NGHIÊN CỨU TRỒNG CÂY CÀ CHUA TRONG NHÀ MÀNG<br />
POLYETHYLEN CHUYỂN HÓA ÁNH SÁNG CHỨA PHỨC CHẤT<br />
(PHEN)2EU1-XYX(NO3)3 ĐƯỢC NGHIÊN CỨU CHẾ TẠO TẠI VIỆT NAM<br />
TRONG VỤ ĐÔNG XUÂN 2009-2010 Ở QUẢNG BÌNH<br />
NGUYỄN ĐỨC VƯỢNG,<br />
TRƯƠNG THỊ HOÀNG HÀ - LÊ MINH THẮNG<br />
Trường Đại học Quảng Bình<br />
NGUYỄN TRỌNG HÙNG<br />
Viện Công nghệ Xạ Hiếm - Viện Năng lượng Nguyên tử Việt Nam<br />
Tóm tắt: Nghiên cứu trồng cây cà chua trong nhà màng polyethylen chứa<br />
phức chất (phen)2Eu1-xYx(NO3)3 được chế tạo tại Việt Nam trong vụ đông<br />
xuân 2009-2010 ở Quảng Bình. Kết quả thu được đối với cây cà chua trồng<br />
trong nhà màng chuyển hoá ánh sáng tốt hơn cây cà chua trồng đối chứng.<br />
Đặc biệt thời gian sinh trưởng và phát triển cây cà chua được rút ngắn, khả<br />
năng chóng chịu sâu bệnh tốt, phẩm chất của quả cà chua như hàm lượng<br />
vitamin C, hàm lượng đường tổng số, độ brix, độ dày thịt của quả đều tốt<br />
hơn cây cà chua đối chứng.<br />
<br />
1. GIỚI THIỆU<br />
Trồng cây trong nhà màng là một giải pháp tăng năng suất cây trồng cũng như chất<br />
lượng sản phẩm. Hiện nay, màng polyethylen (PE) có tính chất chuyển hoá ánh sáng<br />
đang được sử dụng làm mái che nhà màng ở các nước có nền nông nghiệp phát triển,<br />
điển hình là Ixraen [1], [2]. Màng chuyển hoá ánh sáng có phức chất (phụ gia) chuyển<br />
hoá ánh sáng phân tán đều trong màng này. Chất phụ gia chuyển hóa ánh sáng là phức<br />
chất của RE (nguyên tố đất hiếm), ví dụ như: phức của RE với phenanthroline (phen),<br />
với các dẫn xuất của β-Diketones, hoặc các oxit và hỗn hợp các oxit đất hiếm ở kích<br />
thước nano [1], [2]. Tính chất quan trọng nhất của phức chất RE với các cấu tử hữu cơ<br />
này là khả năng chuyển hoá ánh sáng có bước sóng ở vùng tử ngoại trung bình không<br />
thuận lợi cho sự quang hợp của cây trồng sang vùng đỏ rất thuận lợi cho sự quang hợp<br />
của cây trồng. Một số nghiên cứu cho thấy khi bị kích thích bằng nguồn bức xạ có bước<br />
sóng 3.660A0 (thuộc vùng tử ngoại trung bình) thì những phức Eu sẽ phát ra những<br />
nguồn bức xạ có bước sóng từ 5.790 đến 6.300A0 [1], [2, [3].<br />
Các cuộc thử nghiệm trong nông nghiệp cho thấy màng chuyển hoá ánh sáng đã kích<br />
thích tăng trưởng và tăng năng suất cây trồng từ 10-90%. Nó đảm bảo sản xuất sạch vì<br />
không đưa tác nhân hoá học hay sinh học vào quá trình sản xuất. Màng này hiện nay<br />
được dùng nhiều trong thực tế sản xuất [1].<br />
Ở Việt Nam, đã có một số địa phương (Đà Lạt và Sapa) nhập khẩu công nghệ trồng rau<br />
quả sạch và hoa trong nhà màng sử dụng màng PE chuyển hóa ánh sáng. Một số kết quả<br />
Tạp chí Khoa học và Giáo dục, Trường Đại học Sư phạm Huế<br />
ISSN 1859-1612, Số 04(20)/2011: tr. 34-42<br />
<br />
NGHIÊN CỨU TRỒNG CÂY CÀ CHUA TRONG NHÀ MÀNG POLYETHYLEN...<br />
<br />
35<br />
<br />
tăng năng suất cụ thể là: cà chua 30-70%, dưa chuột: 15-50%, bắp cải 20-42%, xà lách<br />
46%, dưa hấu 20-60%, hoa 30%, ớt quả 30-80%. Để chủ động trong công nghệ trồng<br />
rau sạch, đáp ứng tính cấp thiết và nhu cầu ngày càng tăng về thực phẩm sạch, trong<br />
nghiên cứu này chúng tôi báo cáo các kết quả nghiên cứu trồng cây cà chua, một loại<br />
quả có giá trị dinh dưỡng và được ưa chuộng trên thị trường, tại Quảng Bình trong nhà<br />
màng sử dụng màng chuyển hóa ánh sáng được chế tạo tại Việt Nam.<br />
2. PHƯƠNG PHÁP THỰC NGHIỆM<br />
Phương pháp tổng hợp phức chất chuyển hóa ánh sáng và chế tạo màng chuyển hóa ánh<br />
sáng đã được chỉ rõ trong tài liệu [3], [4]. Giống cà chua TN52, có nguồn gốc từ Ấn Độ,<br />
do Công ty TNHH Hạt giống Trang Nông phân phối, có năng suất trung bình 30–33<br />
tấn/ha, thời gian sinh trưởng trung bình: 130-140 ngày.<br />
Các thí nghiệm bố trí theo kiểu khối ngẫu nhiên hoàn toàn (RCB) bao gồm 3 công thức,<br />
3 lần nhắc lại:<br />
+ Công thức 1: Sử dụng màng PE chuyển hóa ánh sáng chứa phức chất (phen)2Eu1xYx(NO3)3.<br />
+ Công thức 2: Sử dụng màng PE trong suốt bình thường.<br />
+ Công thức 3: Không sử dụng màng PE, đây là công thức đối chứng.<br />
Bố trí thí nghiệm được tiến hành theo Tiêu chuẩn ngành 10TCN 219:2006 – Ban hành<br />
kèm theo quyết định số 1698QĐ/BNN-KHCN, ngày 12 tháng 06 năm 2006 của Bộ<br />
trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn.<br />
Các chỉ tiêu theo dõi và phương pháp theo dõi, bao gồm: các giai đoạn phát dục, các chỉ<br />
tiêu sinh trưởng, khả năng chống chịu sâu bệnh (bệnh mốc sương – Phytopthora<br />
infestans Debary, bệnh héo xanh vi khuẩn – Ralstonia solanacerum Smith, bệnh vi rút),<br />
các yếu tố cấu thành năng suất và năng suất, các chỉ tiêu về quả và phẩm chất quả.<br />
3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU<br />
3.1. Ảnh hưởng của màng chuyển hóa ánh sáng đến các giai đoạn sinh trưởng và<br />
phát triển của cây cà chua<br />
Qua quá trình theo dõi các giai đoạn sinh trưởng cây cà chua ở các công thức thí<br />
nghiệm, chúng tôi thu được kết quả ghi ở bảng 1.<br />
Bảng 1. Thời gian hoàn thành các giai đoạn sinh trưởng, phát triển của cây cà chua<br />
Đơn vị tính: ngày<br />
Công<br />
thức<br />
I<br />
II<br />
III<br />
<br />
Tuổi cây<br />
con<br />
25<br />
25<br />
25<br />
<br />
Từ trồng đến...<br />
Ra hoa<br />
Quả chín<br />
29<br />
82<br />
31<br />
87<br />
37<br />
85<br />
<br />
Thời gian<br />
thu quả<br />
35<br />
39<br />
38<br />
<br />
Tổng thời gian<br />
sinh trưởng<br />
142 (29/3/2009)<br />
151 (7/4/2009)<br />
148 (4/4/2009)<br />
<br />
36<br />
<br />
NGUYỄN ĐỨC VƯỢNG và cs.<br />
<br />
Kết quả ở bảng 1 chỉ ra rằng cây cà chua ở các công thức thí nghiệm bắt đầu ra hoa<br />
trong khoảng từ 29-37 ngày. Trong ba công thức thì cây cà chua ở công thức I ra hoa<br />
sớm nhất, sau trồng 29 ngày. Trong giai đoạn từ trồng đến quả chín, cây ở công thức I<br />
ra hoa sớm nhất, đồng thời cũng chín sớm nhất ở 51 ngày sau trồng. Thời gian thu quả<br />
của các công thức dao động trong khoảng 35–39 ngày. Công thức I có thời gian thu quả<br />
ngắn nhất, 35 ngày. Có thể nói màng chuyển hóa ánh sáng đã giúp cây cà chua rút ngắn<br />
được thời gian thu hoạch. Cây cà chua ở công thức I có tổng thời gian sinh trưởng ngắn<br />
nhất: 142 ngày. Như vậy, với tính năng quan trọng là chuyển hóa từ ánh sáng tím thành<br />
ánh sáng đỏ làm tăng hiệu suất quang hợp, màng chuyển hóa ánh sáng có tác dụng thúc<br />
đẩy cây cà chua ra hoa sớm hơn, chín nhanh hơn và tập trung hơn. Kết quả là rút ngắn<br />
tổng thời gian sinh trưởng, phát triển của cây cà chua trồng trong nhà màng này.<br />
3.2. Ảnh hưởng của màng chuyển hóa ánh sáng đến sự tăng trưởng chiều cao cây<br />
Nguyên tắc xác định chiều cao cây là đo từ cổ rễ đến đỉnh sinh trưởng ngọn. Qua nghiên<br />
cứu chúng tôi thu được kết quả được ghi trong bảng 2.<br />
Bảng 2. Động thái tăng trưởng chiều cao cây của các công thức<br />
Đơn vị tính: cm<br />
Ngày sau trồng<br />
<br />
Công thức I<br />
<br />
Công thức II<br />
<br />
Công thức III<br />
<br />
LSD 0,05<br />
<br />
7 (ngày)<br />
14<br />
21<br />
28<br />
35<br />
42<br />
49<br />
56<br />
63<br />
70<br />
77<br />
84<br />
91<br />
98<br />
105<br />
112<br />
Thu hoạch<br />
<br />
9,33a<br />
13,43a<br />
19,30a<br />
30,80a<br />
44,33a<br />
55,90a<br />
62,83a<br />
75,34a<br />
91,83a<br />
104,69a<br />
108,53a<br />
113,31a<br />
125,14a<br />
136,48a<br />
146,86a<br />
146,93a<br />
146,93a<br />
<br />
5,60b<br />
7,72b<br />
10,68b<br />
18,23b<br />
39,26b<br />
49,41a<br />
56,93a<br />
67,63b<br />
85,15b<br />
97,67ab<br />
100,37b<br />
102,37b<br />
112,30b<br />
122,56b<br />
127,22b<br />
127,37b<br />
127,48b<br />
<br />
4,87b<br />
6,83b<br />
9,82b<br />
16,73b<br />
39,70b<br />
52,50a<br />
56,86a<br />
67,12b<br />
79,96b<br />
88,79b<br />
90,79c<br />
94,25c<br />
101,71c<br />
107,42c<br />
113,50c<br />
113,96c<br />
114,13c<br />
<br />
2,32<br />
2,27<br />
5,06<br />
9,93<br />
4,47<br />
9,45<br />
8,72<br />
8,10<br />
5,56<br />
9,63<br />
7,68<br />
6,84<br />
8,51<br />
7,67<br />
5,49<br />
5,89<br />
6,10<br />
<br />
Ghi chú: a, b, c là kí hiệu cho các nhóm, trong đó các công thức có cùng kí hiệu không có sự<br />
sai khác tại các mức tin cậy α = 0,05 hay ở xác suất P= 95%<br />
<br />
Qua bảng 2 chúng tôi thấy rằng: trong các thời kỳ 7, 14, 21, 28, 35 ngày sau trồng là<br />
thời gian cây cà chua hoàn thành bén rễ hồi xanh, bước sang thời kỳ sinh trưởng dinh<br />
dưỡng mạnh mẽ. Bộ rễ phát triển mạnh, chiều cao và số lá tăng nhanh. Cây cà chua ở<br />
công thức I có chiều cao hơn hẳn so với công thức II và III. Giữa công thức II và III<br />
<br />
NGHIÊN CỨU TRỒNG CÂY CÀ CHUA TRONG NHÀ MÀNG POLYETHYLEN...<br />
<br />
37<br />
<br />
không thấy có sự sai khác nhau có ý nghĩa về mặt thống kê. Trong các thời kỳ 42, 49<br />
ngày sau trồng, thời gian này cây cà chua bắt đầu ra hoa, đậu quả và phát triển quả.<br />
Giống cà chua Ấn Độ TN52 thuộc kiểu hình ra hoa vô hạn nên song hành với quá trình<br />
phát triển quả ở tầng thấp là quá trình nở hoa, đậu quả và tiếp tục phát triển quả ở các<br />
tầng trên cao. Do tập trung cho quá trình sinh trưởng sinh thực này nên quá trình sinh<br />
trưởng dinh dưỡng bị hạn chế. Chiều cao cây giữa các công thức không thấy có sự sai<br />
khác nhau về mặt thống kê. Thời kỳ 56, 63, 70 ngày sau trồng, cà chua ở công thức I có<br />
chiều cao tăng đáng kể, khác biệt rõ rệt so với công thức II và III. Sang thời kỳ 70 ngày<br />
sau trồng, cây cà chua ở công thức II có sự tăng chiều cao khá mạnh nên sự khác biệt về<br />
chiều cao cây giữa công thức I và công thức II không còn rõ nét, công thức I có chiều<br />
cao cao hơn hẳn so với công thức III. Trong các thời kỳ 77, 84, 91, 98, 105 ngày sau<br />
trồng, cây cà chua ở các công thức chủ yếu phát triển quả, quả chín và cho thu hoạch.<br />
Các chùm hoa ở phía trên vẫn tiếp tục ra nhưng yếu ớt, tỷ lệ đậu quả thấp, hình thành<br />
quả có kích thước nhỏ. Chiều cao cây của công thức III chỉ tăng nhẹ. Trong khi đó,<br />
chiều cao cây của công thức I và II vẫn tiếp tục tăng mạnh nên có sự sai khác rất rõ ràng<br />
có ý nghĩa về mặt thống kê giữa 3 công thức thí nghiệm. Cây cà chua ở công thức I có<br />
chiều cao cao nhất, tiếp đến là công thức II và thấp nhất là công thức III.<br />
Khi xét đến chiều cao cây cuối cùng, chúng ta nhận thấy: chiều cao cây ở công thức III<br />
thấp hơn có ý nghĩa về mặt thống kê so với công thức I và II. Công thức I có chiều cao<br />
cây cuối cùng cao nhất (146,93 cm), tiếp đến là công thức II (127,48 cm). Công thức III<br />
có chiều cao cây cuối cùng thấp nhất (114,13 cm).<br />
3.3. Ảnh hưởng của màng chuyển hóa ánh sáng đến sự ra lá của cây cà chua<br />
Theo dõi động thái ra lá của cây cà chua ở các công thức chúng tôi nhận thấy: không<br />
thấy có sự khác biệt về số lá/cây giữa các công thức thí nghiệm ở các thời kỳ theo dõi.<br />
Ảnh hưởng của màng chuyển hóa ánh sánh đối với chỉ tiêu này thể hiện không rõ. Như<br />
vậy, chỉ tiêu số lá/cây chủ yếu do đặc tính di truyền của giống quyết định.<br />
Như vậy, cây cà chua trồng trong nhà màng chuyển hóa ánh sáng có chiều cao cây cao<br />
hơn so với công thức đối chứng và công thức có phủ màng PE bình thường nhưng số lá<br />
lại tăng không đáng kể so với công thức đối chứng.<br />
3.4. Ảnh hưởng của màng chuyển hóa ánh sáng đối với một số loại sâu bệnh hại<br />
chính ở các công thức thí nghiệm<br />
Sâu xanh đục quả, nụ hoa (Heliothis armigera):<br />
Đây là đối tượng phá hoại trên nhiều loài cây trồng. Sâu đục vào nụ hoặc quả non, ăn<br />
rỗng ở bên trong, làm nụ, quả bị rụng hoặc bị thối. Sâu đục đến đâu đùn phân ra đến đó,<br />
một nửa thân sâu thường ở bên ngoài, một nửa nằm trong trái. Khi trái đã già, sâu<br />
thường đục từ cuống xuống và chui vào bên trong ăn phá. Kết quả theo dõi diễn biến<br />
mật độ sâu xanh đục quả trên cây cà chua ở các công thức thí nghiệm được chỉ ra ở<br />
bảng 3.<br />
Bảng 3. Diễn biến mật độ sâu xanh đục quả trên các công thức thí nghiệm<br />
<br />
38<br />
<br />
NGUYỄN ĐỨC VƯỢNG và cs.<br />
<br />
Đơn vị tính: con/m2<br />
Ngày theo dõi<br />
13/1/2010<br />
20/1/2010<br />
27/1/2010<br />
3/2/2010<br />
10/2/2010<br />
17/2/2010<br />
24/2/2010<br />
3/3/2010<br />
10/3/2010<br />
17/3/2010<br />
24/3/2010<br />
<br />
Công thức I<br />
0,13<br />
0,20<br />
0,20<br />
0,00<br />
0,00<br />
0,20<br />
0,40<br />
0,47<br />
0,13<br />
0,10<br />
0,07<br />
<br />
Công thức II<br />
0,00<br />
0,33<br />
0,87<br />
0,07<br />
0,20<br />
0,60<br />
0,73<br />
1,13<br />
0,93<br />
0,70<br />
0,63<br />
<br />
Công thức III<br />
0,00<br />
0,87<br />
1,07<br />
0,00<br />
1,07<br />
0,80<br />
1,33<br />
3,73<br />
2,60<br />
1,73<br />
1,13<br />
<br />
Công thức I xuất hiện sâu xanh đục quả sớm nhất vì do cây hình thành quả sớm nhất.<br />
Công thức II và III bị sâu xanh phá hại muộn hơn, nhưng mật độ cao hơn công thức I ở<br />
các kỳ theo dõi. Vào ngày 3/3/2010 công thức I, II và III có mật độ sâu xanh cao nhất<br />
lần lượt là 0,47; 1,13 và 3,73 con/m2. Qua kết quả nghiên cứu, có thể thấy diễn biến mật<br />
độ sâu xanh của các công thức đều thay đổi theo thời gian. Nhìn chung công thức III có<br />
mật độ sâu xanh cao nhất nhưng lại giảm mạnh vào cuối vụ, trong khi ở công thức I và<br />
II lại chỉ giảm nhẹ.<br />
Bệnh xoăn lá (do virus TYLCV):<br />
Bảng 4. Diễn biến của bệnh xoăn lá trên các công thức thí nghiệm<br />
Đơn vị tính: % cây bị bệnh<br />
Ngày theo dõi<br />
23/12/2009<br />
30/12/2010<br />
6/1/2010<br />
13/1/2010<br />
20/1/2010<br />
27/1/2010<br />
3/2/2010<br />
10/2/2010<br />
<br />
Công thức I<br />
0,00<br />
0,03<br />
0,04<br />
0,00<br />
0,04<br />
0,00<br />
0,00<br />
0,00<br />
<br />
Công thức II<br />
0,00<br />
0,20<br />
0,00<br />
0,14<br />
0,02<br />
0,00<br />
0,00<br />
0,00<br />
<br />
Công thức III<br />
0,03<br />
0,00<br />
0,04<br />
0,06<br />
0,17<br />
0,00<br />
0,32<br />
0,00<br />
<br />
Bệnh xoăn lá do virus bắt đầu xuất hiện vào ngày 23/12/2009 ở công thức III. Công<br />
thức I và II bệnh xuất hiện muộn hơn. Trong ba công thức thì công thức I bị hại nhẹ<br />
nhất, công thức III bị hại nặng nhất. Tỷ lệ hại ngày cao điểm 3/2/2010 ở công thức III là<br />
0,32%. Công thức II bị hại nặng nhất vào ngày 30/12/2009, với tỷ lệ hại 0,20%. Đối với<br />
những cây bị bệnh, sau khi đếm để xác định tỷ lệ bệnh, chúng tôi tiến hành nhổ bỏ để<br />
tránh lây lan sang những cây khác. Vào các kỳ theo dõi sau, tỷ lệ hại của công thức I và<br />
II không đáng kể và dần bằng 0. Công thức III có tỷ lệ hại tăng cao vào kỳ theo dõi<br />
3/2/2010, tuy nhiên sau đó giảm hẳn. Bệnh xoăn lá do virus không còn tiến triển nữa khi<br />
quả bắt đầu lớn.<br />
<br />