đồng với ý cầu mong mƣa thuận gió hòa.

Sau lẽ xuống đồng ngƣời nông dân còn tiến hành nhiều nghi lễ khác cầu mong cho

mùa màng tốt tƣơi, phong đăng hòa cốc nhƣ tục rƣớc ma, tục ruốc cây lúa thần v.v..., nhƣng

đặc sắc nhất có lẽ là trò đúc tƣợng.

Trò đúc tƣợng, đƣợc diễn trong hội xuân làng Phù Liễu huyện Tam Nông (Vĩnh Phú).

Một số tráng đinh khỏe mạnh không tang chế, cởi trần, đóng khố, mình trát đày bùn, ngồi

giữa sân đình. Ngƣời ta choàng lên đầu môi ngƣời một mảnh chiếu và một bó mạ. Những

ngƣời khác đóng vai cầm các dụng cụ nghề nghiệp thử làm đóng vai sĩ nông, công, thƣơng

vừa biểu diễn vừa pha trò xung quanh. Đây là hình thức cầu phúc thân nghề nông, biểu lộ

lòng khao khát một vụ mùa tƣơi tốt cho cả làng. "Cây lúa khổng lồ" này đƣợc tạo đúc nên bởi

bó mạ thực cùng với sức mạnh của sinh lực và ý chí con ngƣời.

117

Khi cấy xong, làm cỏ rồi, đợi lúa chín, gặt hái rồi, thông thƣờng ngƣời ta làm lễ

thƣợng điền.

Lễ thượng điền là lễ lên đồng cắt hái. Đây là lễ cúng cơm mới. Ngƣời ta thƣờng làm

lễ thƣợng điền vào ngày 10 tháng 10 âm lịch. Xã Phƣợng Lâm (Vĩnh Phú) và các xã vùng

đồng chiêm thƣờng làm lễ cúng cơm mới vào vụ gặt tháng 5. Ở An Thái tổ chức lễ thƣợng

điền vào ngày 25 tháng 10 âm lịch, ngƣời ta làm bánh hòn (bánh bột), sửa cỗ cúng thần nông,

thần đất và ăn mừng.

Là cƣ dân nông nghiệp trồng lúa nƣớc, ngƣời Việt cổ trong quá trình lao động, đã

nhận thức đƣợc tầm quan trọng của nƣớc trong đời sống hàng ngày và trong sản xuất nông

nghiệp "nhất nƣớc, nhì phân, tam cần, tứ giống". Những tổng kết của ngƣời Việt cổ đã trở

thành thành quả kỹ thuật nông nghiệp , trong đó nƣớc chiếm vị trí quan trọng số một. Ngƣời

nông dân Việt Nam xƣa đã phải" trông trời trông đất trông mây, trông mƣa, trông gió, trông

ngày trông đêm" và sau mỗi cái "trông" ấy, một vị thần lại ẩn hiện đâu đó, làm ngƣời nông

dân phải bận tâm tìm cách kêu cầu : Thần trời, thần đất, thần nƣớc. thần gió .v.v. Từ những

nhận thức đó, ngƣời Việt cổ đã phổ biến các nghi lễ cầu mƣa.

Lễ hội cầu mưa được diễn ra với nhiều hình thức khác nhau. Đó là lễ rƣớc nƣớc hình

thành nhƣ một hành động thiêng liêng, thƣờng đƣợc tổ chức trọng thể vào đầu hội làng- các

hình thức nhƣ múa rồng, té nƣớc, chèo thuyền khuấy động nƣớc, nhƣng tiêu biểu hơn cả là

các cuộc bơi trải. Bơi trải là một biểu hiện đặc sắc của nghi thức cầu mƣa. Ngày nay bởi trải

là tiếp nối truyền thống thƣợng võ của tổ tiên, song nội dung ban đầu là một lễ thức sinh ra từ

nhu cầu nông nghiệp, nghi thức cầu mƣa. Độc đáo nhƣ hội đua thuyền ở Đào Xá (Vĩnh Phú),

chỉ có hai thuyền đƣợc định danh là thuyền đực và thuyên cái. Thuyên đực đính hình con

chim ở mũi thuyền, thuyền cái đính hình cá ở mũi thuyền. Âm (cái, cá) bên dƣới nƣớc và

dƣơng (đực, chim) bên trên khô, hòa hợp, khuấy đọng nƣớc (đánh thức thủy thần) để cầu

nƣớc. Hội đua thuyền ở các làng quê khác đơn giản hơn, số thuyền đông hơn song về nguyên

ủy, nó cũng có ý nghĩa nhƣ hội đua thuyền Đào Xá.

Cùng với ý nghĩa cầu mƣa, còn có lễ hội đào vũ khi gặp trời hạn hán. Làng phải đứng

ra mời đám lập đàn cầu mƣa. Những ngƣời thi hành các hoạt động tôn giáo và nhân dân ra

sức cầu mƣa cứu lúa.

Một đặc trƣng đáng lƣu ý là các lễ hội của ngƣời Việt cổ luôn gắn bó chặt chẽ với tín

ngƣỡng nông nghiệp, trong đó tín ngƣỡng phồn thực đƣợc thể hiện rất đậm nét với rất nhiều

hình thức.

118

Lễ cầu dinh phổ biến ở Vĩnh Phú, trò "cƣớp dò" xã Gia Thanh ( Vĩnh Phú), trò "cầu

tằm cƣớp kén ở hội làng Dị Nậu (Vĩnh Phú) với hình ảnh cái "nõ", "chày kình" (dƣơng vật)

và "kén mo dai" (âm vật) đƣợc trình diễn trong lễ hội với ý nghĩa phồn thực, cầu mong cây

cối sinh sôi, cháu con đông đúc. Chúng tôi xin kể lại việc cầu lễ nõ nƣờng ở xã Đức Bác, Lập

Thạch (Vĩnh Phú). Trong mái đình khói hƣơng nghi ngút, một trai thanh tân, một gái trinh nữ

đứng hai bên hƣơng án. Trai cầm chày, gái cầm chiếc mo nang rạch giữa, to bằng bàn tay,

chủ lễ đứng giữa lễ thánh xong, anh con trai hỏi:" cái sự làm sao ?" Cô gái đáp : "Cái sự làm

vầy". Vừa đối đáp, hai ngƣời vừa đƣa hai vật chọi vào nhau 3 lần. Nhƣ vậy họ nghĩ rằng,

trƣớc sự chứng giám của thần, năm đó làng sẽ sinh nhiều con trai, làm ân thịnh vƣợng.

Ở hội Chen làng Nga Hoàng (Hà Bắc), có cuộc "ngƣời chen ngƣời" diễn ra tại miếu

thờ Linh Sơn Mị Nƣơng và trong cuộc rƣớc thần đi vòng quanh làng, mọi ngƣời chen nhau

theo lứa tuổi, già với già, trẻ với trẻ, cƣời đùa vui vẻ, mọi ngƣời vây quanh đám lễ cầu xin :

Gái mạnh khỏe, trai dẻo dai; của đồng làm ra, của nhà làm nên. Qua đó, ta có thể thấy tín

ngƣơng phồn thực, cầu mùa nghề nông đƣợc biểu hiện với mọi dáng vẻ của nó. Từ biểu

tƣợng đơn lẻ (một hình sinh thực khí) đến đủ đôi (cả âm vật và dƣơng vật) từ chạm vào nhau

(ngƣời chen ngƣời) đến xuyên vào nhau (cầu lễ nõ nƣờng). Đi xa hơn cả là lễ hội làng La ở

Hà Nội:

Bơi Đăm, rƣớc Gia, hội Thầy

Vui thì vui thật chẳng thấy rã La.

Hội làng La kết thúc vào nửa đêm bằng một trò đặc sắc. Đèn nến trong ngoài đình đột

nhiên tắt phụt. Giữa trời khuya tối nhƣ bƣng ấy, chiêng trống bỗng vang lên chậm rãi nhƣ để

trai gái, ông già bà cả mặc sức hành động.

Từ những hình khác trên trống đồng Đông Sơn đến Hội làng, tuy chặng đƣờng dài

hàng mấy ngàn năm, các giá trị tƣ tƣởng của thời đại các vua Hùng vẫn tồn tại trong dòng

chảy hội lễ.

Qua đó có thể thấy lễ hội đã giữ vai trò liên kết cộng đồng làng xóm để hình thành

bản sắc, lối sóng, truyền thống của một dân tộc. Do vậy, có thể nói, trên một ý nghĩa nào đó

lễ hội đã trở thành một vũ khí bảo vệ truyền thống văn hóa dân tộc.

119

1. Từ ngày dựng nƣớc, tổ tiên ta đã hình thành một phong cách văn hóa, một bản lĩnh

sống riêng.

Dƣới thời phong kiến, cũng nhƣ trƣớc cách mạng Tháng Tám, đã có những nét chấm

phá phác thảo về đời sống tinh thần của ngƣời Việt cổ. Ngày nay, tuy còn nhiều vấn đề chƣa

đƣợc sáng tỏ, phải tiếp tục tìm tòi nhƣ chữ viết, luật lệ, pháp lệnh v.v... song qua các tƣ liệu

về nghệ thuật tạo hình, vẽ âm nhạc múa, về phong tục, tín ngƣỡng, về lễ hội, qua những hiếu

biết và xúc cảm về cơ học, hình học, về tính đối xứng, tính hài hòa, về tính hiện thực và cách

điệu v.v... cho thấy một cuộc sống tinh thần phong phú lạc quan, văn minh cao đẹp của ngƣời

Việt cổ.

Bức tranh về thế giới tinh thần của ngƣời Việt cổ tuy chƣa thật hoàn thiện song không

phải là những mảng lỗ chỗ, xuất hiện một cách bất thần, ngẫu nhiên, mà nó đã dần dần định

hình một phong cách, một bản lĩnh, có những đặc trƣng riêng.

Trƣớc hết đó là một nền văn hóa gắn bó với cuộc sống sông nƣớc một nền văn minh

nông nghiệp trồng lúa nƣớc. Đặc trƣng này đƣợc thể hiện trên những đƣờng nét hoa văn sóng

nƣớc, những cuộc bơi trải trên các dòng sông đƣợc khắc họa trên trống đồng, thạp đồng.

Song tập trung hơn cả là những lễ hội nông nghiệp đƣợc khắc trên trống đồng và bảo lƣu

trong các hội làng ngƣời Việt. Đó là hình ảnh mặt trời chính giữa mặt trống đồng, nắp thạp có

liên quan đến tục thờ mặt trời, một tín ngƣỡng quan trọng nhất của cƣ dân nông nghiệp.

Ngƣời Việt cổ cũng đã gửi gắm những ƣớc vọng, những mong muốn cầu mong cho mùa

màng đƣợc phong đăng, làm ăn thuận hòa, con cháu đông vui trong những lễ nghi của tín

ngƣỡng phồn thực. Đó là cảnh chồng nụ, chồng hoa, hát đối đáp nam nữ, cảnh giã gạo, cảnh

đánh trống đồng cầu mƣa, hình sinh thực khí nam nữ trên mặt trống đồng, và chân thực hơn

cả là cảnh 4 đôi nam nữ đang giao hợp trên nắp thạp đồng Đào Thịnh.

Mặt trời, mây mƣa, sấm chớp từ chỗ là những lực lƣợng thần bí, đáng sợ, đã trở thành

thần tƣợng có ảnh hƣởng quyết định đến sản xuất nông nghiệp trong thế giới tinh thần của

ngƣời Việt cổ.

Đời sống tinh thần của ngƣờii Việt cổ mang đậm sắc thái của một nền văn minh xóm

làng, qua những hình khắc họa trên trống đồng, thạp đồng có thể nhìn thấy một cuộc sống vui

tƣơi, lạc quan, lành mạnh của cộng đồng làng xóm. Đó là cảnh bơi trải, cảnh hát kể chuyện,

hát đối đáp nam nữ, nhảy múa hóa trang trong ngày hội làng. Hội làng vừa là ngày hội mùa,

vừa là ngày hội vui chơi giải trí, trong đó có sự giáo dục về tinh thân cộng đồng, ý thức giống

nòi, tổ tiên, tinh thần thƣợng võ, đồng thời nó còn là dịp để trai gái tìm hiểu lứa đôi. Chính từ

những sinh hoạt hội làng này mà tinh thần tập thể cộng đồng của ngƣời Việt ngày một củng

cố.

120

Nội dung của cuộc sống văn hóa tinh thần dân tộc lúc bấy giờ vô cùng phong phú, lạc

quan, mang tính nhân văn cao đẹp. Khác vói các nền văn hóa khác cùng thời ngƣời Việt cổ

không sáng tạo nên một nền văn hóa mang tính chất thần bí với những bộ mặt dữ dội, mà đã

xây dựng nên một nền văn hóa mà tính nhân văn thấm sâu vào trong mọi tác phẩm nghệ thuật

cũng nhƣ trong toàn bộ đời sống tinh thần. Ở đâu chúng ta cũng bắt gặp những tác phẩm tạo

hình với một phong cách hiện thực độc đáo trình độ thẩm mỹ cao, ở đâu cũng vang lên những

âm thanh rộn ràng, dìu dặt của những giọng hát, những bản hợp tấu đã đạt đến trình độ hợp

âm đặc sắc, cùng những điệu múa hóa trang uyển chuyển và cả một hệ thống thần thoại sử thi

anh hùng đƣợc sáng tạo để ca ngợi những con ngƣời đã có công đấu tranh dựng nƣớc và giữ

nƣớc, mƣu cầu hạnh phúc cho con ngƣời.

2. Một nền văn hóa đặc sắc trong nền cảnh Đông Nam Á

Những đặc trƣng văn hóa của ngƣời Việt cổ còn đƣợc bảo lƣu trong đời sống của

nhiều dân tộc trên đất nƣớc ta nhƣ Mƣờng, Tày, Thái và đến tận các dân tộc Tây Nguyên. Có

nhiều điều còn đƣợc thể hiện đậm nét hơn ở ngƣời Việt. Chẳng hạn ngôi nhà sàn, tục chôn

ngƣời chết trong thân cây khoét rỗng hầu nhƣ không còn tồn tại trong ngƣời Việt, song vẫn

phổ biến trong nhiều dân tộc ít ngƣời khác. Phải chăng nhà sàn, mộ quan tài thân cây khoét

rỗng của ngƣời Mƣờng , ngƣời Thái v.v...cũng là bắt nguồn từ ngôi nhà sàn mái cong, và

quan tài hình thuyền của cƣ dân văn hóa Đông Sơn. Tục đánh trống đồng, cồng chiêng, gia

cối đúng trong các lễ hội ở ngƣời Mƣờng và nhiều dân tộc khác phải chăng cũng đã có nguồn

gốc từ những hình khắc họa trên trống Đông Sơn. Những chiếc khăn Mèo, Thái và Tây

Nguyên, chúng ta cũng đã bắt gặp trên các tƣợng ở Việt Khê, Thanh Hóa. Những bộ váy áo,

thắt lƣng phụ nữ nhiều dân tộc miền núi nƣớc ta rất gần gũi với trang phục tƣợng phụ nữ trên

cán dao găm văn hóa Đông Sơn. Còn có thể kể ra rất nhiều dẫn chứng về sự gần gũi giữa văn

hóa ngƣời Việt cổ với văn hóa các dân tộc anh em sinh sống trên đất nƣớc ta.

Nhìn rộng ra ngoài Việt Nam, nhiều yếu tố văn hóa thƣờng đƣợc xem là đặc trƣng của

ngƣời Việt cũng thấy có mặt đây đó, lúc tỏ , lúc mờ, đậm nhạt khác nhau trên cả khu vực

rộng lớn từ nam Trung Quốc, Lào, Cămpuchia, Miến Điện, Thái Lan đến Ma-lai-xi-a. In-đô-

nê-xi-a

Đó là sự có mặt của những ngôi nhà sàn bằng gỗ, là những cƣ dân biết chế tạo và sử

dụng trống đồng. Đó là một hệ thống thần thoại đi liền với tín ngƣỡng thờ sinh thực khí trong

nghi lễ nông nghiệp của nhiều dân tộc Đông Nam Á xƣa. Hình tƣợng chim, thuồng luồng vừa

xung khắc vừa hòa hợp rất phổ biến trong các chuyện cổ của nhiều nƣớc Đông Nam Á. Tục

giã gạo bằng chày đứng đƣợc khắc họa trên trổng đồng

121

cũng rất phổ biến trong các cƣ dân Đông Nam Á và các đảo Thái Bình Dƣơng Và tục nhuộm

răng ăn trầu không chỉ phổ biến ở Việt Nam mà cũng phổ biến ở nhiều nƣớc Đông Nam Á.

Đơn cử một số dẫn chứng nhƣ vậy để nói lên rằng cuộc sống văn hóa tinh thần của

ngƣời Việt cổ không đóng kín mà luôn luôn rộng mở ngày một phát triển trong bối cảnh

Đông Nam Á.

Có thể nói, trƣớc lúc có ảnh hƣởng của văn hóa ở phía Bắc và văn hóa Ấn Độ ở phía

nam, trong khu vực rộng lớn Đông Nam Á dã hình thành một bộ mặt văn hóa riêng khác Hán,

khác Ấn. Nền văn hóa dân tộc Việt cổ đã hình thành trong bổi cảnh văn hóa Đông Nam Á đó.

Quá trình hòa hợp, hình thành văn hóa này đã đƣợc mở đầu từ rất sớm, có thể từ cơ

tầng văn hóa Hòa Bình nếu không nói là còn sớm hơn. Trên một vùng đất đai với những điều

kiện tự nhiên giống nhau, với nguồn gốc và đặc trƣng tộc thuộc gần nhau cùng một trình độ

phát triển kinh tế xã hội tƣơng đƣơng, cùng chung một vận mệnh lịch sử, có những mối quan

hệ văn hóa qua lại lâu dài, đã dần dần hình thành những yếu tố văn hóa giống nhau : Văn hóa

Đông Nam Á.

Văn hóa tinh thần của ngƣời Việt cổ hình thành trong bổi cảnh văn hóa Đông Nam Á

đó, vừa có đặc trƣng của riêng mình vừa có phong cách chung của toàn khu vực.

3. Kế thừa giá trị văn hóa tinh thần của ngƣời Việt cổ.

Việt Nam cũng nhƣ nhiều nƣớc trên thế giới, cùng với việc hình thành nhà nƣớc đầu

tiên, một nền văn hoá dân tộc cũng ra đời với những bản sắc riêng và tồn tại nhƣ là sự mở

đầu và tiếp nối của truyền thống. Nhƣng nền văn hóa dân tộc ta phát triển trong một hoàn

cảnh khá đặc biệt. Bởi ngay sau khi hình thành, trƣớc mắt nó là ngàn năm "đêm dài Bắc

thuộc" Kẻ thù đã dùng trăm phƣơng ngàn kế để hủy diệt, đồng hóa nó, nhƣng những nền tảng

vững chắc mà nó đã xây nên, đã đƣa dân tộc ta vƣợt qua đƣợc thử thách khắc nghiệt, để cho

các giá trị văn hóa dân tộc vẫn đƣợc bảo tồn và phát triển.

Tiếp theo giai đoạn đỉnh cao của thời dựng nƣớc là giai đoạn văn hóa Hán, văn hóa

Ấn xâm nhập mạnh vào các nƣớc Đông Nam Á và nƣớc ta. Đến những thế kỷ gần đây, nền

văn hóa dân tộc lại phải đối đầu với nền văn minh Âu Mỹ. Nhiều lớp văn hóa đã phủ lên nền

văn hóa dân tộc, với sức sống kiên cƣờng, bằng các biện pháp đấu tranh, dung hợp. cải biên,

nền văn hóa dân tộc vẫn tiếp tục phát triển, phát huy những truyền thống văn hóa đã đƣợc

hình thành từ ngày mở nƣớc.

122

Ngày nay chúng ta vẫn còn có thể nhận diện đƣợc hình bóng nền văn hóa dân tộc qua

những biểu hiện sau :

Một nền nghệ thuật tạo hình hiện thực, nhân bản. Ông cha ta đã khắc chạm những

cảnh sinh hoạt dân dã, bình dị, những trò chơi trai gái ở đình làng. Hay nhƣ những chạm khắc

đá, khắc gỗ ở các đình chùa là những đồ án kỷ hà, hoa lá, chim phƣợng đƣợc miêu tả rất hiện

thực sinh động, hầu nhƣ không có những đồ án, biểu tƣợng thần bí, dữ dội nhƣ văn thao thiết,

mặt hổ phù của văn hóa Hán v.v... Phải chăng, đó là do ông cha ta đã tiếp thu đƣợc thần thái

nghệ thuật văn hóa Đông Sơn.

Hay trong nghệ thuật kiến trúc, để phù hợp với cảnh quan đồng bằng, ngƣời Việt

không làm nhà sàn nữa, song theo nhiều nhà nghiên cứu thì bóng dáng nhà sàn vẫn đƣợc bảo

lƣu trong một số ngôi đình mái cong có sàn.

Một nền âm nhạc múa dân tộc có những nhạc cụ truyền thống và âm điệu độc đáo.

Nhân dân ta vẫn luôn mang trong mình hồn nhạc dân tộc, thích ca hát nhảy múa, nhất

là trong các buổi sinh hoạt cộng đồng làng xóm nhƣ hội làng v.v...

Cho đến nay, trong các dàn nhạc dân tộc, nhạc cụ chủ yếu vẫn là trống, cùng chiêng

sênh, phách, khèn sáo v.v... là những thứ đã đƣợc ngƣời Việt cổ sáng tạo từ ngày mở nƣớc.

Còn phải tìm hiểu cấu tứ âm điệu của âm nhạc cổ truyền dân tộc, song rõ ràng khi

thƣởng thức một bài hát dân ca Việt Nam ta dễ dàng phân biệt với ca nhạc Trung Quốc, Ân

Độ. Phải chăng đó là hồn của âm nhạc dân tộc đã đƣợc phát triển cho mãi tận hôm nay.

Các tín ngƣỡng cơ bản của ngƣời Việt cổ là tín ngƣỡng nông nghiệp nhu cầu mua, thờ

thần mặt trời cùng các thần sấm, thần chớp, thờ sinh thực khi v.v. ...Trong cuộc sống hiện

đại, không thể bảo tồn tất cả biểu hiện của tín ngƣỡng nông nghiệp. Song các tục thờ mặt trời,

sự sùng kính các thần nông nghiệp, các anh hùng văn hóa, anh hùng quân sự v.v... vẫn có thể

duy trì nhƣ là một bản sắc văn hóa cổ truyền thể hiện sự tôn kính và lòng biết ơn đối với quá

khứ , đối với truyền thống.

Cùng với việc bảo lƣu một số biểu hiện của tín ngƣỡng nông nghiệp, cần duy trì một

số lễ hội có ý nghĩa văn hóa lịch sử. Lễ hội bên cạnh ý nghĩa tôn giáo còn mang một sắc thái

của sinh hoạt văn hóa tinh thần. Trải qua hàng ngàn năm ngƣời Việt cổ đã tổ chức nhiều lễ

hội ở khắp các làng quê và đƣợc xem nhƣ là những sinh hoạt văn hóa đƣợc bắt nguồn từ cuộc

sống lao động của dân quê.

123

Nhiều lễ hội đến nay vẫn còn giữ nguyên giá trị nhƣ những hội làng thƣở nào. Đó là

những ngày hội làng truyền thống nhƣ hội Lim, hội pháo Đồng Kỵ, đó là những hội đua

thuyền đƣợc tổ chức phổ biến khắp vùng nông thôn từ Bắc đến Nam. Đó là lễ hội tƣởng nhớ

các anh hùng văn hóa, anh hùng quân sự, đó là những hội cồng chiêng, hội vật võ, hội thi

đánh cầu, thi thổi cơm .v.v...

Những lễ hội hày không những là dịp để đua tài văn nghệ , thể thao, tạo điều kiện cho

nam nữ thanh niên có dịp gần gũi nhau, mà là giúp nâng cao ý thức đối với cộng đồng, đối

với cội nguồn.

Kế thừa những giá trị văn hóa của quá khứ trên bình diện của cuộc sống mới, để

không bị coi là phục cổ, là lạc lõng, đã trở thành vấn đề thời sự của nhiều nƣớc, đặc biệt ở

thời kỳ mà các cuộc giao thoa văn hóa trở nên bạo liệt nhất. Do vậy, việc kế thừa những

truyền thống Đông Sơn trở nên thực sự cấp thiết trong giai đoạn đất nƣớc đang mở cửa hiện

nay. Chúng ta cần phải "gạn đục, khơi trong" để cho các giá trị văn hóa Đông Sơn mãi mãi

thanh xuân.

124

CHƢƠNG VI : BẢN SẮC VĂN HÓA VIỆT CỔ

Văn hóa là hệ thống ứng xử của con ngƣời với thiên nhiên và xã hội, trong hoạt động

sinh tồn và phát triển của mình. Nói khác đi, văn hóa là sản phẩm hoạt động của con ngƣời

trong mối quan hệ tƣơng tác với tự nhiên và xã hội diễn ra trong không gian, thời gian và

hoàn cảnh nhất định.

Nếu nhƣ con ngƣời là sản phẩm đặc sắc nhất, cao nhất của tự nhiên, thì văn hóa cũng

là cái sản phẩm tự nhiên đặc sắc đƣợc con ngƣời tác động lên, biến đổi và tạo ra nhƣ những

phƣơng tiện nhằm phục vụ và thỏa mãn cuộc sống và sự phát triển của mình. Những hoạt

động đó, những hành vi đó đƣợc lặp lại, đƣợc xử lý, uốn nắn, đƣợc đúc rút trở thành những

kinh nghiệm, những thói quen, những nguyên tắc, những chuẩn mực hƣớng dẫn lại hoạt động

của con ngƣời.

Nhƣ vậy thì, văn hóa nhƣ những chuẩn mực ứng xử của con ngƣời đƣợc thể hiện ra

trong mọi hoạt động, mọi hành vi, mọi nếp nghĩ từ chốn ở, cách ăn, cách làm, lối sinh hoạt

đến cách đối nhân xử thế.

Trên phạm vi thế giới, có một nền văn hóa chung cho toàn nhân loại. Tính chung đó

đƣợc thể hiện ra ở mọi nơi, trong mọi nền văn hóa cụ thể. Và trong mỗi khu vực địa lý - lịch

sử nhất đinh, ở đó nhiều dân tộc cùng chung sống, cùng có những hoàn cảnh và điều kiện

sống tƣơng tự nhau, thƣờng xuyên tiếp xúc, trao dồi và hòa nhập tạo ra một khu vực văn hóa

riêng. Ví nhƣ nền văn hóa Đông Nam Á cổ truyền của cƣ dân trồng lúa nƣớc, sống trong hệ

sinh thái phổ tạp và gió mùa nhiệt ẩm. Và mỗi cộng đồng ngƣời, mỗi dân tộc sống trong một

phạm vi nhỏ hơn, trong một quốc gia, lại tạo ra một nền văn hóa riêng mang bản sắc dân tộc

sắc tộc độc đáo riêng của mình.

Tính đa dạng của văn hóa xuất phát từ tính muôn vẻ của tự nhiên, tính phức tạp,

phong phú của xã hội, tính không đồng đều, không giống nhau của bản thân con ngƣời mang

thể trạng và tâm thức khác nhau.

Vậy bản sắc văn hóa là những nét vãn hoa riêng làm thành hệ giá trị đƣợc một dân tộc

chấp nhận, đƣợc xem là phù hợp và thích hợp, đƣợc đem vào vận hành nhằm thỏa mãn nhu

cầu sống và phát triển của dân tộc mình trong nền cảnh lịch sử tƣơng ứng.

Trong bản sắc văn hóa dân tộc chứa đựng tính nhân loại, tính khu vực và tính tộc

ngƣời, ở đó tính nhân loại và tính khu vực đƣợc đa dạng hóa, đƣợc biến dạng, cụ thể, đƣợc

kết hợp với cái riêng dân tộc mà dân tộc đó sáng tạo ra trong nhƣng hoàn cảnh lịch sử riêng

của nó. Tất cả những cái đó làm thành bản sắc văn hóa của dân tộc, chứ bản sắc dân tộc

không phải chỉ là những cái gì của riêng dân tộc đó nghĩ ra, làm

125

ra. Nhƣ vậy, có thể hình dung bản sắc dân tộc của văn hoá nhƣ một vòng tròn chính tâm đa

sắc, hội kết và chiết xuất muôn vàn vòng sáng đa sắc của văn hóa nhân loại.

Bản sắc văn hóa Việt nam đƣợc hình thành và phát triển đến nay, trong suốt 4000

năm lịch sử, từ thời kỳ dựng nƣớc và giữ nƣớc đầu tiên của dân tộc. Nền văn hóa đó, mà

những yếu tố làm thành bản sắc luôn đƣợc tuyển chọn, chắt lọc, luôn đƣợc đổi mới, thêm

giàu có, đầy sức sống và phát triển vƣơn lên không ngừng.

Văn hóa Việt cổ, ở cái buổi sinh thành và tuổi ấu thơ, mang ý nghĩa là nền tảng, giá

đỡ và bệ phóng cho sự cất cánh của dân tộc và văn hóa ở các thòi kỳ lịch sử tiếp theo. Bởi

vậy, tìm về cội nguồn và nhận ra cái cốt lõi đầu tiên của bản sắc văn hóa Việt Nam là việc

làm hết sức quan trọng và cần thiết nhằm kế thừa, bảo vệ, đổi mới và phát huy những tinh

hoa, đẩy lùi, loại bỏ những cái lạc hậu, khiến văn hóa thực hiện đƣợc chức năng làm nên và

định hƣớng cho cách ứng xử thể hiện ở tâm hồn, đạo lý, lối sống, hành vi...) của mỗi cá nhân

và của cả cộng đồng hƣớng tới cái chân, thiện, mỹ trong quan hệ với mình, với ngƣời, với xã

hội và với tự nhiên.

Để tìm hiểu các đặc điểm tạo thành bản sắc văn hóa ở thời kỳ hình thành nên văn

minh Việt cổ, tức thời Đông Sơn cách chúng ta khoảng 2500 năm, chúng ta cần chỉ ra cái

trƣờng lịch sử, tức bối cảnh tự nhiên và xã hội ở đó nền văn minh đầu tiên của dân tộc đƣợc

hình thành nhƣ đã đƣợc trình bày ở các chƣơng trên. Có thể tóm tắt những nét chính của bối

cảnh đó nhƣ sau :

Về mặt sinh thái tự nhiên, Việt Nam cũng nhƣ Đông Nam Á là khu vực có hệ sinh

thái phổ tạp. Có những giống loài cây con từ miền ôn đới xuống miền xích đạo lên, tạo ra

cảnh quan đa tạp : đồng cò ít, rừng rậm nhiều tầng, dây leo nhiều, ở đó các sinh vật sống với

số lƣợng các giống loài thì lớn, song số lƣợng cá thể của từng loài thì lại nhỏ, ít, khiến

phƣơng thức kiếm sống ở đây tức săn bắt và hái lƣợm phải triển khai theo phổ rộng, nghĩa là

tìm thức ăn mỗi thứ một tí, hơn nữa sản phẩm của hái lƣợm lại nhiều hơn của săn bắt. Và khi

cƣ dân vùng này tiến lên kinh tế sản xuất thì một diễn biến tƣơng ứng cũng xảy ra : nông

nghiệp mang tính đa canh và trồng trọt trội hơn chăn nuôi ( Hà Văn Tấn 1982). Trong nền

cảnh tự nhiên của khu vực Đông Nam Á gió mùa nhiệt ẩm, Việt Nam lại có vị trí địa lý mang

tính tiếp xúc vừa nối liền với đại lục trong thế núi liền núi sông liền sông, Vừa có đƣờng bờ

biển dài hòa nhập vào đại dƣơng bao la, vừa có rừng núi nhiều, chiếm tới 2/3 lãnh thổ, vừa có đồng bằng rộng, có mặt nƣớc mênh mông cứ 1 km2 lãnh thổ lại có hơn 1 km sông ngòi (Nguyễn Việt Phổ 1986).

Thiên nhiên với địa hình, đất đai, sông biển, khí hậu của nƣớc ta nhƣ vậy đã chứa sẵn

trong nó hai mặt đối lập : vừa ƣu ái, thuận lợi vừa khác nghiệt, thử thách... mà

126

trong quá trình khắc phục và hòa điệu với nó đã để lại dấu ấn sầu đậm trong văn hóa quá khứ

cũng nhƣ hiện tại của dân tộc.

Về mặt nền cảnh sống xã hội: cƣ dân Đông Sơn, tức chủ nhân của văn minh Việt

Nam thời khai sinh, đã tạo dựng đƣợc một nền văn hóa thống nhất, trải rộng từ biên giới

Việt- Trung đến bờ sông Gianh. Nền văn hóa đó đƣợc xây dựng trên nền tảng của một nền

nông nghiệp đa canh đƣợc nhen nhóm trong cuộc" cách mạng đá mới" diễn ra từ thời kỳ văn

hóa Hòa Bình. Trong quá trình phát triển, cây lúa nƣớc dần trở thành nguồn cung cấp lƣơng

thực chính phát triển hài hòa với những cây trồng vật nuôi phù trợ khác.

Nền nông nghiệp trồng lúa nƣớc có vị trí nền tảng trong nền kinh tế đa dạng mang

nặng sác thái tự nhiên, khai thác rộng rãi tài nguyên thiên nhiên, đặc sản của núi rừng, sông

biển.

Bên cạnh nông nghiệp và kinh tế khai thác, các nghề thủ công cũng phát triển mạnh

mẽ, các nghề truyền thống nhƣ đúc đồng, rèn sắt, nung gốm, đục đá, khắc gỗ, sơn chạm, đan

lát... đƣợc hình thành, phát triển và đạt tới các đỉnh cao về kỹ năng và kỹ thuật, về nghệ thuật

và mỹ thuật, từ thời Đông Sơn hay trƣớc đó. Trong hoạt động sản xuất thủ công đó, chúng ta

thấy nổi lên một hiện tƣợng chung là tất cả các lò thủ công này đều tồn tại ngay trong lòng

mối làng xã và cuộc sống, mỗi sinh hoạt của họ vẫn gắn bó chặt chẽ với ruộng vƣờn, làng

xóm. Ở họ nguồn sống chính vẫn là làm ruộng Các nghề thủ công này phần lớn chỉ đƣợc tiến

hành vào các kỳ nông nhàn.

Bức tranh kinh tế này đƣợc khái quát dựa trên phần tích tƣ liệu khảo cổ học thuộc các

văn hóa Tiền Đông Sơn Đông Sơn.

Cây lúa - nguồn cung cấp luơng thực chính của ngƣời Việt nam, đã trở thành cây

lƣơng thực chính từ thời Phùng Nguyên - Đông Sơn.

Cùng với lúa gạo, khảo cổ học cũng phát hiện đƣợc chứng tích của nhiều loài rau quả

khác nhƣ các hạt đậu, vỏ quả bàu, các hạt trám, na, mơ, nhãn, vải, vết mảnh sơ cau, nụ chè...

Tƣ liệu về nhƣng loại hình nông cụ chủ yếu đƣợc tóm tắt trong bản thống kê (bảng 1) cho

thấy nông cụ là tấm gƣơng phản chiếu tiến bộ kỹ thuật sản xuất nông nghiệp trên các mặt :

thổ nhƣỡng, cây trồng và phƣơng thức trồng đồng thời chúng cũng đƣợc qui định bởi các yếu

tổ này.

Về mặt thủ công nghiệp, chúng ta thấy trong hàng trăm di tích cƣ trú của ngƣời Phùng

Nguyên - Đông Sơn, mới chỉ ghi nhận đƣợc ở 6 địa điểm có vết tích chế tạo công cụ đá và 7

nơi có vết tích chế tác đồ trang sức đá mà ở đó tính chất công xƣởng của di tích đƣợc xác

định rõ ràng. Còn ở rất nhiều nơi khác vết tích đó rất mờ nhạt. rải rác ở mỗi nơi trong đó gặp

đôi ba phác vật công cụ rìu bôn, vài mảnh lõi vòng, đôi ba phác

127

vật chế tác hạt chuỗi là những thỏi đá hình khối chữ nhật, hoặc gặp một vài chiếc bàn mài

xoáy chuyên để mài nhẵn mặt trong các vòng trang sức bằng đá.

Hiện tƣợng tƣơng tự cũng xảy ra đối với nghề luyện kim và chế tạo đồ kim loại bằng

BẢNG 1 : NÔNG CỤ THỜI PHÙNG NGUYÊN- ĐÔNG SƠN

Giai đoạn

Không

Phùng

Đồng

Chất liệu

Đông Sơn

xác định

Nguyên

Đậu

Mun

Loại

Cộng

hình hiện vật

Đồng

Gỗ

Đồng

Sắt

Đồng

Đá

Đá

Cuốc có vai

26

250

21

297

Cuốc tứ giác

134

134

Cuốc chữ U

6

38

44

Cuốc có lỗ tra cán

1

2

3

Cuốc bƣớm

1

+

+

+

+

+

Mai

Thuổng hình trứng

1

1

1

1

Thuổng kiểu Yên Hƣng

Thuổng có vai

42

1

43

Thuổng tứ giác

2

2

Thuổng kiểu làng vạc

18

18

Xẻng

4

4

Vên

Lƣỡi cày tam giác

4

4

Lƣỡi cày Cổ Loa

110

110

Lƣỡi cày chân vịt

82

82

Lƣỡi cày vai ngang

6

6

Công cụ sục bùn

4

4

Dao gặt

3

3

1

7

Nhíp lƣỡi chữ nhật

2

1

3

Nhíp lƣõi hình vỏ trai

14

14

Liềm

2

2

1

5

đồng thau.

Cộng

26

388

5

5

5

314

40

783

128

Trong số 24 địa điểm có vết tích của nghề đúc đồng, thì chỉ mới có 4 nơi (Đồng Đậu,

Thành Đền, Làng Cả, Cổ Loa) cho thấy có hiện tƣợng tập trung và phát triển của nghề này.

Nghề rèn sắt lại còn mờ nhạt hơn, mới chỉ thấy vết tích ở Vinh Quang, nấu quặng Chiền Vậy,

Đồng Mỏm, Xuân Giang. Nghề dệt vải và sản xuất đồ gốm cũng có tình trạng tƣơng tự.

Hiện tƣợng này cho thấy từ thời Phùng Nguyên - Đông Sơn đã hình thành một số lò

thủ công chuyên trong lòng một số làng xã. Song phổ biến hơn cả vẫn là rải rác trong các

làng xƣa chỉ tồn tại vài ba Gia đinh làm nghề thủ công.

Nhƣ vậy là tuy thủ công nghiệp đã phát triển, đặc biệt là kỹ thuật đúc luyện và chế tác

đồ kim loại bằng đồng và bằng sắt đã có những thành tựu đáng kể hoặc đã đạt đƣợc đỉnh cao

thời đại, song về bản chất, văn hoá Đông Sơn vẫn là văn minh nông nghiệp - xóm làng.

Sự phát triển của sản xuất và xã hội đã tạo ra sản phẩm dƣ thừa chung, song đồng thời

cũng diễn ra sự chênh lệch tài sản ngày càng tăng ở mỗi gia đình cụ thể. Sự phân hóa giàu

nghèo đã xuất hiện và đƣợc xác minh qua tài liệu mộ táng.

Từ sự phân tích 714 ngôi mộ có niên đại Đông Sơn ở 5 khu mộ táng nổi tiếng là

Thiệu Dƣơng, Làng Cả, Làng Vạc, Vinh Quang, Đông Sơn (Bảng 2), chúng ta thấy những

ngôi mộ nghèo không có hoặc chỉ có một ít đồ gốm và đồ trang sức đơn sơ bằng đá chiếm

phần lớn (51,9 % ) thứ đến là nhóm những ngôi mộ ở mức độ trung bình, thƣờng ngoài

những đồ gốm, đồ đá thông thƣờng, có thêm một ít công cụ và vũ khí bằng đồng hoặc một,

hai công cụ bằng sắt ( chiếm 41,4 % ). Những ngôi mộ giàu có chôn theo nhiều đồ đồng, đồ

sắt trong đó có những đồ vật biểu hiện sự sang trọng, quí phái và quyền uy chỉ chiếm một tỷ

lệ nhỏ (6,5 %).

Hiện tƣợng này cho thấy sự phân hóa giàu nghèo, sang hèn đã thể hiện rõ và ngày

càng tăng song chƣa thật sâu sắc và gay gắt nói lên quan hệ cộng đồng vẫn còn rất vững chắc.

Tính cộng đồng này còn đƣợc thể hiện qua sự phân bố các ngôi mộ trong một khu mộ táng,

chƣa có sự chôn tách bạch thành khu mộ của ngƣời giàu riêng, của ngƣời nghèo riêng, tuy có

ghi nhận đƣợc ở khu mộ táng Làng Cả có một vành đai mộ nghèo nằm ngoài rìa bao lấy một

nhóm mộ giàu và khá nằm ở bên trong. Hiện tƣợng có những ngôi mộ song táng hay táng

chồng lên nhau gặp ở khu mộ Thiệu Dƣơng hay Núi Nấp... nói lên gia đình nhỏ đã tồn tại ở

thời kỳ này. Cũng gặp một số hiện tƣợng khác nhƣ các ngôi mộ nữ có chôn theo vũ khí hoặc

hình tƣợng ngƣời phụ nữ trên các cán dao găm, kiếm ngắn Đông Sơn cho hay vai trò cao của

người phụ nữ trong xã hội bấy giờ.

129

BẢNG 2: PHÂN LOẠI MỘ TÁNG ĐÔNG SƠN THEO HIỆN TRẠNG PHẬN BỐ ĐỒ TÙY TÁNG.

Loại mộ

Số lƣợng mộ

Nghèo

Trung bình

Giàu

đƣợc phân

Số

Tỷ lệ %

Số lƣợng

Tỷ lệ %

Số lƣợng

Tỷ lệ %

Khu mộ

tích

lƣợng

Đông Sơn

102

25

25,5

55

53,9

22

21,5

Vinh Quang

51

29

56,8

22

43,1

0

0

Làng Vạc

226

108

47,7

106

46,9

12

5,3

Làng Cả

219

183

83,1

31

14,1

6

2,7

Thiệu Dƣơng

116

55

47,4

57

49,1

4

3,4

Tổng Số

714

399

51,9

271

41,4

44

6,5

Nghiên cứu các sƣu tập đồ đồng ở các địa điểm Đông sơn then chốt, nổi tiếng nhƣ

làng Cả,Vinh Quang, Thiệu Dƣơng, Đông Sơn, Làng Vạc cho ta một bức tranh tổng quát về

xã hội Đông sơn ở khía cạnh tập trung và gua tăng giàu có, cũng nhƣ ở góc độ mâu thuẫn xung đột xã hội đƣợc thể hiện qua tỷ lệ vũ khí đồ dùng sang trọng tổng số đồ đồng Đông sơn

Bảng 3: VŨ KHÍ VÀ HIỆN VẬT BẰNG ĐỒNG THAU Ở MỘT SỐ DI TÍCH VĂN HÓA ĐÔNG SƠN

hiện biết ở các khu di tích đó

Vũ khí Hiện vật sang Địa điểm Số lƣợng chung Số lƣợng Tỷ lệ % Số lƣợng Tỷ lệ %

Vinh quang 1.48 94 63,5 ? ?

Làng cả 187 120 64,1 17 9

Đông Sơn 1026 519 50,5 16,4

444 475 257 120 57,8 24,0 169 10 75

Thiệu Dƣơng Làng vạc (đợt đào 1973,1980) Tổng cộng 2280 1110 48,6, 271 2,2 16,0 11,8

130

Nhìn chung, số lƣợng vũ khí đồng thau vẫn chiếm tỷ lệ cao ở hầu hết các di tích này.

Riêng ở Làng Vạc, tỷ lệ vũ khí có phần thấp hơn. Điều đó đƣợc giải thích phần nào, do vị trí

của Làng Vạc ở khá xa các trung tâm lớn ở đồng bằng, nơi vào cuối thời Đông Sơn đã xảy ra

những xung đột quyết liệt giữa ngƣời Việt cổ và các thế lực xâm lƣợc từ ngoài. Điều này còn

đƣợc giải thích bằng tính độc đáo của ngƣời Làng Vạc với sở trƣờng cận chiến dùng dao găm

và kiếm ngắn làm vũ khí tiến công, số lƣợng loại vũ khí này đã lên tới hàng trăm chiếc, đƣợc

chế tạo tại chỗ qua nhiều khuôn đúc dao găm tìm thấy ở đây, trong khi đó các loại vũ khí vừa

mang tính năng chiến đấu vừa mang tính năng săn bắt hay sản xuất nhƣ giáo, lao, rìu xéo...

lại có tỷ lệ rast thấp. Riêng số đồ đồng thau sang trọng cũng chiếm tỷ lệ đáng kể đặc biệt ở

các địa điểm mang ý nghĩa trung tâm của vùng nhƣ Làng Cả, Đông Sơn, Làng Vạc, nơi sống

tập trung tâng lớp quí tộc. Và càng về cuối (nhƣ ở lớp cƣ trú và nhóm mộ muộn của di tích

Đông Sơn. hoặc nhƣ ơ khu mộ táng Làng Vạc) số lƣợng đồ tùy táng sang trọng, trong đó đặc

biệt có thêm nhiều di vật ngoại lai hay mô phỏng ngoại lai sang trọng nhƣ bình, dinh, ấm,

gƣơng, qua ... đƣợc chôn theo cùng với đồ đồng bản địa ngày càng nhiều.

Dẫu sao thì xã hội Đông Sơn Cũng là một xã hội đã phân tầng và văn hóa Đông Sơn

đã là một văn hóa có Nhà nƣớc." Cộng đồng ngƣời Việt, tổ tiên ta đã sớm trở thành một dân

tộc, một quốc gia, đó là một sức mạnh, một thế mạnh rất cần thiết và qui báu. Đó là một sự tự

khẳng định giàu gia trị văn hóa để tự bảo vệ mình, để tồn tại và phát triển " (Phạm Văn Đồng

1994).

Trong bối cảnh tự nhiên và xã hội nhƣ trên văn hóa Việt Nam đƣợc hình thành và

phát triển mang những đặc điểm riêng biệt, mà một số trong đó là những hằng số lâu dài.

Đời sống và từ đó cả lẽ sống đƣợc ngƣời Việt Nam hiểu một cách rất nôm na nhƣng

cũng thật bản chất và sâu sắc qua hai vế việc làm tức lao động sản xuất, hoạt động kiếm sống

nói chung, và cách ăn ở tức nếp sinh hoạt, lối ứng xử (cƣ xử, quan niệm đạo đức, thẩm mỹ,

tâm lý, tâm linh ...)

Trƣớc hết và trên hết, chúng tôi muốn nói đến công việc làm ăn hay văn hóa sản xuất

của ngƣời Việt cổ.

Không gian sinh tồn đã đúc luyện nên tính cách hạ bạn, tâm lý hóa thân vào đồng đất

và mở rộng cõi bờ với hƣớng chảy dọc theo các mạch đất bằng ven biển. Màu nâu bạc của

nón áo ngƣời nông dân hoa cùng mầu nâu sẩm của phù sa ruộng đồng tạo nên sắc màu độc

đáo của văn hóa sản xuất, của xóm làng Việt.

Cụ thể hơn, về nghề nông trồng lúa nƣớc - cơ sở của toàn bộ đời sống của ngƣời Việt

cổ, chúng ta thử xem trong thời kỳ Đông Sơn những yếu tố tự nhiên và xã hội nào

131

đã tác động lên lĩnh vực sản xuất và quan hệ sản xuất, tạo ra những nét hằng xuyên trong lĩnh

vực văn hóa sản xuất này. Nƣớc là yếu tố tồn tại số một đối với cây lúa nƣớc. Song ở xứ ta,

nƣớc có lúc thiếu, có lúc lại quá thừa. Những biện pháp kỹ thuật đa dạng: đắp bờ, khơi

mƣơng, quai đê, tát nƣớc, tháo nƣớc ... đã ra đời. Mặt đồng bằng nói chung phẳng, song quá

trình thành tạo chƣa xong thì bàn tay con ngƣời đã sớm can thiệp vào tạo ra những ô trũng

bên cạnh những doi đất nổi cao do phù sa bồi đắp, vậy làm thế nào tận dụng đƣợc mọi thế đất

khác nhau đó để trồng trọt. Hiểu biết về thời tiết ( chu kỳ 2 mùa mƣa - khô) và nhu cầu tăng

vụ, mở rộng diện tích đã khiến ngƣời Đông Sơn đƣa cây lúa lên cao vào bãi, lên nƣơng mặc

dù đất ở những nơi đó có lúc thiếu nƣớc, song nhờ mƣa trời nên có độ ẩm đủ để cây lúa sinh

trƣởng. Và cây lúa cũng đƣợc đƣa cả xuống nơi đất trũng nƣớc ngập quanh năm nhƣng về

mùa khô mức nƣớc giảm đi đến mức cây lúa có thể sống đƣợc. (Những chứng tích về giống

lúa : chiêm, mùa, về bộ nông cụ thời Đông Sơn, có cuốc dùng cho nơi đất khô. có mai dùng

cho nơi đất ƣớt, cũng vậy, nhíp dùng để cắt lúa nƣơng bãi thân cứng, liềm dùng để gặt lúa đổ

thân mềm ở ruộng trũng, cùng những ghi chép trong thƣ tịch xƣa. Một trong những cuốn sách

xƣa nhất của Trung Quốc chép về lịch sử nƣớc ta là cuốn Giao châu ngoại vực ký (thế kỷ 4)

đƣợc dẫn lại trong cuốn Thủy kinh chú (thế kỷ 6), có đoạn viết : " Ngày xƣa. Giao Chỉ khi

chƣa chia thành quận huyện, ruộng đất có ruộng lạc. ruộng đó theo nƣớc thủy triều lên xuống

dân khẩn ruộng đó mà ăn nên gọi là dân Lạc". Đoạn văn trên phản ánh lối canh tác độc đáo.

lơi dụng nƣớc thủy triều lên xuống để dẫn nƣớc vào ruộng, giữ nƣớc ở đấy hoặc tháo nƣớc ra

khi cần thiết theo nhu cầu sinh trƣởng của cây lúa . Một đoạn văn khác chép trong một cuốn

sách khác là cuốn Dị vật chí của Dƣơng Phu (thế kỷ 1) nhắc đến " lúa ở Giao Chỉ mỗi năm

trồng hai lần về mùa hè và mùa đông " lại cho chúng ta biết thành quả lai tạo giống lúa mới

của ngƣời Việt cổ.)

Công cuộc chinh phục đồng bằng, mở rộng diện tích cấy trồng đòi hỏi ngày càng bức

thiết công việc trị thủy và làm thủy lợi. Ở Cổ Loa đã phát hiện đƣợc dấu tích của một đoạn đê

cổ. Thƣ tích cổ Trung Quốc, có những đoạn chép :" Huyện Phong Khê đã có đê để đề phòng

nƣớc sông Long Môn" (Giao Châu Ký) hoặc" Phía tây bắc huyện Long Biên quận Giao Chỉ

đã có đê để giữ nƣớc sông " (Hán thư quận huyện chí).

Nƣớc là giải pháp hàng đầu trong 4 giải pháp phát triển nông nghiệp cổ truyền nƣớc

ta. Công việc thủy lợi đã có ảnh hƣởng dƣờng nhƣ sống còn đến sự phát triển toàn diện của

xã hội cổ truyền Việt Nam và cũng là của cả Phƣơng Đông nói chung nhƣ C. Mác đã nhận

xét.

Nhƣng tƣ liệu về ruộng công, về lịch sử lập làng sau này đã xác nhận vai trò to lớn

của ruộng công, và làng xã trong đời sống kinh tế của ngƣời Việt cổ, vai trò này hẳn còn đậm

đà hơn vào thời Đông Sơn.

132

Mặt khác, một loạt các chứng tích khảo cổ khác (nhƣ qui mô của những ngôi nhà không lớn thƣờng trên dƣới 10 m2, xét qua qui mô của các nền đất vàng có hố cột ở các di chỉ Đông Đậu, Từ Sơn, Đồng Dền, Gò Mun ... Kích cỡ của những đồ gốm dùng trong sinh hoạt

nấu nƣớng ăn uống thƣờng nhỏ nhắn. Những nồi đất ám khói thƣờng có đƣờng kinh, chiều

cao dƣới 20 cm... phong tục mai táng thƣờng gặp là các mộ táng đơn, mộ táng đôi thì có cả

nam nữ nhƣ mộ số 1 ở khu mộ táng Núi Nấp, ta gặp một ông già 50 tuổi chôn chung với một

phụ nữ 20 tuổi. ở các khu mộ táng khác nhƣ Quỳ Chử, Thiệu Dƣơng cũng đều gập những khu

mộ táng chồng nhau, trong trƣờng hợp định giới đƣợc cũng cho thấy đó là những cặp đôi nam

nữ ...) lại làm nổi lên vị trí của gia đình nhỏ nhƣ một đơn vị sản xuất cơ bản. Chính cái mối

quan hệ về quyền sử dụng ruộng đất thuộc cá nhân, gia đình và quyền sở hữu nó lại thuộc về

làng xã này, mối quan hệ tự nhiên giữa gia đình với họ mạc, làng xóm đối với đối tƣợng và

phƣơng thức kiếm sống chính là ruộng đất này đã là động lực phát triển sản xuất suốt chiều

dài lịch sử đất nƣớc, đã trở thành cung cách làm ăn, thành truyền thống. Và cái truyền thống

đó, cái động lực mạnh mẽ kích thích phát triển sản xuất đó đã đƣợc làm sống lại, nâng lên và

phát huy mạnh mẽ (qua khoán 10) trong khung cảnh đổi mới trên lĩnh vực sản xuất nông

nghiệp ngày nay.

Nhìn sang địa hạt thủ công nghiệp, nhƣ trên đã có dịp nhắc đến. một hiện tƣợng nổi rõ

và bao trùm là các lò thủ công chìm ngập trong xóm làng nông nghiệp. Nền kinh tế tự túc

phát triển ở mức thấp khiến con ngƣời có thể làm ra đƣợc nhiều thứ tiêu dùng cho bản thân

trong các thời gian rảnh việc ngoài đồng. Nền kinh tế phụ gia đình này một thời đã là sự hợp

lý, cân bằng và hài hòa trong việc sử dụng sức lao động xã hội. Song tốc độ chậm chạp diễn

ra đối với sự phân công lao động xã hội lần thứ 2 này, khiến kinh tế hàng hóa ra đời muộn

màng và kém phát triển. Mặt hạn chế đang đƣợc khác phục trong quá trình thực hiện chính

sách mở rộng và phát triển các ngành nghề thủ công truyền thông ở nông thôn hiện nay.

Trong số những nghề thủ công truyền thống đƣợc hình thành từ thời kỳ Đồng Sơn

phải kể đến nghề chạm khắc gỗ, đá, nơi mà óc sáng tạo và bàn tay có hoa của ngƣời Việt

đƣợc thể hiện rõ nhất. Chúng là kế thừa tinh hoa của nghệ nhân Đông Sơn trong việc tạo tác

những đồ án hoa văn khắc vạch trên gốm, hay chạm khác trên trống đồng.

Nhìn chung, trong lĩnh vực sản xuất, trƣớc một thiên nhiên đa dạng, nhiều thuận lợi

nhƣng cũng đầy thử thách khắc nghiệt nhƣ vậy, cách ứng xử của ngƣời Việt cổ cũng thật hợp

lý, linh hoạt: tiến hành nền sản xuất đa canh, thực hành nhiều biện pháp thủy lợi nhằm bảo

đảm kết quả cho mùa màng, khai thác triệt để nguồn lợi tự nhiên của nƣớc và rừng... Trong

cuộc vật lộn kiếm sống này, trong cuộc gian lao dựng nƣớc này

133

đã dần hình thành nên nhiều phẩm chất tốt đẹp mà nổi lên là đức tính cần cù, kiên nhẫn, tinh

thần cộng đồng, gắn bó ...

Từ lĩnh vực lao động sản xuất, dựng nƣớc chuyển sang lĩnh vực đấu tranh, giữ nƣớc,

văn hóa chiến đấu, chúng ta thấy ở ngƣời Đông Sơn, thuật giữ nƣớc cũng thật đặc sắc, tài ba.

Bộ vũ khí Đông Sơn với những lƣỡi rìu chiến cong vút, những thanh kiếm, lƣỡi dao

găm sắc khỏe, những mũi tên 3 cánh nhọn sắc... đã mách chỉ sở trƣờng cận chiến cũng nhƣ

tài cung nỏ của họ. Đời sống sông nƣớc với những con thuyền chở chiến binh đƣợc khắc họa

trên trống đồng Đông Sơn nói lên tài đánh thủy của ngƣời Việt.

Không gian sinh tồn mà ngƣời Đông Sơn tạo dựng là miền đất có vị trí ngã ba giao

lƣu văn hóa và tộc ngƣời cũng là miền đất có nhiều sản vật qúi, hấp dẫn. Hơn nữa ngƣời Việt

lại có ngƣời láng giềng mà ông chủ của nó lại không mấy thiện chí, có thiên hƣớng bành

trƣớng. Yếu tố xã hội khách quan mà ngƣời Việt buộc phải gặp này đã khiến họ, để tồn tại và

phát triển đƣợc, cần thiết phải dùng sức mạnh của cả cộng đồng để chống lại. Điều đó có

nghĩa là, khi đất nƣớc có biến, ngoài đội quân thƣờng trực mới hình thành còn ít ỏi về qui mô

và sức mạnh có hạn này, thì buộc phải động viên đƣợc sức mạnh tối đa ở mọi thành viên

cộng đồng. Những bằng chứng về đội quân thƣờng trực đƣợc phản ánh qua sự hiện diện của

tòa thành Cổ Loa đồ sộ, ở kho mũi tên đồng hàng vạn chiếc tìm thấy ở Cầu Vực, ở tỷ lệ vũ

khí đồng thau chiếm từ 1/3 đến quá 1/2 toàn bộ đồ đồng ở các di tích Đông Sơn tiêu biểu.

Cũng vậy qua phân tích thành phần đồ tùy táng chôn theo trong các khu mộ Đông Sơn này

chúng ta phần nào có thể hình dung đƣợc vị trí của ngƣời dân vũ trang trong sự nghiệp giữ

nƣớc. (Bảng 4)

Giả định rằng, những ngôi mộ chỉ chôn theo vũ khí và đồ dùng sinh hoạt là những mộ

của chiến binh, còn nếu có thêm, cả công cụ sản xuất nữa là những mộ của dân binh. Mối

tƣơng quan tỷ lệ (20,9/30,6) giữa 2 loài mộ đó cho thấy lực lƣợng dân binh cũng có một vai

trò đáng kể.

Tính chất toàn dân của chiến tranh, ý thức trách nhiệm giữ nƣớc của toàn dân cộng

đồng: còn đƣợc thể hiện ở sự tham gia của phụ nữ, của thanh thiếu niên vào sự nghiệp thiêng

liêng đó. Hình tƣợng ngƣời phụ nữ quyền quí trên các chuôi dao kiếm và cả những bằng

chứng có sức thuyết phục cao hơn nữa là sự có mặt của những ngôi mộ phụ nữ, mộ thiếu niên

có chôn theo vũ khí mà ở đó xƣơng cốt giúp định giới đƣợc cho thấy trong số 20 mộ đƣợc

biết thuộc nam giới 13, nữ 4 và thiếu niên 3. Tƣ chất đó đã trở thành truyền thống ngay từ

thời Đông Sơn, qua hình tƣợng đẹp đẽ của chú bé làng Gióng.

134

BẢNG 4 :THÀNH PHẦN ĐỒ TÙY TÁNG TRONG CÁC MỘ ĐÔNG SƠN TIÊU BIỂU.

Loại đồ tùy táng

Khu mộ Không có đồ tùy táng Chí có đồ sinh hoạt Công cụ và đồ sinh hoạt Vũ khí và đồ sinh hoạt Vũ khí, công cụ và đồ sinh họat

Tỷ lệ Tỷ lệ Tỷ lệ Tỷ lệ Tỷ lệ Số lƣợng

Vinh Quang 37,2 11 21,5 7,8 Số lƣợng 19 Số lƣợng 4 Số lƣợng 14 27,4 Số lƣợng 3 Số lƣợng mộ 51 5,8

Phú Lƣơng 36 11 30,5 12 33,3 13,8 7 19,4 2,7 1 5

Làng Cả 219 172 78,5 10 4,5 2,7 22 10,0 4.1 9 6

5 Núi Nấp 22 4,5 4 18,1 22,7 7 31,8 22.7 1 5

Đông Sơn 102 0,9 38 37,2 6,9 28 27.4 28 27,0 1 7

Thiệu Dƣơng 116 2,5 56 48,2 7,7 23 19,8 25 21,5 3 9

Làng Vạc 226 21 9,2 112 49,5 35 15,4 24 10,6 34 15

Tổng cộng 772 228 23,3 243 30,3 71 11,0 125 20,9 105 13,6

Chính cái bối cảnh tƣơng quan nhỏ - lớn, yếu - mạnh mà lịch sử đã đặt ngƣời Đông

Sơn vào khiến họ trong chiến đấu đã sớm chọn đƣợc cách đánh mƣu lƣợc khôn khéo là tránh

đối đầu trực diện khí đối phƣơng còn đang mạnh gấp bội, cũng không trụ lại trong thành cao

hào sâu để hứng chịu đòn tấn công mà lại bỏ tránh vào rừng rậm, đầm lầy tổ chức đánh lâu

dài, dùng phụcc kích, tập kích và cận chiến để tiêu diệt quân địch. Lối đánh này đƣợc ngƣời

Tây Âu, Lạc Việt - một bộ phận hữu cơ của cƣ dân nƣớc Âu Lạc sau này - thể hiện trong

cuộc kháng chiến chống Tần vào cuối thế kỳ 3 trƣớc công nguyên.

Một hiện tƣợng đáng ghi nhận nữa khi phân tích cách thức mai táng của ngƣời Đông

Sơn là dù ở các ngôi mộ thuộc tầng lớp bình dân hay quí tộc trong bộ đồ tùy táng, ngoài đồ

dùng sinh hoạt, những trang sức cá nhân, thƣờng gặp cả công cụ sản xuất và vũ khi: lƣỡi cày bên cạnh lƣỡi kiếm, chiếc đục bên cạnh ngọn giáo... Hiện tƣợng đó đƣợc khảo cổ học sập

thƣờng xuyên ở hầu hết các khu mộ táng Đông Sơn là một minh họa sống động về cái ý thức

thƣờng trực trong thế ứng xử của ngƣời Việt cổ : lao động và đấu tranh, dựng nƣớc và giữ

nƣớc là hai mặt cơ bản của cuộc sống hòa quyện vào nhau, bảo đảm cho sự tồn tại và phát

triển của cộng đồng. Nguồn sống mãnh liệt

135

này của văn hóa Việt Nam đƣợc khỏi tạo và khơi dòng từ thời xa xƣa đó. ( Chử Văn Tân

1994 : 10 ).

Trong thời kỳ Đông Sơn, ngƣời Việt đã tập hợp thành quốc gia - dân tộc. Khối cộng

đồng đó đƣợc tổ chức và vận hành nhƣ thế nào để trở thành một quốc gia một dân tộc lơn

mạnh nhƣ ngày nay ? Đó cũng là một điều kiện hết sức quan trọng và cần thiết, một động lực

mạnh mẽ để tồn tại ổn định và phát triển vững chắc của cộng đồng. Khảo sát đặc điểm hình

thành các điểm cƣ trú, các cụm cƣ trú và các trung tâm cƣ tru cùng những kết cấu cƣ dân biểu

hiện qua nhà ở cũng nhƣ kết cấu thành phần cƣ dân qua mộ táng Đông Sơn cho hay : gia đình

là đơn vị xã hội cơ sở tồn tại trong lòng mỗi làng xã đƣợc hình thành từ các nhóm cƣ dân

khác nhau thƣờng quanh một hay vài ba dòng họ lớn nổi lên tạo cho công xã nông thôn một

sắc thái làng họ. Gắn thành cụm một số làng - họ này thành một tổ chức liên làng dƣới hình

thức kết chạ. Và trùm lên tất cả ở phạm vi toàn cộng đồng là tổ chức siêu làng hay nƣớc. Đó

là hình ảnh xã hội cổ truyền của ngƣời Việt." Nhân tố có tác dụng quyết định của quá trình

hình thành dân tộc ta là thời Vua Hùng, đƣa đến sự ra đời của nƣớc Văn Lang và nƣớc Âu

Lạc một hệ thống thế chế xã hội chính trị chi phối toàn bộ cuộc sống của cộng đồng ngƣời

Việt lúc bấy giờ bằng cách tập hợp các bộ lạc trong một địa bàn ngày càng đƣợc mở rộng. Hệ

thống đó là gia đình (nhà), làng và nƣớc ... Trở lại hệ thống gia đình (nhà) làng, nƣớc, chúng

ta phải thấy mối quan hệ hữu cơ, sự gắn bó ngƣợc xuôi giữa ba cơ cấu chính trị và xã hội mà

sức mạnh tổng hợp của nó có liên quan mật thiết đến sự tồn tại và hƣng thịnh của dân tộc.

Trong lịch sử lâu dài của nƣớc ta, hệ thống cơ cấu này là cột trụ làm nên sức, sống của dân

tộc, nó là ba cái khâu của một sợi dây chuyền không gì phá vỡ nổi, mỗi khâu đều có tầm quan

trọng của nó, và tất nhiên thiếu nó thì không còn là sợi dây chuyền " (Phạm Văn Đồng 1994).

Một khía cạnh quan trọng khác khi khảo sát bản sắc Việt trong văn hóa quản lý hay

văn hóa xã hội là tìm hiểu thuật" trị nƣớc " của lớp ngƣời đƣợc đặt ở vị trí chèo lái. Chứng cớ

về lĩnh vực này dƣờng nhƣ là khoảng trắng trong khảo cổ học, chỉ còn nhận ra lờ mờ trong ký

ức dân gian phản ánh trong truyền thuyết, hay trong các đoạn sử muộn mang tính chất hồi cố

sau này. Hình ảnh, thời Hùng Vƣơng," vua tôi cùng đi cày" nói lên tác phong xâm nhập thực

tiễn cuộc sống, đi sát dân của các bậc vua hiền. Hành động mất cảnh giác của Thục Phán,

mắc mƣu chia rẽ của kẻ thù, làm tan rã khối đoàn kết dân tộc khiến cơ đồ đắm biển sâu. Lời

thề của Trƣng Trắc khi dựng cờ khởi nghĩa đƣợc Thiên nam ngữ lục, áng sử ca dân gian thế

kỷ thứ 18 diễn tả lại:

Một xin rửa sạch nước thù,

Hai xin đem lại nghiệp xưa họ Hùng.

Ba kẻo oan ức lòng chồng,

Bốn xin vẻn vẹn sở công lênh này.

136

Từ trong lời thề đó, toát lên "phẩm chất cao cả của ngƣời đúng đầu cuộc khỏi nghĩa, ở

đây chúng ta thấy cái nghĩa cả, cái nghĩa vụ và trách nhiệm với dân với nƣớc đƣợc đặt lên

hàng đầu, rửa hận mất nƣớc giành lại độc lập tự do cho dân tộc ở đó cũng thấy rõ ý chí dựng

lại và bảo vệ nền văn hiến của dân tộc không để nó mai một lụi tàn. Phẩm chất đó của Bà

Trƣng - của ngƣời lãnh đạo cũng là hiện thân của tính cách Việt một nét đặc sắc trong bản sắc

văn hóa việt có từ thời dựng nƣớc.

Cùng với lao động, sinh sống và đấu tranh để bảo tồn và phát triển, toàn bộ những

hoạt động khác còn lại nhằm thỏa mãn nhu cầu và hoàn thiện cuộc sống của con ngƣời cả về

mặt vật chất lẫn về mặt tinh thần. Đó là sinh hoạt hàng ngày của con ngƣời. Trong văn hóa

sinh hoạt này xét ở góc độ sinh học, thì việc ăn, mặc, ở, đi lại... lại là điều kiện sống tiên

quyết trƣớc cả lao động sản xuất nó vừa là động cơ vừa là mục đích của lao động sản xuất.

Những phƣơng tiện và phƣơng thức sinh hoạt đó đƣợc thể hiện rất đa dạng và sinh động ở

các kiểu món ăn, đồ mặc, nhà ở, các phƣơng tiện đi lại đƣợc các nhân tố tự nhiên và xã hội,

các điêu kiện sống cụ thể qui định dần trở thành lối sống, thành sở đắc khẩu vị, ý thích riêng

của cộng đồng, thậm chí cho từng dòng họ, từng gia đình, từng thành viên của cộng đồng đó..

Về mặt văn hóa vật chất, ngƣời Đông Sơn đã có những sở trƣờng, ƣa thích, thói quen

gì trong lối sống của họ?

Tìm hiểu những đặc điểm văn hóa này với việc phải dựng lại những hình ảnh cụ thể

của ngƣời xƣa sẽ có tác dụng nhƣ lập một bảng tuần hoàn các yếu tố văn hóa để có thể chọn

ra những yếu tố hợp, cho ta một phản ứng thuận trong việc tạo ra những chuẩn mực cho nếp

sống văn hóa mới.

Trƣớc hết nói về nơi ở, theo nghĩa rộng bao hàm cả không gian cƣ trú, địa bàn quần

cƣ của ngƣời Đông Sơn.

Vốn là cƣ dân thạo nghề nông, trồng lúa nƣớc, ngƣời Việt cổ đã triển khai không gian

sống theo hƣớng chiếm lĩnh các vùng châu thổ.

Bản đồ cƣ trú của ngƣời Phùng Nguyên - Đông Sơn với những điểm tụ cƣ dày đặc ở

trung du, đồng bằng, dọc theo các dòng sông, ven biển với các bãi phù sa màu mỡ phì nhiêu.

Thời đại Đông Sơn là thời kỳ có những biến động xã hội lớn, bên trong đã có sự phân

tầng, sự đụng độ và sáp nhập, bên ngoài thì mối đe dọa xâm lấn ngày một tăng, do vậy yếu tố

phòng thủ trong cƣ trú lại càng đƣợc chú ý đặc biệt đối với các trung tâm - nơi tập trung các

lực lƣợng điều hành của mỗi khu vực, hay toán cộng đồng. Việc dựng mộc sách, đắp thành

quách nhƣ thấy ở Cổ Loa là một thể nghiệm tìm tòi. Song

137

xuất phát từ thế và lực của mình, lợi dụng địa thế thiên nhiên hiểm yếu, ngƣời Việt cổ sớm

nhận ra cái ƣu thế sử dụng vành đai tự nhiên Núi - Nƣớc, đặc biệt vành đai nƣớc để cắm đất

dựng nghiệp. Ví nhƣ Làng Cả - Kinh đô Văn Lang xƣa có cánh cung nƣớc là sông Hồng che

chắn. Khu di tích Đông Sơn - một trung tâm khác ở phía Nam của nƣớc Văn Lang, Âu lạc, lại

có dây cung nƣớc là sông Mã và cánh cung đất là Núi Rồng bao bọc. Còn địa điểm Làng Vạc

thì lại nằm lọt trong tứ giác Núi- Nƣớc của núi Hòn Xƣởng, Suối Vạc và Sông Hiếu.

Về nhà ở, căn cứ vào vết tích những đoạn gỗ có vết gia công đục đẽo, vào hình khắc

ngôi nhà trên trống đồng, vào các nền đất nện đi kèm với các hố cột ở nhiều di chỉ cƣ trú, có

thể thấy ngƣời Việt cổ đã sống trong các ngôi nhà sàn có mái cong hình thuyền hay mái

khum kiểu mu rùa, cũng nhƣ trong các ngôi nhà trệt, nền đất. Nhà sàn mái cong có trang trí

hình đầu chim ở 2 đầu nóc, bên trong mô tả cảnh đánh trống, chơi trò trồng nụ, trồng hoa,

mồm ngƣời há rộng nhƣ đang ca hát chắc hẳn đó là nơi hội họp sinh hoạt của dân làng. Còn

những nhà nền đất lại cho thấy rằng, khi ngƣời Việt định đồng bằng, chinh phục khai phá

những khoảng đất hoang rừng cây rậm rạp, khiến môi trƣờng thay đổi dẫn tới quá trình

chuyển ở từ nhà sàn sang nhà đất. Song bản sắc nhà ngƣời Việt là ở cái hƣớng nam mát mẻ

của nó, là ở cái hiên xoải rộng ra sân nhập vào khung cảnh tự nhiên của ao vƣờn thoáng đẵng

xung quanh.

Ăn uống cũng là một dạng sinh hoạt ở đó có thể nhận ra cái bản sắc riêng của mỗi dân

tộc. Cái độc đáo ở đây không phải chỉ ở các món ăn đặc sản cầu kỳ mà thực chất là ở bữa ăn

hàng ngày. Tuy ngƣời Phùng nguyên - Đông Sơn không để lại cho chúng ta những thực đơn

của họ một cách trực tiếp, đầy đủ, song chúng ta vẫn có thể nhận ra qua sinh hoạt cổ truyền ở

nông thôn nƣớc ta, qua nhữn đoạn ghi chép trong sử liệu thành văn và đặc biệt qua các câu ca

dao, tục ngữ. Những tài liệu gián tiếp đó đặt bên cạnh những vật thật trực tiếp của ngƣời thời

ấy để lại khiến tài liệu khảo cổ học trở nên sinh động hơn và đây đủ hơn. Những hạt lúa gạo

tìm đƣợc ở nhiều địa điểm khảo cổ học thời này, thuộc đủ các loại: hạt tròn, hạt dài, thóc nếp,

thóc tẻ, lúa chiêm, lúa mùa. Cùng với cảnh giã gạo chảy tay, sàng xảy khác trên các trống

đồng Ngọc Lũ, Cổ Loa, nhƣng hoa văn bông lúa trên vòng tay đồng tìm thấy ở Đông Sơn,

hay trên các trống đồng phản ảnh một cách sinh động những điều ghi trong Lĩnh nam chích

quái: thời Hùng Vƣơng " đất sản nhiều gạo nếp ".

Cùng với vết tích lúa gạo, còn tìm thấy nhiều vỏ quả bầu dùng làm khèn, làm gáo gặp

trong các ngôi mộ thuyền thời Đông Sơn, rồi cả những hạt đậu nữa đã làm nổi lên "cái chất

văn minh thực vật (P.Gourou) trong nền văn minh Đông Sơn. Tô đậm cho tố chất này còn là

một loạt các hạt quả, trái cây nhƣ trám, na, mơ, vài, nhãn, cam ... có niên đại Đông Sơn tìm

thấy ở nhiều nơi. Đó là những thú hoa quả lâu đời thơm ngon

138

và hữu ích đƣợc ƣa chuộng, trồng phổ biến khắp nơi trong nƣớc ta và đã trở thành đặc sản

của Việt Nam.

Đạm động vật là thành phần dinh dƣỡng quan trọng cho phát triển thể lực và trí lực

con ngƣời. Tuy đạm động vật hiếm do nguồn săn bắt cung cấp ngày một cạn, còn thịt từ

nguồn chăn nuôi lại ít, hiếm do hạn chế của môi sinh, để bù lại, tận dụng ƣu thế của môi

trƣờng sông nƣớc, ngƣời Việt cổ đã khai thác triệt để nguồn đạm thủy sản. Cua ốc vẫn là

nguồn thức ăn dƣờng nhƣ là chủ yếu thƣờng ngày của ngƣời Hòa Bình tổ tiên xa xƣa của

ngƣời Việt, đối với ngƣời thời Hùng Vƣơng, nguồn thức ăn này vẫn có mặt trong bữa ăn

hàng ngày của họ đƣợc xác minh qua vết tích càng cua, vỏ trai ốc, xƣơng cá trong các nơi ở

của ngƣời thời này. Hình ảnh cá đƣợc khắc vẽ trên đồ gốm Gò Chiền. Cũng vậy hình ảnh con

cá, con ốc đã đƣợc khắc vẽ, đúc tạc trên trống đồng, thố đồng, muôi đồng ... Và hình ảnh con

cá sau này đã thấm sâu vào sinh hoạt của nhân dân, có mặt ở khắp nơi, cái mô hình con cá ở

điểm làng Vân Nội. Con cá chép thờ sơn son thiếp vàng trong đền thờ Chử Đồng Tử ở xã Dạ

Trạch (Hải Hƣng), ở hội làng Me (Hà Tây) ngƣời ta đã tế thần Tản Viên bằng cá nƣớng. Rồi

hình ảnh con cá và ngƣời đi câu xuất hiện ở vị trí thứ hai chỉ sau những ngƣời rƣớc bông lúa,

đi cày, đi cấy, trong trình diễn trò Trám ở Tứ Xã (Vĩnh Phú).

Tận dụng mọi mặt nguồn lợi tự nhiên với hƣớng tập trung khai thác ƣu thế vùng đã

tạo ra nguồn thức ăn phong phú mà cách chế biến độc đáo của nó đã tạo ra các món ăn truyền

thống ƣa thích, thành nét riêng hằng xuyên trong sinh hoạt ăn uống của ngƣời Việt.

Cơm - canh có thêm cá, với nhiều hình thức chế biến, thành các món ăn rất Việt Nam:

cơm tẻ cùng với cơm nếp, xôi vò, bánh dày, bánh chƣng, canh mồng tơi, rau đay, canh chua,

canh cua, canh cá cùng với cá nƣớng cá gỏi, mắm tôm, mắm cá ... Ngƣời Việt Nam, dù sống

ở đâu, nhớ về quê hƣơng đều thầm nhớ huơng vị của các món ăn dân tộc này.

Phân tích bộ đồ dùng trong sinh hoạt ăn uống hàng ngày của ngƣời Đông Sơn, chúng

ta thấy một thành phần ổn định và thƣờng gặp bao gồm các loại nhƣ : các nồi đun nấu có kích

cỡ nhỏ vừa thích hợp dùng cho một gia đình nhỏ. Các bát đựng thức ăn kiểu chiết yêu, chân

cao, đáy thót dùng để đựng canh... Rõ ràng là các đồ vật này đƣợc dùng chung cho mọi ngƣời

trong bữa ăn. Từ đó ánh lên một tập quán "ăn cùng mâm, ngồi cùng chiếu" một thói quen

dùng chung thức ăn mà không chia thành khẩu phần riêng tuy vẫn ngồi chung một bàn (Chử

Văn Tân 1994).

Đầu tóc, trang phục : Những biểu hiện bề ngoài của con ngƣời, bên cạnh những dấu

ấn môi trƣờng và hoàn cảnh xã hội, chúng ta thấy nổi bật lên cái dấu ấn tộc ngƣời.

139

Và cái sắc tộc ở đây là sự tổng hòa và phƣơng thức kết cấu các đặc trƣng của ba mặt trên. Tài

liệu khảo cổ học hiện biết tuy còn rời rạc, nhƣng đƣợc đặt dƣới ánh sáng của những tƣ liệu

thành văn và dân tộc học, có thể cho chúng ta những đƣờng nét chung nhất và dáng vẻ bề

ngoài của ngƣời Việt cổ.

Tổ tiên ta rất chú ý đến cách để đầu tóc, xem "cái răng, cái tóc là góc con ngƣời". Qua

những bức tƣợng ngƣời trên cán dao găm và hình khắc trên các đồ đựng và trống đồng, cũng

nhƣ các tƣợng tròn trên thạp Đào Thịnh thuộc văn hóa Đông Sơn, chúng ta thấy ở cả nam lẫn

nữ đều có hai kiểu để tóc cơ bản khác nhau : cắt ngắn và để dài. Và cả hai cách để tóc đều

nhằm tạo thuận lợi cho sự thích nghi với môi trƣờng sống. Cắt tóc ngắn để tiện đi lại trong

rừng hay bơi lội dƣới nƣớc nhƣ nhận xét đƣợc ghi trong sử sách xƣa.

Ngƣời Việt cổ ít nhất có ba cách xử lý tóc dài : tết tóc thả sau lƣng (tƣợng cán dao

găm Thủy Nguyên), búi tóc cuốn sau gáy (tƣợng ngƣời thổi khèn trên cán muôi đồng Việt

Khê), buộc tóc đuôi gà (hinh ngƣời chèo thuyền trên trống đồng Miếu Môn).

Ở trần, đóng khố, đi chân đất là hình ảnh thân quen về ngƣời đàn ông xứ Việt, nó

hoàn toàn thích hợp với ngƣời lao động ở xứ nóng. đồng đất thƣờng xuyên lầy lội. Họ còn

làm đẹp thân thể bằng cách xăm lên mình, lên mặt, đôi khi là hĩnh những "loài thủy quái" -

hình giao long, thuồng luồng, cá sấu nhƣ những tín hiệu giao cảm giữa ngƣời với vật tổ để

đƣợc đồng cảm, không bị làm hại. Việc tìm thấy nhiều con dấu bằng đất nung với những

đƣờng khắc sâu thành các đồ án hoa văn hình học đẹp mắt hẳn đƣợc dùng để in hoa văn lên

thân thể hoặc lên đồ mặc bằng vỏ cây hay vải sợi. (Viện bảo tàng lịch sử Việt nam 1977).

Trang phục phụ nữ thƣờng ngày là chiếc áo ngắn xẻ ngực, mảnh yếm che với hai kiểu

váy lửng kín và mở. Váy mặc trong lễ hội thƣờng dài, phủ kín chân có trang trí hoa văn cùng

chiếc bao thả múi phía trƣớc. Trong lẽ hội nam nữ còn thƣờng mặc áo khoác, váy xoè kết

băng lông chim và đội mũ cắm lông chim cao vút.

Võ phục của các thủ lĩnh Đông Sơn có những tấm che ngực bằng đồng vuông phẳng,

hay hình chữ nhật cong theo lồng ngực, những đai lƣng có khóa và những bản móc lại với

nhau đƣợc đúc phẳng hay tạo thành các cặp tƣợng rùa hay chim, đôi khi còn đƣợc đính thêm

những chùm nhạc nhỏ. Có cả những khâu đeo dao kiếm bằng đồng,

Chắc chắn rằng các đồ mặc và cả các đồ dùng che thân đắp phù khác của ngƣời Đông

Sơn đều đƣợc kết bằng vỏ cây có xơ đập dập hay bằng vải. Đôi khi trong các ngôi mộ táng

Đông Sơn còn gặp thấy vết tích là những mảnh vải thô (Hà Văn Phùng 1994).

140

Cùng với quần áo, đầu tóc, đồ trang sức cũng đƣợc ngƣời Đông Sơn đặc biệt ƣa

chuộng, sử dụng rộng rãi ở mọi giới tính, mọi lứa tuổi. Đó là các vòng tay, vòng tai bao tay,

bao chân, các hạt chuỗi đeo cổ vơi nhiều hình dáng, màu sắc và các chất liệu khác nhau. Nổi

bật nhất là những khuyên tai hình vành khăn tròn trịa hay có mấu nhô ra bằng đá ngọc, bằng

thủy tinh với gam màu ƣa thích là trắng ngà, vân xanh hay vân hồng của đá, xanh nƣớc biển,

da trời, tím nhạt hay trắng suốt của thủy tinh, những vòng ống, bao chân, bao tay bằng đồng

đính những chiếc nhạc xinh xắn. Âm thanh leng keng, khoan nhặt làm nổi lên cái tâm tình vui

tƣơi, lạc quan của con ngƣời trong cuộc sống hàng ngày. Tâm lý ƣa chuộng mang đồ trang

sức này, nhƣ ta thấy, về sau có phần giảm đi ở ngƣời Kinh, song vẫn còn thể hiện đậm đà ở

ngƣời Thái, ngƣời Mƣờng, ngƣời Mèo, ngƣời Dao và các dân tộc ít ngƣời ở Tây nguyên. Qua

đây, ở đồ trang sức - một nguyên tố đánh dấu về tộc ngƣời này, có thể nhận ra cái cơ tầng tộc

ngƣời chung ở họ.

Về phương tiện đi lại và vận chuyển : Có thể thấy đƣờng nƣớc là mạch giao thông chủ

yếu. Con thuyền là phƣơng tiện đi lại và chuyên chở phổ cập. Khảo cổ học đã tìm thấy vết

tích con thuyền độc mộc dài tới 5 m ở Ngũ Thái (Hà bắc) cùng với những chiếc quan tài hình

thuyên có niên đại Đông Sơn, dùng để đƣa ngƣời chết sang thế giới bên kia gặp nhiều nhất là

ở vùng đồng bằng trũng. Tục táng dùng quan tài hình thuyền còn bảo lƣu lâu dài mãi về sau ở

ngƣời Kinh, ngƣời Mƣờng.

Trên mặt đất ở vùng lắm núi nhiều rừng thì con voi là con vật tối ƣu giúp ngƣời đi lại

và vận chuyển. Nhiêu tƣợng voi đã gặp trong di tích Làng Vạc, ở đây còn thấy cả tƣợng voi

thồ trống đồng trên lƣng. Sau voi là trâu, một gia súc độc đáo của vùng Đông Nam Á . Con

trậu lại thích hợp với sinh cảnh đầm lầy, ruộng thụt. Xƣơng voi và trâu tìm thấy ở nhiều nơi

cƣ trú của ngƣời Phùng Nguyên - Đông Sơn.

Cùng với mặt ăn ở theo nghĩa đen, tức văn hóa vật chất, là cái mật ăn ở theo nghĩa

bóng hay văn hóa tinh thần của ngƣời Việt cổ cũng thể hiện ra cực kỳ phong phú và đa dạng.

Đó là nên nghệ thuật tạo hình với thể hiện chủ yếu là mỹ thuật trang trí và thực dụng, là âm

nhạc, ca múa, lễ hội, phong tục tập quán, tín ngƣỡng và cả các mặt thuộc tƣ duy, tính cách,

tâm thức, tâm linh ... Ở đây, chúng tôi không thể đi sâu đầy đủ mà chỉ xin khái quát, nhằm

nêu đƣợc những cái chung nhất.

Về phƣơng diện thẩm mỹ, tức những cảm xúc và cách thể hiện cái Đẹp của ngƣời Việt

cổ, chúng tôi muốn nhấn mạnh đến cái chuốt, cái tinh, cái thần thể hiện tập trung trên các vật

phẩm mỹ thuật. Đó là các đồ gốm, đo đồng có các hoa văn hình học đối xứng hài hòa mà ở

đó các đƣờng nét hay nền mảng đƣợc thể hiện rất tỉ mỉ, chọn lọc, tinh tế. Đó là các vòng ống

bằng đá màu sắc nền nã, bản vòng mỏng, rộng nhẵn bóng với các đƣờng gân nhỏ tạo ra do kỹ

thuật tiện tinh tế đều đặn nhƣ những đƣờng ren đối xứng nhau qua một đƣờng sống nổi cao ở giữa tạo ra mặt vòng hình vành khăn,

141

một sản phẩm tuyệt đỉnh của kỹ thuật đá. Cảnh vật và sinh hoạt sống động của con ngƣời

đƣợc khắc hoa tinh tế mà tính cách điệu và tƣợng trƣng bộc lộ ở giai đoạn muộn của văn hóa

Đông Sơn. Các tƣợng tròn Đông Sơn đƣợc phác dựng đại thể về hình khối, các chi tiết chỉ

đƣợc thể hiện và nhấn mạnh ở những bộ phận, những vị trí mà nghệ nhân cho là đắt nhất

nhằm nêu bật đƣợc cái bản chất, cái thần thái tàng ẩn trong đó. Có thể nhận ra phong cách

này qua các pho tƣợng ngƣời trên cán dao găm hay chuôi kiếm ngắn. Các tƣợng này đều có

một phong cách chung nhƣ thân ngƣời thẳng đứng, mắt mở to, hai tay chống nạnh tƣ thế thật

đĩnh đạc tự tin. Còn tƣợng ngƣời tìm thấy ở di chỉ Gò Mun lại có tƣ thế ngồi xổm bó gối đầu

hơi nghiêng toát lên vẻ trâm tƣ suy ngẫm, một trạng thái nội tâm của nhân vật. Với tƣợng

ngƣời thổi khèn gắn trên cán muôi đồng Việt Khê dài thon, đầu cán uốn cong cuộn tròn -

hình ảnh xác thực của một con thuyền, còn tƣợng ngƣời chỉ là cái hình bóng (Silliouette) nổi

lên lờ mờ song lừ đó lại toát lên cái say sƣa của ngƣời nghệ sĩ mà tâm hồn của anh ta lúc này

nhƣ hòa nhập vào cái mông lung của đất trời, sông nƣớc bao la.

Trong nghệ thuật tạo hình thì hoa văn là nôi chứa và thể hiện nổi nét chất mỹ thuật

hơn cả, song việc tạo dáng và cách chọn dùng màu sắc kết hợp cũng nói nhiều đến tinh của

nghệ nhân và chủ nhân các đồ vật đó. Điểm lại toàn bộ đồ vật mà ngƣời Phùng Nguyên -

Đông Sơn tạo ra, chỉ xét riêng về hình dáng và mầu sắc, chúng ta cũng nhận ra cái độc đáo

thấm đậm một cảm xúc thẩm mỹ chung là cái dịu nhẹ, mềm mại, trầm đọng và sâu lắng. Cảm

xúc này đƣợc toát lên rõ nhất khi chúng ta nhìn vào những vòng trang sức bằng đá ngọc của

ngƣời Phùng Nguyên - Đông Sơn. Ở đó sản phẩm đƣợc làm ra có hình dáng thanh mảnh, màu

sắc trang nhã, lắng dịu nhƣ xanh lơ, xanh lá mạ, vàng nhạt, trắng ngà pha lẫn các vân trắng,

nâu, hồng, tím ... những đồ đựng nói chung, dù bằng gốm hay bằng đồng, các bình, nồi, bát,

đĩa. ấm, chén... thì dáng chung của chúng đều tròn trịa, thƣờng nhỏ nhắn và không có hoặc ít

thấy các đƣờng gãy góc, những mảng đắp nổi gồ ghề. Và thậm chí car trên các tƣợng dã thú

nhƣ hổ báo, loài ở nƣớc nhƣ thuồng luồng, cá sấu cũng chìm lẫn đi không lộ rõ cái dữ tợn,

kinh khiếp. Ví nhƣ các pho tƣợng hổ bắt mồi trên thạp Vạn Thắng dù ở tƣ thế vồ hay ngoạm

đều đƣợc thể hiện ôn hoa. Nhìn chung nhịp nhàng cân xứng và hiền hòa là mẫu số chung của

mô hình thẩm mỹ Đông Sơn.

Những nhạc cụ đào đƣợc hay nhận ra ở các hình khắc trên đồ đồng Đông Sơn nhƣ

công, chiêng, sênh, phách, chuông, khèn, đặc biệt là trống đồng, phần lớn thuộc bộ gõ và

đƣợc dùng để truyền tin hay tạo ra sự hƣng phấn đƣợc hút vào sinh hoạt cộng đồng nhƣ nhảy

múa. ca hát... Nhƣng nhạc cụ này chứa rất nhiều nét riêng mang tính tộc ngƣời độc đáo, ví

nhƣ cách tạo dáng và hoa văn trống Đông Sơn với dáng thân thẳng, tang cong lồi, chân choãi

với các hoa văn hình học ƣa thích đi kèm nhƣ hoa văn răng lƣợc, vòng tròn tiếp tuyến, tam

giác răng cƣa hay vòng tròn đồng tâm... Có thể tìm thấy nhiều phong tục, tập quán, tín ngƣỡng, trò chơi, lễ hội của ngƣời Việt cổ còn

142

in dấu trên các di vật khảo cổ.

Đi kèm với tục nhuộm răng đen, là tục ăn trầu mà mảnh cau còn tìm thấy trong di chỉ

Đông Sơn. Tục này về sau đƣợc ngƣời Việt Nam nâng lên thành chuẩn mực -một biểu hiện

của văn hóa giao tiếp.

Các tập tục sinh hoạt cộng đồng khác nhƣ đánh cồng, giã cối, hát đối, bơi thuyền, đâm

trâu, đánh trống đồng, cả đến ý niệm về sự vận động hƣớng trái... đều đƣợc phản ảnh đậm nét

trên các di vật thời Đông Sơn. Các tập tục đó đƣợc diễn ra tập trung hơn cả là ở trong các dịp

dân làng mở hội mà mục tiêu hƣớng vào là cầu mong cho con ngƣời và vạn vật sinh nỏ thịnh

vƣợng, tƣởng nhớ tổ tiên, vui chơi giải trí và rèn luyện kỹ năng sức khỏe.

Về những tập tục phản ảnh ý niệm bao trùm của ngƣời Việt cổ là việc nhận thức và

cách ứng xử với cái sống và cái chết.

Từ quan sát sự sống của bản thân và của vạn vật xung quanh, ở ngƣời Việt đã nảy

sinh và hình thành một quan niệm biện chứng thô sơ về sự sinh thành, vận động và phát triển,

biến hóa của sự vật, sinh ra do quan hệ tác động qua lại của hai mặt đối lập : đất - trời, nƣớc -

lửa, mƣa - nắng, đêm - ngày, cái - đực ... Nhận thức đó đƣợc cô rút lại trong ý niệm phồn

thực và đƣợc thể kiện ra ở vô vàn các vật thể và hiện tƣợng khác nhau : Từ những chiếc sinh

thực khí bằng đất nung đào đƣợc trong di chỉ Mả Đống, pho tƣợng đá có bộ phận dƣơng vật

đƣợc nhấn mạnh tìm thấy ở di chỉ Văn Điển, tƣợng đồng ngƣời đàn ông ở khu di chỉ Đông

Sơn, tƣợng đồng phụ nữ tìm thấy ở Đông Cƣơng (Thanh Hóa) đều có bộ phận sinh dục đƣợc

cƣờng điệu quá mức ... đến những cặp tƣợng nam nữ làm tình đƣợc xếp đặt trang trọng trên

nắp thạp Đào Thịnh ; từ những cặp sinh thực khí tƣợng trƣng đƣợc khác tạc giữa các tia sáng

mặt trời. những cặp hƣơu nai chồn cáo đực cái nối nhau trong vòng quay trái đất, đèn trò chơi

chồng nụ chồng hoa khoèo chân ngoăc tay của con ngƣời ca hát say sƣa dƣới nhịp trống đƣợc

khắc hoa trên mặt trống Đông Sơn.

Tài liệu khảo cổ học chƣa hé mở nhiều cho thấy rõ nét cái ý niệm tưởng nhớ tổ tiên,

sùng kính các anh hùng có công với cộng đồng, song mới chỉ phân tích táng tục của ngƣời

Đông Sơn cũng đã thấy ngay đƣợc sự chăm lo đến cuộc sống ở thế giới bên kia của ngƣời

quá cố. Từ việc bú lót cơ thể chu đáo bằng vài dệt hay cói lá đan bện, đặt cuốn thi thể bằng

nhƣng tấm giát giƣờng hay vỏ cây đặt trong các quan tài hình thuyền đến việc đặt kèm cho

ngƣời quá cố những vật dụng thƣờng ngày nồi, bát, những công cụ sản xuất và vũ khí, đồ

trang sức thậm chí về sau dựng cả những ngồi nhà (nhà mồ hay nhà táng). Trong việc tƣởng

nhớ tổ tiên, thì việc sùng kính Tổ Mẫu xuất phát từ nguyên lý Mẹ, cũng đƣợc thể hiện thật

đậm đà đặc sắc. Đền Tây Thiên thờ Âu Cơ,

143

đền thờ Hai Bà Trƣng có ở nhiều nơi, rộng khắp trong bờ cõi xƣa và nay của ngƣời Việt

Nam. Tục thờ nhân thần (những anh hùng văn hóa và anh hùng trận mạc) là một nét đặc sắc

trong tín ngƣỡng ngƣời Việt phản ảnh cái tâm thức "uống nƣớc nhớ nguồn", nhớ ơn, nặng

tình nặng nghĩa với những ngƣời mang lại đời sống ấm no thanh bình cho cộng đồng.

Mặt quan trọng khác của hoạt động tinh thần là năng lực trí tuệ của ngƣời Đông Sơn

đƣợc thể hiện ở mọi hoạt động và ứng xử. Và ở từng mặt đều có những cái điển hình nổi lên.

Có ngƣời cho rằng quan niệm về vũ trụ của ngƣời Việt cổ bao gồm 3 tầng 4 thế giới

đƣợc thể hiện trên trống đồng Đông Sơn. Ở đó tầng trên là Trời, bầu trời, hay Thiên giới,

đƣợc tƣợng trƣng bằng mặt trời ở chính giữa và nổi cao trên mặt trống. Tầng giữa là Mặt đất,

Trần giới hay Nhân giới, ở đó ngƣời và sinh vật cạn sống đƣợc thể hiện trên các vành hoa văn

tả thực trên mặt trống. Tâng dƣới là Nƣớc và Đất. Thủy giới và Âm ty. Nƣớc đƣợc biểu hiện

qua con thuyền trên tang trống và thế giới Âm là ánh xạ lộn ngƣợc của thế giới Trần.

Quan niệm về biến dịch - hạt nhân của tƣ tƣởng Dịch lý - thể hiện trên mặt trống

Đông Sơn (Phan Công Chánh 1991), có thể coi là một hệ thống triết học - biểu tƣợng của

ngƣời Việt cổ. Trong đó hai mặt đối lập của sự vật liên tục vận hành và chuyển hóa lẫn nhau

(Hà Hữu Nga 1993).

Trí thức về sản xuất nông nghiệp đƣợc thể hiện ở sự nhận thức vai trò hàng đầu của

nƣớc. Những quan sát và kinh nghiệm về thời tiết và thời vụ dẫn tới sự xuất hiện của lịch

nông với hai cực lạnh - nóng, khô - mƣa, Đông - Xuân - Hè - Thu liên tục và chuyển hóa qua

hình tƣợng các cặp đực - cái, hƣơu - chim xen kẽ liên tiếp nhau đƣợc thể hiện trên mặt trống

đồng Đồng Sơn.

Trong lĩnh vực quân sự, thì thành Cổ Loa đƣợc xem nhƣ hiện thân của trí tuệ và tài

năng sáng tạo của ngƣời Việt cổ.

Ở đó họ đã biết lợi dụng sông để làm hào, lợii dụng địa thế các đồi gò, chỉ cần đắp

thêm những đoạn thành nối là có cả một hệ thống vòng thành dài. rộng, đồ sộ.

Nhƣng thành tựu cơ bản nhất, di sản quí giá nhất mà ngƣời Đông Sơn để lại cho hậu

thế là ở chỗ họ đã tạo lập đƣợc, đã định hình đƣợc những đƣờng nét lớn của nền văn hóa

mang đậm đà bản sắc dân tộc mà ở đó cái thần của nó đƣợc hun đúc từ hệ thống những giá

trị, những bản tính, những phẩm chất, những tính cách, những truyền thống về :

• Đức tinh kiên nhẫn, cần cù lao động, kiên định, kiên trì, nhẫn nại, chịu

144

đựng gian khổ khi phải đối mặt với một thiên nhiên hà khắc : lũ lụt lắm hạn hán nhiều, tàn

phá công trình thủy lợi, mùa màng, cũng nhƣ chịu đựng đau khổ khi phải tạm sống dƣới ách

áp bức của kẻ thù. Mặt đối lập với kiên nhẫn là kiên quyết, là kiên cƣờng, là thế vùng lên đổi

thay sự vật. Kiên cƣơngf khắc phục thiên nhiên bằng ra sức đắp đê khơi mƣơng, làm mới

những cái bị phá hoại nhằm có đƣợc những vụ mùa bội thu. Kiên quyết chống lại kẻ thù,

giành lại độc lập, tự do. Ngƣời xƣa đã lấy hình tƣợng con rùa và con cóc để biểu trƣng cho

đức tính đó. (Cóc trên các trống đồng Đông Sơn, rùa trên khóa thắt lƣng Làng Cả).

• Tinh thần tập thể, tính cộng đồng đƣợc gói lại trong chữ công và đƣợc mở ra ở hai

vế : công cộng và công ích. Từ đó toát lên vẻ đẹp của tâm hồn Việt Nam đong lại trong hai

tiếng trách nhiệm. Đức tính này đƣợc tạo ra do nhu cầu khách quan.

Nền sản xuất nông nghiệp trồng lúa nƣớc đòi hỏi phải tuân thủ sít sao tính thời vụ : từ

khâu làm đất đến khâu thu hoạch, không thể để chậm trễ ở khâu nào. Nông nghiệp lúa nƣớc

cũng đòi hỏi việc bảo đảm có nƣớc đầy đủ, không thừa, không thiếu cho cây lúa sinh trƣởng.

Muốn vậy phải đắp đê phòng lụt, be bờ giữ nƣớc, đào mƣơng dẫn nƣớc. Công việc làm này

đòi hỏi sức lức của nhiều ngƣời, đòi hỏi sự hiệp lực của cả làng xã hay liên làng xã.

Cũng vậy, việc chống lại một đối phƣơng lớn mạnh hơn mình gấp nhiều lần lại

thƣờng xuyên đe dọa xâm lấn. Để chống lại có hiệu quả, ắt hẳn phải cần đến công sức của cả

cộng đồng.

Trong bối cảnh sống nhƣ vậy thì cái cộng đồng đồng bao giờ cũng vƣợt lên trên cái cá

thể. Từ đó, cái nghĩa vụ, cái vị tha đƣợc nhấn mạnh, đƣợc đề cao trƣớc cái vị kỷ. Cái ý niệm

sống ở làng, một miếng giữa làng, trở thành chuẩn mực ứng xử của ngƣời Việt Nam chắc hẳn

có cội rễ từ thời dựng nƣớc đầu tiên đó.

• Lòng nhân ái, khoan dung, sống rộng bụng, có tình nghĩa là truyền thống quí báu

của nhân dân ta. Tính nhân bản này đƣợc nảy sinh từ tính ôn nhu của ngƣời làm nông nghiệp

lúa nƣớc hẳn đã đƣợc hình thành từ thời Đông Sơn. Chính cái công việc làm ăn đầy vất vả và

nhiều éo le này, cái thực tiễn ba tháng trông cây không bằng một ngày trông quả này, khiến

con ngƣời sống trong thấp thỏm lo âu, trƣớc những tai họa nhƣ "nƣóc lụt thì lút cả làng"

không chỉ ập đến với riêng ai đã khiến con ngƣời ý thức đƣợc phải đùm bọc lẫn nhau.

145

• Tính cách mềm dẻo, lối ứng xử linh hoạt, không câu nệ cũng bắt nguồn từ hoàn cảnh

sống của ngƣời Đông Sơn. Một tấc đất có giá trị nhƣ một tấc vàng này vì con ngƣời phải đổ

nhiều mồ hôi triệt để tận dụng nó để trồng cấy mọi thứ có thể trồng, cần trồng đỗ bên ngô,

cần đƣa cây lúa lên cao, xuống trũng, cải biến giống làm nảy sinh nhiều giống lúa mới thích

nghi với sinh thái. Về mặt xã hội, sống bên cạnh một nƣớc lớn, có nền văn minh rực rỡ,

ngƣời Việt cổ muốn tồn tai, giữ đƣợc cái TA, dĩ nhiên là phải có thái độ ứng xử linh hoạt.

không thể cứng khi cần mềm, không thể bài khi cần nhập. Chấp nhận nhân nhƣợng để tránh

tổn thất vô ích. Có bản lĩnh, tiếp thu có chọn lọc để làm phong phú mình. Từ thực tiễn cuộc

sống đó đã đẻ ra nghệ thuật ứng xử linh hoạt nhƣ nƣớc ấy. Và con rắn - biểu tƣợng của nƣớc,

cũng đƣợc ngƣời Đông Sơn lấy làm biểu tƣợng cho tính cách này. Ngƣời ta đã tạc tƣợng

những đôi rắn quấn nhau, mồm đỡ lấy chân voi hoặc chân báo làm thành chuôi những con

dao găm đƣợc các chiến binh Đông Sơn mang bên ngƣời nhƣ một vũ khí tự vệ cũng nhƣ một

thứ bùa hộ mệnh.

• Triết lý dung hợp đƣợc biểu hiện trong chữ HÕA cũng góp tạo nên bản sắc văn hóa

Việt Nam. Khi trở thành dân tộc, ngƣời Việt cổ vốn là một cộng đồng nhỏ bé bên cạnh một

nƣớc lớn mạnh, nhƣng nhờ lòng yêu quê hƣơng thiết tha, mảnh đất đã phải đổ biết bao mồ

hôi. sôi biết bao nƣớc mắt mói có đƣợc, đã khiến ngƣời Việt Nam sớm có đƣợc tinh thần độc

lập. ý chí tự cƣờng, tự khẳng định cái TA, tự tạo cho mình một chỗ đứng dƣới bầu trời. Xuất

phát, từ ý thức đó, trong bối cảnh lịch sử đó ngƣời Việt cổ đã tìm mọi cách để tạo sức mạnh

cho mình, đã thâu tóm mọi cái hay của ngƣời cũng nhƣ đã đồng tâm hiệp lực trong lao động,

đoàn kết trong đấu tranh chống xâm lƣợc. Tƣ duy dung hòa chi phối toàn bộ văn hóa truyền

thống Việt Nam (Hà Văn Tấn 1994). Vốn có bản lĩnh và ý chỉ tạo lập cho mình một nền văn

hóa có sức sống mạnh mẽ, lại đƣợc tƣ tƣởng HÒA dắt dẫn, ngƣời Việt Nam đã tạo đƣợc một

biệt tài riêng, một tính cách riêng độc đáo là biết biến cái của ngƣời thành của mình (Phan

Ngọc 1993).

• Dũng cảm cũng là một phẩm chất, một tự chất Việt. Phẩm chất này cũng đƣợc nảy

sinh trong những bối cảnh tự nhiên và xã hội đƣợc phân tích ở trên. Thời đại Đông Sơn, là

thời đại mà nhiều cộng đồng ngƣời trong khu vực chuyển mình thành giai cấp, thành quốc gia

- dân tộc. Mà quốc gia không phải là một cộng đồng văn hóa tự nhiên, mà là một

146

cộng đồng quyền lực... chỗ dựa chủ yếu của quyền lực là sức mạnh quân sự. "Chiến tranh là

biện pháp thƣờng dùng để mở rộng hay bảo vệ biên giới vì lợi ích quốc gia" (Nguyễn Tấn

Đắc 1993). Sức mạnh quân sự đƣợc thể hiện ở cả hai mặt vật chất và tinh thân, vũ khí, kỹ

thuật quân sự và lòng dũng cảm, mƣu lƣợc. Ở ngƣời Đông Sơn cả hai mặt của sức mạnh đó

đều thể hiện rất rõ và cái nọ nói lên cái kia.

Tóm lại, đi vào lớp văn hóa đầu tiên - lớp văn hóa thuộc văn minh sông Hồng, chúng

ta thấy ngƣời Việt cổ thời Đông Sơn đã tạo đƣợc một phổ sắc văn hóa mà nhiều sắc màu

trong đó góp tạo thành bản sắc của văn hóa Việt Nam sau này.

Và khảo cổ học chứng tỏ đƣợc khả năng"... góp phần xác định tính chất và truyền

thống của nhân dân Việt Nam, bản lĩnh và tâm hồn của dân tộc Việt Nam. Nó chứng tỏ, trong

lĩnh vực của mình, những đức tính cổ truyền cửa nhân dân Việt Nam là cần cù, dũng cảm,

sáng tạo, có sức sống mãnh liệt, có tinh thần tập thể trong lao động và đoàn kết trong chiến

đấu chống ngoại xâm v. v..." (Trƣờng Chinh 1978). Những tính cách, phẩm chất, truyền

thống và đức tính cổ truyền đó chính là những sắc màu, là bản sắc của văn hóa Việt cổ, mà

chúng ta đang ra sức nghiên cứu. Đó là những mặt tốt cần nhấn mạnh, cấn đề cao, cần phát

huy. Song nói nhƣ vậy không có nghĩa là trong những hằng số văn hóa không có mặt hạn chế,

mặt không tốt. Bởi lẽ sự vật đều có hai mặt đối lập luôn chuyển hóa lẫn nhau và mọi cái tồn

tại đều có giới hạn của nó, quá đi đều có khả năng không còn là nó nữa. Vấn đề là ở chỗ phụ

thuộc vào cách nhìn nhận (biện chứng hay máy móc) và vào khả năng điều tiết của con ngƣời

(nắm đƣợc và làm theo quy luật hay chủ quan duy ý chí). Và khi nói đến một phẩm chất, một

tính cách hay một truyền thống, nó dễ là cái này, dễ là cái kia, có nghĩa là chúng ta mới chỉ

nói đến khả năng. Và mỗi khi mới chỉ là khả năng (dù ít dù nhiều) thì đậu đƣợc coi là cái tất

yếu. Khi xác định một loại hành vi nào đó là phẩm chất hay là tính cách của một dân tộc có

nghĩa là chúng ta phải định đƣợc tính trội của hành vi đó và sự tồn tại của nó phải là ở bộ

phận đa số của dân tộc đó.

Đức tính kiên nhẫn cũng vậy, tự nó không thể đẻ ra nhu nhƣợc, an phận, cam chịu,

cùng lắm cũng chỉ là nhẫn nhục để chờ thời cơ. Trong một con ngƣời hay một bộ phận của

cộng đồng có thể có đức tính yếu hèn này, song ngƣời Việt Nam nói chung là một dân tộc

kiên cƣờng, bất khuất. Nếu khác đi hẳn dân tộc đó đã bị đồng hóa diệt vong.

Lễ hội, cúng giỗ là một hành vi đẹp về tƣởng nhớ tổ tiên, những ngƣời anh hùng có

công với nƣớc. Song cúng bái tràn lan, sùng bái, mọi thứ đều cho là thiêng, là thần bí... lại là

biểu hiện của mê tín dị đoan, một hoạt động mê hoặc làm tâm thức con ngƣời u tối, cần bài

trừ.

147

Cũng vậy, tính dung hòa là giá trị căn bản của văn hóa Việt Nam, nó giúp làm giàu và

mạnh cho nền văn hóa và cho dân tộc. Bản tính này đôi khi hoặc dễ (song không nhất thiết)

dẫn tới thỏa hiệp, ba phải. Điều đó nhắc nhở con ngƣời phải cẩn thận, cảnh giác, đề phòng,

phải biết điều tiết đúng mức.

Tuy nhiên, có và cần chỉ ra những mặt yếu do hoàn cảnh và điều kiện khách quan, hạn

chế của lịch sử đem lại và để lại. Ví nhƣ tác phong sống lề mề, chậm chạp, không tiếc thời

gian "tháng giêng là tháng ăn chơi" còn gặp khá phổ biến hiện nay có nguyên nhân sinh thành

trong môi trƣờng tự nhiên và hoàn cảnh kinh tế của một xã hội trồng lúa nhiệt đới: cảnh thanh

bình của đồng quê, những chu kỳ nghỉ của sản xuất, những dịp nông nhàn, mà kinh tế phụ lại

ít phát triển và phƣơng thức tiến hành làm ra sản phẩm cũng không đòi hỏi khẩn trƣơng,

chuẩn xác về thời gian.

Nền kinh tế tự cấp tự túc tồn tại lâu dài, tự nó mang tính khép kín tƣơng đối khiến lƣu

thông, thƣơng mại và kinh tế thị trƣờng hàng hóa nói chung kém phát triển.

Phép vua thua lệ làng là chuẩn mực ứng xử của nền dân chủ xóm làng, một thời đã

giữ an bình cho ngƣời dân, Hẳn không mấy thích hợp với đổi mới ngày nay. Cần pháp luật:

một sự qui định tối thiểu của phẩm chất mà mọi ngƣời nhất thiết phải tuân theo (Cao Xuân

Phổ 1993).

Sự phân công xã hội giữa nông nghiệp và công nghiệp, giữa lao động cơ bắp và lao

động trí óc diễn ra chậm chạp ở nƣớc ta rõ ràng đã dẫn tới sự phát triển yếu về khoa học tự

nhiên, sự hình thành chậm chạp tầng lớp trí thức chuyên sản xuất sản phẩm tinh thần, văn hóa

làng nói chung mang màu sắc dân gian tuy khỏe khoắn mộc mạc, đáng yêu nhƣng thiếu tinh

tế sâu sắc, thông tuệ cao. Nhƣng biết làm sao đƣợc, vì nhƣ Mác đã nói, con ngƣời sống trong

những điều kiện mà nó gập chứ không sống trong những điều kiện mà nó chọn. Lịch sử là

nhƣ vậy. Nhƣng giờ đây, nếu hiểu sâu sắc cơ bản sắc văn hóa Việt Nam, chúng ta có thể tìm

ra các biện pháp để bảo vệ và phát huy các tinh hoa và đẩy lùi các tao phách của văn hóa

truyền thống (Hà Văn Tấn 1994).

148

TÀI LIỆU DẪN

AUROUSSEAU L. 1923. Le premier conquête chinoise des pays annamites. Bullet de

1'École Francaise d'Extrême-Orient 23 :.137 - 264.

BENEDICT P.1942. Thai, Kadai and Indonesian : a new alignment. America

Anthropologist 44 : 567 - 601.

BENEDICT P. 1975. Austro - Thai: Language and Culiure, with a Glosscary of Root

HRAF Press, New Haven.

CAO XUÂN PHỐ 1993. Văn hóa trong phát triển. Vấn đề phẩm chất cuộc sống.

Trong Phương pháp luận về vai trò của văn hóa trong phát triển : trang 200 - 214. Nhà xuất

bản Khoa học xã hội, Hà Nội.

CHỬ VĂN TẦN 1978 a. Suy tính về tính đa dạng thời đại các vua Hùng. Khảo cổ

học số 1: 23 - 28

CHỬ VĂN TẦN 1978 b. Về văn hóa Sa Huỳnh. Khảo cổ học số 1 : 52 - 61.

CHỬ VĂN TẦN 1992. Không gian cƣ trú mở: Di chỉ Sập Việt, Những chứng tích

Tiền Hòa Bình - Hòa Bình và Hậu Hòa Bình. Khảo cổ học số 2 : 22 - 32.

CHỬ VĂN TẦN 1994 a. Những đặc trƣng cơ bản của văn minh Việt Nam thời khắc

sinh. Khảo cổ học 2: 7 - 16.

CHỬ VĂN TẦN 1994 b. Kỹ thuật canh tác của ngƣời Việt cổ nhìn từ bộ nông cụ

Phùng Nguyên - Đông Sơn. Kỷ yếu Hội thảo " Về nền nông nghiệp Việt cổ" Đề tài KX 06

02.

DIỆP ĐÌNH HOA 1971. Về những giai đoạn của thời kỳ dựng nƣớc và giữ nƣớc đầu

tiên qua tài liệu khảo cổ học. Khảo cổ học số 1 - 2 : 34 - 39.

DIỆP ĐÌNH HOA 1977. Một vài suy nghĩ về đồ gốm Đông Sơn. Khảo cổ học số 3:

57 - 77.

DIỆP ĐÌNH HOA, NGUYỄN VĂN BỬU, PHẠM MINH HUYỀN 1976. Phân tích di

vật khảo cổ học Làng Vạc và Đông Sơn. Khảo cổ học số 17 : 76 - 80.

DIỆP ĐÌNH HOA, NGUYỄN VĂN BỬU, PHẠM MINH HUYỀN 1984. Nghiên cứu

đồ đồng thau Việt Khê (Hải Phòng) bằng phƣơng pháp quang phổ. NPHMVKCH năm 1981

tr.127- 129.

DIFFLOT G. 1991. Linguistic prehistory from a Mon-Khmer perspective. Paper

149

given at the conterence" The High Bronze Age of Southeast Asia and South China" 14 -19

January 1991, Hua Hin, Thailand.

DYEN I. 1982. The present status of some Austronesian subgrouping hypotheses. In

Papersfrom the Third Intenuaioiud Conference on Austronesian Linguistics 2 : 31 - 35.

Australian National University, Canberra.

ĐÀO DUY ANH 1957. Nguồn gốc dân tộc Việt Nam, Hà Nội.

ĐÀO QUÝ CẢNH, NGUYỄN TRUNG CHIẾN 1980. Liềm Gò Mun. công cụ hay vũ

khí. Khảo cổ học số 3:36-41.

ĐÀO THẾ TUẤN 1988. Về những hạt gạo cháy phát hiện ở Đồng Đậu ( Vĩnh Phú)

1984. Khảo cổ học số 4 : 44 - 46.

ĐÀO THẾ TUẤN 1994. Việt Nam có phải là quê hƣơng của cây lúa hay không ? Kỷ

yếu Hội thảo "Về nền nông nghiệp Việt cổ". Đề tài KX 06 - 02.

ĐINH VĂN KIỀN, LÊ XUÂN ĐIỆM 1973. Ngôi mộ cổ có những di vật khá đặc biệt

ở Đƣờng Dù. NPHMVKCH năm 1972, tr. 244- 253.

ĐỖ VĂN NINH 1983. Thành cổ Việt Nam, Nhà xuất bản Khoa học xã hội. Hà Nội.

FERLUS M. 1975. Vietnamien et Proto-Viet-Muong. Asie du Sud-Est ci Monde

ỉn.sulindien 6(4) : 21 - 55.

GAGE W.W. 1985. Vietnamese in Mon-Khmer perspective. In Suriya Ratanakul.

David Thomas and Suwilai Premsrirat(eds.), Southeast Asian Linguistic Studies presented to

André G. Hciudricourt, pp.493 - 524. Mahidol University, Bangkok.

HÀ HỮU NGA 1993. Những cội nguồn của tính cách Việt. Tham luận tại Hội thảo "

Văn minh Việt Nam thời khai sinh : Nguồn gốc và đạc điểm".

HÀ VĂN PHÙNG 1981. Vấn đề luyện kim và chế tác kim loại thời dựng nƣớc đầu

tiên. Khảo cổ học số 3 : 44 - 55

HÀ VĂN PHÙNG 1982. Nghề se sợi và dệt vải thời dựng nƣớc đầu tiên. Khảo cổ học

số 3 : 14 - 24.

HÀ VĂN PHÙNG 1994. Tìm hiểu nghề se, sợi và dệt vải trong thời đại đồng thau

Việt Nam. Khảo cổ học số 2 : 48 - 58.

HÀ VĂN TẤN 1962. Về vấn đề ngƣời Indonesien và loại hình Indonesien trong thời

đại nguyên thủy Việt Nam. Thông báo khoa học trường Đại học Tổng hợp Hà Nội, Sử học. I:

168 - 203.

150

HÀ VĂN TẤN 1973. Khai quật Bãi Dƣới. NPHMVKCH năm 1972, tr.133 - 137.

HÀ VĂN TẤN 1974 a. Từ đồ gốm Phùng Nguyên đến trống đồng. Khảo cổ học 13 :

39-53.

HÀ VĂN TẤN 1974 b. Đóng góp vào lịch sử một kiểu khuyên tai. Khảo cổ học 15 :

19 - 32

HÀ VĂN TẤN 1975. Văn hóa Phùng Nguyên và nguồn gốc dân tộc Việt. Tạp chí dân

tộc học 1:22- 35.

HÀ VAN TẤN 1976. Nguồn gốc văn hóa Phùng Nguyên và vấn đề Tiền Việt Mƣờng

(Một giả thiết công tác mới). Báo cáo Hội nghị khoa học Khoa Sử trƣờng Đại học Tổng hợp

Hà Nội ngày 21-6-1976.

HÀ VĂN TẤN 1978. Văn hóa Phùng Nguyên - Nhận thức mới và vấn đề. Khảo cổ

học số 1: 5 - 22.

HÀ VĂN TẤN 1982. Các hệ sinh thái nhiệt đới với tiền sử Việt Nam và Đông Nam

Á. Khảo cổ học số 3:6- 16.

HÀ VĂN TẤN 1993. Văn hóa và ngôn ngữ Việt Nam thời tiền sử. Khảo cổ học 1: 1-

6.

HÀ VĂN TẤN 1993. Chùa Việt Nam. Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, Hà Nội.

HÀ VĂN TẤN 1994. Quá trình hình thành và đặc điểm bản sắc văn hóa Việt Nam.

Đề dẫn hội thảo "Bản sắc văn hóa Việt Nam".

HÀ VĂN TẤN 1994. Giao lƣu kỹ thuật: Vấn đề đáng quan tâm đối với Tiền - Sơ sử

Việt Nam và khu vực. Kỷ yếu Hội thảo "Các nghề thủ công thời dựng nƣớc". Đề tài KX 06 -

02.

HÀ VĂN TẤN 1994. Thƣ tịch Trung Quốc thời Hán, Tam Quốc, Lục Triều, nguồn sử

liệu nghiên cứu thực vật và nông nghiệp Việt Nam thời cổ. Kỷ yếu Hội thảo "Về nền nông

nghiệp Việt cổ". Đề tài KX 06 - 02.

HÀ VĂN TẤN, HOÀNG VĂN KHOÁN 1971. Luyện kim và chế tác kim loại thời

Hùng Vƣơng. Khảo cổ học số 9 - 10 : 75 - 80.

HÀ VĂN TẤN VÀ PHẠM ĐỨC DƢƠNG 1978. Về ngôn ngữ Tiền Việt Mƣờng. Tạp

chí dân tộc học 1: 64-69.

HÀ VĂN TẤN, HÁN VĂN KHẨN 1973. Kỹ thuật chế tạo đồ gốm văn hóa Phùng

Nguyên. Thông báo khoa học (Sử học) Đại học Tổng hợp Hà Nội, T.6.

151

HÀ VĂN TẤN, BÙI VINH, VÕ QUÝ 1990. Dấu hiệu của một văn hóa khảo cổ mới

ở Hà Tuyên. Khảo cổ học số 1 - 2 : 34 - 38.

HÁN VĂN KHẨN 1982. Về sự xuất hiện và phát triển của bàn xoay gốm cổ. Khảo

cổ học số 3 : 43 - 49.

HAUDRICOURT A.G. 1953. La place du Vietnamien dans les langues austroasiati-

ques. Bulletin de la Société de Linguistique de Paris 49(1): 1.22 - 128.

HAUDRICOURTA. G. 1954. De 1'origine des tons en Vietnamien. Journal Asiatique

242 : 69 - 82.

HAUDRICOUR A. G. 1955. Comment reconstruire le chinois archaique. Word l10:

358 - 364.

HOÀNG VĂN KHOÁN 1978. Nƣớc ta có gang từ bao giờ. Khảo cổ học số 2 : 43 -

44.

HOÀNG VĂN KHOÁN 1994. Kỹ thuật luyện sắt Việt Nam thời cổ. Kỷ yếu Hội thảo

"Các nghề thủ công thời dựng nƣớc". Đề tài KX 06 - 02.

HOÀNG VĂN KHOÁN, HÀ VĂN TẤN 1970. Vài nhận xét về hợp kim đồng thau

Việt Nam thời cổ. Thông báo Khoa học, Đại học Tổng hợp Hà Nội. tập IV (Sử học)

LÊ HUYÊN 1991. Tìm hiểu đồ sơn thế kỷ 17-19 ở đồng bằng Bắc Bộ. Luận án Phó

tiến sĩ khoa học lịch sử, Hà Nội.

Lịch sử Việt Nam tập 1. 1971.

LOGAN J. R 1852. Ethnology of the Indo - Pacitic Islands. Chapter 6. Enquiries into

the etlinic history and relations of the Tibeto - Burman and Mon - Annam formations. Jounul

of the Indian Archipelago 6 : 153 - 183.

LƢU TRẦN TIÊU 1977. Khu mộ cổ Châu Can. Hà Nội.

MADROLLE C. 1937. Le Tonkin ancien. Bulleiin de l' École Prancaise d' ExLrême -

Oricnt 37 : 263 - 333.

MASPÉRO H. l912. Phonétique historique de la langue annamite : les initiaies.

Bulletin de l' École Francaise d' Exircme - Orient 12( 1).

MASPÉRO H. 1924. Bulletin critique. T'oung Pao 23 : 373 - 393.

NGÔ ĐỨC THỊNH, NGÔ SĨ HỒNG 1988. Cuốc, lịch sử tiến triển và loại hình. Khảo

cổ học số 1 - 2 : 27 - 47.

152

NGÔ ĐỨC THỊNH 1994. Vài nhận xét về nông cụ và kỹ thuật canh tác nông nghiệp

thời tiền sử. Kỷ yếu Hội thảo "Về nền nông nghiệp Việt cổ". Đề tài KX 06 - 02.

NGÔ SĨ LIÊN và các sử thần triều Lê 1967 - 1968. Đại Việt sử ký toàn thư. bản dịch

Nhà xuất bản Khoa học xã hội. Hà Nội.

NGUYỄN KHẮC TỤNG 1982. Nhà Đông Sơn. Khảo cổ học số 3 : 38 - 42.

NGUYỄN DUY HINH 1973. Nghề trồng lúa nƣớc thời Hùng Vƣơng, Hùng Vương

dựng nước, T.3, Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội, tr 172 - 183.

NGUYỄN ĐÌNH KHOA 1983. Các dân tộc ở Việt Nam (dẫn liệu nhân học - tộc

người). Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, Hà Nội.

NGUYỄN KIM DUNG 1992. Công xƣởng và kỹ thuật chế tạo đồ trang sức bằng đá

thời đại đồng thau ở đồng bằng Bắc Bộ. Luận án Phó tiên sĩ khoa học lịch sử, Hà Nội.

NGUYỄN KIM DUNG 1994. Một số ý kiến về nguyên liệu đã trong nghề thủ công

làm đá thời đại đồng thau Việt Nam. Kỷ yếu hội thảo "Các nghề thủ công thời dựng nƣớc".

Đề tài KX 06 - 02.

NGUYỄN LÂN CƢỜNG 1993. Đặc điểm nhân chúng cƣ dân văn hóa Đông Sơn ở

Việt Nam. Tóm tắt luận án PTS khoa học lịch sử. Hà Nọi.;

NGUYỄN LÂN CƢỜNG 1994. Con ngƣời Đông Sơn. Trong Văn hóa Đông Sơn ở

Việt Nam : 183 - 231, Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, Hà Nội.

NGUYỄN QUANG QUYỀN và LÂN CƢỜNG 1969. Đặc điểm hình thái xƣơng đùi

và xƣơng sên ngƣời cổ ở di chỉ Lũng Hòa. Trong Hoàng Xuân Chinh, Báo cáo khai quât đợt

1 di chỉ Lũng Hòa: 154 - 163, Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, Hà Nội.

NGUYỄN TẤN ĐẮC 1993. Văn hóa và thế giới ngày nay. Trong Phương pháp luận

về vai trò của văn hóa trong phát triển : 200 -214. Nhà xuất bản Khoa học Xã hội. Hà Nội.

NGUYỄN TRƢỜNG KỲ 1983. Bƣớc đầu tìm hiểu nghề thủy tinh cổ ở nƣớc ta. Khảo

cổ học số 3 : 47 - 54.

NGUYỄN TRƢÕNG KỲ 1990. Trở lại vấn đề thủy tinh cổ ở Việt Nam. Khảo cổ học

sổ 1 - 2 : 71 -79.

NGUYỄN VĂN TÀI 1978. Góp thêm tài liệu cho việc đoán định thời điểm chia tách

hai ngôn ngữ Việt và Mƣờng. Tạp chí dân tộc học 3.

153

NGUYỄN VĂN TÀI 1988. Thử tìm một giải pháp về các nguyên âm Việt - Mƣờng

Trong Những vấn đề ngôn ngữ các dân tộc ở Việt Nam và khu vực Đông Nam Á: 29 48. Nhà

xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội.

NGUYỄN VIỆT 1978. Bƣớc đầu tìm hiểu gốm thời đại đồng sắt sớm vùng ngã ba

sông Mã - sông Chu. Khảo cổ học số 3 : 43 - 63.

NGUYỄN VIỆT 1981. Về lúa nếp và chó thời Hùng Vƣơng. Khảo cổ học số 3:28-

43.

NGUYỄN VIỆT 1982. Gốm làng Cả. NPHMVKCH năm 1980: 99 - 100.

NGUYỄN VIẾT PHỔ 1983. Sông ngòi việt Nam. Nhà xuất bản Khoa học và kỹ thuật.

Hà Nội.

OLIVIER G. 1966. Craniométrie des Indochinois. Bullktin et Mémoires de la Société

d 'Anthmpologie de Paris 9 : 67 90.

OLIVIER G. 1968. Anthropologie de l'Inhđochine. In Rassengeschichte der

Menschheit: 25 - 108, R.OIdenbourg Verlag, Munchen.

PHẠM LÝ HƢƠNG 1994 a. Vài thực nghiệm canh tác nguyên thủy. NPHMVKCH

năm 1993.

PHẠM LÝ HƢƠNG 1994 b. Bàn về nghề trồng lún giai đoạn đỉnh cao thời dựng

nƣớc của ngƣờiViệt cổ. Kỷ yếu Hội thảo "Về nền nông nghiệp Việt cổ". Đề tài KX 06 - 02.

PHẠM LÝ HƢƠNG 1994c.Về kỹ thuật nung gốm thời Tiền sử và Sơ sử Việt Nam.

Kỷ yếu Hội thảo "Các nghề thủ công thời dựng nƣớc". Đề tài KX 06 - 02.

PHẠM LÝ HƢƠNG, HÀ VĂN TẤN 1974. Nghề gốm, một ngành thủ công thời

Hùng Vƣơng. Hùng Vương dựng nước. T.4. Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội. tr 188 -

202.

PHẠM MINH HUYỀN 1991. Tính đa dạng và phức tạp của nền văn hóa Đông Sơn.

Khảo cổ học số 3 : 50 - 63.

PHẠM MINH HUYỀN 1991. Văn hóa Đông Sơn, tính thống nhất và đa dạng. Luận

án Phó tiến sĩ khoa học lịch sử, Hà Nội.

PHẠM QUỐC QUÂN 1978. Mộ thuyền Châu Sơn (Hà Nam Ninh). NPHMVKCH

năm 1977: 172 - 174.

PHẠM QUỐC QUÂN. NHÃ LONG 1991. Tìm về cội nguồn nghề sơn ở Hà Sơn

Bình. NPHMVKCH năm 1990: 121 - 123.

154

PHẠM VĂN ĐỒNG 1994. Văn hóa và đổi mới. Nhà xuất bản chinh trị quốc gia Hà

Nội.

PHẠM VĂN KỈNH 1969. Về thời kỳ An Dƣơng Vƣơng và thành Cổ Loa. Khảo cổ

học số 3 - 4 : 128 - 134.

PHAN CÔNG CHÁNH 1991. Bài phát biểu trong cuộc tọa đàm tại Viện Khảo cổ học

về nguồn gốc văn minh và dân tộc Việt Nam.

PHAN NGỌC 1993. Tiến tới một sự nhận thức về văn hóa học Việt Nam. Trong

Phương pháp luận về vai trò của văn hóa trong phát triển : 236 - 250. Nhà xuất bản Khoa

học Xã hội, Hà Nội.

PHAN VĂN THÍCH, HÀ VĂN TẤN 1970. Xác định hàm lƣợng chì trong các di vật

đồng thuộc thời đại đồng thau và thời đại sắt sớm. Khảo cổ hoc số 7 - 8 : 126.- 129.

POU S. and JENNER P.N. 1974. Proto-Inđonesian and Mon-K.hmer.Asian Perspec-

lives 17(2): 112-124.

REID L.A. 1984 - 1985. Benedict's Austro - Tai : An evaluation. Asian Perspectives

26(1) : 19-34.

REID L.A. 1994. The current state of linguistic research on the relatedness of the

language families of East and Southeast Asia. Paper given at the 15 th IPPAConuress,

January 5 - 12, 1994, Chiang Mai, Thailand.

SCHMIDT W. 1905.Grundzuge einer Lautlehre der Mon-Khmer-Sprachen.

Denkschrift der Akaidemic der Wissenschaften, Wien, Philologische - historische Klass 51:1:-

233

SCHMIDT W. 1906. Die Mon - Khmer Volker, ein Bindgleid zwischen Volkern

Zentralasiens und Austronesiens.Archiv fiir Antropologie 33 : 59 - 109.

SCHMIDT W. 1926. Die Sprachfamilien und Sprachenkrese der Erde. Carl Winter,

Heidelberg.

TRẦN KHOA TRINH 1978. Đúc thành công trống đồng Ngọc Lũ. Khảo cổ học số 3.

TRẦN QUỐC VƢỢNG 1963. Mấy nét sơ lƣợc về tình hình sản xuất nông nghiệp

Việt Nam dƣới thời Bắc thuộc thế kỷ 2 trƣớc công nguyên - 10 sau công nguyên. Trong:

Thông báo khoa học. Tập 1, sử học. NXB Giáo dục, Hà Nội.

TRẦN QUỐC VƢỢNG 1969. Cổ Loa : Những kết quả nghiên cứu vừa qua và những

triển vọng tới. Khảo cổ học số 3 - 4 : 100 - 127.

155

TRẦN QUỐC VƢỢNG 1994. Các hệ sinh thái nông nghiệp ở Việt Nam thời cổ. Kỷ

yếu Hội thảo "Về nền nông nghiệp Việt cổ". Đề tài KX 06 - 02.

TRỊNH SINH 1978. Cái vàng. Khảo cổ học số 3:13- 80.

TRỊNH SINH 1988. Chế tác kim loại thời cổ ở miền Bắc Việt Nam (thế kỷ 2 - 1 trƣớc

công nguyên - đầu công nguyên). Luận án Phó tiến sĩ, Moskva.

TRỊNH SINH 1989. Hợp kim có chì, vua Hùng và văn hóa Đông Sơn. Khảo cổ học số

2 : 43 - 50.

TRỊNH SINH 1990. Phân tích quang phổ hiện vật đồng ở văn hóa Đồng Đậu và Gò

Mun. Khảo cổ học số 4 : 49 - 59.

TRỊNH SINH 1994. Những vấn đề còn đặt ra với nghề luyện đồng. Kỷ yếu Hội thảo

"Các nghề thủ công, thời dựng nƣớc". Đề tài KX 06 - 02.

TRỊNH SINH, HÀ NGUYÊN ĐIỂM 1977. K dáng đồ đựng bằng gốm tù Phùng

Nguyên đến Đông Sơn. Khảo cổ học số 2 : 50 - 67.

TRƢỜNG CHINH 1978. Bài nói tại Hội nghị kỷ niệm 10 năm thành lập Viện Khảo

cổ học. Khảo cổ học số 4 : 33 - 55.

VĂN TÂN 1959. Bàn góp vào công trình tìm tòi nguồn gốc dân tộc Việt Nam.

Nghiên cứu lịch sử 9.

Viện bảo tàng lịch sử Việt Nam 1977. Văn hóa Hoa Lộc. Viện bảo tàng lịch sử Việt

Nam xuất bản, Hà Nội.

VÕ HƢNG 1974. mối quan hệ của sọ ngƣời Việt và sọ một số nhóm cƣ dân ở Đông

Nam Á. Hình thái học 1:38- 44.

VŨ NGỌC THƢ, NGUYỄN DUY TỲ 1972. Khuôn đúc thời Hùng Vƣơng. Hùng

Vương dựng nước, T.2, tr 215 - 220.

VŨ NGỌC THƢ, NGUYỄN DUY TỲ 1978. Bộ dụng cụ đúc đồng ở Làng Cả. Khảo;

cổ học số 2 : 36 - 39.

VŨ TỰ LẬP, ĐÀM TRUNG PHƢỜNG, NGÔ ĐỨC THỊNH, TÔ NGỌC THANH

1991. Văn hóa và cư dân đồng bằng sông Hồng. Nhà xuất bản Khoa học xã hội. Hà Nội.

156

MỤC LỤC MẤY LỜI NÓI ĐẦU ........................................................................................................... I - V

CHƢƠNG I: KHÁI QUÁT VỀ MÔI TRƢỜNG SỐNG CỦA NGƢỜI VIỆT CỔ................... 1

CHƢƠNG II: SỰ HÌNH THÀNH NỀN VĂN MINH VIỆT CỔ .............................................. 8

CHƢƠNG III :NGUỒN GỐC NGƢỜI VIỆT ......................................................................... 37

CHƢƠNG IV: VĂN MINH KỸ THUẬT CỦA NGƢỜI VIỆT CỔ ...................................... 54

CHƢƠNG V: THẾ GIỚI TINH THẦN CỦA NGƢỜI VIỆT CỔ ........................................ 102

CHƢƠNG VI : BẢN SẮC VĂN HÓA VIỆT CỔ ................................................................. 125

TÀI LIỆU DẪN ..................................................................................................................... 149