TRƯỜNG ĐẠI HỌC NỘI VỤ HÀ NỘI

KHOA KHOA HỌC CHÍNH TRỊ

BÁO CÁO TỔNG HỢP ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CỦA NGƯỜI HỌC

NGHIÊN CỨU THÁI ĐỘ HỌC TẬP

CÁC MÔN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ CỦA SINH VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC NỘI VỤ HÀ NỘI Mã số đề tài: ĐTSV.2020.02

: Đàm Hải Đăng Chủ nhiệm đề tài Lớp : 1705CSCA Cán bộ hướng dẫn : ThS. Nguyễn Thị Phương Hoa

Hà Nội, 2020

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NỘI VỤ HÀ NỘI

KHOA KHOA HỌC CHÍNH TRỊ

BÁO CÁO TỔNG HỢP ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CỦA NGƯỜI HỌC

NGHIÊN CỨU THÁI ĐỘ HỌC TẬP

CÁC MÔN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ CỦA SINH VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC NỘI VỤ HÀ NỘI Mã số đề tài: ĐTSV.2020.02

: Đàm Hải Đăng

Chủ nhiệm đề tài Thành viên tham gia : Triệu Thị Kim Oanh Nguyễn Minh Hằng Phạm Thị Thu Hương

Lớp Cán bộ hướng dẫn : 1705CSCA : ThS. Nguyễn Thị Phương Hoa

Hà Nội, 2020

LỜI CẢM ƠN

Để hoàn thành đề tài nghiên cứu khoa học này, chúng em xin được gửi

lời cảm ơn chân thành tới các Thầy/Cô giáo trong Khoa Khoa học chính trị,

trường Đại học Nội vụ Hà Nội và tập thể lớp 1705CSCA đã luôn tạo điều

kiện tốt nhất, đồng hành, sát cánh cung cấp tri thức và kỹ năng trong suốt quá

trình thực hiện.

Chúng em xin gửi lời cảm ơn sâu sắc nhất đến cô giáo ThS. Nguyễn

Thị Phương Hoa đã là người hướng dẫn tận tình, chu đáo và tâm huyết để

nhóm nghiên cứu có được thành quả lao động ngày hôm nay.

Dù hạn chế về thời gian, trình độ và tình hình dịch bệnh diễn biến phức

tạp trong thời gian thực hiện đề tài, nhóm nghiên cứu không tránh khỏi những

thiếu sót nhất định. Qua đây, nhóm nghiên cứu rất mong nhận được sự đóng

góp của quý Thầy/Cô và các bạn để đề tài của nhóm nghiên cứu được hoàn

thiện tốt nhất.

Nhóm nghiên cứu xin được gửi lời chúc sức khỏe, hạnh phúc và tri ân

tới tất cả các Thầy/Cô, các bạn.

Nhóm nghiên cứu xin trân trọng cảm ơn!

DANH MỤC SƠ ĐỒ, BẢNG BIỂU

Sơ đồ 1: Cơ cấu sinh viên tham gia trưng cầu ý kiến ..................................... 33

Sơ đồ 2: Tỷ lệ sinh viên nam nữ tham gia trưng cầu ý kiến ........................... 33

Biểu đồ 3: Tầm quan trọng của các môn Lý luận chính trị............................. 35

Sơ đồ 4: Động cơ học tập các môn Lý luận chính trị ..................................... 36

Sơ đồ 5: Mức độ đón nhận việc học tập các môn Lý luận chính trị ............... 37

Biểu đồ 6: Mức độ chuyên cần học tập các môn Lý luận chính trị ................ 38

Sơ đồ 7: Mức độ chủ động, tích cực học tập các môn Lý luận chính trị ........ 40

Biểu đồ 8: Thời gian tự học các môn Lý luận chính trị .................................. 41

Biểu đồ 9: Các hoạt động tự học các môn Lý luận chính trị .......................... 42

MỤC LỤC

LỜI CẢM ƠN

DANH MỤC SƠ ĐỒ, BẢNG BIỂU

MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1

1. Lý do chọn đề tài..................................................................................... 1

2. Tổng quan tình hình nghiên cứu ............................................................. 3

3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu ......................................................... 3

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu .......................................................... 4

5. Phương pháp nghiên cứu ....................................................................... 4

6. Giả thuyết nghiên cứu ............................................................................. 4

7. Đóng góp mới của đề tài ......................................................................... 5

8. Cấu trúc của đề tài................................................................................... 5

Chương 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THÁI ĐỘ HỌC TẬP CÁC

MÔN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ CỦA SINH VIÊN ........................................ 6

1.1. Hoạt động học tập và thái độ học tập của sinh viên .......................... 6

1.1.1. Hoạt động học tập của sinh viên .................................................... 6

1.1.1.1. Khái niệm hoạt động học tập ......................................................... 6

1.1.1.2. Đặc điểm hoạt động học tập của sinh viên .................................... 7

1.1.2. Thái độ học tập của sinh viên ....................................................... 11

1.1.2.1. Khái niệm thái độ ......................................................................... 11

1.1.2.2. Khái niệm thái độ học tập ............................................................ 17

1.1.2.3. Khái niệm thái độ học tập của sinh viên ...................................... 18

1.2. Thái độ học tập các môn Lý luận chính trị của sinh viên ............... 20

1.2.1. Đặc điểm, vai trò của các môn Lý luận chính trị ......................... 20

1.2.2. Một số yêu cầu đặt ra về thái độ học tập các môn Lý luận chính trị

của sinh viên ............................................................................................. 22

1.2.2.1. Động cơ học tập đúng .................................................................. 22

1.2.2.2. Chuyên cần học tập ...................................................................... 23

1.2.2.3. Chủ động, tích cực học tập .......................................................... 25

1.2.2.4. Tự học, tự nghiên cứu .................................................................. 26

Tiểu kết chương 1 ..................................................................................... 28

Chương 2. THÁI ĐỘ HỌC TẬP CÁC MÔN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

CỦA SINH VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC NỘI VỤ HÀ NỘI - THỰC

TRẠNG VÀ NGUYÊN NHÂN .................................................................... 29

2.1. Đặc điểm sinh viên Trường Đại học Nội vụ Hà Nội ......................... 29

2.2. Thực trạng thái độ học tập các môn Lý luận chính trị của sinh viên

trường Đại học Nội vụ Hà Nội ................................................................. 32

2.2.1. Xác định động cơ học tập ............................................................... 33

2.2.2. Mức độ chuyên cần học tập ............................................................ 36

2.2.3. Chủ động, tích cực học tập ............................................................. 38

2.2.4. Tự học, tự nghiên cứu ..................................................................... 40

2.3. Đánh giá thực trạng thái độ học tập các môn Lý luận chính trị của

sinh viên trường Đại học Nội vụ Hà Nội ................................................. 43

2.3.1. Ưu điểm .......................................................................................... 43

2.3.2. Hạn chế ........................................................................................... 44

2.3.3. Nguyên nhân ................................................................................... 45

Tiểu kết chương 2 ..................................................................................... 48

Chương 3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP KHẮC PHỤC HẠN CHẾ TRONG

THÁI ĐỘ HỌC TẬP CÁC MÔN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ CỦA SINH

VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC NỘI VỤ HÀ NỘI .......................................... 50

3.1. Nâng cao nhận thức của sinh viên về ý nghĩa của việc học tập các

môn Lý luận chính trị ................................................................................ 50

3.2. Đổi mới phương pháp dạy học theo hướng tích cực ......................... 51

3.3. Đổi mới phương pháp học tập phù hợp ............................................. 55

3.4. Đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu khoa học trong sinh viên .............. 58

3.5. Tổ chức các hoạt động ngoại khóa, chuyên đề về các vấn đề chính trị

- xã hội. ..................................................................................................... 59

Tiểu kết chương 3 ..................................................................................... 61

KẾT LUẬN .................................................................................................... 62

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 64

PHỤ LỤC ....................................................................................................... 69

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Trong xu thế hội nhập quốc tế nói chung và thời kì thúc đẩy công

nghiệp hóa - hiện đại hóa ở Việt Nam nói riêng thì việc nâng cao chất lượng

giáo dục, đào tạo nhằm phát huy nguồn lực con người đáp ứng yêu cầu đẩy

mạnh sự phát triển kinh tế - xã hội đang là một yêu cầu khách quan và bức

thiết. Đảng ta đã coi giáo dục là quốc sách hàng đầu, công tác giáo dục hiện

nay bên cạnh việc trang bị cho thế hệ trẻ những tri thức khoa học tự nhiên,

khoa học kĩ thuật tiên tiến còn cần trang bị cho họ những tri thức về chính con

người. Nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam

tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX đã chỉ rõ những giải pháp lớn nhằm

đổi mới sự nghiệp giáo dục - đào tạo. Trong số các giải pháp, Đảng ta nhấn

mạnh “phát triển đội ngũ giáo viên, coi trọng chất lượng và đạo đức sư phạm”

[9], đồng thời "người học thì chăm lo hoàn thiện nhân cách, hăng say, miệt

mài học tập, tiếp thu tri thức, phát huy tư duy sáng tạo và năng lực tự đào tạo

ở người học, để họ trở thành những công dân hữu ích đối với xã hội" [9].

Dạy học là một quá trình nhận thức đặc biệt trong đó sinh viên đóng vai

trò chủ thể của hoạt động này. Dạy học, ngoài việc cung cấp tri thức, trang bị

kỹ năng, kỹ xảo cho người học còn có nhiệm vụ hình thành thái độ tích cực

của người học. Trong giáo dục đại học, thái độ học tập có vai trò quan trọng

trong việc nâng cao hiệu quả học tập của sinh viên. Sinh viên chỉ có thể hiểu

sâu sắc tài liệu học tập và biến nó thành giá trị riêng nếu họ kiên trì và nỗ lực

hoạt động trí tuệ để tự khám phá, phát hiện ra tri thức. Theo lý luận giáo dục

hiện đại, việc hình thành thái độ học tập cho người học còn là nhiệm vụ hàng

đầu, đứng trên cả việc cung cấp tri thức và rèn luyện kỹ năng. Người học, nếu

trong quá trình học tập phải hình thành được thái độ tích cực, say mê nghiên

cứu tri thức mà nhân loại đã sáng tạo và tích luỹ được sẽ làm giàu thêm vốn

tri thức cho bản thân. Thái độ học tập của người học không chỉ phụ thuộc vào

1

những điều kiện học tập như: môi trường, phương tiện giảng dạy, phương

pháp giảng dạy... mà nó còn liên quan đến các yếu tố chủ quan như nhận thức,

động cơ, hứng thú, hành vi... của người học. Có thể thấy, thái độ học tập là

một trong những nhân tố chủ quan quy định hiệu quả của hoạt động học tập,

nó vừa là mục đích, vừa là điều kiện của hoạt động học tập. Chính vì vậy, có

thái độ học tập tích cực là cơ sở của quá trình tiếp thu tri thức một cách hiệu

quả nhất, từ đó đảm bảo cho người học có những định hướng đúng đắn trong

quá trình học tập của mình.

Sinh viên là nguồn cho đội ngũ trí thức. Sinh viên không chỉ cần có

kiến thức chuyên môn vững vàng mà cần phải có những phẩm chất chính trị,

đạo đức, kỹ năng và lý tưởng sống cao đẹp. Các môn Lý luận chính trị trang bị

thế giới quan, nhân sinh quan cách mạng và phương pháp luận khoa học, đồng

thời bồi dưỡng tư tưởng chính trị, đạo đức cho sinh viên. Đặc thù các môn Lý

luận chính trị có tính trừu tượng, hàn lâm làm cho sinh viên dễ nảy sinh tâm lý

ngại học.

Thực tiễn đất nước đã có nhiều biến đổi, nhưng trong nội dung các môn

Lý luận chính trị vẫn nặng tính lý thuyết. Mặc dù đã có sự bổ sung, phát triển

để phù hợp với tình hình mới, song nhiều vấn đề về kinh tế thị trường, nhà

nước pháp quyền, dân chủ, nhân quyền, hội nhập quốc tế, kinh tế tri thức...

còn mờ nhạt, làm cho sinh viên cảm thấy khô khan, khó hiểu, xa rời thực tiễn.

Điều đó dẫn tới việc sinh viên đã ngại học càng trở nên “nản học” các môn Lý

luận chính trị. Giáo trình và tài liệu học tập được biên soạn lại theo một

chương trình khung và chuẩn quốc gia; các kiến thức được bố trí theo kiểu

“nhồi nhét” và “chật trội”; tính gợi mở, tính mềm hóa bị thủ tiêu, làm cho

người học khó lĩnh hội kiến thức.

Vì vậy, để nâng cao chất lượng học tập các môn Lý luận chính trị thì một

trong những giải pháp tích cực là nâng cao thái độ học tập của sinh viên. Xuất phát

từ những lí do trên, nhóm nghiên cứu khoa học lựa chọn đề tài: “Nghiên cứu thái

độ học tập các môn Lý luận chính trị của sinh viên trường Đại học Nội vụ Hà

2

Nội”.

2. Tổng quan tình hình nghiên cứu

Khi nghiên cứu thành tựu của tâm lý học thế giới và thực tiễn tâm lí

học nước nhà, các nhà tâm lí học Việt Nam đã quan tâm tìm hiểu về thái độ

học tập của người học nhằm đạt được mục tiêu của công tác giáo dục.

Để đánh giá thực trạng thái độ học tập của học sinh, GS. Hoàng Đức

Nhuận và PGS. Lê Đức Phúc đã nêu rõ những chỉ số như: chú ý, hăng hái

tham gia vào mọi hình thức của hoạt động học tập, hoàn thành mọi nhiệm vụ

được giao, học thêm và làm các bài tập, vận dụng hoặc chuyển tải những gì đã

học được vào thực tế, hình thành và phát triển các quan hệ thầy - trò, quan hệ

tình bạn nhằm giúp bản thân học tốt hơn, nâng cao chất lượng và kết quả học

tập.

Theo tác giả Đào Lan Phương: “Thái độ học tập là một bộ phận cấu

thành đồng thời là một thuộc tính cơ bản toàn vẹn của ý thức học tập của chủ

thể, là yếu tố quy định tính tự giác, tích cực học tập và thể hiện bằng những

cảm xúc, hành động tương ứng” (Tự đánh giá thái độ học tập môn Toán của

sinh viên, Tạp chí nghiên cứu giáo dục, số 3/1998).

Thái độ học tập còn được coi là một trong những biểu hiện của động cơ

trong học tập. Có thể kể đến một số tài liệu có liên quan đến thái độ học tập như

sau:

- “Quan hệ giữa tự đánh giá của học sinh với thái độ học tập và động cơ học

tập” của Lê Ngọc Lan, Kỷ yếu hội thảo tâm lí học toàn quốc lần thứ năm, Hà Nội,

1982;

- “Thái độ học tập của sinh viên trường Đại học An ninh nhân dân” của

Lê Ngọc Phương, luận văn Thạc sĩ tâm lí học.

3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục tiêu nghiên cứu

Trên cơ sở nghiên cứu thực trạng thái độ học tập các môn Lý luận

chính trị của sinh viên trường Đại học Nội vụ Hà Nội, đề xuất một số giải

3

pháp nhằm nâng cao chất lượng học tập các môn Lý luận chính trị của sinh

viên.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

- Nghiên cứu lí luận về thái độ học tập các môn Lý luận chính trị của sinh

viên.

- Nghiên cứu thực trạng thái độ học tập các môn Lý luận chính trị của

sinh viên trường Đại học Nội vụ Hà Nội.

- Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng học tập các môn

Lý luận chính trị của sinh viên.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu: Thái độ học tập các môn Lý luận chính trị

của sinh viên trường Đại học Nội vụ Hà Nội (cơ sở Hà Nội).

4.2. Phạm vi nghiên cứu: Sinh viên năm hai và năm ba trường Đại học

Nội vụ Hà Nội.

5. Phương pháp nghiên cứu

- Đề tài được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện

chứng và duy vật lịch sử.

- Ngoài ra còn sử dụng một số phương pháp cụ thể:

+ Nghiên cứu, phân tích tài liệu.

+ Phương pháp quan sát.

+ Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi.

+ Phương pháp phân tích, so sánh, tổng hợp.

6. Giả thuyết nghiên cứu

Qua khảo sát sơ bộ thực tiễn và nghiên cứu các công trình lý luận có

liên quan bước đầu chúng tôi đưa ra những giả thiết sau:

- Thái độ học tập của sinh viên trường Đại học Nội vụ Hà Nội có sự

không đồng nhất như nhau đối với các môn học.

- Tư tưởng mong muốn thi đỗ và được học tại một trường khác trên Hà

Nội của một số sinh viên đã có ảnh hưởng không tốt đến thái độ học tập của

4

chính họ.

- Sinh viên có sự thay đổi thái độ học tập, tuỳ thuộc vào ý nghĩa của

từng môn học đối với nghề nghiệp tương lai của bản thân.

- Giúp sinh viên có nhận thức đầy đủ, sâu sắc về mục đích học tập tại

trường là trách nhiệm của nhà trường, của thầy, cô giáo và các thành phần làm

công tác giáo dục nhằm hình thành thái độ học tập tích cực cho sinh viên.

7. Đóng góp mới của đề tài

- Làm tài liệu tham khảo cho các đề tài nghiên cứu khoa học của sinh

viên, các nghiên cứu về tâm lý học trong đó có thái độ học tập.

- Về mặt thực tiễn, có thể góp phần định hướng cho sinh viên trong học

tập các môn Lý luận chính trị.

8. Cấu trúc của đề tài

Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, đề tài

được cấu trúc gồm 3 chương:

Chương 1: Một số vấn đề lý luận về thái độ học tập các môn Lý luận

chính trị của sinh viên.

Chương 2: Thái độ học tập các môn Lý luận chính trị của sinh viên

trường Đại học Nội vụ Hà Nội - thực trạng và nguyên nhân.

Chương 3: Một số giải pháp khắc phục hạn chế trong thái độ học tập

5

các môn Lý luận chính trị của sinh viên trường Đại học Nội vụ Hà Nội.

Chương 1

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THÁI ĐỘ HỌC TẬP CÁC MÔN LÝ

LUẬN CHÍNH TRỊ CỦA SINH VIÊN

1.1. Hoạt động học tập và thái độ học tập của sinh viên

1.1.1. Hoạt động học tập của sinh viên

1.1.1.1. Khái niệm hoạt động học tập

* Định nghĩa hoạt động học tập:

Có rất nhiều định nghĩa khác nhau về hoạt động học tập:

- L.B.Enconhin nêu lên việc lĩnh hội tri thức là nội dung cơ bản của

hoạt động học tập và được xác định bởi cấu trúc và mức độ phát triển của hoạt

động học tập.

- I.B.Intenxon xác định học tập là loại hoạt động đặc biệt của con người

có mục đích nắm vững tri thức, kỹ năng, kỹ xảo và các hình thức nhất định

của hành vi đó. Nó bao gồm cả ý nghĩa nhận thức và thực tiễn.

- A.N.Leonchiev, P.la.Ganperin và N.P.Taludina xem quá trình học tập

xuất phát từ mục đích trực tiếp và từ nhiệm vụ giảng dạy được biểu hiện ở

hình thức tâm lý bên ngoài và bên trong của hoạt động đó.

- N.V.Cudomina coi học tập là hoạt động nhận thức cơ bản của sinh viên

được thực hiện dưới sự hướng dẫn của cán bộ giảng dạy. Trong quá trình đó,

việc nắm vững những nội dung cơ bản các thông tin mà thiếu nó thì không thể

tiến hành được hoạt động nghề nghiệp tương lai.

Qua các định nghĩa trên có thể thống nhất định nghĩa hoạt động học tập

như sau: Hoạt động học tập là loại hoạt động đặc biệt của con người với mục

đích đã được đề ra từ đầu là nhằm tiếp thu tri thức khoa học, kỹ năng, kỹ xảo

và thái độ tương ứng của nó. Nhờ có hoạt động học tập mà tâm lý nhân cách

của người học ngày càng phát triển. Đối tượng của hoạt động học tập là những

tri thức, kỹ năng, kỹ xảo và thái độ tương ứng của nó. Cái đích mà hoạt động

học tập hướng tới là chiếm lĩnh tri thức, kỹ năng, kỹ xảo và thái độ thông qua sự

6

tái tạo của cá nhân. Việc tái tạo này sẽ không thể thực hiện nếu người học chỉ là

khách thể bị động của những tác động sư phạm, nếu tri thức chỉ được tiếp nhận

một cách thụ động. Muốn học có kết quả, người học phải tích cực tiến hành các

hoạt động học tập bằng chính ý thức tự giác và năng lực trí tuệ của bản thân

mình.

Như vậy, hoạt động học tập là hoạt động được điều khiển một cách có

ý thức nhằm tiếp tục tri thức, kỹ năng, kỹ xảo. Sự tiếp thu tri thức, kỹ năng,

kỹ xảo trong hoạt động học mang tính tự giác cao. Đối tượng tiếp thu đã trở

thành mục đích của hoạt động học. Những tri thức cũng được chọn lọc tinh tế

và tổ chức thành hệ thống. Hoạt động học không chỉ nhằm tiếp thu tri thức, kỹ

năng, kỹ xảo mà còn hướng vào việc tiếp thu tri thức của chính bản thân hoạt

động, nói cách khác là tiếp thu cả phương pháp giành lấy tri thức (phương

pháp học).

1.1.1.2. Đặc điểm hoạt động học tập của sinh viên

* Đặc điểm tâm sinh lý của sinh viên:

Tuổi sinh viên là lứa tuổi có sự chín muồi về thể chất và đang trong giai

đoạn chuẩn bị để trong tương lai trở thành chuyên gia trong một lĩnh vực

nghề nghiệp cụ thể. Sinh viên là một công dân thực thụ của đất nước với đầy

đủ quyền hạn và nghĩa vụ trước pháp luật. Ở lứa tuổi này thì những đặc điểm

phát triển thể chất, môi trường và vai trò xã hội cụ thể mà trong đó họ sống và

hoạt động sẽ chi phối đặc điểm tâm sinh lý của thanh niên sinh viên. Sinh

viên là con người thuộc một lứa tuổi nhất định và là một nhân cách nên có thể

xác định về ba phương diện: sinh lý, tâm lý và xã hội. Về mặt sinh học, đây là

giai đoạn hoàn tất sự thay đổi bản thân của những thiếu niên còn có vẻ nam

tính thành những thiếu niên nam, nữ riêng biệt do sự tăng hormon nam trong

cơ thể nam nên tới mức nhiều gấp 10 - 15 lần và ngược lại, hormon nữ trong

cơ thể nữ cũng có số lượng nhiều để áp đảo tác dụng của phần hormon nam

còn sót lại trong cơ thể nữ. Trọng lượng não ở tuổi này đạt trọng lượng tối đa

7

(khoảng 1400 gram) và chứa khoảng 14 - 16 tỷ nơtron.

Ở lứa tuổi thanh niên sinh viên còn có nhiều yếu tố bẩm sinh di truyền

đã được biến đổi dưới ảnh hưởng của điều kiện sống và giáo dục. Đây là một

nhóm xã hội đặc biệt đang chuẩn bị trực tiếp cho việc tham gia vào cuộc sống

tinh thần của xã hội. Những đặc điểm phát triển tâm sinh lý của họ rất phong

phú, đa dạng và không đồng đều. Những đặc điểm tâm sinh lý của sinh viên

bao gồm:

Sự thích nghi của sinh viên với cuộc sống và hoạt động mới. Sự thích

nghi ấy tập trung chủ yếu ở: nội dung học tập mang tính chuyên ngành;

phương pháp học tập mới mang tính nghiên cứu khoa học; môi trường sinh

học mở rộng phạm vi quốc gia thậm chí quốc tế; nội dung và cách thức giao

tiếp với thầy (cô), bạn bè và các tổ chức xã hội phong phú, đa dạng. Với mỗi

sinh viên khác nhau thì sự thích ứng cũng khác nhau tùy thuộc vào tâm lý cá

nhân và môi trường sống cụ thể quy định. Nhiều công trình nghiên cứu cho

thấy, nhìn chung sau một thời gian học tập ở trường đại học, cao đẳng đa số

sinh viên thích ứng khá nhanh chóng với môi trường xã hội mới trên cơ sở

tình bạn của những người trẻ tuổi. Khó khăn mà sinh viên gặp phải là sự thích

nghi được với nội dung, phương pháp học tập mới có tính chất nghiên cứu

khoa học và học nghề đối với những chuyên gia tương lai. Có thể nói sự thích

nghi có ảnh hưởng trực tiếp trong học tập của sinh viên.

Sự phát triển về nhận thức, trí tuệ của sinh viên. Hoạt động nhận thức

của sinh viên chủ yếu là đi sâu tìm hiểu môn học, những chuyên ngành khoa

học cụ thể để nắm được đối tượng, nhiệm vụ, phương pháp, quy luật của các

khoa học đó. Hoạt động nhận thức của họ một mặt phải kế thừa những thành

tựu đã có, mặt khác phải tiếp cận những thành tựu khoa học kỹ thuật tiên tiến

hiện đại mang tính thời sự. Có thể nêu ra các đặc điểm sau đây trong hoạt

động nhận thức của sinh viên:

- Sinh viên học tập nhằm lĩnh hội tri thức khoa học, kỹ năng, kỹ xảo

nghề nghiệp và phẩm chất nhân cách của con người chuyên gia tương lai.

8

- Hoạt động học tập của sinh viên diễn ra một cách có kế hoạch, mục

đích, nội dung, chương trình, phương thức, phương pháp đào tạo phù hợp

nhằm phát huy năng lực sở trường của sinh viên.

- Phương tiện hoạt động thực tiễn của sinh viên được mở rộng và

phong phú với các thư viện, tài liệu từ phòng đọc, phòng thực nghiệm.

- Phương pháp học tập mới được coi là nhiệm vụ rất quan trọng mà

sinh viên phải tìm ra. Bởi có phương pháp học tập phù hợp thì mới đạt được

kết quả học tập tốt. Sự phát triển động cơ học tập của sinh viên. Động cơ học

tập là nội dung tâm lý của hoạt động học tập. Động cơ học tập bị chi phối bởi

những yếu tố tâm lý (hứng thú, tâm thế, niềm tin), hay những yếu tố nằm

ngoài bản thân chủ thể (yêu cầu của gia đình xã hội) hay do chính hoạt động

và những hoàn cảnh, điều kiện cụ thể của hoạt động mang lại (nội dung,

phương pháp dạy học). Với sinh viên, việc học tập của họ bị chi phối bởi

nhiều động cơ như động cơ liên quan đến sự tự khẳng định, tự ý thức về năng

lực, phẩm chất của người thanh niên trưởng thành, những động cơ có tính xã

hội. Lĩnh vực động cơ của sinh viên cũng chịu sự chi phối của các cán bộ

giảng dạy trong việc tổ chức hoạt động dạy học. Việc phát triển những động

cơ tích cực của hoạt động học tập ở sinh viên phụ thuộc vào một số điều kiện

sư phạm nhất định.

Trong thời kỳ mở cửa của nền kinh tế thị trường, những định hướng giá

trị của thanh niên nói chung và sinh viên nói riêng cũng đã có những thay đổi,

những sự phân hóa nhất định. Định hướng giá trị của sinh viên liên quan mật

thiết đến xu hướng nhân cách và kế hoạch đường đời của họ. Với sinh viên,

những ước mơ, hoài bão, những lý tưởng của tuổi thanh xuân dần dần được

hiện thực, được điều chỉnh trong quá trình học tập ở trường đại học. Sinh viên

không chỉ đặt ra kế hoạch đường đời của mình mà còn tìm cách để thực thi kế

hoạch đó. Họ không ngần ngại tìm việc làm thêm để thỏa mãn những yêu cầu

học tập ngày càng cao và tạo điều kiện thuận lợi cho việc hành nghề sau này.

Như vậy, sinh viên là lứa tuổi đạt đến độ phát triển sung mãn của đời

9

người. Họ là lớp người giàu nghị lực, giàu ước mơ và hoài bão. Họ luôn phấn

đấu để trở thành những chuyên gia, những tri thức hữu dụng cho bản thân, gia

đình, đất nước.

* Hoạt động học tập của sinh viên

Hoạt động hoc tập của sinh viên là một hoạt động được tổ chức một

cách có ý thức nhằm tiếp thu những tri thức khoa học chuyên sâu chuẩn bị

cho họ trong tương lai trở thành những chuyên gia phát triển toàn diện và có

trình độ nghiệp vụ cao trong một lĩnh vực nghề nghiệp nhất định.

Mục đích hoạt động học tập của sinh viên là tiếp thu các tri thức khoa

học chuyên sâu trong một lĩnh vực nhất định, hình thành trong những kĩ năng,

kĩ xảo nghề nghiệp và thái độ tương ứng, phát triển những phẩm chất nhân

cách người chuyên gia về một lĩnh vực trong tương lai. Để đạt được mục đích

đó, sinh viên phải tiếp thu được một lượng kiến thức vừa rộng vừa chuyên

sâu, bao gồm cả những kiến thức cơ bản, cơ sở và những kiến thức chuyên

ngành. Vì vậy hoạt động học tập của sinh viên là hoạt động thường xuyên

diễn ra với nhịp độ cao.

Hoạt động học tập của sinh viên mang tính độc lập trí tuệ cao. Khác

hẳn với nhà trường phổ thông, việc học tập ở bậc đại học đòi hỏi sinh viên

phải là người chủ động trong việc tổ chức, định hướng, cụ thể hóa quá trình

học tập của mình. Người sinh viên phải giải quyết nhiệm vụ học tập do giảng

viên và do bản thân đề ra. Trong quá trình học tập ở bậc đại học, sinh viên

phải lập kế hoạch học tập, tự kiểm tra và đánh giá việc thực hiện kế hoạch đề

ra. Ngoài ra, để đạt được mục đích học tập của mình sinh viên phải hình thành

cho mình cách học mang tính khoa học và đem lại hiệu quả cao. Hoạt động

học tập ở bậc đại học còn đòi hỏi sinh viên tích cực trao đổi với giảng viên,

với bạn bè về các vấn đề học tập, độc lập nghiên cứu tài liệu có óc phê phán,

có chính kiến riêng.

Hoạt động học tập của sinh viên còn phải gắn bó chặt chẽ với hoạt

động nghiên cứu khoa học. Hoạt động nghiên cứu khoa học sẽ giúp sinh viên

10

làm quen với tác phong làm việc của người nghiên cứu, phát triển tối ưu tư

duy sáng tạo và các đặc điểm nhân cách.

Phương tiện của hoạt động học tập của sinh viên đòi hỏi phải có một hệ

thống thư viện, tài liệu, cơ sở vật chất cần thiết phục vụ tốt nhất cho hoạt

động học tập đó.

1.1.2. Thái độ học tập của sinh viên

1.1.2.1. Khái niệm thái độ

Thái độ là khái niệm không chỉ được sử dụng trong khoa học tâm lý mà

còn được sử dụng trong nhiều lĩnh vực khác nhau của đời sống. Vì vậy, muốn

hiểu rõ được bản chất của khái niệm này, cần xem xét nó dưới nhiều khía

cạnh khác nhau:

Trong các từ điển tiếng Việt, thái độ thường được hiểu là “trạng mạo và

cử chỉ của con người” [1] hay “tổng thể nói chung những biểu hiện ra bên

ngoài (nét mặt, cử chỉ, lời nói, hành động) của ý nghĩ, tình cảm con người đối

với ai đó hoặc công việc nào đó; cách suy nghĩ, cách nhìn và cách hành động

theo một hướng nào đó trước một vấn đề, tình huống” [39]. Tuy cách dùng từ

ngữ khác nhau, song các định nghĩa trên đều có điểm chung là coi thái độ là

cách xử sự của cá nhân trong xã hội. Thái độ gồm 2 mặt: mặt bên trong là cách

nghĩ, cách nhìn, tình cảm và quan điểm cá nhân; mặt bên ngoài là hành vi và

cách biểu cảm.

Trong Xã hội học, thái độ được biểu hiện là “nền tảng ứng xử xã hội

của cá nhân, là một hoạt động tâm lý của cá nhân bao hàm sự lí giải và biến

đổi các khuôn mẫu xã hội qua kinh nghiệm của cá nhân” [48]. Như vậy,

trong Xã hội học thái độ được xem là cách ứng xử của cá nhân và cơ thể hình

thành nó là từ những khuôn mẫu xã hội được cá nhân tiếp thu và biến thành

thái độ của bản thân.

Trong Tâm lý học, mặc dù lịch sử nghiên cứu thái độ đã khá lâu dài

nhưng chưa tồn tại một định nghĩa mang tính chất nhất quán về khái niệm

này. Các tác giả đưa ra rất nhiều định nghĩa khác nhau, song có thể định nghĩa

11

đó theo một số hướng cơ bản như sau:

Một là, quan niệm coi thái độ thống nhất với định hướng giá trị.

Hướng tiếp cận này thể hiện trong quan điểm của W.I.Thomas và

F.Znanhiecski. Các tác giả này cho rằng, thái độ là “trạng thái có ý thức của

cá nhân đối với giá trị nào đó” hay “sự định hướng chủ quan của cá nhân

như là thành viên của nhóm (cộng đồng) đối với giá trị này hay giá trị khác,

làm cho cá nhân có phương pháp hành động này hay hành động khác được

xã hội chấp nhận” [12]. Định nghĩa này đã chỉ ra một trong những đặc điểm

đặc trưng của thái độ đó là tính có ý thức. Tuy nhiên, việc đồng nhất thái độ

với tính định hướng giá trị chưa phản ánh được đúng bản chất của khái niệm

này bởi thái độ không phải định hướng giá trị của cá nhân mặc dù chúng đều

có những điểm chung là định hướng hoạt động của chủ thể. Trong cấu trúc

của nhân cách, định hướng giá trị tạo thành mặt nội dung của xu hướng nhân

cách. Do vậy, định hướng giá trị là cơ sở bên trong của thái độ cá nhân đối

với hiện thực.

Hai là, quan niệm coi thái độ là hệ thống các quan hệ.

Khi nghiên cứu thái độ dựa trên cơ sở các mối quan hệ xã hội,

V.N.Miaxisev đã cho rằng: “Thái độ, dưới dạng chung nhất là hệ thống trọn

vẹn các mối liên hệ cá nhân, có chọn lọc, có ý thức của nhân cách với các

khía cạnh khác nhau của hiện thực khách quan. Hệ thống này xuất phát từ

toàn bộ lịch sử phát triển con người, nó thể hiện kinh nghiệm cá nhân và quy

định hành động, các thể nghiệm cá nhân từ bên trong” [10]. Định nghĩa này

đã chỉ ra được những đặc điểm cơ bản của thái độ như tính có ý thức, tính hệ

thống, đồng thời chỉ ra nguồn gốc của thái độ và ảnh hưởng của thái độ đối

với hành vi. Cùng quan điểm này còn có M.I.Xmirnov (1973), B.C.Merllin

(1976)...

Ba là, coi thái độ là sự sẵn sàng phản ứng của chủ thể trước tác động

của sự vật, hiện tượng từ bên ngoài.

G.Ư.Allport, nhà Tâm lý học người Mỹ - người coi thái độ là khái niệm

12

phân biệt nhất và quan trọng nhất trong Tâm lý học xã hội hiện đại Mỹ, đã

đứng trên quan điểm cho rằng, nhân cách như là một tổ chức bên trong động

cơ, một “cái tôi” siêu hình nào đó bao gồm các mục đích, các thái độ hiện

thực hóa hành vi và tư duy. Ông đã định nghĩa thái độ là trạng thái sẵn sàng

về mặt tinh thần và thần kinh, được hình thành thông qua kinh nghiệm, có khả

năng điều chỉnh hay ảnh hưởng năng động đối với phản ứng của cá nhân đến

các tình huống và khách thể mà nó có thiết lập mối quan hệ. Cùng quan điểm

này, H.Fillmore cho rằng thái độ là sự sẵn sàng phản ứng tích cực hay tiêu

cực đối với một đối tượng hay một biểu tượng trong môi trường và ông còn

khẳng định thái độ là sự định hướng của cá nhân tới các khía cạnh khác nhau

của môi trường và thái độ là một cấu trúc mang tính cơ động. Hướng định

nghĩa này được nhiều người thừa nhận vì nó đã trả lời được câu hỏi bản chất

của thái độ là gì? Nguồn gốc của thái độ ở đâu? Thái độ có vai trò gì đối với

hành vi của con người?

Bốn là, quan niệm coi thái độ là phản ứng của nhận thức hay xúc cảm.

David G Mayer khi định nghĩa về thái độ đã nhấn mạnh đến thành phần

nhận thức của thái độ, thái độ là phản ứng mang tính chất đánh giá có thiện

chí hay không có thiện chí về một điều gì đó hay người nào đó được thể hiện

trong niềm tin, xúc cảm hay hành động.

Lê Văn Hảo, KnudS.Larsen định nghĩa: “Thái độ là một phản ứng

mang tính chất đánh giá tích cực hay tiêu cực đối với một đối tượng nào đó

(người, sự vật, hiện tượng...) thể hiện qua suy nghĩ, cảm xúc và hành vi dự

định” [15].

J.W.Kalat nói rằng thái độ là sự thích hay không thích một sự vật hay

một người nào đó của cá nhân, từ đó có ảnh hưởng tới hành vi của anh ta khi

ứng xử với sự vật hay con người đó.

Ưu điểm của cách tiếp cận này là đã chỉ ra được các thành phần của

thái độ (nhận thức, xúc cảm, hành động) nhưng việc chỉ nhấn mạnh đến một

trong những thành phần này mà bỏ qua những thành phần biểu hiện khác đưa

13

đến một cái nhìn phiến diện về vấn đề này.

Năm là, quan niệm coi thái độ là tâm thể.

Theo D.N.Uznatze, thái độ chủ quan của cá nhân đồng nhất với khái

niệm tâm thể và ông đã khẳng định tâm thể là: “một trạng thái vô thức, thể

hiện sự sẵn sàng của chủ thể, xuất hiện trong tình huống nhu cầu sinh lý cơ

bản nhất của con người được thỏa mãn trong những tình huống đơn giản” và

ông còn giải thích thêm: “Tâm thể không phải là nội dung cục bộ của ý thức,

không phải nội dung tâm lý bị tách rời đối lập với các trạng thái tâm lý khác

của ý thức và ở trong mối quan hệ qua lại với nó, mà nó là một trạng thái

toàn vẹn theo một khuynh hướng nhất định nhằm một tính năng động nhất

định. Đó là sự phản ánh cơ bản, đầu tiên đối với tác động của tình huống mà

trong đó chủ thể phải đặt ra và giải quyết nhiệm vụ” [16]. Việc coi thái độ là

tâm thế đã không phản ánh được bản chất của khái niệm này bởi thái độ là

trạng thái tâm lý có ý thức của chủ thể còn tâm thế là cái vô thức, thái độ có

cấu trúc ba phần còn tâm thế là cái trọn vẹn không thể phân chia được.

Với một cách nhìn toàn diện không chỉ bao hàm những khía cạnh của

Tâm lý học cá nhân (quan điểm của các nhà Tâm lý học Liên Xô) mà còn cả

những khía cạnh của Tâm lý học xã hội (quan điểm của các nhà Tâm lý học

phương Tây), hai nhà Tâm lý học H.Hipso và M.Phovec đã cho rằng, khi định

nghĩa về thái độ cần tiếp cận từ góc độ chức năng của nó và các tác giả này

cho rằng: “Thái độ là một sự sẵn sàng phản ứng bị quy định và có tính bắt

buộc nào đó, nảy sinh trong những nhóm nhất định và trong những tình

huống cụ thể”. Các tác giả còn giải thích thêm “về mặt lượng cũng như về

mặt nội dung, sự sẵn sàng này phụ thuộc không những vào chủ thể hữu quan

mà trước hết là một hiện tượng tâm lý xã hội, phụ thuộc vào khuynh hướng

của cá nhân, là gắn liền với các chuẩn mực của nhóm” [17].

Quan điểm trên cũng được thể hiện trong quan điểm của các nhà Tâm

lý học Việt Nam về thái độ, cụ thể là: “Thái độ là sự sẵn sàng ổn định của cá

nhân để phản ứng, ứng với một tình huống gắn liền với cá nhân đó” [36].

14

Hay “thái độ là một bộ phận cấu thành đồng thời là một thuộc tính cơ bản

của ý thức hoặc thái độ được hiểu là một thiên hướng tương đối ổn định để

phản ứng theo một cách thức cụ thể đối với một khách thể có liên quan” [8].

Kế thừa có chọn lọc các định nghĩa thái độ đã phân tích, khi định nghĩa

thái độ cần chú ý một số điểm sau: thái độ không phải là một trạng thái vô

thức mà là trạng thái tâm lý có ý thức, thái độ có tác dụng định hướng và ảnh

hưởng tích cực tới hành động của chủ thể và thái độ có ba mặt biểu hiện: nhận

thức, xúc cảm và hành động.

Từ những phân tích trên, khái niệm thái độ được hiểu trong đề tài là:

Thái độ là trạng thái tâm lý có ý thức, định hướng, tích cực với đối tượng

được thể hiện qua nhận thức, xúc cảm và hành động.

* Đặc điểm của thái độ:

Thái độ là một trạng thái tâm lý có ý thức của chủ thể đối với một đối

tượng. Khi chủ thể tỏ thái độ của mình với đối tượng, nghĩa là họ đã có những

nhận thức nhất định về đối tượng đối với khả năng điều chỉnh hành động của

mình theo nhận thức đó.

Thái độ có tính định hướng: Khi chủ thể có một thái độ nào đó với đối

tượng họ sẽ hướng suy nghĩ, xúc cảm và hành động của mình theo một hướng

nhất định với đối tượng đó.

Thái độ có tính tích cực: Tính tích cực của thái độ được thể hiện ở sự

ảnh hưởng của thái độ với hành động. Đó là sự chủ động, làm chủ trong suy

nghĩ và hành động của mình. Khi chủ thể có thái độ với một đối tượng nào

đó, họ sẽ nhận thức nhận định và đánh giá tích cực về ý nghĩa, tầm quan trọng

của đối tượng đó; thể hiện xúc cảm tích cực đối với đối tượng đó, và đặc biệt

họ sẽ có hành động tích cực tác động vào đối tượng đó nhằm thỏa mãn nhu

cầu của của bản thân mình.

Ngoài những đặc điểm trên thái độ còn có một số đặc điểm như: tính

năng động, tính tự giác, tính bền bỉ, tính sẵn sàng [2].

* Biểu hiện của thái độ

15

Thái độ là một hiện tượng tâm lý có cấu trúc phức tạp. Muốn biết biểu

tượng tâm lý này được biểu hiện ở đâu cần làm rõ thành phần cấu trúc của nó.

Năm 1942 nhà tâm lý học M.Smith đã chỉ ra thành phần cấu trúc của

thái độ. Theo đó, thái độ có cấu trúc ba phần nhận thức, xúc cảm, và hành

động. Thành phần nhận thức được thể hiện ở sự nhìn nhận, quan điểm, đánh

giá của chủ thể với đối tượng của thái độ. Thành phần xúc cảm thể hiện sự

rung động, hài lòng, hứng thú của chủ thể đối với đối tượng. Thành phần hành

động thể hiện sự phản ứng của chủ thể đối với đối tượng của thái độ theo

hướng này hay hướng khác. Các thành tố này tùy theo từng đối tượng, tình

huống cụ thể mà giữ một vai trò khác nhau.

Các nhà tâm lý học Fishbein & Ajzen (1975), Rekeach (1968),

Rosenberg (1956) cũng đồng tình với quan điểm ba thành phần của thái độ

mà Smith đề xuất. Theo các tác giả này, thành phần nhận thức được thể hiện ở

các quan điểm của chủ thể với các thuộc tính của đối tượng thái độ. Thành

phần xúc cảm đó là sự rung động của chủ thể đối với đối tượng của thái độ.

Thường thì thành phần này biểu hiện ở sự yêu, ghét của chủ thể với đối

tượng. Thành phần thứ ba của thái độ là những hành động của chủ thể với đối

tượng của thái độ theo hướng này hay hướng khác. Ba thành phần của thái độ

có mối quan hệ mật thiết với nhau, trong đó thành phần nhận thức là cơ sở để

nảy sinh thành phần cảm xúc, cảm xúc lại làm ảnh hưởng ngược lại thành

phần nhận thức và hai thành phần này có tác dụng định hướng và điều chỉnh

hành vi.

Từ định nghĩa thái độ ở trên kết hợp với việc xem xét thành phần cấu

trúc của thái độ mà Smith đã đề xuất, chúng tôi cho rằng, thái độ được biểu

hiện ở ba mặt: nhận thức, xúc cảm và hành động.

Mặt nhận thức của thái độ thể hiện qua cách nhìn nhận, đánh giá, quan

điểm của chủ thể về đối tượng của thái độ.

Mặt xúc cảm của thái độ thể hiện qua những rung động, rung cảm,

hứng thú, say mê, yêu, ghét của chủ thể với đối tượng của thái độ.

16

Mặt hành động của thái độ thể hiện ở những hành động của chủ thể tác

động đến đối tượng của thái độ theo một hướng nào đó. Ba mặt biểu hiện này

có mối quan hệ tác động qua lại lẫn nhau, ràng buộc và bổ sung cho nhau.

1.1.2.2. Khái niệm thái độ học tập

Thái độ học tập là những suy nghĩ được biểu hiện ra bên ngoài bằng

các hoạt động đối với các môn học. Thái độ học tập của các chủ thể khác

nhau được thúc đẩy bằng động cơ học tập khác nhau, nó được coi là một

trong những biểu hiện của động cơ học tập.

Tác giả N.P.Levitop cho rằng: thái độ học tập tích cực của sinh viên

biểu hiện ở chỗ sinh viên chú ý, hứng thú và sẵn sàng gắng sức vượt qua khó

khăn. Tác giả đã phân tích tỉ mỉ những mặt biểu hiện này trên hành vi học tập

của sinh viên trong giờ học trên lớp cũng như tự học.

G.Witzlack đã phân tích thái độ học tập trong các hình thức học tập

khác nhau (thái độ học tập trên lớp, thái độ tự học trong giờ tự học). Trong

các hình thức học tập ấy, tác giả đưa ra những “điểm tựa” cho sự đánh giá thái

độ học tập như: sự nỗ lực nhận thức, sự sẵn sàng hết mình thực hiện những

nhiệm vụ học tập, đặt ra những yêu cầu cao về thành tích học tập của bản

thân, phản ứng với những thử nghiệm thành công hay thất bại trong học tập,

có tinh thần vận dụng kiến thức. Tác giả cũng đưa ra quan niệm riêng, hợp lý

về các nét biểu hiện cụ thể của từng điểm nói trên.

Đây là những nội dung chung nhất của thái độ học tập tích cực, bao

quát được tương đối đầy đủ mọi mặt biểu hiện của thái độ học tập. Trên cơ sở

những nội dung cơ bản này, tùy từng cấp học, môn học, hoàn cảnh cụ thể của

hoạt động học tập có thể vạch ra những nét biểu hiện cụ thể, tích cực cho từng

nội dung tiêu chuẩn đánh giá thái độ học tập sao cho phù hợp.

Như vậy, có một mức độ tương đồng cao giữa các ý kiến xác định

những mặt biểu hiện chủ yếu của thái độ học tập. Những biểu hiện này tồn tại

trong những hành vi học tập cơ bản của các hình thức học tập trên lớp, tự học

cũng không tồn tại độc lập với nhau mà đan xen, thâm nhập vào nhau tạo

17

thành một bức chân dung tương đối hoàn chỉnh về thái độ học tập với tư cách

một thuộc tính nhân cách của người học. Thái độ học tập chính là một thành

tố, một thuộc tính trọn vẹn của ý thức; học tập là yếu tố bên trong quy định xu

hướng tự giác, tích cực học tập (hoặc ngược lại) ở người học; được biểu hiện

ra bên ngoài thông qua nhận thức, xúc cảm - tình cảm và hành vi học tập của

người học.

1.1.2.3. Khái niệm thái độ học tập của sinh viên

Sinh viên là một tầng lớp xã hội, một tổ chức xã hội quan trọng đối với

mọi thể chế chính trị. Sinh viên là nhóm người có vị trí chuyển tiếp, chuẩn bị

cho một đội ngũ trí thức có trình độ và nghề nghiệp tương đối cao trong xã

hội. Họ sẽ là nguồn dự trữ chủ yếu cho đội ngũ những chuyên gia theo các

nghề nghiệp khác nhau trong cấu trúc của tầng lớp tri thức xã hội. Do đang

ngồi trên ghế nhà trường chưa hoàn toàn là một người tự lập về mọi mặt nên

họ cần được trang bị một hệ thống thái độ: thái độ với xã hội, tập thể, mọi

người, thái độ với môi trường sống, công việc và thái độ với chính bản thân.

Trong những thái độ trên thì thái độ làm việc (thái độ học tập) được coi là

quan trọng nhất.

S.Franz khi nghiên cứu về thái độ học tập và thái độ tập thể của sinh

viên đã đưa ra một tiêu chuẩn đánh giá cho hai thái độ này (những tiêu chuẩn

này đã được kiểm tra và thừa nhận có thể sử dụng rộng rãi).

Gần đây, khi bàn về việc đánh giá thực trạng thái độ học tập của học

sinh sinh viên, GS Huỳnh Đức Nhuận và PGS Lê Đức Phúc đã nêu ra những

chỉ số chú ý, hăng hái tham ra vào mọi hình thức của hoạt động học tập, hoàn

thành mọi nhiệm vụ được giao, học thêm và làm các bài tập khác, vận dụng

hay chuyển tải những gì đã học vào thực tế, hình thành và phát triển các quan

hệ thầy - trò, quan hệ bạn thân giúp bản thân học tập tốt hơn, chất lượng sản

phẩm, kết quả học tập.

Từ những quan niệm trên, có thể khẳng định: Thái độ học tập của sinh

viên là yếu tố tạo ra tính tích cực chủ động, sáng tạo trong học tập của sinh

18

viên, là trạng thái tâm lí chủ quan, sẵn sàng học tập và vận dụng những kiến

thức đã học vào giải quyết các tình huống nảy sinh trong xã hội, thái độ học

tập của sinh viên được biểu hiện thông qua nhận thức, xúc cảm - tình cảm và

hành vi học tập của sinh viên.

Thái độ học tập có vai trò quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả học

tập của sinh viên. Sinh viên chỉ có thể hiểu sâu sắc tài liệu học tập và biến nó

thành giá trị riêng nếu họ kiên trì và nỗ lực hoạt động trí tuệ để tự “khám phá”

phát hiện ra tri thức. Hoạt động học tập của sinh viên đòi hỏi tính năng động

và tính độc lập ở mức độ cao vì thế thái độ có ý thức của sinh viên đối với học

tập là rất quan trọng và cần được phát triển nhanh chóng. Thái độ học tập của

sinh viên đối với các môn học trở nên có sự lựa chọn ở sinh viên đã hình

thành những hứng thú học tập gắn liền với khuynh hướng nghề nghiệp. Khi

đã bước chân vào giảng đường đại học cao đẳng chính là lúc mà sinh viên đã

xác định cho mình một hứng thú ổn định với một lĩnh vực tri thức nhất định.

Hứng thú nhận thức của sinh viên mang tính rộng rãi sau và bền vững.

Thái độ học tập của sinh viên được thúc đẩy với nhiều động cơ có cấu

trúc khác nhau nhất là động cơ thực tiễn (ý nghĩa thực tiễn của môn học đối

với cá nhân và khả năng tiếp thu môn học ở sinh viên) động cơ nhận thức sau

đó là ý nghĩa xã hội của môn học, rồi mới đến động cơ cụ thể khác.

Nhưng ở không ít sinh viên thái độ học tập mang tính nhược điểm. Một

mặt, sinh viên rất tích cực và tập trung học một số môn học mà họ cho là quan

trọng đối với nghề mà họ đã chọn, mặt khác họ lại sao chăng các môn học

khác hoặc học chỉ để cho qua môn mà không phải thi lại. Thái độ học tập có ý

thức đã thúc đẩy sự phát triển tính chủ định của các quá trình nhận thức và

năng lực điều khiển bản thân của sinh viên trong hoạt động học tập.

Thái độ học tập của sinh viên phụ thuộc rất lớn vào chính bản thân họ.

Bởi vậy để đào tạo những sinh viên có ý thức xây dựng thói quen tự học, tự

nghiên cứu giáo trình, tài liệu, gắn lý thuyết với thực hành, phát huy tính tích

cực chủ động, sáng tạo biến quá trình đào tạo thành quá trình tự đào tạo, đòi

19

hỏi người giảng viên đại học phải hiểu rõ thái độ học tập là gì? Bản chất của

nó ra sao? Từ đó mà có biện pháp giáo dục phù hợp.

1.2. Thái độ học tập các môn Lý luận chính trị của sinh viên

1.2.1. Đặc diểm, vai trò của các môn Lý luận chính trị

Theo Quyết định số 52/2008/QĐ-BGDĐT của Bộ Giáo dục và Đào tạo,

các môn Lý luận chính trị bao gồm: Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác -

Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, Đường lối cách mạng của Đảng cộng sản Việt

Nam.

Môn Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin gồm những

quan điểm cơ bản, mang tính chân lý, bền vững của chủ nghĩa Mác - Lênin

trong phạm vi ba bộ phận lý luận cấu thành (Triết học Mác - Lênin, Kinh tế

chính trị Mác - Lênin, Chủ nghĩa xã hội khoa học). Môn học này được chia

thành ba phần:

- Phần thứ nhất: Thế giới quan, phương pháp luận triết học của chủ

nghĩa Mác - Lênin (gồm chủ nghĩa duy vật biện chứng, phép biện chứng duy

vật và chủ nghĩa duy vật lịch sử).

- Phần thứ hai: Học thuyết kinh tế của chủ nghĩa Mác - Lênin về phương

thức sản xuất tư bản chủ nghĩa (gồm học thuyết giá trị, học thuyết giá trị thặng

dư, học thuyết về chủ nghĩa tư bản độc quyền và chủ nghĩa tư bản độc quyền

Nhà nước).

- Phần thứ ba: Lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin về chủ nghĩa xã hội

(gồm sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân và cách mạng xã hội chủ nghĩa,

những vấn đề chính trị - xã hội có tính quy luật trong tiến trình cách mạng xã

hội chủ nghĩa, chủ nghĩa xã hội hiện thực và triển vọng).

Môn Tư tưởng Hồ Chí Minh gồm các nội dung: Đối tượng, phương

pháp nghiên cứu và ý nghĩa học tập Tư tưởng Hồ Chí Minh; cơ sở hình thành

và phát triển Tư tưởng Hồ Chí Minh; Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân tộc, cách

mạng giải phóng dân tộc; Tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội và con

đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam; Tư tưởng Hồ Chí Minh về

20

Đảng cộng sản Việt Nam; Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc và

đại đoàn kết quốc tế; Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ và xây dựng nhà

nước của dân do dân và vì dân; Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hoá, đạo đức

và xây dựng con người mới.

Môn học Đường lối cách mạng của Đảng cộng sản Việt Nam bao gồm

các nội dung: đối tượng, nhiệm vụ và phương pháp nghiên cứu của môn

Đường lối cách mạng của Đảng cộng sản Việt Nam; Sự ra đời của Đảng cộng

sản Việt Nam và cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng; Đường lối đấu tranh

giành chính quyền (1930 - 1945); Đường lối kháng chiến chống thực dân

Pháp và đế và đế quốc Mỹ (1945 - 1975); Đường lối công nghiệp hoá; Đường

lối xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; Đường lối

xây dựng hệ thống chính trị; Đường lối xây dựng, phát triển nền văn hóa và

giải quyết các vấn đề xã hội và Đường lối đối ngoại.

Như vậy, Các môn Lý luận chính trị là những môn học bắt buộc đối với

sinh viên tất cả các trường Đại học, góp phần cung cấp cho người học những

tri thức cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin và sự vận dụng những tri thức này

vào thực tiễn cách mạng Việt Nam của Hồ Chí Minh và Đảng cộng sản Việt

Nam, từ đó giúp cho người đọc có thế giới quan, phương pháp luận và nhân

sinh quan khoa học, có lý tưởng và niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng cộng

sản Việt Nam.

Nội dung của các môn lý luận chính trị là những vấn đề lý luận của chủ

nghĩa Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối cách mạng của Đảng

cộng sản Việt Nam. Đây là những vấn đề có tính lý luận và có tính trừu tượng

cao. Chính vì vậy, học tập các môn lý luận chính trị trước hết đòi hỏi người

học phải có sự nỗ lực cố gắng trong quá trình nhận thức và đặc biệt là sự nỗ

lực trong tư duy trừu tượng. Sự nỗ lực trong học tập các môn Lý luận chính

trị được thể hiện ở việc người học phải khắc phục những khó khăn trở ngại,

cố gắng hết mình trong quá trình thực hiện các nhiệm vụ học tập ở trên lớp

cũng như tự học ở nhà, làm bài tập cũng như đọc các tài liệu có liên quan đến

21

các môn Lý luận chính trị.

Mục đích của việc học tập các môn lý luận chính trị nhằm hình thành

thế giới quan phương pháp luận khoa học, lý tưởng và niềm tin vào chủ nghĩa

xã hội, sự lãnh đạo của Đảng. Vì vậy, trong quá trình học tập các môn này,

người học phải có thái độ phê phán những quan điểm lệch lạc, trái với quan

điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin, chủ nghĩa đường lối của Đảng về các vấn đề

tự nhiên, xã hội và con người. Thái độ phê phán được thể hiện trong những

tình huống mà người học gặp phải trong quá trình học tập và giao tiếp với

những người xung quanh.

Mặc dù các môn Lý luận chính trị là những môn học có nội dung rất

rộng và có tính trừu tượng cao nhưng do thời lượng giảng dạy các môn học

này hạn chế nên giảng viên không thể trình bày toàn bộ những nội dung này

trong các giờ học trên lớp. Vì vậy, việc tự học của người học giữ vị trí và vai

trò cực kỳ quan trọng trong quá trình tiếp thu tri thức, thêm vào đó việc tự học

của người học không được kiểm tra và giám sát thường xuyên, do đó, để có

thể tiếp thu được những nội dung đó đòi hỏi người học phải có có tính tự giác

cao hơn, có sự kiên trì lớn hơn so với việc học các môn học khác.

Các môn Lý luận chính trị là những môn học bắt buộc đối với sinh viên

tất cả các trường Đại học, sinh viên dù muốn hay không đều phải học tập các

môn học này. Đây cũng là những môn học mà nội dung mang tính trừu tượng.

Vì vậy trong quá trình học tập các môn Lý luận chính trị sinh viên cũng gặp

phải những khó khăn nhất định.

1.2.2. Một số yêu cầu đặt ra về thái độ học tập các môn Lý luận

chính trị của sinh viên

1.2.2.1. Động cơ học tập đúng

Động cơ học tập là yếu tố quan trọng quyết định chất lượng, hiệu quả

học tập của sinh viên. Động cơ học tập không có sẵn, không thể áp đặt mà

được hình thành trong quá trình học tập, rèn luyện. Trong quá trình đó, giảng

viên là người dẫn dắt, sinh viên phải tự hình thành mục đích, động cơ học tập

22

cho mình. Nhu cầu giải quyết mâu thuẫn “giữa một bên là “phải hiểu biết” và

bên kia là “chưa hiểu biết” (hoặc hiểu biết chưa đủ, chưa đúng)” là nguyên

nhân chính yếu để hình thành động cơ học tập ở sinh viên.

Ngoài ra, động cơ nói chung và động cơ học tập nói riêng thường liên

hệ mật thiết tới hứng thú của người học, mức độ đón nhận của người học đối

với môn học. Đối với các hoạt động nhận thức, sáng tạo, hoạt động học tập

nếu không có hứng thú sẽ làm mất đi động cơ, kết quả học tập sẽ không cao,

thậm chí xuất hiện cảm xúc tiêu cực. Nhờ có hứng thú mà động cơ ngày càng

mạnh mẽ. Vì thế, trong học tập chẳng những cần có động cơ đúng đắn mà còn

phải có hứng thú bền vững thì sinh viên mới có thể tiếp thu tri thức hiệu quả

nhất.

Ở các trường Đại học, Cao đẳng, các môn Lý luận chính trị là môn học

bắt buộc. Nó giữ vai trò quan trọng trong việc hình thành ở người học những

phẩm chất tốt đẹp; trực tiếp hình thành thế giới quan khoa học, nhân sinh

quan cách mạng, đạo đức trong sáng, niềm tin vững chắc và ý thức chấp hành

pháp luật cho thế hệ công dân của đất nước. Đây cũng là những môn học góp

phần đào tạo những người lao động mới vừa có tri thức khoa học, năng lực

hoạt động thực tiễn, phẩm chất chính trị, vừa có ý thức trách nhiệm với cá

nhân, gia đình và cộng đồng. Tuy nhiên, vẫn còn không ít sinh viên nhận thức

chưa đúng về tầm quan trọng cũng như ý nghĩa thực tiễn của những môn học

này. Đây cũng là nguyên nhân làm giảm hứng thú và động cơ học tập. Do đó,

việc xác định đúng động cơ học tập các môn Lý luận chính trị sẽ giúp định

hướng, kích thích, thúc đẩy và duy trì hoạt động học tập của sinh viên. Đối

với các môn Lý luận chính trị, động cơ học tập đúng có thể được xác định

trên các phương diện: học để nâng cao hiểu biết về Lý luận chính trị, học để

vận dụng vào thực tiễn và học để phục vụ cho nghề nghiệp và cuộc sống.

1.2.2.2. Chuyên cần học tập

Đa số các trường học hiện nay đều áp dụng phương pháp học đăng ký

tín chỉ. Tùy theo sở thích, điều kiện, cũng như quy định của nhà trường mà

23

sinh viên có thể chọn những môn học phù hợp với mình trong từng học kỳ.

Thông thường, từ năm thứ nhất đến năm thứ hai, sinh viên sẽ trang bị kiến

thức đại cương trong đó có các môn Lý luận chính trị: Những nguyên lý cơ

bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh và Đường lối cách

mạng của Đảng cộng Sản Việt Nam. Nhiều sinh viên tỏ thái độ rằng, những

môn học này không quan trọng, không liên quan đến chuyên ngành học của

mình nên rất lơ là, thậm chí rớt lại môn và phải học đi học lại rất nhiều lần.

Trong chương trình học đăng ký theo tín chỉ, sinh viên sẽ có khối lượng thời

gian tự học nhiều hơn, giảng viên góp phần định hướng, hướng dẫn hoạt động

đó. Do đó, không ít trường hợp sinh viên lười học, bỏ học và không chú ý

nghe giảng bài.

Các môn Lý luận chính trị cũng đánh giá điểm chuyên cần theo quy

định chung: gồm có đánh giá số giờ dự học trên lớp của sinh viên và ý thức

chuẩn bị bài, học tập của sinh viên. Sinh viên phải dự học đủ 80% số tiết của

học phần mới đủ điều kiện dự thi học phần đó. Trường hợp sinh viên nghỉ học

có lý do chính đáng hoặc được xác nhận của cố vấn học tập, lãnh đạo Khoa,

Trung tâm quản lý sinh viên (nghỉ trong phạm vi số tiết tối đa được phép

nghỉ).

Việc đánh giá chuyên cần cho sinh viên học tập các môn Lý luận chính

trị được xác định gồm cả phần chuyên cần và phần ý thức học tập dựa trên

các tiêu chí: đi học đều, chăm chú nghe giảng, ghi chép bài cẩn thận, hăng hái

phát biểu khi học tập và thực hiện các nhiệm vụ giảng viên giao. Sinh viên đạt

điểm chuyên cần cao sẽ là điều kiện, tiền đề cho việc tổng kết điểm của các

môn Lý luận chính trị đạt kết quả tốt, cũng góp phần vào kết quả học tập

trung bình của tất cả các môn học.

Vì vậy, ngay từ đầu học phần, giảng viên cần thông báo cho sinh viên

những quy định rõ ràng về môn học, trong đó có quy định về chuyên cần học

tập. Điều này sẽ giúp giảng viên đánh giá chuyên cần một cách khách quan,

24

công bằng với tất cả sinh viên.

1.2.2.3. Chủ động, tích cực học tập

Chủ động, tích cực là một hoạt động nhằm làm chuyển biến vị trí của

sinh viên từ thụ động sang chủ động, từ đối tượng tiếp nhận tri thức sang

chủ thể tìm kiếm tri thức để nâng cao hiệu quả học tập. Việc thay đổi vai trò

giảng viên và sinh viên sẽ góp phần nâng cao hiệu quả của quá trình dạy học

nhằm đáp ứng được yêu cầu dạy học trong giai đoạn phát triển mới, đặc biệt

đối với chương trình đào tạo Lý luận chính trị - một trong những chương

trình đào tạo thường được quan niệm là “khó”, khô khan, mang tính chất

đường lối, chính sách.

Quá trình chủ động, tích cực trong hoạt động học tập của sinh viên sẽ

góp phần làm cho mối quan hệ giữa dạy và học, giữa thầy và trò ngày càng

gắn bó và hiệu quả hơn. Đồng thời, nó cũng rèn luyện cho sinh viên tính tự

chủ, năng động, sáng tạo. Mặt khác, nó cũng là cầu nối quan trọng để người

thầy nhanh chóng phát hiện những quan niệm sai lệch của sinh viên, từ đó sẽ

có biện pháp kịp thời để khắc phục, uốn nắn những tư tưởng lệch lạc…

Tính tích cực, chủ động của sinh viên trong học tập các môn Lý luận

chính trị thể hiện ở chỗ:

- Sinh viên hưởng ứng và thấy rõ nhiệm vụ của mình trong thực hiện

những yêu cầu đặt ra ở mỗi tình huống học tập.

- Sinh viên chịu khó suy nghĩ trả lời câu hỏi, chăm chỉ, tự giác thực

hiện các hoạt động để có được các tri thức mới, nhận thức mới, kĩ năng mới.

- Quyết tâm hoàn thành công việc của mình, khi có điều kiện thì tương

trợ giúp đỡ các thành viên khác hoàn thành công việc.

Tính tích cực, tự giác học tập của sinh viên thể hiện ở sự tập trung chú

ý vào các vấn đề đang học, ở sự tự nguyện tham gia xây dựng bài, trả lời các

câu hỏi và yêu cầu của giảng viên hăng hái tham gia thảo luận, tranh luận,

đóng góp với giảng viên, với các bạn sinh viên những suy nghĩ về các vấn đề.

Tính tích cực còn được thể hiện ở sự kiên trì không nản chí trước những tình

25

huống khó khăn. Sinh viên không có tính tích cực thì gặp tình huống mới, vấn

đề mới, chưa suy nghĩ được bao nhiêu đã vội hỏi ý kiến người khác.

Tính tích cực, chủ động, tự giác là điều kiện cần để sáng tạo. Những

biểu hiện của sự sáng tạo là: biết nhìn nhận một sự vật theo một khía cạnh

mới, nhìn nhận một sự kiện mới dưới nhiều góc độ khác nhau; biết đặt ra

những giả thiết khi phải lí giải một hiện tượng, biết đề xuất những giải pháp

khác nhau khi xử lí một tình huống; không hoàn toàn bằng lòng với giải pháp

đã có; không suy nghĩ cứng nhắc theo những gì đã có; không máy móc áp

dụng những quy tắc, phương pháp đã biết vào những tình huống mới.

Đặc biệt, kiến thức các môn Lý luận chính trị luôn gắn liền với thực

tiễn. Vì vậy trong quá trình học tập bản thân mỗi sinh viên cần hình thành kỹ

năng phân tích, tổng hợp, so sánh và vận dụng kiến thức đã học vào giải thích

các hiện tượng của thực tiễn và vận dụng vào chính hoạt động học tập của bản

thân để đạt được kết quả học tập tốt nhất.

1.2.2.4. Tự học, tự nghiên cứu

Tự học có vai trò vô cùng quan trọng trong quá trình học tập theo hệ

thống tín chỉ của sinh viên ở các trường đại học hiện nay. Theo hình thức tín

chỉ thì sinh viên là trung tâm, ngoài kiến thức giảng viên truyền đạt trên lớp

thì sinh viên phải tự học, tự nghiên cứu thêm tài liệu. Việc tự học của sinh

viên giữ vai trò rất quan trọng, nó là nhân tố trực tiếp nâng cao chất lượng đào

tạo ở các trường đại học.

Tự học là một hoạt động độc lập chiếm lĩnh tri thức, kỹ năng, kỹ xảo, là

tự mình động não, suy nghĩ, sử dụng các năng lực trí tuệ cùng các phẩm chất

tâm lý để chiếm lĩnh tri thức một lĩnh vực hiểu biết nào đó hay những kinh

nghiệm lịch sử xã hội của nhân loại, biến nó thành sở hữu của chính bản thân

người học. Đây là một quá trình học tập tự giác, tích cực tự chiếm lĩnh tri thức

khoa học để tự hướng tới những mục đích nhất định. Tự học ở đây không phải

là tự học không có thầy, mà ở đây, vai trò của thầy là tổ chức, hướng dẫn sinh

viên phát huy khả năng tự tìm tòi, tự phát hiện vấn đề. Và tự học không có

26

nghĩa chỉ là việc học ngoài giờ lên lớp, mà tự học ở đây còn là hoạt động học

diễn ra trên lớp dưới sự hướng dẫn, tổ chức, chỉ đạo của người thầy.

Các môn Lý luận chính trị, khối lượng kiến thức nặng về lý thuyết và

chứa đựng nội dung dài. Nếu người dạy cố gắng truyền đạt cho bằng hết

những nội dung mà giáo trình trình bày thì sẽ dễ rơi vào thuyết trình thụ động

một chiều. Vì vậy, giảng viên dạy Lý luân chính trị cũng có vai trò rất to lớn

đối với quá trình tự học của sinh viên. Để khơi dậy năng lực tự học của sinh

viên và để quá trình đó được thực hiện có hiệu quả thì giảng viên cần:

- Thông báo đầy đủ cho sinh viên về đề cương chi tiết môn học, đặc

biệt, đề cương giới thiệu chi tiết các tài liệu học tập trong đó chỉ rõ giáo trình

chính và các tài liệu tham khảo phục vụ cho môn học. Điều đó tạo cho sinh

viên sắp xếp thời gian, nội dung học tập của mình, sinh viên chủ động lên kế

hoạch tự học, tự nghiên cứu để thực hiện các mục tiêu của môn học.

- Giảng viên cần phải tuân thủ theo đúng kế hoạch trong đề cương và

yêu cầu sinh viên nghiêm túc thực hiện đề cương này. Hướng dẫn cho sinh

viên chuẩn bị bài sắp học: Giảng viên thông báo nội dung vấn đề sẽ được tìm

hiểu trong buổi học tới, yêu cầu sinh viên đọc giáo trình, tài liệu tham khảo

trên cơ sở các câu hỏi gợi ý của giảng viên. Công việc hướng dẫn sinh viên

chuẩn bị bài giữ một vai trò quan trọng trong tự học của sinh viên, giúp họ có

kiến thức cơ bản về bài học, đủ tự tin để tham gia giải quyết vấn đề trong bài

học cùng với giảng viên và bạn bè trên lớp, đặc biệt là tự xác định được

những vấn đề cần tập trung nghe giảng và nêu được những ý kiến thắc mắc

nhằm hiểu sâu kiến thức trong bài học. Giảng viên thiết kế giờ dạy để tạo

hứng thú cho sinh viên, kích thích tính tích cực hoạt động cùng với giảng viên

trong giờ học.

- Hướng dẫn sinh viên làm các bài tập nghiên cứu, đây là việc nhằm phát

huy cao nhất ý thức tự học của sinh viên, đồng thời tạo hứng thú và óc sáng tạo.

Đồng thời, giảng viên phải kiểm tra, đánh giá hoạt động tự học của sinh viên.

Bên cạnh đó, sinh viên chính là chủ thể của hoạt động học tập các môn

27

Lý luận chính trị. Muốn phát huy được tính tích cực, sáng tạo của bản thân thì

người học cần xác định được mục đích tự học, động cơ tự học. Sinh viên

phải lập kế hoạch tự học trong đó có việc xác định thời gian tự học các môn

Lý luận chính trị. Đồng thời, phải xây dựng được nội dung tự học các môn

Lý luận chính trị như: đọc tài liệu và chuẩn bị bài trước khi đến lớp; học và

làm bài tập về nhà theo vở ghi và giáo trình; học và làm bài tập về nhà theo

vở ghi và giáo trình kết hợp với tài liệu tham khảo; chủ động phát hiện và

tìm cách lấp chỗ hổng trong kiến thức của mình, sử dụng thư viện, internet,

và phương tiện truyền thông khác để bổ sung thêm kiến thức đã học trên lớp;

tự tổ chức việc học tập ngoài giờ lên lớp (học nhóm); hệ thống hóa, tóm tắt

các nội dung đã được học; tự làm đề cương ôn tập… Như vậy, để đạt hiệu

quả tự học các môn Lý luận chính trị cao nhất, cần có sự phối hợp tích cực

giữa giảng viên và sinh viên.

Tiểu kết chương 1

Qua nghiên cứu đề tài thái độ học tập những môn Lý luận chính trị của

sinh viên trường đại học Nội vụ Hà Nội, trong chương 1 nhóm nghiên cứu đã

làm rõ được một số vấn đề như nhau:

Trên cơ sở đánh giá những ưu, nhược điểm của một số khái niệm,

nhóm nghiên cứu đã làm rõ được khái niệm hoạt động học tập, khái niệm thái

độ, thái độ học tập và khái niệm thái độ học tập của sinh viên, đặc điểm hoạt

động học tập của sinh viên.

Về thái độ học tập các môn Lý luận chính trị của sinh viên nhóm

nghiên cứu đã làm rõ đặc điểm, vai trò của các môn Lý luận chính trị, đồng

thời cũng làm rõ được đâu là động cơ học tập đúng; chuyên cần học tập; chủ

28

động, tích cực học tập; tự học, tự nghiên cứu.

Chương 2

THÁI ĐỘ HỌC TẬP CÁC MÔN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

CỦA SINH VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC NỘI VỤ HÀ NỘI

- THỰC TRẠNG VÀ NGUYÊN NHÂN

2.1. Đặc điểm sinh viên Trường Đại học Nội vụ Hà Nội

Trường Đại học Nội vụ Hà Nội là một trong những nơi đào tạo cán bộ,

công chức có uy tín trong hệ thống giáo dục và đào tạo của cả nước. Tiền thân

trường Đại học Nội Vụ chính là Trường Trung học Văn thư - Lưu trữ. Được

thành lập theo Quyết định số 109/BT ngày 18/12/1971 của Bộ trưởng Phó

Thủ tướng, với nhiệm vụ chính là đào tạo cán bộ trung học chuyên nghiệp của

ngành Văn thư, Lưu trữ; Bồi dưỡng, huấn luyện nghiệp vụ chuyên môn cho

cán bộ đang làm công tác văn thư, lưu trữ ở các cơ quan nhà nước

Trước nhu cầu về nguồn nhân lực của xã hội, Quyết định số 3225/QĐ-

BGD&ĐT-TCCB được ban hành ngày 15/6/2005 về việc dựa trên cơ sở

Trường Trung học Văn thư Lưu trữ Trung ương I tiến hành thành lập Trường

Cao đẳng Văn thư Lưu trữ Trung ương I.

Ngày 21/4/2008, Trường Cao đẳng Văn thư Lưu trữ Trung ương I được

đổi tên thành Trường Cao đẳng Nội vụ Hà Nội theo Quyết định số 2275/QĐ -

BGDĐT của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo và trường trở thành đơn vị sự

nghiệp trực thuộc Bộ Nội vụ vào ngày 12/6/2008.

Trải qua các thời kỳ phát triển, đến ngày 14/11/2011 Trường Đại học

Nội Vụ Hà Nội được thành lập theo Quyết định số 2016/QĐ-TTg của Thủ

tướng Chính phủ và được đặt tại số 36 phố Xuân La, phường Xuân La, quận

Tây Hồ, thành phố Hà Nội.

Với 49 năm truyền thống và phát triển, Nhà trường có sứ mệnh mang

đến cơ hội học tập cho mọi người với chất lượng tốt, nhiều hình thức đào tạo,

đa ngành, đa cấp độ, đáp ứng yêu cầu nguồn nhân lực của ngành Nội vụ nói

riêng và cho xã hội nói chung, phục vụ sự nghiệp xây dựng, phát triển đất

29

nước và hội nhập quốc tế. Mục tiêu phát triển của Trường là đến năm 2025

trở thành trường Đại học đa ngành, đa lĩnh vực có uy tín trong nước và khu

vực quốc tế. Để thực hiện tốt sứ mệnh cao cả đó, trong những năm qua

Trường Đại học Nội vụ Hà Nội không ngừng đầu tư cơ sở vật chất, tăng

cường đội ngũ cán bộ, giảng viên có trình độ chuyên môn, đổi mới phương

pháp giảng dạy, phát triển chương trình đào tạo, nâng cao chất lượng hiệu quả

công tác nghiên cứu khoa học, hợp tác quốc tế, đẩy mạnh ứng dụng công

nghệ thông tin, đơn giản hóa các thủ tục hành chính.

Nhà trường hiện đang có 8 khoa, đang tổ chức quản lý và đào tạo 18

ngành nghề chương trình Đại học: Quản trị nhân lực; Quản trị văn phòng;

Luật; Ngành Luật - Chuyên ngành Thanh tra; Quản lý nhà nước; Chính trị

học; Chuyên ngành Chính sách công; Lưu trữ học; Chuyên ngành Văn thư –

Lưu trữ; Quản lý văn hóa; Chuyên ngành Quản lý di sản văn hóa và phát triển

du lịch; Văn hóa học; Chuyên ngành Văn hóa Du lịch; Chuyên ngành Văn

hóa Truyền thông; Thông tin - thư viện; Chuyên ngành Quản trị thông tin;

Xây dựng Đảng và chính quyền nhà nước; Hệ thống thông tin. Nhà trường

tuyển sinh với đa dạng phương thức xét tuyển; xét tuyển học bạ, xét tuyển

bằng cách lấy điểm kỳ thi trung học phổ thông Quốc gia, với đầy đủ các tổ

hợp môn như: A01 (Toán, Vật lí, Tiếng Anh); A00 (Toán, Vật lí, Hóa học);

C00 (Ngữ văn, Lịch sử, Địa lí); D01 (Ngữ văn, Toán, Tiếng Anh); C19 (Ngữ

văn, Lịch sử, Giáo dục công dân); C20 (Ngữ văn, Địa lí, Giáo dục công dân);

D15 (Ngữ văn, Địa lí, Tiếng Anh); A10 ( Toán, Lý, Giáo dục công dân); D90

(Toán, Khoa học tự nhiên, Tiếng Anh)

Chương trình giáo dục đào tạo của Trường được thiết kế khoa học bao

gồm các khối kiến thức giáo dục đại cương, khối kiến thức giáo dục chuyên

nghiệp nhằm trang bị cho người học kiến thức, kỹ năng cần thiết để hòa nhập,

thích ứng nhanh với công việc và cuộc sống. Nhà trường luôn tạo mọi điều

kiện để sinh viên được học tập và phát huy khả năng, sự sáng tạo cá nhân

nhằm đạt thành tích tốt nhất. Môi trường học tập tại Trường Đại học Nội vụ

30

Hà Nội không những mang đến cho sinh viên sự hứng thú, say mê với ngành

học đã lựa chọn mà còn nuôi dưỡng niềm tin và khát vọng.

Sinh viên Trường Đại học Nôi vụ Hà Nội vừa mang đầy đủ những đặc

điểm chung của sinh viên Việt Nam, cũng vừa mang những nét riêng đặc thù.

Sinh viên trúng tuyển nguyện vọng vào trường Đại học Nội vụ Hà Nội chủ

yếu thuộc khối C và D. Sinh viên đến từ các tỉnh khác nhau trên cả nước

nhưng khu vực miền núi phía Bắc chiếm tỷ lệ không nhỏ, tập trung ở các

ngành Quản lý nhà nước, Chính trị học và rải rác ở các ngành khác. Sinh viên

ở ký túc không nhiều do số lượng phòng có hạn, đôi khi phải dành cho đối

tượng sinh viên ưu tiên. Vì vậy đa số sinh viên phải thuê phòng trọ quanh khu

vực trường.

Đồng thời, sinh viên Trường Đại học Nội vụ Hà Nội còn được tham gia

vào các hoạt động tập thể của Đoàn trường, các cuộc thi, tham dự các hội thảo

đối thoại sinh viên, tuần công dân đầu khóa, nghiên cứu khoa học… Thông

qua các Câu lạc bộ trong trường: Câu lạc bộ Nghệ thuật, Câu lạc bộ “Acoustic

music”, Câu lạc bộ tiếng Anh, Câu lạc bộ IT - E, Câu lạc bộ võ thuật… đã tạo

cơ hội để sinh viên phát huy khả năng, sở trường của mình.

Bên cạnh đó, họ còn có tuổi đời khá trẻ, thường từ 18 đến 25 tuổi, chưa

định hình rõ rệt về nhân cách, ưa các hoạt động giao tiếp, có tri thức đang

được đào tạo chuyên môn. Sinh viên vì thế dễ tiếp thu cái mới, thích cái mới,

thích sự tìm tòi và sáng tạo. Đây cũng là tầng lớp xưa nay vẫn khá nhạy cảm

với các vấn đề chính trị - xã hội, đôi khi cực đoan nếu không được định

hướng tốt.

Một bộ phận nhỏ sinh viên Nội vụ khá năng động biểu hiện là sinh viên

vừa đi học vừa đi làm (làm thêm bán thời gian, hoặc là thành viên chính thức

của một cơ quan, công ty), hình thành tư duy kinh tế trong thế hệ mới (thích

kinh doanh, muốn tự mình lập công ty ngay khi đang còn là sinh viên), thể

hiện sự tích cực chủ động (tham gia phong trào tình nguyện). Có nhiều sinh

viên cùng một lúc học hai trường để mở rộng tư duy và vốn hiểu biết, tạo cơ

31

hội việc làm rộng mở cho sau này. Một số sinh viên có tính chủ động khá cao,

giỏi trong công tác chỉ huy nhóm. Nhiều sinh viên tự ý thức cao về bản thân

mình và muốn thể hiện vai trò cá nhân. Dường như có sự đề cao lợi ích hơn

nghĩa vụ cá nhân. Vì thế trong một tập thể, họ là những người nổi trội về năng

lực nhưng không thể hòa đồng cùng với các sinh viên khác.

Những đặc điểm nói trên của sinh viên Trường Đại học Nội vụ Hà Nội

cũng ảnh hưởng không nhỏ đến thái độ học tập các môn Lý luận chính trị.

2.2. Thực trạng thái độ học tập các môn Lý luận chính trị của sinh

viên trường Đại học Nội vụ Hà Nội

Theo chương trình đào tạo của Trường Đại học Nội vụ Hà Nội, các

môn Lý luận chính trị thuộc khối Kiến thức đại cương. Để đảm bảo tính

khách quan, nhóm nghiên cứu đã tiến hành gửi phiếu điều tra thu thập thông

tin tới sinh viên năm thứ hai và năm thứ ba của trường (đối tượng sinh viên

đang học và đã học xong chương trình các môn Lý luận chính trị theo Quyết

định số 52/2008/QĐ-BGDĐT của Bộ Giáo dục và Đào tạo). Do quá trình hoàn

thành đề tài trong thời kỳ dịch bệnh Covid-19 nên nhóm nghiên cứu sử dụng

hình thức điều tra bằng phiếu điện tử. Về đối tượng điều tra, đảm bảo có sự

tham gia trả lời của đại diện sinh viên tất cả các Khoa: Quản trị nhân lực,

Quản trị văn phòng, Quản lý xã hội, Văn thư lưu trữ, Hành chính học, Khoa

học chính trị, Pháp luật hành chính, Tổ chức và xây dựng chính quyền.

Trong tổng số các bạn sinh viên được hỏi, có 55% là sinh viên năm thứ

hai tham gia trả lời, 45% là sinh viên năm thứ ba. Số sinh viên nữ tích cực

tham gia trả lời hơn chiếm tỷ lệ 65%, số sinh viên nam tham gia trả lời là

32

35%.

45%

55%

Bạn là sinh viên năm thứ? Năm thứ 3 Năm thứ 2

35%

65%

Nam

Sơ đồ 1: Cơ cấu sinh viên tham gia trưng cầu ý kiến

Nữ

Giới tính

Sơ đồ 2: Tỷ lệ sinh viên nam nữ tham gia trưng cầu ý kiến

Nhóm nghiên cứu tập trung phân tích thực trạng thái độ học tập các

môn Lý luận chính trị của sinh viên trường Đại học Nội vụ Hà Nội trên 4 nội

dung sau: Xác định động cơ học tập, mức độ chuyên cần học tập, thái độ chủ

động tích cực học tập và thái độ tự học, tự nghiên cứu.

2.2.1. Xác định động cơ học tập

Việc xác định động cơ học tập của sinh viên gắn liền với việc xác đinh

tầm quan trọng của việc học tập các môn Lý luận chính trị. Khi hỏi “Bạn

33

đánh giá thế nào về tầm quan trọng của các môn Lý luận chính trị đối với bản

thân”, kết quả nhóm nghiên cứu thu được như sau:

Đối với học phần Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin

(HP1), có 6% sinh viên cho rằng đây là môn học không quan trọng; 11% sinh

viên đánh giá đây là môn học chỉ quan trọng một chút; có 26% sinh viên phân

vân và cho đây là môn học nửa quan trọng, nửa không quan trọng, có 47%

sinh viên lại cho rằng đây là môn học khá quan trọng, còn lại là 10% đánh giá

đây là môn rất quan trọng.

Đối với học phần Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin

(HP2), có 7% sinh viên cho rằng đây là môn học không quan trọng; 13% sinh

viên đánh giá đây là môn học chỉ quan trọng một chút; có 26% sinh viên phân

vân và cho đây là môn học nửa quan trọng, nửa không quan trọng, có 41%

sinh viên lại cho rằng đây là môn học khá quan trọng, còn lại là 13% đánh giá

đây là môn rất quan trọng.

Đối với học phần Tư tưởng Hồ Chí Minh, có 2% sinh viên cho rằng

đây là môn học không quan trọng; 11% sinh viên đánh giá đây là môn học chỉ

quan trọng một chút; có 16% sinh viên phân vân và cho đây là môn học nửa

quan trọng, nửa không quan trọng, có 46% sinh viên lại cho rằng đây là môn

học khá quan trọng, còn lại là 25% đánh giá đây là môn rất quan trọng.

Đối với học phần Đường lối cách mạng của Đảng cộng sản Việt Nam,

có 2% sinh viên cho rằng đây là môn học không quan trọng; 10% sinh viên

đánh giá đây là môn học chỉ quan trọng một chút; có 15% sinh viên phân vân

và cho đây là môn học nửa quan trọng, nửa không quan trọng, có 47% sinh

viên lại cho rằng đây là môn học khá quan trọng, còn lại là 26% đánh giá đây

là môn rất quan trọng.

Như vậy, với câu hỏi này chúng ta xác định được hầu hết tất cả sinh

34

viên đều ý thức được tầm quan trọng của các môn Lý luận chính trị.

47%

47%

50%

46%

45%

41%

40%

35%

Không quan trọng

30%

26%

26%

26%

25%

25%

Chỉ quan trọng 1 chút

20%

16%

15%

13%

13%

15%

11%

11%

10%

10%

Phân vân(nửa quan trọng, nửa không quan trọng)

7%

10%

6%

Khá quan trọng

2%

2%

5%

0%

Rất quan trọng

Tư tưởng HCM

Đường lối cách mạng của ĐCSVN

Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác- Lênin1

Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác- Lênin2

Biểu đồ 3: Tầm quan trọng của các môn Lý luận chính trị

Trên cơ sở xác định tầm quan trọng của các môn Lý luận chính trị,

khi được hỏi “Xin bạn cho biết, động cơ học tập các môn Lý luận chính trị

của bạn”, kết quả nhóm nghiên cứu thu được như sau: Có 36% cho biết động

cơ của khi học các môn Lý luận chính trị để nâng cao hiểu biết về Lý luận

chính trị; 19% học để vận dụng vào thực tiễn; 21% học để phục vụ cho nghề

nghiệp vào cuộc sống; 22% học theo chương trình đào tạo; 2% học để đối

phó.

Như vậy, thông qua kết quả số liệu điều tra, có thể thấy rõ được rằng đa

phần sinh viên đều có ý thức được rằng khi học các môn Lý luận chính trị để

nâng cao hiểu biết cho bản thân mình và để vận dụng vào thực tiễn, còn lại thì

35

phần lớn các bạn chỉ học để cho đủ chương trình đào tạo.

Động cơ học tập các môn LLCT của sinh viên

2%

Học để nâng cao hiểu biết về LLCT

Học để vận dụng vào thực tiễn 22% 36%

21%

Học để phục vụ cho nghề nghiệp vào cuộc sống Học theo chương trình đào tạo 19%

Học để đối phó

Sơ đồ 4: Động cơ học tập các môn Lý luận chính trị

2.2.2. Mức độ chuyên cần học tập

Đánh giá và khảo sát về thái độ chuyên cần học tập các môn Lý luận

chính trị, nhóm nghiên cứu xem xét trên 2 phương diện: mức độ đón nhận

việc học tập các môn Lý luận chính trị và mức độ chuyên cần học tập các

môn Lý luận chính trị.

Khi được hỏi “Xin bạn cho biết, mức độ đón nhận việc học tập các

môn Lý luận chính trị của bạn”, kết quả nhóm nghiên cứu thu được như sau:

Có 29% sinh viên có tâm lý hứng thú học tập các môn Lý luận chính trị; 28%

sinh viên có tâm lý lo lắng, căng thẳng khi học các môn Lý luận chính trị; 9%

sinh viên sợ hãi, chán nản khi học các môn Lý luận chính trị; 4% sinh viên

thờ ơ với việc học các môn Lý luận chính trị; 29% sinh viên khó đánh giá

được việc đón nhận học tập các môn Lý luận chính trị của bản thân. Đặc biệt

có 1 sinh viên hứng thú khi học tập các môn Lý luận chính trị, nhưng lại xen

lẫn cả tâm lý căng thẳng khi học những môn này.

Như vậy qua kết quả có thể dễ dàng nhận thấy phần lớn các bạn sinh

viên có 3 thái độ cơ bản khi đón nhận các môn Lý luận chính trị trong học tập.

36

Hầu hết các bạn đều có tâm lý chung là hứng thú học tập các môn Lý luận

chính trị, đôi khi các bạn còn có lo lắng, căng thẳng khi học tập các môn Lý

luận chính trị, cũng có nhiều bạn ở ý kiến trung lập khi khó đánh giá việc đón

1%

29%

29%

4%

9%

28%

Hứng thú học tập các môn LLCT Lo lắng, căng thẳng khi học các môn LLCT Sợ hãi, chán nản khi học các môn LLCT Thờ ơ với việc học các môn LLCT Khó đánh giá

Hứng thú, căng thẳng khi học các môn LLCT

nhận của bản thân đối với môn học này.

Mức độ đón nhận việc học tập các môn LLCT của sinh viên

Sơ đồ 5: Mức độ đón nhận việc học tập các môn Lý luận chính trị

Khi được hỏi “Xin bạn cho cho biết, mức độ chuyên cần học tập các

môn Lý luận chính trị của bạn được biểu hiện ở những mặt nào trong các

biểu hiện dưới đây”, kết quả nhóm nghiên cứu thu được như sau:

Đối với mức độ đánh giá qua việc đi học đều: Có 90% sinh viên thường

xuyên đi học đều; 7% sinh viên có tần suất thi thoảng đi học đều; còn lại 3%

sinh viên đi học không đều.

Đối với mức độ đánh giá qua việc bỏ tiết: Có 2% sinh viên thường

xuyên bỏ tiết, 14% sinh viên thi thoảng bỏ tiết, còn lại 84% sinh viên không

bao giờ bỏ tiết.

Đối với mức độ đánh giá qua việc chăm chú nghe giảng: 58% sinh viên

thường xuyên chăm chú nghe giảng; 37% sinh viên thi thoảng nghe giảng; số

ít 4% sinh viên không bao giờ nghe giảng.

Đối với mức độ đánh giá qua việc ghi chép cẩn thận: Có 63% sinh viên

37

thường xuyên ghi chép bài cẩn thận; 33% sinh viên thi thoảng ghi chép bài

cẩn thận; 3% sinh viên không bao giờ ghi chép bài cẩn thận.

Đối với mức độ đánh giá qua việc hăng hái phát biểu khi học tập: Có

21% sinh viên thường xuyên hăng hái phát biểu khi học tập; 71% sinh viên thi

thoảng hăng hái phát biểu; 8% sinh viên không bao giờ phát biểu.

Như vậy, thông qua các mức độ đánh giá, có thể thấy đa số sinh viên

đều đã ý thức được việc đi học đều, không bỏ tiết, chăm chú nghe giảng, ghi

chép cẩn thận bài, còn về vấn đề phát biểu ý kiến thì phần đông sinh viên có

câu trả lời là thi thoảng mới phát biểu chứ không thực sự thường xuyên. Đây

cũng là một trong những vấn đề lớn của đa số sinh viên nói chung? Là do các

bạn ngại phát biểu hay thầy cô chưa thật sự dễ dàng trao đổi, tương tác với

sinh viên để sinh viên có thể tích cực tham gia phát biểu bài hơn?

90% 84%

71% 63% 58%

Thường xuyên 38% 33% Thi thoảng 21% Không bao giờ 14% 8% 7% 4% 4% 3% 2%

100% 90% 80% 70% 60% 50% 40% 30% 20% 10% 0%

Bỏ tiết Chăm

Đi học đều Ghi chép cẩn thận Hăng hái phát biểu

chú nghe giảng

Biểu đồ 6: Mức độ chuyên cần học tập các môn Lý luận chính trị

2.2.3. Chủ động, tích cực học tập

Đánh giá về mức độ chủ động tích cực, khi được hỏi “Xin bạn cho cho

biết, mức độ chủ động, tích cực học tập các môn Lý luận chính trị của bạn

được biểu hiện ở những mặt nào trong các biểu hiện dưới đây”, kết quả nhóm

nghiên cứu thu được như sau:

38

Đối với mức độ đánh giá thông qua việc trả lời câu hỏi của giảng viên:

Có 28% sinh viên thường xuyên, tích cực trả lời câu hỏi của giảng viên đưa ra

trong quá trình học tập; 67% sinh viên thi thoảng tham gia trả lời câu hỏi; còn

lại 5% sinh viên không bao giờ tham gia trả lời câu hỏi của giảng viên khi đưa

ra.

Đối với mức độ đánh giá về việc chủ động nêu vấn đề: Có 12% sinh

viên thường xuyên chủ động nêu vấn đề với giảng viên; 66% sinh viên thi

thoảng mới chủ động trong việc nêu vấn đề; 23% sinh viên còn lại các bạn

không bao giờ chủ động nêu vấn đề.

Đối với mức độ đánh giá về việc thuyết trình cá nhân: Có 18% sinh

viên thực hiện thường xuyên việc thuyết trình cá nhân; 63% sinh viên thi

thoảng mới thuyết trình cá nhân, còn lại là 19% sinh viên không bao giờ thực

hiện việc thuyết trình cá nhân.

Đối với mức độ đánh giá về mức độ hỏi những vấn đề khi không hiểu

của các bạn sinh viên: Có 22% sinh viên thường xuyên hỏi thầy cô khi không

hiểu các vấn đề của môn Lý luận chính trị trong học tập; 59% sinh viên thi

thoảng mới hỏi thầy cô khi gặp các vấn đề không hiểu; còn lại 19% sinh viên

không bao giờ hỏi những vấn đề mà các bạn không hiểu.

Đối với mức độ đánh giá về việc thảo luận, tranh luận của sinh viên: Có

34% sinh viên thường xuyên thảo luận, tranh luận với thầy cô trong khi học

tập; 57% sinh viên thi thoảng mới tham gia tranh luận, thảo luận các vấn đề

liên quan đến các môn Lý luận chính trị; 9% sinh viên không tham gia vào

hoạt động thảo luận, tranh luận.

Như vậy qua kết quả điều tra có thể thấy, hầu hết các bạn sinh viên đều

đã và có ý thức trong học tập, các bạn là những người có tư duy tốt, nhưng

việc mức độ chủ động học tập các môn Lý luận chính trị của các bạn chỉ diễn

ra ở mức độ thi thoảng, chứ không được thường xuyên. Vậy nguyên nhân là

do đâu? Vì sao sinh viên lại không thể thường xuyên tích cực, chủ động hơn

39

trong việc học các môn Lý luận chính trị.

80%

67%

66%

70%

63%

59%

57%

60%

50%

40%

Thường xuyên

34%

28%

Thi thoảng

30%

23%

22%

Không bao giờ

19%

19%

18%

20%

12%

9%

10%

5%

0%

Chủ động nêu vấn đề

Thuyết trình cá nhân

Hỏi khi không hiểu

Thảo luận, tranh luận

Trả lời câu hỏi của giảng viên

Sơ đồ 7: Mức độ chủ động, tích cực học tập các môn Lý luận chính trị

2.2.4. Tự học, tự nghiên cứu

Để đánh giá và khảo sát về thái độ tự học, tự nghiên cứu, nhóm nghiên

cứu xem xét trên 2 phương diện: thời gian tự học và các nôi dung tự học, tự

nghiên cứu.

Khi được hỏi “Xin bạn cho cho biết, thời gian tự học các môn Lý luận

chính trị của bạn được biểu hiện ở những mặt nào trong các biểu hiện dưới

đây”, kết quả nhóm nghiên cứu thu được như sau:

Đối với mức thời gian hơn 5 tiếng/1 tuần: Có 7% sinh viên thường

xuyên duy trì mức học này; 44% sinh viên thi thoảng mới học hơn 5 tiếng/1

tuần; còn lại 49% sinh viên không bao giờ học 5 tiếng/1 tuần đối với các môn

Lý luận chính trị.

Đối với mức thời gian hơn 3-5 tiếng/1 tuần: Có 13% sinh viên thường

xuyên học trong khoảng thời gian này; 52% sinh viên thi thoảng mới học 3-5

tiếng/1 tuần; 35% sinh viên không bao giờ học từ 3-5 tiếng/1 tuần.

Đối với mức thời gian hơn 2-3 tiếng/1 tuần: Có 12% sinh viên duy trì

thời gian học khoảng thời gian này trong 1 tuần; 58% sinh viên thi thoảng học

khoảng 2-3 tiếng/tuần; còn lại là 30% sinh viên không bao giờ học được 2-3

40

tiếng/tuần.

Đối với mức thời gian hơn dưới 2 tiếng/1 tuần: Có 19% sinh viên

thường xuyên học duy trì mức học dưới 2 tiếng/ tuần; 55% sinh viên thi

thoảng học được dưới 2 tiếng/ tuần; còn lại là 26% sinh viên không bao giờ

học dưới thời gian này.

Đối với mức thời gian chỉ học trước đi thi: Có 34% sinh viên thường

xuyên chỉ học trước khi thi; 38% sinh viên thi thoảng học trước khi thi; còn

27% sinh viên không bao giờ học trước khi thi.

Như vậy, qua kết quả điều tra có thể thấy rằng, về thời gian tự học các

môn Lý luận chính trị với mức độ thường xuyên thì chủ yếu các bạn sinh viên

có tâm lý chỉ học trước khi thi là cao nhất, số ít sinh viên có học dưới 2

tiếng/1 tuần, còn các thời gian tự học các môn Lý luận chính trị trên 2 tiếng

thì các bạn giảm dần về mức độ thường xuyên. Các bạn sinh viên dành thời

gian cho việc học các môn Lý luận chính trị chủ yếu là thi thoảng, nhiều nhất

70%

58%

60%

55%

52%

49%

50%

44%

38%

40%

35%

34%

Thường xuyên

30%

27%

30%

26%

Thi thoảng

19%

Không bao giờ

20%

13%

12%

7%

10%

0%

3-5 tiếng/ 1 tuần

2-3 tiếng/1 tuần

Hơn 5 tiếng/1 tuần

Dưới 2 tiếng/ 1 tuần

Chỉ học trước khi thi

là thi thoảng trong khoảng 2-3 tiếng.

Biểu đồ 8: Thời gian tự học các môn Lý luận chính trị

Khi được hỏi “Xin bạn cho cho biết, các hoạt động tự học các môn Lý

luận chính trị của bạn được biểu hiện ở những mặt nào trong các biểu hiện

41

dưới đây”, kết quả nhóm nghiên cứu thu được như sau:

70%

60%

60%

60%

52%

51%

50%

50%

49%

45%

50%

43%

41%

37%

36%

36%

40%

29%

26%

30%

24%

23%

19%

18%

20%

13%

11%

11%

10%

6%

10%

Thường xuyên

0%

Thi thoảng

Không bao giờ

Tự làm đề cương ôn tập

Hệ thống hóa, tóm tắt các nội dung đã được học

Đọc tài liêu và chuẩn bị bài trước khi đến lớp

Học và làm bài tập về nhà theo vở ghi và giáo trình

Học, làm bài tập về nhà kết hợp với tài liệu tham khảo

Tự tổ chức việc học tập ngoài giờ lên lớp (học nhóm)

Chủ động phát hiện và tìm cách lấp chỗ hổng trong kiến thức của mình

Sử dụng thư viện, internet, và phương tiện truyền thông khác để bổ sung thêm kiến thức đã học trên lớp

Biểu đồ 9: Các hoạt động tự học các môn Lý luận chính trị

Đối với hoạt động đọc tài liệu và chuẩn bị bài trước khi đến lớp: Có

29% sinh viên thường xuyên duy trì hoạt động này; 60% sinh viên thi thoảng

làm hoạt động này; còn lại 11% sinh viên không bao giờ đọc tài liệu và chuẩn

bị bài trước khi đến lớp.

Đối với hoạt động chủ động học và làm bài tập về nhà theo vở ghi và

giáo trình: Có 51% sinh viên thường xuyên chủ động và làm bài tập về nhà

theo vở ghi giáo trình; 43% sinh viên thi thoảng làm hoạt động này; còn lại

6% sinh viên không làm gì cả.

Đối với hoạt động học, làm bài tập về nhà kết hợp với tài liệu tham

khảo: Có 41% sinh viên thường xuyên học và làm bài tập có xem thêm tài

liệu tham khảo; 49% sinh viên thi thoảng có làm bài kết hợp với tài liệu tham

khảo; còn lại 10% sinh viên không bao giờ làm.

Đối với hoạt động chủ động phát hiện và tìm cách lấp chỗ hổng trong

kiến thức của mình: Có 23% sinh viên thường xuyên duy trì hành động tự học

này; 60% sinh viên thi thoảng mới thực hiện; còn lại là 18% sinh viên không

42

làm.

Đối với hoạt động sử dụng thư viện, internet và phương tiện tuyền

thông khác để bổ sung thêm kiến thức đã học trên lớp: Có 36% sinh viên duy

trì hoạt động này; 52% sinh viên chỉ thi thoảng làm; còn lại 11% sinh viên

không bao giờ thực hiện hoạt động này.

Đối với hoạt động tự tổ chức việc học tập ngoài giờ lên lớp (học

nhóm): Có 13% sinh viên có mức độ thường xuyên có những hoạt động tự tổ

chức việc học tập ngoài giờ; 50% sinh viên chỉ thi thoảng làm hoạt động này;

còn lại 37% sinh viên không bao giờ tự tổ chức học tập ngoài giờ đối với

những môn Lý luận chính trị.

Đối với hoạt động hệ thống hóa, tóm tắt các nội dung đã được học: Có

24% sinh viên thường xuyên tham gia hoạt động này; 50% sinh viên chỉ thi

thoảng mới tự tóm tắt lại nội dung đã học; còn lại 26% sinh viên không muốn

thực hiện việc này.

Đối với hoạt động tự làm đề cương ôn tập: Có 36% sinh viên vẫn

thường xuyên tự làm đề cương ôn tập cho bản thân trong quá trình học tập

cũng như thi cử; 45% sinh viên thi thoảng vẫn tự làm đề cương ôn tập cho

mình; còn lại 19% sinh không bao giờ tự làm đề cương cho bản thân.

Như vậy, có thể thấy rằng, đa số đối với các hoạt động tự học của sinh

viên đa số dừng lại ở mức độ thi thoảng mới làm chứ chưa thật sự làm thường

xuyên và đều đặn. Đó chính là lý do tại sao môn học này lại có tỷ lệ sinh viên

điểm thấp, trượt môn, hay học lại cải thiện nhiều trong khi điểm hệ số tích lũy

của các bạn khá cao.

2.3. Đánh giá thực trạng thái độ học tập các môn Lý luận chính trị

của sinh viên trường Đại học Nội vụ Hà Nội

2.3.1. Ưu điểm

Đa số sinh viên đều nhận thức được tầm quan trọng của các môn Lý

luận chính trị. Gần 50% sinh viên đánh giá đây là những môn học khá quan

43

trọng.

Đa số sinh viên đều ý thức được rằng khi học các môn Lý luận chính trị

để nâng cao hiểu biết (36%); Phần lớn sinh viên có tâm lý chung hứng thú khi

học tập các môn Lý luận chính trị; 90 % sinh viên đi học đều; 84% sinh viên

không bao giờ bỏ tiết; 58% sinh viên thường xuyên chăm chú nghe giảng;

63% sinh viên thường xuyên ghi chép bài cẩn thận; 71% sinh viên thi thoảng

hăng hái phát biểu ý kiến; 67% sinh viên chủ động, tích cực học tập các môn

Lý luận chính trị; 58% sinh viên thi thoảng học 2-3 tiếng/ tuần; 60% sinh viên

thi thoảng đọc tài liệu, chuẩn bị bài, chủ động lấp chỗ hổng kiến thức của

mình.

Như vậy, trong học tập các môn Lý luận chính trị, đa số sinh viên đã

thể hiện sự chủ động, tích cực của bản thân nhằm đạt được kết quả học tập

cao nhất. Sinh viên luôn có tinh thần ham học hỏi, ham tìm tòi khám phá tiếp

thu những kiến mới, tìm hiểu cập nhật những công nghệ hiện đại trao dồi

hoàn thiện bản thân.

Sinh viên nhà trường cũng thể hiện sự kết hợp hài hoà giữa thời gian

học tập, tham gia các hoạt động ngoại khoá cũng như làm thêm tạo nên một

tinh thần tự lập, ý thức cao có trách nhiệm trong công việc.

Sinh viên dám nghĩ dám làm, dám chịu thử thách, đưa ra các ý tưởng

sáng tạo trong quá trình học tập, thậm chí nêu các ý kiến phản biện trong các

buổi thảo luận các môn Lý luận chính trị, nhất là phản biện về các vấn đề

chính trị - xã hội.

2.3.2. Hạn chế

Một bộ phận sinh viên không đề cao tính quan trọng của môn học này

Đối với tất cả các học phần môn học Lý luận chính trị đều có một bộ

phận sinh viên coi đây là môn học không quan trọng (4% sinh viên cho đây là

môn học không quan trọng), học chỉ để đối phó hay học theo chương trình

đào tạo. Đa số sinh viên coi môn học Lý luận chính trị chỉ quan trọng một

chút (11% sinh viên cho đây là môn học chỉ quan trọng một chút), với mục

44

tiêu học chỉ để qua môn. Rất ít sinh viên coi đây là môn học rất quan trọng,

học để nâng cao hiểu biết và vận dụng vào thực tế.

Sinh viên không thường xuyên học tập các môn Lý luận chính trị

Số sinh viên không đón nhận việc học các môn Lý luận chính trị chiếm

tỉ lệ rất cao, do tâm lý lo lắng, căng thẳng khi học các môn học này. Có một

bộ phận không nhỏ sinh viên có thái độ thờ ơ đối với môn học, dẫn đến tình

trạng một số sinh viên thường xuyên bỏ tiết hoặc bỏ học học phần khi học các

môn Lý luận chính trị.

Mức độ chủ động của một số sinh viên còn yếu kém

Tình trạng sinh viên chủ động đối với môn học còn rất hạn chế, đa số

sinh viên khi giảng viên hỏi đến nội dung các môn Lý luận chính trị, các nội

dung liên quan, sinh viên mới trả lời; hoàn toàn không có sự chủ động.

Ít có biểu hiện tự học, tự nghiên cứu các môn Lý luận chính trị

Các hoạt động tự học của sinh viên không diễn ra, hoặc tần suất rất ít.

Sinh viên rất hạn chế trong hoạt động lên thư viện tìm tài liệu các môn Lý

luận chính trị. Sự chủ động tìm kiếm tài liệu liên quan để bổ sung thêm kiến

thức các môn Lý luận chính trị là không có. Các thiết bị điện tử, phương tiện

truyền thông chưa được sinh viên tận dụng hiệu quả trong môn học.

2.3.3. Nguyên nhân

Một bộ phận sinh viên xác định động cơ học tập chưa đúng đắn

Sinh viên là người giữ vai trò quyết định kết quả hoạt động của bản

thân. Do vậy, những yếu tố tâm lý ở bản thân người học là ảnh hưởng trực

tiếp đến thái độ học tập của họ. Trong các yếu tố chủ quan ảnh hưởng đến thái

độ học tập của sinh viên có nhu cầu học tập, động cơ học tập và mục đích học

tập, kỹ năng học tập,… trong đó, động cơ học tập là yếu tố tác động, ảnh

hưởng trực tiếp nhất.

Động cơ học tập của sinh viên là yếu tố tâm lý phản ánh đối tượng có

khả năng thỏa mãn nhu cầu của sinh viên, nó định hướng, thúc đẩy và duy trì

45

hoạt động học tập của sinh viên nhằm chiếm lĩnh đối tượng đó.

Trong hoạt động học tập của sinh viên, nhờ có động cơ học tập, sinh

viên tiếp cận với đối tượng nhằm thỏa mãn nhu cầu học tập của mình, đồng

thời định hướng tư duy, tình cảm và hành động của bản thân mình. Chính vì

vậy, cùng với nhu cầu học tập, động cơ học tập là tiền đề, là điều kiện cho sự

hình thành thái độ học tập. Như vậy, thái độ học tập là biểu hiện trực tiếp của

động cơ học tập và ngược lại, động cơ học tập là tiền đề, là điều kiện cho sự

hình thành thái độ học tập của sinh viên. Nếu trong quá trình học tập, sinh

viên có động cơ học tập đúng đắn họ sẽ có thái độ học tập tích cực với các

môn học và ngược lại.

Về phía giảng viên

Giảng viên là người giữ vai trò quan trọng trong quá trình học tập của

sinh viên và có ảnh hưởng lớn đến thái độ học tập của sinh viên. Những giảng

viên có nhân cách trong sáng, có trình độ chuyên môn vững vàng, có kiến

thức thực tiễn, có kỹ năng xây dựng mối quan hệ giao tiếp sư phạm, nhiệt tình

trong quá trình giảng dạy là người có khả năng thái độ học tập cho sinh viên.

Ngược lại, những giảng viên có trình độ chuyên môn hạn chế, năng lực sư

phạm kém, thiếu kiến thức thực tiễn…sẽ làm cho sinh viên chán nản trong

quá trình học, không tập chung chú ý nghe giảng, không hoàn thành các

nhiệm vụ học tập được giao về nhà.

Phương pháp dạy học là hệ thống cách thức tổ chức giảng dạy của

giảng viên và cách thức học tập của sinh viên phù hợp với nguyên tắc chung

nhằm giúp sinh viên đạt được mục tiêu học tập của mình. Hiện nay, đa số

phương pháp dạy học được chia làm 3 nhóm: nhóm phương pháp dạy học

dùng lời ( thuyết trình, phương pháp dùng giáo trình và tài liệu khác, phương

pháp vấn đáp), nhóm phương pháp dạy học trực quan và nhóm phương pháp

dạy học thực tiễn (làm thí nghiệm, luyện tập, ôn tập). Ở trường Đại học Nội

vụ Hà Nội, giảng viên thường sử dụng linh hoạt các phương pháp dạy học để

phát huy tính tích cực học tập của sinh viên nhằm giúp sinh viên đạt được

46

mục tiêu học tập của mình. Phương pháp dạy học không những đóng vai trò

quan trọng đối với kết quả học tập của sinh viên mà nó còn làm xuất hiện

thái độ học tập và động cơ học tập đúng đắn. Người giáo viên có phương

pháp dạy học hợp lý, dễ hiểu, gần gũi là cơ sở để sinh viên tiếp thu nội dung

bài học nhanh hơn và do đó sinh viên sẽ có thái độ học tập tích cực hơn.

Ngược lại, nếu giáo viên giảng dạy chỉ theo phương pháp giảng dạy truyền

thống, thầy đọc trò ghi sẽ làm cho sinh viên thụ động, chây lười và từ đó có

thái độ chán nản, tiêu cực trong quá trình học tập.

Thực tiễn giảng dạy các môn Lý luận chính trị cho thấy, đây là môn

học có ít tài liệu dạy học trực quan, ít có những phim ảnh thực tiễn giống như

những môn khoa học khác. Vì vậy, trong quá trình giảng dạy các môn học

này, một giáo viên thường sử dụng những phương pháp dạy học truyền thống

là chủ yếu, điều này làm cho ảnh hưởng không nhỏ đến thái độ học tập của

sinh viên, làm cho sinh viên không hứng thú, không say mê với môn học này.

Điều kiện học tập

Hoạt động học tập của sinh viên có những đặc thù nhất định so với hoạt

động học tập của học sinh. Sinh viên phải tiếp thu lượng kiến thức rộng, cả

những kiến thức chung và những kiến thức chuyên ngành, cả những kiến thức

lý thuyết và những kiến thức thực hành…. Vì vậy, hoạt động học tập của sinh

viên có tính chất căng thẳng hơn so với hoạt động học tập của học sinh. Do

tính chất căng thẳng của hoạt động học tập nên đòi hỏi phải có những điều

kiện vật chất để phục vụ hoạt động học tập cho sinh viên như thư viện, hệ

thống giáo trình, tài liệu tham khảo, phương thức thực hành, phương thức dạy

học… Điều kiện cơ sở vật chất càng hiện đại càng tạo điều kiện cho sinh viên

học tập và nghiên cứu khoa học. Việc đáp ứng những điều kiện học tập về

mặt vật chất sẽ kích thích sinh viên học tập, lĩnh hội tri thức.

Bên cạnh những điều kiện về mặt vật chất, những điều kiện về mặt tinh

thần cũng như sự quan tâm của nhà trường, giáo viên chủ nhiệm, bầu không

khí học tập của tập thể đều là nguyên nhân ảnh hưởng đến hoạt động học tập

47

của sinh viên, trong đó có thái độ học tập. Cụ thể là, nếu điều kiện học tập tốt

sinh viên sẽ tích cực hơn trong quá trình học tập và ngược lại.

Nội dung môn học

Nội dung môn học là hệ thống những tri thức, kỹ năng, kỹ xảo tương

ứng mà sinh viên cần phải lĩnh hội. Môn học nào có nội dung dễ hiểu, đi sâu

vào thực tiễn, có tính ứng dụng cao thì môn học đó sẽ làm cho sinh viên có

thái độ học tập tích cực và ngược lại, môn học Lý luận chính trị có nội dung

trừu tượng, khó hiểu, khó nhớ… cũng là nguyên nhân làm cho sinh viên chán

nản, không có thái độ tích cực trong quá trình học tập.

Điều kiện ăn, ở, sinh hoạt

Sinh viên Đại học Nội vụ Hà Nội là những người đến từ nhiều vùng

miền khác nhau tập trung lại để học tập tại trường. Khi vào đại học, phần lớn

sinh viên phải sống xa gia đình. Họ ở trong ký túc xá hoặc thuê trọ ở ngoài.

Ngoài giờ học, sinh viên còn phải tự chăm lo bản thân, tự lo cho việc ăn, ở,

nghỉ ngơi của mình. Một số sinh viên do hoàn cảnh gia đình khó khăn nên

phải làm thêm nhiều công việc làm thêm khác nhau để kiếm tiền trang trải

cho cuộc sống… Tất cả những việc này ít nhiều ảnh hưởng đến thái độ học

tập của sinh viên nhà trường.

Tiểu kết chương 2

Chương 2 tập trung nghiên cứu thực trạng thái độ học tập các môn Lý

luận chính trị của sinh viên trường Đại học Nội vụ Hà Nội. Trong quá trình

nghiên cứu thực trạng, nhóm tác giả đã sử dụng các phương pháp phân tích, tổng

hợp, điều tra bằng bảng hỏi, khảo sát phiếu điện tử; các phương pháp được tổ

chức thành từng giai đoạn từ điều tra phát hiện đến việc xử lý kết quả nghiên

cứu.

Về thực trạng thái độ học tập các môn Lý luận chính trị của sinh viên

trường Đại học Nội vụ Hà Nội được xác định trên 4 phương diện: động cơ

học tập; mức độ chuyên cần học tập của các bạn sinh viên; chủ động, tích cực

48

của các bạn trong học tập; việc tự học, tự nghiên cứu của các bạn sinh viên.

Nhóm nghiên cứu cũng chỉ ra hạn chế và nguyên nhân trong thái độ

học tập các môn Lý luận chính trị của sinh viên trường Đại học Nội vụ Hà

49

Nội làm tiền đề để đề xuất những giải pháp ở Chương 3.

Chương 3

MỘT SỐ GIẢI PHÁP KHẮC PHỤC HẠN CHẾ TRONG THÁI ĐỘ

HỌC TẬP CÁC MÔN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ CỦA SINH VIÊN

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NỘI VỤ HÀ NỘI

3.1. Nâng cao nhận thức của sinh viên về ý nghĩa của việc học tập

các môn Lý luận chính trị

Để hình thành động cơ học tập đúng đắn và tính tích cực học tập các

môn Lý luận chính trị cho sinh viên Trường Đại học Nội vụ Hà Nội thì phải

giúp sinh viên có nhận thức đúng đắn về môn học trên nhiều khía cạnh khác

nhau như ý nghĩa giáo dục, ý nghĩa khoa học, ý nghĩa thực tiễn.

Mỗi sinh viên cần có nhận thức đúng và đầy đủ hơn về các giá trị của

môn học Lý luận chính trị trên các mặt ý thức giáo dục. Chẳng hạn với môn

tư tưởng Hồ Chí Minh các bạn sinh viên có thể học tập được Người tinh thần

tự học. Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng, Người luôn nêu cao tinh

thần tự học, tự nghiên cứu, tự tìm tòi và phát triển những lý luận của chủ

nghĩa Mác - Lênin gắn với điều kiện cụ thể của cách mạng Việt Nam.

Ý thức khoa học: Không thể phủ nhận Chủ nghĩa Mác - Lênin là một

môn khoa học, trong nó chứa đựng những giá trị khoa học cả về lý luận và

thực tiễn. Do đó, việc nghiên cứu chủ nghĩa Mác - Lênin giúp cho sinh viên

có thế giới quan khoa học, nhận thức vấn đề phải đảm bảo tính biện chứng,

tránh phiến diện, một chiều.

Ý thức thực tiễn: Các môn Lý luận chính trị đều có xuất phát điểm là

các học thuyết và tư tưởng của những nhà nghiên cứu thực tiễn xuất sắc. Gần

nhất với chúng ta chính là Chủ tịch Hồ Chí Minh, với thực tiễn hoạt động của

mình trong 30 năm bôn ba tìm đường cứu nước đã trở về chỉ đạo cách mạng

Việt Nam giành được những thắng lợi quan trọng “lừng lẫy năm châu, chấn

động địa cầu”. Những tư tưởng đó của Hồ Chí Minh đã và sẽ là những giá trị

50

tinh thần vô giá của dân tộc.

Việt Nam đang tiến hành đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất

nước, xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với mục

tiêu là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội đang rất cần nguồn nhân

lực chất lượng cao đó là những con người có trình độ lý luận chính trị vững

vàng, phẩm chất đạo đức tốt, bên cạnh đó, có trình độ chuyên môn cao, năng

động, bản lĩnh…

Sinh viên cần chuẩn bị sẵn cho mình tâm thế trong quá trình học đại

học, không còn ở đó sự thụ động hay tự thỏa mãn với những gì mình đã đạt

được. Đây là môi trường mới, môi trường gắn với quá trình tự đào tạo, tự tìm

tòi, sáng tạo trên cơ sở sự định hướng của giảng viên hay các cố vấn học tập.

Chỉ có sự chuẩn bị tốt như trên thì nhận thức của sinh viên về các môn học

trong đó có các môn Lý luận chính trị mới đúng đắn và đầy đủ.

3.2. Đổi mới phương pháp dạy học theo hướng tích cực

Góp phần định hướng phương pháp học tập các môn Lý luận chính trị

phù hợp với sinh viên, nhóm nghiên cứu xin đề xuất một số biện pháp tâm lý

nhằm tích cực hóa hoạt động học tập các môn Lý luận chính trị của sinh viên.

Cụ thể là:

Thứ nhất, phát triển hứng thú, tính tự giác học tập các môn lý luận

chính trị của sinh viên.

Tính tích cực của sinh viên đặc trưng ở khát vọng hiểu biết, cố gắng về

trí tuệ và có nghị lực cao trong quá trình chiếm lĩnh tri thức. Muốn vậy, giảng

viên cần phải:

Giúp sinh viên hiểu rõ tầm quan trọng, cấu trúc môn học lý luận chính

trị và cách thức để sinh viên học tập đạt kết quả tốt. Khi bắt đầu môn học,

giảng viên cần giúp sinh viên xác định đúng đắn các mục tiêu (kiến thức, kỹ

năng, thái độ) mà bản thân cần đạt được khi nghiên cứu môn học. Đồng thời,

giảng viên giới thiệu những nội dung cơ bản của môn học, cách thức phối hợp

của giảng viên và sinh viên trong quá trình dạy học nhằm đạt được những

51

mục tiêu đã đặt ra.

Chuẩn bị tài liệu phù hợp, kết hợp với những ví dụ thực tế để minh họa

cho việc ứng dụng các nguyên lý và lý thuyết. Một trong những nội dung

quan trọng của nguyên tắc dạy học các môn lý luận là phải chỉ ra nguồn gốc

của lý luận, phải lấy thực tiễn để minh chứng cho tính đúng đắn của lý luận;

giúp người học thấy được mối liên hệ giữa tri thức lý luận và thực tế cuộc

sống, biết vận dụng kiến thức lý luận vào giải quyết những vấn đề, các nhiệm

vụ nhận thức và trong thực tế đời sống. Dạy một bài học không có nghĩa là

yêu cầu sinh viên phải ghi nhớ toàn bộ các chi tiết mà chỉ cần lưu lại ở họ

những kiến thức cơ bản, quan trọng. Nhìn chung, lượng tri thức trong tài liệu

có thể chưa thể làm nổi bật hoặc khắc sâu những điều quan trọng cho sinh

viên, do vậy giảng viên cần đưa kiến thức ra khỏi trang sách. Sự vận dụng,

giải thích thực tế, chỉ ra các mối quan hệ sẽ giúp sinh viên hiểu rõ hơn, nắm

vững kiến thức cơ bản của bài học. Thông qua việc mở rộng, tinh lọc kiến

thức, sinh viên đã được rèn luyện thao tác tư duy.

Hướng dẫn sinh viên biến tài liệu dạy học thành tài liệu học tập cho

riêng mình. Điều này có được khi giảng viên giúp sinh viên hiểu bài tại lớp

dựa trên những nội dung cơ bản; đồng thời khuyến khích óc tò mò, ham hiểu

biết ở sinh viên bằng những câu hỏi có tính chất gợi mở làm sâu sắc thêm

hoặc rõ rang hơn vấn đề được đề cập trên lớp.

Thứ hai, kích thích tinh thần tự tìm tòi, khám phá tri thức, nghiên cứu

khoa học ở sinh viên.

Để có được hiệu quả lâu dài đối với tri thức, giảng viên phải giúp sinh

viên hiểu và kết hợp các nguyên tắc học tập độc lập với việc học tại trường, tự

tìm kiếm tri thức. Hình thức này được gọi là “học tự điều chỉnh”, bao gồm các

hoạt động tích cực, tự định hướng và tự chủ, các hoạt động học tập và nhận

thức về những bài tập trên lớp của từng sinh viên. Việc rèn luyện cho sinh

viên kĩ năng tự học là mẫu chốt trong việc tích cực hóa hoạt động học tập ở

họ. Phương pháp tự học có tác dụng bồi dưỡng năng lực tự học, làm cầu nối

52

giữa học tập và nghiên cứu khoa học của sinh viên. Các nghiên cứu tâm lý sư

phạm cho thấy, sinh viên tự giác học tập và học có hiệu quả khi tự bản thân

thấy hứng thú tìm tòi, học hỏi và có khả năng vượt qua những khó khăn trở

ngại để tự học thành công. Đặc biệt là với các môn lý luận chính trị - môn học

mang tính lý thuyết cao, kiến thức trừu tượng, hóc búa càng cần phải chú

trọng đến cách thức dạy học làm sao cho lôi cuốn sinh viên để hình thành ý

thức tự học cao. Tự học bắt đầu từ việc cá nhân sinh viên xem, nhìn, nghe,

đọc được những vấn đề sinh viên tiếp thu tri thức và phát triển phương pháp

tự học hiệu quả. Để đọc có hiệu quả, sinh viên rất cần sự hỗ trợ của giảng

viên. Giảng viên cần tường minh hóa các yêu cầu đọc, cụ thể đến các luận

điểm, sơ đồ, cấu trúc phát triển ý tưởng của chương, phần, mục,… trong sách.

Có rất nhiều cách đọc, mỗi cách đọc mang lại hiệu quả nhất định cho từng đối

tượng nên rất cần đến kinh nghiệm đọc, cần đến tư duy phản biện thường trực

trong sinh viên. Đọc như vậy là để rèn luyện tư duy phê phán, rèn trí sáng tạo.

Thứ ba, tăng cường sự hợp tác giữa giảng viên và sinh viên, giữa các

sinh viên với nhau.

Trong môi trường hợp tác, mỗi sinh viên sẽ tìm thấy lợi ích cho chính

mình và cho tất cả các thành viên trong lớp học, thúc đẩy sự ảnh hưởng lẫn

nhau trong tập thể. Một số hình thức dạy học giảng viên cần thực hiện:

Tạo cơ hội cho mọi sinh viên được tham gia nhiều vào các hoạt động

học tập. Giảng viên cần tạo ra sự tương tác trong suốt quá trình dạy học, tránh

giảng viên theo lối độc thoại sẽ gây nhàm chán, khó tập trung. Ngôn ngữ độc

thoại cũng nên được khuyến khích sử dụng trong giảng dạy. Nếu sử dụng

thuyết trình nên kết hợp với phương pháp dạy học khác hoặc dùng thuyết

trình nêu vấn đề.

Sinh viên được tạo điều kiện tối đa phát huy tính chủ động, sáng tạo,

năng lực tư duy thông qua các tình huống trong bài giảng. Ở phương pháp

này, sinh viên được đặt vào tình huống có vấn đề chứ không phải được giảng

viên thông báo dưới dạng tri thức có sẵn. Sinh viên tích cực, tự giác tham gia

53

hoạt động học, tự tìm ra tri thức phải biết, cần biết, có thể biết chứ không phải

được giảng viên giảng dạy một cách thụ động, sinh viên là chủ thể sáng tạo ra

việc học, hoạt động học. Sinh viên không những được nghiên cứu nội dung

bài giảng mà còn được học con đường và cách thức tiến hành để đạt được kết

quả đó. Phương pháp này tạo một môi trường cho phép sinh viên làm việc với

thành viên trong nhóm về các loại vấn đề có liên quan đến nghề nghiệp trong

tương lai, các kiến thức và kỹ năng giúp sinh viên giải quyết các vấn đề mà

nghề nghiệp đòi hỏi.

Rèn luyện tinh thần hợp tác, tăng cường trách nghiệm cá nhân trong tập

thể thông qua phương pháp làm việc nhóm. Sau khi xác định được vấn đề cần

nghiên cứu, giáo viên chia lớp thành nhiều nhóm nhỏ, giao nhiệm vụ cho từng

nhóm và yêu cầu các nhóm tiến hành thảo luận trong một thời gian hợp lý.

Lúc này, các thành viên trong nhóm phải tập hợp lại và thực hiện nhiệm vụ

theo một nguyên tắc nhất định đảm bảo hoàn thành đúng thời giản giảng viên

quy định. Cách làm này tạo sự phụ thuộc mang tính tích cực giữa các thành

viên trong nhóm, mỗi thành viên có cơ hội được bày tỏ ý kiến của bản thân và

có trách nhiệm chung với nhóm.

Rèn luyện cho sinh viên năng lực diễn đạt, tăng cường sự tự tin. Giảng

viên cho sinh viên cơ hội được trình bày ý kiến, quan điểm của cá nhân trong

các giờ thảo luận, báo cáo kết quả làm việc nhóm thông qua hình thức thuyết

trình, thậm chí có thể đặt sinh viên khá, giỏi vào vai trò của người điều hành,

điều phối các buổi thảo luận thay cho giảng viên.

Thứ tư, tạo ra và duy trì không khí dạy học tích cực.

Trong bất kỳ chương trình dạy học hay kế hoạch dạy học đều phải bảo

đảm sự thích ứng cho tất cả các đối tượng sinh viên khác nhau. Sự thích ứng

này phải dựa trên nền tảng của việc tìm hiểu thật kỹ tâm lý sinh viên, khả

năng, trình độ,… Do đó, việc lựa chọn nội dung, phương pháp dạy học cần

chú ý đạt mục tiêu phát triển, theo nguyên tắc cá thể hóa để bảo bảm phát huy

tính tích cực của sinh viên. Bên cạnh đó, để kích thích tư duy của sinh viên,

54

giảng viên cần tạo ra những tình huống có vấn đề. Kiến thức phải được trình

bày dưới dạng động, phát triển và mâu thuẫn với nhau, tập trung vào những

vấn đề then chốt, diễn ra với nhịp độ linh hoạt để tránh sự đơn điệu của các

kích thích. Việc sử dụng các sơ đồ, hình ảnh, clip… minh họa sẽ đảm bảo cho

sinh viên tiếp nhận những tri thức lý luận có tính trực quan, cụ thể và dễ hiểu

hơn. Các nội dung trình bày cần phân khúc thông tin bảo đảm tối đa khả năng

tập trung hiệu quả của sinh viên trong khoảng 15-20 phút. Cũng cần có những

khoảng trống để sinh viên suy nghĩ, trải nghiệm hay nghiền ngẫm khi cân

thiết. Đặc biệt với câu hỏi phát vấn, phạm vi thời gian chờ là khoảng 3-5 giây.

Điều này có nghĩa giảng viên cần học cách tạm dừng hay cho phép thời gian

chờ. Lưu ý nên hỏi những câu có tính chất tìm kiếm và ít nhắc lại câu trả lời

của sinh viên mà nên có nhận xét, đánh giá mang tính khuyến khích về những

ý kiến đó. Theo quy luật của tình cảm, sự hứng khởi của giảng viên sẽ lan tỏa

đến sinh viên, lòng nhiệt tình giảng dạy, sự quan tâm đến việc thúc đẩy động

lực học tập ở sinh viên sẽ tạo không khí sôi nổi của lớp học.

Chất lượng giảng dạy các môn lý luận chính trị được đánh giá thông

qua mức độ sinh viên đạt được các mục tiêu về kiến thức, kỹ năng và thái độ

môn học. Điều này chỉ có được khi giảng viên khuyến khích sinh viên muốn

học, biết cách học, kiên trì và tích cực học, học có kết quả. Vì thế, việc sử

dụng các phương pháp dạy học tích cực trong giảng dạy các môn lý luận

chính trị là yêu cầu không thể thiếu trong các trường đại học hiện nay.

3.3. Đổi mới phương pháp học tập phù hợp cho sinh viên

Hầu hết các trường Đại học, Cao đẳng đều quan tâm đến vấn đề đổi

mới phương pháp giảng dạy nói chung và các môn Lý luận chính trị nói riêng.

Để phương pháp giảng dạy của giảng viên phát huy được thái độ tích cực học

tập các môn Lý luận chính trị của sinh viên, nhóm nghiên cứu không bàn đến

các phương pháp tích cực đã được đề cập đến rất nhiều nữa. Bên cạnh những

phương pháp tích cực đó, người dạy cần tập trung mấy vấn đề sau:

Chú trọng xây dựng hệ thống tài liệu học tập, tài liệu tham khảo cho

55

từng môn học và hướng dẫn sinh viên đọc tài liệu.

Nâng cao khả năng tự học cho sinh viên đòi hỏi người thầy phải dành

sự quan tâm thích đáng cho hoạt động biên soạn tài liệu nghiên cứu, tham

khảo cho sinh viên. Đối với từng bài giảng, từng môn học cần phải có danh

mục và hệ thống tài liệu cụ thể, vừa sức với khả năng và thời gian học tập của

sinh viên. Trong đó cần có các tài liệu học tập do giảng viên dạy trực tiếp biên

soạn, bởi đây là dạng tài liệu thu hút sự quan tâm tự đọc của sinh viên nhiều

nhất. Cùng với việc giới thiệu tài liệu, giáo viên phải hướng dẫn cho sinh viên

cách đọc, hướng dẫn số trang cần đọc, cách tiếp cận tài liệu, hướng dẫn cách

khái quát rút ra nội dung cơ bản khi đọc,… để sinh viên có cơ hội tự giải

quyết các vấn đề đặt ra.

Trong các tài liệu học tập, việc xây dựng hệ thống ngân hàng câu hỏi,

bài tập, các chủ đề xêmina dưới dạng các tình huống có vấn đề có ý nghĩa hết

sức quan trọng. Khi gặp tình huống có vấn đề, sinh viên thường cố gắng tìm

cách tự giải quyết và đây chính là cơ sở thúc đẩy sự tìm tòi suy nghĩ, kích

thích tính tò mò khoa học trong sinh viên.

Hệ thống ngân hàng câu hỏi trắc nghiệm khách quan, trắc nghiệm tự

luận với các câu hỏi đề nằm trong chương trình học tập và mỗi câu hỏi là một

tình huống có vấn đề. Việc sử dụng hệ thống ngân hàng câu hỏi này trong

giảng dạy và học tập đã thật sự có tác dụng thúc đẩy sinh viên tự tìm tòi

nghiêm cứu và trao đổi nội dung khoa học. Các buổi học được sinh viên chú ý

hơn. Nhiều giờ giảng trở thành hoạt động trao đổi khoa học sôi nổi giữa thầy

và trò.

Cải tiến nâng cao chất lượng khâu thảo luận, tổ chức thảo luận.

Thảo luận là một hình thức tổ chức dạy học được thực hiện dưới sự

hướng dẫn và điều khiển của giáo viên để sinh viên vận động tìm tri thức và

trình bày vấn đề được nêu ra. Bởi vậy, tổ chức các cuộc tranh luận, trao đổi

dưới hình thức xêmina để sinh viên tự trình bày ý kiến là hoạt động rất quan

trọng giúp người học làm quen phương pháp tiếp cận, nghiên cứu một vấn đề

56

khoa học. Ngoài ra, trong khi tổ chức xêmina, người thầy có thể thấy rõ hơn

kết quả của quá trình dạy học của mình, thấy khả năng độc lập nghiên cứu của

từng sinh viên.

Để thực hiện tốt hoạt động này, cần có hệ thống câu hỏi hoặc vấn đề

gợi ý mang tính định hướng giúp sinh viên tập trung nghiên cứu, tự tìm hiểu

và giải quyết vấn đề đã nêu. Việc xây dựng câu hỏi dưới dạng tình huống có

vấn đề là hết sức quan trọng. Khi gặp những tình huống này, sinh viên thường

không thể tự giải quyết được bằng những tri thức đã biết hoặc không thể thực

hiện hành động bằng cách thức đã có từ trước. Điều này thúc đẩy sự phát triển

động lực bên trong của quá trình học tập.

Khi tổ chức thảo luận, giảng viên phải trở thành một cố vấn khoa học

để tổ chức hướng dẫn sinh viên tìm hiểu từng vấn đề đã nêu ra các giả định,

dự kiến các tình huống sinh viên có thể đưa ra giải đáp chính xác. Thực tế cho

thấy, nếu tổ chức tốt, tác dụng của hình thức này rất lớn, sinh viên rèn được

kỹ năng độc lập suy nghĩ, phát huy được tính sáng tạo trong việc tìm tòi tri

thức, phát triển khả năng nghiên cứu khoa học, khả năng trình bày trước tập

thể…

Do thời gian dành cho giảng dạy và học tập các môn khoa học Mác -

Lênin không nhiều, nếu bố trí số giờ tổ chức thảo luận nhiều sẽ không đủ thời

gian giảng trên lớp. Hơn nữa, những điều kiện khác cũng khiến cho hoạt động

xêmina trên lớp gặp không ít khó khăn như: số lượng sinh viên đông, phương

tiện vật chất thiếu thốn… Bởi vậy, ngoài việc cân nhắc, bố trí tỷ lệ thích hợp

giữa số giờ giảng lý thuyết và số giờ xêmina theo các đề tài khoa học, cần tổ

chức thêm các hình thức thảo luận khác, ví dụ dưới hình thức thi Olympic các

môn khoa học Mác - Lênin trong phạm vi các trường với phương hướng do

giảng viên nêu ra, sinh viên tự tổ chức theo kế hoạch, giáo viên bộ môn tham

gia ban giám khảo. Với hình thức mới này, cả lớp đều có điều kiện ôn bài,

luyện tập phương pháp tiếp cận giải quyết các tình huống và làm cho tính độc

57

lập sáng tạo được phát huy.

3.4. Đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu khoa học trong sinh viên

Kết hợp giữa học tập và nghiên cứu là một chủ trương thể hiện sự đổi

mới về tư duy trong quá trình dạy học. Thực hiện chủ trương này có tác dụng

rất lớn để biến quá trình đào tạo thành quá trình tự đào tạo và phát huy cao độ

tính tích cực sáng tạo của người học. Do đó, trong việc đổi mới phương pháp

dạy học, cần phải quan tâm tới những phương pháp dạy học có tác dụng nâng

cao khả năng nghiên cứu khoa học của sinh viên. Phải tổ chức và hướng dẫn

cho sinh viên tham gia nghiên cứu khoa học bằng nhiều hình thức khác nhau

từ thấp đến cao, từ đơn giản tới phức tạp nhằm từng bước rèn luyện khả năng

tư duy sáng tạo và trau dồi phương pháp luận nghiên cứu khoa học cho họ.

Trong quá trình dẫn dắt sinh viên làm quen với hoạt động nghiên cứu

khoa học, việc tạo ra những bước đi ban đầu rất có ý nghĩa quan trọng. Thời

gian học tập, nghiên cứu các môn Mác - Lênin chính là những bước đi quan

trọng đó. Vì vậy cần phải nghiên cứu để có những hình thức phù hợp với trình

độ, khả năng của sinh viên năm thứ nhất và năm thứ hai. Các đề tài nghiên

cứu dưới dạng tiểu luận, đề án môn học, các chuyên đề lý luận chính trị - xã

hội, các bài luận ngắn... là những hình thức bồi dưỡng trực tiếp, làm giàu kiến

thức cho sinh viên hiệu quả nhất.

Thực tế tại Đại học Nội vụ Hà Nội thời gian qua cho thấy, các cuộc thi

Olympic sinh viên nghiên cứu khoa học, tình hiểu các chủ đề chính trị - xã

hội... đã lôi cuốn sinh viên tham gia và trở thành phong trào khoa học nghiên

cứu rộng rãi. Nhiều vấn đề lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin được thấm

nhuần sâu sắc trong sinh viên thông qua hoạt động nghiên cứu khoa học dưới

sự hướng dẫn của người thầy. Rất nhiều sinh viên đã thật sự trưởng thành về

phẩm chất chính trị và khả năng nghiên cứu khoa học; tính tự giác, tích cực

học tập các môn khoa học Mác - Lênin được nâng lên rất rõ rệt.

Tiếp tục đổi mới toàn diện, sâu sắc nội dung, phương pháp dạy nhằm

nâng cao chất lượng học tập các môn khoa học Mác - Lênin là một xu thế tất

58

yếu trong các trường đại học, đặc biệt trong điều kiện đào tạo theo học chế tín

chỉ. Đây là việc làm thường xuyên, lâu dài và cần xác định đúng trọng tâm,

trọng điểm và lộ trình thích hợp. Để đạt được hiệu quả tích cực cần một sự

phấn đấu liên tục của thầy và trò, nhưng trước hết đòi hỏi sự nhiệt tình khoa

học và lòng say mê nghề nghiệp của mỗi giảng viên.

3.5. Tổ chức các hoạt động ngoại khóa, chuyên đề về các vấn đề

chính trị - xã hội

Buổi nói chuyện chuyên đề hay tổ chức các hoạt động ngoại khóa về

các vấn đề chính trị - xã hội là một nội dung có vị trí rất quan trọng, ý nghĩa

to lớn - là một diễn đàn khoa học để toàn thể cán bộ, giảng viên, sinh viên

trong trường Đại học Nội vụ Hà Nội được học tập, nghiên cứu, mở rộng kiến

thức trong các lĩnh vực mà nhà trường đang đào tạo. Nó không chỉ giúp cho

sinh viên phát triển nhanh về tư duy mà còn tạo cho sinh viên khả năng ứng

xử tốt, vận dụng kiến thức tổng hợp linh hoạt, biết cách củng cố, mở rộng và

nâng cao kiến thức, làm cho sinh viên hứng thú, yêu thích hơn môn học, đặc

biệt đối với những môn học Lý luận chính trị.

Trong bối cảnh quốc tế luôn biến động phức tạp, sâu sắc và khó lường,

xu thế toàn cầu hóa ngày càng lớn mạnh, các quốc gia, dân tộc đều tùy thuộc

lẫn nhau hợp tác cùng phát triển. Cách mạng khoa học công nghệ phát triển

mạnh mẽ, kinh tế tri thức ngày càng có vai trò nổi bật. Bên cạnh đó, nội dung

buổi nói chuyện chuyên đề là nguồn tư liệu vô cùng hữu ích đối với giảng

viên, sinh viên trường Đại học Nội vụ Hà Nội trong công tác giảng dạy, học

tập và nghiên cứu; giúp giảng viên và sinh viên nhà trường được mở rộng

hiểu biết, nâng cao trình độ trong nhận thức và tiếp cận với các vấn đề mới.

Thực hiện bằng cách: Xây dựng kế hoạch hoạt động ngoại khóa một

cách chi tiết, cụ thể, thông qua kế hoạch năm học và của từng khóa, từng đối

tượng và gắn với hoạt động kỷ niệm những ngày lễ lớn của nhà trường, của

dân tộc hay những ngày lễ đặc biệt liên quan đến sự kiện lịch sử có liên quan

đến các môn Lý luận chính trị. Tạo điều kiện cho sinh viên tham gia bàn bạc

59

nội dung, hình thức, phương pháp tổ chức trước khi tham gia các hoạt động,

điều này sẽ giúp cho sinh viên phát huy tính tích cực, độc lập, sáng tạo, tự

giác và có hứng thú khi tham gia các hoạt động. Cần có biện pháp kiểm tra,

theo dõi, đánh giá kết quả, khen thưởng, động viên kịp thời đối với những

sinh viên có thành tích tốt trong các hoạt động. Tăng cường vận động, thuyết

phục, kích thích lòng nhiệt tình và sự say mê hoạt động trong sinh viên, đồng

thời nghiêm khắc xử lý những đối tượng có hành vi chây lười, ỷ lại.... Đa

dạng hóa hình thức tổ chức hoạt động ngoại khóa. Xây dựng cơ chế phối hợp

giữa Trung tâm với địa phương và các đơn vị nhà trường khác để tổ chức hoạt

động ngoại khóa đạt hiệu quả cao

Tóm lại đây là một trong những giải pháp vô cùng hữu hiệu để nâng

cao thái độ học tập các môn Lý luận chính trị của sinh viên, đã và đang được

nhà trường thực hiện một cách vô cùng hiệu quả, cần được nhà trường tích

60

cực triển khai thực hiện.

Tiểu kết chương 3

Chương 3 nhóm tác giả đề tài đã đề xuất những giải pháp nhằm khắc

phục hạn chế trong học tập các môn Lý luận chính trị của sinh viên trường

Đại học Nội vụ Hà Nội. Bao gồm:

Nâng cao nhận thức của sinh viên về ý nghĩa của việc học tập các môn

Lý luận chính trị.

Định hướng phương pháp học tập phù hợp cho sinh viên.

Đổi mới phương pháp dạy học theo hướng tích cực.

Khuyến khích sinh viên làm đề tài nghiên cứu khoa học có liên quan

đến các môn Lý luận chính trị.

Nhà trường và các khoa chuyên môn tổ chức thường xuyên các buổi

61

nói chuyện chuyên đề về những vấn đề chính trị - xã hội.

KẾT LUẬN

Thái độ học tập các môn Lý luận chính trị của sinh viên trường Đại học

Nội vụ Hà Nội là trạng thái tâm lý có ý thức, định hướng, tích cực của sinh

viên đại học đối với hoạt động lĩnh hội tri thức cơ bản của chủ nghĩa Mác -

Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Đường lối cách mạng của Đảng cộng sản Việt

Nam. Thái độ học tập các môn Lý luận chính trị của sinh viên được biểu hiện

qua ba mặt nhận thức, xúc cảm và hành động. Trong đó, mặt nhận thức của

thái độ học tập các môn Lý luận chính trị được biểu hiện ở việc sinh viên

nhận thức được ý nghĩa, tầm quan trọng và nghiệm vụ học tập các môn môn

Lý luận chính trị; mặt xúc cảm thái độ học tập các môn Lý luận chính trị được

biểu hiện ở việc sinh viên yêu thích hay chán, ghét học tập các môn này; mặt

hành động của thái độ học tập các môn Lý luận chính trị biểu hiện ở sinh viên

thường xuyên hay không thường xuyên thực hiện các hành động học tập, sinh

viên có nỗ lực cố gắng hay không có cố gắng trong quá trình học tập.

Nghiên cứu về thực trạng thái độ học tập các môn Lý luận chính trị của

sinh viên Đại học Nội vụ Hà Nội cho thấy, thái độ học tập các môn Lý luận

chính trị của sinh viên có biểu hiện khá đa dạng. Trên bình diện nhận thức

thái độ học tập các môn Lý luận chính trị của sinh viên hiện nay ở mức tích

cực khá, biểu hiện là ở sinh viên đã nhận thức tích cực về phần quan trọng của

việc học tập các môn Lý luận chính trị. Trên bình diện xúc cảm, thái độ học

tập các môn Lý luận chính trị chỉ ở mức tích cực trung bình, biểu hiện là sinh

viên yêu thích một số nội dung của của các môn Lý luận chính trị nhưng còn

nhiều nội dung sinh viên vẫn chán, ghét, không muốn học. Trong khi đó, trên

bình diện hành động, thái độ học tập các môn Lý luận chính trị ở mức tích

cực thấp, biểu hiện là sinh viên chưa tích cực thực hiện các hành động học

tập, chưa có sự nỗ lực cố gắng trong quá trình học tập.

Thái độ học tập các môn Lý luận chính trị của sinh viên hiện nay chịu

ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố khác nhau nhưng trong đó động cơ học tập của

62

sinh viên và vai trò của giảng viên có tác động nhiều hơn cả đến vấn đề này.

Vì vậy, hình thành động cơ học tập cho người học, đổi mới phương pháp

giảng dạy theo hướng phát huy tính tích cực của sinh viên sẽ góp phần nâng

cao được thái độ học tập tích cực các môn Lý luận chính trị cho các bạn sinh

63

viên trường Đại học Nội vụ Hà Nội.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Đào Duy Anh (1957), Từ điển Hán Việt, Sài Gòn.

2. Hoàng Anh, Đỗ Thị Châu (2008), Tự học của sinh viên, Nhà xuất

bản Giáo dục, Hà Nội.

3. Phạm Ngọc Anh (chủ biên) (2010), Tư tưởng Hồ Chí Minh (giáo

trình), Nhà xuất bản chính trị Quốc gia, Hà Nội.

4. Báo cáo về Hội nghị Quốc tế GDĐH trong thế kỷ XXI: Tầm nhìn và

hành động, ngày 31 tháng 08 năm 1999.

5. Nguyễn Ngọc Bảo, Một vài suy nghĩ về khái niệm tính tích cực nhận

thức, tính độc lập nhận thức và mối liên hệ giữa chúng, Kỷ yếu hội thảo nhân

dịp kỷ niệm 30 năm thành lập Khoa tâm lý giáo dục Đại học Sư phạm Hà

Nội.

6. Phạm Khắc Cương (1997), Thực trạng và một số giải pháp giáo dục

đạo đức cho thanh niên sinh viên hiện nay. Tạp chí Đại học và giáo dục

chuyên nghiệp, số 2/1997.

7. Vũ Dũng (2002), Thái độ và hành vi của người dân đối với môi

trường, Tạp chí tâm lý học, số 2/2002.

8. Vũ Dũng (2008), Từ điển tâm lý học, Nhà xuất bản Từ điển Bách

khoa, Hà Nội.

9. Đảng cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện đại hội đại biểu toàn

quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

10. Đỗ Thị Thanh Hà (2013), Thái độ kỳ thị của cộng đồng dân cư đối

người nhiễm HIV/AIDS, Luận án tiến sĩ Tâm lý học, Học viện Khoa học xã

hội.

11. Phạm Minh Hạc (1988), Văn hóa và giáo dục, giáo dục và văn hóa.

Báo Nhân dân chủ nhật, số 24 ngày 14 tháng 6 năm 1998.

12. Phạm Minh Hạc, Lê Đức Phúc (chủ biên) (2004), Một số vấn đề

nghiên cứu về nhân cách, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

64

13. Phạm Minh Hạc, Phạm Hoàng Gia (1989), Tâm lý học, Tập 2, Nhà

xuất bản Giáo dục, Hà Nội.

14. Tô Thúy Hạnh (2006), Thái độ với nghề nông của thanh niên nông

thôn hiện nay, Tạp chí Tâm lý học, số 2-2006.

15. Lê Văn Hảo, KnudS. Larsen (2010). Tâm lý học xã hội, Nhà xuất

bản Từ điển Bách Khoa, Hà Nội.

16. Trần Hiệp (chủ biên) (1996), Tâm lý học xã hội-những vấn đề lý

luận, Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội.

17. Hipsơ. H, Phovec. M (1984), Nhập môn tâm lý học xã hội, Nhà xuất

bản Khoa học xã hội, Hà Nội.

18. Nguyễn Thị Phương Hoa (2005), Thái độ của người dân Hà Nội về

giới tính của con cái trong gia đình, Tạp chí Tâm lý học, số 5-2005.

19. Nguyễn Phương Hồng (1997), Thanh niên, học sinh, sinh viên với

sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa Đất nước, Nhà xuất bản Chính trị

Quốc gia, Hà Nội.

20. Đào Lan Hương (2000), Nghiên cứu sự tự đánh giá thái độ học tập

môn Toán của sinh viên cao đẳng sư phạm Hà Nội, Luận án Tiến sĩ Tâm lý,

Đại học sư phạm Hà Nội.

21. Lê Hương (2005), Thái độ của người lao động hiện nay đối với

cuộc sống, Tạp chí Tâm lý học, số 8 năm 2005.

22. Nguyễn Đức Hưởng (1998), Thái độ học tập của sinh viên Đại học

An ninh, Luận án Thạc sỹ, Viện khoa học Giáo dục.

23. Nguyễn Thị Thúy Hường (2007), Thái độ đối với việc rèn luyện

nghiệp vụ sư phạm của sinh viên cao đẳng sư phạm, Luận án tiến sỹ Tâm lý

học, Đại học sư phạm Hà Nội.

24. Tiêu Thị Minh Hường (2006), Thực trạng nhận thức và thái độ đối với

ma túy của sinh viên Đại học lao động xã hội. Tạp chí Tâm lý học, số 3-2006.

25. Đỗ Ngọc Khanh (2012) Thái độ chính trị của thanh niên nông thôn.

Tạp chí Tâm lý học, số 10 năm 2012.

65

26. Lê Ngọc Lan (1982), Quan hệ giữa khả năng tự đánh giá của học

sinh với thái độ học tập và động cơ học tập. Kỷ yếu tâm lý học toàn quốc lần

thứ 5, Hà Nội.

27. Nguyễn Thị Mai Lan (2005), Thái độ của sinh viên của trường cao

đẳng sư phạm Tuyên Quang đối với việc tự học, Tạp chí tâm lý, số 1-2005.

28. Lomov B.P (2000), Những vấn đề lý luận và phương pháp luận tâm

lý học, Nhà xuất bản Đại học Quốc Gia, Hà Nội.

29. Đinh Xuân Lý, Nguyễn Đăng Quang (chủ biên) (2011), Đường lối

cách mạng của Đảng cộng sản Việt Nam, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia -

Sự thật, Hà Nội.

30. Lê Quang Long (1989), Một số vấn đề nâng cao hiệu quả của quá

trình dạy và học ở Đại học, cao đẳng và Trung học chuyên nghiệp, Tập 1,

Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội.

31. Nguyễn Văn Lượt, Nguyễn Minh Hoàng (2005), Thái độ của sinh

viên Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn với hoạt động của Đoàn thanh

niên nhà trường, Tạp chí Tâm lý học, số 8-2005.

32. Hà Thế Ngữ, Đặng Vũ Hoạt (1990), Giáo dục học, Tập 1, Nhà xuất

bản Giáo dục, Hà Nội.

33. Vũ Thị Nho (1996) Tâm lý dạy học, Giáo trình dành cho học viên

cao học, Viện Khoa học giáo dục, Hà Nội 1996.

34. Vũ Thị Nho (2003), Tâm lý học phát triển, Nhà xuất bản Đại học

Quốc Gia Hà Nội 2003.

35. Hoàng Đức Nhuận, Lê Đức Phúc (1996), Cơ sở lý luận của việc đánh

giá chất lượng học tập của học sinh trung học phổ thông. Đề tài KX07-08, Hà

Nội.

36. Đào Thị Oanh (1996), Giáo trình tâm lý học xã hôi, Viện Khoa học

giáo dục Hà Nội.

37. Đào Thị Oanh (2004), Một số khía cạnh xung quanh vấn đề phương

pháp nghiên cứu thái độ, Tạp chí Tâm lý, số 3-2004.

66

38. Dương Thị Kim Oanh (2009), Động cơ học tập của sinh viên, Luận

án Tiến sỹ Tâm lý học, Viện Tâm lý học.

39. Hoàng Phê (1994), Từ điển tiếng Việt, Nhà xuất bản Khoa học Xã

hội, Hà Nội.

40. Nguyễn Văn Phương (2009), Kỹ năng học tập lý luận chính trị của

học viên cao cấp LLCT hệ trung cấp tại học viện chính trị khu vực 2, Luận án

tiến sỹ tâm lý học.

41. Quyết định ban hành chương trình các môn LLCT trình độ Đại học,

Cao đẳng dùng cho sinh viên không chuyên ngành Mác - Lênin, tư tưởng Hồ

Chí Minh, số 52/2008/QĐ-BGDĐT, ngày 18/09/2008.

42. Phạm Văn Sinh, Phạm Quang Phan (Chủ biên) (2010), Những

nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, Nhà xuất bản Chính trị Quốc

Gia, Hà Nội.

43. Nguyễn Thạc, Phạm Thành Nghị (2008), Tâm lý học sư phạm đại

học, Nhà xuất bản Đại học Sư phạm Hà Nội.

44. Trịnh Tri Thức (1996), Vài suy nghĩ về kích thích tính tích cực học

tập của sinh viên, Tạp chí Đại học và giáo dục chuyên nghiệp, số 6 năm 1996.

45. Trần Trọng Thủy (1992), Bài tập thực hành tâm lý học. Nhà xuất

bản Giáo dục, Hà Nội.

46. Nguyễn Quang Uẩn (chủ biên) (1995). Giá trị - Định hướng giá trị

nhân cách và giáo dục giá trị (Đề tài KX07-04) Hà Nội.

47. Văn kiện Hội nghị 6 Khóa IX của Đảng cộng sản Việt Nam (2002)

Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

48. Nguyễn Khắc Viện (1994), Từ điển Xã hội học, Nhà xuất bản Thế

giới, Hà Nội.

49. Phạm Viết Vượng (2011), Lý luận và phương pháp dạy học Đại

học, Tài liệu bồi dưỡng giảng viên cho các trường Đại học và Cao đẳng, Đại

học Sư phạm Hà Nội.

50. Dương Như Xuyên (1994), Về tính tích cực học tập của Sinh viên

67

trong quá trình đào tạo mới. Tạp chí Đại học và giáo dục chuyên nghiệp, số 10-

1994.

51. Dương Như Xuyên. Một số cơ sở tâm lý của việc đào tạo tay nghề

sư phạm trong quy trình đào tạo mới. Kỷ yếu hội thảo khoa học nhân dịp kỷ

niệm 30 năm ngày thành lập khoa tâm lý giáo dục-Đại học Sư phạm Hà Nội.

52. Nguyễn Như Ý (2011), Từ điển tiếng Việt, Nhà xuất bản Đại học

68

Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh.

PHỤ LỤC

PHIẾU TRƯNG CẦU Ý KIẾN

(Dành cho sinh viên)

Để đạt được kết quả nghiên cứu khoa học tốt nhất, nhóm nghiên cứu

khoa học chúng tôi xin được trưng cầu ý kiến các bạn sinh viên. Đề nghị bạn

vui lòng cho ý kiến về những vấn đề dưới đây, những ý kiến của bạn chỉ được

sử dụng trong khuôn khổ của nghiên cứu này.

Xin chân thành cảm ơn bạn!

Câu hỏi 1: Bạn đánh giá thế nào về tầm quan trọng của các môn Lý

luận chính trị đối với bản thân?

(Có 5 lựa chọn, xin đánh dấu X vào ô phù hợp nhất với ý kiến của bạn)

1. Không quan trọng

2. Chỉ quan trọng một chút

3. Phân vân (Nửa quan trọng, nửa không quan trọng)

4. Khá quan trọng

5. Rất quan trọng

STT Các môn học 1 2 3 4 5

Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa 1 Mác - Lênin 1

Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa 2 Mác - Lênin 2

3 Tư tưởng Hồ Chí Minh

Đường lối cách mạng của Đảng cộng sản 4 Việt Nam

Câu hỏi 2: Xin bạn cho cho biết, động cơ học tập các môn Lý luận

chính trị của bạn?

69

(Xin đánh dấu X vào ô phù hợp nhất với ý kiến của bạn)

 1. Học để nâng cao hiểu biết về LLCT

 2. Học để vận dụng vào thực tiễn

 3. Học để phục vụ cho nghề nghiệp và cuộc sống

 4. Học theo chương trình đào tạo

 5. Học để đối phó

Câu hỏi 3: Xin bạn cho cho biết, mức độ đón nhận việc học tập các

môn Lý luận chính trị của bạn?

(Xin đánh dấu X vào ô phù hợp nhất với ý kiến của bạn)

 1. Hứng thú học tập các môn LLCT

 2. Lo lắng, căng thẳng khi học các môn LLCT

 3. Sợ hãi, chán nản khi học các môn LLCT

 4. Thờ ơ với việc học các môn LLCT

 5. Khó đánh giá

Câu hỏi 4: Xin bạn cho cho biết, mức độ chuyên cần học tập các

môn Lý luận chính trị của bạn được biểu hiện ở những mặt nào trong các

biểu hiện dưới đây?

(Xin đánh dấu X vào ô phù hợp nhất với ý kiến của bạn)

Mức độ thực hiện

STT Nội dung đánh giá Thường Thi Không

xuyên thoảng bao giờ

1 Đi học đều

2 Bỏ tiết

3 Chăm chú nghe giảng

4 Ghi chép bài cẩn thận

70

6 Hăng hái phát biểu khi học tập

Câu hỏi 5: Xin bạn cho cho biết, mức độ chủ động, tích cực học tập các

môn Lý luận chính trị của bạn được biểu hiện ở những mặt nào trong các

biểu hiện dưới đây?

(Xin đánh dấu X vào ô phù hợp nhất với ý kiến của bạn)

Mức độ thực hiện

STT Nội dung đánh giá Thường Thi Không

xuyên thoảng bao giờ

1 Trả lời câu hỏi của giảng viên

2 Chủ động nêu vấn đề

3 Thuyết trình cá nhân

4 Thuyết trình nhóm

5 Hỏi khi không hiểu

6 Thảo luận, tranh luận

Câu hỏi 6: Xin bạn cho cho biết, thời gian tự học các môn Lý luận

chính trị của bạn được biểu hiện ở những mặt nào trong các biểu hiện

dưới đây?

(Xin đánh dấu X vào ô phù hợp nhất với ý kiến của bạn)

Mức độ thực hiện

STT Nội dung đánh giá Thường Thi Không

xuyên thoảng bao giờ

1 Hơn 5 tiếng/ 1 tuần

2 3 đến 5 tiếng/ 1 tuần

3 2 đến 3 tiếng/ 1 tuần

4 Dưới 2 tiếng/ 1 tuần

71

5 Chỉ học trước khi thi

Câu hỏi 7: Xin bạn cho cho biết, các hoạt động tự học các môn Lý

luận chính trị của bạn được biểu hiện ở những mặt nào trong các biểu

hiện dưới đây?

(Xin đánh dấu X vào ô phù hợp nhất với ý kiến của bạn)

Mức độ thực hiện

STT Nội dung đánh giá Thường Thi Không

xuyên thoảng bao giờ

Đọc tài liệu và chuẩn bị bài trước 1 khi đến lớp

Học và làm bài tập về nhà theo 2 vở ghi và giáo trình

Học và làm bài tập về nhà theo

3 vở ghi và giáo trình kết hợp với

tài liệu tham khảo

Chủ động phát hiện và tìm cách

4 lấp chỗ hổng trong kiến thức của

mình

Sử dụng thư viện, internet, và

phương tiện truyền thông khác để 5 bổ sung thêm kiến thức đã học

trên lớp

Tự tổ chức việc học tập ngoài giờ 6 lên lớp (học nhóm)

Hệ thống hóa, tóm tắt các nội 7 dung đã được học

72

8 Tự làm đề cương ôn tập