Nguồn thức ăn của Bò sát (Reptilia)
Theo nguồn thức ăn, bò sát được chia
thành ba nhóm : sát ăn thực vật, bò
sát ăn thịt, bò sát ăn tạp. Thành phần
thức ăn của mỗi nhóm rất đa dạng.
Thành phần thức ăn của mỗi nhóm bò
sát như sau :
- Nhóm ăn thực vật: Thường ít
loài, gồm mt số loài thằn lằn và rùa.
Rùa cạn thường ăn cây, quả. Rùa
nước ngọt ăn cthủy sinh, một số rùa
biển ăn rong rêu.
Loài Amblyrhychus orstatus đang ăn
tảo bám trên đá (theo Hickman)
Rất ít loài rắn ăn thực vật, trường hợp
duy nhất ăn thực vật được biết là rắn
râu (Herpeton tentaculatum) miền
Nam nước ta, sống trong các ao hồ,
vực nước nhiều tảo xanh. Nhóm
thằn lằn ăn thực vật cũng hiếm, một
s ít loài ăn cây, loài thằn lằn
sần (Trachysaurus rugosa) châu Úc
ăn quả dâu và nấm độc.
- Ða s các loài sát ăn thịt: Mỗi
loài sát đều một số đối tượng
thức ăn chủ yếu. Các loài sống trên
cây ch yếu ăn các loại n trùng,
ngoài ra ăn nhện, giun đất (thằn lằn,
rắn giun) rắn nước, rắn biển ăn cá,
nhái, ếch... Rắn ráo ăn chuột, trăn có
thăn tlớn. Một số loài rắn độc ăn
rắn nhỏ. nhiều loài sát hiện
tượng ăn thịt đồng loại, con lớn nuốt
con nhỏ. Người ta đã quan sát được
nhiều trường hợp thằn lằn bố m ăn
ngay con vừa nttrứng, thạch sùng
bmđuổi bắt thạch sùng con. Một
s loài rn chuyên ăn trứng chim.
Rắn ăn trứng châu Phi
(Drasypeltis) chuyên ăn trứng chim
dài khoảng 60 - 70cm, thân chbằng
ngón tay nhưng vẫn thể nuốt được
trứng gà. Rắn này răng yếu nhưng
đốt sống cổ mấu khá lớn. Khi nuốt
trứng vào đến vùng cthì thực quản
co lại, mấu này ép vào thực quản làm
v vỏ trứng, rắn nuốt lòng trứng và
nôn vtrứng ra ngoài. nước ta
rắn sọc dưa (Elaphe radiata), rắn hổ
mang (Naja) cũng mấu đốt sống cổ
thnhất ấn vào thực quản làm trứng
lọt xuống dạ dày.
- sát ăn tạp: ơng đối ít loài. Ba
ba ăn cá, cua, ốc, củ, cây... Rùa
mc ăn thực vật thủy sinh, côn trùng,
giáp xác, thân mm, ếch, nhái.
- Thành phần thức ăn ca bò sát thay
đổi tuỳ theo điều kiện sống. Rắn sống
gần ao cá, thức ăn chủ yếu là cá,
nhưng cũng loại rắn đó sống nơi ít
ao hhơn thì t lệ ăn ng rất ít.
nhóm thằn lằn, phần lớn thức ăn vào
mùa lúa chín o cào châu chấu,
ứng với thời kỳ phát triển của nhng
loài này trên đồng ruộng. Sau mùa gt
hái, cào cào và châu chấu hiếm dần,
thằn lằn phải đi kiếm những loại côn
trùng khác đăn. Thành phần thức ăn
của bò sát còn thay đổi tuỳ theo sự
chọn lựa thức ăn mỗi lứa tuổi.
sấu còn non ăn động vật
không xương sng. Khi trưởng
thành lại lựa chọn những thức ăn là
động vật xương sống, kể cnhững
mi lớn như trâu, bò. Rắn sọc dưa
(Elaphe) lúc mới nở chỉ ăn sâu bọ.
Khi đã lớn lên một chút, loài này ăn
thêm ếch, nhái. Khi thể đạt được
ch thước nhất định, rắn sọc dưa
chuyển sang ăn chuột, chim và trứng
chim. Một số loài thằn lằn, rùa lúc