TRUNG TÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN QUỐC GIA
VIỆN KHẢO CỔ HỌC
Chƣơng trình KX - 06
NHỮNG VẤN ĐỀ VĂN MINH VĂN HÓA
VÌ SỰ PHÁT TRIỂN VÀ TIẾN BỘ XÃ HỘI
Đề tài KX 06 - 02
QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH
BẢN SẮC VĂN HÓA VIỆT NAM
Chủ nhiệm đề tài
Giáo Sƣ Hà Văn Tấn
Các tác giả
CHỬ VĂN TẦN, HÀ VĂN TẤN, HOÀNG XUÂN CHINH
PHẠM LÝ HƢƠNG, VŨ THẾ LONG
Hà-Nội - 1995
TRUNG TÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN QUỐC GIA
VIỆN KHẢO CỔ HỌC
Chƣơng trình KX - 06
NHỮNG VẤN ĐỀ VĂN MINH VĂN HÓA
VÌ SỰ PHÁT TRIỂN VÀ TIẾN BỘ XÃ HỘI
Đề tài KX 06 - 02
QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH
BẢN SẮC VĂN HÓA VIỆT NAM
Chủ nhiệm đề tài
Giáo Sƣ Hà Văn Tấn
Các tác giả
CHỬ VĂN TẦN, HÀ VĂN TẤN, HOÀNG XUÂN CHINH
PHẠM LÝ HƢƠNG, VŨ THẾ LONG
Hà-Nội - 1995
DANH SÁCH CÁC THÀNH VIÊN
THAM GIA NGHIỀN CỨU ĐỀ TÀI KX06 - 02.
Chủ nhiệm đề tài: Giáo sƣ HÀ VĂN TẤN
Các thành viên (xếp theo A, B, C):
1/ NCV. Bùi Văn Vinh.
2/ PGS. Chử Văn Tân (Chủ nhiệm đề tài nhánh).
3/ PTS. Hà Hữu Nga.
4/ PT5. Hà Văn Phùng (Thƣ ký đề tài).
5/ GS. Hà Văn Tấn (Chủ nhiệm đề tài nhánh).
6/ PGS. Hoàng Xuân Chinh (Chủ nhiệm đề tài nhánh).
7/ PTS. Nguyễn Thị Kim Dung
8/ PGS-PTS. Phạm Lý Hƣơng (Chủ nhiệm đề tài nhánh).
9/ PTS. Nguyễn Trƣờng Kỳ
10/ PTS. Trịnh Các Tƣởng
11/ PTS. Trịnh Văn Sinh.
13/ NCV. Vũ Thế Long.
MẤY LỜI NÓI ĐẦU
Bản sắc văn hóa dân tộc là hệ thống các giá trị văn hóa mà mỗi dân tộc chấp nhận. Tất
nhiên nói" giá trị" ở đây, ta không hề dùng khái niệm đó theo nghĩa giá trị học (axiologic),
nghĩa là tiến bộ hay không tiến bộ, theo nhận thức chủ quan của chúng ta. Mỗi dân tộc có một
bản sắc văn hóa riêng gồm những giá trị phù hợp với nó, kể cả những giá trị trung tính
(neutre).
"Ví dụ ăn là một yêu cầu sinh học. Nhƣng ăn bốc ăn đũa hay ăn bằng thìa thì đó là
văn hóa. Và chúng ta không thể coi cách ăn nào là tiến bộ hơn cách ăn nào. Đó là những giá
trị trung tính. Cũng nhƣ thế cái đói là động lực sinh học nhƣng khẩu vị để thỏa mãn cái đói
chính là văn hóa.
Nhƣng nói nhƣ vậy không có nghĩa là tách rời tự nhiên và văn hóa. Ngƣời ta thƣờng
nói cái gì không phải tự nhiên thì là văn hóa. Nhƣng có điều văn hóa không thể tách rời với
môi trƣờng tự nhiên. Tất nhiên, văn hóa gắn liền với ứng xử và ứng xử là cả thiên nhiên và xã
hội. Và ứng xử thì phải có chuẩn mực của cộng đồng. Chính ở những chuẩn mực cộng đồng
này, bản sắc văn hóa lộ ra rõ ràng. Và sau cùng, chúng ta cần thấy rằng văn hóa cũng phụ
thuộc vào lịch sử : lịch sử biến đổi và do đó, văn hóa cũng biến đổi theo, do những điều kiện
mà lịch sử đƣa lại.
Nhƣ vậy chúng ta cần chú ý đến ba điểm :
1. Văn hóa và môi trƣờng tự nhiên
Trong thƣ Triệu Đà viết cho vua Hán có câu" Âu Lạc ở phía Tây, ở trần mà cũng
xƣng vƣơng''. Chắc là câu đó không tránh khỏi có ý miệt thị. Nhƣng ở trần ở nƣớc Âu Lạc, và
trƣớc đó, ở thời đại các vua Hùng. thì là một đặc điểm gắn liền với văn hóa, với bản sắc văn
hóa : ở trần đóng khố đối với nam và mặc váy đối với nữ . Đóng khố mặc váy thì ở nông thôn
Việt Nam cho đến trƣớc cách mạng tháng tám còn rất phổ biến . Chúng tôi nghĩ rằng điều đó
phù hợp với điều kiện khí hậu. Đó là nói chuyện cái mặc. Cũng nhƣ vậy trong cái ăn, bát
canh có vị tri quan trọng trong bữa cơm Việt Nam. Chan canh là cách ăn đặc biệt Việt Nam.
Lấy ví dụ nhƣ ngƣời Nhật, họ không bao giờ chan lẫn cơm với canh mặc dầu nƣớc này cũng
ăn cơm và ăn canh. Và trong
I
các thứ rau làm canh, ngƣời Việt Nam lại thích loại rau nhớt nhƣ rau mồng tơi, rau đay ...
Cũng lại do điều kiện tự nhiên.
Tất nhiên, cũng do điều kiện khí hậu, giũa các vùng có khác nhau. Miền Nam, nhƣ
hiện nay, thích uống trà đá, còn miền Bắc, thì lại thích chè nóng. Nhƣng nhìn chung, cần chú
ý môi trƣờng tự nhiên đối với văn hóa.
Môi trƣờng tự nhiên, từ thời dựng nƣớc đến nay, lại ít thay đổi. Do đó, nhiều yếu tố
bản sắc văn hóa gắn liền với môi trƣờng có lẽ là ít thay đổi.
2.Văn hóa và môi trƣờng xã hội
Môi trƣờng xã hội thì biến đổi có phần nhanh hơn môi trƣờng tự nhiên. Thế nhƣng ở
Việt Nam, văn hóa nói chung là văn hóa xóm làng và văn hóa nông nghiệp cho đến nay tình
hình đó gần nhƣ không có mấy thay đổi.
Cái mô hình làng, liên làng và trên đó là siêu làng, vẫn là cái mô hình đã hình thành từ
ngày lập nƣớc cho đến hôm nay.
Các chuẩn mực văn hóa vẫn đƣợc quy định bằng thói quen. phong tục, cấm kỵ đã
hình thành từ nghìn xƣa. Mà chuẩn mực là việc áp dụng các giá trị vào đời sống.
"Miếng giầu là đầu câu chuyện'' Một miếng ở làng bằng sàng trong bếp"."Một giọt
máu đào hơn ao nƣớc lã", v.v và v.v... là những ứng xử mà chúng tôi nghĩ rằng đó là những
chuẩn mực khá bền vững. Và suy cho cùng, những chuẩn mực đó chắc đã nẩy sinh từ thời
dựng nƣớc. Ví dụ : Mối quan hệ giữa họ và làng ở Việt Nam, không bao giờ công xã láng
giềng hay công xã nông thôn trở nên thuần nhất, mà vẫn gắn liền với công xã thị tộc nghĩa là
vai trò của huyết tộc bao giờ cũng lớn. Chắc là ai cũng biết rằng cho đến nay, ở nông thôn
vẫn còn các "chi bộ họ ta".
Nói nhƣ vậy là phải nói đến nguyên nhân lịch sử. Đáng lý ra, khi nhà nƣớc đã xuất
hiện, thì các tàn dƣ thi tộc , các cơ sở cộng đồng dần dần biến đi. Nhƣng ở Việt Nam lại khác.
Các cuộc xâm lƣợc đã buộc các yếu tố cộng đồng phải cố kết lại. Và trong một lịch sử mà các
cuộc đấu tranh chống ngoại xâm xảy ra liên miên thì các yếu tố cộng đồng phải tồn tại lâu
dài. Trƣớc quyền lợi của dân tộc thì cá nhân phải quên đi và cộng đồng là trên hết.
Vì vậy nhìn nhận về văn hóa, về bản sắc văn hóa. chúng ta không nên quên điều kiện
lịch sử và xã hội.
3.Bản sắc văn hóa dân tộc cũng thay đổi.
Đi tìm bản sắc văn hóa, ta thƣờng đi tìm những hằng số của văn hóa. Ta hãy nghe
Trần Văn Khê nói :"Khi ngƣời phụ nữ Việt Nam mặc áo dài, khác với áo "Ki mô nô"
II
của Nhật, áo "Sari" của Ấn Độ, áo dài "xẻ từ đùi tới chân" nhƣ áo Thƣợng Hải, chúng ta cho
rằng áo dài có tính dân tộc. Ai thấy áo dài cũng biết ngay là áo của dân tộc Viêt Nam. Khi
chúng ta ăn thịt kho, cá kho bằng nƣớc dừa xiêm, có bỏ nƣớc màu, khác hẳn với thịt heo xào
"chua ngọt" và cá chƣng tƣơng của ngƣời Trung Quốc, thì thịt kho, cá kho đã mang tính "dân
tộc" Việt Nam. Nói chi đến cách "gói nem chua", thì dân tộc Trung Quốc, Nhật Bản, Triều
Tiên, Thái Lan nhất định không biết làm món ấy ."Nem chua" rất đậm màu dân tộc Việt
Nam".
Nhƣng ta bỗng tự hỏi rằng cái áo dài Việt Nam kia có từ bao giờ ? Cái áo dài đó sản
sinh ra gần đây thôi, chứ đâu phải có từ đầu. Thế mới biết, trong các yếu tố bản sắc dân tộc,
có những cái xuất hiện sau, có những cái hấp thụ từ bên ngoài những cái biến đi, phù hợp với
con ngƣời Việt Nam
Có ngƣời nói rằng văn hóa Việt Nam vốn là thuộc nền văn hóa Đông Nam Á, rồi sau
đó do ảnh hƣởng của văn hóa Trung Quốc, văn hóa Việt Nam chuyển dần sang văn hóa Đông
Á.
Chúng ta cần phân tích rõ điều này. Lấy ví dụ trong âm nhạc. Có ngƣời cho rằng dƣới
ảnh hƣởng của Trung Quốc. chúng ta mới có thêm đàn đáy, đàn nguyệt... Nhƣng cũng có
ngƣời cho rằng đàn đáy của Trung Quốc (Tạm huyển cầm) và Mông Cổ (sandfe) bịt bằng da
trăn thùng đàn Shamisen của Nhật bịt bằng da mèo ở phía mặt và da chó ở phía lƣng. Còn
đàn đáy Việt Nam, tuy cũng có 3 dây nhƣng rất khác các loại đàn trên. Đàn nguyệt Việt Nam
cũng không giống với đàn nguyệt cầm (Yuegin) Trung Quốc. Nguyệt cầm Trung Quốc có
cần đàn ngắn, phím không cao, đàn có chữ chuyền, thiếu chữ nhấn. Do đó đàn đáy, đàn
nguyệt phải coi là có tính dân tộc. Và gần đây thôi, ta lại phải nói đến đàn ghi-ta phím lõm
dùng cho hát cải lƣơng.
Do đó không nên đối lập sự vay mƣợn và sự biến đổi sáng tạo. Tất cả cái đó, đều có
thể làm cho bản sắc văn hóa dân tộc thêm giàu có.
Điều đáng chú ý là lúc nào thì yếu tố ngoại sinh vay mƣợn của ngƣời đã trở thành yếu
tố nội sinh của dân tộc mình.
Với một cách nhìn nhƣ thế chúng tôi nghiên cứu "Quá trình hình thành bản sắc văn
hóa Việt Nam". Theo giới hạn của đề tài, chúng tôi chỉ nghiên cứu những yếu tố bản sắc văn
hóa của ngƣời Việt cổ hình thành vào buổi khai sinh của văn minh. Mà muốn làm đƣợc điều
đó, chúng tôi không thể không tìm hiểu các vấn đề :
1. Môi trƣờng sống của ngƣời Việt cổ.
2. Sự hình thành nền văn minh Việt cổ.
3. Nguồn gốc ngƣời Việt
III
4. Văn minh kỹ thuật của ngƣời Việt cổ.
5. Thế giới tinh thần của ngƣời Việt Cổ.
Nhƣ đã nói ở trên, bản sắc văn hóa không thể không gắn với môi trƣờng tự nhiên. Còn
sự hình thành văn minh Việt cổ thì cho chúng ta biết các bƣớc tiến tới văn minh cũng nhƣ
bản chất của văn minh mà ở đây là nền văn minh Đông Sơn. Và nhƣ vậy. ta có thể thấy bản
sắc văn hóa xuất hiện vừa là lâu đời vừa là nhảy vọt. Lâu đời vì đã có những yếu tố từ thời
Tiền Đông Sơn, nhƣng nhảy vọt, khi một nền văn minh với quốc gia, với nhà nƣớc đã xuất
hiện - văn minh Đông Sơn. "Cộng đồng ngƣời Việt tổ tiên ta đã sớm trở thành một dân tộc,
một quốc gia, đó là một sức mạnh, một thế mạnh rất cần thiết và quý báu. Đó là một sự tự
khẳng định giàu giá trị văn hóa để tự bào vệ mình để tồn tại và phát triển" (Phạm Văn Đồng,
Văn hóa và đổi mới).
Bản sắc văn hóa lộ rõ hơn trong văn minh kỹ thuật cũng nhƣ thế giới tinh thần. Viết
các phần này, chúng tôi cũng đã cố gắng nêu lên các yếu tố bản sắc văn hóa dân tộc.
Chúng tôi cũng coi việc tìm hiểu nguồn gốc ngƣời Việt nhƣ là một nhiệm vụ cơ bản
trong việc tìm về cội nguồn của văn hóa Việt cổ, và do đó, tìm về cội nguồn của bản sắc văn
hóa.
Và sau cùng, là phần" Bản sắc văn hóa Việt cổ". thử phác họa những yếu tố bản sắc
văn hóa Việt Nam thời khai sinh.
Tất nhiên là vào thời đó, chúng ta thấy trong bản sắc văn hóa. vắng bóng những yếu
tố mà sau này mới có.
Nhƣng xem ra, văn hóa Việt Nam có nhiều lớp, nhƣng không xếp chồng lên nhau,
chúng ta đều có thể nhìn thấy các lớp văn hóa đó, qua dặm dài lịch sử . Chẳng những thế có
nhiều yếu tố bản sắc văn hóa đã xuất hiện trong buổi bình minh của văn minh vẫn tiếp tục tồn
tại đến ngày nay. Những yếu tố mới của văn hóa không làm suy giảm chúng, mà ngƣợc lại,
còn rèn luyện, hun đúc chúng, làm cho chúng trở thành sức sống trƣờng tồn của dân tộc.
Tất nhiên ở đây chúng tôi cũng suy nghĩ đến những nhƣợc điểm của văn hóa truyền
thống, vì không có cái gì chỉ có mặt tốt mà không có mặt xấu, mặt yếu. Đó là biện chứng.
Nhƣng dẫu sao, chúng tôi không nghĩ rằng công trình này đã hoàn hảo, hẳn là còn
nhiều vấn đề cần bàn cãi.
Để hoàn thành công trình này, chúng tôi đã phân thành các đề tài nhánh, do những tập
thể cán bộ nghiên cứu đảm nhiệm. Chúng tôi cũng đã tiến hành nhiều hội
IV
thảo mong tập hợp đƣợc ý kiến rộng rãi của nhiều học giả. Viết công trình tổng hợp này
chúng tôi phân công nhƣ sau :
"Khái quát về môi trƣờng sống của ngƣời Việt cổ" do Vũ Thế Long ; " Sự hình thành
nền văn minh Việt cổ ",do Chử Văn Tần ; " Nguồn gốc ngƣời Việt", do Hà Văn Tấn ;"Văn
minh kỹ thuật của ngƣời Việt cổ "do Phạm Lý Hƣơng ; "Thế giới tinh thần của ngƣời Việt
cổ", do Hoàng Xuân Chinh; "Bàn sắc văn hóa Việt cổ", do Chử Văn Tần và Hà Văn Tấn.
Công trình do Hà Văn Tấn chủ biên.
Chúng tôi cảm ơn giáo sƣ Nguyễn Hồng Phong, chủ nhiệm chƣơng trình "Văn hóa
văn minh vì sự phát triển và tiến bộ xã hội " và giáo sƣ Vũ Khiêu đã đóng góp nhiều ý kiến
quý báu. Chúng tôi cũng cảm ơn các nhà nghiên cứu trong và ngoài Viện Khảo cổ học đã
nhiệt tình tham gia các cuộc hội thảo thuộc đề tài này.
HÀ VĂN TẤN
V
CHƢƠNG I: KHÁI QUÁT VỀ MÔI TRƢỜNG SỐNG CỦA NGƢỜI VIỆT
CỔ
Môi trƣờng tự nhiên có một ảnh hƣởng to lớn lên đời sống của con ngƣời. Môi trƣờng
là yếu tố rất quan trọng, nó góp phần tạo nên bản sắc văn hóa của mỗi dân tộc. Dân cƣ trên
thảo nguyên sống đời sống du mục thì mang bản sắc khác với dân chài trên sông biển. Ngƣời
sống trên núi cao có cuộc sống khác với ngƣời sống ở đồng bằng. Đó là lẽ tự nhiên. Vậy môi
trƣờng sống tự nhiên của ngƣời Việt cổ ra sao ? Ảnh hƣởng của môi trƣờng tự nhiên lên đời
sống của ngƣời Việt cổ nhƣ thế nào ? Đó là điều cần tìm hiểu đầu tiên khi muốn biết bản sắc
văn hóa của ngƣời Việt.
Môi trƣờng tự nhiên chính là những yếu tố quan trọng tạo nên bản sắc văn hóa của
ngƣời Việt. Để tìm hiểu khái quát về môi trƣờng sống tự nhiên của ngƣời Việt cổ chúng ta có
thể xem xét trên một số phƣơng diện chính sau : vị trí địa lý hay không gian sinh. tồn ; Chế
độ khí hậu ; Hệ động thực vật; Đất đai và khoáng sản.
Để hiểu đƣợc môi trƣờng sống của ngƣời Việt cổ đƣơng nhiên chúng ta cần phải dựa
vào các tƣ liệu khảo cổ học, cổ sinh vật học, cổ địa lý, cổ khi hậu, các thƣ tịch cổ cùng nhiều
nguồn tƣ liệu tổng hợp khác. Trong tinh hình hiểu biết hiện tại. Ở đây, chỉ xin nêu một số nét
khái quát về môi trƣờng sống của ngƣời Việt cổ trong mối quan hệ giữa môi trƣờng tự nhiên
và văn hóa.
Không gian sinh tồn của ngƣời Việt cổ : Thật khó có thể phân định một cách rạch ròi
không gian sinh tồn của một tộc ngƣời. Nhƣ là một trong những động vật sống trên hành tinh
này, theo luật tự nhiên, con ngƣời có thể mở rộng hoặc thu hẹp địa bàn cƣ trú của mình tuy
theo hoàn cảnh cũng nhƣ nhu cầu nội tại của mình. Ranh giới lãnh thổ quốc gia hiện tại
không phản ánh đƣợc ranh giới sinh tồn của các tộc ngƣời trong quá khứ. Bởi thế, đây là một
vấn đề khá phức tạp. Hiện tại. các tài liệu khảo cổ học cho biết cƣ dân Việt cổ đã từng có mặt
chủ yếu trong khu vực nay là phần lãnh thổ phía bắc Việt Nam. Các nhóm cƣ dân Việt cổ
sống tập trung ở các đồng bằng lớn. Đó là đồng bằng Sông Hồng, đồng bằng Sông Mã và
đồng bằng sông Lam (trừ vùng đất bồi ven biển mới đƣợc bồi tụ trên dƣới 1000 năm trở lại
đây). Ngoài vùng đồng bằng, dấu tích văn hóa của ngƣời Việt cổ còn đƣợc tìm thấy cả ở miền
núi.
Nhƣ vậy, không gian sinh tồn của ngƣời Việt cổ là một không gian mở, có núi cao ở
phía tây, tây bắc, bắc và đông bắc, có vùng đồi trung du và đồng bằng. Có đồng bằng cao tiếp
giáp trung du và đồng bằng thấp ven biển cùng một số hải đảo. Dân cƣ sinh sống Về yếu tập
trung ở vùng đồng bằng. Do hoàn cảnh địa lý đặc biệt nhƣ vậy nên cƣ dân Việt cổ sinh tồn
trong những hệ sinh thái đa dạng bao gồm hệ sinh thái núi
1
cao, hệ sinh thái thung lũng, hệ sinh thái trung du, hệ sinh thái đồng bằng phù sa, hệ sinh thái
ven biển. Bản thân các hệ sinh thái khác biệt này đã góp phần tạo nên sự phong phú trong bản
sắc văn hóa của ngƣời Việt.
Tuy sống trong các hệ sinh thái khác nhau nhƣng ngƣời Việt vẫn có đƣợc những mối
giao lƣu chặt chẽ giữa các tộc ngƣời và cả với các tộc láng giềng vì ngƣời Việt vốn sinh tồn
trong một không gian mở. Không gian mở này bao gồm toàn bộ phần phía đông là biển có thể
đón nhận mọi luồng văn minh khác từ biển vào và ngƣợc lại cũng qua các cửa biển mà văn
minh Việt có thể lan tỏa ra các vùng hải đảo hoặc các vùng ven biển xa xôi khác. Các dòng
sông lớn nhỏ và hệ thống những thung lũng là những huyết mạch giao thông nối liền các
cộng đồng cƣ dân Việt sống ở đồng bằng và núi cao. Đồng thời những hệ thống sông ngòi
này cũng chính là những mạch nối giữa cƣ dân sống trong các miền đồng bằng và mạch nối
Bắc - Nam.
Không gian mở là một điều kiện thuận lợi cho sự phát triển kinh tế, văn hóa của ngƣời
Việt từ khi hình thành cho mãi tận ngày nay. Không gian mở là một trong những nhân tố địa
lý hết sức quan trọng giúp cho văn hóa Việt Nam không đơn điệu mà luôn luôn đa dạng và
phong phú. Nhờ đó, ngƣời Việt có khả năng hội nhập và lan tỏa nền văn hóa của mình, tạo
nên một bản sắc văn hóa độc đáo nhƣng không cô lập. Nền văn hóa đó mang những sắc thái
riêng phù hợp với hoàn cảnh sống và môi trƣờng của riêng mình nhƣng cũng mang những sắc
thái chung của cả khu vực Đông Nam Á rộng lớn.
Tuy nhiên, không gian mở mặt khác cũng có những bất lợi của nó. Đó là ngƣời Việt
luôn luôn một mặt phải chăm lo xây dựng cuộc sống kinh tế, văn hóa của mình trong cộng
đồng thống nhất đa sắc tộc, mặt khác phải lo phòng thủ và chống trả quyết liệt với các kẻ thù
từ bên ngoài với mọi hình thức, từ xâm lấn đất đai bờ cõi cho đến âm mƣu đồng hóa về văn
hóa.
Có thể nói không gian sinh tồn mở đã là tiền đề tự nhiên thuận lợi giúp cho ngƣời
Việt ngay từ thời mới khai sinh đã có một khả năng tiếp xúc với nhiều nền văn hóa khác và
chính quá trình tiếp xúc đa phƣơng đó đã giúp ngƣời Việt không bị đồng hóa hay lệ thuộc quá
chặt chẽ vào bất cứ một nền văn hóa mạnh nào. Ngƣời Việt đã tạo dựng cho mình một nền
văn hóa riêng trên cơ sở tự phát triển và hội nhập những tinh hoa của các nền văn hóa khác
rồi biến đổi cho phù hợp với phƣơng thúc sống trong môi trƣờng tự nhiên và tâm thức sống
của riêng mình trong cộng đồng xã hội và cộng đồng nhân loại.
Chế độ khí hậu : Hiện tại, chƣa có những nghiên cứu về vật hậu học để tìm hiểu
những đặc trƣng và những diễn biến về khí hậu trong môi trƣờng sống của ngƣời Việt cách
đây từ 3-4 nghìn năm về trƣớc cho tới ngày nay. Tuy nhiên, những khảo sát trên
2
quy mô rộng hơn đã cho thấy từ giai đoạn đầu Holocene cho tới giờ, về mặt khí hậu, cũng có
một số biến đổi nhƣng không phải là những đột biến lớn. Khí hậu trong vòng 3-4 nghìn năm
trở lại đây núi chung có thể hình dung cũng tƣơng tự nhƣ khí hậu hiện tại.
Ngƣời Việt hình thành trong một vùng khí hậu gió mùa, lắm mƣa, nhiều nắng và rất khắc nghiệt(1)Tính chất khắc nghiệt thể hiện ở chỗ trong mùa hè thì nhiệt độ và độ ám thƣờng
rất cao, rất không thuận lợi cho sức khỏe của con ngƣời và nhiều loài gia súc, nhiều nấm
mốc, vi trùng côn trùng độc hại dễ sinh sôi và phát triển. Mùa hè cũng là mùa mƣa bão, lũ lụt.
Có những trận bão ghê ngƣời mạnh tới cấp 11, 12 làm tốc nhà cửa, đổ cây cối. đắm thuyền
bè. Có những trận lũ lụt cuốn phăng theo dòng sông ngƣời, nhà cửa, mùa màng và gia súc.
Về mùa đông, tuy nhiệt độ tronn vùng không hạ thấp nhƣ nhiều vùng khác trên thế giới
nhƣng chế độ thời tiết trong mùa đông ở Bắc Việt Nam rất thất thƣờng. Có những ngàỵ giữa
mùa đông, trời bỗng nóng nực nhƣ mùa hè rồi bất thình lình một trận gió mùa tràn tới trời đột
ngột trở rét. Cái rét cắt da cắt thịt tạo nên bởi sự hạ nhiệt độ đột ngột kèm theo gió lạnh và
mƣa phùn là một dạng thời tiết độc hại khiến nhiều ngƣời xứ lạnh đến vùng này cũng cảm
thấy rất khó chịu. Biến đổi nhiệt độ và độ ẩm đột ngột là một trong những nguyên nhân gây ra tật bệnh cho ngƣời và gia súc.(2)
Tuy nhiên, chế độ khí hậu trên lại là tiền đề thuận lợi cho nhiều loài thực vật cả lợi lẫn
hại đua nhau phát triển. Chế độ khí hậu này cũng cho phép ngƣời Việt có điều kiện du nhập
và phát triển một số cây ăn quả, cây lƣơng thực và đặc biệt là một số cây trồng ngắn ngày
trên vùng đất này làm đa dạng và phong phú nền văn hoá trồng trọt của mình. Đó là điều
nhiều cƣ dân sống trong các vùng khác dẫu có muốn cũng khó có thể thực hiện đƣợc.
Môi trƣờng khí hậu có nhiều thay đổi khiến cho ngƣời Việt phải sáng tạo ra nhiều
kiểu nhà ở, quân áo khác nhau sao cho phù hợp với thời tiết với môi trƣờng sống đặc thù của
từng vùng trong từng mùa. Tìm ra cách ăn uống phù hợp với từng mùa các cách phòng và
chống bệnh tật mỗi khi trái gió trở trời và quan trọng nhất là tìm ra
(1) Theo những số liệu thống kê khoa học thì lƣợng bức xạ tổng cộng; ở nƣớc ta vƣợt quá 100 kcal/cm2 trong một năm. Cân bằng bức xạ quanh năm dƣơng và đạt đến 75 kcal/cm2 /năm. Nhiệt độ trung bình năm là từ 22 đến 27 độ C. Tổng lƣợng nhiệt trên l0 độ C cả năm hay là tổng lƣợng nhiệt hoạt động lên đến 8000 độ. Nói chung về mùa hè, mỗi tháng chúng ta có tới 200 giờ nắng còn trong mùa đông, số giờ nắng cũng không dƣới 70 giờ hàng tháng (theo Lê Bá Thảo, 1977) (2) Nói chung khu vực Bắc Việt Nam kề từ đèo Hải Vân trở ra, về mùa đông có những đợt lạnh thực sự. Vùng Hà Nội có năm nhiệt độ hạ xuống dƣới 5 dộ C. ở một số vùng núi cao. có năm nhiệt độ hạ xuống dƣới 0 độ C làm cho mặt nƣớc tạo thành lớp băng mỏng, có năm có cả tuyết rơi.
3
những lịch thời vụ gieo trồng và chăm sóc hoa màu trong sản xuất nông nghiệp. Rõ ràng là
yếu tố khí hậu đã để lại những dấu ấn rất đặc trƣng trong mọi hoạt động văn hóa vật chất và
tinh thần của cƣ dân Việt. Chính đây là những yếu tố rất quan trọng tạo nên bản sắc độc đáo
của ngƣời Việt.
Khí hậu khắc nghiệt cũng chính là điều kiện rèn đúc con ngƣời Việt Nam. Do giỏi
chịu đựng và sinh tồn trong những điều kiện thời tiết khác nghiệt, ngƣời Việt có khả năng
chịu đựng một cách dẻo dai, bền bỉ trƣớc những biến đổi của môi trƣờng và sức tấn công của
bệnh tật. Đây là tiền đề thuận lợi giúp cho tổ tiên ta từ bao đời nay có khả năng giỏi đánh giặc
và mở mang bờ cõi. Khí hậu khắc nghiệt cũng là điều bắt lợi cho kẻ thù bên ngoài nhiều phen
muốn xâm lấn và đồng hóa dân tộc ta.
Môi trƣờng động vật và thực vật: Nhƣ đã trình bày ở phần trên. do đặc thù của vị trí
địa lý tự nhiên và điều kiện khí hậu đặc biệt nên thế giới động vật và thực vật ở khu vục phía
bắc nƣớc ta rất đa dạng và phong phú. Theo kết quả thống kê ban đầu thì trong vùng hiện còn
loài động vật và loài thực vật. Tuy nhiên, các di tích động vật đã tìm thấy trong các di chỉ
khảo cổ học cho thấy trong thời kỳ khai sinh, thế giới động vật ở nƣớc ta phong phú hơn ngày
nay cả về thành phần lẫn số lƣợng.
Lúc bấy giờ, nhiều vùng của miền Bắc nƣớc ta mà nay là đồng bằng hoặc trung du lúc
đó vẫn là các khu rừng nguyên sinh và rừng rậm. Ngay khu vực lân cận Hà Nội ngày nay, lúc
đó vẫn là rừng. Nhiều loài thú bây giờ đã khan hiếm nhƣ hƣơu, nai. lợn rừng, voi, hổ, báo,
khỉ... lúc đó sống nhan nhản khắp nơi. Thậm chí, tê giác là loài vật nay đã đƣợc coi nhƣ hoàn
toàn bị xóa sổ ở miền Bắc thì lúc đó vẫn còn khá nhiều . Di tích tê giác đã tìm thấy ở Thủy
Nguyên ( Hải Phòng ), Thiệu Dƣơng ( Thanh Hóa )...
Thời dựng nƣớc, ngƣời Việt sống hài hòa với tự nhiên. Việc chặt cây, đốt rừng làm
nƣơng hay khai phá đất phù sa ven sông, ven biển để canh tác lúa đã diễn ra mạnh mẽ nhƣng
tốc độ khai phá trong điều kiện lúc đó diễn ra một cách hài hòa chứ không khốc liệt nhƣ các
thời kỳ sau này. Ngƣời Việt có săn bắt một số loài thú rừng nhƣng việc săn bắt đó không phải
là một nghề chính nhƣ các dân tộc chuyên nghề săn bắt khác. Săn là để bảo vệ ngƣời và gia
súc tránh bị thú dữ tàn hại, săn để bảo vệ mùa màng khỏi bị các loài chim thú phá hoại là
chính chứ không phải săn để lấy thịt làm hàng đầu nhƣ các cƣ dân sống bằng nghề săn bắt
các bầy đàn thú lớn. Động vật nƣớc ta đa dạng và phong phú, giàu về thành phần loài nhƣng
không phong phú về số lƣợng của từng bầy nên văn hóa săn thú không thể hiện rõ trong văn
minh Việt.
Đánh cá biển hầu nhƣ không phải là một hoạt động phổ biến và thƣờng xuyên của hầu
hết các cộng đồng cƣ dân Việt cổ mặc dầu toàn bộ phần phía đông của nƣớc ta là biển cả.
Dân cƣ ven biển thƣờng chỉ mới khai thác các nguồn lợi thủy sản ven bờ
4
chứ chƣa khai thác trên biển xa. Điều này chúng ta có thể nhận thấy rõ trong cuộc sống của
các nhóm cƣ dân cận đại sống ven biển.
Ngƣời Việt cổ vẫn duy trì tập quán hái lƣợm vốn có từ hàng vạn năm trƣớc và kéo dài
dai dẳng cho tới tận ngày nay. Đó là phƣơng thức kiếm sống dựa vào việc khai thác và chế
biến từ các tài nguyên da dạng và phong phú sẵn có nhƣ mò cua, bắt ốc, thu lƣợm tôm tép,
ếch nhái, đánh bắt cá và hái nhặt những loại rau có trong tự nhiên, quanh nhà và trong rừng.
Đây là cách khai thác các nguồn tài nguyên có thể tái phục hồi một cách hợp lý và khoa học.
Việc khai thác tự nhiên theo kiểu hái lƣợm trong thời bấy giờ đã tạm thỏa mãn với nhu cầu
tiêu dùng thƣờng ngày.
Có thể nói nguồn đạm trong khẩu phần ăn của ngƣời Việt từ thời cổ xƣa cho tới tận
gần đây chủ yếu đƣợc khai thác từ các loài động vật thủy sản và một số cây họ đậu chứ
không phải từ nguồn thịt thú rừng hay sản phẩm chăn nuôi.
Trong quá trình hái lƣợm từ thiên nhiên, ngƣời Việt đã phát minh ra những cách chế
biến. bảo quản thực phẩm rất độc đáo của mình nhƣ cách nấu những món ăn tổng hợp gồm
nhiều thành phần động thực vật và gia vị hợp lại, cách chế biến các loại mắm, các loại thực
động vật phơi khô ủ chua lên men.. Những cách chế biến sản vật tự nhiên theo nhiều kiểu và
theo mùn đã tạo nên bản sắc độc đáo trong văn minh ăn uống của ngƣời Việt.
Việc hái lƣợm và sinh tồn trong một môi trƣờng sinh thái đa dạng và đa dạng về thành
phần loài đã cho phép ngƣời Việt tìm ra nhiều loại thảo mộc nhiều loại động vật và khoáng
vật đặc biệt có thể cấu thành những bài thuốc đặc sắc trong việc phòng và chữa bệnh của
ngƣời Việt Nam.
Do đặc thù của khí hậu nóng ấm, nhiều vi trùng độc hại nên việc chăn nuôi gia súc
của cƣ dân Việt cổ không đƣợc phát triển mấy. Các súc vật nuôi lúc bấy giờ chỉ có chó, trâu
bò, lợn và voi. Những gia súc nuôi để lấy thịt cũng không đƣợc sử dụng thƣờng xuyên mà chỉ
sử dụng trong những dịp hội hè lễ tết.
Thuần voi và sử dụng voi là một trong những thành tựu văn hóa cao của ngƣời Việt.
Trong lao động sản xuất cũng nhƣ trong chiến tranh giữ nƣớc qua các thời đại, con voi đã
đóng một vai trò đáng kể.
Đất đai và khoáng sản : Cho đến nay, chúng ta vẫn chƣa tổ chức nghiên cứu đầy đủ về
các tầng đất trong khảo cổ học để hiểu đƣợc chế độ khai thác và sử dụng đất của ngƣời xƣa.
Các phƣơng thức tìm và khai thác khoáng sản của ngƣời Việt cổ mới chỉ đƣợc nhắc tới trong
một số công trình lẻ tẻ và mảng nghiên cứu này cũng chƣa đƣợc
5
đi sâu. Tuy nhiên, qua các tƣ liệu đã có, ta có thể hình dung đƣợc phần nào phƣơng thức sử
dụng đất đai và khai thác khoáng sản đƣơng thời.
Ngƣời Việt đã tận dụng triệt để việc khai thác các vùng đất phù sa và bãi bồi ven sông
ven biển, vùng đất phì nhiêu, màu mỡ nhất để trồng lúa nƣớc. Các thung lũng hẹp cũng đƣợc
khai thác từ lâu đời.
Trong canh tác lúa nƣớc, đất luôn phải gắn liền với nƣớc và ngƣời Việt từ xƣa đã biết
xây dựng các hệ thống thủy lợi để điều tiết nƣớc trong các vùng ruộng cao và vùng ruộng
thấp. Vùng đất thấp ven biển thì đƣợc tƣới tiêu bằng cách lợi dụng mực nƣớc lên xuống hàng
ngày của thủy triều.
Canh tác ở vùng cao thì đốt rẫy làm nƣơng, chọc lỗ tra hạt. ở vùng thấp thì dùng trâu
dẫm cho nát đất rồi mới cấy lúa.
Chƣa có mấy tƣ liệu nghiên cứu về việc sử dụng phân bón làm tăng độ phì đất của
ngƣời Việt cổ trong thời xa xƣa.Việc dùng phân gia súc và nhân Bắc có lẽ chỉ xuất hiện trong
những giai đoạn muộn hơn sau này. Dùng một số loại thủy sinh nhƣ bèo hoa dâu làm phân
bón là một phƣơng pháp khá độc đáo của ngƣời Việt.
Chính nhờ canh tác lúa nƣớc nên phân lớn đất đai trong các vùng đồng bằng nƣớc ta
mới giữ đƣợc độ màu mỡ, phì nhiêu một cách lâu dài. Từng tấc đất trồng trọt ở đồng bằng
ngày nay có đƣợc là kết tinh của quá trình khai phá, gìn giữ và chăm sóc cần mẫn từ đời này
sang đời khác của bao thế hệ ông cha chúng ta.
Nƣớc ta nằm trong vùng có chứa nhiều khoáng sản, đó là tiền đề thuận lợi cho việc
phát triển khai khoáng và luyện kim. Việc khai thác đồng, sắt có lẽ cũng đã đƣợc thực hiện từ
lâu đời trong một số vỉa quặng vùng Lào Cai, Thái Nguyên và một số khu vực khác. Chúng ta
chƣa tìm đƣợc nhiều chứng liệu có liên quan đến các khu mỏ cổ và nghề khai mỏ cổ xƣa
nhƣng hàng loạt hiện vật đồng, trống đồng Đông Sơn với số lƣợng và mật độ cao, các khuôn
đúc, xỉ đồng có trong các di chỉ khảo cổ là những bằng chứng gián tiếp cho thấy sự phát triển
kỹ nghệ khai khoáng, luyện kim trong khu vực và trong văn minh Việt cổ đã hình thành và
phát triển từ lâu đời.
Nhiều loại đá qúi đã đƣợc khai thác và chế tác một cách công phu, tài khéo mà di tích
của chúng bao gồm hàng loạt công cụ, các loại đồ trang sức độc đáo đƣợc tìm thấy hàng loạt
trong các di chỉ khảo cổ và công xƣơng chế tác đá. Chế tác đồ trang sức đã thể hiện tài khéo
và hiểu biết về các loại đá quý cũng nhƣ công nghệ khai thác chế tác chúng của ngƣời Việt
bao đời nay.
Nƣớc ta có nhiều dạng đất sét, cao lanh là những vật liệu truyền thống lâu đời trong
nghề gốm sứ. Các loại hình gốm sứ phát triển từ thấp đến cao qua các thời đại
6
chính là những "trang sử" lâu bền và rực rỡ thể hiện bản sắc và tài trí của ngƣời Việt trong
việc khai thác các nguồn nguyên liệu chế tác và sáng tác nên những vật dụng và các tác phẩm
nghệ thuật độc đáo, hoàn mỹ.
Đất Nƣớc sản sinh ra con ngƣời cũng là cái nôi sản sinh ra văn hóa, nơi hình thành,
củng cố và phát huy rực rỡ các bản sắc vốn có, đã có và sẽ có trong tƣơng lai. Khi tìm về cội
nguồn của văn hóa của cội nguồn của chính mình để vƣơn cao hơn bay xa hơn trong tiến
trình phát triển, soi xét kỹ lại chính mình trong tấm gƣơng lịch sử trong mối hòa đồng giữa
con ngƣời và tự nhiên, một cái nhìn đầy đủ về sự phát triển hài hòa giữa ngƣời Việt Nam
trong thiên nhiên Việt Nam sẽ cho ta hiểu đƣợc nguồn gốc và bản sắc của chính mình.
Dẫu cho thiên nhiên có thay đổi theo chiều hƣớng này hay chiều hƣớng khác nhƣng
truyền thống ứng xử của ngƣời Việt với thiên nhiên Việt Nam có lẽ đã là một hằng số góp
phần tạo nên bản sắc không phai nhạt của chúng ta.
7
CHƢƠNG II: SỰ HÌNH THÀNH NỀN VĂN MINH VIỆT CỔ
Nƣớc ta khởi đầu từ Hùng Vƣơng đã khá văn minh. Núi non kỳ lạ, đất đai linh thiêng,
nhân dân anh hào, chuyện tích thần kỳ, thƣờng thƣờng vẫn có". Đó là những dòng chữ Vũ
Quỳnh viết cho bài tựa sách Lĩnh Nam chích quái cách đây đã 5 thế kỷ. Lĩnh Nam chích quái
đã tái hiện nên bức tranh khái quát với những đƣờng nét, những kết cấu cơ bản của nền văn
minh buổi đầu dân tộc. Bức tranh đó cũng nhuốm màu huyền thoại, nhƣ ở văn minh buổi đầu
của mọi dân tộc. Bởi lẽ từ bán khai bƣớc vào văn minh, con ngƣời cảm thấy mình trở thành
khổng lồ, làm đƣợc những chuyện thần kỳ, tự làm ra thức ăn đồ dùng, không còn thụ động
chờ ân huệ của thiên nhiên ban phát. Chính lao động sáng tạo của con ngƣời trong đấu tranh
sinh tồn đƣợc kết tinh trong những thành quả của văn minh là cơ sở cho những suy nghĩ bay
bổng đó. "Thần thánh chẳng qua là thân thánh hóa sức mạnh của con ngƣời" (Feurbach.).
Non sông, đất đai quả là kỳ lạ và linh thiêng trong cảm xúc của con ngƣời ở thời kỳ mở nƣớc
và tiếp nối sau đó.
Non sông, đất đai bờ cõi, không gian sống này quả là đã khác xƣa. Nó không còn là
hoang sơ, u tịch chùm lên những đốm lửa bập bùng trong những buổi chiều tà hay đêm dài
lạnh lẽo quanh nơi ở của con ngƣời. Giờ đây, điểm vào nền cảnh sơn thủy hữu tình, cùng với
cây đa giếng nƣớc là những cánh đồng lúa xanh tốt thẳng cánh cò bay, xóm làng đông vui tỏa
khói lam chiều. Hạt gạo trắng thơm - nguồn năng lƣợng nuôi sống ngƣời đƣợc sản sinh ra từ
hòn đất đỏ nâu thô phác. Một cuộc đổi đời thực sự nhƣ vậy hỏi rằng không phải là kỳ lạ, linh
thiêng sao đƣợc ?
Và cái sức mạnh tạo ra sự kỳ lạ sinh thiêng đó, tạo ra bộ mặt văn minh đó, chính là
nhân dân anh hùng đã lớn lên lẫm liệt trong khí thiêng sông núi - cái khi thiêng do chính con
ngƣời tạo ra bằng những giọt mồ hôi, nƣớc mắt và máu đào. Bức tranh lịch sử, bộ mặt văn
minh buổi đầu dân tộc đƣợc vẽ nên, đƣợc khôi phục lại bằng huyền thoại đó đã phần nào
phản ảnh đƣợc sự thật, đáp ứng đƣợc tình cảm của nhân dân ta hƣớng về cội nguồn, song vấn
đề lại không ít hoài nghi.
Ngô Sĩ Liên, nhà sử học nổi tiếng thời trung cổ nƣớc ta, đã mạnh dạn đƣa thời Hùng
Vƣơng vào chính sử, song cũng đã tỏ ra hết sức dè dặt khi viết: "Hãy tạm thuật lại chuyện cũ
để truyền lại sự nghi ngờ thôi" (Ngô Sĩ Liên 1967: 63)
Dƣới thời Pháp thuộc, một số nhà khảo cổ học Phƣơng Tây tuy có phát hiện ra di tích
khảo cổ của nền văn hóa Đông Sơn nổi tiếng, nhƣng họ không nhìn ra vết tích văn hóa đó
nhƣ là cơ sở vật chất của nền văn minh sơ khởi của dân tộc Việt Nam
8
Chỉ từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, cùng với sự hình thành và phát triển của
nền sử học mác xít mang đƣợm tính dân tộc và nhân dân sâu sắc cùng với ý thức dân tộc
đƣợc khỏi dậy mạnh mẽ, những chuẩn mực, những giá trị chứa đựng trong di sản văn hóa
đƣợc khai thác, bảo tồn và phát huy, lịch sử Việt Nam dần đƣợc nghiên cứu và viết lại, văn
minh Việt Nam thời dựng nƣớc dần đƣợc nghiên cứu đánh giá và dựng lại một cách chuẩn
xác hơn đầy đủ hơn.
Câu nói của Hồ Chủ tịch về dƣới mái đền Hùng năm 1954, trƣớc hàng quân tiến về
giải phóng Thủ đô : "Các vua Hùng đã có công dựng nƣớc" ý tƣởng đó nhƣ một luận đề sử
học nổi tiếng gắn thời kỳ lịch sử của vua Hùng với thời kỳ dựng nƣớc, xây đắp văn minh đầu
tiên của dân tộc Việt Nam định hƣớng cho những suy nghĩ tìm tòi về cội nguồn dân tộc.
Văn minh Việt cổ đƣợc soi sáng về mọi mặt.
Dƣới đây, chúng tôi xin trình bầy về quá trình hình thành và diễn tiến của nền văn
minh sơ khai đó trong thời đại dựng nƣớc và giữ nƣớc đầu tiên của dân tộc dựa trƣớc hết vào
các căn cứ khảo cổ học thu thập đƣợc, trong không gian phân bố và thời gian tồn tại đƣợc thƣ
tịch cổ và truyền thuyết gọi là nƣớc Văn Lang đời các vua Hùng.
I. CỘI NGUỒN - NHỮNG HỢP NGUỒN ĐẦU TIÊN VÀ ĐIỂM XUẤT PHÁT
CỦA VĂN MINH VIỆT CỔ
A. CỘI NGUỒN.
Văn hóa Hòa Bình và hậu Hòa Bình là cội nguồn xa xƣa của văn minh Việt Nam. đã
chứa đựng một số yếu tố của bản sắc văn hóa Việt Nam. Nhìn vào bản đồ phân bố, phân tích
các đặc điểm và theo dõi khuynh hƣớng phát triển của các văn hóa nguyên thủy trên đất nƣớc
ta thấy nổi lên hai hiện thƣợng tƣơng phản : sự phân bố rộng rãi và tồn tại dài lâu của văn hóa
Hòa Bình - Bắc Sơn với địa bàn chủ yếu là các thung lũng miền núi và sự phân lập hình
thành các văn hóa hậu Hòa Bình và hậu kỳ đá mới nhỏ hẹp hơn có phạm vi phân bổ chủ yếu
trên các dài đồng bằng ven biển sát núi.
Các di tồn vật chất của ngƣời Hòa Bình để lại thể hiện ở bộ công cụ đá và các phế thải
thức ăn trong sinh hoạt cho thấy những nét văn hóa truyền thống đã đƣợc hình thành từ một
nền kinh tế hái lƣợm và sân bắt phổ tạp, mang lại nguồn thức ăn chính cho con ngƣời là : rau
- củ - quả trên rừng và cua - ốc - cá dƣới nƣớc. Tuy nhiên ở mỗi giai đoạn phát triển của văn
hóa này, bên cạnh bộ công cụ đá gồm các loại hình truyền thống chủ yếu nhƣ chặt nạo, rìu
ngắn. dĩa... ghi nhận có sự gia tăng công cụ hình rìu - xuất hiện ngày càng nhiều công cụ đào
đất dạng cuốc - kỹ thuật mài lƣỡi công cụ đá phát triển mạnh xuất hiện đồ gốm... nhƣ những
bằng- chứng về sự manh
9
nha một phƣơng thức kiếm sống mới: chăm sóc và thuần dƣỡng cây con từ dạng hoang dại
sang dạng nuôi trồng. Thêm vào đó đã tìm thấy phấn hoa của họ rau đậu (Laguminosae) trong
một số hang động Hòa Bình nhƣ Sũng Sàm (Hà Tây), Thẩm Khƣơng (Lai Châu)... Niên đại
cácbon phóng xạ (C14) của hang Sũng Sàm là 11.365 ± 80 năm cách ngày nay, của hang
Đắng là 7580 ± 100 năm cách ngày nay cho thấy văn hóa này có thời gian tồn tại khoảng
5000 năm từ khoảng 12.000 năm đến 7000 năm cách ngày nay.
Nhờ kết quả cửa sự chuyển biến cách mạng từ nền kinh tế chiếm đoạt sản phẩm tự
nhiên sang nền kinh tế sản xuất này sinh do tiến bộ kỹ thuật và tăng dân số và nhờ vào hoàn
cảnh sinh thái thay đổi ở cuối kỳ canh tân, đầu kỳ toàn tân : khí hậu trở nên nóng ẩm, biển
rút... hình thành các dải đồng bằng hẹp kẹp giữa núi biển... cƣ dân Hóa Bình-Bắc Sơn đã
phân thành hai nhóm chính : nhóm nội địa và nhóm biển, nhóm miên núi, thƣợng du và nhóm
đồng bằng duyên hải hạ bạn, nhóm ở lại và nhóm ra đi
Nhóm ở lại miền núi tiếp tục sống trong môi trƣờng quen biết và nếp sinh hoạt truyền
thống, khiến những yếu tố của nền kinh tế mới không có điều kiện phát triển nhanh mạnh.
Trái lại nhóm tràn ra các đồng bằng duyên hải, ở đây môi trƣờng tự nhiên mới đã tạo
điều kiện thuận lợi cho sự phát triển nhanh chóng nhiều ngành kinh tế : đánh bắt cá. thu lƣợm
các loài thủy sản sông biển, chăn nuôi gia súc trâu, bò chó, lợn... và sản xuất nông nghiệp.
Mặt khác, chính do điêu kiện tự nhiên phong phú nguồn thức ăn có sẵn này lại làm chậm quá
trình "đá mới hóa" ở đây. Ở nhóm cƣ dân sống dọc duyên hải Bắc bộ và Bắc Trung bộ này đã
hình thành nên các nhóm di tích, các văn hóa cụ thể khác nhau : nhóm di tích Cái Bèo ở vùng
biển Quảng Ninh. Hải Phòng, văn hóa Đa Bút ở Thanh Hóa và văn hóa Quỳnh Văn ở Nghệ
An. Có thể lấy niên dại C14 5645 ± 115 năm cách ngày nay của di chỉ Cái Bèo (lớp dƣới) ;
6430 ± 50 năm cách ngày nay của di chỉ Đa Bút (độ sâu 1,2m) và 4785 ± 100 năm cách ngày
nay của di chỉ Quỳnh Văn (độ sâu 0,5m) để ƣớc đoán thời gian tồn tại của các nhóm di tích
và văn hóa hậu Hòa Bình duyên hải này vào khoảng 7000 năm - 4000 năm cách ngày nay.
Mặc dù có những khác biệt do các hoàn cảnh cụ thể qui định, nhìn chung, các văn hóa
vẫn là sự phát triển tiếp tục trong da dạng, một truyền thống văn hóa chung bắt nguồn từ văn
hóa Hòa Bình từ một nền kinh tế khai thác phổ tạp với nguồn thức ăn từ thực vật và lƣợm bắt
thủy sản là chính, chuyển sang nền kinh tế sản xuất đa canh với nghề cá (sông nƣớc) và chăn
nuôi gia súc gia cầm. Đứng ở góc độ kỹ thuật và công cụ, có thể ghi nhận sự tiếp tục phát
triển các yếu tố tiềm ẩn của truyền thống chế tạo và sử dụng đồng thời hay sử dụng trong mối
tƣơng quan trội - lặn rìu bôn tứ giác và rìu bôn có vai, là sự hình thành truyền thống gốm văn
thừng đáy tròn miệng rộng loe.
10
Những thành tựu văn hóa của các nhóm cƣ dân hậu Hòa Bình sống trong không gian
mới này, mặc dù chƣa đƣợc nhiều tƣ liệu soi sáng đầy đủ, còn tỏ ra khiêm tốn, song ý nghĩa
của chúng thật lớn lao. Trong điều kiện thiên nhiên vừa ƣu ái vừa khắc nghiệt, trong hoàn
cảnh, nhìn chung là có sự thử thách quyết liệt do đợt biển tiến Holocene Trung gây ra, con
ngƣời phải đấu tranh kiên trì, dành dật lại tùng khoảnh không gian sinh tồn nhỏ, từng bƣớc
khắc phục tập quán làm ăn cũ, không thụ động tìm hƣởng nguồn sống do thiên nhiên ban
phát, mà chủ động tạo ra nguồn sống mới thông qua lao động sàn xuất. Chính nhờ vào đức
tính kiên trì bám trụ và cài tạo không gian sống này, đã tạo cơ sở vững chắc cho sự tiếp tục
phát triển và dần hình thành nên một truyền thống vô cùng quí báu: tha thiết và bảo vệ nơi
sống - cốt lõi của lòng yêu quê hƣơng này đƣợc tiếp tục nhân lên ở các thể hệ tiếp sau. trở
thành lòng yêu nƣớc sớm nở, nồng nàn, sâu đậm.
Nhƣ vậy là, công cuộc chiếm lĩnh đồng bằng và ven biển đƣợc tiến hành trong giai
đoạn hậu Hòa Bình-Bắc Sơn thực sự vừa là nguyên nhân dẫn đến sự phân hóa văn hóa vừa là
động lực thúc đẩy, phát triển văn hóa, khiến chúng trở nên đa dạng hơn phong phú hơn.
Bƣớc vào giai đoạn cuối đá mới và sơ kỳ kim khí văn hóa tiền sử trên đất nƣớc ta tiếp
tục phân chia thành nhiều văn hóa đƣợc hình thành trong các khu vực nhỏ hơn. Nhƣng văn
hóa mang tính khu vực này theo thời gian có sự biến chuyển và đã trở thành các nguồn hợp
đầu tiên của văn minh Việt Nam thời khai sinh.
Trong số các văn hóa hậu kỳ đá mới - sơ kỳ kim khí này, văn hóa Phùng Nguyên ở
miền trung du và đồng bằng Bắc bộ đã giữ một vị trí quan trọng, có ý nghĩa nhƣ hạt nhân kết
tinh văn hóa đầu tiên của văn hóa Việt cổ.
B. CÁC NGUỒN HỢP ĐAU TIÊN - CÁC VĂN HÓA TRƢỚC HOẶC GỐI TIẾP
PHÙNG NGUYÊN
1. Văn hóa khu vực vùng núi phía Bắc
Trong nhiều hang động, trên các thềm sông suối, trong các thung lũng miền núi phía
Bắc ngày càng phát hiện ra nhiều di tích văn hóa thuộc giai đoạn cuối đá mới -đầu thời đại
kim khí.
Ở vùng núi Đông Bắc dấu vết văn hóa thời kỳ này thƣờng phát hiện rải rác trong các
lớp gần trên mặt của các hang động văn hoá Bắc Sơn nhƣ Làng Lục. Cồn Khế, Làng Cƣờm,
Nà Con, Khắc Kiệm... thuộc các tỉnh Lạng Sơn, Cao Bằng, Bắc Thái. Những di tích quan
trọng khác ở khu vục này là các hang Ba Xã, Mai Pha (Lạng Sơn) và địa điểm khảo cổ học
ngoài trời Lò Gạch (thị xã Hà Giang).
11
Ở vùng núi Tây Bắc, các di tích và di vật thuộc thời đại hậu kỳ đá mới - sơ kim khí
cũng đƣợc tìm thấy rải rác trong các hang động chứa các di tích thuộc các văn hóa Sơn Vi
hay Hòa Bình nhƣ trong hang Nậm Tum (Lai Châu), hang Puốc, hang Cò Lằm, hang Bản
Gièm, Bản Buôn, Bản Mé, Bản Tham (Sơn La).
Đặc biệt trong khu vực này đã phát triển ra công xƣởng chế tạo đồ đá ở mái đá Bản
Mòn, và hàng loạt các di tích thềm sông, ngoài trời nhƣ Bản Phố, Sập Việt, Cụm Đồn, Thọc
Kim mà ở đó các vết tích hậu kỳ đá mới - sơ kỳ kim khí nằm phủ lên hang lẫn vào các lớp
chứa di tích hay mang truyền thống Hòa Bình hay tiền Hòa Bình.
Trong không ít hang động văn hóa Hòa Bình thuộc tỉnh Hòa Bình nhƣ hang Khoái,
hang Bƣng, hang Xóm Trại... đều phát hiện ra dấu tích văn hóa của thời kỳ này.
Riêng ở các vùng núi miền bắc Trung bộ, cũng đã phát hiện dấu vết văn hóa của thời
kỳ hậu đá mới - sơ kim khí ở các hang Nà Thẩm, Thẩm Tiên (Thanh Hóa), Mé Muôn. Ké
Sang, Thẩm Hoi (Nghệ An). Đáng chú ý là việc phát hiện ra di tích ngoài trời Đồi Đền, nằm
ở ngã ba sông Nậm Non và Nậm Mô, chứa vết tích văn hóa của nhiều thời đại từ Sơn Vi đến
Đông Sơn, song chủ yếu là các di vật ở tuyến văn hóa Phùng Nguyên. Ở miền Tây các tỉnh
Quảng Bình và Quảng Trị, các di tích của thời kỳ này cũng phát hiện đƣợc ở Hang Rào, Khe
Tong, Minh Cầm, Yên Lạc, Kim Bảng, Xóm Thâm, Đúc Thi (Quàng Bình), Cù Bai, Bản Rạc,
Tà Pảng (Quàng Trị)...
Nhƣ vậy có thể nói, hầu hết các vùng núi phía Bắc bao gồm từ miền Đông Bắc-Tây
Bắc qua Hòa Bình tới các cùng núi miền Tây khu Bốn cũ đều tìm thấy dấu vết văn hóa giai
đoạn cuối đá mới và sơ kỳ thời đại kim khí. Vùng này là khu vực - vùng không gian sinh tồn
của cƣ dân hậu Hòa Bình ở lại vùng "đất tổ" của mình sau khi đã chia tay với các ngƣời anh
em đến miền đất mới.
Một mặt do cuộc sống tƣơng đối biệt lập trong các khu vực thung lũng cụ thể khác
nhau, mặt khác, nhờ có những tiếp xúc nhất định và thƣờng xuyên mà chủ yếu với" các nhóm
tiến xuống các miền đồng bằng và duyên hải gần đó, mà khối cƣ dân này đã tạo ra cho mình
một diện mạo văn hóa vừa có những nét riêng vừa mang những nét chung.
Những nét tƣơng đồng giữa các văn hóa ở các miền núi lẫn đồng bằng và ven biển
đƣợc thể hiện ở chỗ đều phát hiện đƣợc loại công cụ sản xuất chủ yếu bằng đá là những chiếc
cuốc đá hình tứ giác hay có vai, những rìu bôn đá tứ giác, có vai hay có nấc. Đồ gốm thƣờng
là loại đồ đựng đáy tròn hay có chân đế và đƣợc trang trí bằng hoa văn thừng chải hay khắc
vạch.
Đồ trang sức có vòng đeo tai hình vành khăn, các kiểu vòng đeo tay bằng đá có
12
mặt cắt hình chữ nhật, hình vuông, hình tam giác, hình chữ D... cùng các hạt trang sức bằng
đá, xƣơng và vỏ nhuyễn thể.
Nét riêng biệt của các dạng văn hóa vùng núi ở đây chính là ở chỗ mỗi khu vực đều
mang những phong cách riêng.
a. Đối với vùng núi Đông Bắc : Sắc thái văn hóa địa phƣơng ở đây hiện biết, thể hiện
rõ hơn cả trong 2 nhóm di tích.
Nhóm phía Đông gồm các di tích phân bổ trong sơn khối Bắc Sơn với các di tích Mai
Pha và Ba Xã (Lạng Son) là đại diện. Đặc trƣng cơ bản của nhóm di tích này là sự nổi trội
của rìu bôn, đục cuốc đá có hình chữ nhật hay tứ diện cùng với đồ gốm văn thừng đáy tròn
song có cổ eo và đôi khi có gắn-quai hay có tai xuyên lỗ có chân đế đƣợc trang trí bằng thủ
pháp khắc vạch thành hình hoa thị bốn cánh mà ở giữa và trên các cánh hoa đƣợc trổ lỗ
thủng.
Nhóm phía Tây phân bố ở các tỉnh Cao Bằng, Bắc Thái. Hà Giang và Tuyên Quang,
trong đó di tích Lò Gạch (Hà Giang) chứa đầy đủ hơn cả các đặc điểm văn hóa điển hình cho
nhóm di tích này.
Tƣơng phản với hang Mè Bạc (nhóm Ba Xã - Mai Pha), nơi rìu bôn tứ giác đƣợc dùng
phổ biến còn ở đây, trong di tích Lò Gạch thì cuốc rìu bôn có vai lại nổi trội lên.
Trong đó có những chiếc rìu bôn vai có nấc ngang hết sức độc đáo. Gốm thô, vỡ vụn
thƣờng trang trí văn thừng, hoa văn các dải chấm trong hai đƣờng song song. Chính dựa vào
tổng thể các nét khác biệt này mà một số nhà nghiên cứu nƣớc ta đã nghĩ tới khả năng về sự
tồn tại một văn hóa khảo cổ riêng biệt mang tên văn hoá Hà Giang -một văn hóa có mối giao
lƣu và cùng ở bình tuyến với văn hóa Hạ Long và Phùng Nguyên (Hà Vãn Tấn, Bùi Vinh và
Võ Quý 1989)
b. Ở vùng Tây Bắc: Vết tích văn hóa thuộc hậu kỳ đá mới sơ kỳ kim khí tìm đƣợc rải
rác trong một số hang động nhƣ trong hang Nậm Tum (Lai Châu) đã phát hiện đƣợc 3 ngôi
mộ, trong một mộ có chôn một nồi có dáng đáy gãy cao, vai xuôi. trang trí những đƣờng cong
kép hình chữ X. trong lớp đất gần mặt rải rác còn tìm đƣợc một số mảnh gốm và nhiều công
cụ xƣơng đọc mài nhắc hoàn toàn, ở hang Thẩm Khƣơng (Lai Châu) - cũng tìm đƣợc 7 công
cụ xƣơng mài trong đó có 1 mũi tên và 1 đục làm bằng xƣơng ống khỉ, 1 rìu vai mài toàn
thân, ở hang Puốc (Yên Châu - Sơn La) đã tìm đƣợc một nồi gốm lớn mà ở phần ngoài gần
miệng đƣợc trang trí hoa văn khắc vạch dạng chữ S biến thể nằm ngang và thân đƣợc trang trí
hoa văn dấu thừng. Chiếc nồi này phảng phất bóng dáng Phùng Nguyên.
Điều đáng chú ý là dọc bờ sông Đà trong 2 huyện Thuận châu. Yên Châu, đã
13
phát hiện một loạt di tích ngoài trời, hay hang động sát bờ sông nhƣ Hang Tọ (Thuận Châu)
Bản Phố, Sập Việt, Cụm Đồn, Núi Mỏ, Thọc Kim, Cò Lâm, Hang Chƣơng (Yên Châu)....
Tập hợp các di tích ở đây đã phác họa một diện mạo riêng biệt với các nét nổi lên nhƣ : rìu tứ
diện đƣợc sử dụng vƣợt trội rìu có vai. Tỷ lệ đó ở Sập Việt là 7/1, ở Bản Phố là 5/0. Đồ trang
sức đeo tay đƣợc chế bằng đá spilit có mặt cắt hình tam giác và chữ D. Những chiếc vòng này
đƣợc chế tạo ở các công xƣởng làm đồ trang sức ở Núi Mỏ, Thọc Kim hay ít nhiều ở ngay
khu cƣ trú nhƣ Sập Việt...
Đồ gốm ở đây, tuy có mang những nét kỹ thuật và phong cách chung nhƣ văn chải.
thừng, khắc vạch... song nét riêng biệt vẫn hiện lên rõ ràng dễ thấy, đó là sự nổi trội của văn
chài so với văn thừng, ở Sập Việt tỷ lệ đó là 1325/392, ở Thọc Kim là 19/3. Phổ biến loại
gốm miệng đứng, thành miệng phẳng hay hơi vát ra ngoài. Thứ đến là loại gốm miệng khum,
đáy tròn. Hoa văn trang trí khắc vạch cũng rất đa dạng có tới 16 loại. trong đó đáng chú ý hoa
văn vẽ bằng que nhiều răng (từ 2 đến 6 răng), có những mảnh ở đó văn vạch đè lên nền văn
chài. có những chiếc bát mà hoa văn khắc vạch đƣợc vẽ lên toàn bộ bề mặt ngoài hiện vật
nhƣ chiếc bát gốm ở Hang Chƣởng. Ngoài ra còn phải kể đến loại hoa văn ấn lõm kiểu cuống
rạ (tức hoa văn chấm tròn) ấn lõm rồi chấm nhỏ xung quanh thành hình hoa, hoa văn nụ dinh
dán thêm trên giao điểm các đƣờng khắc vạch (Chử Văn Tần 1992)
Bên cạnh những nét riêng đó, đồ đá và đồ gốm ở đây phản ánh mối liên hệ khá gắn bó
chặt chẽ với miền trung du Vĩnh Phú, nơi sông Đà hợp lƣu vói sông Thao. Về phƣơng diện
đồ đá có thể nhìn thấy rõ mối liên hệ đó, qua nguyên liệu, kỹ thuật và loại hình hiện vật ở các
công xƣởng chế tạo công cụ sản xuất rìu tứ diện ở Bản Mòn (Sơn La) và Gò Chè (Vĩnh Phú),
chế tạo đồ trang sức ở Núi Mỏ, Thọc Kim (Sơn La) và Hồng Đà (Vĩnh Phú)... Về đồ gốm, sự
gần gũi đƣợc thể hiện qua sự tồn tại của chạc gốm ở Sập Việt, Bản Phố, qua hoa văn trang trí
khuông nhạc ở đây khá giống ở di chỉ Đoan Thƣợng (Vĩnh Phú). Lối trang trí ấn vỏ sò hay ấn
lõm chấm xung quanh thành hình bông hoa - một đặc trƣng của gốm Hoa Lộc. có thấy cả ở
Gò Ghệ (Vĩnh Phú) lẫn ở Sập Việt.
Trên quê hương gốc của văn hóa Hòa Bình (các tỉnh Hòa Bình, Ninh Bình. Thanh
Hóa) trong nhiều địa điểm của văn hóa này nhƣ Hang Khoài (Mai Châu, Hòa Bình) Hang
Bƣng (Đà Bắc, Hoà Bình); Xóm Trại, Làng Vành. Đa Phúc (Lạc Sơn, Hòa Bình) Đồng Nội
(Lạc Thủy, Hòa Bình) Hang Đắng (Nho Quan, Ninh Bình) Đồng Giao (Ninh Khánh, Ninh
Bình) Thạch Sơn (Cẩm Thủy, Thanh Hóa) Mỹ Tế (Thạch Thành, Thanh Hóa)... cũng ghi
nhận nhiều vết tích văn hóa thuộc hậu kỳ đá mới, sơ kỳ kim khí. Tƣ liệu khảo cổ học ở đây
chƣa cho phép nhận ra xem dân cƣ ở đây lúc này ƣa sử dụng trội loại công cụ đá gì, rìu bôn,
cuốc có vai hay tứ diện. Đồ trang sức bằng đá
14
chƣa nói đƣợc gì nhiều ngoài loại khuyên tai vành khăn. vòng tay, hạt chuỗi bằng đá ngọc
kiểu Phùng Nguyên cặp đƣợc trong các mộ táng ở Hang Khoài. Cũng trong mộ táng của hang
này lại gặp đồ trang sức bằng ốc biển, những vòng trang sức bằng vỏ ốc hay đốt xƣơng cá
nhỏ li ti. Trang sức bằng ốc biển Cyrpaea còn thấy ở Hang Bƣng. Điều đáng lƣu ý hơn cả là
đồ gốm. Ở đây gặp các loại đồ đựng miệng vuông độc đáo trang trí trên thân loại hoa văn
dạng chữ S biến thể nhƣ thấy ở Thanh Sơn, ở Xóm Lác (Mai Châu, Hòa Bình). Hoa văn khắc
vạch, chấm tròn vẽ phóng khoáng hơn, trang trí trên một bề mặt rộng hơn nhƣng nhìn chung
có phong cách và các hoa tiết trang trí gần gũi hoa văn gốm Phùng Nguyên, nhƣ gặp trên các
mảnh gốm ở Xóm Trại, Thạch Sơn. Mỹ Tế...
Bộ mặt văn hóa vùng núi Bắc Trung bộ bao gồm các khu vực từ nam Thanh Hóa đến
Quảng Trị cũng phản ánh tính đa dạng của nó, thế hiện ra ở hai nhóm di tích quan trọng:
nhóm vùng núi Thanh Nghệ và nhóm vùng núi Bình Trị Thiên
Ở nhóm miền tây Thanh Nghệ : Các di tích tập trung ở vùng Quỳ Châu Nghệ An) và
Thƣờng Xuân (Thanh Hóa) bao gồm các di tích Thầm Mé Muôn. Thẩm Ké Sang, Thẩm
Pông, Nà Tham, Thẩm Tiên... Trong các di tích này đã phát hiện đƣợc nhiều rìu đá tứ giác
hay có vai mài nhắn toàn thân. Nhiều đồ trang sức nhƣ vòng tay, hoa tai bằng đá xanh hay
phiến thạch, hạt chuỗi hình ống và vỏ ốc biển xuyên lỗ. Đồ gốm cũng rất phong phú, phổ
biến là loại gốm đáy tròn. bên cạnh đó có các loại gắn chân đê hay đáy bằng. Hoa văn phổ
biến là loại in dấu thừng trên thân, bên cạnh đó các hoa văn trang trí đƣợc tạo nên bằng cách
dùng que nhiều răng vạch lên bề mặt gốm ở các phần cổ và vai thành các đồ án hoa văn sóng
nƣớc, sóng xoắn chéo thành hình số 8. thành văn xoáy ốc hay chữ S mang phong cách trang
trí của gốm Thạch Lạc - Bàu Tró. Cƣ dân ở đây còn tạo hoa văn trang trí bằng cách in lên đồ
gốm những vòng tròn to nhỏ khác nhau xếp thành hàng giới hạn trong hai hàng vạch song
song hay trong các đƣờng vạch thành các đồ án trang trí. Đáng chú ý là hoa văn chấm giải
giữa các đƣờng vạch chìm phát hiện trên đồ gốm ở Thầm Tiên và Thẩm Pông (Hà Vãn Tấn
1978) cũng nhƣ trên một nồi gốm đáy tròn đƣợc chôn cùng vói 1 khuyên tai đá hình vành
khăn trong một ngôi mộ ở Thẩm Hoi.
Cƣ dân sống ở miền núi phía tây Bình Trị Thiên đã để lại những dấu tích văn hóa có
diện mạo tƣơng tự nhƣ của cƣ dân đƣơng thời miền tây Thanh - Nghệ, trong một số hang
động nhƣ Hang Rào, Khe Tong, Minh Cầm, hay trên các đồi gò thềm sông nhu Cù Bai. Bản
Rác, Tà Păng...
Đặc điểm nổi bật của các di tích ở đây là sự tồn tại phổ biến của loại rìu bôn có vai
dƣờng nhƣ trội hơn loại rìu bôn không vai, chúng thƣờng có mặt cắt ngang thân hình bầu dục.
phần lớn đƣợc chế tạo từ đá lửa và đƣợc làm ở ngay nơi ở. Họ còn sử
15
dụng công cụ bằng xƣơng nhƣ mũi nhọn. Đồ gốm ở đây thƣờng gặp các loại nồi đáy tròn
bụng tròn miệng loe mép cuốn cong ra phía ngoài, mặt gắn phía ngoài đƣợc in dấu thừng.
Trên nền thừng thƣờng đƣợc vẽ bằng bút kẻ khuông nhạc có 2 hoặc 3 răng tạo ra các họa tiết
hoa văn hình sóng nƣớc, hình ô trám hoặc "răng sói". Cƣ dân ở đây còn ƣa dùng gốm màu
với các vành tranh trí màu đỏ thổ hoàng hay màu đen ánh chì. Đồ trang sức khá phong phú đa
dạng, đặc biệt ƣa chuộng đồ trang sức làm từ vỏ nhuyễn thể biển. Đó là những vỏ ốc xuyên
lỗ, những vòng vỏ sò ở giữa xuyên lỗ nhƣ đồng xu, nhiều vòng nhỏ li ti. Có loại hoa tai bằng
vỏ sò dùi lỗ ở một đầu. Ngoài ra còn gặp loại hạt chuối bằng đá xanh, hoa tai hình 6 cạnh
bằng ngà.
Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng văn hóa ở khu vực này có mối liên hệ với văn hóa
Bàu Tró đồng thời phân bố ở ven biển. thậm chí còn nghĩ nhóm di tích tây Bình Trị Thiên và
Nghệ Tĩnh chỉ là dạng địa phƣơng của văn hóa Bàu Tró (Phạm Thị Ninh. 1991 : 44). Tuy
nhiên phân tích hoa văn trang trí gốm - thƣờng mang đậm đà dấu ấn về đặc trƣng tộc ngƣời -
có thể nhìn thấy mối quan hệ xa hơn về. phía bắc biểu hiện qua gốm văn thừng và khắc vạch
trong có in các giải chấm mang phong cách Phùng Nguyên. Vì vậy có thể coi khu vực này
nhƣ địa bàn xa hơn cà về phía nam hiện biết là nguồn hợp văn hóa góp tạo nền văn minh Việt
cổ thời đại kim khí.
2. Các văn hóa ven biển
Bƣớc vào giai đoạn cuối đá mới và sơ kỳ thời đại kim khí, đồng thời với các nhóm cƣ
dân ở lại sống bám trụ với núi rừng, trên các vùng đất mới, các dải đồng bằng hẹp ven biển
miền Bắc nƣớc ta, con cháu của những ngƣời Cái Bèo - Đa Bút - Quỳnh Văn, trong bối cảnh
tiếp xúc văn hóa mới đã kế thừa, nâng cao và đổi mới lối sống và nếp sinh hoạt của tổ tiên,
tạo ra các văn hóa mới, đến nay đã xác định đƣợc là các văn hóa : Hạ Long, Hoa Lộc và Bàu
Tró.
a. Văn hóa Hạ Long phân bố chủ yếu ở vùng ven biển và hải đảo Đông Bắc Việt
Nam, cho tới nay dấu tích của văn hóa này đã thấy ở 20 địa điểm phân bố trên các cồn cát,
sƣờn đồi và hang động của vùng bờ biển và hải đảo từ Móng Cái đến Hải Phòng. Những di
tích này đều chứa những nét chung điển hình cho văn hóa Hạ Long. Đó là sự tồn tại phổ biến
của loại bôn đá có vai có nấc, lƣỡi xoè. Đôi khi ở nhiều chiếc có vai kép. dùng nhiều loại bàn
mài có những rãnh mài hình lòng máng cắt chéo nhau đƣợc gọi là "dấu Hạ Long". Đồ gốm
chủ yếu là loại hình gốm xốp, bên cạnh gốm chắc tồn tại loại gốm có miệng hình đa giác.
Hoa văn đắp nổi thành hình chủ S nằm hay trổ lỗ thủng thành hình tam giác là nét riêng của
gốm Hạ Long, bên cạnh lối trang trí văn thừng hay in mép sò, khắc vạch hình sóng nƣớc,
chữ S.
Có thể nói những nét riêng của Hạ Long, những dấu hiệu nhận biết về văn hóa
16
những chiếc bôn có vai có nấc nhƣng không phổ biến nhƣ t`rong văn hóa Hạ Long
Đồ gốm Hoa Lộc hết sức độc đáo cả về hình dáng lẫn hoa văn trang trí. Bên cạnh
những nồi vò có hình dáng thông thƣờng, ngƣời Hoa Lộc còn ƣa dùng những loại bình vai
gãy có miệng gấp vào trong, đặc biệt có loại bình vành miệng rộng có hình tứ giác hoặc bát
giác. Gốm đƣợc trang trí những hoa văn đẹp. Đó là những vạch thẳng hay xiên, những đƣờng
cong, những nhóm chấm. Các hoa văn đƣợc làm nổi bật trên nền đƣợc tạo ra bằng cách ấn
mép sò thành các đƣờng sóng li ti.
Một đặc điểm Hoa Lộc khác là sự có mặt của các hộp đựng phẩm và những con dấu
in, lăn hoa văn có hình dáng rất khác nhau : hình trụ, hĩnh chữ nhật, hình tròn, hình bàu dục.
Trên mặt những con dấu thƣờng đƣợc khắc rất sâu các họa tiết hoa văn chữ S tròn góc hay
gãy nóc, những đƣơng hồi văn liên hoàn. Những con dấu nhƣ vậy cũng gặp trong nhiều văn
hóa đá mới và đồng thau vùng Ấn Độ. Ban-căng,cũng gặp cả trong văn hóa Bản Chiềng (Thái
Lan).
Mối quan hệ giữa văn hóa Hoa Lộc với văn hóa Thạch Lạc đƣợc ghi nhận rõ nét qua
việc sử dụng đồ trang sức bằng đất nung, việc trang trí đồ gốm bằng hoa văn dùng que nhiều
kiểu bút kẻ khuông nhạc.
Gốm Hoa Lộc còn gặp xa hơn. sâu hơn trong các miền núi từ Tây Thanh-Nghệ cho
tới Sơn La. Đó là đồ gốm có hoa văn là dấu in mép sò, in dấu chấm và ấn lõm thành hình
bông hoa ở các di tích Sập Việt. Bản Gièm (Sơn La), có thể sông Mã đã đóng vai trò chuyển
tải và giao lƣu văn hóa Núi-Biển.
Về phía nam, trong hang Pò Cung (Nghệ An) đã tìm thấy nhiều mảnh gốm có hoa văn
chữ S với dấu in mép sò mang phong cách Hoa Lộc.
Đặc biệt cƣ dân văn hóa Hoa Lộc đã có mối quan hệ gắn bó với cƣ dân ở lƣu vực
sông Hồng. Ngƣời Hoa Lộc đã tham gia khai phá đồng bằng sông Hồng, cộng cƣ và trao đổi
với cƣ dân Phùng Nguyên sống ở các dẻo đồng bằng cao trƣớc núi. Trên đƣờng đi họ đã để
lại các dấu vết hiển nhiên biếu hiện qua di tồn vật chất trong các di chỉ cƣ trú nhƣ ở Núi Lê
dã tìm thấy đƣợc các đồ dùng bằng gốm nhƣ bát vuông kiểu nghiên mực, bình vai rộng trang
trí các dải băng hoa văn sò, những mảnh gốm chấm lỗ bằng đầu que khá to. Tại di chỉ Mã
Đống (Hà Tây) đã tìm thấy những di vật điển hình của văn hóa Hoa Lộc, đó là các rìu bôn có
vai, các vòng trang sức đá thô có mặt cắt hình cho T, chữ D hay tam giác, các khuyên tai hình
đĩa bằng đất nung, những mảnh gốm có hoa văn trang trí ấn lõm và chấm thành hình hoa,
chấm vạch kiểu que diêm.
Xa hơn nữa, gốm Hoa Lộc còn tìm thấy trong các di chỉ Phùng Nguyên ở ngay quê
hƣơng văn hóa này tức ở vùng đất Tổ Phong Châu tại các địa điểm nhƣ Ghệ, Dạ
18
đã phát hiện đƣợc các mảnh gốm trang trí thành các hoa văn ấn lõm hình hoa, hoặc các nhóm
chấm nằm trong hai đƣờng khắc vạch gấp khúc.
Riêng mối quan hệ giữa văn hóa Hoa Lộc với các văn hóa khảo cổ khác ở lƣu vực
sông Mã chƣa rõ ràng, mới chỉ hé mở qua các di tồn vật chất phát hiện đƣợc ở di chỉ Cồn
Chân Tiên nằm sát chân Núi Đọ. Đó là các bàn xoa gốm kiểu Hoa Lộc, những mảnh gốm
đƣợc tạo bằng kỹ thuật in lăn, những mảnh gốm có hoa văn tạo ra bằng que đầu tù, to in
thành hình hạt mè, giọt nƣớc...
Điều đó chứng tỏ vào cuối đá mới, đầu thời đại đồng thau, cách đây chừng 4 nghìn
năm đã có một nhóm ngƣời mang yếu tố văn hóa vùng biển tham gia chinh phục vùng đồng
bằng sông Mã : nhóm Hoa Lộc.
c. Văn hóa Bàu Tró
Trên địa bàn ven biển phía Nam của văn hóa Hoa Lộc, kéo dài từ Nghệ An tới Quảng
Bình là vùng cƣ trú của cƣ dân văn hóa Bàu Tró (Phạm Thị Ninh 1991). Một nền văn hóa
đƣợc nảy sinh từ văn hóa Quỳnh Văn trƣóc đó.
Niên đại của văn hóa Bàu Tró kéo dài từ khoảng cuối thiên kỷ III đến nửa đầu thiên
kỷ II trƣớc công nguyên.
Ở giai đoạn sớm, còn nhiều công cụ ghè đẽo và tồn tại phổ biến loại nồi miệng thẳng
đứng có đáy nhọn nhƣ đã gặp trong vùng hóa Quỳnh Văn. Về đặc trƣng đồ đá nói chung, có
thể nói rằng, chủ nhân văn hóa Bàu Tró đã sử dụng cả rìu có vai và rìu tứ giác đƣợc mài toàn
thân song vẫn còn lại những vết ghè đẽo sau. Rìu thƣờng có thiết diện ngang thân hình bầu
dục hay thấu kính đƣợc chế bằng đá trầm tích hoặc đá lửa. Rìu vai thƣờng có đặc điểm vai
xuôi. hẹp và chiếm tỷ lệ lớn hơn rìu tứ diện ở giai đoạn sớm. Ở khu vực Quảng Bình còn gặp
rìu vai nhọn và bôn "răng trâu". Đặc điểm chung của gốm Bàu Tró là đƣợc làm bằng đất sét
pha nhiều cát hoặc vỏ sò nghiền nhỏ, phổ biến nhất là loại gốm đáy tròn, ngoài ra còn có đồ
đựng có chân đế nhƣ bình, âu, chậu, bát, mâm bồng..., đặc biệt tồn tại loại đồ đựng có tai.
Hoa văn in dấu thừng và in mai rùa là hoa văn kỹ thuật chủ đạo. Hoa văn trang trí không
nhiều chiếm tỷ lệ từ 5 đến 6% so với hoa văn kỹ thuật và đƣợc tạo ra bằng các thủ pháp khác
nhau : khắc vạch bằng bút một răng hay nhiều răng, dán đắp thêm những giải đai, trổ lổ thủng
in ấn bằng lƣng, miệng mép vỏ sò hoặc tô màu lên đồ đựng.
Hoa văn phổ biến nhất là loại văn khắc vạch tạo ra các hoa văn khuông nhạc, làn sóng
hay chữ S gối đầu nhau, các tam giác đối đỉnh đƣợc điền đầy bằng các vạch chéo song song
theo một cạnh tam giác.
Gốm tô màu cũng là một nét riêng của văn hoá Bàu Tró. Màu đỏ đƣợc dùng phổ
19
biến nhất bên cạnh màu đen. Phong cách tô màu lên miệng đồ đựng thƣờng đƣợc kết hợp
chặt chẽ với văn kẻ khuông nhạc, văn chữ S gối đầu nhau.
Đồ trang sức bằng đá với các loại vòng có mặt cắt hình chữ T, chữ D. hình tam giác,
đã gặp trong các di chỉ nhƣng với số lƣợng không nhiều. Đã phát hiện đƣợc một số khuyên
tai, mảnh vòng bằng đất nung. Vết tích luyện kim đồng đã xuất hiện.
Ở những di chỉ, nhất là ở những di chỉ đồi vỏ sò điệp của văn hóa này. dấu vết của
hoạt động săn bắt đánh cá và hái lƣợm còn thể hiện đậm đà. đã tìm đƣợc một số xƣơng hƣơu
nai, lợn rừng, sừng dê. ngà voi. xƣơng sọ và nhiều đốt xƣơng sống cá biển, có đốt có đƣờng
kính tới 15cm. Nhƣng cần nhấn mạnh rằng, nông nghiệp là hoạt động sản xuất chủ yếu của
con ngƣời Bàu Tró. Ở nhiều di chỉ nhƣ Bãi Phôi Phối. Cồn Nền... tảng văn hóa dày chứa
nhiều mảnh gốm, mật độ mảnh gốm ở Cồn Nền lên tới 65 nghìn mảnh trên một diện tích khai quật 90m2. Cuốc đá, một công cụ làm đất chủ yếu, không những tìm đƣợc trong các di chỉ cƣ trú mà còn gặp trong các mộ táng đôi khi còn tìm đƣợc với số lƣợng lớn trong các hố cất dấu.
Đặt văn hóa Bàu Tró trong mối tƣơng quan với các văn hóa đƣơng đại cho thấy cƣ
dân Bàu Tró cũng đã có mối liên hệ với nhiều văn hóa khác nhau.
Mối quan hệ hay sự tƣơng đồng của văn hóa Bàu Tró với các văn hóa duyên hải phía
bắc nhƣ Hoa Lộc, Hạ Long, thể hiện ở chất liệu gốm thô pha trộn vỏ nhuyễn thể, ở hoa văn in
mép sò, hoa văn trổ lỗ thủng, hoa văn đắp nổi thể hiện ở việc sử dụng đồ trang sức bằng đất
nung, ở việc sử dụng bàn mài có dấu Hạ Long. Mối quan hệ với văn hóa tiền Sa Huỳnh ở
dọc ven biển nam Trung bộ đƣợc thể hiện ở những chiếc rìu bôn răng trâu, những khuyên tai
đất nung, những đồ gốm khắc vạch kết hợp với in ấn mép sò đặc biệt là ở gốm tô màu thổ
hoàng kết hợp với tô màu đen ánh chì thành từng giải và màu trắng thành các nhóm vạch hay
chấm vạch đứt quãng, rồi táng thức mộ nhƣ gặp ở Thạch Lâm là những nét văn hóa đặc trƣng
của các di tích tiền Sa Huỳnh và Sa Huỳnh.
Mối quan hệ giữa văn hóa Bàu Tró với văn hóa Phùng Nguyên ở lƣu vực sông Hồng
đƣợc bộc lộ rõ nhất qua loại hoa văn kẻ khuông nhạc thành các mô típ chữ V, hình sóng hay
chữ S nằm ngang - đặc trƣng của hoa văn gốm Bàu Tró - cũng thƣờng thấy trong gốm nhiều
di tích Phùng Nguyên. Trong một số di chỉ văn hóa Bàu Tró, cũng tìm thấy những mảnh gốm
có hoa văn chấm đều đặn giữa những đƣờng khắc vạch bao quanh, giống hệt nhƣ gốm loại
này trong văn hóa Phùng Nguyên.
20
C. VĂN HÓA PHÙNG NGUYÊN - ĐIỂM LÕI VÀ XUẤT PHÁT CỦA VĂN MINH
VIỆT CỔ
Một trong những thành tựu nổi nét nhất của khảo cổ học Việt Nam là việc phát hiện ra
hàng loạt các di chỉ khảo cổ học có niên đại trƣớc Đông Sơn ở vùng trung du và đồng bằng
Bắc bộ, mà trƣớc đó chƣa hề biết tới. Với hơn 50 địa điểm hiện biết, trong đó Phùng Nguyên
(Phong Châu, Vĩnh Phú) là di chỉ phát hiện đƣợc đầu tiên (1958) của văn hóa này cho thấy
các di tích Phùng Nguyên tập trung dày đặc và nhiều nhất là ở ngã ba các con sông Hồng và
sông Đà. Các di tích Phùng Nguyên còn thấy nhiều trên đất Hà Tây, Hà Bắc, Hà Nội và còn
lan rộng ra tới Hải Phòng nhƣ di chỉ Tràng Kênh hay tiến sâu xuống miền đồng bằng ở Nam
Hà nhƣ di tích Núi Hổ. Các xóm làng phùng Nguyên thƣờng có qui mô khá lớn -trên chục nghìn m2 thậm chí hàng trăm nghìn m2 và định cƣ khá lâu dài, các di chỉ cƣ trú có tầng văn hóa dày trên 1m.
Các di vật thu đƣợc trong các di tích Phùng Nguyên có số lƣợng hết sức lớn với
nhiều loại hình phong phú da dạng.
Công cụ sản xuất bằng đá gốm các loại cuốc, rìu bôn chữ nhật hay hình thang đôi khi
có vai, đục khoan, cƣa, bàn mài, dao gặt, mũi tên, mũi khoan... Nhiều đồ trang sức nhƣ vòng,
khuyên tai, nhẫn, hạt chuỗi... Đồ gốm Phùng Nguyên có nhiều loại hình phong phú nhƣ nồi,
bình, vò, bát, chậu, mâm bồng, "chân chạc", dọi xe chỉ. bi, tƣợng động vật (gà, chim, bò...)
Tiếp tục nghề nông trồng lúa nƣớc mà phấn hoa của loài lúa nƣớc Oryza tìm đƣợc ở
di chỉ Tràng Kênh, nhiều hạt gạo cháy tìm đƣợc trong các hố bếp ở lớp dƣới thuộc văn hóa
Phùng Nguyên của di chỉ Đồng Đậu, vết tích hạt lúa tìm đƣợc trong xƣơng gốm ở các di chỉ
Gò Hên, Đồng Đậu, Đồng Vông, Xuân Kiều... Lúc này dụng cụ làm nông đã đổi mới khá rõ.
Những kinh nghiệm sử dụng bàn xoay trong sản xuất đồ gốm đã giúp hoàn thiện kỹ
thuật khoan ren tiện đá mà sự biểu hiện trình độ tuyệt đỉnh của nó đƣợc thấy qua các sản
phẩm đồ trang sức, các vòng ống với nhiều đƣờng ren nổi, các vòng ống bản gờ cao rộng tạo
mặt cắt hình chữ T. Kỹ thuật luyện kim và chế tạo kim loại đã xuất hiện. Vết tích sử dụng
kim loại đã thấy ở 11 địa điểm trong đó ở Gò Bông bên cạnh các mảnh đồng gãy, còn tìm
thấy nhiều cục xỉ đồng. Điêu đó nói lên khả năng đúc chế kim loại tại chỗ của ngƣời Gò
Bông. Các mẫu phân tích quang phổ kim loại tìm đƣợc ở Đông Vông, Gò Bông, Đoan
Thƣợng cho hay phần lớn đồ đồng Phùng Nguyên có hợp kim đồng thiếc. Ở đi chỉ Bãi Tự
còn tìm đƣợc một vòng tay và ở Chùa Lái tìm thấy đƣợc một hòn bi bằng chì. Điều đó cho
thấy, bƣớc đầu tiếp xúc với kim loại ngƣời Phùng Nguyên đang trong quá trình tìm tòi để
khẳng định hợp kim tối ƣu. Tiếp xúc
21
với kim loại còn rụt rè, một loại nguyên liệu hiếm quí không có sẵn trong tự nhiên mà phải
tinh chế công phu nên ngƣời Phùng Nguyên mới chỉ dùng đồ đồng thau để chế ra các công cụ
nhỏ bé nhƣ kim, dùi...
Tài năng kỹ thuật và nghệ thuật của ngƣời Phùng Nguyên đƣợc bộc lộ trên các đồ
trang sức bằng đá và trên đồ gốm. Những công cụ gọt vót cắt hình rìu đục nhỏ nhắn xinh xắn,
nhƣng ống chuỗi hình trụ dài tới 4-5cm mài nhẵn bóng, khoan lỗ nhỏ xuyên suốt những vòng
ống với nhiều đƣờng ren nổi... đều đặn xinh xắn. xanh mát, nhẫn bóng tƣởng nhƣ các vòng
nhựa ngày nay, biểu hiện kỹ thuật chế tác đá của ngƣời Phùng Nguyên đã đạt tới đinh cao mà
các thời đại trƣớc nó khó đạt tới và các thời đại sau nó khó có thể vƣợt qua.
Trình độ tƣ duy và thẩm mỹ cao của ngƣời Phùng Nguyên còn biểu hiện ở sự tạo
dáng và trang trí hoa văn các đồ gốm. Những bát bồng chân cao. những bình hình tháp hình
quả dƣa đƣọc phủ lớp áo màu đỏ sáng nhẵn bóng, đƣợc trang trí hoa văn các đƣờng cong nềm
thoáng, liên hoàn, các hoa văn đối xứng đăng đối chặt chẽ thành các đồ án chữ S rời hay dính
liền nhau có những hình tam giác đệm kèm, thể hiện sự kết hợp khéo léo giữa hoa văn và
kiểu dáng.
Một đặc điểm khác của tƣ duy suy cảm của ngƣời Phùng Nguyên là phản ánh thế giới
khách quan một cách ước lệ, chú trọng các bộ phận hàm chứa cái thần của đối tƣợng. Phong
cách nghệ thuật đó có thể thấy sự phản ảnh qua các tác phẩm nghệ thuật nhƣ ở đầu gà bằng
đất tung ở Xóm Rền, ngƣời Phùng Nguyên nhấn mạnh tới cái cổ cao, cái mào to của chú gà
trống. Còn tƣợng ngƣời đàn ông bằng đá tìm thấy ở di chỉ Văn Điển thì nghệ nhân không thể
hiện tay còn mặt đƣợc thể hiện ƣớc lệ trong khi đó chú ý làm nổi rõ bộ phận sinh dục. Điều
đó cũng còn liên quan đến tín ngƣỡng phồn thực của ngƣời Phùng Nguyên và có thể là một
minh chứng về sự xác lập của chể độ phụ hệ trong một xã hội nông nghiệp, nơi mà vai trò của
ngƣời đàn ông ngày một tăng một xã hội mà ở đó cấu trúc xã hội nguyên thuỷ bình đẳng đã
có mầm mống tan rã biểu hiện qua sự khác biệt về qui mô và đồ táng chôn theo trong các
ngôi mộ ở khu mộ táng Lũng Hòa. Trong số 12 mộ ở đây có 2 ngôi mộ ít hiện vật nhất (chỉ
có 2 hiện vật), 2 ngôi mộ giàu đồ tùy táng nhất trên 20 hiện vật trong đó mộ số 8 có 23 hiện
vật. Các mộ còn lại từ 3 đến 13 hiện vật.
Dựa vào niên đại cacbon phóng xạ của một số địa điểm nhƣ ở Đồng Chỗ là 1850 ± 60
trƣớc công nguyên, lớp dƣới Đồng Đậu là 1380 ± 100 trƣớc công nguyên của di chỉ Tràng
Kênh là 1455 ± 100 trƣớc công nguyên những mẫu than này đƣợc lấy từ các lớp chứa di tích
văn hóa Phùng Nguyên thuộc giai đoạn muộn. Từ đó có thể đoán định văn hóa Phùng
Nguyên đã tồn tại chủ yếu trong nửa đầu thiên kỷ II trƣớc công nguyên.
22
Trên đây là những nét đặc trƣng quan trọng của văn hóa Phùng Nguyên. Nghiên cứu
mối quan hệ giữa văn hóa Phùng Nguyên và các văn hóa trƣớc và cùng thời với nó, cho thấy
văn hóa Phùng Nguyên đã tiếp thu và hội nhập nhiều yếu tố văn hóa của những văn hóa này.
Điều đó đƣợc phản ánh ngay trong bộ di vật của văn hóa Phùng Nguyên. Có thể gặp rải rác
trong bộ di vật Phùng Nguyên những phiến đá mang dấu vết lõm tròn kiểu Hòa Bình, những
rìu cuội mài lƣỡi, dấu Bắc Sơn, những rìu bôn có vai có nấc và gốm xốp kiểu Hạ Long,
nhƣng hoa văn trang trí in mép sò, khắc vạch khuông nhạc kiểu Hoa Lộc, Thạch Lạc...
Dựa vào những thành quả nghiên cứu mới nhất về địa chất và khảo cổ học đƣợc biết:
vào thời điểm cực đại của đợt biển tiến Holocene Trung cách ngày nay khoảng 7000-4000
năm "... bờ biển tiến sâu vào đất liền phủ kín đồng bằng sông Hồng từ Chƣơng Mỹ vòng lên
Đan Phƣơng, Hà Nội rồi sang Phả Lại. Mực nƣớc biển lúc này cao hơn bây giờ tới 4m" (Vũ
Tự Lập, Đàm Trung Phƣờng, Ngô Đức Thịnh, Tô Ngọc Thanh 1991 :11). Đƣờng bờ biển này
cũng là giới hạn thấp của rìa đồng bằng sông Hồng lúc đó. Nhƣ vậy diện tích đồng bằng còn
khá nhỏ hẹp thực chất chỉ bao gồm miền trung du hiện nay. Trên miền đất này khảo cổ học
đã phát hiện đƣợc những di tích sớm của văn hóa Phùng Nguyên, thậm chí có những di tích
tiền Phùng Nguyên hay khác Phùng Nguyên. Đó là các kiểu dạng di tich nhƣ Gò Con Lợn,
nơi mà rìu có vai nhiều gấp ba lần rìu tứ diện cũng vậy vòng trang sức thô dàỵ có mặt cắt
ngang hình tam giác cân hay chữ D cùng với những mảnh gốm thô vỡ vụn không thuộc gốm
Phùng Nguyên những di tích kiểu Núi Xây thể hiện những mối liên hệ về thời gian với sự bảo
tồn những yếu tố văn hóa sớm nhƣ rìu mài lƣỡi và dấu Bắc Sơn cũng nhƣ những mối liên hệ
về không gian với văn hoá Hạ Long và các văn hóa đƣơng đại ven biển Hoa Nam đƣợc nhận
ra qua những rìu bôn có nấc, rìu vai ngang vai xuôi rìu có khoan lỗ trên thân... Điều dáng chú
ý là nhóm di tích kiểu Bá Nội - Mã Đống lớp dƣới, nơi mà riu tứ diện dƣờng nhƣ là chiếm ƣu
thế tuyệt đối cùng với những mảnh gốm xốp có hoa văn in mép sò tồn tại song song với
những mảnh gốm chắc đã gợi suy nghĩ : phải chăng trƣớc khi có một văn hóa Phùng Nguyên
bừng nở rực rỡ với những mối tiếp xúc rõ ràng với các văn hóa Hạ Long, Hoa Lộc..., thì trên
dải đồng bằng hẹp quanh vịnh Hà Nội lúc ấy đã cƣ trú một nhóm cƣ dân tiền Phùng Nguyên
với đặc trƣng văn hóa lấy rìu tứ giác và gốm trang trí hoa văn khắc vạch làm tiêu biểu có mặt
sớm nhất ở đây, cùng cƣ trú bên cạnh các nhóm cƣ dân khác mới đến sau ngày một đông, mở
đầu quá trình cộng cƣ dung hợp và tiếp biến văn hóa lâu dài.
Ngƣời Phùng Nguyên không chỉ cộng cƣ, dung hợp văn hóa với các bộ lạc khác trên
địa bàn gốc của mình, họ còn mở rộng địa bàn cƣ trú và giao tiếp với các bộ lạc ở miền đất
khác.
23
Khắp mọi nơi từ vùng núi đến vùng đồng bằng ven biển, từ vùng biên giới phía bắc
cho tới Nghệ An, khảo cổ học đã phát hiện đƣợc nhiều dấu vết văn hóa mang sắc thái Phùng
Nguyên nhƣ thấy ở di tích Lò Gạch thị xã Hà Giang, ở Tràng Kênh ven biển Hài Phòng, ở
Núi Hổ, Mã Cao thuộc Nam Hà. ở cồn Chân Tiên thuộc lƣu vực sông Mã, ở Đền Đồi ven
biển Nghệ An. Sự có mặt các yếu tố điển hình của văn hóa Phùng Nguyên bên cạnh các yếu
tố văn hóa địa phƣơng ngoài địa bàn của văn hóa Phùng Nguyên cho phép hình dung bƣớc
đầu của một quá trình hòa hợp văn hóa và tộc người đầu tiên trên phạm vi miền bắc nước ta.
Theo dõi quá trình hình thành và phát triển của các văn hóa Tiền Đông Sơn và Đông
Sơn tiếp theo, có thể nhận ra những nét đặc trƣng của các nền văn hóa này đều có liên hệ với
văn hóa Phùng Nguyên. Từ những hình dáng của công cụ, vũ khí và đồ dùng. đến những nét
hoa văn. những kiểu vòng trang sức... đều đƣợc tạo lập từ thời Phùng Nguyên. Rõ ràng văn
hóa Phùng Nguyên là cội nguồn của văn minh sông Hồng và cư dân Phùng Nguyên là cái tôi
đầu tiên của dân tộc Việt.
II. BẢY THẾ KỶ TẠO NỀN
Giai đoạn phát triển văn hóa Việt cổ tiếp theo để vạch ra hơn, có thể cho rằng nó dài
lâu bảy thế kỷ.
Trong vùng trung du và đồng bằng Bắc bộ - địa bàn trung tâm của nƣớc Văn Lang.
giai đoạn này phát triển tiếp theo giai đoạn văn hóa Phùng Nguyên bao gồm 2 văn hóa khảo
cổ phát triển kế tiếp nhau văn hóa Đồng Đậu và văn hóa Gò Mun.
1. Giai đoạn hay văn hóa Đồng Đậu
Giai đoạn này mang tên địa điểm khảo cổ học đầu tiên phát hiện đƣợc ở gõ Đồng Đậu
thuộc xã Minh Tân huyện Yên Lạc tỉnh Vĩnh Phú vào năm 1964. Cho đến nay đã tìm đƣợc
19 di tích thuộc văn hóa này đƣợc phân bố trong các tỉnh Vĩnh Phú. Hà Tây, Hà Nội, Hà Bắc.
Nhiều di tích thuộc giai đoạn muộn của văn hóa Phùng Nguyên nhƣ Đồng Đậu (lớp
dƣới), Lũng Hòa (Vĩnh Phú). An Thƣợng (lớp trên) (Hà Tây). Từ Sơn (Hà Bắc) đã chứa đựng
những yếu tố văn hóa đặc trƣng cho giai đoạn Đồng Đậu tiếp theo thể hiện ở hoa văn kẻ
khuông nhạc thành các đƣờng vạch song song hay hình làn sóng đƣợc trang trí bên trong hay
bên ngoài bản miệng đồ gốm.
Đặc trƣng cơ bản của văn hóa Đồng Đậu đƣợc thể hiện trong bộ di vật hết sức phong
phú và độc đáo. vừa kế tục nâng cao vừa đổi mới các yếu tố văn hóa truyền thống có từ giai
đoạn Phùng Nguyên.
24
Công cụ sản xuất, vũ khí, đồ trang sức bằng đá vẫn tiếp tục phát triển các loại hình đã
tồn tại trong văn hóa Phùng Nguyên. Rìu bôn tứ diện vẫn dùng phổ biến những mảnh qua đá
hình lá dài bẹt, những mũi tên có mặt cắt ngang hình tam giác... các vùng trang súc đeo tay
bằng đá to nặng có mặt cắt hình chữ T, chữ D, tam giác, rồi khuyên tai 4 mấu đƣợc cải tiến
hơn thể hiện ở các mấu đƣợc làm rõ và tròn trịa.
Một trong những đặc trƣng quan trọng của văn hóa Đồng Đậu là sự phát triển "bùng
nổ" của kỹ thuật luyện kim và chế tác kim loại bằng đồng thau. Nếu nhƣ ở bình tuyến Phùng
Nguyễn vết tích đồng thau chỉ mới gặp ở một số nơi thể hiện trên các mảnh đồng vỡ nhỏ
không rõ ràng hoặc ở đôi ba công cụ bị gãy sứt khiến việc đoán định chức năng và định loại
gặp khó khăn thì đến giai đoạn Đồng Đậu, đồ đồng thau đã đƣợc dùng khá phổ biến. Tỷ lệ
hiện vật bằng đồng thau chiếm khoảng trên dƣới 1/5 số công cụ và vũ khí với các loại hình đa
dạng đã phát triển ổn định, ít ra có tới 14 loại hình nhƣ rìu, mũi lao, mũi tên, lƣỡi câu, búa,
giữa, vòng...
Đã tìm thấy nhiều khuôn đúc mũi tên, mũi nhọn, rìu bằng đá và bằng đất nung, tìm
thấy đƣợc khuôn đúc một hiện vật và khuôn đúc một lần nhiều hiện vật. Đặc biệt ở di chỉ
Đồng Đậu. ở độ sâu 1,5m thuộc lớp văn hóa Đồng Đậu đã phát hiện đƣọc 4 chiếc lò nấu
đồng. Tất cả đều có kích thƣớc nhỏ đƣờng kính khoảng 0,4m cao 0,5m, có lò còn nhận ra cả
miệng lò và lỗ thông gió, trong một chiếc lò đã tìm đƣợc mảnh nồi nấu đồng... Ở Đồng Đậu
còn tìm đƣợc nhiều xỉ đồng, vật đúc lỗi và cả đe đá, búa đồng dùng để gia công nguội sau đúc
thể hiện rõ nhất trong việc: chế tạo những lƣỡi câu.
Phát triển trên nền tảng nghề nông đang bƣớc vào thế phát triển ổn định, đến lƣợt
mình, nghề đúc đồng đã tạo ra những sản phẩm mới, những công cụ mới bằng kim loại mang
lại năng suất cao hơn, thúc đẩy trở lại nghề nông phát triển, khiến ngƣời Đồng Đậu trụ vững
và mở mang không gian sinh tồn của mình ở miền sông nước châu thổ sông Hồng.
Một đặc trƣng khác về văn hóa Đồng Đậu là đồ gốm. Về chất liệu, gốm Đồng Đậu
tiến bộ hơn gốm Phùng Nguyên cả về tạo tác kỹ thuật và độ nung. Chất liệu pha trộn mang
tính kết dính cao. Đồ gốm đạt độ nung cao hơn, dày, cứng hơn và thƣờng có màu xám nhạt.
Điều đáng chú ý là đồ đựng có kích thƣớc lớn gia tăng nói lên sự đáp ứng nhu cầu xản xuất
và sinh hoạt gia tăng, đồng thời còn phản ảnh trình độ kỹ thuật chế tạo gốm của ngƣời Đồng
Đậu đã dạt tới trình độ cao hơn.
Nếu nhƣ gốm và hoa văn gốm Phùng Nguyên thể hiện tính nhẹ nhàng uyển chuyển,
tính chau chuốt và tinh tế thể hiện chiều sâu tâm hồn và tƣ duy thông qua dáng gốm tròn, mặt
gốm đƣợc miết láng mang các dải hoa văn in chấm hay các đồ án
25
đối xứng chặt chẽ, đăng đối, thi gốm Đồng Đậu lại thể hiện một tính cách mạnh mẽ, phóng
khoáng nhận ra ở bề mặt cứng đanh, xám của đồ gốm. Hoa văn trang trí chủ yếu là những
đƣờng vạch khắc chạy song song, thẳng, cắt chéo nhau hay xoáy tròn hoặc thành những dải
chữ S đơn, kép đứng, nghiêng, nằm ngang nối đuôi nhau tạo ta những băng hoa văn sóng
nƣớc tù lăn tăn, nhấp nhô hay cuồn cuộn nhƣ những con sóng dậy trào. Mô típ hoa văn sóng
nƣớc này đã có từ bình tuyến Phùng Nguyên song chỉ đến giai đoạn Đồng Đậu mới phát triển
thành các dạng hết sức đa dạng, phản ảnh không những tính cách của ngƣời Đồng Đậu mà
đồng thời cũng phản ảnh hiện tƣợng thiên nhiên khách quan xảy ra gây ấn tƣợng mạnh mẽ
đối với con ngƣời. Ngoài lƣu vực sông Hồng, vết tích gồm văn sóng kiểu Đồng Đậu còn gặp
cả trong các di tích cùng thời vùng sông Mã, sông Cả nhƣ Đan Nê. Núi Cáo Trắng. Núi Nấp
(Thanh Hóa). Rú Cật (Nghệ An)... Loại gốm này không những chỉ tìm thấy trong các di chỉ
sát chân núi mà còn gặp trong các hốc núi ở những độ cao khác nhau cùng với những vỏ sò,
trai, ốc biển là chứng tích của một thời con ngƣời phải đƣơng đầu với những trận lũ lớn hoặc
có thể của một đợt biển dâng mà trong khảo cổ học đƣợc gọi là hiện tƣợng Đan Nê.
Giai đoạn Đồng Đậu có niên đại tồn tại vào khoảng nửa sau thiên niên kỷ thứ II trƣớc
công nguyên. Khung niên đại từ thế kỷ 15-14 đến thế kỷ 8-7 trƣớc công Nguyên là khoảng
thời gian của các nhóm di tích Đồng Đậu - Gò Mun kế tiếp nhau ra đời và phát triển.
2. Giai đoạn hay văn hóa Gò Mun
Giai đoạn này mang tên di chỉ Gò Mun thuộc xã Tứ Xã huyện Phong Châu tỉnh Vĩnh
Phú đƣợc phát hiện đầu tiên vào năm 1961. Đến nay đã có tới 34 di tích phân bổ trong các
tỉnh Vĩnh Phú, Hà Bắc, Hà Nội, Hà Tây, Ninh Bình. Thuộc binh tuyển này ở lƣu vực sông
Mã. có các di chỉ nhƣ Núi Nấp (lớp văn hóa và mộ táng sớm), Quỳ Chử (lớp giữa), Đông Sơn
(lớp văn hóa và nhóm mộ sớm). Núi Trịnh Thiệu Dƣơng (lớp văn hóa sớm) Đồng Ngầm.
Đồng Vừng họp thành nhóm di tích Quỳ Chử, cũng vậy, ở lƣu vực sông Cả có di tích Rú
Trăn mang những nét tƣơng đồng về văn hóa và thời gian với các di tích vùng sông Hồng và
sông Mã.
Theo nhịp độ rút của nƣớc biển và tạo lập đồng bằng, ngƣời Gò Mun đã mở rộng
phạm vi cƣ trú xa rộng hơn về phía nam và đông nam. Trên mặt đồng bằng còn lầy lội đã
xuất hiện thêm nhiều điểm cƣ trú mới nhƣ Vinh Quang, Chiền Vậy, Gò Thông. Đại Áng,
Dƣơng Xá... Chủ nhân văn hóa Gò Mun bằng lao động sáng tạo của mình dựa trên nền tảng
kinh tế và kỹ thuật của thời Đồng Đậu đã vƣơn lên làm chủ kỹ thuật đồng và chế tạo ra những
sản phẩm mới. Đồ đồng ngày càng vƣơn lên chiếm ƣu thế trong hoạt động sàn xuất và đời
sống. Về loại hình, nhiều đồ đồng vẫn mang phong cách truyền thống nhƣ rìu tứ giác, rìu xoè
cân, giáo hình búp đa, lao hình lá hay mũi
26
nhọn, tên cánh én..., song ngƣời Gò Mun còn tạo ra những loại hình di vật mới nhƣ liềm
đồng, rìu xéo đồng...
Đồ đá có chiều hƣớng giảm sút về số lƣợng cũng nhƣ loại hình. Tuy nhiên một số
kiểu dáng trang sức vẫn đƣợc duy trì ƣa chuộng nhƣ các loại vòng ống chữ T vành rộng,
riêng loại vòng đeo tai hình vành khăn đƣợc đặc biệt ƣa chuộng đƣợc sản xuất với số lƣợng
nhiều vào cuối giai đoạn này.
Gốm văn hóa Gò Mun thƣờng dày, độ nung cao, có màu xám, rất cứng, có khi gần
nhƣ sành. Các loại đồ đựng nhƣ nồi vò có miệng bẻ ngửa ra ngoài, bản miệng rộng thƣờng
đƣợc trang trí hoa văn hình học với những đƣờng nét gấp khúc thành các hình tam giác. hình
hình hành, chữ nhật... phối trí hài hòa với các vòng tròn nhỏ. Một số ít đồ gốm còn đƣợc
trang trí hoa văn hình bọt nƣớc, hình trăng khuyết, hình chim hay hình cá.
Nổi nét trong, sƣu tập gốm Gò Mun là sự tổn tại phổ biến của loại hình gọi là chạc
gốm lúc này đƣợc trang trí khá cầu kỳ và có nhiều hoa văn đẹp là các đƣòng cong đƣợc đắp
nổi hay khắc sâu. Ngƣời Gò Mun còn tạo ra những khối tƣợng bằng đất nung nhƣ các tƣợng
bò, chó. gà, vịt, rùa...
Ở bình tuyến Gò Mun, trong sự phát triển nội tại của mình. thể hiện qua quá trình
cộng cƣ khai phá đồng bằng và giao lƣu trao đổi, cƣ dân các vùng sông Hồng, sông Mã. sông
Cả ngày càng tạo ra sự gắn bó và thống nhất văn hóa thể hiện ở sự giống nhau cơ bản của các
công cụ, vũ khí và đô dùng bằng đá, bằng đồng cũng nhƣ bằng gốm. Sự khác nhau mang tính
địa phƣơng hay sắc tộc thể hiện ở sự khác biệt về hoa văn trang trí trên gốm và một phần ở
màu sắc của đồ gốm. Ví nhƣ trên gốm Gò Mun, vùng sông Hồng lối trang trí trở về với
truyền thống Phùng Nguyên : thể hiện sự ƣa chuộng các đƣờng chấm giải (mặc dù có thô
hơn), hoa văn chữ S nằm rời hay liền nhau, tiền thân của hoa văn vòng tròn tiếp tuyến trên
các trống Đông Sơn sau này, gốm thƣờng có màu xám. Trong khi đó gốm Quỳ Chử vùng
sông Mã thƣờng có màu bạc xám, miệng khum lòng máng (không phẳng nhƣ gốm Gò Mun)
bên trong trang trí các nhóm vạch chéo song song hay vạch chéo ngang dọc thành các ô hình
bình hành. Còn gốm Rú Trăn vùng sông Cả lại có màu nâu với nhiều sắc độ từ hồng tƣơi tới
xẫm màu mận chín, trên vai đồ gốm đƣợc trang trí hoa văn in răng lƣợc liên tiếp thành hình
răng sói.
Căn cứ vào một loạt niên đại cacbon phóng xạ ở nhiều địa điểm thuộc văn hóa Gò
Mun, trong đó có niên đại ở lớp dƣới di chỉ Vinh Quang là 1095 ± 120 năm trƣớc công
nguyên, của địa điểm Đông Sơn (lớp văn hóa sớm) là 850 ± 100 năm trƣớc công nguyên, của
địa điểm Đồng Ngầm (độ sâu 1,27m thuộc lớp Quỳ Chử) là 725±40 năm trƣớc công nguyên,
có thể định niên đại chung cho bình tuyến văn hóa Gò Mun là các thế kỷ XI-VIII trƣớc công
nguyên.
27
Nhìn bao quát về giai đoạn văn hóa Đồng Đậu - Gò Mun có thể thấy tính chất tạo nền
của nó đƣợc thể hiện ở sự chọn lọc xác lập các yếu tố văn hóa. biến chúng thành đặc điểm,
truyền thống văn hóa phản ánh tính cách, đặc trƣng của cộng đồng. Hàng loạt các công cụ sản
xuất bằng đá, bằng đồng với các kiểu loại khác nhau : chữ nhật, xoè cân, lƣỡi lệch, có vai...,
các vòng trang sức đá có mặt cắt hình tam giác cân. hình chữ U. chữ T nằm ngang, vòng ống,
các khuyên tai hình vành khăn, khuyên tai 4 mấu, những vũ khí nhƣ giáo búp đa, tên hình lá...
đều tham gia vào sự hình thành bộ di vật Đông Sơn. Những yếu tố hoa văn chấm giải, vạch
thẳng song song, hình tam giác, hình chữ S, hình vòng tròn, các đƣờng hồi văn gấp khúc
trang trí thành băng tròn trên đồ gốm Tiền Đông Sơn đều đƣợc thế hiện trên đồ Đông Sơn có
trang trí sau này.
Ý nghĩa tạo nền đƣợc thể hiện ở chỗ đã tạo ra những biến chuyển mạnh mẽ trong kỹ
thuật sản xuất nông nghiệp, vết tích lúa gạo tìm thấy ở nhiều nơi nhƣ Đồng Đậu, Gò Mun. Gò
Chiền, Thành Đèn (Vĩnh Phú) Từ Sơn (Hà Bắc) Chợ Gềnh (Ninh Bình) Dông Tiến (Thanh
Hóa).
Ý nghĩa tạo nên còn thấy ở sự dần hình thành các trung tâm luyện kim và chế tạo dù
kim loại. Ở vùng trung tâm đất tổ Hùng Vƣơng từ những đốm lửa luyện chế kim loại ở Mã
Lao ở Gò Mun đã dẫn đến trung tâm đúc Làng Cả, từ những điểm đúc rải rác nhỏ bé chƣa đủ
lớn nhƣ ở Đồng Đậu, ở Thanh Đền ở Đình Chàng, đã hình thành trung tâm đúc đồng cổ Loa
(Mà Tre) rực rỡ. Cũng vậy ở bên hữu ngạn sông Hồng, trung tâm đúc đồng Vinh Quang thời
Đông Sơn có thê đã đƣợc chuẩn bị từ các nhóm đúc đồng ở Đồi Đà, ở Đồng Đền.
Vùng sông Mã, vết tích đúc đồng Quỳ Chử đã dẫn tới hình thành các trung tâm lớn
nhƣ ở Đông Sơn. Cũng vậy, những phát hiện về nồi đúc và những bọt xỉ đồng ở Rú Trăn sẽ
dẫn tới các trung tâm luyện kim nhƣ ở Đồng Mỏm. Làng Vạc v.v...
Dấu hiệu của sự tạo nền chuyển lƣợng thành chất còn thể hiện ở sự xuất hiện vào cuối
giai đoạn Gò Mun một số loại hình công cụ sản xuất và vũ khí mới nói lên sự gia tăng của
nhu cầu sản xuất và chiến đấu. Đó là những công cụ gặt gọi là liềm hay vằng kiểu Gò Mun,
những mũi tên đồng lớn có 2 cánh cong khum dài có chuôi và sống nổi tìm thấy ở Gò Mun.
Đồng Gio, những mũi tên 3 cạnh có chuôi, có trụ ở Đại Áng, những con dao xéo lƣỡi cong
kiểu sừng trâu gặp trong các địa điểm Đông Sơn (lớp mộ sớm). Quỳ Chử, những con dao
găm chuôi bẹt, đốc nhỏ, lƣỡi rộng chƣa có chắn tay kiểu Đồi Đà còn tìm thấy ở Gò Ghệ.
những con dao phạng lƣỡi rộng, mũi cong ở Gò Diễn ở Thanh Đinh...
Những cứ liệu khảo cổ học của các nhóm di tich Đồng Đậu - Gò Mun đƣợc phân tích
ở một số mặt trên đây và khi nhìn gộp lại cho thấy sự vận động của nội lực, mà
28
những nhân tố tự thân bên trong với sự tham gia, xâm nhập của những yếu tố văn hóa từ
ngoài khu vực là đặc điểm phát triển văn hóa của giai đoạn này, có phần khác với quá trình
hỗn dung và tiếp biến văn hóa diễn ra ở giai đoạn Phùng Nguyên trƣớc đó và cũng khác hơn
so với quá trình này ở giai đoạn Đông Sơn sau đó.
III. VĂN HÓA ĐÔNG SƠN - BIỂU HIỆN VẬT CHẤT CỦA VĂN MINH VIỆT CỔ
Những tiền đề vật chất - xã hội đƣợc chuẩn bị từ các giai đoạn Đông Đậu - Gò Mun
nay trong hoàn cảnh môi trƣờng và các mối giao tiếp văn hóa mới đã đƣợc phát huy mạnh
mẽ, tạo ra diện mạo Đông Sơn với những đƣờng nét hết sức phong phú, đa sắc và độc đáo.
Văn hóa Đông Sơn nổi tiếng đã đƣợc giới khảo cổ học thế giới biết đến và chú ý ngay
từ khi di tích văn hóa Đông Sơn đầu tiên bên bờ phải sông Mã, sát chân núi Rồng, gần ngay
phía trên cầu Hàm Rồng đƣợc phát hiện. Không kể những hiện vật hay nhóm hiện vật phát
hiện ngẫu nhiên, đến nay hàng trăm di tích của văn hóa này đã đƣợc biết đến, chúng phân bố
trên hầu khắp miền Bắc Việt Nam tập trung ở các lƣu vực sông lớn nhƣ sông Cả, sông Mã,
sông Hồng, dày đặc ở lƣu vực sông Mã và đậm đặc nhất ở lƣu vực sông Hồng, đã có ít ra 80
di tích phát hiện đƣợc ở đây. Mỗi khu vực có những khác biệt "nhất định mang tính chất địa
phƣơng, nhƣng nhìn chung văn hóa Đông Sơn mang những đặc trƣng chung thể hiện tính
thống nhất trong toàn vùng phân bố của văn hoá này.
Trƣớc hết vẻ sự phân cƣ, ngƣời Đông Sơn lúc này đã cƣ trú và làm ăn sinh sống trên
mọi địa hình trong nhiều vùng sinh thái khác nhau nhằm khai thác tối ƣu những sản phẩm của
tự nhiên và phát triển nghề nông trồng lúa nƣớc. Nơi cƣ trú thƣờng là những khoảng đất cao,
bên bìa rừng hay mé nƣớc. Và ở mỗi khu vực, do phụ thuộc vào vị trí địa lý và hoàn cảnh xã
hội dần nổi lên một hay vài làng cổ có vị trí nhƣ các trung tâm quần cƣ quan trọng thu hút và
chi phối hoạt động của cƣ dân toàn vùng. Đó là các trung tâm Lào Kai, Đào Thịnh ở thƣợng
du, Làng Cả ở trung du và Cổ Loa, Nhổn ở đồng bằng sông Hồng; Xuân Lập, Định Công ở
trung du và Đông Sơn, Thiệu Dƣơng ở hạ du sông Mã, Làng Vạc ở trung du và Đồng Mỏm ở
đồng bằng sông Cả...
Chính sự cƣ trú trong các vùng sinh thái khác nhau này cộng với những khác biệt chi
tiết về sắc tộc, về trình độ phát triển của từng nhóm tộc trong khu vực đã tạo ra sự khác biệt
địa phƣơng của văn hóa Đồng Sơn.
Với khối tƣ liệu hiện biết và xem xét chúng trong mối tƣơng quan tổng thể, có thể
nhận ra ba loại hình tiêu biểu
• Loại hình Đƣờng Cô vùng sông Hồng
• Loại hình Đông Sơn vùng sông Mã
• Loại hình Làng Vạc vùng sông Cả.
29
Loại hình Đƣờng Cồ
Loại hình này mang tên một địa điểm thuộc văn hóa Đông Sơn mà ở đó chứa loại
gốm mịn màu trắnn mốc hay hồng nhạt với hoa văn thừng đập thành hình mắt võng và
thƣờng ấn lõm thành hoa văn nhặn tổ ong rất độc đáo, gây ấn tƣợng lần đầu tiên phát hiện
đƣợc ở đây và mang ý nghĩa tiêu biểu cho gốm Đông Sơn vùng sông Hồng. Địa bàn của loại
hình Đƣờng Cồ trùng hợp với địa bàn của văn hóa Gò Mun và có phần mở rộng hơn về phía
đồng bằng thấp so với địa bàn văn hóa Gò Mun. Qua nhiều di tích đã đƣợc tiến hành thám sát
khai quật và nghiên cứu ti mỉ đều nhận thấy ở những di tích có tầng văn hóa dày nhiều lớp,
bao giờ lớp chứa di tích Đông sơn cũng nằm trên lớp văn hóa Gò Mun. Nghiên cứu đồ gốm
ở các di tích này có thể thay đƣợc sự diễn biến và phát triển trực tiếp của gốm Gò Mun sang
gốm Đƣờng Cồ thể hiện ở sự tăng dần, sự chuyển hóa về màu sắc và dáng miệng gốm từ Gò
Mun sang Đƣờng Cồ từ dƣới lên trên.
Sự khác biệt của loại hình Đƣờng Cồ còn thể hiện ở sự tồn tại phổ biến loại mộ táng
có quan tài hình thuyền, làm bang thân cây khoét rỗng có thêm loại mộ đất có quan tài dùng
đính ghim, ghép nhƣ thấy ở khu mộ táng Làng Cả, trong khi đó ở loại hình Đông Sơn hay
sông Mã lại tồn tại kiểu mộ đất có kè đá hay rải gốm giống ở khu mộ Làng Vạc.
Cái riêng của bộ đồ đồng Đƣờng Cồ là ở những lƣỡi cày đồng hình tam giác hay hình
tim, những dao gặt có hình vỏ trai, những dao găn hai rìu lƣỡi uốn lƣợn và có chắn tay thẳng,
những kiểu giáo, lao có phần họng gắn khoảng 1/3 chiều dài của cả lƣỡi, có sống nổi cao, rìa
lƣỡi cong lồi, cánh không có lỗ thủng, những rìu lƣỡi xéo hình hiu hay hình bàn chân có gót
vuông hoặc tròn. Ở vùng trung du hay thƣợng du của loại hình này, sắc thái địa phƣơng còn
thể hiện ở những lƣỡi thuồng đồng vai xuôi, rìa lƣỡi cong lồi, họng dài thân dày chắc khỏe,
những lƣỡi cuốc có họng tra cán nằm ngang vuông góc với trục thân, những lƣỡi giáo hình
búp đa họng ngắn. Mối quan hệ và giao lƣu văn hóa của chủ nhân văn hóa Đông Sơn loại
hình Đƣờng Cồ với khu vực Lƣỡng Quảng và Vân Nam (Trung Quốc) làm tăng thêm sắc thái
đa dạng trong văn hóa thể hiện ở sự có mặt những công cụ vũ khí có họng tra cán có miệng
họng xẻ lõm hình đuôi cá, những mũi lao đồng hình ngòi bút... cùng với những di vật đồng
rất điển hình và đặc sắc nhƣ lƣỡi cày hình tim kiều Cổ Loa, cuốc chữ U, rìu vai kép, riu xéo
gót tròn mũi dài hình bàn chân... và cả với những di vật độc đáo khác nhƣ muôi đồng hình
quả bầu, vùng tai đá hình vành khăn có cạnh đáy gần phẳng dáng gần vuông hay có mấu,
những kiếm đồng 2 rìa lƣỡi thẳng, chuôi dẹt có lỗ đƣợc gắn tháp với chuôi nắm tròn... tạo
thành tập hợp di vật mang phong cách Đông Sơn trùm phủ khắp miền Bắc Việt Nam, Đông
Nam Vân Nam và Tây Nam Quảng Tây.
30
Loại hình Đông Sơn
Loại hình này có địa bàn phân bổ chủ yếu là vùng lƣu vực sông Mã, đến nay đã biết
tới 70 địa điểm Đông Sơn phân bố ở trung du, đồng bằng và ven biển tỉnh Thanh Hóa.
Trong vòng 35 năm lại đây, nhờ những cuộc điều tra thăm dò rộng và những cuộc
khai quật lớn ở một số địa điểm then chốt nhƣ Thiệu Dƣơng, Đồng Sơn, Đông Tiến, Núi Nấp,
Quỳ Chử..., diện mạo văn hóa và chủ nhân chung của văn hóa Đông Sơn ở khu vực này dần
đƣợc làm sáng tỏ. Nguồn gốc bản địa của văn hóa Đồng Sơn đƣợc xác minh qua phân tích
các tầng văn hóa nhiêu lớp ở các di tích kể trên đều khẳng định dƣới lớp văn hóa Đông Sơn là
các lớp chứa các di tích, di vật thuộc các giai đoạn Tiền Đông Sơn, mà khảo cổ học đã phác
họa đƣợc một khung các giai đoạn phát triển từ sớm đến muộn bao gồm : Cồn Chân Tiên -
Bái Man (huy Đan Nê)- Quỳ Chử - Đông Sơn, tƣơng ứng với 4 giai đoạn Phùng Nguyên -
Đồng Đậu - Gò Mun - Đƣờng Cồ ở vùng sông Hồng. Địa điểm Đồng Ngầm có thể đƣợc xem
nhƣ một trong những di tích mang tính chất chìa khóa mở ra khả năng khảo sát sự diễn biến
văn hóa liên tục từ sơ kỳ thời đại đồng đến sơ kỳ thời đại sắt, và có sự hình thành văn hóa
Đông Sơn ở khu vực sông Mã này. Với tầng văn hóa dày 2m, di chỉ Đồng Ngầm chứa các lớp
văn hóa kế tiếp nhau phát triển từ dƣới lên trên nhƣ sau : lớp sâu nhất có độ dày khoảng 0,4m
nằm ở độ sâu từ 2m đến khoảng 1,6m chứa các vòng ngọc, rìu đá nephơrít nhỏ nhắn kiểu
Phùng Nguyên, cùng với đồ gốm có miệng rộng, bẻ cong và mép nhọn hoặc đƣợc đắp dày ở
phía trong đƣợc trang trí bằng hoa văn khuông nhạc nét dõi tạo ra các hình chữ S nằm nối
tiếp nhau - tiền thân của hoa văn vòng tròn tiếp tuyến trên đồ đồng Đông Sơn, hoa văn các
vòng tròn chấm cuống dạ trong các khung chữ nhật trên bản miệng phía trong.., đặc biệt chạc
gốm có đế hình bầu dục dẹt, đầu nhọn và bẻ cong, mặt đế trang trí văn vạch khuông nhạc.
Lớp văn hóa tiếp theo dày khoảng 0,4m nằm ở độ sâu 1,6 - 1,2m chứa những rìu đục,
vòng bằng đá nephơrit kiểu Phùng Nguyên, lƣỡi câu đồng nhỏ thân dài, phần móc cuốn ngắn,
vật hình ống. Đồ gốm có cổ cao, miệng lõm nhẹ, dày đều, thành miệng phẳng vát, đƣợc trang
trí bên trong vành miệng và ở vai những hoa văn kẻ khuông nhạc nhiều răng thành các đƣờng
song song, các đƣờng sóng và uốn khúc hình chữ S hoặc các chữ S rời nằm nghiêng, văn
vạch chéo đan thành ô lƣới..., xuất hiện dạng gốm hình chày hai đầu phẳng loe. Lớp văn hoá
thứ ba dày cũng khoảng 0,4m nằm ở độ sâu 1,4-1,00m chứa rìu đục vòng bằng đá ngọc ít
hơn, rìu tứ diện bằng đá ba dan nhiều hơn. Đồ đồng có mũi nhọn đồng hình ống dài, đục
chuôi liền dài, lƣỡi bẹt hơi xoè, dao đồng hình sừng trâu, khâu đồng lõm hai canh... Đồ gốm
phổ biến có đồ đựng miệng cong hình lòng máng và gờ nổi phía ngoài, thành miệng gốm vát
xiên, hoa văn trang trí là những nhóm vạch xiên song song hay cắt chéo nhau thành hình bình
hành, gốm có màu bạc xám.
31
Riêng lớp 1,2 - 0,8m đồ gốm thấy có sự chuyển dần từ Quỳ Chử lên Đông Sơn, thể
hiện rõ nhất ở diễn biến bản miệng, từ cong lõm sâu ở giai đoạn Quỳ Chử chuyển sang lõm
nông và phẳng dần, màu sắc từ bạc xám sang hồng nhạt dân thành hồng xẫm.
Lớp trên cùng từ độ sâu 0,8m trở lên chứa những di vật Đông Sơn điển hình. Đồ gốm
phổ biến là loại gốm đỏ, nâu, bản miệng phẳng, phía mặt ngoài có gờ nổi. Xuất hiện chạc
gốm không móng đế nhỏ trên mặt có nét ấn lõm một nét hay chữ thập, tồn tại phổ biến loại
chạc gốm thân rỗng lớn, chân có chạc chẽ đôi hình đuôi cá lệch.
Đặt gốm Đồng Ngầm trong mối tƣơng quan với gốm ở các địa điểm quan trọng nêu ở
trên cho thấy một sự diễn biến nội tại của gốm thời đại kim khí vùng sông Mã (Nguyễn Việt.
1978)
Đồ đồng loại hình sông Mã là những đồ đồng mang đặc trƣng chung nhất của đồ đồng
Đông Sơn, từ công cụ vũ khí, nhạc khí đồ dùng sinh hoạt đồ trang sƣc nghệ thuật... gặp ở khu
vực Thanh Hoá cũng gặp ở mọi nơi trên địa bàn chung của văn hóa Đông Sơn.
Cái riêng của loại hình sông Mã thể hiện ở sự tồn tại phổ biến ở sự vƣợt trội về số
lƣợng của những loại hình ở đây.
Chẳng hạn về công cụ sản xuất có thể nhận ra loại lƣỡi cày đồng hình chân vịt hay
hình cánh bƣớm là riêng cho loại hình sông Mã mới chỉ gặp một hai chiếc không điển hình ở
Rú Trăn (Nghệ An) có vị trí ráp gianh với rìa nam của loại hình Đông Sơn.
Những vũ khí phổ biến trong loại hình Đông Sơn nhƣ giáo họng dài bằng 1/2 toàn
lƣỡi, mặt lƣỡi hình thoi, hai bên mặt cánh có một hàng hay hai hàng lỗ đối xứng, loại dao
găm bản lƣỡi hình lá tre, chắn tay quặp sừng trâu hay vòng thành lỗ khuyên, có cán hình
chữ T.
Bên cạnh đó, loại giáo lƣỡi hình lá mía, sống nổi cao, có chuôi tra cán dƣờng nhƣ là
sản phẩm riêng của vùng sông Mã, mới chỉ gặp đôi chiếc ở Làng Vạc hay ở Mả Tre (Cổ Loa
- Hà Nội). Riêng loại rìu xéo có dáng cong hình thuyền với giây chằng gắn hai đầu mũi rìu
với họng, đôi chiếc trên mặt còn trang trí hình thuyền cong theo bản lƣỡi, trên thuyền có
những ngƣời chèo, kiếm ngắn chuôi tƣợng là độc đáo nơi đây, chƣa từng gặp nơi đâu ngoài
khu vực sông Mã này.
Những chiếc thố hình lẵng hoa cũng là sản phẩm độc đáo của vùng này cho tới nay
mới chỉ tìm thấy 2 chiếc ở Việt Khê và 1 chiếc ở Bàu Khê (Quảng Bình).
Đồ đồng minh khi ở loại hình Đông Sơn cũng nhiều hơn ở bất cứ loại hình nào. Riêng
loại thạp minh khí mới chỉ tìm thấy 1 chiếc ở khu mộ Yên Từ .( Nam Hà),còn
32
thố minh khí thì chƣa gặp ở đâu ngoài khu vực sông Mã.
Cần nói thêm rằng, ngƣời Đông Sơn ở Thanh Hóa có sự ƣa thích đặc biệt dùng đồ
trang sức đeo tai là những khuyên tai hình vành khăn bằng đá ngọc, ở giai đoạn muộn đƣợc
làm bằng đá thạch anh. Có cả một cụm công xƣơng là Bái Tê, Mả Chùa, Cồn Cấu (lớp trên) ở
xã Đông Lĩnh huyện Đông Sơn chuyên sản xuất vòng đeo tai bằng loại đá thạch anh này.
Tƣ liệu về cổ nhân - chủ nhân văn hóa Đông Sơn vùng sông Mã cũng góp phần soi
sáng những đặc điểm văn hóa khu vực. Kết quả nghiên cứu 25 cốt sọ ở các khu mộ táng Núi
Nấp (19), Quỳ Chử (5) và Thiệu Dƣơng (1) cho thấy những cốt sọ mang đặc điểm của loại
hình In-đô-nê-diêng có 19 chiếc so với 5 chiếc thuộc loại hình Đông Nam Á, chiêm tỷ lệ
76%; tỷ lệ đó ở khu vực Sông Hồng là 23/10 hay 67%,còn ở khu vực sông Cả là 4/0 chiếm
100% (Nguyễn Lân Cƣờng 1993). Nhƣ vậy là loại hình In-đô-nê-diêng giảm dần từ nam ra
bắc và ngƣợc lại loại hình Đông Nam Á tăng dần từ bắc vào nam, hiện tƣợng đó chứng tỏ
rằng tính chất In-đô-nê-diêng đậm đà trong chủ nhân văn hóa Đông Sơn. Điều đó cũng còn
nói lên rằng cƣ dân Đông Sơn là tổ tiên của nhiều tộc ngƣời hiện sống trên lãnh thổ Việt
Nam. Điều đó đƣợc soi sáng thêm bằng tƣ liệu về hiện tƣợng cà răng của ngƣời Đông Sơn
loại hình In-đô-nô-dieng ở Núi Nấp hẳn có mối liên hệ với tục cả răng hiện còn bảo lƣu ở
một số dân tộc Tây Nguyên.
Loại hình Làng Vạc
Việc nghiên cứu văn hóa Đông Sơn từ Nghệ Tĩnh trở vào còn nhiều hạn chế. Có
những phát hiện lẻ tẻ, ngẫu nhiên và rải rác, song cũng không nhiều. Những cuộc điều tra,
thám sát và đặc biệt là khai quật qui mô lại rất ít. Những cuộc thám sát và khai quật ở Đồng
Mỏm và Làng Vạc đã cung cấp những tƣ liệu cơ bản cho khái quát bƣớc đầu về diện mạo văn
hóa Đông Sơn ở vùng này. Cùng với những hiện vật do trao đổi bên trong và bên ngoài là bộ
di vật hết sức độc đáo làm nên nét riêng của loại hình văn hóa này. Đó là bên cạnh những rìu
giáo, lao, tên, dao găm, khóa, đai lƣng bằng đồng, những trang sức bằng đá và thủy tinh
mang nét chung Đông Sơn, nối lên những loại hình di vật mới chỉ thấy ở khu vực này. Đó là
những lƣỡi cày đồng vai ngang, những dao găm chuôi tƣợng động vật nhƣ rắn đỡ voi, hay rắn
ngậm chân báo, hổ đỡ voi... những bao chân, bao tay và chuỗi vòng trang sức có đính lục
lạc...
Nét riêng của gốm loại hình Làng Vạc là ở sự tồn tại phổ biến các bình vò, nồi miệng
loe đáy phình rộng thƣờng có màu vàng xám hay hơi hồng, và nổi lên là các loại chõ gốm và
thạp gốm. Về tục táng có thể nhận ra sự đa dạng của các loại hình mộ khác nhau cùng tồn tại
trong một khu mộ nhƣ mộ vò chôn nằm và chôn đứng, mộ rải, kè phù gốm, kè phủ lợp đá...
(Phạm Minh Huyên 1991)
33
Cƣ dân vùng sông Cả có những mối liên hệ rộng rãi với thế giới bên ngoài, đặc biệt
với cƣ dân vùng Tây Nam Vân Nam và thông qua họ liên hệ xa hơn với cƣ dân vùng thảo
nguyên Âu - Á thể hiện rõ nét hơn cả ở sự có mặt của loại búa đồng hai lƣỡi có họng tra cân
là lỗ ngang xuyên ở giữa thân, ở sự phát triển của dòng tƣợng tròn Tấn Ninh song khác hẳn
về phong cách và đề tài thể hiện.
Thông qua loại hình Làng Vạc mối quan hệ giữa cƣ dân văn hóa Đông Sơn với cƣ dân
văn hóa Sa Huỳnh thể hiện đậm đà hơn. Ví nhƣ, bộ di vật đồng mang phong cách Đông Sơn
nhƣ rìu lƣỡi lệch, dao găm chuôi cán hình chủ T tìm thấy ở Phú Hòa (Quảng Nam Đà Nẵng).
thố đồng Đông Sơn tìm thấy ở Bàu Khê (Quảng Bình), trống đồng Đông Sơn tìm thấy ở Phù
Lƣu (Quảng Bình), ở Phong Mỹ (Thừa Thiên Huế), ở Nha Trang (Khánh Hòa)... Ngƣợc lại
mộ vô chôn đứng - đặc trƣng của Sa Huỳnh -cũng hiện diện ở Làng Vạc, rồi cả loại trang sức
độc đáo nhƣ khuyên tai thủy tinh có 3 mấu dài nhọn cũng gặp trong khu mộ Làng Vạc,
khuyên tai hai đầu thú và khuyên tai 3 mầu tìm thấy ở Xuân An (Hà Tĩnh)...
Những sắc thái văn hóa địa phƣơng mang dấu ấn môi trƣờng sinh thái tự nhiên, trình
độ phát triển và những mối quan hệ xã hội cụ thể của mỗi vùng kể trên đƣợc trùm phủ lên bởi
những đƣờng nét, những đặc điểm văn hóa cơ bản chung nhất thể hiện tính thống nhất của
văn hóa Đông Sơn cũng nhƣ phản ảnh sự vận động chất biến "bƣớc vào văn minh" của chủ
nhân văn hóa này, mà vết tích vật chất hàm chứa các đặc điểm văn hóa trên, đƣợc khảo cổ
học ghi nhận ở sự xuất hiện tòa thành độ sộ nhƣ Cổ Loa, những khu mộ táng rộng lớn nhƣ
Làng Cả, Vinh Quang, Đông Sơn, Thiệu Dƣơng, Làng Vạc... Ở đó bên cạnh những ngôi mộ
giàu có nhiều hiện vật chôn theo là phần lớn các mộ táng chôn ít hiện vật và không hiếm
nhƣng ngôi mộ nghèo nàn không một đồ tùy táng. Sự vận động chất biến này còn thể hiện ở
sự xuất hiện một loạt các công cụ mới bằng đồng rồi bằng sắt, trong đó nổi lên là hàng trăm
lƣỡi cày đồng thau nhiều kiểu loại: hình tam giác, hình tim, hình chân vịt...
Nhiều lƣỡi mai, cuốc thuổng, nhíp, liềm... bằng đồng, bằng sắt xuất hiện (Chử Văn
Tần 1979) khiến công cụ bằng đá không còn thích hợp. Song cùng với đồ thủy tinh vừa ra
đời, đồ trang sức bằng đá quí vẫn đƣợc đặc biệt ƣa chuộng và phổ biến rộng rãi. Đồ gốm chế
tác không còn cầu kỳ, tuy vẫn phong phú về số lƣợng và kiểu loại song đã nghèo nàn hẳn về
hoa văn trang trí.
Đặc biệt đồ đồng có sự nở rộ, mạnh mẽ ; ít ra có thể tới 56 loại hình cùng nhiều phụ
loại, kiểu khác nhau đƣợc chế với thành phần và tỷ lệ hợp kim khác nhau. Trong đó hợp kim
đồng thiếc chì đƣợc áp dụng rộng rãi. Xuất hiện những trung tâm đúc đồng mang tính chất
quan xƣởng nhƣ thấy ở Cổ Loa.
34
Đỉnh cao của kỹ thuật và nghệ thuật đồng thau Đông Sơn là những trống thạp đồng
tinh mỹ, nổi tiếng nhƣ trống Ngọc Lũ, Hoàng Hạ, Cổ Loa, thạp Đào Thịnh, Vạn Thắng, Xuân
Lập...
Trong các sƣu tập đồng thau Đông Sơn, điều đặc biệt đáng lƣu ý là bộ sƣu tập vũ khí
hết sức phong phú về kim loại và cực kỳ to lớn về số lƣợng phản ảnh những biến động xã hội
to lớn xảy ra hồi đó. Chỉ thống kê ở 5 địa điểm Đông Sơn tiêu biểu là Vinh Quang, Làng Cả,
Đông Sơn, Thiệu Dƣơng, Làng Vạc cho thấy trong số 2280 hiện vật đồng thau tìm thấy ở đây
thì vũ khí đã có tới 1110 chiếc chiếm 48,6% tổng số hiện vật đồng nói chung, có khi chỉ riêng
một loại hình vũ khí là dao găm trong chỉ một khu mộ táng nhƣ Làng Vạc đã có trên 100
chiếc. Đặc biệt kho mũi tên đồng Cầu Vực (Cổ Loa) đã có tới hàng vạn chiếc... Nhiều vũ khí
mới độc đáo ra đời nhƣ dao găm, kiếm chuôi tƣợng, tên đồng ba cánh, giáp che ngực hình
vuông hay chữ nhật, khiên mộc bằng da có hình chữ nhật hay hình tim, bao tay bao chân có
đính nhạc, khóa đai lƣng có tƣợng rùa. Đồ sắt đã xuất hiện, trong đó dấu vết nghề luyện sắt
đã thấy ở một số nơi nhƣ đoạn ống bể có đinh xỉ sắt tìm đƣợc ở di chỉ Vinh Quang (Hà Tây),
lò luyện sắt xốp ở Đồng Mỏm (Nghệ An) cùng nhiều xỉ sắt tìm thấy ở đây cũng nhƣ ở Xuân
Giang (Hà Tĩnh). Nhiều loại hình công cụ vũ khí cơ bản đƣợc làm bằng sắt nhƣ rìu, cuốc, mai
thuổng, liềm, giáo, kiếm, dao găm, tên...
Trƣớc đây văn hóa Đông Sơn đƣợc xem là văn hóa đồng thau có niên đại muộn màng
chỉ vào khoảng trƣớc sau đầu công nguyên, hoặc các thế kỷ VII-V trƣớc công nguyên. Những
kết quả nghiên cứu mới gần đây cho phép xác định văn hóa Đông Sơn thuộc sơ kỳ thời đại
sắt hay ít ra cũng thuộc giại đoạn chuyển tiếp từ hậu kỷ thời đại đồng thay sang sơ kỳ thời đại
sắt. Căn cứ vào một loạt niên đại C14 ở nhiều di tích văn hóa Đông Sơn khác nhau cũng nhƣ
căn cứ và phân tích tổng thể di vật, có thể thấy niên đại mở đầu và kết thúc của văn hóa Đông
Sơn ở các khu vực, các loại hình địa phƣơng khác nhau là không đều nhau. Sự chuyển biến từ
các văn hóa Tiền Đông Sơn sang văn hóa Đông Sơn diễn ra sớm hơn cả ở lƣu vực sông
Hồng. Niên đại C14 của lớp Gò Mun - Đƣờng Cô ở các địa điểm Đồi Đà là 2740 ± 90 năm
cách ngày nay và ở Gò Chùa là 2655 ± 90 năm cách ngày nay có thể xem nhƣ niên đại thuộc
giai đoạn mở đầu của văn hóa Đông Sơn vùng sông Hồng.
Ở vùng sông Mã, giai đoạn chuyển tiếp từ Quỳ Chử lên Đông Sơn diễn ra muộn hơn.
Mẫu than tro lấy ở độ sâu l,27m thuộc văn hóa Quỳ Chử của di chỉ Đồng Ngầm cho niên đại
2675 ± 40 năm cách ngày nay, cũng vậy 2 mẫu than tro lấy ở độ sâu 1,16 thuộc lớp văn hóa
Quỳ Chử ở địa điểm Quỳ Chử cho các niên đại 2520 ± 55 và 2450 ± 45 năm cách ngày nay.
Các lớp văn hóa này xét cùng với tổng thể các di vật đƣợc chứa trong nó, đều thuộc giai đoạn
phát triển của nhóm di tích Quỳ Chử, từ đó có thể đoán
35
định văn hóa Đông Sơn ở vùng sông Mã đƣợc bắt đầu từ khoảng các thế kỷ 6-5 trƣớc công
nguyên.
Giai đoạn Đông Sơn muộn chuyển sang Đông Sơn vẫn đƣợc nhận biết qua sự gia tăng
của đồ đồng minh khí, sự xuất hiện ngày càng nhiều các yếu tố văn hóa Hán. Quá trình
chuyển biến và giải thể cấu trúc Đông Sơn này diễn ra không đồng đều ở các khu vực. Ở
vùng sông Hồng, khu mộ Phú Lƣơng với lớp mộ muộn chứa tiền ngũ thù Đông Hán, ấm đầu
gà ba chân, bát, thau đồng... ứng với niên đại C14 2060 ± 50 cách ngày nay của địa điểm này,
có thể cho rằng văn hóa Đông Sơn vùng sông Hồng kết thúc vào khoảng thể kỳ 2 sau công
nguyên. Trong khi đó ở vùng sông Mã, văn hóa Đông Sơn chấm dứt muộn hơn, vào khoảng
thế kỷ 3 sau công nguyên mà niên đại C14 ở khu mộ táng Núi Nấp 280 ± 85 năm sau công
nguyên đã mách chi. Cũng vậy niên đại C14 40 ± 85 năm trƣớc công nguyên ở khu mộ táng
Làng Vạc cũng nói lên sự bảo lƣu lâu dài các đặc trƣng văn hóa Đông Sơn sau khi đất nƣớc
đã rơi vào ách thống trị của ngoại bang một thời gian dài, mà dáng của văn hóa ngoại lai mới
chỉ thấp thoáng
Tới đây nhìn chung lại chúng ta thấy, văn hóa Đông Sơn hay văn minh Việt Nam thời
khai sinh đƣợc hình thành và vận động liên tục trong không gian và thời gian từ các nền văn
hóa Tiền Đông Sơn đƣợc hình thành tại chỗ và hội nhập và chuyển hóa các yếu tố văn hoá
bên ngoài mang tính thống nhất đa dạng rộng lớn đầy sức sống phản ảnh sự hình thành quốc
gia vào hàng sớm nhất trong khu vực Đông Nam Á.
Môi trƣờng sống và những di tồn vật chất còn lƣu lại cho thấy bản chất của nền văn
minh Đông Sơn là văn minh nông nghiệp xóm làng. Ở đó quan hệ gia đình-họ hàng-làng
nƣớc gắn bó với nhau thành một thể thống nhất chặt chẽ. Gia đình vừa là đơn vị cơ bản của
sản xuất, vừa là tế bào cơ bản của xã hội và vai trò ngƣời phụ nữ còn rất lớn. Họ hàng và làng
nƣớc đóng vai trò gắn kết và điều tiết. Mặc dù trong xã hội đã có sự phân hóa thành giàu
nghèo song quan hệ cộng đồng còn rất vững chắc. Tính cộng đồng này đã in dấu lên mọi mặt
của đời sống, là chỗ dựa và nguồn sức mạnh cho tinh thần tự chủ, chống đồng hóa, trở thành
một đặc điểm của phong cách ứng xử văn hóa Việt Nam.
Tính phong phú và đa dạng, tính hòa đồng và chuyển hoá của văn hóa Đông Sơn còn
đƣợc soi sáng thêm bởi các mạch giao lƣu văn hóa từ các phức hợp văn hóa đƣơng đại cùng
tồn tại trên đất nƣớc ta khi ấy.
36
CHƢƠNG III :NGUỒN GỐC NGƢỜI VIỆT
Vấn đề nguồn gốc ngƣời Việt từ lâu đã đƣợc nhiều ngƣời quan tâm. Từ năm 1923,
L.Aurousseau đã nêu lên thuyết thiên di của tộc Việt từ Hoa Nam. Theo ông, khi nƣớc Việt ở
Chiết Giang bị nƣớc Sở diệt vào năm 333 trƣớc công nguyên, dân nƣớc Việt chạy về phía
nam, và một bộ phận định cƣ lại ở miền bắc Việt Nam, trở thành tổ tiên của ngƣời Việt Nam
(Aurousseau 1923). Về thuyết này, Henri Maspéro (1924) viết rằng "tốt nhất là để nó qua đi
trong im lặng". Claude Madrolle cũng phê phán thuyết Aurousseau, nhƣng thực ra, Madrolle
chỉ thay đổi chủ nhân của cuộc thiên di. Ông chủ trƣơng rằng tộc Hoklo cổ ở vùng Phúc Kiến
đã thiên đi đến châu thổ sông Hồng và trở thành Lạc việt, tổ tiên của ngƣời Việt Nam hiện
nay (Madrolle 1937).
Đào Duy Anh cũng cho rằng tổ tiên của ngƣời Việt là ngƣời Lạc Việt từ miền bờ biển
Giang Nam (Trung Quốc) vƣợt biển tới miền bắc Việt Nam. "Ngƣời Lạc Việt ở Bắc Việt
Nam đã tạo nên một nền văn hóa đồ đồng đặc biệt mà tiêu biểu là những trống đồng... Xem
những hình thuyền chạm trên thân trống đồng Ngọc Lũ, ngƣời ta lại thấy rõ ràng đó là thuyền
đi biển có cột buồm và bánh lái mũi. Những điểm ấy khiến chúng ta thấy rằng những ngƣời
đúc trống ấy - ngƣời Lạc Việt - tất đã từng vƣợt biển. Những chim hậu điểu ấy ngƣời ta thấy
khắc trên trống đồng chính là chim tô -tem của những ngƣời chủ nhân của những trống đồng
ấy, tức là ngƣời Lạc Việt. Tìm ý nghĩa chữ Lạc hay là họ, tức tên thị tộc của ngƣời Lạc Việt,
chúng ta thấy chữ ấy chỉ một loài hậu điểu ở miền Giang Nam" (Đào Duy Anh 1957: 83).
Theo Đào Duy Anh, ở Việt Nam, ngƣời Lạc Việt đã gặp những ngƣời Indonesien chủ nhân
văn hóa đá mới. "Những ngƣời này còn ở trình độ văn hóa lạc hậu, tiếp xúc với một giống
ngƣời mới đến văn hóa cao hơn phải lui dần để nhƣờng những miền đất rộng rãi phì nhiêu
cho họ. Sự thắng lợi của ngƣời Lạc Việt tất phải trải qua những cuộc đấu tranh gay go" (Đào
Duy Anh 1957 : 89). Theo ông, cuối cùng ngƣời Indonesian cũng bị đồng hóa.
Văn Tân thì cho rằng nguồn gốc dân tộc Việt Nam là những ngƣời Melanesien và
Indonesien và "rất có thể ngƣời Việt nguyên thủy xƣa là một tộc nào đó ở các đảo thuộc châu
Úc vì kế sống đã theo gió mùa di cƣ sang bán đảo Đông Dƣơng rồi định cƣ luôn ở đấy" (Văn
Tân 1959).
Nhìn chung, những luận điểm về nguồn gốc dân tộc Việt Nam nói trên đã đƣợc đƣa ra
từ lâu, khi mà những cứ liệu khảo cổ học, nhân chứng học và ngôn ngữ học lịch sử chƣa thu
thập đầy đủ. Ngày nay, vấn đề nguồn gốc ngƣời Việt vẫn chƣa thể coi là đã giải quyết, nhƣng
chúng ta có thể đƣa ra những giả thuyết trên cơ sở các nguồn tài liệu thu đƣợc nhiều hơn và
đáng tin cậy hơn.
37
NGUỒN GỐC NGƢỜI VIỆT QUA TÀI LIỆU KHẢO CỔ HỌC
Các thƣ tịch cổ đều cho rằng cƣ dân cổ ở Bắc Việt Nam là ngƣời Lạc Việt. Dƣ địa chí
của cố Dã Vƣơng chép rằng: "Giao Chỉ đời Chu là Lạc Việt, đời Tân là Tây Âu, tức Tây Âu
Lạc". Sách Giao Châu ngoại vực ký dẫn ở sách Thủy kinh chú, nói rằng Giao Chỉ lúc chƣa có
quận huyện - có nghĩa là lúc chƣa bị sự thống trị của ngƣời Hán - Giao chỉ thì gọi là ruộng
Lạc, dân thì gọi là dân Lạc. Cho đến cuộc xâm lƣợc của Mã Viện, ngƣời dân ở đây vẫn đƣợc
sách Hậu Hán thư gọi là ngƣời Lạc Việt.
Cuộc hành quân của Mã Viện là để chống lại cuộc nổi dậy của Hai Bà Trƣng. Mà
nhân thời dân thời Hai Bà Trƣng thì không ai nghi ngờ gì nữa, là tổ tiên của chúng ta. Vậy có
thể kết luận rằng ngƣời Lạc Việt là tổ tiên của người Việt hiện đại.
Thực ra, khi đƣa ra cái tên Lạc Việt, các tác giả Trung Quốc muốn gắn nhóm ngƣời
này vào một nhóm lớn hơn, đó là Việt hay Bách Việt. Lời chú sách Hán Thư thiên Địa lý chí
chép : "Từ Giao Chỉ đên Cối Kê, bảy tám nghìn dặm, ngƣời Bách Việt ở lẫn lộn, đều có
chủng tính". "Đều có chủng tính" nghĩa là đều có các tộc danh khác nhau. nhƣ Câu Ngô. Mân
Việt. Đông Âu. Nam Việt. Tây Âu, Lạc Việt... Theo những công trình nghiên cứu hiện nay.
những tộc ngƣời trong nhóm Việt này khác nhau về văn hóa cũng nhƣ ngôn ngữ. Nhƣ vậy,
Việt chỉ là một cái tên phiếm chỉ những cƣ dân khác Hán (non Chinese) ở vùng Nam Trung
Quốc, cũng nhƣ là tên Man vậy, chứ không phải là tộc danh cụ thể.
Chúng ta biết rằng tên Bách Việt đã có từ sớm. Sử ký chép rằng đời Chu An Vƣơng
(401-376 tr.CN), Sở Điệu Vƣơng (401-3S0 tr.CN) đã sai tƣớng Ngô Khởi đánh dẹp Bách
Việt ở phƣơng nam. Điều đó bác bỏ luận thuyết cho rằng Bách Việt là con cháu dân nƣớc
Việt của Câu Tiễn, khi nƣớc Việt bị nƣớc Sở diệt (vào năm 333 tr.CN), chạy về phƣơng nam.
Từ đó, chúng ta thấy rằng thuyết của L.Aurousseau về nguồn gốc dân tộc Việt Nam là không
có cơ sở.
Nhƣng cũng theo thƣ tịch cũ Trung Quốc (nhƣ Cựu Đường thư (q.41. Địa lý chi),
Bách Việt tiên hiền chí, Thông điển (q. 184) Dư địa quảng ký (q.37). Hán thư (Giả Quyên Chi
truyện)...), ngƣời Lạc Việt có mặt trên một vùng khá rộng: Quảng Đông, Quảng Tây, Quý
Châu, Hải Nam và cả ở vùng sông Hán.
Có thể là các sách này - phần lớn là chép thời sau - đã lầm lẫn nhƣng cũng có thể là
ngƣời Lạc Việt đã phân bố rộng thời đó và tiền thân của những dân tộc khác nhau ngày nay.
Vì vậy, hiện tại chúng ta chỉ có thể chấp nhận ngƣời Lạc Việt sống trên đất Việt Nam là tổ
tiên của ngƣời Việt hay Việt và Mƣờng hiên đại mà thôi.
38
Điều quan trọng là qua các thƣ tịch cổ, chúng ta có thể nhận ra mối liên hệ giữa ngƣời
Lạc Việt và văn hóa Đông Sơn. Sách Hậu Hán thư (Mã Viện truyện) chép : "Viện thích cƣỡi
ngựa, giỏi phân biệt ngựa hay, đƣợc trống đồng Lạc Việt ở Giao Chỉ, bèn đúc thành các kiểu
ngựa, đem về dâng vua". Lâm Ấp ký dẫn ở Thủy kinh chú cũng chép tƣơng tự Hậu Hán thư:
"Cửa ấy thông với Đồng Cổ, ngoài vƣợt đến cửa Hoàng Cƣơng Tâm Khẩu huyện An Đinh.
Nhờ cửa sông ấy mà qua Đồng Cổ, tức đất Lạc Việt. Vì đấy có trống đồng nên gọi tên là
Đồng Cổ. Mã Viện lấy trống đồng ở đó để đúc ngựa đồng". Thế là rõ, những ngƣời Lạc Việt
mà Mã Viện gặp ở Giao Chỉ là những ngƣời đúc trống đồng. Hiện nay, chúng ta biết rằng văn
hóa Đông Sơn còn tiếp tục tồn tại ở Việt Nam vài thế kỷ sau công nguyên. Vì vậy, có thể nói
chắc chắn rằng người Lạc Việt ở Việt Nam là chủ nhân của văn hoá Đônq Sơn, mà đặc trƣng
là những chiếc trống đồng nổi tiếng.
Chúng ta cũng biết rằng văn hóa Đông Sơn bắt đầu vào khoảng thế kỷ 7 tr.CN. Trong
thời kỳ tồn tại của văn hóa này, không có một dấu hiệu nào nói lên sự thay đổi về chủ nhân.
Vì vậy, hoàn toàn có đủ lý do để nói rằng chủ nhân văn hóa Đông Sơn, ngay từ lúc ban đầu,
là tổ tiên của ngƣời Việt, hay nói đúng hơn, của nhóm Việt-Mƣờng.
Nhƣng chúng ta không dừng lại ở đây. Chúng ta biết rằng văn hóa Đông Sơn là bắt
nguồn từ các văn hóa Tiền Đông Sơn. Điều này đã đƣợc trình bày rõ ở các phần trƣớc. Tất
nhiên, văn hóa Đông Sơn phân bố trên một địa bàn khá rộng, từ biên giới phía bắc cho đến
khoảng tỉnh Quảng Bình ngày nay. Mặc dầu có những loại hình địa phƣơng nhƣng văn hóa
Đông Sơn vẫn biểu hiện một tính thống nhất văn hóa lớn trên một không gian rộng. Tính
thống nhất văn hóa lớn rộng đó nói lên rằng một quốc gia đã hình thành.
Trong khi đó, các văn hóa Tiền Đông Sơn không có không gian phân bố rộng nhƣ văn
hoá Đông Sơn. Có sự khác nhau giữa các văn hóa Tiền Đông Sơn trong lƣu vực sông Hồng,
sông Mã và sông Lam. Nhƣng trong từng khu vực, các văn hóa Tiền Đông Sơn này đều phát
triển liên tục, không dứt đoạn, và cuối cùng, đều hội tụ vào văn hóa Đông Sơn.
Hiện nay, hệ thống văn hóa Tiền Đông Sơn ở lƣu vực sồng Hồng đƣợc nghiên cứu kỹ
lƣỡng hơn cả. Nhƣ ta đã biết, đó là phổ hệ các văn hóa Phùng Nguyên, Đồng Đậu, Gò Mun.
Vì sự phát triển từ Phùng Nguyên, qua Đồng Đậu, đến Gò Mun là liên tục cho nên ngƣời ta
cũng cho các văn hóa này là các giai đoạn trong một quá trình phát triển văn hóa thống nhất.
Tất nhiên mỗi văn hóa hay giai đoạn nhƣ vậy có những đặc điểm văn hóa riêng để
phân biệt. Đặc biệt, chúng ta có thể phân biệt dễ dàng các văn hóa này qua đồ gốm.
39
Khi cầm trong tay những đồ gốm có miệng loe rộng ra ngoài, bên trong thành miệng
có hoa văn khắc vạch, hoa văn bên ngoài đồ gốm thƣờng là văn "nan chiếu", loại hoa văn này
đƣợc tạo nên bằng một bàn dập cuộn dây thực vật, ta biết đó là những di vật của văn hóa Gò
Mun. Ta cũng có thể nhận ra các di tích văn hóa Đồng Đậu với những đồ gốm có đồ án hoa
văn gồm những đƣờng song song, tạo nên bởi cái que có nhiều răng nhƣ cái bút kẻ khuông
nhạc ngày nay. Đồ gốm văn hóa Phùng Nguyên lại bày ra trƣớc mắt chúng ta những đồ án
trang trí có nhiều đƣờng cong, giữa những đƣờng vạch là những chấm li ti đều và thẳng hàng.
Nhƣng sự khác biệt giữa các văn hóa Tiền Đông Sơn cũng nhƣ sự khác biệt giữa các
văn hóa này với văn hóa Đông Sơn không hề phá vỡ tính liên tục giữa chúng.
Hiện nay, chúng ta có thể chứng minh sự phát triển liên tục của các văn hóa này qua
nhiều mặt. Các nhà khảo cổ học đã phát hiện đƣợc những địa điểm quan trọng có tầng văn
hóa dày, trong đó các di tích của các văn hóa này chồng trực tiếp lên nhau không có lớp trống
ngăn cách Chẳng hạn ở địa điểm Đông Đậu (Vĩnh Phú), lớp dƣới thuộc giai đoạn cuối của
văn hóa Phùng Nguyên, lớp giữa là thuộc văn hóa Đồng Đậu và chồng lên lớp này là lớp văn
hóa Gò Mun. Gần đây, ngƣời ta còn tìm thấy dấu vết mộ táng Đông Sơn ở lớp trên di chỉ
Đồng Đậu. Ở địa điểm Đình Chàng (Hà Nội), lớp dƣới cùng là lớp văn hóa Đồng Đậu, lớp
trên là lớp văn hóa Gò Mun, sau đó chủ nhân văn hóa Đông Sơn lại chôn vào lớp cƣ trú Gò
Mun những ngôi mộ của họ. Cũng có nơi ở di chỉ Đình Chàng ngƣời Đông Sơn tạo thành một
lớp cƣ trú trên lớp Gò Mun.
Ngoài những địa điểm có ba hay bốn văn hóa nhƣ Đồng Đậu và Đình Chàng chúng ta
biết khá nhiều địa điểm có di tích hai văn hóa chồng lên nhau và những địa điểm mang di tích
có tính chất hỗn hợp giữa hai văn hóa. Nhờ những địa điểm nhƣ vậy, chúng ta thấy đƣợc rằng
phổ hệ Phùng Nguyên - Đồng Đậu - Gò Mun - Đông Sơn trong vùng lƣu vực sông Hồng mà
các nhà khảo cổ học đã xác lập là hoàn toàn chính xác. Trật tự sớm muộn của các văn hóa
này còn đƣợc xác nhận bằng niên đại các bon phóng xạ.
Các văn hóa này không phải chỉ là nối tiếp nhau trong thời gian mà chính là từ văn
hóa này đã phát triển thành văn hóa kia. Qua sự phát triển của bất kỳ một loại hình di vật nào
chúng ta cũng thấy rõ tính liên tục. Chúng ta có thể thấy sự gần gũi giữa mũi giáo đá Phùng
Nguyên với những mũi giáo đồng trong các văn hóa sau. Sự phát triển liên tục nhƣ vậy cũng
có thể nhận ra ở đồ trang sức. Loại vòng đồng rỗng có bàn rìa xung quanh rộng tìm thấy
trong văn hóa Đông Sơn gần nhƣ là sao y nguyên bản loại hình vòng đá Đồng Đậu, và đến
lƣợt, loại vòng đá Đồng Đậu lại bắt nguồn từ những vòng đá thiết diện chữ T trong văn hóa
Phùng Nguyên. Chiếc hoa tai đồng có bốn mấu xung quanh tìm thấy trong văn hoá Đông Sơn
có khởi hình từ những chiếc
40
hoa tai bốn mấu bằng đá có mặt trong cả ba văn hóa trƣớc Đông Sơn (Hà Văn Tấn. 1974). Có
thể kể ra nhiều hơn những thí dụ tƣơng tự. Tính liên tục cũng thể hiện rõ ràng ở sự phát triển
đồ gốm. Điều đặc biệt thú vị là ở những lớp trung gian giữa hai văn hóa nhƣ giữa Phùng
Nguyên và Đồng Đậu hay giữa Đồng Đậu và Gò Mun, có những loại gốm mang tính chất
chuyển tiếp, vừa có yếu tố của văn hóa này lại vừa có yếu tổ của văn hóa kia. Sự có mặt của
loại gốm chuyển tiếp này nói lên tính liên tục của sự phát triển các văn hóa.
Nhiều hoa văn trang trí trên đồ đồng Đông Sơn rất giống với hoa văn trên đồ gốm Gò
Mun hay Phùng Nguyên. Không những chỉ có sự gần gũi về đồ án hoa văn mà có cả sự gần
gũi về bố cục hoa văn. Ngƣời Đông Sơn đã tiếp thu từ các văn hóa trƣớc đó không những chỉ
"từ vựng" hoa văn mà cả "ngữ pháp" hoa văn (Hà Văn Tấn 1974b).
Thế là cho đến nay, có nhiều chứng cứ chắc chắn để chứng minh cho sự phát triển
liên tục từ các văn hoá Tiền Đông Sơn, đặc biệt là hệ thống Phùng Nguyên - Đồng Đậu - Gò
Mun. đến văn hóa Đông Sơn. Những chứng cứ này đồng thời nói lên rằng văn hóa Đông Sơn
là một văn hóa bản địa, phát triển lên từ các văn hóa trƣớc nó. Chủ nhân văn hóa Đông Sơn
không phải là từ bên ngoài thiên di đếnViệt Nam. Chủ nhân văn hóa Đông Sơn mà các thƣ
tịch cổ chép là ngƣời Lạc Việt chỉ là con cháu của chủ nhân các văn hóa Tiền Đông Sơn
trƣớc đó (Hà Văn Tấn 1975).
Nhƣ vậy, chúng ta có thể bác bỏ thuyết nguồn gốc ngƣời Việt thiên đi từ Giang Nam
(Trung Quốc) hay từ các nơi khác đến, mà kéo dài cội nguồn của ngƣời Việt lên đến đầu
thiên niên kỷ thứ hai hay cuối thiên niên kỷ thứ ba trƣớc Công nguyên.
Hiện nay, chúng ta chƣa có đủ tài liệu để trình bày rõ ràng về nguồn gốc của văn hóa
Phùng Nguyên cũng nhƣ các văn hóa cùng bình tuyến trong vùng sông Mã và sông Lam. Tuy
nhiên, có thể nghĩ rằng, phải tìm nguồn gốc của các văn hóa này trong sự phân hoá tiếp tục
của các văn hóa Hậu Hòa Bình. Nói cách khác, các văn hóa này cũng có nguồn gốc bản địa.
Để giải quyết vấn đề này, chúng ta cần kết hợp với nguồn tài liệu nhân chủng học và
ngôn ngữ học.
NGUỒN GỐC NGƢỜI VIỆT QUA TÀI LIỆU NHÂN CHỦNG HỌC
Để nghiên cứu nguồn gốc ngƣời Việt, chúng ta có hai nguồn tài liệu nhân chủng học :
tài liệu nhân chủng các tộc Việt và Mƣờng hiện đại và tài liệu các di cốt do các cuộc khai
quật khảo cổ học đƣa lại.
41
Trƣớc Cách mạng Tháng Tám, các học giả Pháp đã tìm đƣợc trong các địa điểm thuộc
văn hóa Hòa Bình, Bắc Sơn và hậu kỳ đá mới những di cốt và xƣơng sọ mà họ cho là thuộc
các chủng tộc khác nhau nhƣ Australoide, Mélanésien, Inđonésien, Nétiritos hoặc hỗn chủng
giữa các chủng tộc đó nhƣ Australo-Mélanésien, Indo-Mon-goloide, Indo-Mélanésien,
Nétzritos-Indonésien... Nhƣng nhìn chung, các sọ vỡ nát nhiều, thiếu nhiều bộ phận, nên việc
định chủng cho các sọ gặp khó khăn, thiếu chính xác. Nhìn chung trong thời đại đá, chúng ta
gặp nhiều đại biểu cho đại chủng Austruloid (đƣợc coi là Mélanésien), nhƣng cũng đã thấy
xuất hiện một loại hình nhân chủng đƣợc coi là Indonesien chiếm khá đông trong thành phần
dân cƣ. Chẳng hạn nhƣ ở hang Làng Cƣờm (Bắc Sơn), số sọ đƣợc coi là Indonesien chiếm
già nửa (8 sọ). Các sọ ở hậu kỳ đá mới nhƣ chợ Ghềnh, Hàm Rồng cũng là thuộc Inđonesien.
Những xƣơng sọ thuộc thời đại đá do các nhà khảo cổ học Việt Nam tìm đƣợc gần
đây đều có yếu tố Australoid pha lẫn yếu tố Moimoloid, hay là sọ Indonesien.
Sọ Indonesien có những đặc trƣng sau:
• Sọ dài hoặc trung bình (theo chỉ số sọ)
• Sọ cao - ngắn và hẹp (theo chỉ số cao - ngang)
• Mặt ngắn và trung bình (theo chỉ số mặt)
•Hốc mắt trung bình thiên Về phía hốc mắt cao (theo chỉ số hốc mắt)
• Hốc mũi rộng (theo chỉ số mũi) (Nguyễn Đăng Khoa I983 :116)
Theo chúng tôi, loại hình Indonesia vừa có những đặc trƣng Australoid vừa có những
đặc trƣng Mongoloid và đƣợc xếp vào ngành Mongoloid phƣơng Nam (Hà Văn Tấn 1962).
Chúng tôi cho rằng cần phải đặc biệt chú ý đến sự đóng góp của loại hình Indonesia cổ vào
sự thành hình cơ cấu nhân chủng của ngƣời Việt.
Điều đặc biệt quan trọng là đến thời kỳ văn hóa Đông Sơn, loại hình Indonesia vẫn
tiếp tục tồn tại. Trong các khu mộ Đông Sơn nhƣ Vinh Quang, Châu Can. Xuân La (Hà Tây),
Đọi Sơn (Nam Hà), Thiệu Dƣơng, Núi Nấp, Quỳ Chử (Thanh Hóa) đã tìm thấy những sọ
Indonesien điển hình. Nhìn chung trong các mộ Đông Sơn, sọ Inđonesien chiếm đa số.
Đáng tiếc là chúng ta chƣa tìm đƣợc các sọ nguyên vẹn có thể xác định đƣợc đặc
điểm chủng tộc trong các di tích Tiền Đông Sơn.
Có một số nhà nghiên cứu khi nghiên cứu xƣơng đùi và xƣơng sên, trong khu mộ
Lũng Hòa, thuộc văn hóa Phùng Nguyên, đã cho rằng ngƣời cổ ở đây có đặc trƣng của đại
chủng Austriilo-Negroid (Nguyễn Quang Quyền và Lân Cƣờng 1969). Ý kiến này thật ít sức
thuyết phục. Nếu bằng cách so sánh xƣơng ngƣời cổ với xƣơng ngƣời hiện đại, thì chúng ta
lại thấy xƣơng sên của ngƣời cổ ở Xóm Rền, một di tích cũng thuộc
42
văn hóa Phùng Nguyên, gần với đại chủng Mongoloid. Thực ra khó mà xác định đúng đắn về
chủng tộc qua các xƣơng chi, nhất là qua một xƣơng nhỏ nhƣ xƣơng sên. Trong thực tế,
chúng ta có thể gặp những xƣơng chi giống nhau ở các chủng tộc khác nhau, chẳng hạn,
xƣơng sên của ngƣời Nhật Bản trong nhiều đặc điểm lại gần gũi với xƣơng sên của ngƣời
Melanesien. Vì vậy, chúng ta phải chờ các sọ định chủng đƣợc tìm thấy trong các di tích Tiền
Đông Sơn.
Tuy nhiên, do chỗ ngƣời Inđonesien đã tìm thấy trong thời đại đá ở Việt Nam, lại vẫn
tìm đƣợc nhiều trong văn hóa Đông Sơn, chúng tôi cho rằng theo lô gích, ngƣời Indonesien
vẫn tiếp tục tồn tại trong thời kỳ Tiền Đông Sơn. Và nhƣ vậy, sự tồn tại của loại hình
Indonesien là không hề dứt đoạn từ thời đại đá sang thời đại kim khí ở Việt Nam
Nhƣng bên cạnh loại hình nhân chủng Indonesien, trong văn hóa Đông Sơn, còn gặp
một loại hình nhân chủng khác, mà ngƣời ta thƣờng gọi theo cách phân loại của các nhà nhân
chủng học Liên Xô (cũ) là loại hình Nam Á. Để tránh lầm lẫn với tên của một ngữ hệ - ngữ
hệ Nam Á - chúng tôi gọi loại hình này là loại hình Đông Nam Á, theo đề nghị đầu tiên của
nhà nhân học Pháp G.Olivier (Olivier - 1968 (race d' Asie du Sud-est), mà sau đó, nhiều học
giả khác cũng đồng ý.
Sọ loại hình Đông Nam Á có những đặc trƣng sau :
• Sọ trung bình hoặc sọ ngắn (theo chỉ số sọ)
• Sọ trung bình hoặc cao-ngắn thiên về trung bình (theo chỉ số cao-ngang)
• Mặt trung bình thiên về phía ngắn (theo chỉ số mặt)
• Hốc mắt trung bình (theo chỉ số hốc mắt)
• Hốc mũi trung bình và rộng thiên về trung bình (theo chỉ số mũi) ( Nguyễn Đình
Khoa 1983 :116)
Sọ Đông Nam Á đã gặp ở các khu mộ Đông Sơn nhƣ Vinh Quang, Minh Đức (Hà
Tây), Châu Sơn, Đọi Sơn (Nam Hà), Núi Nấp (Thanh Hóa).
Sọ Đông Nam Á rõ ràng là gần với sọ ngƣời Việt hiện đại hơn. Có thể nói là ngƣời
Việt hiện đai đã bắt nguồn trực tiếp từ loại hình này. Loại hình Đông Nam Á cũng thuộc
ngành Mongoloid phƣơng Nam nhƣng yếu tố Mongoloid trội hơn là ở loại hình Inđonesien.
Vấn đề đặt ra là loại hình Đông Nam Á đã hình thành nhƣ thế nào? Theo chúng tôi,
loại hình Đông Nam Á đã ra đời trên cơ sở loại hình Indonesien, hay nói cách khác, loại hình
Đông Nam Á là loại hình Indonesia đƣợc Mongoloid hóa thêm một bƣớc.
43
Nhƣng nhƣ chúng ta biết, quá trình Momioloid hóa là một quá trình lâu dài, xảy ra đã
từ lâu. Có thể đến văn hóa Đông Sơn, quá trình đó đã đƣợc mạnh hơn. Nhƣng nhìn chung,
trong các khu mộ Đông Sơn, đã song song tồn tại hai loại hình Inđonesien và Đông Nam á,
nhƣng thành phần Đông Nam Á cố phần ít hơn. Nhƣ vậy, có thể nói ngƣời Lạc Việt đƣợc
chép trong các thƣ tịch cổ, về mặt nhân chủng là gồm cả hai thành phần nhân chủng. Cho đến
sau Công nguyên, tình hình vẫn xảy ra nhƣ vậy.
Vả lại, trong nhiều khu mộ Đông Sơn, tuy ta nhận thấy có sự khác biệt trên sọ hai loại
hình nhân chủng, nhƣng có thể, trong các di tích Đông Sơn nói trên. sự khác nhau đó là trong
nội bộ quần thể. Thực ra, trong những sọ cổ xếp vào loại hình Indonesia không hiếm những
sọ có những đặc điểm của loại hình Đông Nam Á hoặc ngƣợc lại (Nguyễn Đinh Khoa 1983 :
115)
Có một điều cần chú ý là loại hình Inđonesien có dạng sọ dài còn loại hình Đông Nam
Á thì có dạng sọ ngắn. Sự biến chuyển này có thể không do ảnh hƣởng từ bên ngoài mà do sự
phát triển nội tại. Sự biến đổi từ sọ dài sang sọ ngắn đã xảy ra nhiều nơi trên thế giới nhƣ một
hiện tƣợng đồng quy sinh học, thƣờng đƣợc cắt nghĩa là gắn liền với điều kiện sống nhƣ sự
phát triển đến giai đoạn văn minh (thƣờng là từ thời đại đá sang thời đại kim khí). Vì vậy.
hiện tƣợng "đầu ngắn hóa" (brachyce phalisation) ở loại hình Đông Nam Á có thể không phải
là sự hỗn chủng tiếp tục với ngƣời Mongoloid. G.Olivier nhận xét rằng ngƣời Trung Quốc thì
đầu trung bình, ngƣời Tây Tạng cũng có đầu trung bình (mésocéphale), ngƣời Ấn Độ có đầu
dài (dolichucéphale), ngƣời Mélanésien ở phía Nam cũng có đầu dài. chỉ có Đông Dƣơng là
một trung tâm đầu ngắn (un fover de brachycéphalie). Và ông coi đó là một đề tài quan trọng
để nghiên cứu trong tƣơng lai: những nhân tố khí hậu. dinh dƣỡng, bệnh lý và văn hóa nào có
thể cắt nghĩa đƣợc các đặc điểm nhân chủng của cƣ dân Đông Dƣơng và Đông Nam Á?
(Olivier 1968 :100)
Phải chăng quá trình "đầu ngắn hoá' của cƣ dân Đông Dƣơng đã bắt đầu với sự xuất
hiện của loại hình Đông Nam Á ở văn hóa Đông Sơn và quá trình đó không chịu ảnh hƣởng
từ bên ngoài? Quá trình đó có thể cắt nghĩa bằng sự phát triển của điều kiện sống cao hơn về
văn hóa, về dinh dƣỡng, của văn hóa Đông Sơn.
Nhƣ vậy, ngay nguồn tài liệu cổ nhân học cũng nói lên nguồn gốc bản địa của ngƣời
Việt. Ngƣời Lạc Việt là tổ tiên của ngƣời Việt hiện đại, về mặt nhân chủng, là gồm cả hai loại
hình Inđnnesien và Đông Nam Á. Loại hình Đông Nam Á thì gần với ngƣời Việt hiện đại hơn
nhƣng cũng bắt nguồn từ loại hình Inđonesien mà loại hình Indonesien thì có cội nguồn xa
xƣa từ trong thời đại đá.
44
Dựa vào các số liệu đo đạc nhân chủng ở cƣ dân Đông Sơn (xem các bảng sau đây),
Nguyễn Lân Cƣờng so sánh với 13 xêri sọ khác bằng khoảng cách Penrose, thì thấy ngƣời
Đông Sơn gần gũi với ngƣời khơ-me, ngƣời Nam Trung Quốc và ngƣời Việt hiện đại. Còn so
sánh riêng từng nhóm loại hình của cƣ dân Đông Sơn, dựa theo công thức của F.Heincke,
Nguyễn Lân Cƣờng thấy rằng loại hình Đông Nam Á của cƣ dân Đông Sơn gần gũi nhất là
với ngƣời Việt hiện đại và loại hình Indonesien của cƣ dân Đông Sơn gần gũi nhất là với
ngƣời Tagal, rồi đến ngƣời Việt hiện đại (Nguyên Lân Cƣờng 1994: 193,206- 207). Nhƣ vậy,
dẫu chƣa phải là đồng nhất về mặt nhân chứng, ngƣời Đông Sơn đã rất gần với ngƣời Việt
hiện đại. Do đó, có thể khẳng định rằng cƣ dân Đông Sơn là tổ tiên của ngƣời Việt. Mà cƣ
dân Đông Sơn, nhƣ đã nói ở trên, có loại hình nhân chủng đƣợc hình thành từ bản địa.
Tài liệu nhân chủng học ngƣời Việt hiện đại cũng giúp ta hiểu thêm về nguồn gốc
ngƣời Việt. Sau khi đo sọ của ngƣời Việt hiện đại. Olivier bằng cách tính khoảng cách
Penrose, cho thấy rằng ngƣời Việt hiện đại trƣớc hết là gần gũi với ngƣời Dayak (Inđonêxia),
sau đó mới đến ngƣời Trung Quốc,và ngƣời Khơ-me (Olivier 1966 :83). Cũng bằng phƣơng
pháp tính khoảng cách Penrose. Võ Hƣng lại cho sọ ngƣời Việt hiện đại gần gũi với các
nhóm Khơ-me. Khạ và Mã Lai và có quan hệ với ngƣời Nam Trung Quốc xa hơn nhiều (Võ
Hƣng 1974). Tuy những luận điểm đó có khác nhau nhƣng đều xác nhận mối quan hệ gần gũi
giữa sọ ngƣời Việt với một số nhóm mà ta thƣờng coi là Indonesien (Khạ, Dayak...). Còn
quan hệ với ngƣời Nam Trung Quốc thì ngƣời Coi là gần. ngƣời coi là xa, nhƣng đều ở sau
mối quan hệ với các nhóm khác. Nhƣ vậy, cái thuyết cho rằng ngƣời Việt là ngƣời Nam
Trung Quốc thiên đi đến cũng không đứng vững đƣợc với tài liệu nhân chứng học.
Theo Olivier thì trong số sọ ngƣời Việt hiện đại, chỉ có 63.7% là sọ ngắn
(brachycéphale) và có đến 36.390 là sọ dài (dolichocéphale), trong khi đó, ngay ở ngƣời
Khơ-me, chỉ có 33.8% là sọ dài và 67.2% là sọ ngắn. Còn những nhóm Đông Nam Á khác
nhƣ Lào, có 2,6% sọ dài và 97,4% sọ ngắn, Thái Lan có 8,3% sọ dài và 91,7% sọ ngắn
(Olivier 1966 :77). Nhƣ vậy, ta thấy rõ ở ngƣời Việt hiện đại còn có quan hệ với ngƣời
Indonesien. Trên ngƣời sống, Olivier cũng nhận xét rằng ngƣời Việt có mũi bé, khá rộng và
thấp, mặt ngắn, chỉ số mặt khoảng 83.5 và nhƣ thế là gần với ngƣời Indnnesien hơn ngƣời
Trung Quốc và ngƣời Thái (Olivier 1968 :89).
Tóm lại, tài liệu cổ nhân học cũng nhƣ tài liệu nhân chủng học hiện đại, đều chứng
minh ngƣời Việt có nguồn gốc bản địa.
45
KÍCH THƢỚC VÀ CHỈ SỐ TRUNG BÌNH CỦA CÁC SỌ CỔ
VĂN HÓA ĐÔNG SƠN Ở VIẺT NAM (SỌ NAM)
46
Đặc điểm 52:51a 52:51 54 55 54:55 75(1) SC SS SS : CS DC DS DS:DC 62 63 63:62 68 (1) 68 79 66 70 69 C' < N 8 20 22 18 18 15 14 14 8 8 8 6 20 6 23 21 25 22 21 25 9 Min-Max 72.5 - 94.87 71.11 - 90.24 24 - 33 46 - 58 46.55 - 62.25 6 - 15.5 0.7 - 4.7 6.6 - 57.69 20.8 - 25.6 7.4 - 10.8 31.9 - 43.33 44 - 50 37 - 50 80 - 97.78 74 - 114 65 - 87 108-133 79 - 106 55 - 69 30.5 - 38 66 - 95 ̅ 84.16 78.62 27.8 51.97 53.67 10.02 2.59 28 22.74 8.81 38.85 46. 75 41.66 88.01 103.22 77.9 121.06 96.84 62.02 33.7 77039 S 8.16 10.56 2.47 3.38 4.63 2.82 1.24 14.04 1.74 1.05 4.4 2.44 2.99 6.43 8.19 6.00 6.35 7.71 5.02 2.30 8.28 ̅ 2.88 2.36 0.53 0.8 1.09 0.73 0.33 3.75 0.61 0.37 1.55 1.0 0.67 2.62 1.71 1.31 1.27 1.64 1.1 0.46 2.76 V 9.70 13.43 8.88 6.50 8.63I 28.14 47.881 50.14 7.65 11.92 11.33 5.22 7.18 7.31 7.93 7.7 5.25 7.96 8.09 6.82 10.70
KÍCH THƢỚC VÀ CHỈ SỐ TRUNG BÌNH CỦA CÁC SỌ CỔ VĂN HÓA ĐÔNG
N 24 23 23 12 12 12 22 11 20 20 20 16 9 9 15 SƠN Ở VIỆT NAM (SỌ NỮ) S 6.80 5.16 3.79 5.31 3.48 4.08 9.78 6.03 4.67 2.84 4.60 2.94 5.80 7.18 5.28 Min-Max 164- 191 123 - 144 67.5 - 82.29 123- 140 70.7- 81.4 94.6- 106.8 86- 137 89 - 106.3 84-104 63.16-76.3 106-119 74.34 - 86.55 82 - 97 74 - 95 90- 110 ̅ 175.94 131.S5 74.84 131.33 75.40 100.52 112.02 96.75 93.33 70.84 112.25 82.71 89.11 84.44 102.07 ̅ 1.39 1.08 0.79 1.53 1.01 1.18 2.09 1.82 1.04 0.64 1.03 0.74 1.93 2.39 1.36 V 3.86 3.91 5.06 4.04 4.62 4.06 8.73 6.23 5.00 4.01 4.10 3.55 6.51 8.50 5.17 Đặc điểm 1 8 8:1 17 17:1 17 :8 20 5 9 9:8 10 9:10 32 9-m/f 12
47
48
NGUỒN GỐC NGƢỜI VIỆT QUA TÀI LIỆU NGÔN NGỮ HỌC
Vị trí của tiếng Việt và tiếng Mƣờng trong các ngữ hệ đã từng đƣợc thảo luận sôi nổi.
Từ giữa thế kỷ 19, đã có những học giả xếp tiếng Việt vào ngữ hệ Môn-Khmer, mà nhƣ J.R.
Logan, gọi là ngữ hệ Môn-An Nam (Logan 1852). Nhƣng từ năm 1912, Henri Maspéro đã
xếp tiếng Việt vào nhóm ngôn ngữ Hán - Thái trong ngƣ hệ Hán -Tạng (Sino - Tibetan). Ông
dựa vào chỗ trong tiếng Việt có nhiều từ vựng cơ bản gốc Thái và tiếng Việt là tiếng có thanh
điệu (Maspéro 1912). Quan điểm của Maspéro đã ảnh hƣởng đáng kể đến nhiều học giả khác.
Thậm chí, W.Schmidt, năm 1905 đã xếp tiếng Việt vào mũi hệ Môn - Khmer (Schmidt 1905),
thì trong công trình năm 1926 đã thay đổi ý kiến, xếp tiếng Việt vào tiếng Thái (Schmidt
1926)
Nhƣng những cố gắng liên tục của André Haudricourt (1953, 1954. 1955) đã thuyết
phục mọi ngƣời rằng tiếng Việt thuộc ngữ hệ Nam Á (Austroasiatic). Những từ vựng cơ bản
đƣợc Maspéro cho là gốc Thái thì Haudricourt chứng minh là của tiếng.
Môn – Khmer, Còn về thanh điệu thì không thể nhận định một cách tiên nghiêm rằng
một ngôn ngữ vốn không có thanh điệu không thể nào trở thành một ngôn ngữ có thanh điệu
đƣợc. Càng ngày ngƣời ta càng tin theo quan điểm của Haudricourt. Những công trình gần
đây (Gage 1985) chỉ củng cố quan điểm của Haudricourt.
Nhƣ vậy, hiện nay tiếng Việt - và cả tiếng Mƣờng - đƣợc coi là thuộc ngữ hệ Nam Á
(có ngƣời còn gọi là Môn - Khmer). Nhƣng một ảnh hƣởng lâu đời của tiếng Thái, thậm chí
cả tiếng Malayo - Polynesien hay tiếng Nam Đảo (Austronesien) vào tiếng Việt Mƣờng thì
không ai nghi ngờ gì. Giải thích hiện tƣợng đó nhƣ thế nào?
Từ năm 1942, Paul K.Benedict đã tách tiếng Thái ra khỏi ngữ hệ Hán Tạng ( Benedict
1942). Việc làm đó đã đƣợc nhiều học giả ủng hộ. Ông ta đã nhận thấy những mối quan hệ
gần gũi giữa ngôn ngữ Thái và ngôn ngữ Nam Đảo, và cho tiếng Thái vào ngữ hệ mà ông gọi
là Thai - Kadai. Nhƣng vào các năm 1966 và 1967, trong một loạt bài viết mà sau này đƣợc
tập hợp trong quyển sách năm 1975, Benedict đã gắn ngữ hệ Thái với ngữ hệ Nam Đào, và
gọi chung là ngữ hệ Austro - Thai (Benedict 1915). Các chuyên gia lớn về ngôn ngữ Nam
Đào nhƣ Isidore Dyen (1982) đều bác bỏ thuyết này. Nhƣng dẫu sao thì mối quan hệ giữa
ngôn ngữ Thái và ngôn ngữ Nam Đảo là không thể phủ nhận.
Trong khi gắn ngôn ngữ Thái với ngôn ngữ Nam Đảo thành ngôn ngữ Austro -Thai,
Beneclict lại phủ nhận mối quan hệ giữa ngữ hệ Nam Á với ngữ hệ Nam Đảo. Nhƣng điều
này đã không đƣợc nhiều ngƣời ủng hộ- Năm 1974, Saveros Pou và Philip Jenner đã chứng
minh mối liên hệ giữa ngôn ngữ Nam Đảo (Proto - Indonesia) với ngôn ngữ Mon - Khmer
(Pou and Jenner 1974). Lawrence A.Reid cũng lƣu ý chúng
49
ta mối liên hệ giữa hệ Nam Á và ngữ hệ Nam Đảo. Reid đã thấy tiếng Nancowry của cƣ dân
quần đảo Nicobar, mà tất cả các nhà ngôn ngữ học đã nhất trí là một ngôn ngữ Nam Á, giống
hệt một cách ngạc nhiên về công cụ hình thái (morphological apparatus) cả về hình thức lẫn
chức năng với ngôn ngữ Proto - Nam Đào (Proto -Austronesian) mà các nhà Nam Đào học đã
khôi phục. Do sự cô lập của ngôn ngữ Nancowry. Reid cho rằng sự giống nhau này không thể
là do tiếp xúc mà có khả năng là do mối liên hệ nguồn gốc giữa các ngữ hệ Nam Á và Nam
Đào. Từ đó, Reid nhắc chúng ta trở lại giả thuyết mà W.Schmidt đƣa ra từ năm 1906, về một
ngữ hệ Austric (Nam Phƣơng) bao trùm cả ngôn ngữ Nam Á và ngôn ngữ Nam Đảo.
Giả thiết về một ngôn ngữ Austric, cội nguồn của ngữ hệ Nam Á và Nam Đào thì cho
đến nay đƣợc nhiều học giả khẳng định. Còn mối liên hệ giữa ngôn ngữ Thái và ngôn ngữ
Nam Đào thì lại đƣợc các nhà ngôn ngữ, đặc biệt là Thurgood, coi không phải là liên hệ
nguồn gốc mà chỉ là liên hệ do tiếp xúc (Reid 1994).
Về quê hƣơng của các ngữ hệ trên, còn có nhiều ý kiến khác nhau, có những học giả
coi quê hƣơng của ngƣời Nam Đào là ở trong vùng hải đảo Đông Nam Á, nhƣng cũng có
nhiều ngƣời khác tim quê hƣơng của ngƣời Nam Đào ở miền bờ biển Nam Trung Quốc hay
Đài Loan. Còn quê hƣơng của ngữ hệ Thái thì đƣợc nhiều ngƣời cho là Nam Trung Quốc và
một phần Bắc Việt Nam. Nếu thừa nhận mối liên hệ giữa ngôn ngữ Thái và ngôn ngữ Nam
Đào, dù chỉ là mối liên hệ tiếp xúc, thì phải thừa nhận cƣ dân nói hai ngữ hệ này phải cƣ trú
cạnh nhau lâu đời. Vì vậy xem ra quan điểm cho rằng quê hƣơng của cƣ dân nói tiếng Nam
Đào ở Đông Nam Trung Quốc là hợp lý hơn.
Ngày nay đa số cƣ dân nói ngôn ngữ Nam Á là ở vùng lục địa Đông Nam Á. Tìm quê
hƣơng của cƣ dân nói tiếng Nam Á ở vùng lục địa Đông Nam Á là hợp lý. Với lại, nếu ta ủng
hộ lý thuyết có một ngữ hệ Nam Phƣơng (Austric), cội nguồn chung cho cả ngữ hệ Nam Á và
ngữ hệ Nam Đảo, thậm chí cả ngữ hệ Thái, thì chúng ta chỉ có thể liên hệ ngôn ngữ rộng lớn
này với vùng phân bố của văn hóa Hòa Bình rộng khắp Đông Nam Á lục địa .
Nhƣ vậy, tiếng Việt là một ngôn ngữ Nam Á. Chỉ có thể có quê hƣơng ở Đông Nam
Á lục địa. Nhƣng ở đây, chúng ta cần bàn thêm về lịch sử của tiếng Việt để thấy rõ quá trình
hình thành của nó.
Khi bàn về tiếng Việt đã tách ra từ ngữ hệ Nam Á nhƣ thế nào, ta gặp khái niệm
Proto-Việt-Mƣờng mà một số nhà ngôn ngữ học đã đƣa ra (Ferlus 1975). Sau khi xem xét cái
đƣợc gọi là Proto-Việt-Mƣờng mà một số nhà ngôn ngữ học cố gắng khôi phục, chúng tôi
cho rằng ngôn ngữ đó chỉ là là ngôn ngữ tổ tiên của tiếng Việt và tiếng Mƣờng
50
Chúng tôi đề nghị gọi nó là Việt-Mƣờng chung. Trong khi đó, các ngôn ngữ trong nhóm
Việt-Mƣờng còn tồn tại hiện nay ở các tỉnh Bắc Trung bộ và một phân trên đất Lào nhƣ tiếng
Cuối, tiếng Poọng, tiếng Mã Liềng, tiếng Chứt, tiếng Tha Vƣng, tiếm: A Hơ... có trình độ
phát triển không giống với tiếng Việt và tiếng Mƣờng. Có ngôn ngữ có hình thức CCVC hay
CVCVC. Chúng tôi dành thuật ngữ Proto -Việt-Mƣờng (Tiền Việt Mƣờng) là cho ngôn ngữ
tổ tiên chung của các ngôn ngữ Việt - Mƣờng nói trên, kết cả tiếng Mƣờng và tiếng Việt.
Vì thế, năm 1976, chúng tôi đã đề nghị một sơ đồ hình thành tiếng Việt qua các giai
đoạn : Proto-Việt-Mƣờng Việt-Mƣờng Chung Việt và Mƣờng (Hà Văn Tấn 1976)
PROTO – VIỆT – MƢỜNG
VIỆT – MƢỜNG CHUNG
CHỨT, POONG V.V... VIỆT MƢỜNG
Về sau, thuật ngữ Việt Mƣờng Chung mà chúng tôi đƣa ra đã đƣợc một số nhà ngôn
ngữ học Việt Nam sử dụng (Nguyễn Văn Tài 1988). Phạm Đức Dƣơng và chúng tôi cũng đã
phát triển thêm lý thuyết này (Hà Văn Tấn và Phạm Đức Dƣơng 1978).
Gần đây, Gérard Diffot, trong một hội thảo gồm những nhà khảo cổ học và ngôn ngữ
học tổ chức ở Hua Hin, Thái Lan vào tháng giêng 1991, đã coi nhóm các ngôn ngữ mà trƣớc
đây chúng ta gọi là Việt Mƣờng là một nhánh (branh) của ngữ hệ Môn -Khmer, với cái tên là
Vietic. Từ đó, cái mà chúng tôi gọi là Việt-Mƣờng Chung thì ông vẫn gọi là Proto-Việt-
Mƣờng, còn cái chúng tôi gọi là Proto-Việt-Mƣờng thì ông gọi là Proto-Vietic (Difflot 1991).
Chúng tôi cho rằng sự khác nhau đó chỉ có ý nghĩa danh pháp, không quan trọng mấy
đối với lịch sử hình thành tiếng Việt.
Chúng tôi thấy rằng tiếng Proto-Việt-Mƣờng (hay Proto-Vietic của Difflot) là một
nhóm trong ngữ hệ Nam Á, mà dấu vết của nó còn để lại trong các ngôn ngữ Bắc Trƣờng Sơn
nhƣ Chứt, Poọng... Một động lực để ngôn ngữ Proto-Việt-Mƣờng biến chuyển thành ngôn
ngữ Việt-Mƣờng Chung có thể là ảnh hƣởng của ngôn ngữ Thái. Vì vậy, có thể coi tiếng Thái
cũng là một cội nguồn lâu đời của tiếng Việt, mặc dầu không phải là cội nguồn đầu tiên.
Có lẽ Nguyễn Văn Tài đã có lý khi cho rằng tiếng Việt và tiếng Mƣờng đã tách khỏi
tiếng Việt-Mƣờng Chung vào khoảng thế kỷ 7 hoặc 8 sau Công nguyên (Nguyễn Văn Tài
1978). Và nhƣ vậy, ta có thể nghĩ rằng ảnh hƣởng của tiếng Hán đến tiếng Việt có thể có tác
dụng trong quá trình phân hóa tiếng Việt và tiếng Mƣờng.
51
Nếu quả tiếng Mƣờng và tiếng Việt chỉ tách rời nhau cuối thời Bắc thuộc thì trƣớc đó,
trong thời kỳ văn hóa Đông Sơn, đại bộ phận cƣ dân là tổ tiên của ngƣời Việt và ngƣời
Mƣờng ắt hẳn nói ngôn ngữ Việt-Mƣờng Chung. Tất nhiên là trong văn hóa Đông Sơn cũng
có bộ phận nói tiếng Thái.
Còn cƣ dân Tiền Đông Sơn, thì theo chúng tôi, còn nói ngôn ngữ Proto-Việt-Mƣờng
(Hà Văn Tấn 1993).
Ở trên, chúng ta đã nói rằng chƣa tìm đƣợc rõ ràng nguồn gốc văn hóa Phùng
Nguyên. Chỉ biết rằng sau biến tiến Holocene Trung, khi đồng bằng sông Hồng, hình thành
do biển rút lui thì mới thấy cƣ dân văn hóa Phùng Nguyên đến cƣ trú. Nhƣng họ từ đâu đến
thì ta chƣa thể trả lời chắc chắn đƣợc. Có điều có thể dứt khoát là không phải đến từ Nam
Trung Quốc, vì ở vùng này, không có một văn hóa nào có nét tƣơng tự với văn hóa Phùng
Nguyên, nhất là về hoa văn đồ gốm. Chỉ có di chỉ Đại-Đôn Tử ở Vân Nam là có một số mảnh
gốm gần giống với gốm Phùng Nguyên nhƣng lại chỉ ở lớp trên và niên đại muộn. Vì thế, đã
có lần chúng tôi đề ra giả thuyết là văn hóa Phùng Nguyên có mặt ở đồng bằng sông Hồng
sau một cuộc đi từ phía nam ra ( Hà Văn Tấn 1976 ; Hà Văn Tấn và Phạm Đức Dƣơng 1978).
Gần đây, G.Difflot, sau khi nghiên cứu các ngôn ngữ mà ông gọi là Vietic ở Trung
Lào và Trung bộ Việt Nam, đã đƣa ra giả thuyết rằng những ngƣời nói ngôn ngữ Vietic xƣa
(vào khoảng thiên niên kỳ thứ nhất trƣớc công nguyên) đã thiên đi từ vùng Trung Lào) đến
Nghệ Tĩnh (Việt Nam) rồi từ đó, đi lên phía bắc, đến châu thổ sông Hồng (Difflot .1991).
Theo chúng tôi, do sự phân bố rộng của các nhóm ngôn ngữ Vietic (Tiền Việt-
Mƣờng) rộng rãi hai bên sƣờn đông và tây của Trƣờng Sơn, mà hiện nay ta còn thấy hiện
tƣợng chuyển dịch của các nhóm dân tộc bên này sang bên kia hay ngƣợc lại, việc đƣa ra giả
thuyết về cuộc thiên di của ngƣời Vietic từ Trung Lào vào Việt Nam là không cần thiết và
cũng không có cơ sở. Nhƣng cuộc di cƣ ra phía bắc của ngƣời Vietic cổ xƣa mà Difflot đã
nêu lên là đáng suy nghĩ. Có điều, theo chúng tôi, nếu có cuộc thiên di này thì nó đã xảy ta
sớm hơn, có thể là cuối thiên niên kỷ thứ ba hay đầu thiên niên kỷ thứ hai trƣớc công nguyên.
Chính ở vùng lƣu vực sông Hồng, những cƣ dân nói tiếng Proto-Việt-Mƣờng đã tiếp
xúc với cƣ dân nói tiếng Tày Thái và có thể với cả nhóm cƣ dân nói tiếng Nam Đào ở vùng
ven biển Đông Bắc. Điều đó giải thích dễ dàng vì sao trong tiếng Việt có ảnh hƣởng của tiếng
Thái và của cả tiếng Nam Đào.
Tóm lại, bằng tài liệu ngôn ngữ học, chúng tôi muốn dùng phƣơng pháp hồi cố để
ngƣợc lại lịch sử tiếng Việt, và cũng từ đó, ngƣợc lên cội nguồn của những ngƣời nói
52
tiếng việt hiện đại. Đó là một cội nguồn bản địa, vì tiếng Việt bắt nguồn từ tiếng Việt-Mƣờng
Chung, và đến lƣợt, ngôn ngữ này lại bắt nguồn từ tiếng Proto-Việt-Mƣờng (hay Proto-
Vietic), một ngôn ngữ của ngữ hệ Nam Á, ngữ hệ của vùng Đông Nam Á lục địa.
*
* *
Nhƣ vậy là bằng tài liệu khảo cổ học, tài liệu nhân chủng học và tài liệu ngôn ngữ
học, chúng tôi đã trình bày quan điểm của mình về nguồn gốc ngƣời Việt. Đó là một giả
thuyết bản địa về nguồn gốc ngƣời Việt. Chúng tôi không chấp nhận nguồn gốc ngƣời Việt là
thiên di từ các vùng khác đến. Có thể tìm nguồn gốc ngƣời Việt từ văn hóa Phùng Nguyên và
các văn hóa cùng bình tuyến. Chúng ta chƣa làm sáng tỏ nguồn gốc văn hóa Phùng Nguyễn
nhƣng về mặt nhân chủng học thì có thể chứng minh một quá trình phát triển liên tục từ thời
đại đá cho đến văn hóa Đông Sơn. Chúng ta cũng có thể chứng minh cội nguồn bản địa của
tiếng Việt.
Nhƣng khi trình bày một giả thuyết bản địa về nguồn gốc ngƣời Việt, chúng tôi không
hề phủ nhận các ảnh hƣởng bên ngoài. Ảnh hƣởng đó bao gồm cả các nhân tố văn hoá, nhân
chủng và ngôn ngữ. Chính những nhân tố bên ngoài này, cùng với sự biến dị, chuyển biến
của những nhân tố bên trong, đã làm cho cộng đồng tộc ngƣời không ngừng thay đổi và nhƣ
vậy, chúng ta mới thấy tộc Việt nhƣ ngày nay.
53
CHƢƠNG IV: VĂN MINH KỸ THUẬT CỦA NGƢỜI VIỆT CỔ
Công cuộc nghiên cứu khảo cổ học, cổ sử, dân tộc học, cổ sinh học, cổ địa lý, địa chất
và hàng loạt các ngành khoa học phụ trợ khác trong nhiều thập kỷ qua đã cung cấp cho ta
nhiều tài liệu quí giá, nhiều luận cứ khoa học đáng tin cậy để vẽ nên bức tranh toàn cảnh về
nền văn minh kỹ thuật của tổ tiên chúng ta - những ngƣời Việt cổ ở buổi bình minh lập nƣớc
- thời kỳ Hùng Vƣơng - An Dƣơng Vƣơng. Đƣơng nhiên, đây là bức tranh có rất nhiều những
mảng tối - sáng, mờ - tỏ khác nhau. Hoàn thiện bức tranh vẫn còn là nhiệm vụ của tƣơng lai.
Ở đây chúng tôi sẽ cố gắng trình bày một cách cô đọng những nét chính yếu nhất, những
thành tựu kỹ thuật mà ngƣời Việt cổ đã đạt tới thời đó.
Nhƣ đã rõ, "kỹ thuật" là một khái niệm hết sức chung rộng. Nó bao hàm toàn bộ
những phƣơng tiện hoạt động của con ngƣời, đƣợc con ngƣời tạo ra để thực hiện các quá
trình sản xuất và phục vụ cho những đòi hỏi phi sản xuất của xã hội (Bách Khoa toàn thƣ Xô
Viết 1985). Để nghiên cứu đầy đủ văn minh kỹ thuật của một xã hội cụ thể, ta buộc phải xem
xét toàn diện cà 2 bộ phận - kỹ thuật sản xuất và kỹ thuật phi sản xuất. Những công việc này
chẳng đơn giản, dễ dàng chút nào khi phải đối mặt với một xã hội đã lùi quá xa vào dĩ vãng,
và càng khó khăn hơn gấp bội khi xã hội đó chƣa có văn tự, nhƣ xã hội ngƣời Việt cổ thời
Hùng Vƣơng - An Dƣơng Vƣơng. Trong ý đồ của mình, chúng tôi cũng đặt trọng tâm vào
lĩnh vực kỹ thuật sản xuất, bởi nó chính là tiêu chí căn bản xác định diện mạo, tính chất và
trình độ văn minh xã hội.
Nền văn hóa Đông Sơn đƣợc thừa nhận là nền văn hóa căn cứ của ngƣời Việt cổ.
Nhƣng để tìm hiểu sự hình thành và phát triển của văn minh kỹ thuật Việt cổ, chúng ta không
thể bỏ qua các văn hóa Tiền Đông Sơn ở lƣu vực sông Hồng Phùng Nguyên - Đồng Đậu - Gò
Mun và các văn hóa tuơng đƣơng với chúng ở nơi khác.
I. CÁC KỸ THUẬT SẢN XUẤT
A. KỸ THUẬT NÔNG NGHIỆP
Cho đến nay, các nhà nghiên cứu còn đang phân vân khi nói về thời điểm xuất hiện
nền nông nghiệp ở Việt Nam : có thể ở vào giai đoạn văn hóa Hòa Bình chăng? Có công trình
nghiên cứu dấu vết lao động trên sƣu tập công cụ đá Xóm Trại - một di tích Hòa Bình rất điển
hình, đã lọc ra đƣợc một số công cụ có chức năng cuốc. Hơn thế, đã có công bố về những hạt
thóc tìm thấy trong tầng văn của chính địa điểm này. Nhƣng sự nghi ngờ vẫn tồn tại. Công cụ
có chức năng cuốc có thể đơn giản để đào rễ.
54
củ trong kinh tế thu lƣợm. Còn hạt thóc, tuy tìm thấy trong tầng văn hóa, nhƣng chƣa ai dám
chắc chúng có cùng niên đại với những công cụ đá Hòa Bình điển hình. Tầng văn hóa Xóm
Trại ken nhiều vỏ ốc, tơi xốp, những di vật đời sau dễ dàng lọt xuống tận tầng sâu.
Niên đại mở đầu chắc chắn hơn đƣợc gắn với các văn hóa sơ kỳ đá mới Bắc Sơn (ở
vùng núi Bắc Bộ) và Đa Bút (vùng ven biển Thanh Hóa). So với văn hóa Hòa Bình trƣớc đó,
trong các văn hóa này đã có những biến đổi đáng kể trong hoạt động kinh tế. Rìu mài lƣỡi,
trong đó có nhiều chiếc đƣợc sử dụng nhƣ cuốc, chiếm ƣu thế trong văn hóa Bắc Sơn. Những
dấu tích thức ăn chứa đựng trong tầng văn hóa Bắc Sơn với sự giảm đáng kể của vỏ ốc so với
văn hóa Hòa Bình, làm chúng ta phải nghĩ đến sự đổi hƣớng chiến lƣợc lƣơng thực - thực
phẩm của ngƣời Bắc Sơn. Có lẽ ngƣời Bắc Sơn đã bƣớc đầu biết đảm bảo nguồn thức ăn của
mình bằng cách chăm sóc – trồng trọt (?) một vài loại cây củ có sẵn nhƣ củ mài, củ mỡ...
Theo các nhà nghiên cứu, có những dấu hiệu chứng tỏ cƣ dân Đa Bút đã chắc chắn
biết trông trọt. Họ đã dần dần rời xa vùng núi, tiến xuống miền đồng bằng, nơi thuận lợi cho
trồng trọt. Công cụ kiểu cuốc đá mài lƣỡi xuất hiện và nhanh chóng đạt tới số lƣợng lớn phản
ánh sự đổi thay trong phƣơng thức kiến sống trồng trọt xuất hiện và nhanh chóng chiếm vị trí
quan trọng. Đồ gốm trong văn hóa Đa Bút đặc biệt phát triển về số lƣợng. Hiện tại chƣa có
bằng chứng trực tiếp nào để nói về cơ cấu cây trồng trong thời đại này, liệu cây lúa đã đƣợc
biết đến hay chƣa? Và những bƣớc đi tiếp theo - từ sơ kỳ đá mới đến hậu kỳ đá mới của nền
nông nghiệp trên vùng đất mà sau này trở thành địa bàn sinh cƣ của ngƣời Việt cổ, diễn ra
nhƣ thế nào? Đây còn là những khoảng trống cần có thêm thời gian để tìm hiểu.
Chỉ biết chắc chắn đƣợc rằng, chủ nhân của những nền văn hóa vật chất đã đƣợc các
nhà khảo cổ học nhất trí khẳng định là thuộc thời kỳ Hùng Vƣơng dựng nƣớc đã là những
ngƣời nông dân trồng lúa nƣớc thành thục ngay từ giai đoạn văn hóa Phùng Nguyên.
Dấu tích hạt thóc, gạo không còn là những phát hiện quá hiếm hoi và lẻ tè, ở khá
nhiều di chỉ thuộc các giai đoạn văn hóa từ Phùng Nguyên đến Đông Sơn, phân bố rải rác ở
nhiều vùng sinh thái khác nhau - từ vùng trung du - đồng bằng trƣớc núi đến vùng đồng bằng
phù sa ven biển. Có niên đại sớm hơn cả hiện biết là vài hạt thóc tìm thấy lè tẻ ở các địa điểm
Phùng Nguyên nhƣ Gò Bông, Xuân Kiều. Muộn hơn một chút là phát hiện tại lớp văn hóa
Phùng Nguyên muộn ở địa điểm Đồng Đậu. niên đại C14 của lớp này đƣợc định vào khoảng
dƣới 4000 năm cách ngày nay. Cũng tại địa điểm này, hạt gạo cháy còn tìm thấy tƣơng đối
phổ biến ở các kíp văn hóa Đồng Đậu, Gò Mun. Tại di chỉ Gò Mun, các nhà nghiên cứu đã
tìm thấy cả "hầm ngũ cốc". Chúng ta
55
còn tìm thấy những hạt thóc lúa, vỏ trấu trong các vật bằng đất nung (khuôn đúc, nồi nấu
đồng, chạc gốm, cục đất nung...) ở nhiều di chỉ khác nữa nhƣ Từ Sơn, Làng Cả, Gò Chiền,
Trung Mâu, Đông Tiến, Làng Vạc...
Qua phân tích về mặt hình thái hạt thóc gạo tìm thấy ở các địa điểm nêu trên, các nhà
nông sinh học đã đƣa ra ý kiến về,tính đa dạng của các giống lúa. Đa số chúng thuộc giống
lúa hạt tròn (có thể là nếp, lúa chiêm), ngoài ra còn có giống lúa hạt bầu và dài (Đào Thế
Tuấn, 1983, 1984 ; Nguyên,Xuân Hiển, Nguyễn Việt 1982...). Sự ra đời của nhiều giống lúa
hẳn phải nhờ quá trình lai tạo thuần dƣỡng lâu năm nhằm đáp ứng nhu cầu mở rộng đất đai
đến những vùng đất mới, cũng nhƣ nhằm tăng thêm mùa vụ trong năm, đáp ứng nhu cầu
lƣơng thực ngày một lớn của những trung tâm dân cƣ tập trung đông đúc, đặc biệt là vào giai
đoạn cuối - giai đoạn văn hóa Đông Sơn (trung tâm Làng Cả ở lƣu vực sông Hồng, Đông Sơn
ở lƣu vực sông Mã, Làng Vạc ở lƣu vực sông Cả). Ngày nay, bằng những phƣơng pháp
nghiên cứu hiện đại trên một nghìn giống lúa trồng ở khu vực Đông Nam Á, trong đó có Việt
Nam, các nhà khoa học đã đi đến kết luận rằng Việt Nam có thể là một trung tâm phát sinh
cây lúa và là một trung tâm đa dạng của cây lúa. Tính đa dạng của cây lúa thế hiện đặc biệt
tập trung ở miền Bắc Việt Nam - địa bàn sinh cƣ của ngƣời Việt cổ. Ngoài những giống lúa
Inlica, Japonica còn có hàng loạt giống trung gian giữa hai loại Indica và Japonica hoặc
giống lúa thuộc loài phụ Japonica (Đào Thế Tuấn 1994). So với các chứng tích khảo cổ học,
chúng ta thấy rất rõ tính đa dạng cây lúa ở miền Bắc Việt Nam không phải là hiện tƣợng xuất
hiện tƣơng đối muộn sau này, mà đã xuất hiện ngay từ buổi đầu dựng nƣớc của dân tộc. Đây
là một nét đặc trƣng một thành tựu đáng kể của kỹ thuật trồng lúa của ngƣời Việt. Nó chứng
minh khả năng thích ứng môi sinh rất linh hoạt, cũng nhƣ bề dày kinh nghiệm trồng lúa hàng
nghìn đời của họ. Thâm canh đƣợc coi là một nét đặc sắc của nền văn minh lúa nƣớc của dân
tộc ta (Trần Đức 1993 ; 19).
Vai trò chủ đạo của lúa nƣớc, truyền thống thâm canh và sử dụng nhiều giống lúa để
sản xuất của ngƣời Việt cổ, còn đƣợc ghi lại trong khá nhiêu văn bản Hán ngữ cổ. Mặc dù
chúng ta chƣa biết đến một văn bản nào ra đời cùng thời Hùng Vƣơng -An Dƣơng Vƣơng,
nhƣng những ghi chép của các sử gia, những quan lại nhà Hán sống vào thời gian sau đó vài
thế kỷ, cũng cho ta những tài liệu tham khảo quý giá. Có thể kể ra đây vài tài liệu tiêu biểu.
Sách Dị vật chí của Dƣơng Phù thời Đông Hán (thế kỷ 1 công nguyên) đã thất truyền, nhƣng
đã đƣợc dẫn lại trong nhiều cuốn sách đời sau, viết khá nhiều về tình hình nông nghiệp Giao
Chỉ, Cửu Chân. Trong sách có đoạn viết rằng, lúa ở Giao Chỉ một năm chín 2 lần (2 vụ).
Trong Thủy kinh chú còn có những đoạn viết cụ thế về mùa vụ ở Giao Chỉ, Cửu Chân rằng, ở
đây có ruộng lúa trắng, tháng 7 làm tháng 10 chín, ruộng lúa đỏ tháng 12 làm tháng 4 chín,
đó là lúa hai mùa - lúa sớm, lúa muộn, tháng nào cũng tốt. Muộn hơn, có sách Quảng chí của
Quách Nghĩa
56
Cung đầu thời Tấn (dẫn trong Sơ học ký quyển VIII) nói kỹ hơn về tập đoàn giống lúa trồng ở
Giao Châu. Sách chép rằng, ở đây mỗi năm có 3 vụ lúa chín vào mùa xuân, hạ đông và kể ra
tới trên 10 giống lúa với những tên gọi khác nhau. Sách Nam phương thảo mộc trạng của Kê
Hàm đời Tây Tấn (thế kỷ 3) có nói đến việc trồng nhiều lúa nếp và dùng nếp nấu rƣợu vào
buổi đầu công nguyên ở vùng Giao Châu, trong đó có miền Bắc Việt Nam. Những thông tin
tƣơng tự còn tìm thấy trong Thủy kinh chú. Theo sách này, vào năm 111 trƣớc công nguyên
sứ giả của Giao Chỉ và Cửu Chân đã cống nộp cho tƣớng Hán Lộ Bác Đức tới 1000 hũ rƣợu
(dẫn theo Trần Quốc Vƣợng 1963).
Trên thực tế, sự định hƣớng phát triển nông nghiệp trong đó trƣớc hết là việc lựa chọn
cây trồng, vật nuôi, bị chi phối bởi 2 yếu tố căn bản, một là con ngƣời sản xuất có ý thức
chọn lựa, định hƣớng cho mình trên cơ sở những kinh nghiệm tích lũy qua nhiều thế hệ và hai
là môi trƣờng tự nhiên. Việc lựa chọn các giống lúa chủ yếu là lúa nƣớc của ngƣời Việt cổ
ngay từ buổi đầu dựng nƣớc là hoàn toàn hợp lý, khôn ngoan, nhƣng đồng thời cũng là tất
yếu. Cả vùng Đông Nam Á nhiệt đới gió mùa đều chọn loại cây lƣơng thực này làm cây trồng
chính, có thể chăng cái làm nên bản sắc riêng của nông nghiệp trồng lúa Việt Nam ngay từ
thời cổ là sự đa dạng giống lúa. Theo kết quả nghiên cứu của các nhà nông sinh, trong khi các
vùng Nam Trung Quốc, Bắc Lào, Bắc Thái Lan chỉ gặp 3-4 nhóm giống lúa thì ở Bắc Việt
Nam con số đó lên tới 8 (đổi với vùng đồng bằng) hoặc 9 (đối với vùng núi) (Đào Thế Tuấn
1994). Đƣơng nhiên, đây là bức tranh của các tập đoàn giống lúa hiện đại, nhƣng với những
chứng tích khảo cổ học, thƣ tịch nêu trên, chúng ta có thể mạnh dạn mà nói rằng, bức tranh
thời cổ chắc cũng không khác quá nhiều.
Nghề trồng trọt ở miền Bắc Việt Nam chƣa bao giờ mang tính chất độc canh cây lúa,
dù cây lúa bao giờ cũng chiếm vị trí hàng đầu. Do sự da dạng về địa hình, khí hậu, thổ
nhƣỡng, lại nằm ở vị trí ngã ba của 3 luồng di cƣ các hệ thực vật từ Nam Trung Hoa xuống,
từ vùng núi Hymalaya sang và từ Indonexia - Malaysia lên, nên hệ thực vật và cây trồng ở
miền Bắc Việt Nam vô cùng đa dạng (Vũ Thế Long, Nguyễn Tiến Hiệp 1994). Hệ sinh thái
phồn tạp đặc trƣng của Việt Nam và Đông Nam Á nhiệt đới đã tạo ra ở đây, ngay từ thời tối
cổ, những cƣ dân sống chính bằng hái lƣợm không phải săn bắn) theo phổ rộng (không phải
chuyên biệt) (Hà Văn Tấn 1982). Với môi trƣờng sinh thái cơ bản không thay đổi, với truyền
thống kinh tế hái lƣợm nhƣ vậy, đƣơng nhiên sẽ dẫn đến một nền nông nghiệp trong đó trồng
trọt trội hơn chăn nuôi, trồng trọt và chăn nuôi đều theo hƣớng đa canh, đa dƣỡng. Trong các
tài liệu khảo cổ học, thƣ tịch cổ, dân tộc học... có thể tìm thấy những bằng chứng cụ thể.
Dấu tích các loại cây quả, rau đậu tìm thấy khá phổ biến trong nhiều địa điểm khảo cổ
học từ Phùng Nguyên đến Đông Sơn, Hạt na, mơ, trám, hạt đậu tìm thấy ở di
57
chỉ Đồng Đậu, hạt nhãn ở Đƣờng Mây, hạt và ở Cửa Đình. Hạt đậu còn tìm thấy ở Hoàng
Ngô, hạt trám ở Tiên Hội, Đình Chàng, Đƣờng Mây. Vỏ quả bầu khá thƣờng gập trong các
mộ quan tài hình thuyền Đông Sơn nhƣ Phƣợng Tú, Cửa Đình, Kim Đƣờng. Dấu tích quả cau
cũng gặp đôi khi trong mộ quan tài hình thuyền (Chử Văn Tần 1994).
Trong các thƣ tịch cổ, ngoài những cây quả nhƣ đã thấy trong các địa điểm khảo cổ
nêu trên, danh mục các loại rau quả ở Giao Chỉ. Cửu Chân còn kéo dài gấp nhiều lần. Trong
các loại sách "Dị vật chí" như Di vật chí của Dƣơng Phù thời Đông Hán (còn gọi là Giao
Châu dị vật chí hay Nam duệ chí), Nam châu dị vật chí của Vạn Chấn, nƣớc Ngô thời Tam
Quốc (còn nói là Nam phương dị vật chí), Lâm hải dị vật chí của Thẩm Oánh, nƣớc Ngô thời
Tam Quốc... đặc biệt là trong các loại sách "Nam phương thảo vật trạng" nhƣ Nam Phương
thảo vật trạng của Từ Trung, Nam phương thảo mộc trạng của Kê Hàm thời Tây Tấn
(khoảng thế kỷ 3)... hoặc loại sách "Địa chí" nhƣ Giao Châu ký của Lƣu Hân Kỳ thời
ĐôngTấn. Nam Việt chí của Thẩm Hoài Viễn thời Tống, Nam Trung bát quận chí của Nguy
Hàn thời Tây Tấn... có chép tên hàng trăm loại cây cỏ mọc tự nhiên hay đƣợc trồng ở vùng
đất thuộc địa bàn cƣ trú Về yếu của ngƣời Việt cổ. Ngoài lúa ta còn gặp các loại cây cho chất
bột nhƣ cam chƣ (có thể là khoai lang hoặc một loại củ mài), củ từ, quang lang, búng báng...,
các loại cây ăn quả đặc biệt phong phú và đƣợc nhắc đến nhiều nhu quýt (quất), cam, nhãn,
chuối, bƣởi, dừa, đào, mơ, vải, lựu, khế, trám, chanh, sấu.... các loại rau đậu và cây gia vị nhƣ
rau muống, rau cải, cà, hồ tiêu, tỏi, riềng, đậu núi, quế, trầm hƣơng, trầu không, lá lốt, thảo
quả..., các loại cây nguyên liệu nhƣ mía, bông, rất nhiều loại tre, trúc, nứa, xoan, cọ. sa mu,
sơn, dâu tằm... (dẫn theo Hà Văn Tấn 1994)
Qua hệ thực vật nêu trên, chúng ta cũng có thể hình dung đƣợc phần nào sự đa dạng
trong cơ cấu cây trồng, phƣơng thức tạp canh, xen canh, làm ruộng đi đôi với làm vƣờn,
trồng trọt kết hợp với việc thu lƣợm. khai thác rau quả tự nhiên. Lối canh tác này đƣợc duy trì
và ngày càng phát triển trong suốt chiều dài lịch sử nông nghiệp -nông thôn - nông dân dân
tộc Việt cho tới tận thời kỳ cận - hiện đại.
Bộ mặt ngành chăn nuôi trong nền nông nghiệp dân tộc Việt từ cổ chí kim, cũng
mang sắc thái "phồn tạp" nhƣ vậy. Điều kiện tự nhiên nơi đây không tạo ra đƣợc những tiền
đề thuận lợi cho chăn nuôi lớn theo kiểu bầy đàn chăn thả, ngƣợc lại, nó cho phép đƣa vào
chăn nuôi lẻ nhiều giống loài động vật khác nhau nhƣ trâu, bò, lợn, gà, chó, voi... (Vũ Thế
Long 1994). Theo các dấu tích khảo cổ học, trâu thuộc số con vật đƣợc chăn nuôi sớm nhất ở
nƣớc ta và có nhiều khả năng có nguồn gốc bản địa. Xƣơng răng trâu tìm thấy trong nhiều di
chỉ khảo cổ thuộc các thời đại tù đá mới đến đồng thau, sắt sớm. Dấu tích của bò tìm thấy ở
di chỉ Đa Bút thuộc sơ kỳ đa mới có thể đã là bò
58
nhà. Vào thời kỳ muộn hơn, xƣơng bò đƣợc tìm thấy trong mộ Quỳ Chủ, tƣợng bò tả thực
bằng đất nung tìm thấy trong di chỉ Đồng Đậu, Cồn Chân Tiên. Đến thời Đông Sơn, bò trở
thành một trong những mô típ hoa văn trang trí trên trống đồng. Lợn, gà, chó là những gia súc
gần gũi và đƣợc nuôi phổ biến nhất trong mọi gia đình ngƣời Việt ở nông thôn ngay từ thời
cổ. Di cốt của những con vật này đƣợc tìm thấy phổ biến trong nhiều địa điểm khảo cổ học
thời đá mới - đồng thau - sơ sắt: Hoa Lộc, Tràng Kênh, Đồng Đậu, Lũng Hòa, Quỳ Chừ...
Xƣơng voi cũng đƣợc tìm thấy ở Gò Chiền Vậy, Đông Sơn. Trên một số đồ đồng Đông Sơn
có hình tƣợng voi chở hàng - loại voi đƣợc nuôi dƣỡng, thuần hóa. Một số sách sử cổ nhƣ
Thủy kinh chú, có những đoạn nói đến việc nuôi và sử dụng bò, voi... ở Giao Chỉ, Cửu Chân.
Nhƣ vậy, qua các tài liệu khảo cổ học, cổ sử, cổ thực vật - động vật, cổ sinh thái...
diện mạo nền nông nghiệp của ngƣời Việt cổ hiện lên khá rõ trên những nét tổng thể. Đây là
một nền nông nghiệp nghiêng hẳn về phía trồng trọt, chăn nuôi đóng vai trò phụ trợ. Trong
trồng trọt, cây lúa, trƣớc hết và chủ yếu là lúa nƣớc ngày từ buổi đầu đã đƣợc chọn làm cây
trồng chính, nhƣng không phải là cây trồng duy nhất. Da canh và thâm canh là những biện
pháp kỹ thuật sản xuất truyền thống của nền nông nghiệp này. Vai trò quyết định của điều
kiện tự nhiên - môi sinh đối với sự hình thành một nền nông nghiệp nhƣ vậy là rõ ràng. Điều
cần nói ở đây chính là cách thức ửng xử hợp lý của ngƣời Việt cổ. Chính họ đã đặt những
viên gạch đầu tiên cho lịch sử nông nghiệp tồn tại hàng nghìn năm của dân tộc Việt Nam. Nét
đặc trƣng của nền nông nghiệp này cũng nhƣ của ngƣời sáng tạo ra nó, nhƣ có nhà nghiên
cứu nhận đinh, là sự "thích nghi tối ƣu với các điều kiện tự nhiên" (Trần Quốc Vƣợng 1994).
có lẽ cũng có thể nói, về một phƣơng diện nào đó, đây là một khía cạnh tinh thần của kỹ thuật
- ý thức kỹ thuật. Chinh ý thức kỹ thuật này chỉ đạo những hoạt động kỹ thuật cụ thể của họ.
Để làm rõ cái "bản sắc ứng biến của nông dân - nông nghiệp Việt Nam" (Trần Quốc
Vƣợng 1994) ngay từ buổi đầu dựng nƣớc nhƣ thế và cũng tức là làm rõ văn minh kỹ thuật
nông nghiệp thời đó, chúng ta cần phải tìm hiểu cụ thể các phƣơng thức canh tác, hệ thống
nông cụ đƣợc sử dụng và các biện pháp kỹ thuật cụ thể.
Qua một vài thƣ tịch cổ, chúng ta có thể biết đến một vài phƣơng thức canh tác đã tồn
tại trong các tộc ngƣời vùng phía Nam Dƣơng Tử, trong đó có dân tộc Việt vào những thế kỷ
trƣớc sau Công nguyên, tức là vào thời kỳ tồn tại văn hóa Đông Sơn. Theo Hậu Hán thư,
Đông quan Hán ký, cho đến khỏang đầu Công nguyên, Cửu Chân vẫn canh tác theo lối "đao
canh, thủy nậu" "đao canh hỏa chủng" "hỏa canh thủy nậu" đốt cỏ mà trồng trọt ở ruộng,
không biết cày bằng trâu bò". Sách Lĩnh Nam chích quái cũng chép "Cửu Chân cỏ tục đốt cỏ
mà trồng trọt ở ruộng". Còn sách Sử ký thì chép rằng "miền Sở, miền Việt đất rộng, ngƣời
thƣa, trồng lúa. đánh cá mà ăn, dùng lối hỏa canh
59
thủy nậu"... Có những cách giải nghĩa khác nhau đối với các đoạn chép này. Có ý kiến cho rằng "dao canh" "hỏa canh" là nói về lối làm ruộng nƣơng (ruộng khô) còn "thủy nậu" là lối làm ruộng nƣớc (Nguyễn Duy Hinh 1973). Có ý kiến cho rằng đó là những lối canh tác theo kiểu trồng lúa khô là chính : chặt phát cây cỏ để khô rồi đốt ở những nƣơng rẫy, các bãi đất cao (Ngô Đức Thịnh 1994). "Thủy nậu" đƣợc dành cho loại chân ruộng thấp hơn, có mùa bị ngập nƣớc. Trƣớc khi ruộng bị ngập nƣớc thì tiến hành phát cây, cỏ rồi đốt. Đến mùa nƣớc, cây cỏ đó đƣợc ngâm thêm cho mục ra, rồi có thể dùng súc vật hay ngƣời dẫm cho ngầu trƣớc khi gieo mạ hay cấy lúa. Kiểu làm đất này đƣợc biết đến khá cụ thể qua tài liệu dân tộc học. Chắc chắn những phƣơng thức canh tác nhƣ trên đã xuất hiện sớm và rất phổ biến ở thời dựng nƣớc của ngƣời Việt, đặc biệt là vào các giai đoạn đầu. Đến giai đoạn muộn, khi ngƣời Việt cổ mở rộng địa bàn cƣ trú, dần dần di dân xuống vùng đồng bằng thấp ven các cửa sông, ven biển, xuất hiện thêm những lối canh tác mới trên những thừa ruộng nƣớc thực sự. Dù là lối canh tác trên loại ruộng Lạc nhƣ đƣợc nhắc đến trong sách Giao Châu ngoại vực ký. Quảng Châu ký là "ruộng ấy (ruộng Lạc) theo thủy triều lên xuống mà làm". Nhiều ngƣời giải thích đây là cách lợi dụng thủy triều lên xuống để dẫn nƣớc ngọt từ các con sông vào ruộng. Khi triều lên, mức nƣớc vùng cửa sông cũng đƣợc nâng cao, bằng hệ thống kênh mƣơng dẫn nƣớc, ngƣời ta có thể dễ dàng đƣa nƣớc vào các cánh đồng ven sông. Lối dẫn thuỷ nhập điền này, ngày nay vẫn còn đƣợc sử dụng ở những cùng duyên hải nƣớc ta.
Theo các chuyên gia nông - sinh học, lúa là giống ƣa nƣớc. Nhƣ vậy, việc phổ biến loại ruộng nƣơng, rẫy trồng lúa khô nhƣ cách hiểu thu tịch của các nhà nghiên cứu nêu trên chƣa hẳn là biểu hiện của sự lạc hậu về kỹ thuật, mà có thể chỉ nói lên một xu hƣớng thích nghi vói những điều kiện đất đai mới. Có ý kiến đánh ngang đồng thời gian và quá trình tiến triển của hai hƣớng diễn tiến cây lúa từ cùng một xuất phát điểm là vũng thung lũng - một hƣớng tiến lên vùng cao thành lúa nƣơng, hƣớng kia -xuống vùng đồng bằng thành lúa nƣớc trồng đại trà (Nguyễn Việt 1980). Chúng ta còn chƣa thật rõ các bƣớc cụ thể của cả hai hƣớng diễn tiến đó, nhƣng đã rõ là đến thời đại của những ngƣời Phùng Nguyên - Đông Sơn thì cả nghề trồng lúa khô nƣơng rẫy, cả nghề trồng lúa nƣớc đại trà ở đồng bằng đã rất quen thuộc với họ rồi.
Thực tế cho thấy, đối với mỗi loại đồng đất khác nhau, con ngƣời phải sử dụng những bộ nông cụ và có những biện pháp kỹ thuật thích ứng. Với loại ruộng khô, sau khi đã chặt phát cây củ rồi đốt, ngƣời ta thƣờng sử dụng phƣơng pháp dùng gậy chọc lỗ để tra hạt hoặc dùng cuốc xới tơi đất rồi tra hạt. Đây là những cách trừng đơn giản nhất. Cũng không loại trừ khả năng dùng cày làm tơi đất ở những chân ruộng bãi phù sa bồi tụ với thành phần cơ giới nhẹ, sau đó vãi hạt giống theo kiểu gieo sạ. Trong Vân đài loại ngữ của Lê Quý Đôn có đoạn nói về cách gieo sạ này. Với loại ruộng nƣớc, phƣơng thức canh tác phổ biến nhất là làm cho đất ngấu nhuyễn bằng
60
nhiều cách khác nhau - đơn giản nhất là cho ngƣời hoặc trâu dẫm, hoặc dùng cuốc lật gốc cỏ vùi xuống bùn, tiến bộ nhất là dùng cày làm tơi đất rồi dùng bừa làm cho nhuyễn đất. Sau đó trồng lúa bằng phƣơng pháp cấy. Những cách thức canh tác này còn tồn tại ở khắp nơi, cả vùng núi lẫn vùng đồng bằng, cho đến tận ngày nay, kể cả lối dùng ngƣời hoặc trâu dẫm dành cho những loại ruộng lầy thụt, chua mặn nhiều. Chắc hẳn ở thời Đông Sơn, ngƣời Việt mới xuống khai thác đồng bằng trũng còn ngập mặn (những vùng trũng ở Hà Tây, Nam Hà, Hải Phòng... ngày nay) thì phƣơng thức làm đất kiểu này phải rất phổ biến.
Cho đến nay, chúng ta hầu nhƣ chƣa có tài liệu trực tiếp nào để tìm hiểu các biện
pháp chăm bón cây trồng, trƣớc hết là cây lúa, của ngƣời Việt cổ. Họ có bón phân làm cỏ cho
lúa hay không? Họ đã dùng những biện pháp diệt cỏ nào, đã bón những loại phân gì? Đó còn
là những câu hỏi chƣa có lời giải đáp. Nhƣng có lẽ cũng có thể nói đƣợc rằng, việc làm cỏ
phải là biện pháp chăm sóc cây trồng đƣợc ngƣời Việt đặc biệt chú trọng. Câu nói "Công cấy
là công bỏ, công làm cỏ là công ăn" không biết đã xuất hiện và phổ biến từ bao giờ, đã nói
lên rất rõ ý nghĩa của việc trừ cỏ đối với năng suất lúa trồng ở nƣớc ta theo kinh nghiệm dân
gian. Ở những chân ruộng khô ngƣời ta có thể làm cỏ bằng tay, bằng cuốc. Ở ruộng nƣớc,
ngoài làm cỏ bằng tay, có thể ngƣời ta dùng cào cỏ có răng bằng tre gỗ, chế tạo đơn giản.
Một trong những biện pháp diệt cỏ tích cực cho chân ruộng khô chỉ trồng lúa một vụ mùa của
ngƣời nông dân Việt sau này là trồng xen những loại cây mầu hay rau đậu. Biện pháp này
không chỉ làm đất quay vòng nhiều hơn (thâm canh), làm cỏ dại không có thời gian phát triển
còn có tác dụng che giữ độ ẩm, chống xói mòn cho đất. Ở trên chúng tôi đã nói tới tính đa
dạng của các loại cây trồng của ngƣời Việt cổ. Nhƣ vậy, nhiều khả năng họ cũng đã biết tới
biện pháp trồng xen diệt cỏ giữ đất này.
Còn về phân bón, phải chăng ở vào những giai đoạn đầu văn minh nông nghiệp Việt
cổ, chƣa phải là yếu tố quan trọng bậc nhất để cây trồng phát triển mạnh? Bởi vì lúc đó
những cánh đồng ven sông hàng năm, đều phủ lớp phù sa màu mỡ. Theo tính toán của các
nhà chuyên môn, hàng năm sông Hồng tải một lƣợng phù sa tối thiếu là trên 50 triệu tấn, tối
đa là trên 100 triệu, đôi khi lên tới trên 200 triệu (Nguyễn Viết Phổ 1983). Đây là nguồn cung
cấp chất màu vô tận cho cây trồng. Đa số làng xóm lớn của ngƣời Việt cổ từ thời Phùng
Nguyên đến Đông Sơn đều phân bố dọc bờ những con sông lớn thuộc hệ thống sông Hồng,
sông Mã, sông Cả. Việc chọn nơi định cƣ nhƣ vậy rõ ràng không phải chỉ vì cần sống gần
sông nƣớc mà còn vì điều kiện đất đai màu mỡ thuận lợi cho canh tác nông nghiệp, cây trồng
có thể phát triển tốt, cho năng suất khá dù chƣa đƣợc bón phân một cách đều đặn có chủ đích.
Cũng không loại trừ khả năng ngƣời Việt cổ đã biết đến kỹ thuật bón phân cho đồng ruộng.
Ngay phƣơng thức canh
61
tác thô sơ "đao canh hỏa chủng", "đao canh thủy nậu"... cũng đã tạo ra nguồn phân bón cho
đất bằng than tro cây cỏ bị đốt, hay những thân cây cỏ bị mục thối sau một thời gian bị ngâm
trong bùn đất. Đây rõ ràng là những gợi ý đầu tiên cho kỹ thuật dùng phân bón có chủ đích.
Và nhƣ vậy thì chắc hằn phân xanh phân rác thực vật phải là loại phân đầu tiên đƣợc ngƣời
nông dân sử dụng một cách có ý thức. Dần dần với sự gia tăng của chăn nuôi, lúc đầu là lợn,
sau là trâu bò, rơm rác cây cỏ kết hợp với phân gia súc trở thành loại phân chuồng rất thích
dụng đối với những ngƣời nông dân Việt Nam xƣa nay.
Công cụ sản xuất là yếu tố quan trọng bậc nhất của sản xuất, phản ánh khách quan
tính chất và trình độ sản xuất. Nó cũng là yếu tố động, sự cải tiến kỹ thuật thƣờng bắt đầu
trƣớc hết ở cải tiến công cụ. Có thể nói rằng, bộ nông cụ Phùng Nguyên - Đông Sơn là tài
liệu trực tiếp cơ bản để chúng ta tìm hiểu kỹ thuật sản xuất nông nghiệp của ngƣời Việt cổ
thời dựng nƣớc. Căn cứ vào chức năng công cụ, có thể phân chia bộ nông cụ này thành các
nhóm ứng với các khâu cơ bản của quá trình sản xuất: phát hoang, làm đất, thu hoạch và cất
giữ sản phẩm nông nghiệp.
Thực tế cho thấy, rìu là loại công cụ phát hoang gần nhƣ là duy nhất tồn tại suốt từ
Phùng Nguyên đến Đông Sơn. Và ở giai đoạn nào nó cũng chiếm tỷ lệ cao nhất trong tổng số
các loại hình công cụ lao động. Ví nhƣ tại địa điểm Phùng Nguyên. tỷ lệ này là trên 80% địa
điểm Gò Mun, rìu đá chiếm trên 80%, rìu đồng chiếm trên 11% ; địa diêm Đông Sơn : rìu đá
chiếm trên 11%, rìu đồng chiếm gần 65%, rìu sắt chiếm trên 42% (Chử Văn Tân 1994).
Duong nhiên, rìu thuộc loại công cụ đa chức năng, không chỉ đƣợc dùng trong sản xuất nông
nghiệp. Nhƣng phải thừa nhận rằng, chức năng nông cụ của chúng là cơ bản, đặc biệt là ở
giai đoạn sớm, khi bộ nông cụ còn chƣa phát triển đa dạng và chuyển hóa. Đối với các
phƣơng thức canh tác "đao canh hỏa chủng", "đao canh thủy nâu", công cụ hàng đầu rõ ràng
phải là rìu. Dao đá, thậm chí cả dao đồng chắc không đảm nhiệm chức năng chặt phát cây cối
tốt bằng rìu. Trong các văn hóa Phùng Nguyên - Đông Sơn chƣa gặp loại dao đá hay đồng
nào khả dĩ có thể dùng để chặt cây, dù là cây nhỏ.
Rìu còn là công cụ căn bản để chế tác ra các loại nông cụ hoặc cán nông cụ bằng
tre,gỗ nhƣ cày, bừa, cuốc, xẻng...
Nghiên cứu sƣu tập rìu Phùng Nguyên - Đông Sơn, chúng ta có thể thấy sự phát triển
của chúng theo thời gian. Về mặt chất liệu. đó là xu thể giảm đi của rìu đá, tăng lên của rìu
đồng. Điều đáng chú ý là sự tăng, giảm này không diễn ra ra từ từ, đều đặn mà có sự đột biến
ở giai đoạn Đông Sơn. Xin đƣa ra bảng so sánh tỷ lệ rìu đá và đồng ở 4 địa điểm tiêu biểu
cho 4 giai đoạn phát triển liên tục từ Phùng Nguyên đến Đông Sơn (dựa vào số liệu của Chử
Văn Tần 1994).
62
Chất liệu
Đá Đồng Sắt
Địa điểm Tổng số rìu Số lƣợng % Số lƣợng % Số lƣợng %
Đông Sơn 187 3 1,60 181 97,80 1.60 3
Gù Mun Đồng Dậu 100 183 87 172 87,00 94,00 13 11 13,00 6,00 0 0
Phùng Nguyên 1138 1138 100,0 0 0 0
Rìu làm bằng sắt chỉ xuất hiện ở văn hóa Đông Sơn.
Về mặt loại hình, nếu loại trừ một số loại hình rìu đồng mang nặng chức năng rìu
chiến hay nghi trƣợng, thì dƣơng nhƣ sự biến cải của loại hình nông cụ phát hoang này không
đáng kể lắm, đặc biệt là các loại rìu đá. Có lẽ hình dáng, kỹ thuật chế tác rìu đá đã đạt đến độ
tối ƣu ngay từ giai đoạn Phùng Nguyên. Từ đó về sau ngƣời ta không thay đổi gì, mà chỉ có
phần gia tăng kích thƣớc và bớt đi sự trau chuốt cầu kỳ. Những chiếc rìu đồng mới ra đời gần
nhƣ là bản sao nguyên xi hình dáng rìu đá, chỉ khác ở chỗ có họng để tra cán. Dần dần, nhờ
ƣu thế về chất liệu và kỹ thuật chế tác hình dáng rìu đồng đƣợc cải tiến hơn (lƣỡi xòe rộng
hơn, tăng độ dài rìa tác dụng, mặt cắt ngang thân rìu không chỉ là hình chữ nhật nhƣ rìu đá
mà có thêm những dạng mới, trên thân có lỗ trổ chốt hãm thuận lợi cho việc tra cán...)
Trong nông nghiệp, khâu làm đất luôn là công đoạn tốn nhiều sức lực và cần dùng
nhiều đến nông cụ nhất. Bộ nông cụ đƣợc sử dụng trong công nghiệp làm đất ( xin lể vào đây
cả công việc đào đắp mƣơng phai kênh rãnh dẫn nƣớc tƣới) tìm thấy trong các văn hóa Phùng
Nguyên - Đông Sơn khá đa dạng, gồm cuốc, mai, thuổng, xẻng, cày.
Cuốc thuộc loại nông cụ có lịch sử phát triển lâu dài nhất. Có lẽ chƣa bao giờ ngƣời
nông dân Việt Nam lại thiếu cây cuốc trong tay. Theo các nhà nghiên cứu, công cụ đa có
chức năng cuốc đã xuất hiện từ các văn hóa Sơn Vi, Hòa Bình, Bắc Sơn. Đa Bút. Hình dáng cuốc thời này chƣa định hình và khó phân biệt với công cụ chặt đập, rìu... Phải bằng kết quả
phân tích các dấu vết lao động để lại trên lƣỡi, mới có thể tách chúng ra thành nhóm riêng
đƣợc. Tình trạng này còn gặp ở các giai đoạn văn hóa Tiền Đông Sơn. Lúc đầu, tất cả công
cụ đá hình tứ giác hay có vai ở Phùng Nguyên, Đồng Đậu, Gò Mun đều đƣợc xếp chung vào
nhóm rìu. Về sau, một số chiếc trong đó có kích thƣớc tƣơng đối lớn và có dấu vết sử dụng
kiểu cuốc mới đƣợc tách ra thành cuốc. Nhƣng quả thực sự phân định này cũng chƣa thật
rạch ròi. Những chiếc cuốc đá thực sự không gây nghi ngờ gì cho các nhà nghiên cứu, đƣợc
phát hiện trong tầng văn
63
hóa với số lƣợng lớn đầu tiên là sƣu tập cuốc Hoa Lộc - dạng văn hóa Tiền Đồng Sơn vùng
sông Mã. Sau đó là những phát hiện khác nhƣ nhóm cuốc đá Đoan Thƣợng (Vĩnh Phú), kho
cuốc đá Nam Hƣng (Nghệ An), Chòm Pheo (Thanh Hóa)... Theo tài liệu hiện biết, cuốc đá
đƣợc tìm thấy nhiều và tập trung hơn ở vùng đất miền Trung, địa bàn cƣ trú phía nam của
ngƣời Việt cổ. Cuốc đá ở đây thƣờng có kích thƣớc lớn, trọng lƣợng nặng (trung bình dài trên
dƣới 20cm, rộng lƣỡi gần 10 cm, dày khoảng lcm, nặng khoảng trên dƣới lkg). Còn ở phía
Bắc, trên lƣu vực sông Hồng, ngoài Đoan Thƣợng đƣợc coi là di chỉ - xƣởng chế tác cuốc đá
phiến thạch, cuốc đá chỉ đƣợc phát hiện lẻ tẻ từng chiếc nhƣ ở Mả Đồng, Tràng Hƣơng, Eo
Bùa... Đa sổ cuốc Đoan Thƣợng kích thƣớc nhỏ (dài trên dƣới 10cm, rộng khỏang 5cm, nặng
không tới 500g).
Nhìn chung cuốc đã đƣợc mài nhắn toàn thân, chế tác khá cẩn thận. Về hình dáng,
cũng nhƣ rìu, chúng gồm 2 loại là cuốc hình tứ giác và cuốc có vai có chuôi tra cán. Qua sự
phân bố các loại cuốc, có thể thấy rõ là cuốc đá thích hợp với loại đất pha nhiều cát, thành
phân cơ giới nhẹ của vùng đồng bằng ven biển. Với loại ruộng đất thịt nặng, độ ẩm cao hay
loại ruộng nƣớc hoặc ruộng lầy thụt phổ biến ủ vùng đồng bằng châu thổ sông Hồng thì cuốc
đá kém hiệu quả. Tại đây, đặc biệt là đối với loại ruộng lầy thụt, loại cuốc gỗ thô sơ, lƣỡi dài
lại đắc dụng hơn hẳn. Các nhà khảo cổ học đã tìm thấy một số chiếc cuốc nhƣ thế trong mộ
quan tài hình thuyền ở vùng đất trũng Hà Tây, Nam Hà thuộc giai đoạn Đông Sơn muộn. Ở
các giai đoạn sớm hơn chúng ta chƣa tìm đƣợc bằng chứng trực tiếp nhƣ thế, nhƣng có thể
đoán định rằng chúng đã từng có mặt phổ biến hơn. Có một thực tế là trong suốt các giai
đoạn văn hóa Tiền Đông Sơn, ở lƣu vực sông Hồng, rìu đá luôn là công cụ chiếm vị trí hàng
đầu. Dù bằng phƣơng pháp nghiên cứu dấu vết lao động và căn cứ vào kích thƣớc, có thể
nhặt ra đƣợc một số cuốc đá trong đám rìu đá nhƣng cũng chỉ với số lƣợng nhỏ thôi. Chúng
ta lại cũng thấy khá rõ ràng, cuốc và các nông cụ làm đất khác bằng kim loại chỉ xuất hiện
chắc chắn ở thời Đông Sơn. Vậy thì ngƣời Tiền Đông Sơn khu vực này dùng loại nông cụ
làm đất nào, nếu không phải là các loại cuốc, mai, xẻng... và muộn hơn là cây làm bằng gỗ.
Rìu đá lúc này đƣợc ngƣời ta sử dụng trƣớc hết để chế tác các công cụ trực tiếp canh tác bằng
tre gỗ. Chức năng trọng yếu này của rìu đá góp phần giải thích ý nghĩa của sự có mặt rất
nhiều kiểu loại, kích cỡ rìu đá, đặc biệt là các loại rìu cỡ nhỏ, không thể dùng để chặt phá,
phát cây cối đƣợc, nhƣng lại rất phổ biến trong các di chỉ Phùng Nguyên - Đồng Đậu - Gò
Mun. Bằng thực nghiệm, các nhà nghiên cứu đã chứng minh đƣợc rằng các loại rìu đá to nhỏ
khác nhau đều có thể đƣợc sử dụng rất hiệu quả vào các công đoạn khác nhau của quá trình
chế tác các loại nông cụ tre, gỗ (Phạm Lý Hƣơng 1994 a).
Lƣỡi cuốc bằng đồng và bằng sắt mới tìm thấy trong văn hóa Đông Sơn. Cuốc đồng
thƣờng có kích thƣớc nhỏ, dáng ngắn, lƣỡi rộng. Đã biết đến 4 loại hình cuốc
64
khác nhau. Có số lƣợng nhiều hơn cả là loại cuốc có vai đơn hoặc kép gần giống những chiếc
rìu có vai. Họng tra cán tiết diện chữ nhật. Chuôi cuốc tƣơng đối dài so với thân, rìa lƣỡi ít
xoè. Loại cuốc có lỗ tra cán hình bầu dục dọc, thân lƣỡi xoè rộng mới tìm thấy một tiêu bản
duy nhất ở Lào Cai (Ngô Đức Thịnh, Ngô Sĩ Hồng 1988). Tƣơng tự nhƣ vậy là loại cuốc thứ
3 đƣợc gọi là cuốc bƣớm tìm thấy ở Núi Nhón (Nghệ An), chuôi tra cán ngắn, thân phình
rộng, lƣỡi rộng hơn chiều cao thân cuốc (15/12 cm). Loại cuốc thứ 4 có phần thân lƣỡi hình
chữ U, rất giống phần lƣỡi sắt của những chiếc mai hiện đại. Rìa lƣỡi cuốc cong vòng và xoè
rộng. Những chiếc cuốc sắt Đông Sơn đã biết đều thuộc lại hình này.
Theo tài liệu đã biết cho đến nay, đại đa số cuốc kim khí kể trên tìm thấy ở lƣu vực
sông Hồng. Hơn thế, mật độ phân bố của các loại cuốc không giống nhau. Loại cuốc chữ U
tập trung chủ yếu ở vùng đồng bằng trũng. Loại cuốc có vai thƣờng có phạm vi phân bố rộng
hơn gập ở cả vùng đồng bằng trũng, cả ở vùng đồng bằng cao. Hai loại cuốc còn lại số lƣợng
quá ít, chƣa thể rút ra đƣợc nhận xét xác đáng. Dù sao. nhìn chung cũng thấy đƣợc rằng,
ngƣời Đông Sơn có sự chọn lựa rõ rệt đối với các loại cuốc sao cho thích hợp nhất với đồng
đất từng vùng.
Thuộc nhóm nông cụ làm đất còn có các loại mai, xẻng, thuổng, Những nông cụ này
có những chức năng khác nhau và khác với cuốc. Ngày nay chúng ta dễ dàng phân loại chúng
vì chúng đƣợc chế tạo theo những hình dáng rất khác nhau, nhƣng ở vào thời kỳ xa xƣa ấy,
các loại nông cụ này chƣa có đƣợc sự phân hóa rạch ròi nhƣ vậy. Nhiều khi chúng chỉ khác
nhau nhờ cách tra cán. Vì vậy khi mất cán rồi (mà đây là trƣờng hợp phổ biến tuyệt đối) thì
thật khó mà phân loại chúng cho thật chính xác. Tiêu chuẩn phân định chủ yếu vẫn là theo
hình dáng, trong đó đặc biệt chú ý vào một vài chi tiết kỹ thuật, và phần nào theo kích thƣớc.
Mai đƣợc phân biệt với cuốc ở chỗ thƣờng có bề mặt phẳng, 2 mặt vát dần, chiều dài
lƣỡi thƣờng lớn gấp 2, 3 lần bề rộng. Theo tiêu chuẩn phân định này thì số lƣợng mai đá tìm
thấy trong các di tích Phùng Nguyên - Đông Sơn không nhiều. Chúng thƣờng to và nặng với
chiều dài 20-30cm, rộng lƣỡi khoảng trên dƣới 7cm, dày khoảng 2, 3cm, nặng từ l đến 3 kg.
Hiện chúng ta còn chƣa có tài liệu về mai đồng hay sắt, nhƣng có nhiều khả năng một sự lƣỡi
cuốc chữ U đƣợc lắp cán, thẳng để sử dụng nhƣ mai. Kiểu mai này ngày nay còn đƣợc dùng
rộng rãi. Mai là công cụ đào, sắn đất rất cần thiết trong công việc đào mƣơng máng dẫn nƣớc
vào ruộng hay đắp bờ vùng, bờ thửa, Đây là những việc làm tối cần thiết đối với loại nông
nghiệp trồng lúa nƣớc. Đƣơng nhiên nó đã đƣợc những nhà nông Phùng Nguyên - Đông Sơn
đặc biệt quan tâm. Có thể ngƣời ta sử dụng những loại công cụ đào xúc đất khác và cũng rất
có thể, họ đã dùng mai chế tạo hoàn toàn bằng gỗ cứng để làm. Các thực nghiệm cho thấy
mai gỗ thực
65
hiện chức năng sắn đất mềm rất hiệu quả.
Thuổng là loại công cụ dùng để đào đất, thƣờng đào chỗ đất rắn hoặc đào những lỗ
sâu, nhỏ. Với cách hiểu này, thì thuổng phải ra đời rất sớm, từ thời kỳ kinh tế hái lƣợm. Thực
tế khảo cổ học nƣớc ta cho thấy việc phân biệt thuổng với rìu, cuốc mai không dễ, nhất là đối
với loại thuổng đá. Các nhà nghiên cứu cho rằng có thể nhặt ra trong đám rìu đá một số chiếc
đƣợc dùng với chức năng thuổng nếu chúng đƣợc tra cán thẳng.
Thuổng đúc từ đồng thau có phần dễ phân biệt hơn với rìu, xẻng đồng ở một số chi
tiết kỹ thuật. Ở giai đoạn Tiền Đông Sơn mới tìm thấy vài chiếc, thân thuổng hình chữ nhật.
chiều dài lớn gấp hơn 2 lần bề rộng, một mặt thân hơi lõm (đây là chi tiết không thích hợp
với rìu). Đến giai đoạn Đông Sơn thuổng tăng đáng kể về số lƣợng cũng nhƣ loại hình. Theo
hình dáng ít ra cũng có thể phân chia thành 4 kiểu khác nhau, phổ biến nhất là loại thuổng
mang tên thuổng Gò De. Thuổng có dáng chắc khỏe, có 2 vai hẹp và xuôi, chuôi dài có họng
tra cán hình gần bầu dục, thân thon dần từ vai xuống rìa lƣỡi, rộng lƣỡi hẹp hơn rộng ngang
vai. Đây là đặc điểm kỹ thuật phù hợp với chức năng đào hố của thuổng, làm chúng phân biệt
với lƣỡi rìu hay cuốc là những công cụ cần phần rìa lƣỡi rộng. Loại thuổng Gò De tập trung ở
vùng trung du Bắc bộ. Loại thuổng Làng Vạc đứng vị trí thứ 2 về số lƣợng. Chúng đƣợc tìm
thấy chủ yếu ở địa điểm Làng Vạc. Thuổng có 2 vai rất xuôi. thân rộng nhất ở ngang vai, rồi
thót mạnh về phía rìa lƣỡi, phần họng tra cán dài hơn thân.
Thuổng sắt mới tìm đƣợc 1 chiếc ở Đồng Mỏm (Nghệ An), hình dáng giống nhƣ
thuổng hiện đại.
Kích thƣớc các loại thuổng xê dịch trong khoảng dài 12-l5cm, rộng thân, chỗ ngang
vai 6-8cm, họng ăn sâu xuống quá 2/3 chiều dài thuổng. Hình dáng và kích thƣớc nhƣ vậy
của thuổng rất thích hợp với công việc đào đất cứng.
Xẻng cũng đƣợc coi là một công cụ dùng trong các công việc làm đất. Có lẽ ít có khả
năng tìm đƣợc những chiếc xẻng đá. Ngay xẻng đồng ở giai đoạn Đông Sơn cũng chƣa hẳn
rõ ràng. Các nhà nghiên cứu cho rằng, có một số chiếc lƣỡi cày Cổ Loa có thể gọi là xẻng vì
phần rìa lƣỡi không tạo thành mũi nhọn nhƣ cày mà lại cong vòng hình cung rộng, hợp với
chức năng xúc, sắn đất của xẻng. Số công cụ này không nhiều. Trong hơn 100 lƣỡi cày tìm
đƣợc ở địa điểm Mả Tre, chỉ tách ra đƣợc 4 chiếc có hình dáng nhƣ thế, kích thƣớc trung bình
của chúng là dài khoảng trên dƣới 12cm, rộng nhất ở ngang vai khoảng 11cm, dày khoảng
0.3cm. Họng tra cán của xẻng ăn sâu đến gần rìa lƣỡi. Còn có thể xếp vào loại công cụ làm
đất, những chiếc vên đồng Làng Vạc. Trên 50 chiếc vên đã tìm thấy ở đây, tạo nên một nét
đặc trƣng văn hóa cho loại hình
66
Đông Sơn lƣu vực sông Cả. Dựa vào cách sử dụng những chiếc vên sắt của cƣ dân hiện đại
tại vùng này, có thể cho rằng những chiếc vên đồng Đông Sơn cũng có những công dụng
tƣơng tự : vừa dùng để đào, để cuốc, vừa để xới đất. Vên có hình dáng giống những chiếc
xẻng nhỏ (dài trung bình 9cm, rộng 6cm) có họng tra cán ăn sâu tới khoảng 1/2 chiều dài toàn
thân vên, hai vai xuôi.
Công cụ làm đất quan trọng nhất, tiến bộ nhất của kinh tế nông nghiệp tiểu nông là
chiếc cày tay. Theo tài liệu hiện có, ngƣời Việt cổ đã dùng cày trong canh tác nông nghiệp,
muộn nhất cũng là vào thời Đông Sơn phát triển.
Các nhà khảo cổ học đã dựa trƣớc hết vào sự có mặt của gần 200 lƣỡi cày đồng tìm
thay trong các di tích Đông Sơn để khẳng định rằng cày không xa lạ gì với những nhà nông
Đông Sơn. Cũng có ý kiến nghi ngờ chức năng cày của những công cụ này,nhƣng bằng
những phƣơng pháp tiếp cận khác nhau, các nhà nghiên cứu đã chứng minh có sức thuyết
phục chức năng cày của chúng.
Căn cứ vào hình dáng, gần 200 lƣỡi cày đƣợc phân thành 4 loại khác nhau và đƣợc
đặt tên theo chính hình dáng, đồng thời cũng đặt tên theo địa danh nơi phát hiện đƣợc những
tiêu bản điển hình. Đó là loại cây hình tam giác (hay Vạn Thắng), cày hình tim (hay Cổ Loa),
cày cánh bƣớm (hay Đông Sơn), cày vai ngang (hay Đồng Môm). Đặc điểm chung của các
loại lƣỡi cày là chúng đều có họng nằm giữa thân, ăn sâu xuống đến mũi, có trổ chốt hãm.
Mũi cày thƣờng nhọn - đặc điểm kỹ thuật quan trọng, để phân biệt với cuốc, nó làm cho cày
thực hiện tốt chức năng rạch đất theo chuyển động lực theo chiều ngang. Thân lƣỡi cày nở
rộng ở khoảng 1/2 hay 2/3 chiều dài thân, sau đó đột ngột thu hẹp lại, có tác dụng làm cho đất
sau khi bị phanh rộng dễ đổ ra ngoài, không đọng lại trên lƣỡi gây sức cản lớn khi cày. Hình
dáng các lƣỡi cày cũng không thích hợp với công việc của xẻng, vì tuy có mũi nhọn dẽ cắm
sâu vào đất nhƣng phần thân lại hẹp không liên cho việc xúc đất (Nguyễn Duy Hinh 1973).
Số đo trung bình của các loại cày trên nhƣ sau:
Loại hình Dài (cm) Rộng (cm) Dày (cm) Nặng (gram) Góc lƣỡi (trong khoảng)
18,00 12.00 Vạn Thắng
20,94 16.41 2,60 561,75 Cổ Loa
9,32 10.25 2,43 140,00 Đông Sơn
5.50 10.45 760 -1660 620- 1230 Đông Môm
67
Vết mòn do lao động để lại trên các lƣỡi cày cũng bƣớc đầu đƣợc chú ý. Trong số 99
lƣỡi cày đƣợc phân tích thì chỉ có 48 lƣỡi thấy rõ vết mòn, trong đó 19 chiếc mòn trái, 19
chiếc mòn phải, 10 chiếc mòn đều hai bên (Chử Văn Tân 1985,1994). Qua đây có thể suy
đoán rằng các lƣỡi cày đƣợc sử dụng tƣơng đối linh hoạt. Tùy thuôc vào thao tác của ngƣời
cày mà cày bị mòn trái hay mòn phải nhiều hơn hoặc mòn đều 2 bên. Cấu tạo cân đối của
lƣỡi cày tạo điều kiện cho thợ cày có thể ứng xử tùy thuộc vào thói quen lao động của mình.
Thực tế này đƣợc chứng minh cụ thể bằng thực nghiệm cày bằng chính kiểu lƣỡi cày Cổ Loa
(Hoàng Văn Khoán 1982)
Theo phân tích của các nhà nghiên cứu, sự khác nhau về hình dáng và qui mô lƣỡi cày
là do điều kiện đất đai và yêu cầu kỹ thuật canh tác từng vùng quyết đinh là chính. Cày Vạn
Thắng và Cổ Loa sử dụng tốt trên những đồng đất có thành phần cơ giới tƣơng đối nặng nhƣ
kiểu đất vùng đồng bằng cao, và đáp ứng đƣợc yêu cầu thâm canh cần cày sâu. Hai loại cày
này đều có dáng thon dài, mũi nhọn, cánh mở rộng vừa phải, họng không nhô cao khỏi vai,
quy mô cày tƣơng đối lớn (dài trên dƣới 20cm). Loại cày này có thể bắt nguồn từ xẻng, mài
và phát triển theo dòng cày thân đế (cày cán). Cày Đông Sơn và Đông Mỏm có quy mô nhỏ
(dài không quá 10cm), rộng ngang (chiều rộng lƣỡi bằng hoặc gần gấp đôi chiêu dài), họng
nhô cao khỏi vai, 2 cánh xoè rộng. Loại cày này dùng tốt trên những đồng đất có thành phần
cơ giới nhẹ pha nhiều cát, đáp ứng đƣợc yêu cầu xới đất ở độ sâu vừa phải. Chúng có thẻ bắt
nguồn từ loại cuốc có vai và phát triển theo dòng cày đế. Nhìn từ góc độ tiến bộ kỹ thuật thì
loại cày Cổ Loa và Vạn Thắng ở vào trình độ phát triển hơn hai loại cày sau (Chử Văn Tân
1994).
Nhƣ vậy, các công trình nghiên cứu đã khẳng định sự có mặt của lƣỡi cày trong văn
hóa Đông Sơn, nhƣng có phải ngƣời Việt cổ chỉ mới biết dùng cày vào giai đoạn phát triển
cuối cùng của thời dựng nƣớc hay không. Điều này là đúng nếu chỉ căn cứ vào niên điểm
xuất hiện các lƣỡi cày kim loại kể trên và phần nào căn cứ vào vài đoạn văn chép trong thu
tịch Hán cổ. Đa số lƣỡi cày phát hiện đƣợc trong lớp Đông Sơn muộn. Nhƣng thực tế hẳn
không phải thế. Riêng sự phổ biến của lƣỡi cày đồng thau, cộng thêm tính da dạng về mặt
loại hình của chúng đã khiến chúng ta phải nghĩ rằng, kỹ thuật đúc cày, dùng cày của ngƣời
Đông Sơn muộn không còn ở giai đoạn ban đầu nữa. Hàng trăm lƣỡi cày đƣợc phát hiện tại
một địa điểm (Cổ Loa) chứng tỏ chúng đã đƣợc sản xuất hàng loạt, đã hình thành những
trung tâm đúc lƣỡi cày chuyên nghiệp. Lƣỡi cày đồng là sản phẩm độc đáo của ngƣời Đông
Sơn muộn, đồng thời đó cũng là kết quả của một quá trình phát minh và sử dụng cày - loại
nông cụ đã mang đến cho canh tác nông nghiệp bƣớc tiến có tính cách mạng, của những thế
hệ trƣớc. Ở đây chúng tôi muốn nói rằng, có nhiều khả năng trƣớc khi biết đúc và dùng cày
có lƣỡi kim loại. ngƣời Việt cổ Đông Sơn đã từng có thời gian dài dùng cày gỗ không có phần lƣỡi
68
kim loại.
Hiện tại chúng ta chƣa có bằng chứng trực tiếp nào để xác định thời điểm ra đời
những chiếc cày gỗ đầu tiên. Có thể những ngƣời Việt cổ Tiền Đông Sơn đã là tác giả của
phát minh quan trọng này. Nếu không thì cũng không thể đƣa thời điểm đó về phía sau giai
đoạn Đông Sơn phát triển. Cơ sở của sự phát triển rực rỡ của giai đoạn này còn có thể là gì
khác ngoài sự tăng trƣởng về mặt kinh tế mà trƣớc hết phải là nền sản xuất lúa nƣớc. Vào lúc
này, nhu cầu chiếm lĩnh đồng bằng, mở rộng diện tích trồng trọt trở nên bức bách hơn, yêu
cầu thời vụ nghiêm ngặt của cây lúa nƣớc cũng buộc ngƣời ta phải tìm kiếm những giải pháp,
những công cụ canh tác mới. Cái cày gỗ do ngƣời hoặc trâu bò kéo là giải pháp tối ƣu mà
ngƣời Đông Sơn lựa chọn.
Cày và sức kéo cày là hai vấn đề có mối quan hệ gắn bó. Tuy không nên lấy sức kéo
của gia súc hay của ngƣời để xác định sự tồn tại của cày chân chính hay không , chân chính,
nhƣng cũng phải thừa nhận rằng chỉ có cày bằng sức kéo gia súc thì mới tạo ra đƣợc bƣớc
ngoặt đáng kể trong canh tác. Cày do ngƣời kéo năng suất không hơn cuốc là bao. Chỉ có cày
với sức kéo gia súc mới đáp ứng đƣợc nhu cầu mở rộng diện tích canh tác, làm đất nhanh cho
kịp thời vụ. Ngƣời Việt cổ đã dùng sức gia sức kéo cày từ bao giờ?
Theo sách sử cổ thì mãi đến khoảng trƣớc sau Công nguyên các quan đô hộ ngƣời
Hán mới dạy dân Cửu Chân đúc đồ điền khi dạy dân cày bừa. Sự cày bừa ở đây đƣợc hiểu là
cày bằng sức kéo trâu bò. Tài liệu khảo cổ học cung cấp một vài bằng chứng khác. Đó là phát
hiện xƣơng hàm trâu bò cùng một chỗ với lƣỡi cày Vạn Thắng. Trâu bò là một trong số loài
súc vật đƣợc thuần dƣỡng và chăn nuôi sớm ở nƣớc ta.Tại địa điểm Gò Mun và nhiều địa
điểm Đông Sơn tìm thấy xƣơng trâu bò nhà. Tƣợng bò gặp trong di chi Đồng Đậu. Bò là hình
tƣợng nghệ thuật thƣờng gặp trên đồ đồng Đông Sơn... Chúng ta có thể nghĩ rằng, có nhiều
khả năng ngƣời Việt cổ Đông Sơn đã dùng sức kéo trâu bò để cày ruộng vào khoảng đầu giai
đoạn Đông Sơn điển hình (thế kỷ 5-3 trƣớc Công nguyên).
Công cụ thu hoạch của ngƣời nông dân Việt cổ, theo tài liệu đã biết gồm ba loại chủ
yếu là dao gặt, nhíp, liềm.
Dao gặt bằng đá đã tìm thấy trong một vài di chỉ Phùng Nguyên, số lƣợng ít. Dao gặt
Gò Bông đƣợc coi là dao gạt sớm nhất. Các dao đều đã bị gãy mũi và sứt mẻ nhiều nên
không biết thật chính xác hình dáng của chúng. Phần còn lại cho biết chúng có phần thân
cong, sống dao dày, mỏng dần Về phía lƣỡi, rìa lƣỡi cong lõm, khá sắc bén, kích thƣớc nhỏ
(dài toàn thân khoảng trên dƣới 10cm). Chuyển sang giai đoạn Đồng Đậu - Gò Mun, xuất
hiện một số dao gạt đồng có hình dáng tƣơng tự dao đá Phùng
69
Nguyên. Hẳn rằng, những dao đồng này có nguồn gốc từ những con dao đá. Tại địa điểm Cổ
Loa thuộc giai đoạn Đông Sơn cũng tìm thấy 2 con dao đồng, hình dáng khác loại dao kể
trên: một chiếc hình tứ giác không có lỗ và một chiếc có lỗ buộc dây, rìa lƣỡi chạy song song
với trục thân, một mặt thân có gờ nổi (Ngô Đức Thịnh 1989).
Nhíp là một loại dụng cụ dùng để thụ hoạch lúa bằng cách ngắt từng bông. Chúng ta
chƣa tìm thấy những chiếc nhíp bằng đá thực sự hay nhíp bằng vỏ trai tự nhiên nào, nhƣng
cũng không loại trừ sự tồn tại của chúng vào giai đoạn sớm. Những chiếc nhíp hình vỏ trai
phổ biến dƣới thời Đông Sơn rất có thể bắt nguồn từ loại nhíp vỏ trai tự nhiên ở giai đoạn
sớm. Có ý kiến đặt vấn đề tìm những chiếc nhíp đá trong số những chiếc rìu đá rất nhỏ, lƣỡi
mài sắc bén, toàn thân nhẵn bóng.
Vấn ddề nhíp đồng của giai đoạn Đồng Đậu - Gò Mun có phần khả quan hơn. Khảo
cổ học đã tìm thấy 2 hiện vật bằng đồng có khả năng là nhíp với hình dáng hơi khác nhau.
Một là mảnh đồng mỏng hình gần vuông (3,7 x 2,6cm) có 2 rìa lƣỡi sắc song song nhau. Một
là hiện vật đồng hình dao khắc mũi nhọn, lƣỡi hơi lõm vào.
Đến giai đoạn Đông Sơn, nhíp đồng phổ biến hơn hẳn. Đặc điểm chung của nhíp
Đông Sơn là kích thƣớc nhỏ, hình bầu dục, bán nguyệt hay gần hình thang, dài trung bình
6cm. làm từ lá đồng mỏng (không quá 1mm), rìa cắt thƣờng có hình răng cƣa nhờ một mặt
thân nhíp đúc những gân chỉ nổi chạy song song theo trục ngang thân, trên thân nhíp thƣờng
có 2 lỗ để xò dây. Cách tra cán gỗ (hoặc,tre) cho lƣỡi nhíp đƣợc biết chính xác nhờ phát hiện
ở mộ Đƣờng Dù có niên đại Đông Sơn muộn. Trong số đồ tùy táng trong mộ có một chiếc
cán nhíp cùn nguyên bàng gỗ, hình chữ nhật, có 2 lỗ để buộc lƣỡi nhíp vào.
Nhíp là dụng cụ thu hoạch phù hợp với giống lúa cứng cây không bị đổ. Theo các nhà
chuyên môn, các giống lúa. Japonica hạt tròn và hạt bầu thƣờng có thân cứng. Đây chính là
giống lúa đƣợc tìm thấy phổ biến trong các di tích văn hóa thời dựng nƣớc của ngƣời Việt cổ.
Ở đây, chúng ta thấy có sự phù hợp giữa loại hình nông cụ và giống cây trồng. Điều cần bổ
sung thêm là, cho đến bây giờ nhíp mới tìm thấy nhiều ở vùng lƣu vực sông Hồng và sông
Mã. Còn ở lƣu vực sông Cả chƣa tìm thấy nhíp. Đi đôi với hiện tƣợng này là sự có mặt ở
Làng Vạc những di tích hạt thóc dạng thon, một giống lúa khác lúa trồng phổ biến ở các vùng
phía bắc.
Dao gặt và nhíp là những dụng cụ thu hoạch thô sơ, khó tạo ra đƣợc năng suất cao.
Muốn thu hoạch đại trà, nhanh gọn, phải sử dụng những nông cụ có trình độ kỹ thuật cao
hơn. Đó là liềm và hái. Căn cứ vào một số đặc trƣng hình dáng và tính năng tác dụng có ý
kiến cho rằng liềm đƣợc phát triển từ dao gặt, còn hái thì bắt nguồn từ nhíp (Chử Văn Tần
1994 ; Ngô Đức Thịnh 1994).
70
Liềm thuộc loại dụng cụ thu hoạch tiến bộ, cho hiệu suất lao động cao, có khả năng
thích hợp với nhiều giống lúa khác nhau, chân ruộng khác nhau. Có lẽ những chiếc liềm đồng
thuộc giai đoạn Gò Mun là những chiếc liềm cổ nhất còn nguyên hình phát hiện đƣợc trong
khu vực cƣ trú của ngƣời Việt cổ? Chúng không thật giống kiểu liềm hiện đại; bản liềm rộng,
trên thần có đƣờng sống nổi, thân liềm cong, 2 rìa lƣỡi sắc, có họng tra cán nằm ở vị trí
vuông góc với trục thân liềm. Vì những đặc điểm này có ý kiến cho đây là vằng hoặc một loại
vũ khí (Trịnh Sinh 1978 ; Đào Quý Cảnh. Nguyễn Trung Chiến 1980)
Ở địa điểm Thiệu Dƣơng tìm thấy 2 hiện vật đồng có thể là liềm. Một chiếc hình lá
mía, có 2 rìa cạnh sắc. Một chiếc có dáng cong nhƣ liềm hiện đại nhƣng rìa lƣỡi sắc lại ở phía
cạnh lồi. Kích thƣớc của chúng đều nhỏ (dài không quá 9cm, rộng bản khoảng l cm). Phải
đến giai đoạn Đông Sơn muộn ta mới gặp đƣợc loại liềm giống nhƣ liềm hiện đại. Chiếc liềm
này đƣợc làm bằng sắt, bị gãy mũi, phần còn lại đo đƣợc 20cm, bản lƣỡi rộng gần 3cm, phần
chuôi thu nhỏ, dáng cong.
Hái có lẽ xuất hiện muộn hơn liềm nhiều. Cho tới nay chƣa tìm thấy dấu tích hái trong
các địa điểm Đông Sơn, nhƣng các nhà nghiên cứu đã chú ý liến chiếc nhíp tƣơng đối đặc
biệt phát hiện trong mộ Đông Sơn muộn Đọi Sơn. Nhíp này khác các nhíp kể trên ở chỗ có
phần đầu nhíp thu nhỏ và uốn cong có thể dùng để móc bông lúa đƣa vào lƣỡi cắt. Phải chăng
đây là một gợi ý cho việc tạo thành mỏ hái của bƣớc cải tiến tiếp theo, biến nhíp thành hái.
Sau thu hoạch, ngƣời nông dân còn phải chú ý đến việc cất trữ, bảo quản lƣơng thực.
thực phẩm, đặc biệt là việc lựa chọn, bảo quản giống dành trồng vụ sau. Ở khâu này cũng cần
có những kỹ thuật, kinh nghiệm riêng. Tiếc rằng chúng ta chƣa có tài liệu để nghiên cứu vấn
đề này ở thời dựng nƣớc của ngƣời Việt cổ, ngoài một vài gợi ý nhỏ. Ví nhƣ, có ngƣời gọi
ngôi nhà sàn thấp hình tròn trang trí trên trống đồng là kho cất giữ thóc. Ngƣời Việt cổ cũng
có thể cất giữ thóc kiểu để nguyên bó treo gác lên cao để tránh ẩm mốc. Kiểu cất trữ thóc cả
lƣợng thế này còn đƣợc sử cổ nhắc đến và còn đƣợc nhiều cƣ dân hiện đại thực hiện.
Qua bộ nông cụ đƣợc giới thiệu ở trên, có thể thấy rõ hơn tính chất, đặc điểm, xu
hƣớng phát triển kỹ thuật nông nghiệp trong suốt thời kỳ dựng nƣớc của ngƣời Việt cổ. Thời
kỳ này trải dài trong khoảng 2 thiên niên kỷ. Ở giai đoạn đầu, nông cụ đá chiếm ƣu thế tuyệt
đối. Về cơ bản, bộ nông cụ chƣa có sự phân hóa chức năng rõ ràng. Công cụ hình rìu thực tế
là công cụ đa chức năng. Chúng có thể là rìu chặt cây phát hoang, chế tác công cụ, dụng cụ
tre gỗ, có thể là nhíp dùng trong thu hoạch lúa, có thể là cuốc, thuổng để làm đất canh tác...
Các chức năng khác nhau tùy thuộc nhiều vào
71
kích thƣớc của các loại rìu. Đây chính là giai đoạn nông nghiệp dùng cuốc chiếm địa vị độc
tôn. Ngay từ giai đoạn này lúa đã trở thành cây lƣơng thực quan trọng nhất của cƣ dân, nhƣng
những cây trồng khác nhƣ các loại khoai củ, rau đậu... hẳn còn đóng vai trò không nhỏ. Cuốc
đá, loại nông cụ chân chính còn lƣu giữ đến tay các nhà nghiên cứu bây giờ, có lẽ đƣợc dùng
chủ yếu để trồng trọt loại cây củ và làm vƣờn. Cây lúa vốn ƣa nƣớc, lúc này hẳn vẫn chỉ có
thể đƣợc trồng ở những vùng đất bãi, vùng lầy tự nhiên ven sông, đầm hồ. Tại đây cuốc đá
không đắc dụng. Phƣơng thức canh tác tối ƣu là dùng rìu chặt phát cây cỏ, để khô đốt, dùng
chân hay gia súc lớn dậm cho ngấu bùn hoặc dùng cuốc gỗ lƣỡi dài cuốc sục bùn rồi vãi hạt
hoặc cấy mạ. Lối canh tác này chiếm ƣu thế ở lƣu vực sông Hồng (văn hóa Phùng Nguyên),
trong khi ở lƣu vực sông Mã phƣơng thức trồng khoai củ ở đất bãi bằng cuốc đá chiếm ƣu
thế (văn hóa Hoa Lộc).
Chuyển sang giai đoạn Đồng Đậu - Gò Mun, mặc dù nghề luyện kim đồng thau đã có
bƣớc tiến vƣợt bậc, nhƣng hầu nhƣ chƣa thấy kim loại đƣợc dùng để chế tạo những công cụ
chuyên dùng trong canh tác nông nghiệp. Sự đổi mới đáng kể nhất trong giai đoạn này là xuất
hiện những chiếc rìu đồng - những công cụ phát hoang ƣu việt hơn hẳn rìu đá. Không có gì
phải nghi ngờ vai trò của rìu đồng trong canh tác nông nghiệp lúc này. Nó giúp cho ngƣời
Đồng Đậu - Gò Mun mở rộng diện tích canh tác lúa nƣớc có hiệu quả hơn hẳn giai đoạn
trƣớc, cũng nhƣ làm cho việc chế tạo đề tre gỗ nói chung, đồ tre gỗ dùng trong nông nghiệp
nói riêng, dễ dàng, năng suất hơn. Theo tài liệu đã biết thì nông cụ chuyên dùng đƣợc làm
bằng kim loại xuất hiện vào giai đoạn này chủ yếu là công cụ thu hoạch (dao gặt, liềm), ngoài
ra còn có thuổng. Có lẽ phƣơng thức canh tác của giai đoạn này vẫn chƣa có bƣớc nhảy vọt
về chất so với giai đoạn Phùng Nguyên. Nhƣng hoàn toàn không phải là không có sự tiến bộ
nào. Riêng sự có mặt của những loại công cụ thu hoạch mới cũng đã nói lên nhiều điều.
Bƣớc nhảy vọt trong kỹ thuật nông nghiệp xảy ra vào thời Đông Sơn. Nhƣ đã trình
bày ở trên, bộ nông cụ bằng đồng thau, sau đó có cả bằng sắt, phát triển đến đáng kinh ngạc
cả về chất lƣợng cả về số lƣợng. Xu hƣớng phân hóa và chuyển hóa nông cụ thể hiện rõ ràng
không chỉ ở sự ra đời của hầu hết các loại nông cụ truyền thông (cuốc, cày, mai xẻng, liềm,
nhíp...) mà còn ở sự phân chia chi tiết thành các kiểu dáng khác nhau trong từng loại hình
nông cụ nhằm đáp ứng những nhu cầu canh tác ở từng vùng sinh thái khác nhau. Phải thừa
nhận rằng, thành tựu kỹ thuật lớn nhất trong canh tác nông nghiệp thời này là chiếc cày, lúc
đầu có thể là cày gỗ, sau đó là cày có lƣỡi cày kim loại. Phƣơng thức canh tác vói cày do trâu
bò kéo dần dần chiếm vị trí chủ đạo. Những công trình thủy lợi, nhờ sự giúp sức của loạt
công cụ đào đất lƣỡi kim loại sắc bén (mai, xẻng, thuổng) phát triển nhanh hơn, quy mô hơn.
Thực tế, việc tƣới tiêu đối với cây lúa có ý nghĩa quan trọng hàng đâu (nhất nƣớc, nhì
phân...), buổi đầu
72
do chƣa tích lũy đƣợc kinh nghiệm, chƣa có công cụ lao động thích hợp. ngƣời ta phải triệt để
lợi dụng tự nhiên, phụ thuộc hoàn toàn vào tự nhiên (theo thủy triều lên xuống mà làm). Còn
đến lúc này, tình hình đã đổi khác rất nhiều, sách sử cổ đã có những ghi chép nhất định về
tình hình thủy lợi ở Giao Chỉ, Cửu Chân vài thế kỷ trƣớc sau công nguyên. Giao châu ký
được dẫn lại trong Hậu Hán thư chép, ở huyện Phong Khê (khu vực Cổ Loa và phụ cận ngày
nay) có đê phòng nƣớc lụt. Hậu Hán kỷ có đoạn kể chuyện Mã Viện cho sửa sang kênh ngòi.
Thủy kinh chú nhắc đến việc Mã Viện đào ngòi thông đƣờng lấy nƣớc tƣới ruộng... (dẫn theo
Trần Quốc Vƣợng 1963). Nhƣ vậy có thể nghĩ rằng thời Đông Sơn đã có những hệ thống đê
điều và mƣơng máng nhất định.
Nhờ những tiến bộ đáng kể trong kỹ thuật canh tác nông nghiệp kể trên mà ngƣời
Đông Sơn đã tạo ra đƣợc một tiền nông nghiệp thâm canh tiến bộ với phổ biến 2 vụ lúa một
năm. Năng suất lúa có thể đã khá cao. Sách Hậu Hán thư nói đến sự kiện năm thứ 2 hiệu
Diên Quang (năm 124) đã xuất hiện điềm tốt, tháng 6 Cửu Chân có lúa tốt sinh 156 gốc lúa
cỡ 768 bông. Nghĩa là 1 gốc lúa đẻ 5 bông (ngày nay mỗi gốc đẻ 7.8 bông đƣợc coi là có
năng suất cao). Có thể ngƣời Đông Sơn trƣớc đó 1,2 thế kỷ cũng đã làm ra đƣợc năng suất
nhƣ vậy, đặc biệt là ở vùng đồng bằng sông Hồng, đất đai vốn phì nhiêu hơn.
B. KỸ THUẬT THỦ CÔNG NGHIỆP
Ngƣời Việt cổ thời dựng nƣớc đã biết đến hầu hết những nghề thủ công quan trọng,
có mặt trong các xã hội văn minh cổ đại : luyện kim, làm gốm, chế tác đá làm mộc, sơn, dệt,
nấu thủy tinh.
1. Luyện kim
Những vết tích kim loại đầu tiên ở Việt Nam đã biết cho tới nay đƣợc tìm thấy trong
tầng văn hóa của một sổ di chỉ Phùng Nguyên có niên đại vào khoảng 1/2 đầu thiên niên kỷ II
trƣớc Công nguyên. Đây mới chỉ là dấu vết xỉ đồng hay cục đồng nhỏ, chƣa phát hiện đƣợc
một di vật nguyên vẹn nào. Điều đáng lƣu ý là đồng ở đây là hợp kim rồi, không phải đồng
đỏ. Tuy nhiên, số lƣợng vết tích kim loại này còn rất hiếm và loại hình chƣa rõ, chủ yếu là
những vật dụng nhỏ bé vi thế dễ bị thời gian hủy hoại. Trong giai đoạn văn hóa này đồ đá vẫn
chiếm ƣu thế tuyệt đối.
Sang đến giai đoạn tiếp theo - giai đoạn Đồng Đậu, lịch sử luyện kim Việt cổ bƣớc
vào một giai đoạn mới với sự tiến bộ vƣợt trội hơn hẳn so với giai đoạn Phùng Nguyên.
Trong các di chỉ Đồng Đậu tỷ lệ di vật đồng chiếm trên 20% tổng số di vật phát hiện đƣợc.
Loại hình di vật khá phong phú, tuy chủ yếu vẫn là đồ vật nhỏ nhƣ giáo; lao, mũi tên, mũi
nhọn. Ngoài ra bắt đầu xuất hiện vài loại hình dụng cụ sản xuất nhƣ rìu, dũa, lƣỡi câu. Tình
hình đồ đồng ở giai đoạn Gò Mun. về cơ bản tƣơng tự giải
73
đoạn Đồng Đậu. Loại hình di vật đồng thau chƣa có những thay đổi lớn nhƣng về mặt số
luợng thì tăng lên rõ rệt. Tỷ lệ đồ đồng thau ở Gò Mun chiếm khoảng 40%, thậm chí lên tới
60% đối với giai đoạn muộn, so với tổng số hiện vật thu lƣợm đƣợc. Chúng ta thấy khá rõ
quá trình thay thế đồ đá của loại di vật làm từ chất liệu ƣu thế này.
Bƣớc nhảy vọt trong nghề luyện kim Việt cổ xảy ra chính vào thời Đông Sơn, không
chỉ hơn hẳn về số lƣợng (tỷ lệ đồ đồng trong các sƣu tập hiện vật khai quật thƣờng chiếm từ
70% trở lên), mà còn hơn hẳn về sự phong phú, đa dạng của các loại hình kiểu dáng, đặc biệt
là sự xuất hiện của loạt sản phẩm mới quy mô. tinh tế trống, thạp, thố...) đòi hỏi trình độ kỹ
thuật và nghệ thuật cao. Theo thống kê, đồ đồng Đông Sơn có thể đƣợc phân chia thành 6
nhóm lớn (công cụ, vũ khí, nhạc khí, đồ dùng sinh hoạt, đồ trang sức nghệ thuật); trong mỗi
nhóm lại có hàng loạt loại hình di vật khác nhau (ví dụ nhóm vũ khí có 10 loại; nhóm công cụ
có 9 loại; nhóm nhạc khí có 2 loại...) Mỗi loại di vật lại bao gồm nhiều loại hình, kiểu dáng
(vi dụ, loại rìu trong nhóm công cụ có thể đƣợc phân thành 11 loại hình với trên 20 kiểu
dáng). Đỉnh cao của kỹ thuật luyện kim Đông Sơn đƣợc phản ánh khách quan bằng sự hiện
diện của những chiếc trống đồng tháp đồng lớn...Đỉnh cao kỹ thuật đúc đồng và bàn tay tài
hoa của những ngƣời thợ Việt cổ này đạt tới không dễ dàng gì ngay cả đối với những tay thợ
lão luyện hiện tại. Chúng ta đã tìm vài lần thử đúc lại trống Ngọc Lũ mà chƣa lần nào đạt
đến trình độ hoàn hảo nhƣ trống mẫu.
Luyện kim Đông Sơn còn là bƣớc tiến vọt so với Tiền Đông Sơn ở chỗ vào thời này,
ngoài luyện kim màu (đồng thau), ngƣời ta còn biết đến luyện kim đen (sắt). Sự ra đời của
luyện kim sắt, của đồ sắt tạo nên bƣớc ngoặt lớn trong lịch sử loài ngƣời. Chỉ có sắt mới hoàn
toàn loại bỏ đƣợc đồ đá ra khỏi nền sản xuất xã hội. Từ giai đoạn Đông Sơn phát triển trở đi.
chúng ta hầu nhƣ không còn gặp công cụ lao động bằng đá nữa. Đồ sắt Đông Sơn đƣợc bảo
lƣu tới nay không nhiều có lẽ đa số chúng đã bị oxy hóa, rỉ nát. Số đồ sắt còn lại đến tay
chúng ta ngày nay thƣờng là công cụ sản xuất (cuốc, thuổng liềm...).
Trong mấy thập kỷ qua, ngoài việc chú ý phát hiện hàng loạt di tích văn hóa thời đại
đồng - sơ kỳ thời đại sắt, tập hợp, thống kê phân loại toàn bộ những sƣu tập đồ đồng, đồ sắt
thuộc các văn hóa Tiền Đông Sơn - Đông sơn, các nhà nghiên cứu còn rất chú ý tìm hiểu các
vấn đề có liên quan đến kỹ thuật luyện kim của chủ nhân các văn hóa này. Nhờ vậy chúng ta
đã có thể nhìn thấy tƣơng đối rõ những nét cơ bản của một trong những mảng kỹ thuật quan
trọng nhất của nền sản xuất Việt cổ này.
a. Kỹ thuật luyện kim màu. Vấn đề thứ nhất đƣợc các nhà nghiên cứu lịch sử luyện
kim màu quan tâm là nguồn nguyên liệu. Đồng, thiếc, chì, kẽm... đều là những kim loại
không có sẵn trong thiên nhiên mà phải luyện ra từ quặng. Việc tìm kiếm các
74
mỏ cổ đã đƣợc đặt ra ít nhiều trong những năm qua, nhƣng cho đến nay chúng ta vẫn chƣa
tìm đƣợc một mỏ quặng nào chắc chắn là mỏ thời Phùng Nguyên - Đông Sơn. Đây là công
việc khó khăn phức tạp, cần đầu tƣ nhiều công sức và phƣơng tiện nghiên cứu liên ngành mới
có thể thu đƣợc kết quả. Nhƣng chúng ta cũng có cơ sở để tin rằng nguyên liệu chế tạo đồ
đồng, đồ sắt ở ta đƣợc khai thác tại chỗ. Theo điều tra tài nguyên khoáng sản. nƣớc ta có
nhiều mỏ đồng, mỏ thiếc, sắt... ở Thái Nguyên, Tuyên Quang Lạng Sơn, Sơn La, Cao Bằng,
Vĩnh Phú, Thanh Hóa. Nghệ An... ở một số nơi còn tìm thấy dấu vết công cuộc khai mỏ
luyện quặng tại chỗ vào thời phong kiến. Trong một sổ sách sử cũ như Bản quốc sản xứ ký
(dẫn lại trong Dư địa chí của Nguyễn Trãi). Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy
Chú, thấy liệt kê tên hàng chục mỏ đồng, thiếc, chì... Các nhà khảo cổ đã tiến hành diều tra.
khảo sát một số mỏ (mỏ đa kim ở huyện Kỳ Sơn - Hòa Bình, mỏ Bát Xát, Làng Nhơn, Đá
Chông, Yên Cƣ. Đồng Giang. Giái Cả, Dốc Cun... (Hà Văn Phùng .1981). Phần lớn các mô
cổ là những điểm quặng nhỏ. trữ lƣợng không lớn, nằm lộ thiên hay nông dƣới mặt đất và ở
vị trí thuận tiện giao thông đƣờng thủy. Chúng ta có thể tin rằng những ngƣời Việt cổ thời
dựng nƣớc hoàn toàn có khẳ năng phát hiện và khai thác quặng tại các mỏ tƣơng tự nhƣ thế.
Bằng phân tích thành phần hóa học đồ đồng Phùng Nguyên - Đông Sơn, các nhà
nghiên cứu đi đến nhận định rằng, chúng đƣợc làm từ nhiều nguồn quặng khác nhau, mang
tính địa phƣơng rõ nét (Trịnh Sinh 1988, 1990 ; Diệp Đình Hoa, Nguyễn Văn Bửu, Phạm
Minh Huyền 1976).
Chúng ta cũng còn chƣa thật rõ kỹ thuật luyện quặng của thời kỳ này ra sao. Chắc hẳn
quặng đƣợc luyện ngay tại nơi khai thác. Tại những mỏ cổ đã biết tìm thấy nhiều xỉ quặng,
thậm chí có nơi (nhƣ mỏ Nậm Hét - Sơn La) còn tìm thấy cả những khối kim loại nguyên, sản
phẩm sau tinh luyện. Có lẽ kỹ thuật luyện quặng buổi sơ khai đƣợc ngƣời Phùng Nguyên -
Đông Sơn sử dụng không khác lắm so với kỹ thuật luyện thủ công sau này.
Vấn đề thứ hai đƣợc các nhà nghiên cứu đặc biệt chú ý là vấn đề họp kim màu. Bằng
phƣơng pháp phân tích quang phổ, ngay từ đầu những năm 70, quan điểm về 2 giai đoạn hợp
kim đồng thau cổ đại ở nƣớc ta đã đƣợc đề xuất (Hoàng Văn Khoán. Hà Văn Tấn 1970 ; Phan
Văn Thích, Hà Văn Tấn 1970 ; Hà Văn Tấn, Hoàng Văn Khoán 1971). Tính đúng đắn của
quan điểm này ngày càng đƣợc chứng minh bằng hàng loạt các nghiên cứu phân tích tiếp sau.
Ngày nay đã khá đủ cơ sở để nói về các loại hợp kim, các nhóm luyện kim thời đó.
Khoảng gần 1000 mẫu đồng đã đƣợc phân tích quang phổ định lƣợng và bán định
lƣợng tại nhiều phòng thí nghiệm khác nhau trong và ngoài nƣớc. Các mẫu đƣợc lấy từ các
địa điểm khảo cổ học thuộc các giai đoạn văn hóa khác nhau, phân bố trong
75
đảm bảo chất lƣợng, sản phẩm bền chắc. Và nó rất thích hợp trong việc chế tạo vũ khí, công
cụ sản xuất cần độ cứng và sắc nhọn.
Khả năng nắm vững và sử dụng đúng chỗ các loại hợp kim đƣợc ngƣời thợ Đông Sơn
thể hiện khá ngoạn mục. Có thể thấy rõ những mối tƣơng quan có chủ ý giữa hợp kim với
loại hình di vật : gần nhƣ toàn bộ các loại hình đồ trang sức (vòng, nhẫn, chuông, nhạc...) đều
đƣợc làm từ hộp kim 3 thành phần đồng - thiếc - chì và đồng - chì - thiếc ; trên 60% mẫu đồ
đựng đƣợc làm từ 2 loại hộp kim nhƣ trên ; đại đa số mẫu trống thuộc nhóm hợp kim đồng -
thiếc - chì; đại đa số mẫu dao và dao găm đƣợc làm từ hợp kim đồng - thiếc ; hầu nhƣ toàn bộ
lƣỡi cày đƣợc làm từ đồng đỏ...
Xem xét chi tiết hơn mối quan hệ giữa loại hình di vật và thành phần hợp kim trong
từng loại hợp kim, có thể thấy cụ thể hơn tầm hiểu biết của những ngƣời thợ Đông Sơn về
tính chất hóa lý của từng kim loại, hợp kim. Kết quả phân tích thành phần hóa học các mẫu
cho thấy, tuy cùng là hợp kim có chì, nhƣng hàm lƣợng chì rất khác nhau ở từng loại di vật.
Các mẫu trống đồng có lƣợng chì cao nhất từ 10-20%. Mũi tên, mũi giáo thƣờng có hàm
lƣợng chỉ khoảng 4-5% còn dao, rìu có hàm lƣợng chì thấp nhất (trên dƣới 1%).
Chúng ta có thể dễ dàng thừa nhận một thực tế là hợp kim có chì ra đời ở thời Đông
Sơn và ngay lập tức chiếm vị trí chủ đạo. Hợp kim có chì là một thành tựu lớn của ngƣời
Đông Sơn. Nó xuất hiện không ngẫu nhiên, mà do nhu cầu kinh tế - xã hội đƣơng thời đòi
hỏi. Ở giại đoạn này, đồng thau không chỉ đƣợc dùng làm công cụ, vũ khí thông thƣờng mà
đã mở rộng đối tƣợng sản xuất - những đồ đựng sang trọng (thạp. thố, âu, bình ...), những
nhạc khi quyền uy (trống, chuông...), những đồ trang trí nghệ thuật (đồ trang sức, tƣợng...).
Những sản phẩm này thƣờng có yêu càu thẩm mỹ cao, trang trí nhiều hoa văn tinh tế, một số
trong đó lại có kích thƣớc rất lớn. Để có thể đúc thành công những đồ vật này, ngƣời ta
không thể dùng hợp kim đồng-thiếc cứng, ròn nhƣ cũ, mà phải phát minh ra loại hợp kim mới
dễ nóng chảy hơn, dẻo hơn, dễ điền đầy vào các chi tiết vật đúc. Hợp kim có chì chính là loại
hợp kim cần thiết đó.
Xung quanh kỹ thuật chế tạo hợp kim đồng thau Đông Sơn còn có những nhận xét về
các thành phần phụ có mặt trong hợp kim. Chẳng hạn, có thể coi hợp kim đồng thau Đông
Sơn là hợp kim có kẽm. Đây là một yếu tố tiến bộ bởi vì nhờ có kẽm mà hợp kim dễ nóng
chảy hơn. Thành phần phốt pho có mặt trong hợp kim Đông Sơn chứng tỏ phốt pho đã đƣợc
sử dụng để khử oxy trong hợp kim có chì và làm tăng độ dẻo, bền của hợp kim (Diệp Đình
Hoa, Nguyễn Văn Bửu, Phạm Minh Huyền 1985)
Đúc đồng là một khâu kỹ thuật quan trọng, ảnh hƣởng rất lớn đến chất lƣợng sản
phẩm. Có đủ cơ sở để nói rằng đồ đồng của ngƣời Việt cổ thời dựng nƣớc, cơ bản đƣợc
77
lớn, hết sức quan trọng. Để đúc các đồ đồng đơn giản và nhỏ thì tƣơng đối đơn giản. Tài liệu
khảo cổ đã cung cấp những mẫu hình nồi nấu đồng, muôi múc và rót đồng vào khuôn... Ở
Làng Cả tìm thấy nồi nấu có thể nấu đƣợc khoảng 12kg nƣớc đông (Vũ Ngọc Thƣ, Nguyên
Duy Tỳ 1978). Nhƣng để đúc những vật lớn và tinh xảo nhƣ trống, thạp... thì thực tế chúng ta
chƣa tìm đƣợc dấu vết gì của lò nung, lò nấu. Đây còn là công việc tìm hiểu trong tƣơng lai,
cũng nhƣ nhiều vấn đề khác xoay quanh kỹ nghệ luyện kim màu của tổ tiên dân tộc Việt.
Khâu kỹ thuật cuối cùng, tuy không thật quan trọng, những cũng không thể thiếu của
quá trình chế tác đồ đồng là khâu tu chỉnh, gia đông nguội sau đúc. Trên phần lớn di vật đúc
Phùng Nguyên - Đông Sơn còn tìm thấy dấu vết kỹ thuật giữa, mài nhẵn những đƣờng chỉ
đúc, có một số chi tiết của sản phẩm đƣợc gấn chắp vào nhau bằng kỹ thuật khoan lỗ, tán trên
đe. Các họa tiết hoa văn trang trí hoặc các chi tiết trên tƣợng tròn, phù điêu Đông Sơn cũng
đƣợc tu chỉnh sau đúc cho thêm phần sắc sảo... Trong bộ di vật Đông Đậu - Đông Sơn có
những, dụng cụ phục vụ cho công việc này nhƣ giữa đục nhỏ, mũi nhọn...
Nhƣ vậy, kỹ thuật luyện kim màu của ngƣời Việt cổ đã trải qua những bƣớc phát triển
từ thấp lên cao. Vào thời Đông Sơn, kỹ thuật này đã đạt đến đỉnh cao. Với những sản phẩm
tuyệt hảo nhƣ trống Ngọc Lũ, Hy Cƣơng, Cổ Loa, tháp đồng Đào Thịnh... chúng ta có thể nói
đƣợc rằng kỹ thuật luyện kim màu của ngƣời Việt cổ không thua kém các trung tâm luyện
kim đƣơng đại khác trên thế giới.
b. Kỹ thuật luyện kim đen - chế tạo đồ sắt ..đã ra đời trong văn hóa Đông Sơn. Đó là
điều đƣợc khẳng định, nhƣng ra đời vào thời điểm nào cụ thể hơn thì còn là vấn đề chƣa đƣợc
trả lời dứt khoát. Dựa theo các sách sử cổ Trung Quốc thì đồ sắt xuất hiện ở nƣớc Âu Lạc vào
khỏang 1, 2 thế kỷ trƣớc sau công nguyên, nhờ sự khai hóa của quan quân nhà Hán. Nhƣng
tài liệu khảo cổ học lại cho phép kéo niên đại xuất hiện đồ sắt ở đây lùi xa hơn vào quá khứ
vài thế kỷ. Dựa vào sự có mặt của những công cụ sắt ở Gò Chiền Vậy, một di chỉ Đông Sơn
đƣợc xác định niên đại C14 cho kết quả 2350±100 BP, các nhà nghiên cứu cho rằng niên đại
ra đời đồ sắt Đông Sơn muộn nhất cũng phải ở vào khoảng thế kỷ 4 trƣớc Công nguyên.
Nhƣng các nhà nghiên cứu còn lƣu ý ở một điểm là đồ sắt Gò Chiền Vậy, trong đó có chiếc
cuốc sắt đã đƣợc chế tạo băng kỹ thuật khá cao, không thể thuộc loại sản phẩm của buổi đầu
vào nghề. Do vậy, có khả năng đồ sắt Đông Sơn có tuổi sớm hơn nhƣ vậy. Thêm nữa, khi
khảo sát bãi luyện quặng lấy sắt ở Nghi Xuân và Đồng Mỏm (Nghệ An) dựa vào dấu tích lò
luyện và những di vật tìm thấy lẫn trong đó, những nhà nghiên cứu - khảo sát đã định cho
chúng niên đại khoảng thế kỷ 5 trƣớc Công nguyên (Hoàng Văn Khoán 1978).
79
lớn, hết sức quan trọng. Để đúc các đồ đồng đơn giản và nhỏ thì tƣơng đối đơn giản. Tài liệu
khảo cổ đã cung cấp những mẫu hình nồi nấu đồng, muôi múc và rót đồng vào khuôn... Ở
Làng Cả tìm thấy nồi nấu có thể nấu đƣợc khoảng 12kg nƣớc đông (Vũ Ngọc Thƣ, Nguyên
Duy Tỳ 1978). Nhƣng để đúc những vật lớn và tinh xảo nhƣ trống, thạp... thì thực tế chúng ta
chƣa tìm đƣợc dấu vết gì của lò nung, lò nấu. Đây còn là công việc tìm hiểu trong tƣơng lai,
cũng nhƣ nhiều vấn đề khác xoay quanh kỹ nghệ luyện kim màu của tổ tiên dân tộc Việt.
Khâu kỹ thuật cuối cùng, tuy không thật quan trọng, những cũng không thể thiếu của
quá trình chế tác đồ đồng là khâu tu chỉnh, gia đông nguội sau đúc. Trên phần lớn di vật đúc
Phùng Nguyên - Đông Sơn còn tìm thấy dấu vết kỹ thuật giữa, mài nhẵn những đƣờng chỉ
đúc, có một số chi tiết của sản phẩm đƣợc gấn chắp vào nhau bằng kỹ thuật khoan lỗ, tán trên
đe. Các họa tiết hoa văn trang trí hoặc các chi tiết trên tƣợng tròn, phù điêu Đông Sơn cũng
đƣợc tu chỉnh sau đúc cho thêm phần sắc sảo... Trong bộ di vật Đông Đậu - Đông Sơn có
những, dụng cụ phục vụ cho công việc này nhƣ giữa đục nhỏ, mũi nhọn...
Nhƣ vậy, kỹ thuật luyện kim màu của ngƣời Việt cổ đã trải qua những bƣớc phát triển
từ thấp lên cao. Vào thời Đông Sơn, kỹ thuật này đã đạt đến đỉnh cao. Với những sản phẩm
tuyệt hảo nhƣ trống Ngọc Lũ, Hy Cƣơng, Cổ Loa, tháp đồng Đào Thịnh... chúng ta có thể nói
đƣợc rằng kỹ thuật luyện kim màu của ngƣời Việt cổ không thua kém các trung tâm luyện
kim đƣơng đại khác trên thế giới.
b. Kỹ thuật luyện kim đen - chế tạo đồ sắt ..đã ra đời trong văn hóa Đông Sơn. Đó là
điều đƣợc khẳng định, nhƣng ra đời vào thời điểm nào cụ thể hơn thì còn là vấn đề chƣa đƣợc
trả lời dứt khoát. Dựa theo các sách sử cổ Trung Quốc thì đồ sắt xuất hiện ở nƣớc Âu Lạc vào
khỏang 1, 2 thế kỷ trƣớc sau công nguyên, nhờ sự khai hóa của quan quân nhà Hán. Nhƣng
tài liệu khảo cổ học lại cho phép kéo niên đại xuất hiện đồ sắt ở đây lùi xa hơn vào quá khứ
vài thế kỷ. Dựa vào sự có mặt của những công cụ sắt ở Gò Chiền Vậy, một di chỉ Đông Sơn
đƣợc xác định niên đại C14 cho kết quả 2350±100 BP, các nhà nghiên cứu cho rằng niên đại
ra đời đồ sắt Đông Sơn muộn nhất cũng phải ở vào khoảng thế kỷ 4 trƣớc Công nguyên.
Nhƣng các nhà nghiên cứu còn lƣu ý ở một điểm là đồ sắt Gò Chiền Vậy, trong đó có chiếc
cuốc sắt đã đƣợc chế tạo băng kỹ thuật khá cao, không thể thuộc loại sản phẩm của buổi đầu
vào nghề. Do vậy, có khả năng đồ sắt Đông Sơn có tuổi sớm hơn nhƣ vậy. Thêm nữa, khi
khảo sát bãi luyện quặng lấy sắt ở Nghi Xuân và Đồng Mỏm (Nghệ An) dựa vào dấu tích lò
luyện và những di vật tìm thấy lẫn trong đó, những nhà nghiên cứu - khảo sát đã định cho
chúng niên đại khoảng thế kỷ 5 trƣớc Công nguyên (Hoàng Văn Khoán 1978).
79
Kỹ thuật luyện sắt đƣợc thể hiện cụ thể qua 2 khâu :
1- Luyện quặng lấy sắt;
2 - Rèn và gia công đồ sắt.
Khâu đầu phải kể từ bƣớc khai thác quặng. Tiếc rằng, cũng nhƣ với các kim loại màu,
cho tới nay chúng ta chƣa có đủ tài liệu về các mỏ, cách khai thác lấy quặng của ngƣời Đông
Sơn. Chỉ biết rằng ở nƣớc ta, mỏ quặng sắt có nhiều hơn mỏ đồng và thƣờng là mỏ lộ thiên,
dễ khai thác.
Tài liệu về kỹ thuật luyện quặng lấy sắt có phần khả quan hơn. Sau nhiều năm nghiên
cứu điều tra, các nhà khoa học đã phát hiện đƣợc những khu luyện sắt và dựng lại đƣợc quy
trình luyện quặng lấy sắt dựa vào những khảo sát 2 kim bãi luyện quặng Nghi Xuân và Đồng
Mỏm. kết hợp với nghiên cứu thực nghiệm và phân tích các mẫu sắt bằng phƣơng pháp kim
tƣớng học (Hoàng Văn Khoán 1994). Trong những hố thám sát tại Nghi Xuân các nhà khảo
cổ đã phát hiện đƣợc một số lò cổ có những đặc điểm chung : đƣợc dựng trên gò đất cao để
lợi dụng gió Lào mùa hè; lò hình tròn đƣờng kính gần 1,5 m thành lò kè đá hay xỉ sắt rồi trát
kín bằng đất sét trộn rơm, trấu dày 8- 10cm, phần còn lại cao 40-60cm. Tại Đông Mỏm, đã
phát hiện đƣợc vết tích 6 lò cổ Các lò hình tròn có 2 cửa thông gió và 1 cửa thải xỉ, thành lò
đắp bằng đất sét. Nhƣ vậy là gió quặng ở cả 2 địa điểm giống nhau về cơ bản. Nguyên lý vận
hành cụ thể ở các lò này đƣợc phục dựng bằng thực nghiệm với sự tham gia của những ngƣời
thợ luyện sắt thủ công địa phƣơng Quặng sắt đƣợc luyện theo phƣơng pháp hoàn nguyên trực
tiếp : than trộn với quặng theo tỷ lệ 1/1, gió đƣợc thổi vào lò liên tục có khả năng đƣa nhiệt độ trong lò lên từ 10000 C đến 1300 - 14000 C. Nhờ vậy phản ứng hoàn nguyên diễn ra tuần tự:
3Fe2 O3+ C = 2 Fe3 O4+ CO Fe3 O 4 + C = 3 FeO + CO FeO + C = Fe + CO
Sắt thu đƣợc từ phƣơng pháp này thuộc loại sắt xốp có thành phân là 95% Fe. 0.3%
Mn. 0.32% C. Với thành phần này, sắt xốp thu đƣợc có tính dẻo, dễ rèn, dễ gia công
Với cấu trúc lò và phƣơng pháp luyện nhƣ trên ngƣời ta chỉ thu đƣợc hơn 1/2 lƣợng
sắt có trong quặng. Số còn lại lẫn trong xỉ thải. Theo thực nghiệm cứ 1 tạ than trộn với 1 tạ
quặng, luyện trong vòng 5 giờ thì thu đƣợc tảng sắt nặng 31kg.
Ở lƣu vực sông Hồng chƣa tìm thấy địa điểm luyện quặng tƣơng tự Nghi Xuân, Đông
Mỏm. Tại đây mới phát hiện đƣợc những dấu vết lẻ tẻ, nhỏ trong vài địa điểm
80
nhƣ Vinh Quang, Cổ Loa. Ở Vinh Quang, trong lớp đất văn hóa sâu 0,60-0,80m gặp nhiều xỉ
sắt, có đám tập trung dày đặc, gần đó tìm thấy một đoạn ống đất nung đầu dính rỉ sắt (có thể
là một đoạn của ống thổi lửa?).
Khâu rèn và gia công đồ sắt đƣợc các nhà nghiên cứu tìm hiểu thông qua nhiều phân
tích kim tƣớng mẫu di vạt sắt Đông Sơn (Hoàng Văn Khoán 1994).
Đồ sắt Đông Sơn đƣợc chế tạo bằng 2 phƣơng pháp cơ bản : rèn và đúc. Nhiều di vật
sắt nhƣ rìu, dao, kiếm, dao găm, cuốc, dục... còn những dấu vết chứng tỏ chúng đƣợc tạo
bằng phƣơng pháp rèn nóng. Bằng cách này ngƣời thợ không chỉ tạo dáng đồ vật mà nhờ
nhiệt độ và các thao tác đập bằng búa trên đe, đồ vật trở nên cứng rắn hơn, chất lƣợng tốt
hơn. Qua xem xét tình hình các hạt phôrit của các mẫu, các nhà chuyên môn cho rằng thợ rèn
Đông Sơn tỏ ra thông thạo kỹ thuật đùng lửa trong quá trình rèn. Nhiệt độ vừa đủ, thích hợp
làm cho các hạt sắt giữ đƣợc kích thƣớc nhỏ, góp phần làm tăng độ bền cơ học của sản phẩm.
Ngoài kỹ thuật rèn nóng thông dụng, đồ sắt Đông Sơn còn đƣợc rèn bằng phƣơng
pháp rèn thép, phƣơng pháp thẩm thán, gia công ram và tôi lạnh. Chiếc cuốc Đông Lâm đƣợc
chế tạo bằng cách rèn thép. Đây là lối dùng thỏi thép đã tôi lạnh lót vào giữa thỏi thép có
nồng độ cacbon thấp, rồi đƣa vào lò nung nóng, sau đó đập kỹ trên đe cho đến khi 2 thỏi thép
đó kết chặt thành một khối. Một số mẫu lấy từ giáo, dao găm có hiện tƣợng nồng độ cacbon
tập trung cao ở 2 bên rìa lƣỡi, có khá năng chúng đƣợc gia công bằng phƣơng pháp thẩm
thán. Nhờ phƣơng pháp sản xuất này sản phẩm vừa có độ dẻo, khó gãy lại vừa có hai rìa lƣỡi
cứng, sắc, rất phù hợp với tính năng của các loại vũ khí kể trên. Phƣơng pháp thẩm thán đƣợc
sử dụng phổ biến hơn trong kỹ nghệ luyện sắt Sa Huỳnh.
Ngƣời Đông Sơn cũng dùng phƣơng pháp đúc để tạo hình đồ sắt của mình. Chiếc rìu
sắt tìm thấy trong một ngôi mộ ở địa điểm Đông Sơn còn hẳn rõ 2 đƣờng chỉ đúc ở 2 rìa - dấu
vết của khuôn đúc 2 mang. Chiếc cuốc sắt Gò Chiên. Vậy qua phân tích kim tƣớng cho kết
quả thật đáng chú ý. Mẫu có cấu trúc hình bông của tổ chức graphit trên nền tổ chức
xemăngtit và pectit, độ cứng tế vi 128/HV. Mẫu vật sạch, chứng tỏ kim loại đƣợc luyện kỹ.
Những đặc điểm trên cho phép kết luận rằng chiếc cuốc này đƣợc đúc tù gang rèn, loại gang
có tính dẻo cao hơn gang xám thông thƣờng (Hoàng Văn Khoán 1978).
Nhƣ vậy có thể di đến nhận đinh chung rằng, kỹ thuật luyện kim đen Đông Sơn có
đặc điểm là đùng phƣơng pháp hoàn nguyên trực tiếp để luyện quặng lấy sắt, dùng phƣơng
pháp rèn và đúc để tạo dáng và gia công đồ sắt. Những kỹ thuật này còn đƣợc bảo lƣu rất lâu
dài trong nhiều lò luyện và chế tạo đồ sắt thủ công ở nƣớc ta.
81
2. Làm gốm
Đồ gốm xuất hiện sớm nhất ở Việt Nam, theo tài liệu hiện biết, vào khoảng trên dƣới
6000 năm cách ngày nay, nếu nhƣ không tính đến sự có mặt của vài mảnh gốm thô trong tầng
văn hóa Hòa Bình, có tuổi C14 khoảng trên dƣới 10.000 năm cách ngày nay. Từ đó đến lúc ra
đời nền văn hóa của những thế hệ đầu tiên đặt nền móng cho sự hình thành dân tộc Việt - văn
hóa Phùng Nguyên (và tƣơng đƣơng), thời gian không phải quá dài trong lịch sử xã hội
nguyên thủy, nhƣng nghề chế tạo đồ gốm, ở đây đã có những bƣớc tiến rất rõ rệt. Đồ gốm
Phùng Nguyên - Đông Sơn đã đạt đƣợc những tiến bộ kỹ thuật cao hơn hẳn những đồ gốm
tiền bối, tuy rằng nó vẫn chƣa đạt đến sự nhảy vọt về chất, chuyển từ giai đoạn "đồ đất nung"
sang giai đoạn sành sứ. Và nhìn chung nó vẫn bảo lƣu đậm nét truyền thống kỹ thuật tiêu
biểu của cả khu vực Đông Nam Á là chất liệu gốm pha cát, kỹ thuật tạo hình với bàn đập hòn
kê và hoa văn kỹ thuật phổ biến là văn thừng.
Kỹ thuật làm gốm thời chúng ta đang đề cập đến ở đây, về cơ bản là thống nhất,
tƣơng tự nhau giữa các vùng phân bố trong cƣơng vực dựng nƣớc của ngƣời Việt cổ. Đƣơng
nhiên đây là sự thống nhất tƣơng đối, ở từng giai đoạn nhất định chúng ta vẫn thấy những
khác biệt kỹ thuật giữa vùng này với vùng khác thể hiện cụ thể ở những khâu kỹ thuật hay vài
chi tiết kỹ thuật nhất định. Do yêu cầu của công trình khái quát này, chúng tôi sẽ không đi sâu
phân tích, giới thiệu chi tiết những khác biệt địa phƣơng, mã chỉ giới thiệu những đặc điểm
kỹ thuật mang tính chất chung, tiêu biểu cho kỹ nghệ sản xuất đồ gốm của ngƣời Việt cổ.
Những khác biệt địa phƣơng chỉ nhắc tới khi thật cần thiết.
Nếu nhƣ đối với nghề luyện kim, việc đầu tiên và cũng là việc khó khăn nhất trong
nghiên cứu là tìm kiếm mỏ và cách khai thác quặng, thì đối với nghề gốm, vấn đề này lại trở
nên đơn giản. Nguyên liệu chủ yếu làm các loại đồ đất nung, hay nhƣ ta thƣờng gọi là đồ
gốm (để phân biết với đồ sành, sứ) chỉ đơn giản là đất sét mà hầu nhƣ địa phƣơng nào cũng
có. Đồ gốm Phùng Nguyên - Đông Sơn cũng đƣợc làm chủ yếu từ các loại đất sét thƣờng.
Theo sự tạo thành tự nhiên, sét này thƣờng bị lẫn những tạp chất hữu cơ sau khi nung gốm dễ
có màu thẫm. Chúng tôi cho rằng đất gốm trong hệ thống Phùng Nguyên - Đông Sơn không
đƣợc giảm tính dẻo dính, khó tạo hình và định hình bằng những tạp chất hữu cơ một cách chủ
ý. Chất chống dính - chất gầy truyền thống của gốm này chủ yếu là cát. Chúng ta còn chƣa đủ
cứ liệu để phân định giữa thành phần cát vốn có trong đất sét với cát pha vào khi tạo đất gốm,
nhƣng bằng quan sát, phân tích các mẫu gốm khảo cổ, kết hợp so sánh tài liệu dân tộc học, có
thể khẳng định rằng một phần đáng kể cát có mặt trong đất gốm là do đƣợc thợ gốm trộn vào.
Ngoài ra cũng cân nhắc đến sự có mặt của một loại chất gầy vô cơ khác - vỏ sò ốc
82
nghiền vụn, trong kỹ thuật pha chế đất gốm của những ngƣời láng giềng đồng đại với Phùng
Nguyên - những cƣ dân gốc gác ở vùng biển, trong quá trình phát triển đã dần dần hội nhập
với ngƣời Phùng Nguyên để cùng nhau xây dựng một nền văn hóa thống nhất với đỉnh cao
Đông Sơn. Đó trƣớc hết là gốm Hạ Long - Mả Đống - Tràng Kênh, phần nào là gốm Hoa
Lộc. Nhƣng loại chất gầy này nhanh chóng bị loại bỏ về cơ bản trong các giai đoạn sau của
quá trình hội nhập văn hóa kể trên. Những nhƣợc điểm dễ nhận biết của chất gầy vỏ ốc
nghiền vụn làm giảm chất lƣợng đồ gốm là lý do chủ yếu cho sự loại bỏ này.
Mặc dù đã lựa chọn chất gầy là cát, nhƣng thợ gốm Việt cổ, trong suốt quá trình tồn
tại của mình, luôn trăn trở, tìm kiếm một giải pháp tối ƣu khi sử dụng nó để chế đất gốm,
nhằm ngày càng nâng cao chất lƣợng sản phẩm, nghĩa là tìm cách làm cho đồ gốm cứng, chắc
hơn, ít thấm nƣớc hơn mà vẫn giữ đƣợc vẻ thanh thoát, nhẹ nhàng. Đây là một việc làm
không dễ dàng. Có thể thấy rằng thợ gốm Tiền Đông Sơn hầu nhƣ chƣa tìm ra giải pháp thích
hợp. Nhƣ đã biết, gốm Phùng Nguyên nhìn chung đƣợc làm từ loại đất mịn hạt, thậm chí có
loại gốm có xƣơng gốm rất mịn, thành gốm mỏng (trung bình 0,6cm) có khi rất mỏng (không
tới 0,3cm) và thanh nhẹ. Nhƣng gốm Phùng Nguyên lại có độ thấm nƣớc khá cao, gốm bở, dễ
vỡ nát. Kỹ thuật phủ lóp áo bằng chất dát rất mịn hạt và kỹ thuật miết láng ngoài mục đích
làm đẹp, còn nhằm làm cho gốm đỡ thấm nƣớc hơn. Nhƣ vậy là ngƣời thợ Phùng Nguyên
mới chỉ làm cho gốm trở nên thanh thoát, nhẹ nhàng, mà không đạt đƣợc độ cứng rắn và
chống thấm nƣớc cần thiết.
Thợ gốm Đồng Đậu, rồi Gò Mun giải quyết vấn đề bằng cách khác ngƣời Phùng
Nguyên. Họ gia tăng hàm lƣợng cát và phần nào cà kích thƣớc thành phần hạt này. Chúng ta
tháy rõ xu huống thô di của xƣơng gốm, thành gốm dày lên và đồ gốm trở nên nặng nề hơn.
Nhung bù vào, gốm Đồng Đậu, đặc biệt là gốm Gò Mun, trở nên cứng rắn hơn hẳn, độ thấm
nƣớc rõ ràng giảm đi. Tất nhiên vai trò của kỹ thuật nung và độ nung có ảnh hƣởng quyết
định đến độ cứng rắn của đồ gốm (về vấn đề này chúng tôi sẽ nói đến ở những trang sau),
nhung chất liệu gốm cũng có ý nghĩa đáng kể.
Dƣòng nhƣ thợ gốm Đông Sơn (loại hình Đƣờng Cồ) đã phần nào giải quyết đƣợc
mâu thuẫn giữa chất lƣợng thẩm mỹ và chất lƣợng sử dụng nêu trên. Gốm Đƣờng Cồ thƣờng
có màu sáng (trắng mốc, hồng, xám nhạt...), xƣơng gốm mịn và đều hạt hơn gốm Gò Mun,
thành gốm khá mỏng, nhìn chung đồ gốm có đánh vẻ nhẹ nhàng hơn, độ nung gốm khá cao,
xƣơng gốm đanh cứng. Rõ ràng đất gốm Đƣờng Cồ đƣợc lựa chọn và sàng lọc cẩn thận hơn.
Có nhiều khả năng ngƣời Đƣờng Cồ sắp sửa tiếp cận đƣợc với kỹ thuật dùng đất sét trắng.
Nhƣng họ chƣa kịp đi xa hơn theo hƣớng đã chọn thì đã phải dừng lại do những biến động về
kinh tế - xã hội - chính trị nào đó. Bởi vì
83
thay thế cho gốm Đƣờng Cồ là loại gốm đƣợc gọi là gốm Làng Cả (Nguyên Việt 1982) có
chất lƣợng kém hơn. Đây là loại gốm chủ đạo của văn hóa Đông Sơn giai đoạn hậu kỳ.
Chất liệu gốm của hệ thống tƣơng đƣơng Phùng Nguyên - Đồng Sơn ở lƣu vực sông
Mã cũng có những bƣớc đi tuơng tự phần nào, nhƣng chƣa đạt tới chất lƣợng gốm Đƣờng Cồ.
Ngƣời Việt cổ đã biết đến nhiều phƣơng pháp tạo hình đồ gốm và thƣờng sử dụng kết
hợp trong quá trình sản xuất.
Mặc dù chƣa phát hiện đƣợc bàn xoay nhƣng thông qua những tài liệu gián tiếp, các
nhà nghiên cứu cho rằng từ thời Phùng Nguyên bàn xoay đã có mặt trong nghề gốm (Hà Văn
Tấn, Hán Văn Khẩn 1973 ; Phạm Lý Hƣơng. Hà Văn Tấn 1974 ; Hán Văn Khẩn 1982...). Có
nhiều khả năng đồ gốm trải qua khâu tạo hình trên bàn xoay. Bằng kỹ thuật dài cuộn hay con
chạch ngƣời thợ gốm tạo dáng cơ sở cho sản phẩm trên bàn xoay : thân hình ống, đáy bằng.
Điều quan trọng trong khâu này là miết liền thổ các dải đất, vuốt cho thành gốm có độ dầy
cần thiết và đặc biệt là tạo dáng miệng. Vai trò của bàn xoay thòi này phát huy tác dụng chủ
yếu ở khâu tạo dáng miệng, bẻ cổ. Tài liệu dân tộc học cho thấy, phần cổ và miệng bao giờ
cũng đƣợc trau chuốt cẩn thận bằng một miếng giẻ nhúng đẫm nƣớc trong tốc độ quay khá
nhanh của bàn xoay. Điều đáng lƣu ý là bao giờ phần miệng cũng đƣợc hoàn thành trên bàn
xoay. Khâu chỉnh hình, cạo sửa tiếp sau không bao giờ động đến phần miệng nữa. Quy định
bất thành văn này đuợc thợ gốm tuân thủ một cách tự giác. Từ đây chúng ta có cơ sở để hiểu
vì sao đa số đồ gốm Phùng Nguyên - Đông Sơn lại chỉ có thể nhìn đuợc dấu bàn xoay để lại
trên đồ gốm ở phần eo cổ và miệng. Sau khi tạo hình trên bàn xoay, đồ gốm đƣợc đem ra
khỏi mâm quay, để phơi ở nơi thoáng gió, không chịu nắng trực tiếp, cho tới lúc đất hơi se,
thành gốm không quá mềm, dễ sụp, ngƣời thợ bắt tay vào việc tạo dáng. Đây chính là lúc bàn
đập - hòn kê đƣợc sử dụng tích cực nhất. Mọi loại hình đồ gốm, có thân phình hình cầu, đáy
tròn (kể cả những đò gốm có phần thân. để tƣơng tự nhƣng có chân đế đƣợc gắn sau) - đây là
loại hình phổ biến nhất của hệ thống gốm Phùng Nguyên - Đông Sơn, đều đƣợc tạo dáng
bằng phƣơng pháp bàn đập hòn kê này. Bàn đập có thể để trơn, có thể khía rãnh hoặc buộc
dây, nhƣng có lẽ bàn đập rãnh và buộc dây phổ biến hơn. Phƣơng pháp bàn đập -hòn kê
không chỉ có tác dụng tạo dáng thân và đáy tròn mà còn làm tăng chất lƣợng sản phẩm, làm
thành gốm chắc. làm mát những vết rạn nứt. Bàn đập có khía rãnh hay buộc dây còn giúp cho
thành gốm bền chắc hơn, đỡ rạn nứt khi phơi khô và nung chín.
Quan sát đồ gốm Phùng Nguyên - Đông Sơn, chúng tôi chƣa gặp loại đồ gốm nào
chắc chắn đƣợc tạo hình hoàn toàn trên bàn xoay. Đồ gốm nào có lẽ cũng phải trải qua 2
bƣớc tạo hình và tạo dáng - cạo sửa nêu trên. Các lò gốm thủ công làm gốm
84
bằng tay hay bàng bàn xoay tay hiện đại ở nƣớc ta cũng có các bƣớc kỹ thuật tạo hình đồ
gốm nhƣ vậy. Những dụng cụ dùng trong khâu chỉnh hình, cạo sửa có lẽ cũng đƣợc làm chủ
yếu từ tre gỗ nên chẳng thể đƣợc bảo lƣu cho đến ngày nay. Chỉ tại địa điểm Thiệu Dƣơng
mới phát hiện đƣợc hơn 50 hiện vật gốm có thể đƣợc dùng làm bàn đập và bàn xoa để tạo
hình đồ gốm. Nếu dùng nhƣ vậy thì càng có cơ sở để khẳng định vai trò quan trọng của kỹ
thuật bàn đập hòn kê trong nghề gốm của ngƣời Việt cổ.
Ngoài các phƣơng pháp tạo hình đồ gốm cơ bản trên chúng ta còn thấy có mặt cả kỹ
thuật nặn tay, kỹ thuật tạo bằng cách đổ khuôn (Diệp Đình Hoa 1977...)
Nhìn chung, các kỹ thuật tạo hình đồ gốm tù Phùng Nguyên đến Đông Sơn không có
những bƣớc thay đổi lớn. Bàn xoay - kỹ thuật tiên tiến nhất trong giai đoạn này đã xuất hiện
từ giai đoạn đầu, trình độ hoạt động của nó, vai trò của nó hầu nhƣ không thay đổi gì đáng kể
cho đến tận giai đoạn cuối. Kỹ thuật bàn đập - hòn kê phổ biến từ đầu đến cuối. Nhƣng cũng
có thể thấy đƣợc sự tiến bộ về mặt tạo hình thông qua tính đa dạng ngày càng cao của các
kiểu dáng đồ gốm và dáng nhìn nghiên phức tạp, nhiều góc gãy của chúng. Đồ gốm Đông
Sơn có khoảng trên 20 loại và rất nhiều kiểu. So với đồ gốm Tiền Đông Sơn, hình dáng gốm
Đông Sơn có phần đƣợc phức tạp hóa bởi những góc gãy đột ngột, bởi lối tạo phần bụng
phình rộng (kiểu binh hình con tiện chẳng hạn). Gốm Đƣờng cô không có những loại hình
tƣơng tự nhƣ thế; nhƣng lại xuất hiện khá nhiêu loại đồ đựng lớn, đƣờng kính miệng tới 50- 60cm, dung tích có khi đạt tới 50.000cm3 (Trịnh Sinh, Hà Nguyên Điềm 1977)
Để tăng giá trị thẩm mỹ và thực dụng của sản phẩm, thợ gốm Phùng Nguyên -Đông
Sơn thƣờng dùng kỹ thuật tạo lớp áo phủ và trang trí hoa văn. Kỹ thuật áo phủ cả mặt trong,
mặt ngoài đồ gốm gặp phổ biến ở giai đoạn Phùng Nguyên, Đồng Đậu giai đoạn sớm. Áo phủ
đƣợc tạo từ loại nƣớc đất dẻo nhuyễn có thành phần không khác lắm so vói đất xƣơng gốm,
chì khác ở độ mịn. Gốm Phùng Nguyên ở giai đoạn sớm (giai đoạn Gò Bông) có khi còn
đuợc miết đến láng bóng. Kỹ thuật áo phủ cũng đƣợc cƣ dân Đông Sơn vùng sông Mã ƣa
chuộng. Đặc biệt là vào giai đoạn Đông Sơn phát triển, đồ gốm thƣờng đƣợc phủ lớp áo màu
đỏ thổ hoàng. Trong khi đó, chúng tôi có phần nghi ngờ sự có mặt của lớp áo phủ trên gốm
Đồng Đậu giai đoạn muộn, gốm Gò Mun và đặc biệt là tiếng Đƣờng Cồ. Chúng ta không gặp
hiện tƣợng bong lớp áo nhu đã gặp trên gốm có lớp áo kể trên.
Kỹ thuật tạo hoa văn cũng có những bƣớc đi riêng. Đồ gốm Phùng Nguyên đƣợc
trang trí hoa văn phong phú, cầu kỳ và đẹp hơn cả. Càng về sau hoa văn càng trở nên đơn
giản và mất dần những hoa văn mang ý nghĩa trang trí, chỉ còn lại chủ yếu hoa văn kỹ thuật -
văn thừng, văn chải... Kỹ thuật tạo hoa văn cũng theo xu hƣớng đó mà ngày càng trở nên
nghèo nàn đi. Trong giai đoạn Phùng Nguyên có thể gặp nhiều phƣơng.
85
cách tạo hoa văn: vạch bằng que nhọn đầu, ấn chấm dải bằng cách dùng răng lƣợc hãy dùng
con lăn khắc ô vuông nhỏ li ti, chải bằng lƣợc vài răng, ấn lỗ vũm, trổ lổ thủng... chuyển sang
giai đoạn Đồng Đậu, đồ gốm đƣợc trang trí chủ yếu bằng răng lƣợc (tạo ra hoa văn hình
khuông nhạc). Gốm Gò Mun lại trở về với kỹ thuật vẽ hoa văn bằng que nhọn đầu, nhƣng
hoa văn chỉ đƣợc vẽ trên một số loại miệng loe gãy và hình vẽ cũng đơn giản hơn nhiều so
với hoa văn Phùng Nguyên. Đến gốm Đông Sơn thì hoa văn trang trí hầu nhƣ mất hẳn, chỉ
còn lại loại hoa văn kỹ thuật (văn thừng chải trên gốm Đông Sơn vùng sông Mã, văn nhăn tàn
ong, ô trám... trên gốm Đƣờng Cồ). Cũng cần nhớ rằng ở các giai đoạn Tiền Đông Sơn, đồ
gốm có hoa văn kỹ thuật vẫn thuộc loại phổ biến nhất. Chúng xuất hiện trên mặt ngoài đồ
gốm nhờ kỹ thuật bàn đập - hòn kê.
Chất lƣợng đồ gốm phụ thuộc rất lớn vào độ nung và chế độ nung. Đồ gốm Phùng
Nguyên - Đông Sơn đƣợc nung nhƣ thế nào. còn là câu hỏi chƣa đƣợc trả lời thỏa đáng vì
thiếu hẳn những chứng tích lò lung, bãi nung gốm. Những gì đƣợc về vấn đề này bây giờ, chủ
yếu dựa vào những bằng chứng gián tiếp - những đồ gốm cổ những so sánh dân tộc học thực
nghiệm và một vài phân tích bằng các phƣơng pháp thạch học, độ thấm nƣớc... Xin tóm tắt
những nhận định bƣớc đầu về vấn đề này nhƣ sau :
• Gốm Phùng Nguyên (và tƣơng đƣơng) chủ yếu có màu mặt ngoài đỏ, hồng ngả nâu
với những sắc độ khác nhau xƣơng gốm màu đen hoặc xám đen độ nung gốm không cao,
gốm bở, độ thấm nƣớc lớn. Gốm có thể đƣợc nung nóng hố hở, trên phủ rơm củi, thời gian
đốt và ủ tƣơng đối dài. Độ nung đạt khoảng 700°C.
• Gốm Đồ mi Dậu - Gù Mun có sự đổi khác về màu sắc so với gốm Phùng Nguyên.
Chúng chuyển từ đỏ sang xám với sắc độ các nhau xƣơng gốm cơ bản vẫn màu đen. Gốm
cứng và danh mặt hơn, nhất là gốm Gò Mun. Nung trong đống lửa ngoài trời khó tạo ra độ
cứng nhƣ thế. Chúng phải đƣợc nung trong lò rồi, tuy kiểu lò còn đơn giản, nhiên liệu không
cầu kỳ, có thể vẫn là các loại cành lá dễ kiếm quanh nơi cƣ trú. Độ nung gốm Gò Mun đạt khoảng 9000 C.
• Gốm Đông Sơn loại hình Đƣờng Cồ có kỹ thuật nung tiến bộ hơn cả ; mặt ngoài
gốm màu sáng đều, ít thấy hiện tƣợng màu sắc loang lổ, ám khói đen, ngay cả với những đồ
gốm lớn. Gốm chín đều, cứng, chắc, chứng tỏ đƣợc nung trong lò, chế độ nung ổn định, tạo đƣợc nhiệt độ cao. Độ nung dạt xấp xỉ 10000C (Phạm Lý Hƣơng 1994).
Việc chúng ta chƣa tìm thấy lò nung trong các di tích khảo cổ học không phải là
86
lý do để phủ nhận sự có mặt của lò nung gốm (cũng nhƣ lò nung khuôn và nấu chảy kim loại
trong kỹ thuật luyện kim kể trên). Ở nhiều trung tâm văn minh cổ đại thế giới, lò gốm chuyên
dụng đã xuất hiện từ thời đại đá mới. Chẳng hạn, gốm Ngƣỡng Thiền đã đƣợc nung trong lò
và đạt tới nhiệt độ gần 1000° C từ thiên niên kỷ V-IV trƣớc Công nguyên. Chúng ta còn chƣa
rõ có sự ảnh hƣởng nào không của trung tâm sản suất đồ gốm tiên tiến này đến sự phát triển
kỹ thuật sản xuất gốm thời tiền sử và sơ sử Việt Nam, nếu có thì cụ thể ra sao. Cần nghiên
cứu nhiều nữa mới có thể tìm đƣợc lời giải đáp. Đã có những ý kiến bàn luận về vấn đề giao
lƣu kỹ thuật, trong đó có kỹ thuật gốm, nhƣng trọng tâm chú ý lại hƣớng vào khu vực Đông
Nam Á (Hà Văn Tấn 1994). Nhƣ vậy cũng cần tìm kiếm những mối giao lƣu kỹ thuật nung
gốm theo hƣớng đó nữa.
3. Chế tạo thủy tinh.
Ngƣời Việt cổ chỉ biết đến đồ thủy tinh vào giai đoạn Đông Sơn. Nguồn gốc đồ thủy
tinh và nghề thủy tinh ở đây vẫn đang đƣợc các nhà nghiên cứu bàn luận. Có ý kiến gắn sự ra
đời của đồ thủy tinh Đông Sơn với ảnh hƣởng lan tỏa của văn hóa Sa Huỳnh - một trung tâm
văn hóa phát triển cao ở miền Trung, nơi đồ thủy tinh ra đời tƣơng đối sớm và phát triển
mạnh (Nguyễn Trƣờng Kỳ 1983). Có nhiều cơ sở để tin vào nhận định đó. Loại hình đồ thủy
tinh Đông Sơn có nhiều nét tƣơg tự Sa Huỳnh : đồ thủy tinh chủ yếu là đồ trang sức, phổ biến
nhất là hạt chuỗi, vòng tai (hình vành khăn có xẻ rãnh), vòng tay (mặt cắt tam giác. chữ D),
khuyên tai 3 mấu nhọn. Chất liệu, màu sắc thủy tinh Đông Sơn và Sa Huỳnh cơ bản tƣơng tự
nhau. Các nhà nghiên cứu còn lƣu ý đến hiện tƣợng phần lớn loại hình đồ trang sức thủy tinh
gặp ở Đông Sơn có thể tìm thấy nguyên mẫu là những đồ trang sức bằng đá mà ngƣời Tiền
Đông Sơn và Đông Sơn thích dùng (Nguyên Trƣờng Kỳ 1990 ; Phạm Minh Huyền 1993...).
Nhƣ vậy, có thể cho rằng đồ thủy tinh Đông Sơn vừa đƣợc sản xuất tại chỗ dƣới ảnh hƣởng
của Sa Huỳnh, thậm chí có thể có mặt những ngƣời thợ Sa Huỳnh tại chính lò thủy tinh trên
đất Đông Sơn, vừa có thể có nhờ trao đổi sản phẩm với cƣ dân Sa Huỳnh.
Về chất liệu, thủy tinh Đông Sơn đƣợc xếp vào loại thủy tinh kiềm. Một số mẫu thủy
tinh địa điểm Làng Vạc đƣợc phân tích có thành phần hóa học cơ bản nhƣ sau : oxit kali (K2O) có hàm lƣợng cao hơn cả (không kể hàm lƣợng SiO2 - cơ sở của mọi loại thủy tinh) từ 18 - 20%; oxit canxi (CaO) từ 2,8-7%; oxit nhôm (Al2O3) từ 0,6 - 1,3% ; oxit magiê (MgO) từ 0,5- 0,8% ; oxit chì không có hoặc chỉ chiếm tỷ lệ không đáng kể, không phải đƣợc cố ý
đƣa vào hợp chất.
Một số mẫu thủy tinh Bái Tê, Xóm Đình cũng khẳng đinh tính chất thủy tinh kiềm. không có chì của các đồ thủy tinh Đông Sơn. Các oxit CaO, Na2O. Al2O3... chiếm tỷ lệ cao trong các mẫu này.
87
Theo thành phần hoá học và kinh nghiệm chế tạo thủy tinh thủ công, có thể đoán rằng
ngƣời Đông Sơn đã nấu cát trộn tro với tƣ cách là chất phụ gia cân thiết. Việc có mặt oxit chì
(PHO) trong thủy tinh dƣờng nhƣ là một yếu tố tiến bộ. Theo tài liệu phân tích hiện có, loại
thủy tinh có chì ở Việt Nam xuất hiện vào vài thế kỷ đầu Công nguyên, nhƣ thủy tinh Đại
Làng, Trà Kiệu.
Để nấu chảy đƣợc cát và chất phụ gia thành nƣớc thủy tinh cần có lò chuyên dụng.
Đối với loại thủy tinh nhẹ (thủy tinh tro hay sođa) nhƣ thủy tinh Đông Sơn, Sa Huỳnh, chỉ cần có lò đạt tới khoảng 1050-11000C. Hẳn đây không phải việc khó đối với ngƣời Đông Sơn- những ngƣời đã thạo nghề luyện kim, có thể tạo ra lò có nhiệt độ cao hơn thế nhiều.
Theo tài liệu dân tộc học, để đạt tới nhiệt độ đó chỉ cần loại lò mở, cấu trúc đơn giản. Phải
chăng vì vậy mà dấu tích của chúng dễ bị mai một theo thời gian để đến nay các nhà khảo cổ
chƣa tìm ra chúng. Chúng ta cũng chƣa tìm thấy dấu tích nồi nấu thủy tinh.
Với kiểu lò mở và nhiệt độ nhƣ nói trên, chỉ có thể tạo ra đƣợc loại thủy tinh đục, lẫn
nhiều tạp chất, có thể dùng những dụng cụ đơn giản để gia công nó nhƣ gia công đồ đá. Tình
hình này hoàn toàn phù hợp với đồ thủy tinh Đông Sơn. Đồ thủy tinh Đông Sơn không đƣợc
tạo bằng phƣơng pháp thổi mà bằng phƣơng pháp ép khuôn và gia công sau dỡ khuôn
(Nguyễn Trƣờng Kỳ 1990). Dấu vết của kỹ thuật tạo tác này còn để lại trên các vòng tay,
vòng tai, khuyên tai... Đông Sơn. Theo tài liệu dân gian, khuôn có thể đƣợc làm bằng đá hoặc
bằng gỗ. Nói chung khuôn gỗ chóng hỏng nhƣng lại tạo đƣợc sản phẩm có chất lƣợng cao
hơn khuôn đá. Có thể ngƣời Đông Sơn chỉ dùng khuôn gỗ nên đến nay chúng ta không tìm
đƣợc dấu tích khuôn nữa.
Tóm lại, ngƣời Việt cổ biết đến nghề thủy tinh khá muộn và do nhiều nguyên nhân
nghề này không phát triển. Kỹ thuật chế tạo đồ thủy tinh mà ngƣời Đông Sơn học tập đƣợc ở
Sa Huỳnh còn đang ở vào giai đoạn sơ khai, và chƣa có biểu hiện của những bƣớc phát triển
tiếp sau. Nghề thủy tinh thổi chỉ xuất hiện trên đất Việt Nam vào những thế kỷ sau công
nguyên và có thể dƣới ảnh hƣởng của những trung tâm chế tạo thủy tinh Trung Á, Ấn Độ
(Lịch sử Việt Nam 1971)
4. Nghề dệt
Nghề dệt đã có mặt phổ biến ngay từ những giai đoạn Tiền Đông sơn. Dọi xe sợi bằng
đất nung là loại di vật thƣờng gặp trong các di chỉ Phùng Nguyên, Đồng Đậu Gò Mun. Sự
phổ biến đặc biệt của loại văn thừng từ rất mịn đến rất thô trên đồ gốm các giai đoạn văn hóa
này là những bằng chứng cho thấy công việc xe sợi lúc này đã trở thành công việc rất quen
thuộc trong cƣ dân. Sợi xe không phải bao giờ cũng đƣợc dùng vào việc dệt vải, nó có thể chỉ
đƣợc dùng làm dây buộc, để đan lƣới bẫy thú, đánh
88
cá. Nhƣng rất may là các nhà khảo cổ học đã tìm thấy bằng chứng về vải ở thời kỳ này. Đó là
dấu vải in trên cục đất nung phát hiện đƣợc ở một địa điểm thuộc giai đoạn Gò Mun (Hà Văn
Tấn 1973).
Chứng tích về nghề xe sợi, dệt vải ở giai đoạn Đông Sơn phong phú hơn nhiều. Một
mặt, các dọi xe sợi và văn thừng vẫn là những điều luôn gặp, mặt khác, quan trọng hơn là
hàng loạt dấu tích vải tìm đƣợc trong các cuộc khai quật và không ít những bức tƣợng tròn,
những hình vẽ ngƣời trang trí trên đồ đồng với xiêm y đa dạng, khiến chẳng có lý do gì để mà
nghi ngờ vai trò của nghề dệt trong xã hội.
Quy trình dệt vải có thể đƣợc tính từ khâu tìm chế các loại sợi và xe sợi. Sợi vỏ cây
rừng chắc phải là nguyên liệu đầu tiên, ở giai đoạn Phùng Nguyên tìm thấy những bàn đập
bằng đá có khía rãnh, mọi ngƣời đều đồng ý cho chúng đƣợc dùng để đập vỏ cây lấy sợi.
Chúng ta còn chƣa biết ngƣời Việt cổ biết trồng cây cho sợi nhƣ đay gai, bông từ lúc nào,
nhƣng qua thƣ tịch cổ và dấu vải để lại thì biết chắc rằng đến giai đoạn Đông Sơn muộn các
loại sợi đó đã trở thành nguồn nguyên liệu chính của nghề dệt của ngƣời Đông sơn. Đay, gai
là những cây bản địa, chúng có thể đƣợc ngƣời Việt cổ trồng từ rất sớm. Ngƣời Đông Sơn
dùng sợi đay gai tạo ra nhiều loại vài khác nhau và đƣợc sách sử cổ nhắc đến nhƣ một thứ
hàng đặc sản của nƣớc ta thời đó. Cây bông có thể đƣợc trồng muộn hơn một chút nhƣng đến
thời Đông Sơn thì cũng đã trở thành rất quen thuộc với vùng Giao Chỉ. Cửu Chân rồi (theo Di
vật chí, Ngô Lục địa lý chí). Tơ tằm cũng có thể là nguồn nguyên liệu dệt truyền thống của
ngƣời Việt cổ. Thƣ tịch cổ, những truyền thuyết dân gian có đôi chỗ nói tới nghề tầm tang-
đó.
Chúng ta cũng không rõ kỹ thuật chế biến sợi đay, gai, bông ra sao trƣớc khi trở thành
nguyên liệu cho khâu xe sợi. Có lẽ cũng tƣơng tự nhƣ cách thức làm thủ công của đồng bào
dân tộc ít ngƣời ngày nay. Dụng cụ dùng cho công việc này hết sức đơn giản hầu nhƣ không
có loại công cụ chuyên dụng nào, trừ cái trục gỗ dùng để cán bông. Theo các nhà nghiên cứu
thì kiểu dáng cán bông này giống nhƣ cái cán bông tìm thấy ở Ấn Độ trong các di chỉ khảo cổ
thuộc đầu thiên niên kỳ II trƣớc công nguyên. Sợi đay, gai chỉ cần dùng bàn đập đập dập vỏ
cây sau đó tƣớc nhỏ rồi chuyển sang công đoạn xe, còn bông thì cần qua thao tác rút thành
sợi rồi cũng chuyển sang xe.
Ngƣời Phùng Nguyên - Đông Sơn đều xe sợi với sự trợ giúp của quả dọi mà chúng ta
biết rất rõ qua các cuộc khai quật khảo cổ. Chúng ta không gặp quả dọi xe sợi bằng đá, nhƣng
cũng không loại trừ việc dùng quả dọi bằng gỗ hoặc bằng một thứ quả rừng khô nào đó, nhƣ
đã thấy ở một số vùng đồng bào thiểu số. Có lẽ quả dọi bằng gốm là tiện lợi hơn cả vì nó vừa
bền lại vừa dễ chế tạo theo hình dáng và trọng lƣợng cần thiết. Theo các nhà nghiên cứu thì
cũng có sự cải tiến nhất định về hình dáng các dọi gốm từ Phùng Nguyên đến Đông Sơn. Dọi các giai đoạn Tiền Đông Sơn thƣờng da dạng
89
nhƣng đến giai đoạn Đông Sơn thi quả dọi hình chóp - hình dáng có lẽ là hợp lý nhất chiếm
ƣu thế tuyệt đối (Hà Văn Phùng 1982).
Theo những dấu vết vài tìm thấy khá nhiều trong các di tích Đông Sơn. có thể thấy sợi
đƣợc xe thô mảnh, săn lỏng khác nhau. Đa số sợi có cỡ trung bình, bằng sợi chỉ khâu hiện tại.
Sợi xe không thật đều, chỗ mảnh chỗ dày. ,
Vải Đông Sơn, qua dấu vết để lại, đều đƣợc dệt theo kiểu lóng mốt - lối dệt đơn giản
nhất, sợi ngang và sợi dọc lần lƣợt xen nhau. Chúng chỉ khác nhau ở độ thƣa, màu của sợi.
Có khi cả sợi ngang và sợi dọc đƣợc dệt rất sít, làm cho mặt vải đanh, chắc. Mảnh vải Làng Vạc có mật độ sợi 11 x 5/1 cm2 , có khi thƣa hơn, sợi nọ cách sợi kia tới 0,2cm nhƣ mảnh vải ở Châu Can (Lƣu Trần Tiêu 1977). Thƣờng gặp loại vải sợi dọc thƣa hơn sợi ngang. Kiểu dệt
lóng mốt nhƣ thế này không đòi hỏi những khung cửi có cấu trúc phức tạp. Loại khung cửi
đơn sơ dùng để dệt vải gia đình, cho mãi tới gần đây vẫn đƣợc làm chủ yếu bằng gỗ, tre.
Dụng cụ phụ trợ cho việc dệt cũng hết sức đơn giản và cũng làm bằng tre gỗ. Trong một vài
mộ quan tài hình thuyền, còn có mặt dụng cụ đƣợc coi là của nghề dệt: cái gạt sợi bằng mảnh
gỗ dẹt đầu có 2 răng, lõi cuộn sợi bằng tre...
Ở giai đoạn Đông Sơn đã có loại vải khổ rộng, có khả năng đƣợc dệt bằng những
khung cửi có cấu trúc tƣơng đối hoàn chỉnh, kiểu nhƣ những khung cửi phổ biến ở các dân
tộc miền núi hiện đại.
Có những bằng chứng về việc nhuộm vải của ngƣời Việt thời Đông Sơn. Một vài di
tích vải tìm thấy ở Làng Vạc có màu xanh chàm. Còn theo Nam Phương thảo mộc trạng,
ngƣời vùng Cửu Chân dùng cây vang để nhuộm vải thành màu đỏ sẫm.
5. Gia công tre gỗ và nghề sơn
Gia công tre gỗ hẳn là công việc rất gần gũi với cƣ dân Phùng Nguyên - Đông Sơn.
Hầu hết các lĩnh vực đời sống xã hội thời đó đều cần đến tre gỗ. Từ chế tác công cụ, nông cụ
đến làm nhà, săn bắt, đánh cá, dệt vải, làm gốm... đều cần phải biết hoặc phải thông thạo các
kỹ thuật gia công tre gỗ.
Có lẽ các biện pháp kỹ thuật trong nghề này hàng nghìn năm nay vẫn cứ là chặt, đẽo,
gọt, đục, cƣa, bào. Chỉ có công cụ dùng vào việc này là thƣờng thay đổi, cải tiến theo những
bƣớc tiến chung của trình độ văn minh. Hãy xem xét những khía cạnh này qua hệ thống
Phùng Nguyên - Đông Sơn.
Trong bộ sƣu tập di vật Phùng Nguyên các công cụ có thể đƣợc dùng để gia công tre
gỗ chiếm ƣu thế tuyệt đối. Chúng đều đƣợc làm bằng đá cứng (spilite và các đá họ bazan), và
có thể phân thành 3 nhóm chính : rìu (lƣỡi vát cân) bôn (lƣới vát lệch) đục (hình dạng không
khác lắm so với rìu, bôn, nhƣng, thƣờng có kích thƣớc nhỏ và chiều
90
dài lớn hơn hẳn chiều rộng. Những công cụ đá này có phần rìa lƣỡi khá sắc, cứng rắn đủ sức
chặt, đẽo tre gỗ. Qua thực nghiệm có thể khẳng định công dụng thực tế của các loại rìu, bôn,
đục Phùng Nguyên, dù rằng chúng có quy mô nhỏ. Chúng ta đều biết rằng, rìu, bôn, đục
Phùng Nguyên có nhiều kiểu dáng, kích thƣớc khác nhau, phần lƣỡi, phần đốc có độ dày
mỏng khác nhau. Sự khác nhau này thƣờng ứng với những công việc cụ thể. những công
đoạn, thao tác khác nhau của quá trình gia công tre gỗ. Loại rìu chặt cây không nhất thiết phải
thật lớn, yêu cầu quan trọng nhất là phải đƣợc làm từ loại đá cứng mà không ròn, thân rìu
phải dày dặn, chắc khỏe. lƣỡi mài vát cân nhƣng không quá mỏng sẽ dễ bị mẻ. Trong số rìu
Phùng Nguyên có không ít loại rìu đủ tiêu chuẩn kỹ thuật nhƣ thế. Việc đẽo thô trong những
bƣớc đầu chế tác cán công cụ, đẽo cột nhà... cũng cần đến loại rìu đó. Còn khi cần đẽo tinh,
làm nhãn những sản phẩm mộc thì ngƣời ta lại dùng những chiếc rìu thân mong hơn, và sau
đó thì phải dùng lƣỡi bôn - ở đây bôn đóng vai trò của chiếc bào).
Đục đá thuộc loại công cụ khá phổ biến ở Phùng Nguyên. Ngƣời ta dùng đục đá để
đục các lỗ mộng cho các loại sản phẩm của nghề mộc. Tuy ở Phùng Nguyên không tìm thấy
bằng chứng trực tiếp của những đồ gỗ có đục lỗ nhƣ các cột, xà nhà sàn nhƣ đã tìm thấy ờ
thời Đông Sơn. nhƣng qua đó và qua sự có mặt của nhiều chiếc đục đá, chúng ta cũng có thể
nghĩ rằng, truyền thống sử dụng liên kết mộng (mà không phải dùng dây buộc hay nhựa cây
để gắn kết là chính nhƣ ở một số dân tộc khác) trong kiến trúc và trong chế tạo nhiều loại đồ
gỗ rất tài tình của ngƣời Việt không chỉ xuất hiện từ thời Đông Sơn mà từ những giai đoạn
Tiền Đông Sơn.
Công việc gia công đồ tre gỗ Đồng Đậu - Gò Mun trở nên thuận lợi hơn nhờ sự tham
gia của những công cụ đồng nhƣ rìu, đục, dao khắc... Dao khắc là dụng cụ mới, nó ra đời hẳn
nhằm đáp ứng những nhu cầu gia công đồ gỗ cầu kỳ tinh tế hơn. Dù sao thì ở thời Đồng Đậu-
Gò Mun công cụ đá vẫn đóng vai trò chính trong hoạt động sản xuất nói chung, trong nghề
mộc nói riêng. Tình hình chỉ khác đi về chất bắt đầu từ thời Đông Sơn. Công cụ đồng và sắt
đã thay thế cho công cụ đá, làm cho việc gia công đồ tre gỗ đạt hiệu quả hơn rất nhiều, đặc
biệt là trong những công việc đòi hỏi tỷ mỷ, cẩn thận, kỹ thuật cao. Chẳng hạn, việc cƣa xẻ
gỗ thành ván. Ngƣời Đông Sơn đã biết sử dụng cƣa lƣỡi kim loại trong nghề mộc. Cƣa tìm
thấy trong mộ quan tài hình thuyền có hình dáng. cấu trúc rất giống cƣa thủ công hiện nay
vẫn dùng.
Có nhiều cơ sở để khẳng định rằng kỹ thuật gia công đồ gỗ thời Đông Sơn tiến bộ
vƣợt bậc so với các giai đoạn trƣớc đó. Bên cạnh lề thôi làm mộc cũ, đã xuất hiện những
ngƣời thợ mộc chuyên nghiệp, có tay nghề cao và hẳn là không chỉ làm đồ gỗ cho gia đình
mình mà còn làm giúp, làm thuê cho ngƣời khác, chúng ta đã tìm thấy trong một ngôi mộ gần
nhƣ đầy đủ một bộ đồ nghề thợ mộc minh khí gồm cƣa đục,
91
dùi, đột, dùi đinh, đục bằng, đục vũm, vời, khoan (Đinh Văn Kiền, Lê Xuân Diệm 1973).
Xem ra bộ đồ nghề của các bác thợ mộc nông thôn gần đây chẳng khác là mấy. Tay nghề và
kỹ thuật làm mộc tiến bộ của ngƣời Đông Sơn đƣợc chứng minh thực tế qua chứng tích nhà
sàn làm bằng gỗ đục đẽo công phu ở địa điểm Đông Sơn, qua những chiếc thuyền lớn có
chạm khắc trang trí mũi thuyền uốn cong. Đây không còn là những chiếc thuyền độc mộc, chỉ
cần cƣa và rìu với sức ngƣời là xong, mà đã cần đến cả tay nghề lẫn tri thức khoa học của
những ngƣời tạo ra chúng.
Vào thời đại Đông Sơn, chúng ta còn tìm thấy dấu tích của đồ sơn và nghề làm sơn.
Đa số đồ sơn có cốt là đồ gỗ, nên có thể thấy, nghề mộc và nghề sơn "có quan hệ rất khăng
khít. Tất nhiên, vẫn tồn tại cả đồ sơn có cốt là đồ đan. da thú...
Cho tới nay đồ sơn chỉ đƣợc tìm thấy trong các mộ quan tài hình thuyền nhờ diều kiện
bảo lƣu tốt của, loại hình di tích này. Phần lớn đồ sơn có cốt tin, và là những đồ dùng thông
thƣờng nhƣ chén có tai, đĩa, đấu, bát, khay... Mầu sơn khá đa dạng : đỏ, đen, vàng, cánh gián,
nghĩa là đã có đủ mầu gần giống nhƣ các màu của nghệ thuật sơn mài hiện tại. Theo nhận xét
của các nhà nghiên cứu thì kỹ thuật tạo lớp nƣớc sơn cùng ngƣời Đông Sơn nhƣ thế là cao.
Mặc dù bị ngâm lâu đến hơn 2000 năm trong lòng đất ẩm, thậm chí thƣờng xuyên bị ngập
nƣớc, mà lớp sơn không bị bong, xin mà vẫn bóng tƣơi nhƣ mới (Phạm Quốc Quân. Nhã
Long 1991).
Nghề sơn thời Đông Sơn đƣợc biết tƣợng đối cụ thể qua phát hiện bộ đồ nghề sơn tìm
thấy trong mộ quan tài hình thuyền. Bộ dụng cụ này gồm đến 14 hạng mục: bát đựng có tay
cầm, chổi quét và vét sơn hình móng ngựa có nhiều răng nhỏ nhƣ lƣợc bí, cái vầy dùng để
miết và quấy sơn, cái thép một đầu khía răng cƣa, chày để nghiền... (Đinh Văn Kiền, Lê
Xuân Diệm 1973 ; Phạm Quốc Quân 1978). So sánh với bộ đồ nghề sơn thủ công hiện tại, bộ
dụng cụ trên không khác nhiều tuy có phần sơ sài hơn, Ở đây không thấy có những dụng cụ
của cắt để khảm trai hay cái râv sàng vàng bạc hay dụng cụ đánh bóng (Lê Huyên 1991). Có
thể thấy rằng dụng cụ tìm đƣợc ở thời Đông Sơn chủ yếu dùng trong việc chế biến sơn.
Ở trên đã giới thiệu rằng đồ sơn thời Đông Sơn có 4 màu : cánh gián, đỏ, đen, vàng.
Theo kinh nghiệm dân gian, màu cánh gián là màu sơn đẹp nhất, đƣợc ƣa chuộng nhất và
đƣợc chế tạo chỉ bằng cách nguấy kỹ lớp nƣớc sơn có chất lƣợng cao nhất. Sơn đỏ (sơn son)
nhờ pha thêm đầu chẩu hay bột đá thần sa, sơn đen (sơn then) nhờ pha nhựa thông, than củi
hay bột đá đen.
Đồ sơn của thời Đông Sơn đƣợc thấy là rất bền đẹp. Theo kinh nghiệm của nghề sơn,
để có đƣợc chất lƣợng nhƣ vậy, cần phải sơn nhiều lớp, nhiều lần và phải làm hết sức cẩn
thận, tỷ mỷ (Lê Huyên 1991).
92
Theo tài liệu hiện biết, đƣờng nhƣ đồ sơn chỉ phổ biến ở lƣu vực sông Hồng. Đây
cũng là vùng trồng cây sơn chủ yếu của ta. Hiện nay chúng ta cũng chƣa có đủ tài liệu để bàn
về nguồn gốc nghề sơn ở Việt Nam. Cũng có thể trong sự ra đời của nó có ảnh hƣởng không
nhỏ từ phía Trung Quốc, nơi có nghề sơn rất phát đạt.
6. Nghề đan lát
Nghề đan lát có mặt ở khắp mọi nơi trong mọi dân tộc trên thế giới, nhƣng chúng rất
khác nhau ở nguyên liệu dùng để đan, cách thức và kỹ thuật đan. Còn loại hình đồ đan thì cực
kỳ phong phú, đa dạng. Tre nứa là những nguyên liệu lý tƣởng cho nghề này, thuộc giống cây
bản địa của Đông Nam Á, trong đó Việt Nam là một trong những nơi giàu tài nguyên tre nứa
nhất. Chẳng thế mà sử sách cổ đã không ít lần nhắc đến sự phong phú đặc biệt của giống cây
này ở nƣớc ta. Và chính tre nứa đã tạo nên những sắc thái cho nghề đan đồ đan khu vực này.
Chẳng cần nói thì ai cũng đã quá rõ đồ đan và nghề đan phổ biến thế nào trong lao
động sản xuất và đời sống sinh hoạt của mối gia đình ngƣời Việt xƣa nay.
Kỹ thuật và các kiểu đan của ngƣời Phùng Nguyên - Đông Sơn đã bỏ xa lối đan của
những cƣ dân thời đại đá mới mà chúng ta biết đƣợc nhờ dấu vết của nó còn in dấu trên đồ
gốm của thời đại này. Trên mảnh đáy của một số đồ gốm đáy bằng suốt từ thời Phùng
Nguyên đến Đông Sơn còn hằn rõ phên đan kiểu long mốt và long đôi, nan đan khi rộng khi
hẹp. Hai lối đan này là lối đan cơ bản tồn tại gần nhƣ không đổi cho đến tận ngày nay.
Kỹ thuật và công cụ dùng trong nghề này thật đơn giản không có gì đáng bàn. Nhƣng
cũng không phải không bị phân vân khi trong các bộ công cụ thuộc các giai đoạn văn hóa nêu
trên hầu nhƣ không thấy có mặt những con dao - loại dụng cụ gần nhƣ cần duy nhất cho công
việc đan lát. Bằng thực nghiệm dùng rìu đá Phùng Nguyên để gia công đồ đan từ khâu đầu
tiên là chặt cây tre, đến pha nan chẻ lạt vót nan vót sợi mây để cạp miệng rổ rá... Chúng tôi
thấy hoàn toàn yên tâm khi kết luận rằng rìu đá hoàn toàn làm tốt mọi chức năng nhƣ những
con dao, chỉ cần chú ý lụa chọn từng loại rìu, bôn sao cho thích hợp nhất với từng công đoạn
làm việc. Và nhƣ vậy thì đối với rìu đồng, sau đó là sắt, thì không còn gì để nghi ngờ nữa.
Đƣơng nhiên con dao sắt vẫn là dụng cụ lý tƣởng cho những ngƣời làm đồ đan. Rất nhiều khả
năng ở cuối thời kỳ này đã có dao sắt (chúng ta đã biết đến liềm sắt Đông Sơn).
Ngoài tre nứa, ngƣời Việt cổ còn dùng cói trong đan lát. Cây cói chỉ trồng đƣợc ở một
số vùng ngập nƣớc, nó không có tính phổ thông nhƣ tre nứa. Cói chủ yếu dùng để đan chiếu.
Chứng tích về cói đƣợc tìm thấy trong một số mộ Đông Sơn có tục bọc thi thể trong chiếu cói
rồi mới để vào trong quan tài. Chúng ta rất khó biết trƣớc Đông
93
Sơn, ngƣời Việt cổ đã dùng đồ đan bằng cói chƣa, bởi vì đây là loại vật liệu dế bị tiêu hủy.
Chúng ta cũng chƣa đủ tài liệu đổ nói về kỹ thuật trồng, thu hoạch, gia công nguyên
liệu cói ở thời đó. Chỉ thấy dấu vết chiếu cói còn lại cũng tƣơng tự kiểu đan chiếu cói ngày
nay. Kỹ thuật dệt cói nhƣ bây giờ chƣa thể xuất hiện ở thời Đông Sơn, dù là ở dạng sơ khai.
Có lẽ ngƣời ta chỉ dùng lối đan bện đơn giản.
7. Nghề chế tác đá.
Kỹ thuật chế tác đá của ngƣời Việt cổ đã đƣợc đẩy lên đỉnh cao của kỹ nghệ gia công
đá thời tiền sử - sơ sử. Nếu tính đến ý nghĩa, vai trò của nghề chế tạo đồ đá trong nền sản
xuất- kinh tế xã hội nói chung thì chúng ta có thể thấy rõ xu hƣớng ngày càng giảm sút của
nó từ giai đoạn đầu hình thành ngƣời Việt cổ đến giai đoạn phát triển đỉnh cao Đông Sơn.
Đƣơng nhiên sự suy thoái này không gắn với tri thức kỹ thuật và các kỹ thuật cụ thể đƣợc
ngƣời thợ đá sử dụng. Về mặt này, trong những lĩnh vực chế tác đá đã nhất định (chẳng hạn
chế tác đồ trang sức) lại có sự cải tiến kỹ thuật nhất định và hẳn là đã đƣa vào sản xuất những
dụng cụ gia công mới cho hiệu quả cao hơn. Những tài liệu hiện có cho phép các nhà nghiên
cứu tìm hiểu đƣợc khá kỹ các quy trình kỹ thuật và các kỹ thuật cụ thể đã đƣợc tin) đá Việt
cổ sử dụng để sản xuất các loại sản phẩm của mình. Ở đây chúng tôi sẽ chỉ điểm qua những
nét chung nhất về các kỹ thuật đó.
Nếu nhƣ ở trên đã nói về sự phong phú của tƣ liệu để nghiên cứu nghề đá, thì có lẽ
nên mở ngoặc trừ đi phần nào sự thiếu hụt tài liệu để tìm nguồn nguyên liệu và khai thác
nguyên liệu chế tác đá ở vùng lƣu vực sông Hồng. Những loại đá spilite (và một số đá có gốc
basalt) để chế tác công cụ và các loại đá ngọc nephrite và jaspe để chế tạo đồ trang sức, mũi
khoan đá đƣợc dùng phổ biến trong các công xƣởng ở vùng này không có nguồn mỏ tại chỗ
nhƣ trƣờng hợp công xƣởng chế tác công cụ đá bằng đá basalt ở lƣu vực sông Mã. có nhiều
khả năng các loại đá này đƣợc chở từ xa đến, xuôi theo dòng chảy của sông Hồng, sông Đà
và các chi lƣu của chúng. Thậm chí không loại trừ khả năng chúng đƣợc mang đến đây từ
những vùng rất xa, ngoài biên giới Việt Nam ngày nay.
Tài liệu ở khu công xƣởng Đông Khối cho thấy, khi khai thác nguyên liệu đá gốc,
ngƣời thợ đá thời này thƣờng sơ chế tại chỗ, chỉ đem về công xƣởng gia công đồ đá những
phác vật hội đủ những yêu cầu kỹ thuật cho những bƣớc gia công tiếp sau. Nhƣ thế họ đã tiết
kiệm đƣợc rất nhiều công sức chuyên chở nguyên liệu. Kỹ thuật chủ yếu đƣợc sử dụng ở đây
là ghè đẽo trực tiếp.
Kỹ thuật ghè đẽo đƣợc sử dụng rất rộng rãi trong khâu chế tạo phác vật. Mặc dù đây
là kỹ thuật chế tác đá xuất hiện ngay từ buổi đầu hình thành con ngƣời. nhƣng cho
94
đến tận thời đại kim khí này, nó vẫn là khâu kỹ thuật thuộc loại khó nhất, đòi hỏi tay nghề
cao, không phải ai cũng có thể làm đƣợc nhƣ những kỹ thuật cƣa, mài. Và chắc hẳn đây cũng
là khâu kỹ thuật dễ tạo ra phế vật nhất. Chúng ta đã gặp ở công xƣởng Đông Khối vô cùng
nhiều mảnh tƣớc, phác vật thuộc những bƣớc gần nhƣ tiếp nối nhau tiến dần từ phác vật so
chế đến, phác vật hoàn chỉnh, phác vật đã có dấu mài nhiều ít khác nhau... Hẳn là trong số đó
có không ít chiếc đã trở thành phế vật.
Qua phác vật chúng ta cũng có thể đoán định đƣợc rằng, chúng đã đƣợc ghè đẽo bằng
những phƣơng pháp và dụng cụ khác nhau. Cách ghè trực tiếp thƣờng dùng để chế những
phác vật thô ban đầu. Càng về sau, nhát ghè càng phải làm sao tạo ra đƣợc những mảnh tƣớc
mỏng, mặt âm của chúng để lại trên phác vật thật nông. Nhƣ thế khi mài sẽ đỡ tốn công hơn
rất nhiều. Để ghè ra đƣợc những mảnh tƣớc mỏng, nhỏ. ngƣời ta phải sử dụng phƣơng tiện
ghè gián tiếp. Dụng cụ dùng trong khâu kỹ thuật này đơn giản chỉ là những hòn ghè, chày
vồ... bằng đá hoặc bằng gỗ cứng.
Kỹ thuật ghè đẽo đƣợc dùng không chỉ để tạo phác vật công cụ (rìu, bôn, đục...) mà
còn dùng để tạo phác vật đồ trang sức (công xƣơng Hồng Đà)...
Kỹ thuật tu chỉnh ép không phổ biến ở nƣớc ta thời tiền sử, nhƣng không phải là
không có. Những mũi khoan đá ở công xƣởng Bãi Tự. Tràng Kênh đƣợc tạo ra chính bằng kỹ
thuật này. Các nhà nghiên cứu còn tìm thấy tại đây một loại dụng cụ bằng đá có khả năng
dùng làm que ép. Những vẩy tƣớc li ti đƣợc tách ra từ những phác vật mũi khoan bé tý bằng
đá thì jaspe, không khỏi làm chúng ta ngạc nhiên trƣớc kỹ thuật gia công đá của tổ tiên chúng
ta.
Kỹ thuật cƣa có lẽ xuất hiện gần nhƣ đồng thời với kỹ thuật mài. Thực chất, cƣa là
mài liên tục trên một đƣờng thẳng. Kỹ thuật cƣa rất phổ biến trong chế tác công cụ và đồ
trang sức của ngƣời Phùng Nguyên - Đồng Đậu - Gò Mun vùng lƣu vực sông Hồng. Trong
khi đó, ở lƣu vực sông Mã tình hình có phần khác: tại di chỉ xƣởng Đông Khối chúng ta chƣa
tìm thấy dấu vết kỹ thuật cƣa (Hà Văn Tấn 1968). Còn những rìu nhỏ bằng đá quý có dấu cƣa
tìm thấy ở vùng này có thể đƣợc du nhập (Hà Văn Tấn 1994). Đến thời Đông Sơn, nghề đá
chế tác công cụ đã suy giảm hẳn chỉ còn gặp công xƣởng chế tác đồ trang sức tại lƣu vực
sông Mã. Kỹ thuật cƣa hầu nhƣ không đƣợc sử dụng. Ngƣời ta tạo phác vật chủ yếu bằng kỹ
thuật ghè đá thành các hòn đá tròn dẹt, sau đủ mài nhẵn rồi khoan.
Dụng cụ dùng để cƣa là những lƣỡi cƣa đá các cỡ, từ dày đến mỏng đƣợc tạo từ loại
sa thạch cỡ hạt khác nhau, nhƣng nhìn chung không có loại thật thô. Lƣỡi cƣa thƣờng là
những phiến đá dẹt. một bên rìa lƣõi vát chữ V cân. Khi cƣa ngƣời ta phải nhỏ nƣớc vào
đƣờng cƣa và có thể rắc thêm cát để tăng độ mài mòn. Các lƣỡi cƣa
95
thƣờng đƣợc sử dụng rất triệt để. Những lƣỡi cƣa tìm thấy trong các cổngxƣởng thƣờng chỉ
là những mảnh nhỏ, mỏng. Có thể chúng đã đƣợc sử dụng mòn gần hết không còn đủ độ rộng
bản để kẹp vào cán cƣa. Có thể chúng đã bị gãy thành nhiều mảnh trong khi làm việc.
Cũng không loại từ khả năng dùng thanh tre hay dây sợi thực vật kết hợp với cát và
nƣớc để cƣa nhƣ tài liệu dân tộc học đã cho biết.
Kỹ thuật khoan bao gồm 2 loại - khoan lỗ và khoan tách lõi. Cả hai kỹ thuật khoan
đƣợc sử dụng chủ yếu trong việc chế tạo đồ trang sức bằng đá: vòng tay, khuyên tai, hạt
chuỗi...
Kỹ thuật khoan lỗ tƣơng đối đơn giản. Có thể có các phƣơng pháp : khoan cung,
khoan đĩa thậm chí chỉ đơn giản dùng tay dùi hoặc vo bằng hai tay. Trong mộ Đông Sơn
muộn đã tìm thấy một chiếc khoan đĩa có cấu trúc giống khoan đĩa của ngƣời Mƣờng hiện
đại. Dụng cụ dùng để khoan quan trọng nhất là mũi khoan. Tại Bãi Tự, Tràng Kênh chúng ta
đã tìm thấy nhiều mũi khoan bằng đá jaspe. Các nhà thực nghiệm đã sử dụng thành công mũi
khoan này lắp vào thân khoan kiểu khoan đĩa để khoan lổ hạt chuỗi ( Nguyên Kim Dung
1992). Chúng ta chƣa tìm thấy những di vật bằng đồng hoặc bằng sắt có thể tin chắc là những
mũi khoan, nhƣng không thể loại trừ khả năng, ít ra thì cũng là ở giai đoạn Đông Sơn, dùng
mũi khoan kim loại. Vào thời Đông Sơn chúng ta không còn gặp những mũi khoan đá nữa.
Khoan tách lõi là kỹ thuật chủ chốt trong quy trình chế tạo vòng trang sức. Theo tài
liệu đã biết khoan tách lõi có thể thực hiện bằng một số phƣơng pháp khác nhau. Đơn giản và
phổ biến hơn cả là cách khoan cung và khoan đĩa tƣơng tự phƣơng pháp khoan lỗ, chỉ khác ở
chỗ mũi khoan đƣợc thay thế bằng ống khoan. Một phƣơng pháp khác có thể đƣợc sử dụng
là khoan compa biến thế, mũi khoan đƣợc đặt cố định nhờ hệ thống compa đặt cố định bên
ngoài bàn xoay, vật để khoan đƣợc kẹp chặt trên bàn xoay- Khi quay bàn xoay mũi khoan cố
định sẽ vạch trên vật khoan đƣờng rãnh hình tròn (Nguyễn Kim Dung 1992). Chúng ta khó
khẳng định đƣợc thợ đá thời này chọn cách khoan nào, chỉ biết rằng, tay nghề của họ rất cao,
những lõi vòng tìm thấy trong các công xƣởng chế tác đồ trang sức rất tròn đều, kể cả những
lõi vòng dày hơn lcm, thành lõi thƣờng khá thẳng góc, có khi rất thẳng. Nhƣng để tránh tình
trạng rãnh khoan bị chạy xiên, ảnh hƣởng đến chất lƣợng và tốn phí nguyên liệu, ngƣời ta
thƣờng dùng cách khoan từ 2 mặt. Thƣờng sự lệch pha giữa 2 mặt không lớn lắm, chứng tỏ
độ chính xác của dụng cụ và kỹ thuật khoan. Ở thời Đông Sơn hầu nhƣ không thấy lối khoan
từ 2 phía. mặc dù cũng có những lõi vòng dày đến lcm và đƣờng kính chỉ nhỏ tí (khoảng
0,5cm). Điều này không thể giải thích bằng cách nào khác, là ở đây đã xuất hiện dụng cụ
khoan và mũi khoan mới có chất lƣợng hơn, cho phép ngƣời ta khoan liền một mạch.
96
Loại mũi khoan vừa mảnh vừa cứng sắc có lẽ phải đƣợc làm bằng sắt?
Kỹ thuật đục đá ở giai đoạn Tiền Đông Sơn, nếu không tính đến cùng đoạn đục đá
gốc khai thác nguyên liệu, đƣợc sử dụng phổ biến ở công xƣởng chế tạo vòng tay Hồng Đà.
Tại đây ngƣời ta kết hợp giữa khoan tách lõi ở một mặt, mặt kia dùng lối đục dần. Cũng có
khi đục từ cả 2 mặt cho đến thủng mà không dùng đến cách khoan. Cách đầu sẽ đỡ công mài
sửa, nhƣng đảm bảo khoan thành công không phải dễ. Lối đục cả 2 mặt có thể mất không ít
thời gian, nhƣng kỹ thuật đơn giản hơn, dễ thực hiện hơn.
Kỹ thuật đục còn đƣợc dùng để chế tác các khuôn đúc bằng đá. Nhƣ chúng tôi đã giải
thích ở phần luyện kim, từ giai đoạn Đồng Đậu tiến Đông Sơn, gặp nhiều khuôn đúc bằng đá
đáp ứng đƣợc đầy đủ những yêu cầu kỹ thuật. Một phần việc quan trọng, tạo ra chất lƣợng
cao cho vật đúc chính là kỹ thuật dục mặt lõm trên 2 mang khuôn đúc.
Kỹ thuật mài lẽ đƣơng nhiên là thuộc loại kỹ thuật thông dụng số một kể từ lúc con
ngƣời bƣớc vào thời đại đá mới. Kỹ thuật mài đƣợc sử dụng trong chế tác mọi loại đồ đá - từ
công cụ đến đồ trang sức. khuôn đúc... Có nhiều kiểu bàn mài khác nhau : mài bằng hơi lõm
lòng chảo, mài rãnh, mài trong. Mỗi loại bàn mài lại ứng với những thao tác hoặc loại hình
hiện vật cụ thế nhƣ mài thân rìu. mài rìa cạnh rìu. mài lƣỡi, màn thân vòng, mài cạnh trong
vòng...
Độ thô mịn của bản mài cũng đƣợc ngƣời thợ rất quan tâm lựa chọn dùng một cách
hợp lý. Đầu tiên, phức vật vừa tạo xong bằng kỹ thuật ghè đẽo sẽ đƣợc mài phá trên bàn mài
thật thô. Càng đi tiếp những bƣớc mài sau bàn mài càng cần bớt độ thô đi, tiến dần đến bàn
mài mịn, rất mịn, để làm vật mài trở nên nhẵn bóng. Ở cụm công xƣởng chế tác đồ trang sức
Bái Tê đã tìm thấy những mảnh khuyên tai đã đƣợc đánh bóng đến mức đáng ngạc nhiên.
Theo tài liệu dân tộc học. muốn cho vòng đá có màu sắc và độ bóng hấp dẫn, ngƣời thợ phải
nhuộm, nung vòng mộc theo một quy trình kỹ thuật khá cầu kỳ. Phải chăng đồ trang sức Bái
Tê cũng đƣợc gia công theo những bƣớc tƣơng tự (?).
II. CÁC KỸ THUẬT PHI SẢN XUẤT
Có thể kể vào đây tất cả những kỹ thuật phục vụ cho đời sống sinh hoạt vật chất (ăn.
ở, mặc, giao thông vận tải...) và tinh thần (âm nhạc, múa, tôn giáo...) của con ngƣời. Nhƣng ở
đây chúng tôi sẽ không giới thiệu đầy đủ tất cả đƣợc. Vấn đề quá rộng, không thể gói gọn
trong vài trang. Hơn nữa, lúc này chúng tôi chƣa đủ tài liệu. Chúng tôi chỉ có thể trình bày sơ
lƣợc về vài ba kỹ thuật tƣơng đối quan trọng và có phần nào tài liệu để bàn luận.
97
1. Kiến trúc
Có một thực tế là trừ địa điểm Đông Sơn, nơi đã tìm thấy những dấu tích nhà sàn,
hàng trăm di chỉ Phùng Nguyên - Đông Sơn đã đƣợc khai quật, nhƣng chƣa tìm thấy một dấu
tích nhà cửa rõ ràng, chắc chắn nào, ngoài một số dấu vết có thể là lỗ chôn cột hoặc dấu vét
nền đất nện chặt hay những hố rác bếp, những dấu vết than tro ken dày có thể là nơi đun nấu
thƣờng xuyên. Chúng ta có nhiều cơ sở để khẳng định rằng nhà cửa của ngƣời Việt cổ đƣợc
xây dựng hoàn toàn bằng tre gỗ lợp lá, rơm rạ. Đây là loại nhà phù hợp nhất với điều kiện
môi trƣờng nhiệt đới gió mùa nhƣ Việt Nam.
Cấu trúc cụ thể của nhà ngƣời Việt cổ, kỹ thuật xây dựng của họ, chúng ta nhận biết
đƣợc phần nào nhờ vào dấu tích nhà tìm thấy ở địa điểm khảo cổ học Đông Sơn, vào những
hình nhà trang trí trên đồ đồng Đông Sơn và vào một vài điều ghi chép trong sách sử cổ. Qua
những tài liệu nhƣ vậy chúng ta biết rằng, nhà sàn là loại nhà phổ biến hơn cả. Sách Lĩnh
Nam chích quái viết rằng dân ta "bắc gỗ làm nhà để tránh hổ sói". Những ngôi nhà đƣợc
khắc trên trống đồng đều thuộc loại nhà sàn. Vết tích nhà ở địa điểm Đông Sơn cũng là vết
tích nhà sàn. Tại địa điểm này đã tìm thấy nhiều cây cột, đoạn gỗ đƣợc đục đẽo khá cẩn thận
(đẽo vạt, đục mộng, cƣa...). Tại đây còn tìm thấy những hố đất ăn sâu xuống lớp sinh thổ, bố
trí theo trật tự nhất định kiểu nhƣ những lỗ chôn cột nhà sàn. Tìm thấy dấu phên đan có lẽ là
phên lát sàn và thƣng vách nhà.
Nhƣ vậy, chúng ta có thể đƣa ra vài đặc điểm cấu trúc nhà Đông Sơn nhƣ sau : nhà
sàn có những cột cái đƣợc chôn chặt xuống đất. Khung nhà dựng bằng gỗ tròn, cố kết với
nhau bằng kỹ thuật mộng - ngoăm là chính. Sàn nhà đƣợc lát phên đan bằng tre nứa lên trên
hệ thống đầm sàn. Mái nhà lợp bằng những vật liệu nhẹ, dễ kiếm tại địa phƣơng : lá cây (cọ),
cỏ gianh, rơm rạ, có 2 kiểu mái nhà sàn đƣợc khắc họa trên trống đồng là mái dài và mái tròn.
Mái dài đƣợc thể hiện bằng hình thang, cạnh đáy lớn ở trên nóc, cạnh nhỏ ở đuôi rìa mái.
Ngày nay, nhà sàn ngƣời Mƣờng không còn có kiểu mái này. Nhà mái tròn đƣợc phủ kín các
phía thấp xuống đến sàn nhà. hai đầu mái cũng nhô cao. Các nhà nghiên cứu cho rằng hai
kiểu nhà ứng với hai loại công: dụng khác nhau - nhà dài có thể mang ý nghĩa nhà công cộng
- kiểu nhà rông Tây Nguyên ngày nay. Nhà mái tròn - có thể là nơi chứa đựng lƣơng thực.
Đƣơng nhiên, nhà ở thông thƣờng của cƣ dân cũng không khác xa loại nhà công cộng này.
Chắc rằng ngƣời Việt thời Đông Sơn chƣa ở trong những ngôi nhà đất nhƣ sau này.
khi đã chịu ảnh hƣởng mạnh mẽ văn hóa phƣơng Bắc. Nhƣng ngƣời Việt cũng chỉ tiếp thu
yếu tố ngoại lai một cách hạn chế : chỉ bỏ nhà sàn, nhƣng các kỹ thuật dựng nhà, các cấu trúc
cột kèo, vì mái, chất liệu lợp mái, thƣng vách... vẫn làm theo truyền thống cũ, không giống
kiểu nhà ngƣời phƣơng Bắc.
98
Chúng ta còn chƣa có tài liệu nào về các công trình kiến trúc mang tính chất tôn giáo.
Rõ ràng ngƣời Việt cổ không có ý định xây dựng những công trình tôn giáo quy mô. Ngay cả
sau này, những nơi thờ cúng của làng xã chủ yếu vẫn là những "thảo am" làm bằng tranh tre
(Hà Văn Tấn 1993). Thời Đông Sơn càng là vậy. Chúng ta đã khai quật hàng trăm di tích
Tiền Đông Sơn và Đông Sơn, nhƣng chƣa hề gặp một dấu tích nào của đền đài, miếu mạo.
Về dụng cụ dùng để đựng nhà, chúng tôi đã nói tới ở phần nghề mộc: những giai đoạn
đầu, dụng cụ làm mộc chủ yếu làm bằng đá, chủ lực là rìu, bôn, đục, sau đó xuất hiện rìu
đồng, đến Đông Sơn dụng cụ bằng đồng, sắt thay thế gần nhƣ hoàn toàn cho dụng cụ đã. Với
sự ra đời của bộ dụng cụ làm mộc tƣơng đối hoàn chỉnh, tiến bộ, công việc xây dựng nhà cửa
tiến hành đƣợc thuận lợi, hiệu quả hơn.
Vào giai đoạn muộn của văn hóa Đông Sơn xuất hiện một công trình xây dựng đặc
biệt - thành ốc Cổ Loa. Thực ra, theo sách sử cổ, trƣớc thành Cổ Loa còn thấy nói đến thành
Văn Lang của Kinh Dƣơng Vƣơng (?) ở vùng Bạch Hạc - Việt Trì. Nhƣng chúng ta chƣa tìm
thấy dấu vết thành này. Thành Cổ Loa đƣợc đắp hoàn toàn bằng đất. Đất đắp thành đƣợc lấy
ngay ở phía ngoài chân thành. Nhƣ vậy, việc đắp thành đƣợc thực hiện song song vói đào
hào. Tƣờng thành hiện tồn khá quy mô : chân thành rộng đến 20m đƣợc kè đá chống sụt lở,
thành cao từ 3.4m đến 12m. Vòng thành ngƣời và giữa đều lợi dụng những gò đất tự nhiên,
chỉ đắp những đoạn nổi các gò này lại với nhau nên chúng có hình dáng tự nhiên khác vòng
thành trong cùng, có hình chữ nhật rất chỉnh, đƣợc đắp có quy hoạch rõ ràng. Các vòng thành
đều có cửa thành : vòng trong 1 cửa, vùng giữa 4 cửa, vòng ngoài 3 cửa.
Thành Cổ Loa không chỉ lợi dụng những quả gò tự nhiên để tạo tƣờng thành, mà còn
triệt để lợi dụng thế sông. Sông Hoàng bọc lấy một đoạn thành ngoài trở thành hào chắn tự
nhiên, đồng thời cung cấp nƣớc cho hệ thống hào đào của cả 3 vòng thành. Sông Hoàng còn
là con đƣờng giao thông thủy tiện lợi, thông thƣơng giữa thành với bên ngoài (Đỗ Văn Ninh
1983).
Về niên đại và chủ nhân thành Cổ Loa còn những ý kiến khác nhau (Trần Quốc
Vƣợng 1963 ; Phạm Văn Kinh 1969 ; Đỗ Văn Ninh 1983) nhƣng nhìn chung các ý kiến đều
thừaa nhận có một thành Cổ Loa của An Dƣơng Vƣơng. Nó không hẳn là cả 3 vòng thành
còn tồn tại tới nay, nhƣng cũng không khác nhiều về cấu trúc, kỹ thuật đắp thành, vị tri các
vùng thành.
Trong kiến trúc của ngƣời Việt cổ từ thời Đông Sơn trở về trƣớc, chƣa thấy sự có mật
của các vật liệu nào khác ngoài gỗ, tre nứa, lá, cỏ, rơm rạ. Mặc dù ngƣời Việt rất ƣa chuộng
và sản xuất nhiều đồ gốm, nhƣng chƣa có ngành sản xuất vật liệu xây dựng nhƣ ngói, gạch.
Những vật liệu xây dựng này xuất hiện ở ta dƣới ảnh hƣởng của ngƣời Hán.
99
2. Giao thông
Có thể nói ngay rằng, phƣơng tiện giao thông vận tải đƣờng xa quan trọng nhất đối
với ngƣời Việt thời dựng nƣớc là thuyền bè. Hầu hết các di chỉ cƣ trú của họ nằm liền kề
những con sông lớn và chi lƣu của chúng. Ngay cả những di tích mô cổ cũng nằm sát bờ
sông, suối. Trên hoa văn đồ đồng, thuyền là một trong những môtíp chủ đạo và là phƣơng
tiện chuyên chở duy nhất đƣợc thể hiện cụ thể. Loại mộ quan tài hình thuyền phát hiện đƣợc
khá nhiều ở những vùng đồng trũng.
Theo tài liệu khảo cổ học, chúng ta biết đƣợc hai loại thuyền của ngƣời Đông Sơn ( ở
giai đoạn Tiền Đông Sơn chúng ta chƣa tìm thấy dấu tích thuyền). Một là thuyền độc mộc
làm từ một cây gỗ nguyên khoét lòng. Theo cách thông thƣờng, thuyền đƣợc khoét lông nhờ
lửa và rìu. Thuyền đƣợc chèo bằng mái chèo hình dạng giống nhƣ mái chèo hiện đại. Loại
thuyền thứ 2 đƣợc chế tác chắc phức tạp hơn thuyền độc mộc - nó có thể mang tính chất
thuyền lễ nghi vì nó đƣợc dùng trong những lễ hội nhƣ đƣợc miêu tả trên hoa văn đồ đồng
Đông Sơn. Những thuyền này có quy mô lớn hai đầu cong vút lên thuyền có nhiều ngƣời
đang đứng ngồi ở những tƣ thế khác nhau. Thuyền có nhiều ngƣời chèo. Rõ ràng đây không
còn là thuyền độc mộc đơn giản nữa.
Ngoài ra chắc chắn còn những kiểu thuyền đơn giản hơn hoặc những kiểu bè mảng
ghép bằng tre nứa hoặc bằng gỗ cây. Những vật liệu kém bền vững này đã bị thời gian làm
tan biến từ lâu, không thể còn để chúng ta nghiên cứu nữa.
Tất nhiên, so với giao thông đƣờng thủy kể trên. giao thông đƣờng bộ vẫn là phổ biến.
Đi bộ và mang vác. gánh gồng hẳn là cách di chuyển phổ thông nhất. Trong lĩnh vực này có
lẽ không có kỹ thuật gì đáng bàn luận. Tuy theo hoàn cảnh tự nhiên mà ngƣời ta chọn lối
chuyên chở đồ đạc thích hợp: ở vùng núi dùng gùi đan bằng tre nứa đeo sau lƣng, ở vùng
đồng bằng dùng quang gánh... Chúng tôi chƣa có tài liệu nào nói về sự có mặt của một loại xe
kéo hay xe có bánh do ngƣời hoặc súc vật kéo trong thời Đông Sơn hay sớm hơn. Nhƣng
chúng ta lại biết sự việc ngƣời Đông Sơn dùng voi chở hàng qua hoa văn trang trí trên đồ
đồng Đông Sơn. Voi là một trong số súc vật đƣợc thuần dƣỡng sớm ở nƣớc ta và đƣợc sử
dụng khá phổ biến trong đời sống ngƣời Việt cổ. Chẳng thế mà đến những năm đầu công
nguyên Hai Bà Trƣng đã dùng voi đánh trận. Voi là loài vật rất thích hợp với việc đi lại,
chuyên chở trong vùng rừng nhiệt đới. Ngƣời Việt đã hiểu rõ khả năng của voi và sử dụng
chúng.
Các kỹ thuật xoay quanh việc thoa mãn nhu cầu ăn. uống của con ngƣời hết sức đa
dạng và thƣờng mang đậm những sắc thái riêng của từng dân tộc. Ngƣời Việt cổ thịnh hành
những kỹ thuật ăn uống nào, chúng ta thật khó trả lời chính xác đƣợc. Chỉ có thể đƣa ra vài
điều trên cơ sở tài liệu ít ỏi. Chẳng hạn, ngƣời Việt có cách nấu cơm
100
nếp trong ống tre - gọi là cơm lam ăn rất thơm ngon. Nấu chín đồ ăn bằng cách hấp cũng
đƣợc ngƣời Việt sử dụng. Trong văn hóa Tiền Đông Sơn và Đông Sơn tìm thấy những chiếc
chõ gốm dùng vào việc này. Ngƣời Việt đã biết cách nấu rƣợu từ gạo nếp (có chuyện nộp cho
tƣớng Hán cả nghìn hũ rƣợu). Một trong những cách ăn đƣợc ngƣời Việt ƣa thích là làm
mắm, muối dƣa... Nghĩa là các kỹ thuật lên men thức ăn đƣợc ngƣời Việt sử dụng thông thạo
(mắm của ngƣời Việt làm ngon nổi tiếng, đƣợc dùng làm cống phẩm).
Các kỹ thuật săn bắt và đánh cá cũng là những lĩnh vực rất đáng quan tâm nhƣng
chúng ta cũng không có nhiều tài liệu cụ thể để xem xét, cơ bản vẫn phải dựa vào những tài
liệu gián tiếp để suy đoán. Trong săn bắn thì có các kỹ thuật bắn bằng cung tên, nỏ có cách
bẫy bằng các loại bẫy khác nhau. Trong đánh cá thì cách câu (lƣỡi câu đồng xuất hiện sớm và
có mặt khá phổ biến trong cả thời Tiền Đông Sơn và Đông Sơn). Bằng các loại đăng, đó đan
bằng tre nứa và bằng lƣới (chì lƣới tim thấy khá nhiều trong các di tích).
101
CHƢƠNG V: THẾ GIỚI TINH THẦN CỦA NGƢỜI VIỆT CỔ
Văn hóa tinh thần là mặt vô cùng quan trọng của văn hóa dân tộc. Nội dung của văn
hóa tinh thần rất phong phú, đa dạng nên việc phân loại chúng cũng rất phức tạp.
Trƣớc đây khi nói đến văn hóa, ngƣời ta thƣờng chia ra văn hóa vật chất và văn hóa
tinh thần .Văn hóa vật chất gồm các mặt ăn, mặc, ở, đi lại kỹ thuật sản xuất .v.v...Văn hóa
tinh thần bao gồm tin ngƣỡng, lễ hội phong tục tập quán, tƣ duy khoa học, các loại hình nghệ
thuật nhƣ nghệ thuật tạo hình. âm nhạc, múa, sân khấu .v.v...
Thực ra việc phân chia này có tính chất ƣớc lệ, có nhiều hiện tƣợng văn hoá không thể
tách bạch ra là thuộc phạm trù văn hóa vật chất hay văn hóa tinh thần. Chẳng hạn nhƣ mặc.
thƣờng xếp vào phạm trù văn hóa vật chất. Đó là áo quần, khăn khố, dày dép đồ trang sức
v.v...Nhƣng rõ rằng ăn mặc dẹp hay xấu, các kiểu quần áo, các cách trang điểm là thể hiện
con ngƣời có văn hóa hay không? đúng về một khía cạnh nào đó, cũng nằm trong phạm vi
tìm hiểu của văn hóa tinh thần, cái đẹp về kiểu dáng và hình thức trang trí.
Thức ăn và ăn là thuộc phạm trù văn hóa vật chất, song cách nấu nƣớng. cách pha
chế. cách ăn phản ánh cuộc sống tinh thần của từng cộng đồng cƣ dân. Nhà ở là thuộc phạm
trù văn hóa vật chất, song các kiểu nhà và các kiểu trang trí khác nhau lại phản ánh cảm quan
nghệ thuật của con ngƣời ở các khu vực, các thời đại khác nhau.
Việc đi lại cũng nhƣ vậy xe tầu thuyền bè là một mặt của đời sống vật chất. Song các
kiểu xe tầu thuyền bè, các hình thức trang trí trên đó cùng cách thức sử dụng các phƣơng tiện
đi lại lại thể hiện cuộc sống tinh thần của các cộng đồng cƣ dân.
Đơn cử một số ví dụ nhƣ vậy cũng đủ nói lên rằng việc phân loại các yếu tố văn hóa
là không đơn giản, vô cùng phức tạp.
Việc phân loại văn hóa vốn đã phức tạp thì ngày nay các cuộc cách mạng khoa học kỹ
thuật đang tạo nên sự nhất thể hóa mạnh mẽ giữa hai thành tố vật chất và tinh thần của văn
hóa. Với sự ra đời hàng loạt các phƣơng tiện thông tin, báo chí, phát thanh, ghi hình v.v... đã
làm cho khía cạnh vật chất của văn hóa tinh thần tăng lên. Mặt khác, trong văn hóa vật chất
cũng tiếp nhận động lực về tinh thần mạnh mẽ. Hơn nữa, sự xuất hiện những hiện tƣợng văn
hóa xã hội khiến cho việc phân loại văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần đã phức tạp càng
trở nên khó khăn. Chẳng hạn kỹ thuật công nghiệp hay công việc của các nhà kiến trúc tạo
nên những bản đồ án đẹp trên các bản can trong phòng thiết kế là thuộc văn hóa tinh thần hay
văn hóa vật chất.
102
Vì vậy, mà gần đây, có ngƣời phân văn hóa thành văn hóa vật chất, văn hóa tinh thần
và văn hóa xã hội. Thậm chí, có ngƣời lại tách thêm văn hóa ứng xử.
Mặc dù sự phân loại văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần chỉ là tƣơng đối nhƣ thế,
song giữa chúng vẫn có những tiêu chí đủ để chúng ta xem xét theo những hệ thống tƣơng
đối độc lập.
Từ những cơ sở lý luận vừa trình bầy và trong tình hình tƣ liệu hiện nay, chúng tôi
nêu lên một số mặt mà chúng tôi cho rằng nó thể hiện rõ nét cuộc sống tinh thần của ngƣời
Việt cổ. Đó là nghệ thuật tạo hình, âm nhạc, múa, phong tục tín ngƣỡng lễ hội v.v...
Tƣ liệu sử dụng để tìm hiểu đời sống văn hóa tinh thần của ngƣời Việt cổ là tƣ liệu
khảo cổ văn hóa Đông Sơn và các truyền thuyết dân gian về thời đại các vua Hùng Trong
chừng mực nhất định, có sử dụng tƣ liệu văn hoá Tiền Đông Sơn.
Trên những nhận thức nhƣ vậy, chúng ta đi khảo sát các mặt của đời sống tinh thần
ngƣời Việt cổ.
*
* *
Nghệ thật tạo hình của người Việt cổ phát triển rực rỡ và đạt đến đỉnh cao trong giai
đoạn văn hóa Đông Sơn.
Một biểu hiện rõ nét của nghệ thuật tạo hình này đƣợc thể hiện trên nghệ thuật tạo
dáng và trang trí hoa văn.
Đồ gốm cũng nhƣ đồ đồng, đồ đá của ngƣời Việt cổ, từ vũ khí, đồ trang sức đến dụng
cụ sinh hoạt hàng ngày đều có dáng cân đối, hài hòa, chắc chắn. Với dáng tang phình, thân
thẳng, chân choãi đã khiến cho trống Đông Sơn chắc chắn cân đối. Thạp đồng cả nắp đã đƣợc
tạo dáng gọn trong một hình bầu dục làm cho thạp có dáng nghiêm túc, nhƣng thanh thoát.
Đồ gốm thƣờng chia làm 3 phần : miệng loe, thân tròn, chân đế cao nên có dáng thanh thoát
nhẹ nhõm v.v... Có thể nói ngƣời Việt cổ đã tập trung những cảm hứng nghệ thuật của mình
vào nghệ thuật trang trí trên đồ gốm và đồ đồng.
Những ngƣời thợ gốm giai đoạn Phùng Nguyên đã tạo nên những đồ án hình chữ S
phong phú sinh động đối xứng thành băng bao quanh thân gốm. Nhìn vào hoa văn đồ gốm
Tiền Đông Sơn ta có cảm giác phong phú đa dạng mà không rối rắm, đối xứng lặp đi lặp lại
mà không đơn điệu, buồn tẻ. Có thể nói đến lúc này ngƣời Việt cổ đã đạt đến đỉnh cao của
nghệ thuật trang trí gốm.
103
Đến giai đoạn văn hóa Đông Sơn, nghệ thuật trang trí lại đƣợc tập trung thể hiện trên
đồ đồng. Hầu hết đồ đồng lớn đều đƣợc trang trí hoa văn, thậm chí một số vũ khí nhƣ giáo,
dao găm, hộ tâm phiến, rìu chiến cũng đƣợc trang trí rất đẹp.
Đỉnh cao của nghệ thuật trang trí đƣợc thể hiện trên trống và thạp đồng.
Từ những hình kỷ hà đơn giản, đã phổ biến trang trí hình chim, thú, ngƣời và các sinh
hoạt của một cƣ dân nông nghiệp. Đó là cảnh nhà sàn, giã gạo, cảnh đánh trống, đánh chiêng,
ca hát nhảy múa, cảnh bơi trải, cảnh thuyền chiến. Tất cả những cảnh này đều trang trí quanh
một trung tâm là hình mặt trời nhiều tia.
Với kỹ thuật chạm khắc bằng những đƣờng nét cô đọng, với tài quan sát thiên nhiên
và hoạt động thực tiễn của con ngƣời một cách nhạy bén, ngƣời nghệ sĩ lúc bấy giờ đã sáng
tạo nên những bức tranh sinh hoạt của con ngƣời một cách chân thật, sinh động, có tính khái
quát cao.
Hoa văn đồ đồng phong phú đa dạng song đƣợc bố trí một cách hài hòa, hợp lý, cân
đối và nhịp điệu. Tất cả những bố cục hài hòa nhịp điệu đó, có thể nói là rất khoa học, thể
hiện một trình độ thẩm mỹ cao.
Bút pháp của nghệ thuật trang trí trên đồ đồng, mà rõ nét nhất là trên trống đồng là kỹ
thuật khắc vạch bằng những đƣờng nét chuẩn xác, khái quát một cách sinh động các đối
tƣợng mô tả. Các đối tuợng thƣờng đƣợc miêu tả theo lối bổ nghiêng kết hợp giữa tả nghiêng
và tả chính diện. Chẳng hạn tả chim bay ngang có đủ mắt chân, nhƣng cánh chim lại xòe ra
nhƣ nhìn từ trên xuống. Ngoài ra họ còn có thủ pháp tạo hoa văn theo lối "chiếu điện". Chẳng
hạn khắc họa ngôi nhà sàn có mái che xuống sát đất, nhƣng lại nhìn rõ các cảnh sinh hoạt ở
bên trong nhà.
Đáng chú ý là nghệ thuật trang trí của ngƣời Việt cổ bằng một phong cách diễn tả sinh
động, không chú ý đến chi tiết bề ngoài, mà tập trung làm nổi bật những nét cơ bản của đối
tƣợng. Điểm này rất khác với nghệ thuật Điền ở Vân Nam Trung Quốc.
Càng về sau nghệ thuật trang trí của ngƣời Đông Sơn càng có xu hƣớng giảm bớt mô
típ - giảm bớt chi tiết và xu hƣớng cách điệu hóa, nhƣ trên trống Quảng Xƣơng, hình nhà sàn
chỉ còn là một hình thang cân hoặc trên các trống muộn. hình ngƣời múa chỉ còn là văn cò
bay v.v...
Bên cạnh nghệ thuật trang trí, ngƣời Việt cổ cũng đã sáng tác một số tƣợng tròn bằng
đá, bằng đất nung và đồng. Đó là tƣợng ngƣời bằng đá ở Văn Điển, tƣợng đầu ngƣời, tƣợng
bò, lợn, gà... bằng đất nung ở Đồng Đậu, Xóm Rền, tƣợng 4 đôi trai gái, trên nắp tháp đồng
Đào Thịnh, tƣợng ngƣời thổi khèn trên muôi Việt Khê. tƣợng hình voi trên muôi, tƣợng hình
rắn cắn chân voi trên cán dao găm Làng Vạc. Tƣơng phụ
104
nữ trên cán dao găm Núi Nƣa, Đông Sơn, Thủy Nguyên, Hải Phòng, Hà Tây, Thái
Nguyên.v.v...
Phải nói rằng tƣợng của ngƣời Việt cổ chƣa phát hiện đƣợc nhiều. Song tất cả đều thể
hiện một trình độ nghệ thuật cao và mang đầy đủ tính hiện thực. Đáng chú ý là phần lớn các
tƣợng đồng Đông Sơn đều là bộ phận trang trí của một vật nào đó nhƣ : thạp, muôi, dao găm
v.v... làm cho tính nghệ thuật và tính thực dụng gắn chặt với nhau.
Những pho tƣợng này đƣợc thể hiện bởi hình khối khái quát và ƣớc lệ, nhƣng có năng
lực diễn tả rất sinh động. Ngƣời nghệ sĩ chỉ nhấn mạnh những chi tiết cần gửi gắm. cần làm
nổi bật, mà lƣợc bỏ những chi tiết không cần thiết. Trên nắp thạp đồng Đào Thịnh, những cặp
trai gái đƣợc miêu tả những hình khối tròn cùng hình sinh thực khí cho thấy cái bình dị đời
thƣờng thể hiện những ƣớc mơ phồn thực của con ngƣời đƣơng thời.
Một đặc điểm nổi rõ của nghệ thuật tạc tƣợng của ngƣời Việt cổ là không theo xu
hƣớng bề thế, hùng vĩ nhƣ tƣợng cự thạch, tƣợng cổ Ai Cập, mà đi vào những đƣờng nét tinh
tế, những hình ảnh gần gũi với cuộc sống hàng ngày của cƣ dân nông nghiệp
Nhìn chung lại,nghệ thuật tạo hình của ngƣời Việt cổ thời các vua Hùng là một nền
nghệ thuật nhân hậu và nhân bản. Ta không hề gặp trong nghệ thuật Đông Sơn những cảnh
rùng rợn, hãi hùng, những con ngƣời quyết đấu, những con thú cắn xé nhau nhƣ trong nền
nghệ thuật Điền láng giềng.
Nghệ thuật Đông Sơn miêu tả cuộc sốnn lạc quan, bình dị trong các làng xã. Đó là các
hội làng, trai gái ca hát nhảy múa, kể chuyện bên những dàn nhạc trống đồng, cồng chiêng,
giã gạo v.v... Đó là những cuộc đua thuyền trên các dòng sông trong xanh khắp xóm làng đất
Việt.
Trong nghệ thuật Đông Sơn , nghệ thuật đồ họa phát triển lên đến đỉnh cao. Hình nhƣ
đây là loại hình nghệ thuật đƣợc ƣa thích nhất lúc bấy giờ. Những ngƣời thợ gốm, thợ đúc
đồng trong một ý nghĩa nào đó đã trở thành những nghệ sĩ.
Tiêu biểu nhất của nghệ thuật đồ họa đƣợc tập trung thể hiện trên trống đồng. Cho
đến hôm nay khó có thể tìm đƣợc một tác phẩm điêu khắc nào phản ánh đƣợc một nội dung
phong phú, có bố cục chặt chẽ và các đƣờng nét thanh lọc nhƣ sự thể hiện trên các trống
Đông Sơn.
Một đặc trƣng nổi bật của nghệ thuật Việt cổ thời các vua Hùng là tính hiện thực.
Miêu tả cuộc sống hàng ngày một cách chân thực. Chân thực nhƣng không phải là tự nhiên
chủ nghĩa mà cũng không đi vào thần bí khó hiểu.
105
Phần lớn nghệ thuật của văn hóa Đông Sơn đều phản ánh những thông tin mà mọi
ngƣời đều có thể đọc đƣợc. Đó là các hình kỷ hà đơn giản, vòng tròn đồng tâm, hình tam giác
v.v...những ngƣời thổi khèn, những hội đƣa thuyền v.v... Hoàn toàn không thấy những loại
hoa văn biểu tƣợng rối rắm, thần bí, khó hiểu nhƣ các loại hoa văn thao thiết hổ phù của văn
hóa Hán.
Tƣợng đầu ngƣời, tƣợng bò ở Đồng Đậu, tƣợng gà ở Xóm Rền, hình ngƣời trên trống
Đông Sơn v.v... đều rất hiện thực, song khác hẳn với các hình có tính chất mô phỏng nhƣ thật
của nghệ thuật Điền.
*
* *
Âm nhạc múa là lĩnh vực văn hóa tinh thần đóng vai trò quan trọng trong đời sống cƣ
dân nông nghiệp. Ngƣời Việt cổ, một cƣ dân nông nghiệp cũng là những ngƣời sùng trọng
nhạc múa. Trong buổi đầu bình minh của lịch sử, ngƣời Việt cổ đã xem nhạc múa nhƣ một
phƣơng tiện bộc lộ tình cảm , xúc cảm không chỉ của mỗi cá nhân mà gắn liền với các lễ thức
hội hè, niềm vui, nỗi buồn và khát vọng của cả cộng đồng.
Không hiểu ngƣời Việt cổ thời đại các vua Hùng đã biết ghi chép lời ca và giai diệu
chƣa? Câu hỏi đó vẫn chƣa có lời giải đáp. Song dựa vào tƣ liệu khái cổ học, qua nhạc cụ
phát hiện đƣợc cùng các hình khắc trên trống đồng, thạp đồng, chúng ta có thể hình dung
cuộc sống âm nhạc múa của ngƣời Việt cổ lúc bấy giờ.
Trình độ sáng tạo và thƣởng thức âm nhạc của ngƣời Việt thời các vua Hùng đã khá
cao, đã hình thành những sinh hoạt âm nhạc của xã hội.
Nói đến âm nhạc, trƣớc hết phải nói đến nhạc cụ. Nhạc cụ của ngƣời Việt cổ rất
phong phú đa dạng, nhiều chủng loại, kích thƣớc khác nhau. Đặc trƣng nổi bật của nhạc cụ
ngƣời Việt cổ là sự phát triển của nhạc cụ bộ gõ, mà tiêu biểu hơn cả là trống đồng. Trống
đồng đƣợc sử dụng nhƣ một nhạc cụ quan trọng nhất trong các lễ hội, tang lễ và trong các
nghi thức quân sự. Đã có nhiều công trình mô tả chi tiết về trống đồng. Ở đây xin không nhắc
lại nữa, chỉ xin nhấn mạnh thêm là những ngƣời chế tạo trống đồng đã có những hiểu biết độc
đáo về sự cộng hƣởng và truyền âm cùng với nhiều cách đánh trống khác nhau : Đặt trên mặt
nƣớc, đật trên hố đất hoặc treo ngang để phát huy cƣờng độ tiếng trống khiến cho trống đồng
trở thành vừa, là một nhạc cụ vừa là một vật thiêng lúc bấy giờ.
Bên cạnh trống đồng lúc bấy giờ còn có trống da. Đây là loại trống gõ. Mặt trống
bằng da trâu hoặc da ếch. Trống đƣợc để ngang trên hai cọc đỡ. Ngƣời đánh trống đứng hoặc
ngồi, gỗ trống đệm cho trai gái múa hát.
106
Cùng với trống, nhạc cụ bộ gỗ quan trọng khác đƣợc khắc chạm trên mặt trống đồng
là dàn chiêng. Chiêng không đánh lẻ từng chiếc, từng đôi mà đƣợc tổ chức thành dàn. Hình
khắc trên trống Ngọc Lũ cho thấy cành đánh chiêng trong nhà cầu mùa với hai dàn chiêng.
Mỗi dàn có 7 chiêng, trong đó một chiếc ở đầu, còn 6 chiếc xếp thành hai hàng mỗi hàng 3
chiếc. Cấu tạo dàn chiêng này giống với cấu tạo dàn chiêng của ngƣời Ê-Đê ngày nay.
Cũng thuộc nhạc cụ bộ gõ còn có chuông, quà nhạc, sênh, phách.
Hình khắc trên trống đồng cho thấy chuông và quả nhạc do một ngƣời sử dụng cùng
với ngƣời thổi khèn dùng để đệm cho múa có đạo cụ. Chuông nhỏ có đính với bao tay, vòng
bao chân giống nhƣ những lục lạc. Tiếng chuông sẽ vang lên khi nhảy múa.
Ngoài bộ gõ, ngƣời thời Hùng Vƣơng còn sử dụng các nhạc cụ bộ hơi. Tiêu biểu hơn
cả là chiếc khèn mà hình ảnh còn để lại trên chiếc muôi đồng Việt Khê ( Hải Phòng) và tƣợng
ngƣời cõng nhau ở Đông Sơn ( Thanh Hoa). Khèn có hai loại: loại bầu dài nhƣ khèn ngƣời
Mông và loại bầu ngắn nhƣ khèn ngƣời Thái. Sách Lĩnh Biên lục dị của Trung Quốc có chép:
"Ngƣời Giao Chỉ thƣờng lấy quả bầu không cuống , cắm 13 cái ống vào làm cái sinh. Trên
đầu gắn 13 miếng đồng mỏng làm lƣỡi gà để thổi, tiếng nghe trong trẻo và khớp với tiếng
luật lệ ". Rõ ràng đây là chỉ cái khèn. Nhƣ vậy là tƣ liệu khảo cổ cũng nhƣ thu tịch cổ cho
thấy ngƣời Việt thời Hùng Vƣơng ƣa chuộng thổi khèn. Khèn là một loại nhạc cụ hơi phức
hợp cũng dụng khá phong phú, có thể cùng một lúc phát ra một chùm âm thanh vừa có phần
giai điệu vừa có phần đệm. Tất nhiên là ở mức độ đơn giản cho thấy trình độ thầm âm của
ngƣời xƣa đã khá tinh tế. Ngoài khèn ngƣời Việt có thể còn có tiêu là loại sáo dọc, mà hình
ảnh của nó đƣợc ghi nhận tù một hình khắc trên trống Ngọc Lũ.
Với bộ nhạc cụ mà nổi bật là sự phong phú của bộ gõ cùng tiết tấu độc đáo của nó,
ngƣời Việt cổ thời các vua Hùng đã mở đầu cho truyền thống âm nhạc dân tộc trong suốt
hàng ngàn năm lịch sử.
Một đặc trƣng nổi bật của âm nhạc ngƣời Việt cổ thời các vua Hùng là gắn bó rất chặt
chẽ với lao động với thiên nhiên và với tín ngƣỡng. Phần lớn các nhạc cụ hoặc là mô phỏng
hình dáng các công cụ lao động , mô phỏng các động tác lao động : nhƣ trống đồng mô
phỏng chiếc cối giã gạo, động tác đánh trống mô phỏng động tác giã gạo; hoặc sử dụng chất
liệu thiên nhiên ngay tại chỗ nhƣ quả bầu, tre, trúc v.v...Việc sử dụng âm nhạc thƣờng gắn
liền với các lễ nghi nông nghiệp, nghi lễ quân sự, sinh hoạt cộng đồng xóm làng. Hình ảnh
các dàn trống, dàn chiêng trong các buổi lễ còn in trên mặt trống đồng, hình ảnh các cuộc
nhảy múa ca hát giao duyên trai gái v.v... cho thấy sinh hoạt âm nhạc lúc bấy giờ cũng gắn
chặt với các sinh hoạt trong cộng đồng.
107
Âm nhạc của ngƣời Việt thời Hùng Vƣơng có yếu tố tiết tấu rất rõ. Bộ gõ phát triển
đặc biệt là sự mô phỏng tiếng sấm, tiếng chày giã gạo, bộ hơi mô phỏng tiếng gió.
Trong các nhạc cụ của ngƣời Việt thời Hùng Vƣơng, một số nhạc cụ đƣợc thiêng hóa.
Trống cái, trống đực phải chăng là biểu hiện một quan niệm về lƣỡng phân : một cấu trúc văn
hóa rất phổ biến của cƣ dân nông nghiệp Đông Nam Á : âm - dƣơng, đực-cái. sông-núi, trời-
đất v.v...
Trống cái, trống đồng, chiêng là những nhạc cụ có âm hƣởng lớn, có khả năng thông
tin giữa các thành viên trong cộng đồng, hoặc giữa các cộng đồng với nhau, và quan trọng
hơn cả là do có âm lƣợng cao, các nhạc cụ đó còn có khả năng đƣợc sử dụng nhƣ một vật thể
giúp con ngƣời giao tiếp với thiên nhiên, với thần linh, và những nhạc cụ đó đƣợc xem nhƣ là
những vật thiên.
Âm nhạc thời các vua Hùng thƣờng để đệm cho hát múa và thƣờng có sự kết hợp của
cả ba loại hình này. Các nhạc cụ đồng thời có thể trở thành đạo cụ và nhạc công đồng thời là
ngƣời biểu diễn múa.
Thanh nhạc đã ra đời trong đời sống âm nhạc thời Hùng Vƣơng chƣa? Hiện chƣa có
đủ tƣ liệu khẳng định, song có thể đoán định về một số điệu hát câu hò đã ra đời trong quá
trình lao động - làm ruộng, đốn gỗ trong sinh hoạt cộng đồng nhƣ bơi thuyền, lễ hội v.v..
Âm nhạc thời Hùng Vƣơng đã phát triển đến trình độ biết hòa âm. phối khí. Qua việc
dùng khèn , dàn chiêng, có thể đi đến nhận định âm nhạc thời Hùng Vƣơng có khuynh hƣớng
nhiều bè, trong đó việc dùng một hoặc nhiều bè đóng vai trò bè nên khá phổ hiến. Vào thời
này, cùng một lúc, có thể sử dụng với số lƣợng cao, với nhiều âm thanh, âm vực, âm sắc và
cả âm hƣởng nữa, nhiều nhạc cụ khác nhau. Cùng một lúc có thể vang lên những âm thanh
phong phú của cả trống đồng, trống da. cồng chiêng, sênh phách lẫn khèn sáo và cả giọng hát
của con ngƣời.
Tóm lại nhìn vào một nhạc cụ nhƣ chiếc khèn hay toàn bộ nhạc cụ của ngƣời Việt
thời Hùng Vƣơng cũng thấy xu hƣớng nâng cao, làm phong phú cho âm nhạc bằng đồng âm.
hoa âm hay hòa tấu, đánh dấu trình độ phát triển và tƣ duy âm nhạc qua nghệ thuật âm thanh
của ngƣời Việt lúc bây giờ.
Gắn liền với âm nhạc là múa. Ngƣời Việt cổ luôn sống lạc quan, yêu đời, yêu lao
động nên rất thích nhảy múa. Múa là một sinh hoạt không thể thiếu đƣợc trong sinh-hoạt
cộng đồng xóm làng.
Rất may mắn là tƣ liệu về múa thời Hùng Vƣơng đã đƣợc khắc họa phong phú trên
nhiều trống đồng Đông Sơn.
108
Trong bản thống kê trống Đông Sơn loại lớn và loại vừa, có 51 trống có khắc 125
hình ngƣời nhảy múa và hoa văn. Trong đó có 93 hình ngƣời nhảy múa. Nghệ thuật nhảy
múa thời Hùng Vƣơng hết sức phong phú về nội dung và đa dạng về hình thức. Dựa vào nội
dung biểu hiện có ngƣời đã phân loại các hình khắc nhảy múa trên trống thành nhóm múa
biểu diễn, nhóm múa sinh hoạt và nhóm múa nghi lễ tín ngƣỡng. Về hình thức nhảy múa có
ngƣời phân thành múa tay không và múa có đạo cụ. Có ngƣời lại phân ra múa tay không và
múa có hóa trang. Có ngƣời lại cho rằng thời Hùng Vƣơng có tồn tại loại múa võ trang. Qua
đó, có thể thấy sự phong phú của nghệ thuật múa thời Hùng Vƣơng.
Một đặc trƣng nổi bật về múa của ngƣời Việt thời các vua Hùng là gắn chặt với các
sinh hoạt hàng ngày và lễ nghi tín ngƣỡng.
Những động tác, điệu bộ trong sinh hoạt hàng ngày, trong lao động chiến đấu, vui
chơi, hội hè đã có tác động trực tiếp tới nghệ thuật múa đƣơng thời. Những điệu múa này
thƣờng mô phỏng các động tác, các điệu bộ trong cuộc sống hàng ngày phản ánh tinh thần
hăng say lao động, chiến đấu cùng tình đoàn kết cộng đồng của cƣ dân nông nghiệp. Những
điệu múa này mang yếu tố múa tạo hình nhiều hơn là những động tác múa hoàn chỉnh trong
múa biểu diễn. Những điệu múa gắn chặt với sinh hoạt thƣờng gắn liền với đạo cụ, những vật
dụng sinh hoạt hàng ngày nhƣ chày giã gạo, cung tên, giáo mác, khiên, trống đồng, khèn,
thuyền v.v...Kết hợp với đạo cụ để múa khiến các điệu múa càng trở nên gần gũi, thân
thƣơng, gắn bó với con ngƣời về tình cảm cũng nhƣ quan niệm thẩm mỹ. Tên các đạo cụ
thƣờng trở thành tên gọi các điệu múa nhu múa giã gạo, múa trống đồng, múa chèo thuyền
múa khiên v.v...
Nhiều điệu múa gắn với lễ nghi tín ngƣỡng từ trang phục đến nội dung múa. Chẳng
hạn trong nhiều điệu múa đƣợc khắc họa trên trống đồng, ngƣời múa thƣờng đƣợc hóa trang
lông chim phải chăng những điệu múa này có liên quan đến tín ngƣỡng vật tổ của tổ tiên họ.
Lễ hội" cầu mùa ", một lễ hội quan trọng nhất đối với cƣ dân nông nghiệp Việt cổ thời Hùng
Vƣơng, thành phần múa đƣợc khác ghi ở vị trí quan trọng trong hình nhà sàn, nhà lẽ cầu mùa.
Những điệu múa liên quan đến sinh hoạt và lễ nghi tín ngƣỡng của ngƣời Việt cổ đã
đi sâu vào tâm hồn tình cảm ngƣời Việt nhiều thế hệ , mà sau này chúng ta có thể khảo sát
trong nhiều xóm làng ngƣời Việt. Đó là những điệu múa có liên quan đến lễ nghi nông
nghiệp nhƣ các điệu múa đèn, múa chạy đèn, múa chèo thuyền, múa chèo tầu, múa tế thần,
múa ếch, múa trống Ngũ Lôi.v.v...thƣờng đƣợc tổ chức ở vùng đồng bằng Bắc Bộ, Thanh
Hóa trƣớc đây. Nghệ thuật múa của ngƣời Việt cổ thời các vua Hùng đã có những quy luật
quy tắc và mang một phong cách riêng.
109
Múa thời này, có bài là múa biểu diễn đơn một ngƣời, múa đôi hai ngƣời, song phổ
biến hơn cả là múa tập thể đông ngƣời phản ánh cuộc sống của cộng đồng làng xóm.
Múa có loại là múa tay không, có loại có đạo cụ ... song phổ biến hơn cả là múa có
đạo cụ. Múa tay không thƣờng là múa biểu diễn, tập trung vào các động tác múa tay chân,
đầu và thân. Các động tác tay chân lên xuống phải hài hòa, đầu ngực phải uyển chuyển. Nói
chung: múa tay không là biểu hiện trình độ thẩm mỹ của nghệ thuật múa đƣơng thòi. Những
điệu múa đơn, múa tay không đã chú ý tới yếu tố tạo hình điêu khắc, tạo dáng múa ở phân
khu tâm cao.
Trong quá trình phát triển, quá trình sàng lọc, cƣ dân ngƣời Việt thời các vua Hùng đã
sáng tạo nên những quy tắc về cái đẹp trong nghệ thuật múa. Nhƣng quy tắc này tƣơng đối
thổng nhất, ổn định trong các loại hình múa. Đó là các quy tắc có trƣớc có sau, có phải có
trái, có trên có dƣới. Những điệu múa thƣờng bảo đảm quy luật đối xứng và không đối xứng.
Quy luật không đối xứng không phá vỡ hoàn toàn quy luật đối xứng mà giúp cho xem giảm
bớt sự đều đều, đơn giản mà đem lại sự cảm hứng thích thú. Những điệu múa cũng bảo đảm
quy luật tuyến cong lƣợn và quy luật tuyến gấp khúc. Các điệu múa thƣờng đi theo đội hình
vòng tròn ngƣợc chiều kim đồng hồ, vòng tròn thu nhỏ, mở rộng, song quy luật tuyến gấp
khúc đem lại vẻ đẹp khỏe mạnh, chắc chắn sinh động. Thống kê các hình múa trên các trống
đồng thì thấy có tới 112 hình có tuyến múa gấp khúc trong tổng số 145 hình có ngƣời nhảy
múa.
Nhìn chung nghệ thuật múa của ngƣời Việt cổ không những phản ánh cuộc sống lao
động lạc quan yêu đời trong đời sống cộng đồng và gắn liền với các nghi lễ tín ngƣỡng nông
nghiệp mà còn cho thấy trình độ thẩm mỹ cao của họ. Nghệ thuật múa lúc bấy giờ đã tuân thủ
những quy tắc nhất định. đồng thời giàu tính sáng tạo và tính cách điệu.
Múa của ngƣời Việt cổ là sự gắn bó giữa nghệ thuật múa và nghệ thuật tạo hình trên
cơ sở bản chất cái đẹp. Nghệ thuật múa của ngƣời Việt cổ là bắt nguồn từ những hiện thực
hàng ngày nhƣ mặt trời mặt trăng, mây gió, cỏ cây hoa lá, chim nuông, săn bắn, lao động,
chiến đấu v.v...song những hiện thực đấy đã đi vào nghệ thuật múa với tính cách điệu cao, có
tính cách ƣớc lệ.
Nghệ thuật âm nhạc múa có tầm quan trọng trong đời sống tinh thần của ngƣời Việt
cổ. Đó là một xã hội hòa nhịp đƣợc những âm thanh xáo động của trống đồng, cồng chiêng
với dìu dặt của khèn sáo, là sự hài hoa tuyệt diệu giữa sự hài hòa uyển chuyển nhịp múa cầu
mùa vói sụ rung động mạnh mẽ của múa vũ trang.
Nhạc múa thời Hùng Vƣơng đã xây dựng đƣợc một nền tảng vững chắc cho nhạc múa
dân gian Việt Nam của các thời kỳ lịch sử sau này.
110
Phong tục - tín ngưỡng - lễ hội là một mặt hết sức quan trọng trong thế giới tinh thần.
Chính nó đã giữ vai trò liên kết cộng đồng làng xóm để hình thành bản sắc lối sóng truyền
thống của dân tộc, và chính nó đã trỏ thành vũ khí bảo vệ nền văn hóa dân tộc.
Đối với lĩnh vực này, tƣ liệu khảo cổ học dƣờng nhƣ không cung cấp cho chúng ta
đƣợc bao nhiêu thông tin.
May chăng, chỉ có vài dòng tƣ liệu ít ỏi của ngƣời Hán ghi chép về những thế kỷ đầu
công nguyên, cùng một ít tƣ liệu khảo cổ có thể so sánh đối chiếu với nguồn văn hóa dân gian
phong phú đặng góp phần phục dựng mảng văn hóa tinh thần này.
Dƣới đây xin đƣợc trình bầy về phong tục ngƣời Việt cổ qua vòng đời con ngƣời.
Sách Lĩnh nam chích quái chép về thời các vua Hùng "Việc hôn thú giữa nam nữ lấy
gói muối làm đầu" phải chăng đó là hƣơng vị đậm đà đằm thắm của muối là thức ăn cần thiết
hàng ngày của con ngƣời đặc biệt đối với cƣ dân trung du và vùng núi.
Tƣ liệu dân tộc học và sách Trung Quốc viết về hôn nhân ngƣời Việt buổi đầu Công
nguyên cho biết hôn lễ cần hai bƣớc lễ hội và lễ cƣới. Đám cƣới không chỉ là niềm vui chung
của đôi trai gái, của hai gia đinh mà còn là của xóm làng. Lĩnh nam chích quái chép "giết trâu
để làm đồ lễ, lấy cơm nếp để nhập phòng cùng ăn, sau đó mới thành thân". Trong hôn lễ
không thấy tƣ liệu phản ánh công nhận dâu rể của hai gia đình. Nhƣng qua ngày hội trình
diễn đám cƣới Tản Viên và Mỵ Nƣơng ở làng Phù Ninh (Vĩnh Phú) cũng nhƣ phong tục cƣới
xin ở ngƣời Mƣờng, thời cận đại, có thể là kèm với trò vui của ngƣời thân và bạn bè, có tục
ném đất, đổ nƣớc, ném hoa quả vào cô dâu chú rể.
Trong hôn lễ còn có hình thức lễ đồ tế bằng gia súc và ăn cơm chung. Tục cô dâu chú
rể ăn một bát cơm nếp trƣớc lúc nhập phòng ở ngƣời Mƣờng phải chăng là bắt nguồn từ thời
các vua Hùng.
Một phong tục hôn nhân bảo lƣu hết sức lâu dài là sau khi thành hôn cô dâu trở về nhà
cha mẹ đẻ một thòi gian dài.
Có thể nói, ở thời đại Hùng Vƣơng, chế độ hôn nhân phụ quyền đã đƣợc xác lập.
Song trong các cuộc hôn nhân , ngƣời phụ nữ còn có vai trò chủ động nhất định tiêu biểu hơn
cả là câu chuyện Tiên Dung chủ động lấy Chử Đồng Tử.
111
Những tàn dƣ của chế độ hôn nhân mẫu quyền vẫn còn khá dậm nét và nó tồn tại nhƣ
là một phong tục dân tộc.
Về sinh đẻ, Lĩnh Nam chích quái ghi "đẻ con ra lấy lá chuối lút cho nằm". Trƣớc cách
mạng Tháng Tám, ngƣời Mƣờng vẫn thƣờng để trẻ nằm trên mẹt lót lá chuối.
Về việc tang, khi có ngƣời từ giã cõi đời thì tục lệ đầu tiên, Lĩnh nam chích quái cho
biết "Có ngƣời chết thì giã cối làm lệnh , nguôi lân cận nghe tiếng đến cứu". Phải chăng đây
là biểu tƣợng của sự Giao lƣu âm dƣơng, cái chết là sự sống vẫn còn tiếp tục ở một hình thái
khác nhƣ hạt lúa trở thành hạt gạo.
Trong tang lễ, có lẽ đã diễn ra nhiều nghi lễ tiễn biệt ngƣời quá cố, và vai trò của thầy
cúng, thày mo là rất quan trọng, là ngƣời dẫn đƣờng cho ngƣời chết về thế giới bên kia.
Thƣờng thƣờng ngƣời chết còn quàn lại nhà nhiều ngày, có khi có tới hàng tháng trời
lƣu luyến chẳng muốn chia ly. Theo quan niệm, ngƣời chết vẫn có cuộc sống ở thế giới bên
kia , nên ngƣời chết phải mang theo mình các công cụ dụng cụ hàng ngày và cả vũ khí nhƣ
rìu cuốc, giáo mác, nồi niêu vò v.v... dƣới dạng đồ vật thật hoặc thu nhỏ lại . Điển hình hơn
cả là trong ngôi mộ văn hóa Đông Sơn Việt Khê ngƣời chết đƣợc mang theo hàng trăm hiện
vật bằng đồng, trong đó có cả trống đồng.
Táng tục thời Hùng Vƣơng khá đa dạng. Nói chung đều đƣợc chôn trong các huyệt
đất, huyệt hình chữ nhật bình thƣờng hoặc có nhiều cấp để đƣa quan tài xuống sâu. Có mộ
còn đƣợc kè thêm đá hoặc rải thêm mảnh gốm vỡ. Quan tài phần lớn có hình chữ nhật, đóng
bằng đinh hình chữ U, song đáng chú ý là một số mộ đƣợc chôn trong quan tài thân cây khoét
rỗng hình thuyền độc mộc. Loại quan tài hình thuyền này đã phát hiện đƣợc ở vùng chiêm
trũng từ Hải Phòng, Hải Hƣng, Thái Bình, Nam Hà, Hà Tây và Hà Nội cho thấy sự phổ biến
của loại hình này.
Ngoài ra thời Hùng Vƣơng cũng có tục hỏa táng ở một số nơi, song không phổ biến
lắm. Tro than cùng với các tài sản mang theo đƣợc đựng trong các thạp đồng , thố đồng, hoặc
trong các vò gốm đem chôn xa nơi cƣ trú. Thạp đồng Đào Thịnh (Yên Bái), tháp đồng Vạn
Thắng (Vĩnh Phú) là những "bình đựng tro" hỏa táng thời Hùng Vƣơng.
Trẻ em thƣờng đƣợc chôn trong hai chiếc vò úp vào nhau.
Có thể nói hệ thống tang ma của ngƣời Việt thời Hùng Vƣơng bộc lộ thái độ đổi với
ngƣời chết, cái chết và cõi chết. Đó là sự chia tay ân cần, chu đáo, xuất phát từ tình ngƣời chứ
không phải là sự lo lắng, sợ hãi, và cắt đứt mối giây liên hệ. Vì thế nên ngƣời
112
Việt cổ coi trọng ngày chết hơn ngày sinh. Truyền thống này vẫn còn đƣợc bảo lƣu vững
chắc cho đến ngày nay.
Về phong tục ăn uống của ngƣời Việt cổ đã đƣợc Lĩnh nam chích quái ghi vắn tắt rải
rác trong nhiều đoạn "đất sản đƣợc nhiều gạo nếp", Lang Liêu dâng bánh chƣng bánh dày lên
Hùng Vƣơng làm đồ sính lễ", "Lấy ống tre mà thổi cơm", "lấy cầm thú và ba ba làm mắm",
"lấy cốt gạo làm rƣợu", "tục ăn trầu nhuộm răng".
Những ghi chép trên đây hầu hết đã đƣợc tƣ liệu dân tộc học và khảo cổ học chứng
thực . Đó là dấu vết cạo và nếp ở Đông Đậu , Gò Mun, là những mảnh chõ đồ xôi Đồng Đậu
răng ngƣời nhuộm đen trong mộ Châu Can, Việt Khê v.v...
Qua đó có thể thấy là một phong tục ăn uống đã hình thành ổn định với các biểu hiện
ăn cơm nếp, làm bánh chƣng bánh dày, ăn mắm, uống rƣợu, ăn trầu nhuộm răng v.v....đã trở
thành phong cách dân tộc trong sinh hoạt.
Tín ngƣỡng - một mặt quan trọng của cuộc sống tâm linh thời Hùng Vƣơng thật là đa
dạng phức tạp.
Trƣớc hết có thể nhận thấy một tàn dƣ của tín ngƣỡng nguyên thuỷ trong cuộc sống
tinh thần ngƣời Việt cổ là tín ngƣỡng vật tổ.
Trên trống đồng cũng nhƣ tài liệu văn hóa dân gian đều thống nhất phản ánh hai con
vật đóng vai trò chủ yến trong tín ngƣỡng thời bấy giờ là chim và rắn. Sau này hòa nhập với
các con vật khác để trở thành con vật tƣợng trƣng là rồng.
Trên trống đồng, thạp đồng, rìu đồng có từng đoàn ngƣời hóa trang lông chim nháy
múa chèo thuyền cùng những chim nƣớc, rắn nƣớc. Phải chăng hình thức tín ngƣỡng này
đƣợc đặt trong cấu trúc tƣ duy lƣỡng hợp của cƣ dân nông nghiệp.
Cấu trúc lƣỡng hợp này, trong tín ngƣơng của ngƣời Việt cổ, thể hiện điển hình nhất
trong huyền thoại khai sáng Lạc Long Quân lấy Âu Cơ để ra một bọc trăm trứng. 50 con theo
mẹ lên núi, 50 con theo cha xuống biển.
Hoạt động tâm linh chủ yếu của ngƣời Việt cổ là tín ngƣỡng nông nghiệp, mà hạt
nhân là tục thờ mặt trời. Hình mặt trời đƣợc khắc trên mật tất cả trống đồng, đã núi rõ vai trò
chủ đạo của nó.
Quanh trục mặt trời là các hiện tƣợng thiên nhiên liên quan đến mùa màng, thời vụ
nhƣ mây, mƣa, sấm, chớp. Các hiện tƣợng này trong tâm thức ngƣời Việt đã hóa thân thành
các nữ thần Bà Dâu, Bà Dậu, Bã Dim, Bà Tƣớng...
113
Thần nƣớc giữ một vai trò quan trọng trong tín ngƣỡng nông nghiệp. Hàng năm các
làng đều mở hội cầu nƣớc, rƣớc nƣớc và tiễn đƣa nƣớc. Lễ hội đua thuyền ở ta cũng nhƣ ở
nhiều nƣớc Đông Nam Á là lễ tiễn đƣa nƣớc của cƣ dân nông nghiệp.
Cũng trong hệ thống tín ngƣỡng nông nghiệp còn có tín ngƣỡng phồn thực. Tục thờ
sinh thực khí và các biểu hiện của nó chắc chắn đã có từ thời Hùng Vƣơng mà hình ảnh còn
để lại là 4 đôi nam nữ đang tiến hành tính giao trên nắp thạp Đào thịnh -một di vật tiêu biểu
của văn hóa Đông Sơn. Mục đích của tín ngƣỡng phồn thực là cầu mong cho vạn vật sinh sôi
nảy nở, mùa màng tốt tƣơi, cháu con đầy đàn.
Ngoài ra, ngƣời thời Hùng Vƣơng còn có những biểu hiện đặc sắc trong tín ngƣỡng
của mình là thờ cúng tổ tiên và tôn thờ nhân thần.
Vị thần đƣợc tôn vinh trƣớc tiên là Hùng Vƣơng. Sự sùng kính vua Hùng đã thể hiện
ý thức cộng đồng nòi giống sớm hình thành trong tƣ duy ngƣời Việt. Tín ngƣỡng thờ tổ tiên
là một thứ tình cảm tôn giáo đƣợc nhân dân ta rất coi trọng
Cùng với việc sùng kính tổ tiên, ngƣời Việt cổ còn sùng kính các anh hùng văn hóa,
anh hùng trận mạc. Những kỳ tích văn hóa thƣờng đƣợc gắn cho các nữ thần: Bà Tô Cô. Bà
Nhi Nƣơng, bà Đế, bà chúa Mía, chúa Mụ v.v... là những anh hùng văn hóa đƣợc tôn thờ.
Anh hùng trận mạc là các nam thần : Sơn tinh, Thánh Gióng, Cao sơn, Quý Minh ...
Những công trạng của họ đƣợc thần hóa trong các truyền kỳ, mô phỏng lại ở các hội lễ và đời
đời đƣợc hƣơng khói.
Tóm lại, tín ngƣỡng của ngƣời Việt cổ, dù có sự pha trộn và da dạng, song nhìn chung
nó là tín ngƣỡng của cƣ dân nông nghiệp trong không gian văn hóa cấu trúc theo hai nửa
lƣỡng hợp. Trong tâm linh của ngƣời Việt cổ thể hiện một Sự cộng cảm với tự nhiên hơn là
sụ cầu xin các lực lƣợng tự nhiên.
Lễ hội là một phạm trù sinh hoạt văn hóa tinh thần da dạng nhất của con ngƣời thời
các vua Hùng. Đây là một dịp mà mọi ngƣời trong cộng đồng bày tỏ sự cộng cảm rõ rệt nhất
của họ trƣớc thần linh cũng nhƣ giữa họ với nhau.
Lễ hội vừa là một sinh hoạt văn hóa vừa là một hoạt động có tính chất tín ngƣỡng, nó
thấm sâu vào tâm linh từng ngƣời dân trong cộng đồng, đƣợc bảo lƣu, bồi đắp thêm từ thế hệ
này sang thế hệ khác và trở thành một bộ phận quan trọng nhất của văn hóa dân tộc truyền
thống.
Lễ hội của ngƣời Việt cổ đã đƣợc khắc chạm trên mặt trống đồng. Các hình ngƣời,
muông thú, đồ vật trên trống đồng Ngọc Lữ, Hoàng Hạ, Cổ Loa v.v... đều đƣợc
114
khắc họa ở, dạng động, phản ảnh những hoạt động hội hè và lễ thức đã đƣợc định hình cùng
nhƣng phong tục rất xƣa, mà ngày nay dƣờng nhƣ chúng vẫn vận hành dƣới nhiều dạng vẻ ở
xóm làng nhiều vùng khác nhau, nhƣ vang bóng, nhƣ tàn dƣ, nhƣ mô phỏng . Vì vậy những
ghi chép về lễ hội các làng xã ngƣời Việt trƣớc đây ở trung du và đồng bằng Bắc Bộ có giá trị
nhƣ những bổ sung, những tài liệu tham khảo quý giá.
Qua các hình khác trên mật trống đồng, có thể thấy rõ hình ảnh lễ hội của cƣ dân nông
nghiệp. Đó là lễ đánh trống đồng, đánh cồng chiêng, lễ hội cầu mƣa mà biểu hiện trên tang
trống là tục bơi trải và hiến tế, là trò giã cối, là tục hát kể chuyện trong các buổi hội làng v.v...
Các lễ hội đã đƣợc thực hiện với ca hát, âm nhạc và nhảy múa. Chúng cùng với những
nghi lễ tạo thành một thể thống nhất của lễ hội.
Tƣ liệu phản ánh trên mặt trống đồng là chân thực, đồng đại với lễ hội thời Hùng
Vƣơng. Song đó mới chỉ là cái chất, cái cốt lõi của lễ hội. Còn cái nghi thức diễn tiến của lễ
hội, các câu ca, điệu nhảy diễn ra nhƣ thế nào, ở đâu, nghĩa là muốn có đƣợc một bức tranh
đầy đủ về hội của ngƣời Việt cổ phải tìm hiểu văn hóa dân gian vẫn còn dữ lại đƣợc những
mảnh vỡ vụn, những âm hƣởng còn dội lại cho ta hiểu thêm về lễ hội xƣa. Đó là tƣ liệu đƣợc
giữ gìn trong các hội làng.
Hội làng là sinh hoạt văn hóa, tôn giáo, nghệ thuật của cộng đồng làng xã, xuất phát
tù nhu cầu cuộc sống, sự tồn tại và phát triển cho cả làng, sự bình yên cho từng cá nhân, niềm
hạnh phúc cho từng gia đình, vững mạnh cho từng dòng họ, sự sinh sôi của gia súc, sự bội
thu của mùa màng mà từ bao đời quy tụ niềm mơ ƣớc chung vào 4 chữ "nhân khang vật
thịnh".
Ý nghĩa của hội làng lớn lao bao trùm nhƣ vậy nên ngay từ thời Hùng Vƣơng, hội
làng vẫn là lễ hội quan trọng nhất trong sinh hoạt làng xã lúc bấy giờ.
Cƣ dân Việt cổ là cƣ dân nông nghiệp. Hội làng của ngƣời Việt cổ cũng mang sắc thái
của hội làng cƣ dân nông nghiệp, song tùy theo đời sống kinh tế xã hội của mỗi vùng mà hội
làng cũng có những nội dung khác nhau. Cƣ dân chuyên về nghề nông tiến hành lễ hội không
giống với cƣ dân làm nghề đánh cá hoặc săn bắn. Nhiều khi hai làng gần nhau, do nghề
nghiệp khác nhau nên hội làng đƣợc tiến hành với các nội dung khác hẳn nhau. Trái lại có
trƣờng hợp, do có mói quan hệ về nguồn gốc, cùng nghề nghiệp mà 3, 4 làng cùng làm hội
làng chung.
Làng xã ngƣời Việt đã hình thành từ rất lâu. Trong quá trinh phát triển, từ thành phần
cƣ dân cho đến nghề nghiệp đã khác trƣớc rất nhiều, nhƣng hội làng thƣờng có
115
nội dung gợi về nguồn cội, cảm ơn tiền bối, do đó qua hội làng ta có dịp tìm hiểu nhiều nét
sinh hoạt của tổ tiên.
Không thể nào kể hết hội làng của ngƣời Việt chỉ xin đơn cử một vài lễ hội có tính
chất tiêu biểu, qua đó có thể gạn lọc ra đƣợc lớp văn hóa lễ hội của ngƣời Việt thời các vua
Hùng dựng nƣớc.
Đối với các cƣ dân sống bằng nghề săn bắn có trò múa săn bắn trong lễ hội mở cửa
rừng ở xã Phú Lộc, Vĩnh Phú vào dịp dầu xuân. Đáng chú ý là sau nghi thức tế lễ có cuộc
múa "ngƣời thợ săn", con trai đóng khố cầm cung tên làm thiện xạ, con gái mặc váy ngắn.
yếm, không mặc áo làm con mồi. Cuộc quần vũ thể hiện cuộc săn lớn của cả cộng đồng. Gần
hết tuần hƣơng từng đôi trai gái tỏa ra múa với nhau theo yêu cầu giao phối của nghi lễ gọi là
"gà phủ", phải chăng tục cúng cùng tên và điệu múa săn "gà phủ" cùng nghi thức đƣợc tiến
hành trong đêm trong lễ hội mở cửa rừng này là một trong những, sinh hoạt của nghề săn bắn
nguyên thủy.
Đối với cƣ dân sống bằng nghề chài lƣới đánh cá có tục lệ đánh cá thờ vào dịp đầu
năm mới. Tục lệ này còn thấy ở Tứ Xã, Đào Xá (Vĩnh Phú ),Đền Và ( Sơn Tây) và cả ở
ngƣời Mƣờng xóm Lá huyện Thanh Sơn. Hội đánh cá đƣợc thực hiện ở làng cá thời trong
những ngày nhất đinh. Cá đánh đƣợc chọn con to nhất cúng thần, còn lại chia đều cho mọi
nhà gọi là "lộc thánh". Hội đánh cá cũng là hội cầu ngƣ. có nơi cá đánh đƣợc tập trung lại để
tất cả mọi ngƣời không kể giàu nghèo, già trẻ, trai gái cùng làm lễ cỗ cá gỏi ở tại nơi đánh cá
và cúng thần linh .
Rất có thể lễ hội đánh cá thờ này ra đời từ rất sớm, cũng nhƣ tục lễ mở cửa rừng,
trƣớc cả thời Hùng Vƣơng và tồn tại cho mãi tới thời cận đại nhƣ là một tàn dƣ.
Ngƣời Việt cổ là cƣ dân nông nghiệp, nên có nhiều lễ hội nông nghiệp đƣợc tổ chức
quanh năm, mà tập trung hơn cả là hội làng.
Lễ hạ điền là nghi thức đầu tiên trong hệ thống lễ cầu mùa nghề nông. Đây là lễ mở
đầu vòng cây trồng của một vòng thời gian của cộng đồng. Nghi lễ vừa có tính ma thuật vừa
có tính tƣợng trƣng, phù hợp với đầu óc của ngƣời nông dân. Lễ hội này đi liền với tín
ngƣỡng thờ mẹ lúa và tín ngƣỡng phồn thực với nhiều hình thức biểu hiện khác nhau. Lễ
xuống đồng ra đời từ rất sớm, cho đến thời Tiền Lê và thời Lý không những bách tính mà nhà
vua cũng làm lễ xuống đồng ở ruộng tịch điền.
Lễ xuống đồng phổ biến ở nhiều làng Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ . Giữa các làng lễ
đƣợc tiến hành không khác nhau bao nhiêu. Dƣới đây chúng tôi xin đơn cử lễ xuống đồng ở
làng Quốc Tƣớc, huyện Yên Lập (Vĩnh Phú ) làm ví dụ. Lễ đƣợc cử hành vào ngày 1 tháng 5
âm lịch tại thửa ruộng trƣớc đình. Ruộng đã đƣợc cày bừa làm sạch cỏ
116
từ mấy hôm trƣớc. Sáng tinh mơ chủ lễ nổi ba hồi chiêng trống gọi lễ. Bốn giáp mang lễ gồm
xôi gà , trầu rƣợu và một bó mạ tới. Bốn giáp chọn 4 phụ nữ trung niên làm "mẹ lúa". Chủ lễ
cùng quan viên, chức sắc trong làng sau lúc làm lễ mật khẩn trong đình thì ra ruộng. Họ đúng
trên bờ , mặt hƣớng về phƣơng đông lễ khấn. Chủ lễ nói lớn:
Cầu cho
Cây mạ làng ta tốt nhƣ dâu
Lúa tốt bằng đầu
Bông cái bằng bông lau
Bông con bằng bông sậy
Tiếng đồn đã dậy
Hỏi lúa làng nào
Thì nói:
"Lúa Đông Lạc ta nhé".
Bốn "mẹ lúa" đồng thanh đáp "ở " rồi lội xuống ruộng cấy. Ngƣời làng đứng quanh
bờ xem cấy vừa hò reo, chiêng trống đổ đồn cho tới lúc cấy xong. Chủ lễ mang một cây nêu
là một cành tre trổ dù lá ngọn , trên đó có những vòng nan nứa đan lồng nhau. Một hồi trống
thu quân báo lễ đã xong. Chủ lễ đem mâm xôi gà cho từng phụ nữ đem về hƣờng lộc lấy
khƣớc. Đó là cỗ dâng mẹ lúa.
Ở làng Cổ Tích xã Hy Cƣơng, huyện Phong Châu (Vĩnh Phú) lễ hạ điền đƣợc tổ chức
ngày 25 tháng 5 âm lịch, ông chúa đồng mặc áo đỏ, chít khăn đỏ cấy lúa. Khi chúa đồng cấy
xong thì ngƣời ta lấy bùn nhão tung ƣớt ngƣời chúa đồng với ý cầu mong mƣa thuận gió hòa.
Sau lẽ xuống đồng ngƣời nông dân còn tiến hành nhiều nghi lễ khác cầu mong cho
mùa màng tốt tƣơi, phong đăng hòa cốc nhƣ tục rƣớc ma, tục ruốc cây lúa thần v.v..., nhƣng
đặc sắc nhất có lẽ là trò đúc tƣợng.
Trò đúc tƣợng, đƣợc diễn trong hội xuân làng Phù Liễu huyện Tam Nông (Vĩnh Phú).
Một số tráng đinh khỏe mạnh không tang chế, cởi trần, đóng khố, mình trát đày bùn, ngồi
giữa sân đình. Ngƣời ta choàng lên đầu môi ngƣời một mảnh chiếu và một bó mạ. Những
ngƣời khác đóng vai cầm các dụng cụ nghề nghiệp thử làm đóng vai sĩ nông, công, thƣơng
vừa biểu diễn vừa pha trò xung quanh. Đây là hình thức cầu phúc thân nghề nông, biểu lộ
lòng khao khát một vụ mùa tƣơi tốt cho cả làng. "Cây lúa khổng lồ" này đƣợc tạo đúc nên bởi
bó mạ thực cùng với sức mạnh của sinh lực và ý chí con ngƣời.
117
Khi cấy xong, làm cỏ rồi, đợi lúa chín, gặt hái rồi, thông thƣờng ngƣời ta làm lễ
thƣợng điền.
Lễ thượng điền là lễ lên đồng cắt hái. Đây là lễ cúng cơm mới. Ngƣời ta thƣờng làm
lễ thƣợng điền vào ngày 10 tháng 10 âm lịch. Xã Phƣợng Lâm (Vĩnh Phú) và các xã vùng
đồng chiêm thƣờng làm lễ cúng cơm mới vào vụ gặt tháng 5. Ở An Thái tổ chức lễ thƣợng
điền vào ngày 25 tháng 10 âm lịch, ngƣời ta làm bánh hòn (bánh bột), sửa cỗ cúng thần nông,
thần đất và ăn mừng.
Là cƣ dân nông nghiệp trồng lúa nƣớc, ngƣời Việt cổ trong quá trình lao động, đã
nhận thức đƣợc tầm quan trọng của nƣớc trong đời sống hàng ngày và trong sản xuất nông
nghiệp "nhất nƣớc, nhì phân, tam cần, tứ giống". Những tổng kết của ngƣời Việt cổ đã trở
thành thành quả kỹ thuật nông nghiệp , trong đó nƣớc chiếm vị trí quan trọng số một. Ngƣời
nông dân Việt Nam xƣa đã phải" trông trời trông đất trông mây, trông mƣa, trông gió, trông
ngày trông đêm" và sau mỗi cái "trông" ấy, một vị thần lại ẩn hiện đâu đó, làm ngƣời nông
dân phải bận tâm tìm cách kêu cầu : Thần trời, thần đất, thần nƣớc. thần gió .v.v. Từ những
nhận thức đó, ngƣời Việt cổ đã phổ biến các nghi lễ cầu mƣa.
Lễ hội cầu mưa được diễn ra với nhiều hình thức khác nhau. Đó là lễ rƣớc nƣớc hình
thành nhƣ một hành động thiêng liêng, thƣờng đƣợc tổ chức trọng thể vào đầu hội làng- các
hình thức nhƣ múa rồng, té nƣớc, chèo thuyền khuấy động nƣớc, nhƣng tiêu biểu hơn cả là
các cuộc bơi trải. Bơi trải là một biểu hiện đặc sắc của nghi thức cầu mƣa. Ngày nay bởi trải
là tiếp nối truyền thống thƣợng võ của tổ tiên, song nội dung ban đầu là một lễ thức sinh ra từ
nhu cầu nông nghiệp, nghi thức cầu mƣa. Độc đáo nhƣ hội đua thuyền ở Đào Xá (Vĩnh Phú),
chỉ có hai thuyền đƣợc định danh là thuyền đực và thuyên cái. Thuyên đực đính hình con
chim ở mũi thuyền, thuyền cái đính hình cá ở mũi thuyền. Âm (cái, cá) bên dƣới nƣớc và
dƣơng (đực, chim) bên trên khô, hòa hợp, khuấy đọng nƣớc (đánh thức thủy thần) để cầu
nƣớc. Hội đua thuyền ở các làng quê khác đơn giản hơn, số thuyền đông hơn song về nguyên
ủy, nó cũng có ý nghĩa nhƣ hội đua thuyền Đào Xá.
Cùng với ý nghĩa cầu mƣa, còn có lễ hội đào vũ khi gặp trời hạn hán. Làng phải đứng
ra mời đám lập đàn cầu mƣa. Những ngƣời thi hành các hoạt động tôn giáo và nhân dân ra
sức cầu mƣa cứu lúa.
Một đặc trƣng đáng lƣu ý là các lễ hội của ngƣời Việt cổ luôn gắn bó chặt chẽ với tín
ngƣỡng nông nghiệp, trong đó tín ngƣỡng phồn thực đƣợc thể hiện rất đậm nét với rất nhiều
hình thức.
118
Lễ cầu dinh phổ biến ở Vĩnh Phú, trò "cƣớp dò" xã Gia Thanh ( Vĩnh Phú), trò "cầu
tằm cƣớp kén ở hội làng Dị Nậu (Vĩnh Phú) với hình ảnh cái "nõ", "chày kình" (dƣơng vật)
và "kén mo dai" (âm vật) đƣợc trình diễn trong lễ hội với ý nghĩa phồn thực, cầu mong cây
cối sinh sôi, cháu con đông đúc. Chúng tôi xin kể lại việc cầu lễ nõ nƣờng ở xã Đức Bác, Lập
Thạch (Vĩnh Phú). Trong mái đình khói hƣơng nghi ngút, một trai thanh tân, một gái trinh nữ
đứng hai bên hƣơng án. Trai cầm chày, gái cầm chiếc mo nang rạch giữa, to bằng bàn tay,
chủ lễ đứng giữa lễ thánh xong, anh con trai hỏi:" cái sự làm sao ?" Cô gái đáp : "Cái sự làm
vầy". Vừa đối đáp, hai ngƣời vừa đƣa hai vật chọi vào nhau 3 lần. Nhƣ vậy họ nghĩ rằng,
trƣớc sự chứng giám của thần, năm đó làng sẽ sinh nhiều con trai, làm ân thịnh vƣợng.
Ở hội Chen làng Nga Hoàng (Hà Bắc), có cuộc "ngƣời chen ngƣời" diễn ra tại miếu
thờ Linh Sơn Mị Nƣơng và trong cuộc rƣớc thần đi vòng quanh làng, mọi ngƣời chen nhau
theo lứa tuổi, già với già, trẻ với trẻ, cƣời đùa vui vẻ, mọi ngƣời vây quanh đám lễ cầu xin :
Gái mạnh khỏe, trai dẻo dai; của đồng làm ra, của nhà làm nên. Qua đó, ta có thể thấy tín
ngƣơng phồn thực, cầu mùa nghề nông đƣợc biểu hiện với mọi dáng vẻ của nó. Từ biểu
tƣợng đơn lẻ (một hình sinh thực khí) đến đủ đôi (cả âm vật và dƣơng vật) từ chạm vào nhau
(ngƣời chen ngƣời) đến xuyên vào nhau (cầu lễ nõ nƣờng). Đi xa hơn cả là lễ hội làng La ở
Hà Nội:
Bơi Đăm, rƣớc Gia, hội Thầy
Vui thì vui thật chẳng thấy rã La.
Hội làng La kết thúc vào nửa đêm bằng một trò đặc sắc. Đèn nến trong ngoài đình đột
nhiên tắt phụt. Giữa trời khuya tối nhƣ bƣng ấy, chiêng trống bỗng vang lên chậm rãi nhƣ để
trai gái, ông già bà cả mặc sức hành động.
Từ những hình khác trên trống đồng Đông Sơn đến Hội làng, tuy chặng đƣờng dài
hàng mấy ngàn năm, các giá trị tƣ tƣởng của thời đại các vua Hùng vẫn tồn tại trong dòng
chảy hội lễ.
Qua đó có thể thấy lễ hội đã giữ vai trò liên kết cộng đồng làng xóm để hình thành
bản sắc, lối sóng, truyền thống của một dân tộc. Do vậy, có thể nói, trên một ý nghĩa nào đó
lễ hội đã trở thành một vũ khí bảo vệ truyền thống văn hóa dân tộc.
119
1. Từ ngày dựng nƣớc, tổ tiên ta đã hình thành một phong cách văn hóa, một bản lĩnh
sống riêng.
Dƣới thời phong kiến, cũng nhƣ trƣớc cách mạng Tháng Tám, đã có những nét chấm
phá phác thảo về đời sống tinh thần của ngƣời Việt cổ. Ngày nay, tuy còn nhiều vấn đề chƣa
đƣợc sáng tỏ, phải tiếp tục tìm tòi nhƣ chữ viết, luật lệ, pháp lệnh v.v... song qua các tƣ liệu
về nghệ thuật tạo hình, vẽ âm nhạc múa, về phong tục, tín ngƣỡng, về lễ hội, qua những hiếu
biết và xúc cảm về cơ học, hình học, về tính đối xứng, tính hài hòa, về tính hiện thực và cách
điệu v.v... cho thấy một cuộc sống tinh thần phong phú lạc quan, văn minh cao đẹp của ngƣời
Việt cổ.
Bức tranh về thế giới tinh thần của ngƣời Việt cổ tuy chƣa thật hoàn thiện song không
phải là những mảng lỗ chỗ, xuất hiện một cách bất thần, ngẫu nhiên, mà nó đã dần dần định
hình một phong cách, một bản lĩnh, có những đặc trƣng riêng.
Trƣớc hết đó là một nền văn hóa gắn bó với cuộc sống sông nƣớc một nền văn minh
nông nghiệp trồng lúa nƣớc. Đặc trƣng này đƣợc thể hiện trên những đƣờng nét hoa văn sóng
nƣớc, những cuộc bơi trải trên các dòng sông đƣợc khắc họa trên trống đồng, thạp đồng.
Song tập trung hơn cả là những lễ hội nông nghiệp đƣợc khắc trên trống đồng và bảo lƣu
trong các hội làng ngƣời Việt. Đó là hình ảnh mặt trời chính giữa mặt trống đồng, nắp thạp có
liên quan đến tục thờ mặt trời, một tín ngƣỡng quan trọng nhất của cƣ dân nông nghiệp.
Ngƣời Việt cổ cũng đã gửi gắm những ƣớc vọng, những mong muốn cầu mong cho mùa
màng đƣợc phong đăng, làm ăn thuận hòa, con cháu đông vui trong những lễ nghi của tín
ngƣỡng phồn thực. Đó là cảnh chồng nụ, chồng hoa, hát đối đáp nam nữ, cảnh giã gạo, cảnh
đánh trống đồng cầu mƣa, hình sinh thực khí nam nữ trên mặt trống đồng, và chân thực hơn
cả là cảnh 4 đôi nam nữ đang giao hợp trên nắp thạp đồng Đào Thịnh.
Mặt trời, mây mƣa, sấm chớp từ chỗ là những lực lƣợng thần bí, đáng sợ, đã trở thành
thần tƣợng có ảnh hƣởng quyết định đến sản xuất nông nghiệp trong thế giới tinh thần của
ngƣời Việt cổ.
Đời sống tinh thần của ngƣờii Việt cổ mang đậm sắc thái của một nền văn minh xóm
làng, qua những hình khắc họa trên trống đồng, thạp đồng có thể nhìn thấy một cuộc sống vui
tƣơi, lạc quan, lành mạnh của cộng đồng làng xóm. Đó là cảnh bơi trải, cảnh hát kể chuyện,
hát đối đáp nam nữ, nhảy múa hóa trang trong ngày hội làng. Hội làng vừa là ngày hội mùa,
vừa là ngày hội vui chơi giải trí, trong đó có sự giáo dục về tinh thân cộng đồng, ý thức giống
nòi, tổ tiên, tinh thần thƣợng võ, đồng thời nó còn là dịp để trai gái tìm hiểu lứa đôi. Chính từ
những sinh hoạt hội làng này mà tinh thần tập thể cộng đồng của ngƣời Việt ngày một củng
cố.
120
Nội dung của cuộc sống văn hóa tinh thần dân tộc lúc bấy giờ vô cùng phong phú, lạc
quan, mang tính nhân văn cao đẹp. Khác vói các nền văn hóa khác cùng thời ngƣời Việt cổ
không sáng tạo nên một nền văn hóa mang tính chất thần bí với những bộ mặt dữ dội, mà đã
xây dựng nên một nền văn hóa mà tính nhân văn thấm sâu vào trong mọi tác phẩm nghệ thuật
cũng nhƣ trong toàn bộ đời sống tinh thần. Ở đâu chúng ta cũng bắt gặp những tác phẩm tạo
hình với một phong cách hiện thực độc đáo trình độ thẩm mỹ cao, ở đâu cũng vang lên những
âm thanh rộn ràng, dìu dặt của những giọng hát, những bản hợp tấu đã đạt đến trình độ hợp
âm đặc sắc, cùng những điệu múa hóa trang uyển chuyển và cả một hệ thống thần thoại sử thi
anh hùng đƣợc sáng tạo để ca ngợi những con ngƣời đã có công đấu tranh dựng nƣớc và giữ
nƣớc, mƣu cầu hạnh phúc cho con ngƣời.
2. Một nền văn hóa đặc sắc trong nền cảnh Đông Nam Á
Những đặc trƣng văn hóa của ngƣời Việt cổ còn đƣợc bảo lƣu trong đời sống của
nhiều dân tộc trên đất nƣớc ta nhƣ Mƣờng, Tày, Thái và đến tận các dân tộc Tây Nguyên. Có
nhiều điều còn đƣợc thể hiện đậm nét hơn ở ngƣời Việt. Chẳng hạn ngôi nhà sàn, tục chôn
ngƣời chết trong thân cây khoét rỗng hầu nhƣ không còn tồn tại trong ngƣời Việt, song vẫn
phổ biến trong nhiều dân tộc ít ngƣời khác. Phải chăng nhà sàn, mộ quan tài thân cây khoét
rỗng của ngƣời Mƣờng , ngƣời Thái v.v...cũng là bắt nguồn từ ngôi nhà sàn mái cong, và
quan tài hình thuyền của cƣ dân văn hóa Đông Sơn. Tục đánh trống đồng, cồng chiêng, gia
cối đúng trong các lễ hội ở ngƣời Mƣờng và nhiều dân tộc khác phải chăng cũng đã có nguồn
gốc từ những hình khắc họa trên trống Đông Sơn. Những chiếc khăn Mèo, Thái và Tây
Nguyên, chúng ta cũng đã bắt gặp trên các tƣợng ở Việt Khê, Thanh Hóa. Những bộ váy áo,
thắt lƣng phụ nữ nhiều dân tộc miền núi nƣớc ta rất gần gũi với trang phục tƣợng phụ nữ trên
cán dao găm văn hóa Đông Sơn. Còn có thể kể ra rất nhiều dẫn chứng về sự gần gũi giữa văn
hóa ngƣời Việt cổ với văn hóa các dân tộc anh em sinh sống trên đất nƣớc ta.
Nhìn rộng ra ngoài Việt Nam, nhiều yếu tố văn hóa thƣờng đƣợc xem là đặc trƣng của
ngƣời Việt cũng thấy có mặt đây đó, lúc tỏ , lúc mờ, đậm nhạt khác nhau trên cả khu vực
rộng lớn từ nam Trung Quốc, Lào, Cămpuchia, Miến Điện, Thái Lan đến Ma-lai-xi-a. In-đô-
nê-xi-a
Đó là sự có mặt của những ngôi nhà sàn bằng gỗ, là những cƣ dân biết chế tạo và sử
dụng trống đồng. Đó là một hệ thống thần thoại đi liền với tín ngƣỡng thờ sinh thực khí trong
nghi lễ nông nghiệp của nhiều dân tộc Đông Nam Á xƣa. Hình tƣợng chim, thuồng luồng vừa
xung khắc vừa hòa hợp rất phổ biến trong các chuyện cổ của nhiều nƣớc Đông Nam Á. Tục
giã gạo bằng chày đứng đƣợc khắc họa trên trổng đồng
121
cũng rất phổ biến trong các cƣ dân Đông Nam Á và các đảo Thái Bình Dƣơng Và tục nhuộm
răng ăn trầu không chỉ phổ biến ở Việt Nam mà cũng phổ biến ở nhiều nƣớc Đông Nam Á.
Đơn cử một số dẫn chứng nhƣ vậy để nói lên rằng cuộc sống văn hóa tinh thần của
ngƣời Việt cổ không đóng kín mà luôn luôn rộng mở ngày một phát triển trong bối cảnh
Đông Nam Á.
Có thể nói, trƣớc lúc có ảnh hƣởng của văn hóa ở phía Bắc và văn hóa Ấn Độ ở phía
nam, trong khu vực rộng lớn Đông Nam Á dã hình thành một bộ mặt văn hóa riêng khác Hán,
khác Ấn. Nền văn hóa dân tộc Việt cổ đã hình thành trong bổi cảnh văn hóa Đông Nam Á đó.
Quá trình hòa hợp, hình thành văn hóa này đã đƣợc mở đầu từ rất sớm, có thể từ cơ
tầng văn hóa Hòa Bình nếu không nói là còn sớm hơn. Trên một vùng đất đai với những điều
kiện tự nhiên giống nhau, với nguồn gốc và đặc trƣng tộc thuộc gần nhau cùng một trình độ
phát triển kinh tế xã hội tƣơng đƣơng, cùng chung một vận mệnh lịch sử, có những mối quan
hệ văn hóa qua lại lâu dài, đã dần dần hình thành những yếu tố văn hóa giống nhau : Văn hóa
Đông Nam Á.
Văn hóa tinh thần của ngƣời Việt cổ hình thành trong bổi cảnh văn hóa Đông Nam Á
đó, vừa có đặc trƣng của riêng mình vừa có phong cách chung của toàn khu vực.
3. Kế thừa giá trị văn hóa tinh thần của ngƣời Việt cổ.
Việt Nam cũng nhƣ nhiều nƣớc trên thế giới, cùng với việc hình thành nhà nƣớc đầu
tiên, một nền văn hoá dân tộc cũng ra đời với những bản sắc riêng và tồn tại nhƣ là sự mở
đầu và tiếp nối của truyền thống. Nhƣng nền văn hóa dân tộc ta phát triển trong một hoàn
cảnh khá đặc biệt. Bởi ngay sau khi hình thành, trƣớc mắt nó là ngàn năm "đêm dài Bắc
thuộc" Kẻ thù đã dùng trăm phƣơng ngàn kế để hủy diệt, đồng hóa nó, nhƣng những nền tảng
vững chắc mà nó đã xây nên, đã đƣa dân tộc ta vƣợt qua đƣợc thử thách khắc nghiệt, để cho
các giá trị văn hóa dân tộc vẫn đƣợc bảo tồn và phát triển.
Tiếp theo giai đoạn đỉnh cao của thời dựng nƣớc là giai đoạn văn hóa Hán, văn hóa
Ấn xâm nhập mạnh vào các nƣớc Đông Nam Á và nƣớc ta. Đến những thế kỷ gần đây, nền
văn hóa dân tộc lại phải đối đầu với nền văn minh Âu Mỹ. Nhiều lớp văn hóa đã phủ lên nền
văn hóa dân tộc, với sức sống kiên cƣờng, bằng các biện pháp đấu tranh, dung hợp. cải biên,
nền văn hóa dân tộc vẫn tiếp tục phát triển, phát huy những truyền thống văn hóa đã đƣợc
hình thành từ ngày mở nƣớc.
122
Ngày nay chúng ta vẫn còn có thể nhận diện đƣợc hình bóng nền văn hóa dân tộc qua
những biểu hiện sau :
Một nền nghệ thuật tạo hình hiện thực, nhân bản. Ông cha ta đã khắc chạm những
cảnh sinh hoạt dân dã, bình dị, những trò chơi trai gái ở đình làng. Hay nhƣ những chạm khắc
đá, khắc gỗ ở các đình chùa là những đồ án kỷ hà, hoa lá, chim phƣợng đƣợc miêu tả rất hiện
thực sinh động, hầu nhƣ không có những đồ án, biểu tƣợng thần bí, dữ dội nhƣ văn thao thiết,
mặt hổ phù của văn hóa Hán v.v... Phải chăng, đó là do ông cha ta đã tiếp thu đƣợc thần thái
nghệ thuật văn hóa Đông Sơn.
Hay trong nghệ thuật kiến trúc, để phù hợp với cảnh quan đồng bằng, ngƣời Việt
không làm nhà sàn nữa, song theo nhiều nhà nghiên cứu thì bóng dáng nhà sàn vẫn đƣợc bảo
lƣu trong một số ngôi đình mái cong có sàn.
Một nền âm nhạc múa dân tộc có những nhạc cụ truyền thống và âm điệu độc đáo.
Nhân dân ta vẫn luôn mang trong mình hồn nhạc dân tộc, thích ca hát nhảy múa, nhất
là trong các buổi sinh hoạt cộng đồng làng xóm nhƣ hội làng v.v...
Cho đến nay, trong các dàn nhạc dân tộc, nhạc cụ chủ yếu vẫn là trống, cùng chiêng
sênh, phách, khèn sáo v.v... là những thứ đã đƣợc ngƣời Việt cổ sáng tạo từ ngày mở nƣớc.
Còn phải tìm hiểu cấu tứ âm điệu của âm nhạc cổ truyền dân tộc, song rõ ràng khi
thƣởng thức một bài hát dân ca Việt Nam ta dễ dàng phân biệt với ca nhạc Trung Quốc, Ân
Độ. Phải chăng đó là hồn của âm nhạc dân tộc đã đƣợc phát triển cho mãi tận hôm nay.
Các tín ngƣỡng cơ bản của ngƣời Việt cổ là tín ngƣỡng nông nghiệp nhu cầu mua, thờ
thần mặt trời cùng các thần sấm, thần chớp, thờ sinh thực khi v.v. ...Trong cuộc sống hiện
đại, không thể bảo tồn tất cả biểu hiện của tín ngƣỡng nông nghiệp. Song các tục thờ mặt trời,
sự sùng kính các thần nông nghiệp, các anh hùng văn hóa, anh hùng quân sự v.v... vẫn có thể
duy trì nhƣ là một bản sắc văn hóa cổ truyền thể hiện sự tôn kính và lòng biết ơn đối với quá
khứ , đối với truyền thống.
Cùng với việc bảo lƣu một số biểu hiện của tín ngƣỡng nông nghiệp, cần duy trì một
số lễ hội có ý nghĩa văn hóa lịch sử. Lễ hội bên cạnh ý nghĩa tôn giáo còn mang một sắc thái
của sinh hoạt văn hóa tinh thần. Trải qua hàng ngàn năm ngƣời Việt cổ đã tổ chức nhiều lễ
hội ở khắp các làng quê và đƣợc xem nhƣ là những sinh hoạt văn hóa đƣợc bắt nguồn từ cuộc
sống lao động của dân quê.
123
Nhiều lễ hội đến nay vẫn còn giữ nguyên giá trị nhƣ những hội làng thƣở nào. Đó là
những ngày hội làng truyền thống nhƣ hội Lim, hội pháo Đồng Kỵ, đó là những hội đua
thuyền đƣợc tổ chức phổ biến khắp vùng nông thôn từ Bắc đến Nam. Đó là lễ hội tƣởng nhớ
các anh hùng văn hóa, anh hùng quân sự, đó là những hội cồng chiêng, hội vật võ, hội thi
đánh cầu, thi thổi cơm .v.v...
Những lễ hội hày không những là dịp để đua tài văn nghệ , thể thao, tạo điều kiện cho
nam nữ thanh niên có dịp gần gũi nhau, mà là giúp nâng cao ý thức đối với cộng đồng, đối
với cội nguồn.
Kế thừa những giá trị văn hóa của quá khứ trên bình diện của cuộc sống mới, để
không bị coi là phục cổ, là lạc lõng, đã trở thành vấn đề thời sự của nhiều nƣớc, đặc biệt ở
thời kỳ mà các cuộc giao thoa văn hóa trở nên bạo liệt nhất. Do vậy, việc kế thừa những
truyền thống Đông Sơn trở nên thực sự cấp thiết trong giai đoạn đất nƣớc đang mở cửa hiện
nay. Chúng ta cần phải "gạn đục, khơi trong" để cho các giá trị văn hóa Đông Sơn mãi mãi
thanh xuân.
124
CHƢƠNG VI : BẢN SẮC VĂN HÓA VIỆT CỔ
Văn hóa là hệ thống ứng xử của con ngƣời với thiên nhiên và xã hội, trong hoạt động
sinh tồn và phát triển của mình. Nói khác đi, văn hóa là sản phẩm hoạt động của con ngƣời
trong mối quan hệ tƣơng tác với tự nhiên và xã hội diễn ra trong không gian, thời gian và
hoàn cảnh nhất định.
Nếu nhƣ con ngƣời là sản phẩm đặc sắc nhất, cao nhất của tự nhiên, thì văn hóa cũng
là cái sản phẩm tự nhiên đặc sắc đƣợc con ngƣời tác động lên, biến đổi và tạo ra nhƣ những
phƣơng tiện nhằm phục vụ và thỏa mãn cuộc sống và sự phát triển của mình. Những hoạt
động đó, những hành vi đó đƣợc lặp lại, đƣợc xử lý, uốn nắn, đƣợc đúc rút trở thành những
kinh nghiệm, những thói quen, những nguyên tắc, những chuẩn mực hƣớng dẫn lại hoạt động
của con ngƣời.
Nhƣ vậy thì, văn hóa nhƣ những chuẩn mực ứng xử của con ngƣời đƣợc thể hiện ra
trong mọi hoạt động, mọi hành vi, mọi nếp nghĩ từ chốn ở, cách ăn, cách làm, lối sinh hoạt
đến cách đối nhân xử thế.
Trên phạm vi thế giới, có một nền văn hóa chung cho toàn nhân loại. Tính chung đó
đƣợc thể hiện ra ở mọi nơi, trong mọi nền văn hóa cụ thể. Và trong mỗi khu vực địa lý - lịch
sử nhất đinh, ở đó nhiều dân tộc cùng chung sống, cùng có những hoàn cảnh và điều kiện
sống tƣơng tự nhau, thƣờng xuyên tiếp xúc, trao dồi và hòa nhập tạo ra một khu vực văn hóa
riêng. Ví nhƣ nền văn hóa Đông Nam Á cổ truyền của cƣ dân trồng lúa nƣớc, sống trong hệ
sinh thái phổ tạp và gió mùa nhiệt ẩm. Và mỗi cộng đồng ngƣời, mỗi dân tộc sống trong một
phạm vi nhỏ hơn, trong một quốc gia, lại tạo ra một nền văn hóa riêng mang bản sắc dân tộc
sắc tộc độc đáo riêng của mình.
Tính đa dạng của văn hóa xuất phát từ tính muôn vẻ của tự nhiên, tính phức tạp,
phong phú của xã hội, tính không đồng đều, không giống nhau của bản thân con ngƣời mang
thể trạng và tâm thức khác nhau.
Vậy bản sắc văn hóa là những nét vãn hoa riêng làm thành hệ giá trị đƣợc một dân tộc
chấp nhận, đƣợc xem là phù hợp và thích hợp, đƣợc đem vào vận hành nhằm thỏa mãn nhu
cầu sống và phát triển của dân tộc mình trong nền cảnh lịch sử tƣơng ứng.
Trong bản sắc văn hóa dân tộc chứa đựng tính nhân loại, tính khu vực và tính tộc
ngƣời, ở đó tính nhân loại và tính khu vực đƣợc đa dạng hóa, đƣợc biến dạng, cụ thể, đƣợc
kết hợp với cái riêng dân tộc mà dân tộc đó sáng tạo ra trong nhƣng hoàn cảnh lịch sử riêng
của nó. Tất cả những cái đó làm thành bản sắc văn hóa của dân tộc, chứ bản sắc dân tộc
không phải chỉ là những cái gì của riêng dân tộc đó nghĩ ra, làm
125
ra. Nhƣ vậy, có thể hình dung bản sắc dân tộc của văn hoá nhƣ một vòng tròn chính tâm đa
sắc, hội kết và chiết xuất muôn vàn vòng sáng đa sắc của văn hóa nhân loại.
Bản sắc văn hóa Việt nam đƣợc hình thành và phát triển đến nay, trong suốt 4000
năm lịch sử, từ thời kỳ dựng nƣớc và giữ nƣớc đầu tiên của dân tộc. Nền văn hóa đó, mà
những yếu tố làm thành bản sắc luôn đƣợc tuyển chọn, chắt lọc, luôn đƣợc đổi mới, thêm
giàu có, đầy sức sống và phát triển vƣơn lên không ngừng.
Văn hóa Việt cổ, ở cái buổi sinh thành và tuổi ấu thơ, mang ý nghĩa là nền tảng, giá
đỡ và bệ phóng cho sự cất cánh của dân tộc và văn hóa ở các thòi kỳ lịch sử tiếp theo. Bởi
vậy, tìm về cội nguồn và nhận ra cái cốt lõi đầu tiên của bản sắc văn hóa Việt Nam là việc
làm hết sức quan trọng và cần thiết nhằm kế thừa, bảo vệ, đổi mới và phát huy những tinh
hoa, đẩy lùi, loại bỏ những cái lạc hậu, khiến văn hóa thực hiện đƣợc chức năng làm nên và
định hƣớng cho cách ứng xử thể hiện ở tâm hồn, đạo lý, lối sống, hành vi...) của mỗi cá nhân
và của cả cộng đồng hƣớng tới cái chân, thiện, mỹ trong quan hệ với mình, với ngƣời, với xã
hội và với tự nhiên.
Để tìm hiểu các đặc điểm tạo thành bản sắc văn hóa ở thời kỳ hình thành nên văn
minh Việt cổ, tức thời Đông Sơn cách chúng ta khoảng 2500 năm, chúng ta cần chỉ ra cái
trƣờng lịch sử, tức bối cảnh tự nhiên và xã hội ở đó nền văn minh đầu tiên của dân tộc đƣợc
hình thành nhƣ đã đƣợc trình bày ở các chƣơng trên. Có thể tóm tắt những nét chính của bối
cảnh đó nhƣ sau :
Về mặt sinh thái tự nhiên, Việt Nam cũng nhƣ Đông Nam Á là khu vực có hệ sinh
thái phổ tạp. Có những giống loài cây con từ miền ôn đới xuống miền xích đạo lên, tạo ra
cảnh quan đa tạp : đồng cò ít, rừng rậm nhiều tầng, dây leo nhiều, ở đó các sinh vật sống với
số lƣợng các giống loài thì lớn, song số lƣợng cá thể của từng loài thì lại nhỏ, ít, khiến
phƣơng thức kiếm sống ở đây tức săn bắt và hái lƣợm phải triển khai theo phổ rộng, nghĩa là
tìm thức ăn mỗi thứ một tí, hơn nữa sản phẩm của hái lƣợm lại nhiều hơn của săn bắt. Và khi
cƣ dân vùng này tiến lên kinh tế sản xuất thì một diễn biến tƣơng ứng cũng xảy ra : nông
nghiệp mang tính đa canh và trồng trọt trội hơn chăn nuôi ( Hà Văn Tấn 1982). Trong nền
cảnh tự nhiên của khu vực Đông Nam Á gió mùa nhiệt ẩm, Việt Nam lại có vị trí địa lý mang
tính tiếp xúc vừa nối liền với đại lục trong thế núi liền núi sông liền sông, Vừa có đƣờng bờ
biển dài hòa nhập vào đại dƣơng bao la, vừa có rừng núi nhiều, chiếm tới 2/3 lãnh thổ, vừa có đồng bằng rộng, có mặt nƣớc mênh mông cứ 1 km2 lãnh thổ lại có hơn 1 km sông ngòi (Nguyễn Việt Phổ 1986).
Thiên nhiên với địa hình, đất đai, sông biển, khí hậu của nƣớc ta nhƣ vậy đã chứa sẵn
trong nó hai mặt đối lập : vừa ƣu ái, thuận lợi vừa khác nghiệt, thử thách... mà
126
trong quá trình khắc phục và hòa điệu với nó đã để lại dấu ấn sầu đậm trong văn hóa quá khứ
cũng nhƣ hiện tại của dân tộc.
Về mặt nền cảnh sống xã hội: cƣ dân Đông Sơn, tức chủ nhân của văn minh Việt
Nam thời khai sinh, đã tạo dựng đƣợc một nền văn hóa thống nhất, trải rộng từ biên giới
Việt- Trung đến bờ sông Gianh. Nền văn hóa đó đƣợc xây dựng trên nền tảng của một nền
nông nghiệp đa canh đƣợc nhen nhóm trong cuộc" cách mạng đá mới" diễn ra từ thời kỳ văn
hóa Hòa Bình. Trong quá trình phát triển, cây lúa nƣớc dần trở thành nguồn cung cấp lƣơng
thực chính phát triển hài hòa với những cây trồng vật nuôi phù trợ khác.
Nền nông nghiệp trồng lúa nƣớc có vị trí nền tảng trong nền kinh tế đa dạng mang
nặng sác thái tự nhiên, khai thác rộng rãi tài nguyên thiên nhiên, đặc sản của núi rừng, sông
biển.
Bên cạnh nông nghiệp và kinh tế khai thác, các nghề thủ công cũng phát triển mạnh
mẽ, các nghề truyền thống nhƣ đúc đồng, rèn sắt, nung gốm, đục đá, khắc gỗ, sơn chạm, đan
lát... đƣợc hình thành, phát triển và đạt tới các đỉnh cao về kỹ năng và kỹ thuật, về nghệ thuật
và mỹ thuật, từ thời Đông Sơn hay trƣớc đó. Trong hoạt động sản xuất thủ công đó, chúng ta
thấy nổi lên một hiện tƣợng chung là tất cả các lò thủ công này đều tồn tại ngay trong lòng
mối làng xã và cuộc sống, mỗi sinh hoạt của họ vẫn gắn bó chặt chẽ với ruộng vƣờn, làng
xóm. Ở họ nguồn sống chính vẫn là làm ruộng Các nghề thủ công này phần lớn chỉ đƣợc tiến
hành vào các kỳ nông nhàn.
Bức tranh kinh tế này đƣợc khái quát dựa trên phần tích tƣ liệu khảo cổ học thuộc các
văn hóa Tiền Đông Sơn Đông Sơn.
Cây lúa - nguồn cung cấp luơng thực chính của ngƣời Việt nam, đã trở thành cây
lƣơng thực chính từ thời Phùng Nguyên - Đông Sơn.
Cùng với lúa gạo, khảo cổ học cũng phát hiện đƣợc chứng tích của nhiều loài rau quả
khác nhƣ các hạt đậu, vỏ quả bàu, các hạt trám, na, mơ, nhãn, vải, vết mảnh sơ cau, nụ chè...
Tƣ liệu về nhƣng loại hình nông cụ chủ yếu đƣợc tóm tắt trong bản thống kê (bảng 1) cho
thấy nông cụ là tấm gƣơng phản chiếu tiến bộ kỹ thuật sản xuất nông nghiệp trên các mặt :
thổ nhƣỡng, cây trồng và phƣơng thức trồng đồng thời chúng cũng đƣợc qui định bởi các yếu
tổ này.
Về mặt thủ công nghiệp, chúng ta thấy trong hàng trăm di tích cƣ trú của ngƣời Phùng
Nguyên - Đông Sơn, mới chỉ ghi nhận đƣợc ở 6 địa điểm có vết tích chế tạo công cụ đá và 7
nơi có vết tích chế tác đồ trang sức đá mà ở đó tính chất công xƣởng của di tích đƣợc xác
định rõ ràng. Còn ở rất nhiều nơi khác vết tích đó rất mờ nhạt. rải rác ở mỗi nơi trong đó gặp
đôi ba phác vật công cụ rìu bôn, vài mảnh lõi vòng, đôi ba phác
127
vật chế tác hạt chuỗi là những thỏi đá hình khối chữ nhật, hoặc gặp một vài chiếc bàn mài
xoáy chuyên để mài nhẵn mặt trong các vòng trang sức bằng đá.
Hiện tƣợng tƣơng tự cũng xảy ra đối với nghề luyện kim và chế tạo đồ kim loại bằng
BẢNG 1 : NÔNG CỤ THỜI PHÙNG NGUYÊN- ĐÔNG SƠN
Giai đoạn
Không
Phùng
Đồng
Gò
Chất liệu
Đông Sơn
xác định
Nguyên
Đậu
Mun
Loại
Cộng
hình hiện vật
Đồng
Gỗ
Đồng
Sắt
Đồng
Đá
Đá
Cuốc có vai
26
250
21
297
Cuốc tứ giác
134
134
Cuốc chữ U
6
38
44
Cuốc có lỗ tra cán
1
2
3
Cuốc bƣớm
1
+
+
+
+
+
Mai
Thuổng hình trứng
1
1
1
1
Thuổng kiểu Yên Hƣng
Thuổng có vai
42
1
43
Thuổng tứ giác
2
2
Thuổng kiểu làng vạc
18
18
Xẻng
4
4
Vên
Lƣỡi cày tam giác
4
4
Lƣỡi cày Cổ Loa
110
110
Lƣỡi cày chân vịt
82
82
Lƣỡi cày vai ngang
6
6
Công cụ sục bùn
4
4
Dao gặt
3
3
1
7
Nhíp lƣỡi chữ nhật
2
1
3
Nhíp lƣõi hình vỏ trai
14
14
Liềm
2
2
1
5
đồng thau.
Cộng
26
388
5
5
5
314
40
783
128
Trong số 24 địa điểm có vết tích của nghề đúc đồng, thì chỉ mới có 4 nơi (Đồng Đậu,
Thành Đền, Làng Cả, Cổ Loa) cho thấy có hiện tƣợng tập trung và phát triển của nghề này.
Nghề rèn sắt lại còn mờ nhạt hơn, mới chỉ thấy vết tích ở Vinh Quang, nấu quặng Chiền Vậy,
Đồng Mỏm, Xuân Giang. Nghề dệt vải và sản xuất đồ gốm cũng có tình trạng tƣơng tự.
Hiện tƣợng này cho thấy từ thời Phùng Nguyên - Đông Sơn đã hình thành một số lò
thủ công chuyên trong lòng một số làng xã. Song phổ biến hơn cả vẫn là rải rác trong các
làng xƣa chỉ tồn tại vài ba Gia đinh làm nghề thủ công.
Nhƣ vậy là tuy thủ công nghiệp đã phát triển, đặc biệt là kỹ thuật đúc luyện và chế tác
đồ kim loại bằng đồng và bằng sắt đã có những thành tựu đáng kể hoặc đã đạt đƣợc đỉnh cao
thời đại, song về bản chất, văn hoá Đông Sơn vẫn là văn minh nông nghiệp - xóm làng.
Sự phát triển của sản xuất và xã hội đã tạo ra sản phẩm dƣ thừa chung, song đồng thời
cũng diễn ra sự chênh lệch tài sản ngày càng tăng ở mỗi gia đình cụ thể. Sự phân hóa giàu
nghèo đã xuất hiện và đƣợc xác minh qua tài liệu mộ táng.
Từ sự phân tích 714 ngôi mộ có niên đại Đông Sơn ở 5 khu mộ táng nổi tiếng là
Thiệu Dƣơng, Làng Cả, Làng Vạc, Vinh Quang, Đông Sơn (Bảng 2), chúng ta thấy những
ngôi mộ nghèo không có hoặc chỉ có một ít đồ gốm và đồ trang sức đơn sơ bằng đá chiếm
phần lớn (51,9 % ) thứ đến là nhóm những ngôi mộ ở mức độ trung bình, thƣờng ngoài
những đồ gốm, đồ đá thông thƣờng, có thêm một ít công cụ và vũ khí bằng đồng hoặc một,
hai công cụ bằng sắt ( chiếm 41,4 % ). Những ngôi mộ giàu có chôn theo nhiều đồ đồng, đồ
sắt trong đó có những đồ vật biểu hiện sự sang trọng, quí phái và quyền uy chỉ chiếm một tỷ
lệ nhỏ (6,5 %).
Hiện tƣợng này cho thấy sự phân hóa giàu nghèo, sang hèn đã thể hiện rõ và ngày
càng tăng song chƣa thật sâu sắc và gay gắt nói lên quan hệ cộng đồng vẫn còn rất vững chắc.
Tính cộng đồng này còn đƣợc thể hiện qua sự phân bố các ngôi mộ trong một khu mộ táng,
chƣa có sự chôn tách bạch thành khu mộ của ngƣời giàu riêng, của ngƣời nghèo riêng, tuy có
ghi nhận đƣợc ở khu mộ táng Làng Cả có một vành đai mộ nghèo nằm ngoài rìa bao lấy một
nhóm mộ giàu và khá nằm ở bên trong. Hiện tƣợng có những ngôi mộ song táng hay táng
chồng lên nhau gặp ở khu mộ Thiệu Dƣơng hay Núi Nấp... nói lên gia đình nhỏ đã tồn tại ở
thời kỳ này. Cũng gặp một số hiện tƣợng khác nhƣ các ngôi mộ nữ có chôn theo vũ khí hoặc
hình tƣợng ngƣời phụ nữ trên các cán dao găm, kiếm ngắn Đông Sơn cho hay vai trò cao của
người phụ nữ trong xã hội bấy giờ.
129
BẢNG 2: PHÂN LOẠI MỘ TÁNG ĐÔNG SƠN THEO HIỆN TRẠNG PHẬN BỐ ĐỒ TÙY TÁNG.
Loại mộ
Số lƣợng mộ
Nghèo
Trung bình
Giàu
đƣợc phân
Số
Tỷ lệ %
Số lƣợng
Tỷ lệ %
Số lƣợng
Tỷ lệ %
Khu mộ
tích
lƣợng
Đông Sơn
102
25
25,5
55
53,9
22
21,5
Vinh Quang
51
29
56,8
22
43,1
0
0
Làng Vạc
226
108
47,7
106
46,9
12
5,3
Làng Cả
219
183
83,1
31
14,1
6
2,7
Thiệu Dƣơng
116
55
47,4
57
49,1
4
3,4
Tổng Số
714
399
51,9
271
41,4
44
6,5
Nghiên cứu các sƣu tập đồ đồng ở các địa điểm Đông sơn then chốt, nổi tiếng nhƣ
làng Cả,Vinh Quang, Thiệu Dƣơng, Đông Sơn, Làng Vạc cho ta một bức tranh tổng quát về
xã hội Đông sơn ở khía cạnh tập trung và gua tăng giàu có, cũng nhƣ ở góc độ mâu thuẫn xung đột xã hội đƣợc thể hiện qua tỷ lệ vũ khí đồ dùng sang trọng tổng số đồ đồng Đông sơn
Bảng 3: VŨ KHÍ VÀ HIỆN VẬT BẰNG ĐỒNG THAU Ở MỘT SỐ DI TÍCH VĂN HÓA ĐÔNG SƠN
hiện biết ở các khu di tích đó
Vũ khí Hiện vật sang Địa điểm Số lƣợng chung Số lƣợng Tỷ lệ % Số lƣợng Tỷ lệ %
Vinh quang 1.48 94 63,5 ? ?
Làng cả 187 120 64,1 17 9
Đông Sơn 1026 519 50,5 16,4
444 475 257 120 57,8 24,0 169 10 75
Thiệu Dƣơng Làng vạc (đợt đào 1973,1980) Tổng cộng 2280 1110 48,6, 271 2,2 16,0 11,8
130
Nhìn chung, số lƣợng vũ khí đồng thau vẫn chiếm tỷ lệ cao ở hầu hết các di tích này.
Riêng ở Làng Vạc, tỷ lệ vũ khí có phần thấp hơn. Điều đó đƣợc giải thích phần nào, do vị trí
của Làng Vạc ở khá xa các trung tâm lớn ở đồng bằng, nơi vào cuối thời Đông Sơn đã xảy ra
những xung đột quyết liệt giữa ngƣời Việt cổ và các thế lực xâm lƣợc từ ngoài. Điều này còn
đƣợc giải thích bằng tính độc đáo của ngƣời Làng Vạc với sở trƣờng cận chiến dùng dao găm
và kiếm ngắn làm vũ khí tiến công, số lƣợng loại vũ khí này đã lên tới hàng trăm chiếc, đƣợc
chế tạo tại chỗ qua nhiều khuôn đúc dao găm tìm thấy ở đây, trong khi đó các loại vũ khí vừa
mang tính năng chiến đấu vừa mang tính năng săn bắt hay sản xuất nhƣ giáo, lao, rìu xéo...
lại có tỷ lệ rast thấp. Riêng số đồ đồng thau sang trọng cũng chiếm tỷ lệ đáng kể đặc biệt ở
các địa điểm mang ý nghĩa trung tâm của vùng nhƣ Làng Cả, Đông Sơn, Làng Vạc, nơi sống
tập trung tâng lớp quí tộc. Và càng về cuối (nhƣ ở lớp cƣ trú và nhóm mộ muộn của di tích
Đông Sơn. hoặc nhƣ ơ khu mộ táng Làng Vạc) số lƣợng đồ tùy táng sang trọng, trong đó đặc
biệt có thêm nhiều di vật ngoại lai hay mô phỏng ngoại lai sang trọng nhƣ bình, dinh, ấm,
gƣơng, qua ... đƣợc chôn theo cùng với đồ đồng bản địa ngày càng nhiều.
Dẫu sao thì xã hội Đông Sơn Cũng là một xã hội đã phân tầng và văn hóa Đông Sơn
đã là một văn hóa có Nhà nƣớc." Cộng đồng ngƣời Việt, tổ tiên ta đã sớm trở thành một dân
tộc, một quốc gia, đó là một sức mạnh, một thế mạnh rất cần thiết và qui báu. Đó là một sự tự
khẳng định giàu gia trị văn hóa để tự bảo vệ mình, để tồn tại và phát triển " (Phạm Văn Đồng
1994).
Trong bối cảnh tự nhiên và xã hội nhƣ trên văn hóa Việt Nam đƣợc hình thành và
phát triển mang những đặc điểm riêng biệt, mà một số trong đó là những hằng số lâu dài.
Đời sống và từ đó cả lẽ sống đƣợc ngƣời Việt Nam hiểu một cách rất nôm na nhƣng
cũng thật bản chất và sâu sắc qua hai vế việc làm tức lao động sản xuất, hoạt động kiếm sống
nói chung, và cách ăn ở tức nếp sinh hoạt, lối ứng xử (cƣ xử, quan niệm đạo đức, thẩm mỹ,
tâm lý, tâm linh ...)
Trƣớc hết và trên hết, chúng tôi muốn nói đến công việc làm ăn hay văn hóa sản xuất
của ngƣời Việt cổ.
Không gian sinh tồn đã đúc luyện nên tính cách hạ bạn, tâm lý hóa thân vào đồng đất
và mở rộng cõi bờ với hƣớng chảy dọc theo các mạch đất bằng ven biển. Màu nâu bạc của
nón áo ngƣời nông dân hoa cùng mầu nâu sẩm của phù sa ruộng đồng tạo nên sắc màu độc
đáo của văn hóa sản xuất, của xóm làng Việt.
Cụ thể hơn, về nghề nông trồng lúa nƣớc - cơ sở của toàn bộ đời sống của ngƣời Việt
cổ, chúng ta thử xem trong thời kỳ Đông Sơn những yếu tố tự nhiên và xã hội nào
131
đã tác động lên lĩnh vực sản xuất và quan hệ sản xuất, tạo ra những nét hằng xuyên trong lĩnh
vực văn hóa sản xuất này. Nƣớc là yếu tố tồn tại số một đối với cây lúa nƣớc. Song ở xứ ta,
nƣớc có lúc thiếu, có lúc lại quá thừa. Những biện pháp kỹ thuật đa dạng: đắp bờ, khơi
mƣơng, quai đê, tát nƣớc, tháo nƣớc ... đã ra đời. Mặt đồng bằng nói chung phẳng, song quá
trình thành tạo chƣa xong thì bàn tay con ngƣời đã sớm can thiệp vào tạo ra những ô trũng
bên cạnh những doi đất nổi cao do phù sa bồi đắp, vậy làm thế nào tận dụng đƣợc mọi thế đất
khác nhau đó để trồng trọt. Hiểu biết về thời tiết ( chu kỳ 2 mùa mƣa - khô) và nhu cầu tăng
vụ, mở rộng diện tích đã khiến ngƣời Đông Sơn đƣa cây lúa lên cao vào bãi, lên nƣơng mặc
dù đất ở những nơi đó có lúc thiếu nƣớc, song nhờ mƣa trời nên có độ ẩm đủ để cây lúa sinh
trƣởng. Và cây lúa cũng đƣợc đƣa cả xuống nơi đất trũng nƣớc ngập quanh năm nhƣng về
mùa khô mức nƣớc giảm đi đến mức cây lúa có thể sống đƣợc. (Những chứng tích về giống
lúa : chiêm, mùa, về bộ nông cụ thời Đông Sơn, có cuốc dùng cho nơi đất khô. có mai dùng
cho nơi đất ƣớt, cũng vậy, nhíp dùng để cắt lúa nƣơng bãi thân cứng, liềm dùng để gặt lúa đổ
thân mềm ở ruộng trũng, cùng những ghi chép trong thƣ tịch xƣa. Một trong những cuốn sách
xƣa nhất của Trung Quốc chép về lịch sử nƣớc ta là cuốn Giao châu ngoại vực ký (thế kỷ 4)
đƣợc dẫn lại trong cuốn Thủy kinh chú (thế kỷ 6), có đoạn viết : " Ngày xƣa. Giao Chỉ khi
chƣa chia thành quận huyện, ruộng đất có ruộng lạc. ruộng đó theo nƣớc thủy triều lên xuống
dân khẩn ruộng đó mà ăn nên gọi là dân Lạc". Đoạn văn trên phản ánh lối canh tác độc đáo.
lơi dụng nƣớc thủy triều lên xuống để dẫn nƣớc vào ruộng, giữ nƣớc ở đấy hoặc tháo nƣớc ra
khi cần thiết theo nhu cầu sinh trƣởng của cây lúa . Một đoạn văn khác chép trong một cuốn
sách khác là cuốn Dị vật chí của Dƣơng Phu (thế kỷ 1) nhắc đến " lúa ở Giao Chỉ mỗi năm
trồng hai lần về mùa hè và mùa đông " lại cho chúng ta biết thành quả lai tạo giống lúa mới
của ngƣời Việt cổ.)
Công cuộc chinh phục đồng bằng, mở rộng diện tích cấy trồng đòi hỏi ngày càng bức
thiết công việc trị thủy và làm thủy lợi. Ở Cổ Loa đã phát hiện đƣợc dấu tích của một đoạn đê
cổ. Thƣ tích cổ Trung Quốc, có những đoạn chép :" Huyện Phong Khê đã có đê để đề phòng
nƣớc sông Long Môn" (Giao Châu Ký) hoặc" Phía tây bắc huyện Long Biên quận Giao Chỉ
đã có đê để giữ nƣớc sông " (Hán thư quận huyện chí).
Nƣớc là giải pháp hàng đầu trong 4 giải pháp phát triển nông nghiệp cổ truyền nƣớc
ta. Công việc thủy lợi đã có ảnh hƣởng dƣờng nhƣ sống còn đến sự phát triển toàn diện của
xã hội cổ truyền Việt Nam và cũng là của cả Phƣơng Đông nói chung nhƣ C. Mác đã nhận
xét.
Nhƣng tƣ liệu về ruộng công, về lịch sử lập làng sau này đã xác nhận vai trò to lớn
của ruộng công, và làng xã trong đời sống kinh tế của ngƣời Việt cổ, vai trò này hẳn còn đậm
đà hơn vào thời Đông Sơn.
132
Mặt khác, một loạt các chứng tích khảo cổ khác (nhƣ qui mô của những ngôi nhà không lớn thƣờng trên dƣới 10 m2, xét qua qui mô của các nền đất vàng có hố cột ở các di chỉ Đông Đậu, Từ Sơn, Đồng Dền, Gò Mun ... Kích cỡ của những đồ gốm dùng trong sinh hoạt
nấu nƣớng ăn uống thƣờng nhỏ nhắn. Những nồi đất ám khói thƣờng có đƣờng kinh, chiều
cao dƣới 20 cm... phong tục mai táng thƣờng gặp là các mộ táng đơn, mộ táng đôi thì có cả
nam nữ nhƣ mộ số 1 ở khu mộ táng Núi Nấp, ta gặp một ông già 50 tuổi chôn chung với một
phụ nữ 20 tuổi. ở các khu mộ táng khác nhƣ Quỳ Chử, Thiệu Dƣơng cũng đều gập những khu
mộ táng chồng nhau, trong trƣờng hợp định giới đƣợc cũng cho thấy đó là những cặp đôi nam
nữ ...) lại làm nổi lên vị trí của gia đình nhỏ nhƣ một đơn vị sản xuất cơ bản. Chính cái mối
quan hệ về quyền sử dụng ruộng đất thuộc cá nhân, gia đình và quyền sở hữu nó lại thuộc về
làng xã này, mối quan hệ tự nhiên giữa gia đình với họ mạc, làng xóm đối với đối tƣợng và
phƣơng thức kiếm sống chính là ruộng đất này đã là động lực phát triển sản xuất suốt chiều
dài lịch sử đất nƣớc, đã trở thành cung cách làm ăn, thành truyền thống. Và cái truyền thống
đó, cái động lực mạnh mẽ kích thích phát triển sản xuất đó đã đƣợc làm sống lại, nâng lên và
phát huy mạnh mẽ (qua khoán 10) trong khung cảnh đổi mới trên lĩnh vực sản xuất nông
nghiệp ngày nay.
Nhìn sang địa hạt thủ công nghiệp, nhƣ trên đã có dịp nhắc đến. một hiện tƣợng nổi rõ
và bao trùm là các lò thủ công chìm ngập trong xóm làng nông nghiệp. Nền kinh tế tự túc
phát triển ở mức thấp khiến con ngƣời có thể làm ra đƣợc nhiều thứ tiêu dùng cho bản thân
trong các thời gian rảnh việc ngoài đồng. Nền kinh tế phụ gia đình này một thời đã là sự hợp
lý, cân bằng và hài hòa trong việc sử dụng sức lao động xã hội. Song tốc độ chậm chạp diễn
ra đối với sự phân công lao động xã hội lần thứ 2 này, khiến kinh tế hàng hóa ra đời muộn
màng và kém phát triển. Mặt hạn chế đang đƣợc khác phục trong quá trình thực hiện chính
sách mở rộng và phát triển các ngành nghề thủ công truyền thông ở nông thôn hiện nay.
Trong số những nghề thủ công truyền thống đƣợc hình thành từ thời kỳ Đồng Sơn
phải kể đến nghề chạm khắc gỗ, đá, nơi mà óc sáng tạo và bàn tay có hoa của ngƣời Việt
đƣợc thể hiện rõ nhất. Chúng là kế thừa tinh hoa của nghệ nhân Đông Sơn trong việc tạo tác
những đồ án hoa văn khắc vạch trên gốm, hay chạm khác trên trống đồng.
Nhìn chung, trong lĩnh vực sản xuất, trƣớc một thiên nhiên đa dạng, nhiều thuận lợi
nhƣng cũng đầy thử thách khắc nghiệt nhƣ vậy, cách ứng xử của ngƣời Việt cổ cũng thật hợp
lý, linh hoạt: tiến hành nền sản xuất đa canh, thực hành nhiều biện pháp thủy lợi nhằm bảo
đảm kết quả cho mùa màng, khai thác triệt để nguồn lợi tự nhiên của nƣớc và rừng... Trong
cuộc vật lộn kiếm sống này, trong cuộc gian lao dựng nƣớc này
133
đã dần hình thành nên nhiều phẩm chất tốt đẹp mà nổi lên là đức tính cần cù, kiên nhẫn, tinh
thần cộng đồng, gắn bó ...
Từ lĩnh vực lao động sản xuất, dựng nƣớc chuyển sang lĩnh vực đấu tranh, giữ nƣớc,
văn hóa chiến đấu, chúng ta thấy ở ngƣời Đông Sơn, thuật giữ nƣớc cũng thật đặc sắc, tài ba.
Bộ vũ khí Đông Sơn với những lƣỡi rìu chiến cong vút, những thanh kiếm, lƣỡi dao
găm sắc khỏe, những mũi tên 3 cánh nhọn sắc... đã mách chỉ sở trƣờng cận chiến cũng nhƣ
tài cung nỏ của họ. Đời sống sông nƣớc với những con thuyền chở chiến binh đƣợc khắc họa
trên trống đồng Đông Sơn nói lên tài đánh thủy của ngƣời Việt.
Không gian sinh tồn mà ngƣời Đông Sơn tạo dựng là miền đất có vị trí ngã ba giao
lƣu văn hóa và tộc ngƣời cũng là miền đất có nhiều sản vật qúi, hấp dẫn. Hơn nữa ngƣời Việt
lại có ngƣời láng giềng mà ông chủ của nó lại không mấy thiện chí, có thiên hƣớng bành
trƣớng. Yếu tố xã hội khách quan mà ngƣời Việt buộc phải gặp này đã khiến họ, để tồn tại và
phát triển đƣợc, cần thiết phải dùng sức mạnh của cả cộng đồng để chống lại. Điều đó có
nghĩa là, khi đất nƣớc có biến, ngoài đội quân thƣờng trực mới hình thành còn ít ỏi về qui mô
và sức mạnh có hạn này, thì buộc phải động viên đƣợc sức mạnh tối đa ở mọi thành viên
cộng đồng. Những bằng chứng về đội quân thƣờng trực đƣợc phản ánh qua sự hiện diện của
tòa thành Cổ Loa đồ sộ, ở kho mũi tên đồng hàng vạn chiếc tìm thấy ở Cầu Vực, ở tỷ lệ vũ
khí đồng thau chiếm từ 1/3 đến quá 1/2 toàn bộ đồ đồng ở các di tích Đông Sơn tiêu biểu.
Cũng vậy qua phân tích thành phần đồ tùy táng chôn theo trong các khu mộ Đông Sơn này
chúng ta phần nào có thể hình dung đƣợc vị trí của ngƣời dân vũ trang trong sự nghiệp giữ
nƣớc. (Bảng 4)
Giả định rằng, những ngôi mộ chỉ chôn theo vũ khí và đồ dùng sinh hoạt là những mộ
của chiến binh, còn nếu có thêm, cả công cụ sản xuất nữa là những mộ của dân binh. Mối
tƣơng quan tỷ lệ (20,9/30,6) giữa 2 loài mộ đó cho thấy lực lƣợng dân binh cũng có một vai
trò đáng kể.
Tính chất toàn dân của chiến tranh, ý thức trách nhiệm giữ nƣớc của toàn dân cộng
đồng: còn đƣợc thể hiện ở sự tham gia của phụ nữ, của thanh thiếu niên vào sự nghiệp thiêng
liêng đó. Hình tƣợng ngƣời phụ nữ quyền quí trên các chuôi dao kiếm và cả những bằng
chứng có sức thuyết phục cao hơn nữa là sự có mặt của những ngôi mộ phụ nữ, mộ thiếu niên
có chôn theo vũ khí mà ở đó xƣơng cốt giúp định giới đƣợc cho thấy trong số 20 mộ đƣợc
biết thuộc nam giới 13, nữ 4 và thiếu niên 3. Tƣ chất đó đã trở thành truyền thống ngay từ
thời Đông Sơn, qua hình tƣợng đẹp đẽ của chú bé làng Gióng.
134
BẢNG 4 :THÀNH PHẦN ĐỒ TÙY TÁNG TRONG CÁC MỘ ĐÔNG SƠN TIÊU BIỂU.
Loại đồ tùy táng
Khu mộ Không có đồ tùy táng Chí có đồ sinh hoạt Công cụ và đồ sinh hoạt Vũ khí và đồ sinh hoạt Vũ khí, công cụ và đồ sinh họat
Tỷ lệ Tỷ lệ Tỷ lệ Tỷ lệ Tỷ lệ Số lƣợng
Vinh Quang 37,2 11 21,5 7,8 Số lƣợng 19 Số lƣợng 4 Số lƣợng 14 27,4 Số lƣợng 3 Số lƣợng mộ 51 5,8
Phú Lƣơng 36 11 30,5 12 33,3 13,8 7 19,4 2,7 1 5
Làng Cả 219 172 78,5 10 4,5 2,7 22 10,0 4.1 9 6
5 Núi Nấp 22 4,5 4 18,1 22,7 7 31,8 22.7 1 5
Đông Sơn 102 0,9 38 37,2 6,9 28 27.4 28 27,0 1 7
Thiệu Dƣơng 116 2,5 56 48,2 7,7 23 19,8 25 21,5 3 9
Làng Vạc 226 21 9,2 112 49,5 35 15,4 24 10,6 34 15
Tổng cộng 772 228 23,3 243 30,3 71 11,0 125 20,9 105 13,6
Chính cái bối cảnh tƣơng quan nhỏ - lớn, yếu - mạnh mà lịch sử đã đặt ngƣời Đông
Sơn vào khiến họ trong chiến đấu đã sớm chọn đƣợc cách đánh mƣu lƣợc khôn khéo là tránh
đối đầu trực diện khí đối phƣơng còn đang mạnh gấp bội, cũng không trụ lại trong thành cao
hào sâu để hứng chịu đòn tấn công mà lại bỏ tránh vào rừng rậm, đầm lầy tổ chức đánh lâu
dài, dùng phụcc kích, tập kích và cận chiến để tiêu diệt quân địch. Lối đánh này đƣợc ngƣời
Tây Âu, Lạc Việt - một bộ phận hữu cơ của cƣ dân nƣớc Âu Lạc sau này - thể hiện trong
cuộc kháng chiến chống Tần vào cuối thế kỳ 3 trƣớc công nguyên.
Một hiện tƣợng đáng ghi nhận nữa khi phân tích cách thức mai táng của ngƣời Đông
Sơn là dù ở các ngôi mộ thuộc tầng lớp bình dân hay quí tộc trong bộ đồ tùy táng, ngoài đồ
dùng sinh hoạt, những trang sức cá nhân, thƣờng gặp cả công cụ sản xuất và vũ khi: lƣỡi cày bên cạnh lƣỡi kiếm, chiếc đục bên cạnh ngọn giáo... Hiện tƣợng đó đƣợc khảo cổ học sập
thƣờng xuyên ở hầu hết các khu mộ táng Đông Sơn là một minh họa sống động về cái ý thức
thƣờng trực trong thế ứng xử của ngƣời Việt cổ : lao động và đấu tranh, dựng nƣớc và giữ
nƣớc là hai mặt cơ bản của cuộc sống hòa quyện vào nhau, bảo đảm cho sự tồn tại và phát
triển của cộng đồng. Nguồn sống mãnh liệt
135
này của văn hóa Việt Nam đƣợc khỏi tạo và khơi dòng từ thời xa xƣa đó. ( Chử Văn Tân
1994 : 10 ).
Trong thời kỳ Đông Sơn, ngƣời Việt đã tập hợp thành quốc gia - dân tộc. Khối cộng
đồng đó đƣợc tổ chức và vận hành nhƣ thế nào để trở thành một quốc gia một dân tộc lơn
mạnh nhƣ ngày nay ? Đó cũng là một điều kiện hết sức quan trọng và cần thiết, một động lực
mạnh mẽ để tồn tại ổn định và phát triển vững chắc của cộng đồng. Khảo sát đặc điểm hình
thành các điểm cƣ trú, các cụm cƣ trú và các trung tâm cƣ tru cùng những kết cấu cƣ dân biểu
hiện qua nhà ở cũng nhƣ kết cấu thành phần cƣ dân qua mộ táng Đông Sơn cho hay : gia đình
là đơn vị xã hội cơ sở tồn tại trong lòng mỗi làng xã đƣợc hình thành từ các nhóm cƣ dân
khác nhau thƣờng quanh một hay vài ba dòng họ lớn nổi lên tạo cho công xã nông thôn một
sắc thái làng họ. Gắn thành cụm một số làng - họ này thành một tổ chức liên làng dƣới hình
thức kết chạ. Và trùm lên tất cả ở phạm vi toàn cộng đồng là tổ chức siêu làng hay nƣớc. Đó
là hình ảnh xã hội cổ truyền của ngƣời Việt." Nhân tố có tác dụng quyết định của quá trình
hình thành dân tộc ta là thời Vua Hùng, đƣa đến sự ra đời của nƣớc Văn Lang và nƣớc Âu
Lạc một hệ thống thế chế xã hội chính trị chi phối toàn bộ cuộc sống của cộng đồng ngƣời
Việt lúc bấy giờ bằng cách tập hợp các bộ lạc trong một địa bàn ngày càng đƣợc mở rộng. Hệ
thống đó là gia đình (nhà), làng và nƣớc ... Trở lại hệ thống gia đình (nhà) làng, nƣớc, chúng
ta phải thấy mối quan hệ hữu cơ, sự gắn bó ngƣợc xuôi giữa ba cơ cấu chính trị và xã hội mà
sức mạnh tổng hợp của nó có liên quan mật thiết đến sự tồn tại và hƣng thịnh của dân tộc.
Trong lịch sử lâu dài của nƣớc ta, hệ thống cơ cấu này là cột trụ làm nên sức, sống của dân
tộc, nó là ba cái khâu của một sợi dây chuyền không gì phá vỡ nổi, mỗi khâu đều có tầm quan
trọng của nó, và tất nhiên thiếu nó thì không còn là sợi dây chuyền " (Phạm Văn Đồng 1994).
Một khía cạnh quan trọng khác khi khảo sát bản sắc Việt trong văn hóa quản lý hay
văn hóa xã hội là tìm hiểu thuật" trị nƣớc " của lớp ngƣời đƣợc đặt ở vị trí chèo lái. Chứng cớ
về lĩnh vực này dƣờng nhƣ là khoảng trắng trong khảo cổ học, chỉ còn nhận ra lờ mờ trong ký
ức dân gian phản ánh trong truyền thuyết, hay trong các đoạn sử muộn mang tính chất hồi cố
sau này. Hình ảnh, thời Hùng Vƣơng," vua tôi cùng đi cày" nói lên tác phong xâm nhập thực
tiễn cuộc sống, đi sát dân của các bậc vua hiền. Hành động mất cảnh giác của Thục Phán,
mắc mƣu chia rẽ của kẻ thù, làm tan rã khối đoàn kết dân tộc khiến cơ đồ đắm biển sâu. Lời
thề của Trƣng Trắc khi dựng cờ khởi nghĩa đƣợc Thiên nam ngữ lục, áng sử ca dân gian thế
kỷ thứ 18 diễn tả lại:
Một xin rửa sạch nước thù,
Hai xin đem lại nghiệp xưa họ Hùng.
Ba kẻo oan ức lòng chồng,
Bốn xin vẻn vẹn sở công lênh này.
136
Từ trong lời thề đó, toát lên "phẩm chất cao cả của ngƣời đúng đầu cuộc khỏi nghĩa, ở
đây chúng ta thấy cái nghĩa cả, cái nghĩa vụ và trách nhiệm với dân với nƣớc đƣợc đặt lên
hàng đầu, rửa hận mất nƣớc giành lại độc lập tự do cho dân tộc ở đó cũng thấy rõ ý chí dựng
lại và bảo vệ nền văn hiến của dân tộc không để nó mai một lụi tàn. Phẩm chất đó của Bà
Trƣng - của ngƣời lãnh đạo cũng là hiện thân của tính cách Việt một nét đặc sắc trong bản sắc
văn hóa việt có từ thời dựng nƣớc.
Cùng với lao động, sinh sống và đấu tranh để bảo tồn và phát triển, toàn bộ những
hoạt động khác còn lại nhằm thỏa mãn nhu cầu và hoàn thiện cuộc sống của con ngƣời cả về
mặt vật chất lẫn về mặt tinh thần. Đó là sinh hoạt hàng ngày của con ngƣời. Trong văn hóa
sinh hoạt này xét ở góc độ sinh học, thì việc ăn, mặc, ở, đi lại... lại là điều kiện sống tiên
quyết trƣớc cả lao động sản xuất nó vừa là động cơ vừa là mục đích của lao động sản xuất.
Những phƣơng tiện và phƣơng thức sinh hoạt đó đƣợc thể hiện rất đa dạng và sinh động ở
các kiểu món ăn, đồ mặc, nhà ở, các phƣơng tiện đi lại đƣợc các nhân tố tự nhiên và xã hội,
các điêu kiện sống cụ thể qui định dần trở thành lối sống, thành sở đắc khẩu vị, ý thích riêng
của cộng đồng, thậm chí cho từng dòng họ, từng gia đình, từng thành viên của cộng đồng đó..
Về mặt văn hóa vật chất, ngƣời Đông Sơn đã có những sở trƣờng, ƣa thích, thói quen
gì trong lối sống của họ?
Tìm hiểu những đặc điểm văn hóa này với việc phải dựng lại những hình ảnh cụ thể
của ngƣời xƣa sẽ có tác dụng nhƣ lập một bảng tuần hoàn các yếu tố văn hóa để có thể chọn
ra những yếu tố hợp, cho ta một phản ứng thuận trong việc tạo ra những chuẩn mực cho nếp
sống văn hóa mới.
Trƣớc hết nói về nơi ở, theo nghĩa rộng bao hàm cả không gian cƣ trú, địa bàn quần
cƣ của ngƣời Đông Sơn.
Vốn là cƣ dân thạo nghề nông, trồng lúa nƣớc, ngƣời Việt cổ đã triển khai không gian
sống theo hƣớng chiếm lĩnh các vùng châu thổ.
Bản đồ cƣ trú của ngƣời Phùng Nguyên - Đông Sơn với những điểm tụ cƣ dày đặc ở
trung du, đồng bằng, dọc theo các dòng sông, ven biển với các bãi phù sa màu mỡ phì nhiêu.
Thời đại Đông Sơn là thời kỳ có những biến động xã hội lớn, bên trong đã có sự phân
tầng, sự đụng độ và sáp nhập, bên ngoài thì mối đe dọa xâm lấn ngày một tăng, do vậy yếu tố
phòng thủ trong cƣ trú lại càng đƣợc chú ý đặc biệt đối với các trung tâm - nơi tập trung các
lực lƣợng điều hành của mỗi khu vực, hay toán cộng đồng. Việc dựng mộc sách, đắp thành
quách nhƣ thấy ở Cổ Loa là một thể nghiệm tìm tòi. Song
137
xuất phát từ thế và lực của mình, lợi dụng địa thế thiên nhiên hiểm yếu, ngƣời Việt cổ sớm
nhận ra cái ƣu thế sử dụng vành đai tự nhiên Núi - Nƣớc, đặc biệt vành đai nƣớc để cắm đất
dựng nghiệp. Ví nhƣ Làng Cả - Kinh đô Văn Lang xƣa có cánh cung nƣớc là sông Hồng che
chắn. Khu di tích Đông Sơn - một trung tâm khác ở phía Nam của nƣớc Văn Lang, Âu lạc, lại
có dây cung nƣớc là sông Mã và cánh cung đất là Núi Rồng bao bọc. Còn địa điểm Làng Vạc
thì lại nằm lọt trong tứ giác Núi- Nƣớc của núi Hòn Xƣởng, Suối Vạc và Sông Hiếu.
Về nhà ở, căn cứ vào vết tích những đoạn gỗ có vết gia công đục đẽo, vào hình khắc
ngôi nhà trên trống đồng, vào các nền đất nện đi kèm với các hố cột ở nhiều di chỉ cƣ trú, có
thể thấy ngƣời Việt cổ đã sống trong các ngôi nhà sàn có mái cong hình thuyền hay mái
khum kiểu mu rùa, cũng nhƣ trong các ngôi nhà trệt, nền đất. Nhà sàn mái cong có trang trí
hình đầu chim ở 2 đầu nóc, bên trong mô tả cảnh đánh trống, chơi trò trồng nụ, trồng hoa,
mồm ngƣời há rộng nhƣ đang ca hát chắc hẳn đó là nơi hội họp sinh hoạt của dân làng. Còn
những nhà nền đất lại cho thấy rằng, khi ngƣời Việt định đồng bằng, chinh phục khai phá
những khoảng đất hoang rừng cây rậm rạp, khiến môi trƣờng thay đổi dẫn tới quá trình
chuyển ở từ nhà sàn sang nhà đất. Song bản sắc nhà ngƣời Việt là ở cái hƣớng nam mát mẻ
của nó, là ở cái hiên xoải rộng ra sân nhập vào khung cảnh tự nhiên của ao vƣờn thoáng đẵng
xung quanh.
Ăn uống cũng là một dạng sinh hoạt ở đó có thể nhận ra cái bản sắc riêng của mỗi dân
tộc. Cái độc đáo ở đây không phải chỉ ở các món ăn đặc sản cầu kỳ mà thực chất là ở bữa ăn
hàng ngày. Tuy ngƣời Phùng nguyên - Đông Sơn không để lại cho chúng ta những thực đơn
của họ một cách trực tiếp, đầy đủ, song chúng ta vẫn có thể nhận ra qua sinh hoạt cổ truyền ở
nông thôn nƣớc ta, qua nhữn đoạn ghi chép trong sử liệu thành văn và đặc biệt qua các câu ca
dao, tục ngữ. Những tài liệu gián tiếp đó đặt bên cạnh những vật thật trực tiếp của ngƣời thời
ấy để lại khiến tài liệu khảo cổ học trở nên sinh động hơn và đây đủ hơn. Những hạt lúa gạo
tìm đƣợc ở nhiều địa điểm khảo cổ học thời này, thuộc đủ các loại: hạt tròn, hạt dài, thóc nếp,
thóc tẻ, lúa chiêm, lúa mùa. Cùng với cảnh giã gạo chảy tay, sàng xảy khác trên các trống
đồng Ngọc Lũ, Cổ Loa, nhƣng hoa văn bông lúa trên vòng tay đồng tìm thấy ở Đông Sơn,
hay trên các trống đồng phản ảnh một cách sinh động những điều ghi trong Lĩnh nam chích
quái: thời Hùng Vƣơng " đất sản nhiều gạo nếp ".
Cùng với vết tích lúa gạo, còn tìm thấy nhiều vỏ quả bầu dùng làm khèn, làm gáo gặp
trong các ngôi mộ thuyền thời Đông Sơn, rồi cả những hạt đậu nữa đã làm nổi lên "cái chất
văn minh thực vật (P.Gourou) trong nền văn minh Đông Sơn. Tô đậm cho tố chất này còn là
một loạt các hạt quả, trái cây nhƣ trám, na, mơ, vài, nhãn, cam ... có niên đại Đông Sơn tìm
thấy ở nhiều nơi. Đó là những thú hoa quả lâu đời thơm ngon
138
và hữu ích đƣợc ƣa chuộng, trồng phổ biến khắp nơi trong nƣớc ta và đã trở thành đặc sản
của Việt Nam.
Đạm động vật là thành phần dinh dƣỡng quan trọng cho phát triển thể lực và trí lực
con ngƣời. Tuy đạm động vật hiếm do nguồn săn bắt cung cấp ngày một cạn, còn thịt từ
nguồn chăn nuôi lại ít, hiếm do hạn chế của môi sinh, để bù lại, tận dụng ƣu thế của môi
trƣờng sông nƣớc, ngƣời Việt cổ đã khai thác triệt để nguồn đạm thủy sản. Cua ốc vẫn là
nguồn thức ăn dƣờng nhƣ là chủ yếu thƣờng ngày của ngƣời Hòa Bình tổ tiên xa xƣa của
ngƣời Việt, đối với ngƣời thời Hùng Vƣơng, nguồn thức ăn này vẫn có mặt trong bữa ăn
hàng ngày của họ đƣợc xác minh qua vết tích càng cua, vỏ trai ốc, xƣơng cá trong các nơi ở
của ngƣời thời này. Hình ảnh cá đƣợc khắc vẽ trên đồ gốm Gò Chiền. Cũng vậy hình ảnh con
cá, con ốc đã đƣợc khắc vẽ, đúc tạc trên trống đồng, thố đồng, muôi đồng ... Và hình ảnh con
cá sau này đã thấm sâu vào sinh hoạt của nhân dân, có mặt ở khắp nơi, cái mô hình con cá ở
điểm làng Vân Nội. Con cá chép thờ sơn son thiếp vàng trong đền thờ Chử Đồng Tử ở xã Dạ
Trạch (Hải Hƣng), ở hội làng Me (Hà Tây) ngƣời ta đã tế thần Tản Viên bằng cá nƣớng. Rồi
hình ảnh con cá và ngƣời đi câu xuất hiện ở vị trí thứ hai chỉ sau những ngƣời rƣớc bông lúa,
đi cày, đi cấy, trong trình diễn trò Trám ở Tứ Xã (Vĩnh Phú).
Tận dụng mọi mặt nguồn lợi tự nhiên với hƣớng tập trung khai thác ƣu thế vùng đã
tạo ra nguồn thức ăn phong phú mà cách chế biến độc đáo của nó đã tạo ra các món ăn truyền
thống ƣa thích, thành nét riêng hằng xuyên trong sinh hoạt ăn uống của ngƣời Việt.
Cơm - canh có thêm cá, với nhiều hình thức chế biến, thành các món ăn rất Việt Nam:
cơm tẻ cùng với cơm nếp, xôi vò, bánh dày, bánh chƣng, canh mồng tơi, rau đay, canh chua,
canh cua, canh cá cùng với cá nƣớng cá gỏi, mắm tôm, mắm cá ... Ngƣời Việt Nam, dù sống
ở đâu, nhớ về quê hƣơng đều thầm nhớ huơng vị của các món ăn dân tộc này.
Phân tích bộ đồ dùng trong sinh hoạt ăn uống hàng ngày của ngƣời Đông Sơn, chúng
ta thấy một thành phần ổn định và thƣờng gặp bao gồm các loại nhƣ : các nồi đun nấu có kích
cỡ nhỏ vừa thích hợp dùng cho một gia đình nhỏ. Các bát đựng thức ăn kiểu chiết yêu, chân
cao, đáy thót dùng để đựng canh... Rõ ràng là các đồ vật này đƣợc dùng chung cho mọi ngƣời
trong bữa ăn. Từ đó ánh lên một tập quán "ăn cùng mâm, ngồi cùng chiếu" một thói quen
dùng chung thức ăn mà không chia thành khẩu phần riêng tuy vẫn ngồi chung một bàn (Chử
Văn Tân 1994).
Đầu tóc, trang phục : Những biểu hiện bề ngoài của con ngƣời, bên cạnh những dấu
ấn môi trƣờng và hoàn cảnh xã hội, chúng ta thấy nổi bật lên cái dấu ấn tộc ngƣời.
139
Và cái sắc tộc ở đây là sự tổng hòa và phƣơng thức kết cấu các đặc trƣng của ba mặt trên. Tài
liệu khảo cổ học hiện biết tuy còn rời rạc, nhƣng đƣợc đặt dƣới ánh sáng của những tƣ liệu
thành văn và dân tộc học, có thể cho chúng ta những đƣờng nét chung nhất và dáng vẻ bề
ngoài của ngƣời Việt cổ.
Tổ tiên ta rất chú ý đến cách để đầu tóc, xem "cái răng, cái tóc là góc con ngƣời". Qua
những bức tƣợng ngƣời trên cán dao găm và hình khắc trên các đồ đựng và trống đồng, cũng
nhƣ các tƣợng tròn trên thạp Đào Thịnh thuộc văn hóa Đông Sơn, chúng ta thấy ở cả nam lẫn
nữ đều có hai kiểu để tóc cơ bản khác nhau : cắt ngắn và để dài. Và cả hai cách để tóc đều
nhằm tạo thuận lợi cho sự thích nghi với môi trƣờng sống. Cắt tóc ngắn để tiện đi lại trong
rừng hay bơi lội dƣới nƣớc nhƣ nhận xét đƣợc ghi trong sử sách xƣa.
Ngƣời Việt cổ ít nhất có ba cách xử lý tóc dài : tết tóc thả sau lƣng (tƣợng cán dao
găm Thủy Nguyên), búi tóc cuốn sau gáy (tƣợng ngƣời thổi khèn trên cán muôi đồng Việt
Khê), buộc tóc đuôi gà (hinh ngƣời chèo thuyền trên trống đồng Miếu Môn).
Ở trần, đóng khố, đi chân đất là hình ảnh thân quen về ngƣời đàn ông xứ Việt, nó
hoàn toàn thích hợp với ngƣời lao động ở xứ nóng. đồng đất thƣờng xuyên lầy lội. Họ còn
làm đẹp thân thể bằng cách xăm lên mình, lên mặt, đôi khi là hĩnh những "loài thủy quái" -
hình giao long, thuồng luồng, cá sấu nhƣ những tín hiệu giao cảm giữa ngƣời với vật tổ để
đƣợc đồng cảm, không bị làm hại. Việc tìm thấy nhiều con dấu bằng đất nung với những
đƣờng khắc sâu thành các đồ án hoa văn hình học đẹp mắt hẳn đƣợc dùng để in hoa văn lên
thân thể hoặc lên đồ mặc bằng vỏ cây hay vải sợi. (Viện bảo tàng lịch sử Việt nam 1977).
Trang phục phụ nữ thƣờng ngày là chiếc áo ngắn xẻ ngực, mảnh yếm che với hai kiểu
váy lửng kín và mở. Váy mặc trong lễ hội thƣờng dài, phủ kín chân có trang trí hoa văn cùng
chiếc bao thả múi phía trƣớc. Trong lẽ hội nam nữ còn thƣờng mặc áo khoác, váy xoè kết
băng lông chim và đội mũ cắm lông chim cao vút.
Võ phục của các thủ lĩnh Đông Sơn có những tấm che ngực bằng đồng vuông phẳng,
hay hình chữ nhật cong theo lồng ngực, những đai lƣng có khóa và những bản móc lại với
nhau đƣợc đúc phẳng hay tạo thành các cặp tƣợng rùa hay chim, đôi khi còn đƣợc đính thêm
những chùm nhạc nhỏ. Có cả những khâu đeo dao kiếm bằng đồng,
Chắc chắn rằng các đồ mặc và cả các đồ dùng che thân đắp phù khác của ngƣời Đông
Sơn đều đƣợc kết bằng vỏ cây có xơ đập dập hay bằng vải. Đôi khi trong các ngôi mộ táng
Đông Sơn còn gặp thấy vết tích là những mảnh vải thô (Hà Văn Phùng 1994).
140
Cùng với quần áo, đầu tóc, đồ trang sức cũng đƣợc ngƣời Đông Sơn đặc biệt ƣa
chuộng, sử dụng rộng rãi ở mọi giới tính, mọi lứa tuổi. Đó là các vòng tay, vòng tai bao tay,
bao chân, các hạt chuỗi đeo cổ vơi nhiều hình dáng, màu sắc và các chất liệu khác nhau. Nổi
bật nhất là những khuyên tai hình vành khăn tròn trịa hay có mấu nhô ra bằng đá ngọc, bằng
thủy tinh với gam màu ƣa thích là trắng ngà, vân xanh hay vân hồng của đá, xanh nƣớc biển,
da trời, tím nhạt hay trắng suốt của thủy tinh, những vòng ống, bao chân, bao tay bằng đồng
đính những chiếc nhạc xinh xắn. Âm thanh leng keng, khoan nhặt làm nổi lên cái tâm tình vui
tƣơi, lạc quan của con ngƣời trong cuộc sống hàng ngày. Tâm lý ƣa chuộng mang đồ trang
sức này, nhƣ ta thấy, về sau có phần giảm đi ở ngƣời Kinh, song vẫn còn thể hiện đậm đà ở
ngƣời Thái, ngƣời Mƣờng, ngƣời Mèo, ngƣời Dao và các dân tộc ít ngƣời ở Tây nguyên. Qua
đây, ở đồ trang sức - một nguyên tố đánh dấu về tộc ngƣời này, có thể nhận ra cái cơ tầng tộc
ngƣời chung ở họ.
Về phương tiện đi lại và vận chuyển : Có thể thấy đƣờng nƣớc là mạch giao thông chủ
yếu. Con thuyền là phƣơng tiện đi lại và chuyên chở phổ cập. Khảo cổ học đã tìm thấy vết
tích con thuyền độc mộc dài tới 5 m ở Ngũ Thái (Hà bắc) cùng với những chiếc quan tài hình
thuyên có niên đại Đông Sơn, dùng để đƣa ngƣời chết sang thế giới bên kia gặp nhiều nhất là
ở vùng đồng bằng trũng. Tục táng dùng quan tài hình thuyền còn bảo lƣu lâu dài mãi về sau ở
ngƣời Kinh, ngƣời Mƣờng.
Trên mặt đất ở vùng lắm núi nhiều rừng thì con voi là con vật tối ƣu giúp ngƣời đi lại
và vận chuyển. Nhiêu tƣợng voi đã gặp trong di tích Làng Vạc, ở đây còn thấy cả tƣợng voi
thồ trống đồng trên lƣng. Sau voi là trâu, một gia súc độc đáo của vùng Đông Nam Á . Con
trậu lại thích hợp với sinh cảnh đầm lầy, ruộng thụt. Xƣơng voi và trâu tìm thấy ở nhiều nơi
cƣ trú của ngƣời Phùng Nguyên - Đông Sơn.
Cùng với mặt ăn ở theo nghĩa đen, tức văn hóa vật chất, là cái mật ăn ở theo nghĩa
bóng hay văn hóa tinh thần của ngƣời Việt cổ cũng thể hiện ra cực kỳ phong phú và đa dạng.
Đó là nên nghệ thuật tạo hình với thể hiện chủ yếu là mỹ thuật trang trí và thực dụng, là âm
nhạc, ca múa, lễ hội, phong tục tập quán, tín ngƣỡng và cả các mặt thuộc tƣ duy, tính cách,
tâm thức, tâm linh ... Ở đây, chúng tôi không thể đi sâu đầy đủ mà chỉ xin khái quát, nhằm
nêu đƣợc những cái chung nhất.
Về phƣơng diện thẩm mỹ, tức những cảm xúc và cách thể hiện cái Đẹp của ngƣời Việt
cổ, chúng tôi muốn nhấn mạnh đến cái chuốt, cái tinh, cái thần thể hiện tập trung trên các vật
phẩm mỹ thuật. Đó là các đồ gốm, đo đồng có các hoa văn hình học đối xứng hài hòa mà ở
đó các đƣờng nét hay nền mảng đƣợc thể hiện rất tỉ mỉ, chọn lọc, tinh tế. Đó là các vòng ống
bằng đá màu sắc nền nã, bản vòng mỏng, rộng nhẵn bóng với các đƣờng gân nhỏ tạo ra do kỹ
thuật tiện tinh tế đều đặn nhƣ những đƣờng ren đối xứng nhau qua một đƣờng sống nổi cao ở giữa tạo ra mặt vòng hình vành khăn,
141
một sản phẩm tuyệt đỉnh của kỹ thuật đá. Cảnh vật và sinh hoạt sống động của con ngƣời
đƣợc khắc hoa tinh tế mà tính cách điệu và tƣợng trƣng bộc lộ ở giai đoạn muộn của văn hóa
Đông Sơn. Các tƣợng tròn Đông Sơn đƣợc phác dựng đại thể về hình khối, các chi tiết chỉ
đƣợc thể hiện và nhấn mạnh ở những bộ phận, những vị trí mà nghệ nhân cho là đắt nhất
nhằm nêu bật đƣợc cái bản chất, cái thần thái tàng ẩn trong đó. Có thể nhận ra phong cách
này qua các pho tƣợng ngƣời trên cán dao găm hay chuôi kiếm ngắn. Các tƣợng này đều có
một phong cách chung nhƣ thân ngƣời thẳng đứng, mắt mở to, hai tay chống nạnh tƣ thế thật
đĩnh đạc tự tin. Còn tƣợng ngƣời tìm thấy ở di chỉ Gò Mun lại có tƣ thế ngồi xổm bó gối đầu
hơi nghiêng toát lên vẻ trâm tƣ suy ngẫm, một trạng thái nội tâm của nhân vật. Với tƣợng
ngƣời thổi khèn gắn trên cán muôi đồng Việt Khê dài thon, đầu cán uốn cong cuộn tròn -
hình ảnh xác thực của một con thuyền, còn tƣợng ngƣời chỉ là cái hình bóng (Silliouette) nổi
lên lờ mờ song lừ đó lại toát lên cái say sƣa của ngƣời nghệ sĩ mà tâm hồn của anh ta lúc này
nhƣ hòa nhập vào cái mông lung của đất trời, sông nƣớc bao la.
Trong nghệ thuật tạo hình thì hoa văn là nôi chứa và thể hiện nổi nét chất mỹ thuật
hơn cả, song việc tạo dáng và cách chọn dùng màu sắc kết hợp cũng nói nhiều đến tinh của
nghệ nhân và chủ nhân các đồ vật đó. Điểm lại toàn bộ đồ vật mà ngƣời Phùng Nguyên -
Đông Sơn tạo ra, chỉ xét riêng về hình dáng và mầu sắc, chúng ta cũng nhận ra cái độc đáo
thấm đậm một cảm xúc thẩm mỹ chung là cái dịu nhẹ, mềm mại, trầm đọng và sâu lắng. Cảm
xúc này đƣợc toát lên rõ nhất khi chúng ta nhìn vào những vòng trang sức bằng đá ngọc của
ngƣời Phùng Nguyên - Đông Sơn. Ở đó sản phẩm đƣợc làm ra có hình dáng thanh mảnh, màu
sắc trang nhã, lắng dịu nhƣ xanh lơ, xanh lá mạ, vàng nhạt, trắng ngà pha lẫn các vân trắng,
nâu, hồng, tím ... những đồ đựng nói chung, dù bằng gốm hay bằng đồng, các bình, nồi, bát,
đĩa. ấm, chén... thì dáng chung của chúng đều tròn trịa, thƣờng nhỏ nhắn và không có hoặc ít
thấy các đƣờng gãy góc, những mảng đắp nổi gồ ghề. Và thậm chí car trên các tƣợng dã thú
nhƣ hổ báo, loài ở nƣớc nhƣ thuồng luồng, cá sấu cũng chìm lẫn đi không lộ rõ cái dữ tợn,
kinh khiếp. Ví nhƣ các pho tƣợng hổ bắt mồi trên thạp Vạn Thắng dù ở tƣ thế vồ hay ngoạm
đều đƣợc thể hiện ôn hoa. Nhìn chung nhịp nhàng cân xứng và hiền hòa là mẫu số chung của
mô hình thẩm mỹ Đông Sơn.
Những nhạc cụ đào đƣợc hay nhận ra ở các hình khắc trên đồ đồng Đông Sơn nhƣ
công, chiêng, sênh, phách, chuông, khèn, đặc biệt là trống đồng, phần lớn thuộc bộ gõ và
đƣợc dùng để truyền tin hay tạo ra sự hƣng phấn đƣợc hút vào sinh hoạt cộng đồng nhƣ nhảy
múa. ca hát... Nhƣng nhạc cụ này chứa rất nhiều nét riêng mang tính tộc ngƣời độc đáo, ví
nhƣ cách tạo dáng và hoa văn trống Đông Sơn với dáng thân thẳng, tang cong lồi, chân choãi
với các hoa văn hình học ƣa thích đi kèm nhƣ hoa văn răng lƣợc, vòng tròn tiếp tuyến, tam
giác răng cƣa hay vòng tròn đồng tâm... Có thể tìm thấy nhiều phong tục, tập quán, tín ngƣỡng, trò chơi, lễ hội của ngƣời Việt cổ còn
142
in dấu trên các di vật khảo cổ.
Đi kèm với tục nhuộm răng đen, là tục ăn trầu mà mảnh cau còn tìm thấy trong di chỉ
Đông Sơn. Tục này về sau đƣợc ngƣời Việt Nam nâng lên thành chuẩn mực -một biểu hiện
của văn hóa giao tiếp.
Các tập tục sinh hoạt cộng đồng khác nhƣ đánh cồng, giã cối, hát đối, bơi thuyền, đâm
trâu, đánh trống đồng, cả đến ý niệm về sự vận động hƣớng trái... đều đƣợc phản ảnh đậm nét
trên các di vật thời Đông Sơn. Các tập tục đó đƣợc diễn ra tập trung hơn cả là ở trong các dịp
dân làng mở hội mà mục tiêu hƣớng vào là cầu mong cho con ngƣời và vạn vật sinh nỏ thịnh
vƣợng, tƣởng nhớ tổ tiên, vui chơi giải trí và rèn luyện kỹ năng sức khỏe.
Về những tập tục phản ảnh ý niệm bao trùm của ngƣời Việt cổ là việc nhận thức và
cách ứng xử với cái sống và cái chết.
Từ quan sát sự sống của bản thân và của vạn vật xung quanh, ở ngƣời Việt đã nảy
sinh và hình thành một quan niệm biện chứng thô sơ về sự sinh thành, vận động và phát triển,
biến hóa của sự vật, sinh ra do quan hệ tác động qua lại của hai mặt đối lập : đất - trời, nƣớc -
lửa, mƣa - nắng, đêm - ngày, cái - đực ... Nhận thức đó đƣợc cô rút lại trong ý niệm phồn
thực và đƣợc thể kiện ra ở vô vàn các vật thể và hiện tƣợng khác nhau : Từ những chiếc sinh
thực khí bằng đất nung đào đƣợc trong di chỉ Mả Đống, pho tƣợng đá có bộ phận dƣơng vật
đƣợc nhấn mạnh tìm thấy ở di chỉ Văn Điển, tƣợng đồng ngƣời đàn ông ở khu di chỉ Đông
Sơn, tƣợng đồng phụ nữ tìm thấy ở Đông Cƣơng (Thanh Hóa) đều có bộ phận sinh dục đƣợc
cƣờng điệu quá mức ... đến những cặp tƣợng nam nữ làm tình đƣợc xếp đặt trang trọng trên
nắp thạp Đào Thịnh ; từ những cặp sinh thực khí tƣợng trƣng đƣợc khác tạc giữa các tia sáng
mặt trời. những cặp hƣơu nai chồn cáo đực cái nối nhau trong vòng quay trái đất, đèn trò chơi
chồng nụ chồng hoa khoèo chân ngoăc tay của con ngƣời ca hát say sƣa dƣới nhịp trống đƣợc
khắc hoa trên mặt trống Đông Sơn.
Tài liệu khảo cổ học chƣa hé mở nhiều cho thấy rõ nét cái ý niệm tưởng nhớ tổ tiên,
sùng kính các anh hùng có công với cộng đồng, song mới chỉ phân tích táng tục của ngƣời
Đông Sơn cũng đã thấy ngay đƣợc sự chăm lo đến cuộc sống ở thế giới bên kia của ngƣời
quá cố. Từ việc bú lót cơ thể chu đáo bằng vài dệt hay cói lá đan bện, đặt cuốn thi thể bằng
nhƣng tấm giát giƣờng hay vỏ cây đặt trong các quan tài hình thuyền đến việc đặt kèm cho
ngƣời quá cố những vật dụng thƣờng ngày nồi, bát, những công cụ sản xuất và vũ khí, đồ
trang sức thậm chí về sau dựng cả những ngồi nhà (nhà mồ hay nhà táng). Trong việc tƣởng
nhớ tổ tiên, thì việc sùng kính Tổ Mẫu xuất phát từ nguyên lý Mẹ, cũng đƣợc thể hiện thật
đậm đà đặc sắc. Đền Tây Thiên thờ Âu Cơ,
143
đền thờ Hai Bà Trƣng có ở nhiều nơi, rộng khắp trong bờ cõi xƣa và nay của ngƣời Việt
Nam. Tục thờ nhân thần (những anh hùng văn hóa và anh hùng trận mạc) là một nét đặc sắc
trong tín ngƣỡng ngƣời Việt phản ảnh cái tâm thức "uống nƣớc nhớ nguồn", nhớ ơn, nặng
tình nặng nghĩa với những ngƣời mang lại đời sống ấm no thanh bình cho cộng đồng.
Mặt quan trọng khác của hoạt động tinh thần là năng lực trí tuệ của ngƣời Đông Sơn
đƣợc thể hiện ở mọi hoạt động và ứng xử. Và ở từng mặt đều có những cái điển hình nổi lên.
Có ngƣời cho rằng quan niệm về vũ trụ của ngƣời Việt cổ bao gồm 3 tầng 4 thế giới
đƣợc thể hiện trên trống đồng Đông Sơn. Ở đó tầng trên là Trời, bầu trời, hay Thiên giới,
đƣợc tƣợng trƣng bằng mặt trời ở chính giữa và nổi cao trên mặt trống. Tầng giữa là Mặt đất,
Trần giới hay Nhân giới, ở đó ngƣời và sinh vật cạn sống đƣợc thể hiện trên các vành hoa văn
tả thực trên mặt trống. Tâng dƣới là Nƣớc và Đất. Thủy giới và Âm ty. Nƣớc đƣợc biểu hiện
qua con thuyền trên tang trống và thế giới Âm là ánh xạ lộn ngƣợc của thế giới Trần.
Quan niệm về biến dịch - hạt nhân của tƣ tƣởng Dịch lý - thể hiện trên mặt trống
Đông Sơn (Phan Công Chánh 1991), có thể coi là một hệ thống triết học - biểu tƣợng của
ngƣời Việt cổ. Trong đó hai mặt đối lập của sự vật liên tục vận hành và chuyển hóa lẫn nhau
(Hà Hữu Nga 1993).
Trí thức về sản xuất nông nghiệp đƣợc thể hiện ở sự nhận thức vai trò hàng đầu của
nƣớc. Những quan sát và kinh nghiệm về thời tiết và thời vụ dẫn tới sự xuất hiện của lịch
nông với hai cực lạnh - nóng, khô - mƣa, Đông - Xuân - Hè - Thu liên tục và chuyển hóa qua
hình tƣợng các cặp đực - cái, hƣơu - chim xen kẽ liên tiếp nhau đƣợc thể hiện trên mặt trống
đồng Đồng Sơn.
Trong lĩnh vực quân sự, thì thành Cổ Loa đƣợc xem nhƣ hiện thân của trí tuệ và tài
năng sáng tạo của ngƣời Việt cổ.
Ở đó họ đã biết lợi dụng sông để làm hào, lợii dụng địa thế các đồi gò, chỉ cần đắp
thêm những đoạn thành nối là có cả một hệ thống vòng thành dài. rộng, đồ sộ.
Nhƣng thành tựu cơ bản nhất, di sản quí giá nhất mà ngƣời Đông Sơn để lại cho hậu
thế là ở chỗ họ đã tạo lập đƣợc, đã định hình đƣợc những đƣờng nét lớn của nền văn hóa
mang đậm đà bản sắc dân tộc mà ở đó cái thần của nó đƣợc hun đúc từ hệ thống những giá
trị, những bản tính, những phẩm chất, những tính cách, những truyền thống về :
• Đức tinh kiên nhẫn, cần cù lao động, kiên định, kiên trì, nhẫn nại, chịu
144
đựng gian khổ khi phải đối mặt với một thiên nhiên hà khắc : lũ lụt lắm hạn hán nhiều, tàn
phá công trình thủy lợi, mùa màng, cũng nhƣ chịu đựng đau khổ khi phải tạm sống dƣới ách
áp bức của kẻ thù. Mặt đối lập với kiên nhẫn là kiên quyết, là kiên cƣờng, là thế vùng lên đổi
thay sự vật. Kiên cƣơngf khắc phục thiên nhiên bằng ra sức đắp đê khơi mƣơng, làm mới
những cái bị phá hoại nhằm có đƣợc những vụ mùa bội thu. Kiên quyết chống lại kẻ thù,
giành lại độc lập, tự do. Ngƣời xƣa đã lấy hình tƣợng con rùa và con cóc để biểu trƣng cho
đức tính đó. (Cóc trên các trống đồng Đông Sơn, rùa trên khóa thắt lƣng Làng Cả).
• Tinh thần tập thể, tính cộng đồng đƣợc gói lại trong chữ công và đƣợc mở ra ở hai
vế : công cộng và công ích. Từ đó toát lên vẻ đẹp của tâm hồn Việt Nam đong lại trong hai
tiếng trách nhiệm. Đức tính này đƣợc tạo ra do nhu cầu khách quan.
Nền sản xuất nông nghiệp trồng lúa nƣớc đòi hỏi phải tuân thủ sít sao tính thời vụ : từ
khâu làm đất đến khâu thu hoạch, không thể để chậm trễ ở khâu nào. Nông nghiệp lúa nƣớc
cũng đòi hỏi việc bảo đảm có nƣớc đầy đủ, không thừa, không thiếu cho cây lúa sinh trƣởng.
Muốn vậy phải đắp đê phòng lụt, be bờ giữ nƣớc, đào mƣơng dẫn nƣớc. Công việc làm này
đòi hỏi sức lức của nhiều ngƣời, đòi hỏi sự hiệp lực của cả làng xã hay liên làng xã.
Cũng vậy, việc chống lại một đối phƣơng lớn mạnh hơn mình gấp nhiều lần lại
thƣờng xuyên đe dọa xâm lấn. Để chống lại có hiệu quả, ắt hẳn phải cần đến công sức của cả
cộng đồng.
Trong bối cảnh sống nhƣ vậy thì cái cộng đồng đồng bao giờ cũng vƣợt lên trên cái cá
thể. Từ đó, cái nghĩa vụ, cái vị tha đƣợc nhấn mạnh, đƣợc đề cao trƣớc cái vị kỷ. Cái ý niệm
sống ở làng, một miếng giữa làng, trở thành chuẩn mực ứng xử của ngƣời Việt Nam chắc hẳn
có cội rễ từ thời dựng nƣớc đầu tiên đó.
• Lòng nhân ái, khoan dung, sống rộng bụng, có tình nghĩa là truyền thống quí báu
của nhân dân ta. Tính nhân bản này đƣợc nảy sinh từ tính ôn nhu của ngƣời làm nông nghiệp
lúa nƣớc hẳn đã đƣợc hình thành từ thời Đông Sơn. Chính cái công việc làm ăn đầy vất vả và
nhiều éo le này, cái thực tiễn ba tháng trông cây không bằng một ngày trông quả này, khiến
con ngƣời sống trong thấp thỏm lo âu, trƣớc những tai họa nhƣ "nƣóc lụt thì lút cả làng"
không chỉ ập đến với riêng ai đã khiến con ngƣời ý thức đƣợc phải đùm bọc lẫn nhau.
145
• Tính cách mềm dẻo, lối ứng xử linh hoạt, không câu nệ cũng bắt nguồn từ hoàn cảnh
sống của ngƣời Đông Sơn. Một tấc đất có giá trị nhƣ một tấc vàng này vì con ngƣời phải đổ
nhiều mồ hôi triệt để tận dụng nó để trồng cấy mọi thứ có thể trồng, cần trồng đỗ bên ngô,
cần đƣa cây lúa lên cao, xuống trũng, cải biến giống làm nảy sinh nhiều giống lúa mới thích
nghi với sinh thái. Về mặt xã hội, sống bên cạnh một nƣớc lớn, có nền văn minh rực rỡ,
ngƣời Việt cổ muốn tồn tai, giữ đƣợc cái TA, dĩ nhiên là phải có thái độ ứng xử linh hoạt.
không thể cứng khi cần mềm, không thể bài khi cần nhập. Chấp nhận nhân nhƣợng để tránh
tổn thất vô ích. Có bản lĩnh, tiếp thu có chọn lọc để làm phong phú mình. Từ thực tiễn cuộc
sống đó đã đẻ ra nghệ thuật ứng xử linh hoạt nhƣ nƣớc ấy. Và con rắn - biểu tƣợng của nƣớc,
cũng đƣợc ngƣời Đông Sơn lấy làm biểu tƣợng cho tính cách này. Ngƣời ta đã tạc tƣợng
những đôi rắn quấn nhau, mồm đỡ lấy chân voi hoặc chân báo làm thành chuôi những con
dao găm đƣợc các chiến binh Đông Sơn mang bên ngƣời nhƣ một vũ khí tự vệ cũng nhƣ một
thứ bùa hộ mệnh.
• Triết lý dung hợp đƣợc biểu hiện trong chữ HÕA cũng góp tạo nên bản sắc văn hóa
Việt Nam. Khi trở thành dân tộc, ngƣời Việt cổ vốn là một cộng đồng nhỏ bé bên cạnh một
nƣớc lớn mạnh, nhƣng nhờ lòng yêu quê hƣơng thiết tha, mảnh đất đã phải đổ biết bao mồ
hôi. sôi biết bao nƣớc mắt mói có đƣợc, đã khiến ngƣời Việt Nam sớm có đƣợc tinh thần độc
lập. ý chí tự cƣờng, tự khẳng định cái TA, tự tạo cho mình một chỗ đứng dƣới bầu trời. Xuất
phát, từ ý thức đó, trong bối cảnh lịch sử đó ngƣời Việt cổ đã tìm mọi cách để tạo sức mạnh
cho mình, đã thâu tóm mọi cái hay của ngƣời cũng nhƣ đã đồng tâm hiệp lực trong lao động,
đoàn kết trong đấu tranh chống xâm lƣợc. Tƣ duy dung hòa chi phối toàn bộ văn hóa truyền
thống Việt Nam (Hà Văn Tấn 1994). Vốn có bản lĩnh và ý chỉ tạo lập cho mình một nền văn
hóa có sức sống mạnh mẽ, lại đƣợc tƣ tƣởng HÒA dắt dẫn, ngƣời Việt Nam đã tạo đƣợc một
biệt tài riêng, một tính cách riêng độc đáo là biết biến cái của ngƣời thành của mình (Phan
Ngọc 1993).
• Dũng cảm cũng là một phẩm chất, một tự chất Việt. Phẩm chất này cũng đƣợc nảy
sinh trong những bối cảnh tự nhiên và xã hội đƣợc phân tích ở trên. Thời đại Đông Sơn, là
thời đại mà nhiều cộng đồng ngƣời trong khu vực chuyển mình thành giai cấp, thành quốc gia
- dân tộc. Mà quốc gia không phải là một cộng đồng văn hóa tự nhiên, mà là một
146
cộng đồng quyền lực... chỗ dựa chủ yếu của quyền lực là sức mạnh quân sự. "Chiến tranh là
biện pháp thƣờng dùng để mở rộng hay bảo vệ biên giới vì lợi ích quốc gia" (Nguyễn Tấn
Đắc 1993). Sức mạnh quân sự đƣợc thể hiện ở cả hai mặt vật chất và tinh thân, vũ khí, kỹ
thuật quân sự và lòng dũng cảm, mƣu lƣợc. Ở ngƣời Đông Sơn cả hai mặt của sức mạnh đó
đều thể hiện rất rõ và cái nọ nói lên cái kia.
Tóm lại, đi vào lớp văn hóa đầu tiên - lớp văn hóa thuộc văn minh sông Hồng, chúng
ta thấy ngƣời Việt cổ thời Đông Sơn đã tạo đƣợc một phổ sắc văn hóa mà nhiều sắc màu
trong đó góp tạo thành bản sắc của văn hóa Việt Nam sau này.
Và khảo cổ học chứng tỏ đƣợc khả năng"... góp phần xác định tính chất và truyền
thống của nhân dân Việt Nam, bản lĩnh và tâm hồn của dân tộc Việt Nam. Nó chứng tỏ, trong
lĩnh vực của mình, những đức tính cổ truyền cửa nhân dân Việt Nam là cần cù, dũng cảm,
sáng tạo, có sức sống mãnh liệt, có tinh thần tập thể trong lao động và đoàn kết trong chiến
đấu chống ngoại xâm v. v..." (Trƣờng Chinh 1978). Những tính cách, phẩm chất, truyền
thống và đức tính cổ truyền đó chính là những sắc màu, là bản sắc của văn hóa Việt cổ, mà
chúng ta đang ra sức nghiên cứu. Đó là những mặt tốt cần nhấn mạnh, cấn đề cao, cần phát
huy. Song nói nhƣ vậy không có nghĩa là trong những hằng số văn hóa không có mặt hạn chế,
mặt không tốt. Bởi lẽ sự vật đều có hai mặt đối lập luôn chuyển hóa lẫn nhau và mọi cái tồn
tại đều có giới hạn của nó, quá đi đều có khả năng không còn là nó nữa. Vấn đề là ở chỗ phụ
thuộc vào cách nhìn nhận (biện chứng hay máy móc) và vào khả năng điều tiết của con ngƣời
(nắm đƣợc và làm theo quy luật hay chủ quan duy ý chí). Và khi nói đến một phẩm chất, một
tính cách hay một truyền thống, nó dễ là cái này, dễ là cái kia, có nghĩa là chúng ta mới chỉ
nói đến khả năng. Và mỗi khi mới chỉ là khả năng (dù ít dù nhiều) thì đậu đƣợc coi là cái tất
yếu. Khi xác định một loại hành vi nào đó là phẩm chất hay là tính cách của một dân tộc có
nghĩa là chúng ta phải định đƣợc tính trội của hành vi đó và sự tồn tại của nó phải là ở bộ
phận đa số của dân tộc đó.
Đức tính kiên nhẫn cũng vậy, tự nó không thể đẻ ra nhu nhƣợc, an phận, cam chịu,
cùng lắm cũng chỉ là nhẫn nhục để chờ thời cơ. Trong một con ngƣời hay một bộ phận của
cộng đồng có thể có đức tính yếu hèn này, song ngƣời Việt Nam nói chung là một dân tộc
kiên cƣờng, bất khuất. Nếu khác đi hẳn dân tộc đó đã bị đồng hóa diệt vong.
Lễ hội, cúng giỗ là một hành vi đẹp về tƣởng nhớ tổ tiên, những ngƣời anh hùng có
công với nƣớc. Song cúng bái tràn lan, sùng bái, mọi thứ đều cho là thiêng, là thần bí... lại là
biểu hiện của mê tín dị đoan, một hoạt động mê hoặc làm tâm thức con ngƣời u tối, cần bài
trừ.
147
Cũng vậy, tính dung hòa là giá trị căn bản của văn hóa Việt Nam, nó giúp làm giàu và
mạnh cho nền văn hóa và cho dân tộc. Bản tính này đôi khi hoặc dễ (song không nhất thiết)
dẫn tới thỏa hiệp, ba phải. Điều đó nhắc nhở con ngƣời phải cẩn thận, cảnh giác, đề phòng,
phải biết điều tiết đúng mức.
Tuy nhiên, có và cần chỉ ra những mặt yếu do hoàn cảnh và điều kiện khách quan, hạn
chế của lịch sử đem lại và để lại. Ví nhƣ tác phong sống lề mề, chậm chạp, không tiếc thời
gian "tháng giêng là tháng ăn chơi" còn gặp khá phổ biến hiện nay có nguyên nhân sinh thành
trong môi trƣờng tự nhiên và hoàn cảnh kinh tế của một xã hội trồng lúa nhiệt đới: cảnh thanh
bình của đồng quê, những chu kỳ nghỉ của sản xuất, những dịp nông nhàn, mà kinh tế phụ lại
ít phát triển và phƣơng thức tiến hành làm ra sản phẩm cũng không đòi hỏi khẩn trƣơng,
chuẩn xác về thời gian.
Nền kinh tế tự cấp tự túc tồn tại lâu dài, tự nó mang tính khép kín tƣơng đối khiến lƣu
thông, thƣơng mại và kinh tế thị trƣờng hàng hóa nói chung kém phát triển.
Phép vua thua lệ làng là chuẩn mực ứng xử của nền dân chủ xóm làng, một thời đã
giữ an bình cho ngƣời dân, Hẳn không mấy thích hợp với đổi mới ngày nay. Cần pháp luật:
một sự qui định tối thiểu của phẩm chất mà mọi ngƣời nhất thiết phải tuân theo (Cao Xuân
Phổ 1993).
Sự phân công xã hội giữa nông nghiệp và công nghiệp, giữa lao động cơ bắp và lao
động trí óc diễn ra chậm chạp ở nƣớc ta rõ ràng đã dẫn tới sự phát triển yếu về khoa học tự
nhiên, sự hình thành chậm chạp tầng lớp trí thức chuyên sản xuất sản phẩm tinh thần, văn hóa
làng nói chung mang màu sắc dân gian tuy khỏe khoắn mộc mạc, đáng yêu nhƣng thiếu tinh
tế sâu sắc, thông tuệ cao. Nhƣng biết làm sao đƣợc, vì nhƣ Mác đã nói, con ngƣời sống trong
những điều kiện mà nó gập chứ không sống trong những điều kiện mà nó chọn. Lịch sử là
nhƣ vậy. Nhƣng giờ đây, nếu hiểu sâu sắc cơ bản sắc văn hóa Việt Nam, chúng ta có thể tìm
ra các biện pháp để bảo vệ và phát huy các tinh hoa và đẩy lùi các tao phách của văn hóa
truyền thống (Hà Văn Tấn 1994).
148
TÀI LIỆU DẪN
AUROUSSEAU L. 1923. Le premier conquête chinoise des pays annamites. Bullet de
1'École Francaise d'Extrême-Orient 23 :.137 - 264.
BENEDICT P.1942. Thai, Kadai and Indonesian : a new alignment. America
Anthropologist 44 : 567 - 601.
BENEDICT P. 1975. Austro - Thai: Language and Culiure, with a Glosscary of Root
HRAF Press, New Haven.
CAO XUÂN PHỐ 1993. Văn hóa trong phát triển. Vấn đề phẩm chất cuộc sống.
Trong Phương pháp luận về vai trò của văn hóa trong phát triển : trang 200 - 214. Nhà xuất
bản Khoa học xã hội, Hà Nội.
CHỬ VĂN TẦN 1978 a. Suy tính về tính đa dạng thời đại các vua Hùng. Khảo cổ
học số 1: 23 - 28
CHỬ VĂN TẦN 1978 b. Về văn hóa Sa Huỳnh. Khảo cổ học số 1 : 52 - 61.
CHỬ VĂN TẦN 1992. Không gian cƣ trú mở: Di chỉ Sập Việt, Những chứng tích
Tiền Hòa Bình - Hòa Bình và Hậu Hòa Bình. Khảo cổ học số 2 : 22 - 32.
CHỬ VĂN TẦN 1994 a. Những đặc trƣng cơ bản của văn minh Việt Nam thời khắc
sinh. Khảo cổ học 2: 7 - 16.
CHỬ VĂN TẦN 1994 b. Kỹ thuật canh tác của ngƣời Việt cổ nhìn từ bộ nông cụ
Phùng Nguyên - Đông Sơn. Kỷ yếu Hội thảo " Về nền nông nghiệp Việt cổ" Đề tài KX 06
02.
DIỆP ĐÌNH HOA 1971. Về những giai đoạn của thời kỳ dựng nƣớc và giữ nƣớc đầu
tiên qua tài liệu khảo cổ học. Khảo cổ học số 1 - 2 : 34 - 39.
DIỆP ĐÌNH HOA 1977. Một vài suy nghĩ về đồ gốm Đông Sơn. Khảo cổ học số 3:
57 - 77.
DIỆP ĐÌNH HOA, NGUYỄN VĂN BỬU, PHẠM MINH HUYỀN 1976. Phân tích di
vật khảo cổ học Làng Vạc và Đông Sơn. Khảo cổ học số 17 : 76 - 80.
DIỆP ĐÌNH HOA, NGUYỄN VĂN BỬU, PHẠM MINH HUYỀN 1984. Nghiên cứu
đồ đồng thau Việt Khê (Hải Phòng) bằng phƣơng pháp quang phổ. NPHMVKCH năm 1981
tr.127- 129.
DIFFLOT G. 1991. Linguistic prehistory from a Mon-Khmer perspective. Paper
149
given at the conterence" The High Bronze Age of Southeast Asia and South China" 14 -19
January 1991, Hua Hin, Thailand.
DYEN I. 1982. The present status of some Austronesian subgrouping hypotheses. In
Papersfrom the Third Intenuaioiud Conference on Austronesian Linguistics 2 : 31 - 35.
Australian National University, Canberra.
ĐÀO DUY ANH 1957. Nguồn gốc dân tộc Việt Nam, Hà Nội.
ĐÀO QUÝ CẢNH, NGUYỄN TRUNG CHIẾN 1980. Liềm Gò Mun. công cụ hay vũ
khí. Khảo cổ học số 3:36-41.
ĐÀO THẾ TUẤN 1988. Về những hạt gạo cháy phát hiện ở Đồng Đậu ( Vĩnh Phú)
1984. Khảo cổ học số 4 : 44 - 46.
ĐÀO THẾ TUẤN 1994. Việt Nam có phải là quê hƣơng của cây lúa hay không ? Kỷ
yếu Hội thảo "Về nền nông nghiệp Việt cổ". Đề tài KX 06 - 02.
ĐINH VĂN KIỀN, LÊ XUÂN ĐIỆM 1973. Ngôi mộ cổ có những di vật khá đặc biệt
ở Đƣờng Dù. NPHMVKCH năm 1972, tr. 244- 253.
ĐỖ VĂN NINH 1983. Thành cổ Việt Nam, Nhà xuất bản Khoa học xã hội. Hà Nội.
FERLUS M. 1975. Vietnamien et Proto-Viet-Muong. Asie du Sud-Est ci Monde
ỉn.sulindien 6(4) : 21 - 55.
GAGE W.W. 1985. Vietnamese in Mon-Khmer perspective. In Suriya Ratanakul.
David Thomas and Suwilai Premsrirat(eds.), Southeast Asian Linguistic Studies presented to
André G. Hciudricourt, pp.493 - 524. Mahidol University, Bangkok.
HÀ HỮU NGA 1993. Những cội nguồn của tính cách Việt. Tham luận tại Hội thảo "
Văn minh Việt Nam thời khai sinh : Nguồn gốc và đạc điểm".
HÀ VĂN PHÙNG 1981. Vấn đề luyện kim và chế tác kim loại thời dựng nƣớc đầu
tiên. Khảo cổ học số 3 : 44 - 55
HÀ VĂN PHÙNG 1982. Nghề se sợi và dệt vải thời dựng nƣớc đầu tiên. Khảo cổ học
số 3 : 14 - 24.
HÀ VĂN PHÙNG 1994. Tìm hiểu nghề se, sợi và dệt vải trong thời đại đồng thau
Việt Nam. Khảo cổ học số 2 : 48 - 58.
HÀ VĂN TẤN 1962. Về vấn đề ngƣời Indonesien và loại hình Indonesien trong thời
đại nguyên thủy Việt Nam. Thông báo khoa học trường Đại học Tổng hợp Hà Nội, Sử học. I:
168 - 203.
150
HÀ VĂN TẤN 1973. Khai quật Bãi Dƣới. NPHMVKCH năm 1972, tr.133 - 137.
HÀ VĂN TẤN 1974 a. Từ đồ gốm Phùng Nguyên đến trống đồng. Khảo cổ học 13 :
39-53.
HÀ VĂN TẤN 1974 b. Đóng góp vào lịch sử một kiểu khuyên tai. Khảo cổ học 15 :
19 - 32
HÀ VĂN TẤN 1975. Văn hóa Phùng Nguyên và nguồn gốc dân tộc Việt. Tạp chí dân
tộc học 1:22- 35.
HÀ VAN TẤN 1976. Nguồn gốc văn hóa Phùng Nguyên và vấn đề Tiền Việt Mƣờng
(Một giả thiết công tác mới). Báo cáo Hội nghị khoa học Khoa Sử trƣờng Đại học Tổng hợp
Hà Nội ngày 21-6-1976.
HÀ VĂN TẤN 1978. Văn hóa Phùng Nguyên - Nhận thức mới và vấn đề. Khảo cổ
học số 1: 5 - 22.
HÀ VĂN TẤN 1982. Các hệ sinh thái nhiệt đới với tiền sử Việt Nam và Đông Nam
Á. Khảo cổ học số 3:6- 16.
HÀ VĂN TẤN 1993. Văn hóa và ngôn ngữ Việt Nam thời tiền sử. Khảo cổ học 1: 1-
6.
HÀ VĂN TẤN 1993. Chùa Việt Nam. Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, Hà Nội.
HÀ VĂN TẤN 1994. Quá trình hình thành và đặc điểm bản sắc văn hóa Việt Nam.
Đề dẫn hội thảo "Bản sắc văn hóa Việt Nam".
HÀ VĂN TẤN 1994. Giao lƣu kỹ thuật: Vấn đề đáng quan tâm đối với Tiền - Sơ sử
Việt Nam và khu vực. Kỷ yếu Hội thảo "Các nghề thủ công thời dựng nƣớc". Đề tài KX 06 -
02.
HÀ VĂN TẤN 1994. Thƣ tịch Trung Quốc thời Hán, Tam Quốc, Lục Triều, nguồn sử
liệu nghiên cứu thực vật và nông nghiệp Việt Nam thời cổ. Kỷ yếu Hội thảo "Về nền nông
nghiệp Việt cổ". Đề tài KX 06 - 02.
HÀ VĂN TẤN, HOÀNG VĂN KHOÁN 1971. Luyện kim và chế tác kim loại thời
Hùng Vƣơng. Khảo cổ học số 9 - 10 : 75 - 80.
HÀ VĂN TẤN VÀ PHẠM ĐỨC DƢƠNG 1978. Về ngôn ngữ Tiền Việt Mƣờng. Tạp
chí dân tộc học 1: 64-69.
HÀ VĂN TẤN, HÁN VĂN KHẨN 1973. Kỹ thuật chế tạo đồ gốm văn hóa Phùng
Nguyên. Thông báo khoa học (Sử học) Đại học Tổng hợp Hà Nội, T.6.
151
HÀ VĂN TẤN, BÙI VINH, VÕ QUÝ 1990. Dấu hiệu của một văn hóa khảo cổ mới
ở Hà Tuyên. Khảo cổ học số 1 - 2 : 34 - 38.
HÁN VĂN KHẨN 1982. Về sự xuất hiện và phát triển của bàn xoay gốm cổ. Khảo
cổ học số 3 : 43 - 49.
HAUDRICOURT A.G. 1953. La place du Vietnamien dans les langues austroasiati-
ques. Bulletin de la Société de Linguistique de Paris 49(1): 1.22 - 128.
HAUDRICOURTA. G. 1954. De 1'origine des tons en Vietnamien. Journal Asiatique
242 : 69 - 82.
HAUDRICOUR A. G. 1955. Comment reconstruire le chinois archaique. Word l10:
358 - 364.
HOÀNG VĂN KHOÁN 1978. Nƣớc ta có gang từ bao giờ. Khảo cổ học số 2 : 43 -
44.
HOÀNG VĂN KHOÁN 1994. Kỹ thuật luyện sắt Việt Nam thời cổ. Kỷ yếu Hội thảo
"Các nghề thủ công thời dựng nƣớc". Đề tài KX 06 - 02.
HOÀNG VĂN KHOÁN, HÀ VĂN TẤN 1970. Vài nhận xét về hợp kim đồng thau
Việt Nam thời cổ. Thông báo Khoa học, Đại học Tổng hợp Hà Nội. tập IV (Sử học)
LÊ HUYÊN 1991. Tìm hiểu đồ sơn thế kỷ 17-19 ở đồng bằng Bắc Bộ. Luận án Phó
tiến sĩ khoa học lịch sử, Hà Nội.
Lịch sử Việt Nam tập 1. 1971.
LOGAN J. R 1852. Ethnology of the Indo - Pacitic Islands. Chapter 6. Enquiries into
the etlinic history and relations of the Tibeto - Burman and Mon - Annam formations. Jounul
of the Indian Archipelago 6 : 153 - 183.
LƢU TRẦN TIÊU 1977. Khu mộ cổ Châu Can. Hà Nội.
MADROLLE C. 1937. Le Tonkin ancien. Bulleiin de l' École Prancaise d' ExLrême -
Oricnt 37 : 263 - 333.
MASPÉRO H. l912. Phonétique historique de la langue annamite : les initiaies.
Bulletin de l' École Francaise d' Exircme - Orient 12( 1).
MASPÉRO H. 1924. Bulletin critique. T'oung Pao 23 : 373 - 393.
NGÔ ĐỨC THỊNH, NGÔ SĨ HỒNG 1988. Cuốc, lịch sử tiến triển và loại hình. Khảo
cổ học số 1 - 2 : 27 - 47.
152
NGÔ ĐỨC THỊNH 1994. Vài nhận xét về nông cụ và kỹ thuật canh tác nông nghiệp
thời tiền sử. Kỷ yếu Hội thảo "Về nền nông nghiệp Việt cổ". Đề tài KX 06 - 02.
NGÔ SĨ LIÊN và các sử thần triều Lê 1967 - 1968. Đại Việt sử ký toàn thư. bản dịch
Nhà xuất bản Khoa học xã hội. Hà Nội.
NGUYỄN KHẮC TỤNG 1982. Nhà Đông Sơn. Khảo cổ học số 3 : 38 - 42.
NGUYỄN DUY HINH 1973. Nghề trồng lúa nƣớc thời Hùng Vƣơng, Hùng Vương
dựng nước, T.3, Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội, tr 172 - 183.
NGUYỄN ĐÌNH KHOA 1983. Các dân tộc ở Việt Nam (dẫn liệu nhân học - tộc
người). Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, Hà Nội.
NGUYỄN KIM DUNG 1992. Công xƣởng và kỹ thuật chế tạo đồ trang sức bằng đá
thời đại đồng thau ở đồng bằng Bắc Bộ. Luận án Phó tiên sĩ khoa học lịch sử, Hà Nội.
NGUYỄN KIM DUNG 1994. Một số ý kiến về nguyên liệu đã trong nghề thủ công
làm đá thời đại đồng thau Việt Nam. Kỷ yếu hội thảo "Các nghề thủ công thời dựng nƣớc".
Đề tài KX 06 - 02.
NGUYỄN LÂN CƢỜNG 1993. Đặc điểm nhân chúng cƣ dân văn hóa Đông Sơn ở
Việt Nam. Tóm tắt luận án PTS khoa học lịch sử. Hà Nọi.;
NGUYỄN LÂN CƢỜNG 1994. Con ngƣời Đông Sơn. Trong Văn hóa Đông Sơn ở
Việt Nam : 183 - 231, Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, Hà Nội.
NGUYỄN QUANG QUYỀN và LÂN CƢỜNG 1969. Đặc điểm hình thái xƣơng đùi
và xƣơng sên ngƣời cổ ở di chỉ Lũng Hòa. Trong Hoàng Xuân Chinh, Báo cáo khai quât đợt
1 di chỉ Lũng Hòa: 154 - 163, Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, Hà Nội.
NGUYỄN TẤN ĐẮC 1993. Văn hóa và thế giới ngày nay. Trong Phương pháp luận
về vai trò của văn hóa trong phát triển : 200 -214. Nhà xuất bản Khoa học Xã hội. Hà Nội.
NGUYỄN TRƢỜNG KỲ 1983. Bƣớc đầu tìm hiểu nghề thủy tinh cổ ở nƣớc ta. Khảo
cổ học số 3 : 47 - 54.
NGUYỄN TRƢÕNG KỲ 1990. Trở lại vấn đề thủy tinh cổ ở Việt Nam. Khảo cổ học
sổ 1 - 2 : 71 -79.
NGUYỄN VĂN TÀI 1978. Góp thêm tài liệu cho việc đoán định thời điểm chia tách
hai ngôn ngữ Việt và Mƣờng. Tạp chí dân tộc học 3.
153
NGUYỄN VĂN TÀI 1988. Thử tìm một giải pháp về các nguyên âm Việt - Mƣờng
Trong Những vấn đề ngôn ngữ các dân tộc ở Việt Nam và khu vực Đông Nam Á: 29 48. Nhà
xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội.
NGUYỄN VIỆT 1978. Bƣớc đầu tìm hiểu gốm thời đại đồng sắt sớm vùng ngã ba
sông Mã - sông Chu. Khảo cổ học số 3 : 43 - 63.
NGUYỄN VIỆT 1981. Về lúa nếp và chó thời Hùng Vƣơng. Khảo cổ học số 3:28-
43.
NGUYỄN VIỆT 1982. Gốm làng Cả. NPHMVKCH năm 1980: 99 - 100.
NGUYỄN VIẾT PHỔ 1983. Sông ngòi việt Nam. Nhà xuất bản Khoa học và kỹ thuật.
Hà Nội.
OLIVIER G. 1966. Craniométrie des Indochinois. Bullktin et Mémoires de la Société
d 'Anthmpologie de Paris 9 : 67 90.
OLIVIER G. 1968. Anthropologie de l'Inhđochine. In Rassengeschichte der
Menschheit: 25 - 108, R.OIdenbourg Verlag, Munchen.
PHẠM LÝ HƢƠNG 1994 a. Vài thực nghiệm canh tác nguyên thủy. NPHMVKCH
năm 1993.
PHẠM LÝ HƢƠNG 1994 b. Bàn về nghề trồng lún giai đoạn đỉnh cao thời dựng
nƣớc của ngƣờiViệt cổ. Kỷ yếu Hội thảo "Về nền nông nghiệp Việt cổ". Đề tài KX 06 - 02.
PHẠM LÝ HƢƠNG 1994c.Về kỹ thuật nung gốm thời Tiền sử và Sơ sử Việt Nam.
Kỷ yếu Hội thảo "Các nghề thủ công thời dựng nƣớc". Đề tài KX 06 - 02.
PHẠM LÝ HƢƠNG, HÀ VĂN TẤN 1974. Nghề gốm, một ngành thủ công thời
Hùng Vƣơng. Hùng Vương dựng nước. T.4. Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội. tr 188 -
202.
PHẠM MINH HUYỀN 1991. Tính đa dạng và phức tạp của nền văn hóa Đông Sơn.
Khảo cổ học số 3 : 50 - 63.
PHẠM MINH HUYỀN 1991. Văn hóa Đông Sơn, tính thống nhất và đa dạng. Luận
án Phó tiến sĩ khoa học lịch sử, Hà Nội.
PHẠM QUỐC QUÂN 1978. Mộ thuyền Châu Sơn (Hà Nam Ninh). NPHMVKCH
năm 1977: 172 - 174.
PHẠM QUỐC QUÂN. NHÃ LONG 1991. Tìm về cội nguồn nghề sơn ở Hà Sơn
Bình. NPHMVKCH năm 1990: 121 - 123.
154
PHẠM VĂN ĐỒNG 1994. Văn hóa và đổi mới. Nhà xuất bản chinh trị quốc gia Hà
Nội.
PHẠM VĂN KỈNH 1969. Về thời kỳ An Dƣơng Vƣơng và thành Cổ Loa. Khảo cổ
học số 3 - 4 : 128 - 134.
PHAN CÔNG CHÁNH 1991. Bài phát biểu trong cuộc tọa đàm tại Viện Khảo cổ học
về nguồn gốc văn minh và dân tộc Việt Nam.
PHAN NGỌC 1993. Tiến tới một sự nhận thức về văn hóa học Việt Nam. Trong
Phương pháp luận về vai trò của văn hóa trong phát triển : 236 - 250. Nhà xuất bản Khoa
học Xã hội, Hà Nội.
PHAN VĂN THÍCH, HÀ VĂN TẤN 1970. Xác định hàm lƣợng chì trong các di vật
đồng thuộc thời đại đồng thau và thời đại sắt sớm. Khảo cổ hoc số 7 - 8 : 126.- 129.
POU S. and JENNER P.N. 1974. Proto-Inđonesian and Mon-K.hmer.Asian Perspec-
lives 17(2): 112-124.
REID L.A. 1984 - 1985. Benedict's Austro - Tai : An evaluation. Asian Perspectives
26(1) : 19-34.
REID L.A. 1994. The current state of linguistic research on the relatedness of the
language families of East and Southeast Asia. Paper given at the 15 th IPPAConuress,
January 5 - 12, 1994, Chiang Mai, Thailand.
SCHMIDT W. 1905.Grundzuge einer Lautlehre der Mon-Khmer-Sprachen.
Denkschrift der Akaidemic der Wissenschaften, Wien, Philologische - historische Klass 51:1:-
233
SCHMIDT W. 1906. Die Mon - Khmer Volker, ein Bindgleid zwischen Volkern
Zentralasiens und Austronesiens.Archiv fiir Antropologie 33 : 59 - 109.
SCHMIDT W. 1926. Die Sprachfamilien und Sprachenkrese der Erde. Carl Winter,
Heidelberg.
TRẦN KHOA TRINH 1978. Đúc thành công trống đồng Ngọc Lũ. Khảo cổ học số 3.
TRẦN QUỐC VƢỢNG 1963. Mấy nét sơ lƣợc về tình hình sản xuất nông nghiệp
Việt Nam dƣới thời Bắc thuộc thế kỷ 2 trƣớc công nguyên - 10 sau công nguyên. Trong:
Thông báo khoa học. Tập 1, sử học. NXB Giáo dục, Hà Nội.
TRẦN QUỐC VƢỢNG 1969. Cổ Loa : Những kết quả nghiên cứu vừa qua và những
triển vọng tới. Khảo cổ học số 3 - 4 : 100 - 127.
155
TRẦN QUỐC VƢỢNG 1994. Các hệ sinh thái nông nghiệp ở Việt Nam thời cổ. Kỷ
yếu Hội thảo "Về nền nông nghiệp Việt cổ". Đề tài KX 06 - 02.
TRỊNH SINH 1978. Cái vàng. Khảo cổ học số 3:13- 80.
TRỊNH SINH 1988. Chế tác kim loại thời cổ ở miền Bắc Việt Nam (thế kỷ 2 - 1 trƣớc
công nguyên - đầu công nguyên). Luận án Phó tiến sĩ, Moskva.
TRỊNH SINH 1989. Hợp kim có chì, vua Hùng và văn hóa Đông Sơn. Khảo cổ học số
2 : 43 - 50.
TRỊNH SINH 1990. Phân tích quang phổ hiện vật đồng ở văn hóa Đồng Đậu và Gò
Mun. Khảo cổ học số 4 : 49 - 59.
TRỊNH SINH 1994. Những vấn đề còn đặt ra với nghề luyện đồng. Kỷ yếu Hội thảo
"Các nghề thủ công, thời dựng nƣớc". Đề tài KX 06 - 02.
TRỊNH SINH, HÀ NGUYÊN ĐIỂM 1977. K dáng đồ đựng bằng gốm tù Phùng
Nguyên đến Đông Sơn. Khảo cổ học số 2 : 50 - 67.
TRƢỜNG CHINH 1978. Bài nói tại Hội nghị kỷ niệm 10 năm thành lập Viện Khảo
cổ học. Khảo cổ học số 4 : 33 - 55.
VĂN TÂN 1959. Bàn góp vào công trình tìm tòi nguồn gốc dân tộc Việt Nam.
Nghiên cứu lịch sử 9.
Viện bảo tàng lịch sử Việt Nam 1977. Văn hóa Hoa Lộc. Viện bảo tàng lịch sử Việt
Nam xuất bản, Hà Nội.
VÕ HƢNG 1974. mối quan hệ của sọ ngƣời Việt và sọ một số nhóm cƣ dân ở Đông
Nam Á. Hình thái học 1:38- 44.
VŨ NGỌC THƢ, NGUYỄN DUY TỲ 1972. Khuôn đúc thời Hùng Vƣơng. Hùng
Vương dựng nước, T.2, tr 215 - 220.
VŨ NGỌC THƢ, NGUYỄN DUY TỲ 1978. Bộ dụng cụ đúc đồng ở Làng Cả. Khảo;
cổ học số 2 : 36 - 39.
VŨ TỰ LẬP, ĐÀM TRUNG PHƢỜNG, NGÔ ĐỨC THỊNH, TÔ NGỌC THANH
1991. Văn hóa và cư dân đồng bằng sông Hồng. Nhà xuất bản Khoa học xã hội. Hà Nội.
156
MỤC LỤC MẤY LỜI NÓI ĐẦU ........................................................................................................... I - V
CHƢƠNG I: KHÁI QUÁT VỀ MÔI TRƢỜNG SỐNG CỦA NGƢỜI VIỆT CỔ................... 1
CHƢƠNG II: SỰ HÌNH THÀNH NỀN VĂN MINH VIỆT CỔ .............................................. 8
CHƢƠNG III :NGUỒN GỐC NGƢỜI VIỆT ......................................................................... 37
CHƢƠNG IV: VĂN MINH KỸ THUẬT CỦA NGƢỜI VIỆT CỔ ...................................... 54
CHƢƠNG V: THẾ GIỚI TINH THẦN CỦA NGƢỜI VIỆT CỔ ........................................ 102
CHƢƠNG VI : BẢN SẮC VĂN HÓA VIỆT CỔ ................................................................. 125
TÀI LIỆU DẪN ..................................................................................................................... 149