Nhân sâm và sức khỏe tim mạch

Sâm là vị thuốc đứng đầu trong “tứ đại thuốc quý”của Y học cổ truyền là Sâm-

Nhung-Quế-Phụ.Tên gọi nhân sâm để chỉ cây thân thảo, có rể củ giống hình người

được sử dụng làm thuốc từ lâu ở các nước châu Á thuộc nhiều chi họ khác

nhau,chủ yếu các loài thuộc chi sâm(Panax).Sách”Thần nông bản thảo” cuả vua

Thần Nông cách đây 3000 năm trước Công nguyên đã xếp sâm là vị thuốc quý

trong y học cổ truyền Trung Hoa.Hiện có 2 loại sâm được nghiên cứu nhiều nhất

là sâm châu Á (hay nhân sâm, sâm Triều Tiên-Panax gíneng C.A Meyer) và sâm

Hoa Kỳ(còn gọi là sâm Bắc Mỹ- Panax qiunquefolius L).Riêng nhân sâm có thể

nhầm lẫn với sâm Siberia(Sâm Liên Xô-Eleutherococcus senticosus) dù được

quảng cáo ở Nga là có thể thay

Nhân sâm, nhưng lại không chứa các hoạt chất Ginsenosid(Ttriterpen saponin) có

trong Nhân sâm.

Nhiều nghiên cứu về sâm đã được tiến hành, chủ yếu là trên sâm Triều Tiên và

sâm Mỹ cho thấy 2 loại có những tác dụng giống nhau và khác nhau.Ít thấy có

nghiên cứu về sâm Siberia. Riêng với sâm Ngọc Linh-Sâm khu 5-Panax

Vietnamensis KL Dao[1973] ex Ha et Gruskv[1985] cũng đã được nghiên cứu kỹ

và cho thấy có dược tính tốt hơn Sâm Triều Tiên và Sâm Mỹ.Tuy nhiên do không

được quản lý kỹ từ đầu về khai thác và chế biến cho nên đến nay sâm Khu 5 vẫn

chưa được phổ biến và mức độ an toàn của cây sâm vẫn ở bậc E trong sách đỏ

Việt Nam.

Các tác dụng dược lý của Nhân sâm đối với sức khỏe đã được nghiên cứu nhiều,có

thể tóm tắt như sau: Gây hưng phấn thần kinh,tăng cường khả năng tình dục,tăng

miễn dịch cơ thể,giảm Cholesterol/máu, tăng HDL cholesterol và giảm

LDLcholesterol,hỗ trợ tuyến thượng thận tăng tiết các corticoid giúp cơ thể chống

stress hiệu quả hơn,hạ đường huyết, giảm nguy cơ ung thư…..Trong các tác dụng

trên cơ thể người, tác động trên hệ thống tim mạch vẫn là tiêu điểm được chú ý

nghiên cứu nhiều nhất, và cũng gây ra nhiều tranh cãi nhất.Riêng về tác dụng này

có nhiều nghiên cứu từ các trung tâm trên Thế giới như Mỹ, Canada,Trung quốc,

Nhật Bản….Trong đó có các nghiên cứu dựa trên Y học chứng cứ của Hội Tim

mạch Mỹ,cơ sở dữ liệu Medline, các trung tâm y khoa thuộc các trường Đại học ở

Ý, Mỹ, Canada,Trung Quốc…

Nhiều nghiên cứu ngẫu nhiên, nghiên cứu mù đôi tại khoa Y Đại học Toronto

Canada và bệnh viện ST.Michaels Toronto-Canada 2005, cho thấy khi dùng sâm

Mỹ liên tục trong 12 tuần với liều 3gr/ngày không làm tăng huyết áp và không ảnh

hưởng xấu tới chức năng thận.Các tác giả tiến hành thí nghiệm cũng khuyến cáo

đây là kết quả dùng sâm đơn độc. Các thí nghiệm dùng sâm chung với các vị thuốc

Y học cổ truyền khác chưa được tiến hành nghiên cứu.

Những nghiên cứu rút ra từ dữ liệu Medline cho thấy Nhân sâm đóng vai trò như

chất làm giảm sự o xy hóa của LDL cholesterol và các tế bào não. Làm tái tạo các

tế bào não bộ bằng cách thúc đẩy quá trình phân chia và phát sinh các neuron thần

kinh,ngăn cản sự suy yếu neuron thần kinh.Nhân sâm cũng làm giảm đường huyết

trên bệnh nhân đái tháo đường typ 2 trước và sau bữa ăn.Tác dụng này tỏ ra rất

hứa hẹn vì người ta nhận thấy Nhân sâm không làm giảm đường huyết quá

mức,hay nói khác hơn Nhân sâm đóng vai trò như một chất điều hòa đường huyết.

Nhiều nghiên cứu trên bệnh nhân tăng huyết áp cũng đã được tiến hành và đều cho

kết quả là Nhân sâm có tác dụng điều hòa huyết áp, nghĩa là có thể nâng huyết áp

ở những bệnh nhân suy nhược với liều thấp và hạ huyết áp với liều cao(thông qua

cơ chế tác động trên tần số co bóp nhịp tim).Điều này phù hợp với lý thuyết Y học

cổ truyền khi cho rằng các triệu chứng của huyết áp thấp là do khí huyết hư

nhược,mà Nhân sâm thuộc thuốc đại bổ nguyên khí nên sẽ làm tăng trị số huyết

áp.Đáng tiếc là nghiên cứu này chưa đưa ra được liều lượng hiệu quả và an toàn.

Nhân sâm phối hợp với các dược liệu khác có thể làm giảm các triệu chứng của

bệnh mạch vành và cải thiện tình trạng suy tim xung huyết.Ngoài ra, Nhân sâm có

độc tính rất thấp với liều độc cấp diễn (LD50) là 16,5mg dịch chiết/kg cân

nặng.Các tác dụng phụ có thể xẩy ra nhưng rất hiếm là tăng huyết áp, mất ngủ,

bồn chồn,lo âu, phấn khích, tiêu chảy, đau ngực,chảy máu mũi và âm đạo