
Tạp chí Khoa học, Tập 2, Số 3/2023
38
CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN QUYẾT ĐỊNH THAM GIA BẢO
HIỂM NÔNG NGHIỆP CỦA CÁC HỘ NÔNG DÂN TRỒNG LÚA TRÊN
ĐỊA BÀN HUYỆN YÊN THÀNH, TỈNH NGHỆ AN
Võ Thị Thu Hương 1,*
1Trường Đại học Kinh tế Nghệ An, *Email: vohuong.ht@gmail.com
Tóm tắt: Nghiên cứu sử dụng mô hình logit nhằm phân tích các nhân tố ảnh hưởng
đến quyết định tham gia bảo hiểm nông nghiệp (BHNN) với dữ liệu là 200 hộ nông dân trồng
lúa tại huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An. Kết quả mô hình logit cho thấy: chủ hộ có độ tuổi
thấp hơn, gặp rủi ro thiên tai và quan tâm tới phí BHNN thì tham gia BHNN nhiều hơn, trong
khi đó các yếu tố học vấn, số thành viên, thu nhập và quy mô hộ không ảnh hưởng. Như vậy,
để gia tăng số hộ tham gia và phát triển BHNN ở địa phương trong thời gian tới thì cần: Quan
tâm đến các chủ hộ có độ tuổi còn trẻ và hộ gặp rủi ro trong sản xuất lúa năm trước, đồng thời
điều chỉnh mức phí bảo hiểm phù hợp thông qua sự điều chỉnh của doanh nghiệp bảo hiểm và
điều chỉnh mức hỗ trợ phí từ các nhà hoạch định chính sách nhà nước.
Từ khoá: Bảo hiểm cây lúa, Bảo hiểm nông nghiệp, Yên Thành, Nghệ An.
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Nông nghiệp, nông dân, nông thôn có vị
trí chiến lược trong sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa, xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc, là cơ sở và lực lượng quan trọng để
phát triển KT-XH bền vững, giữ vững ổn
định chính trị, bảo đảm quốc phòng – an ninh,
giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc và
bảo vệ môi trường sinh thái của đất nước. Do
đõ, Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm lãnh
đạo, chỉ đạo phát triển nông nghiệp, xây dựng
nông thôn và nâng cao đời sống nông dân.
Sản xuất nông nghiệp là một trong những
lĩnh vực phụ thuộc nhiều vào yếu tố tự nhiên,
môi trường, thời tiết, khí hậu, thổ nhưỡng, địa
hình... vì vậy phải đối mặt với nhiều rủi ro
hiện nay. Nền nông nghiệp Việt Nam chịu rất
nhiều rủi ro từ dịch bệnh và thiên tai, gây
nhiều ảnh hưởng đến năng suất cũng như thu
nhập của các hộ nông dân. Vì vậy, người
nông dân rất cần những công cụ hạn chế hoặc
bù đắp những thiệt hại mà dịch bệnh và thiên
tai mang lại.
BHNN là một nghiệp vụ bảo hiểm phi
nhân thọ có đối tượng bảo hiểm là các rủi ro
phát sinh trong lĩnh vực sản xuất nông
nghiệp và đời sống nông thôn, bao gồm
những rủi ro gắn liền với: cây trồng, vật
nuôi, vật tư, hàng hóa, nguyên liệu, nhà
xưởng (Nguyễn Văn Định, 2012).
Huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An là một
trong những địa phương được ưu tiên trong
các chính sách BHNN của tỉnh nhà. Giai
đoạn đầu 2011-2013 đã đem lại những
thành tựu đáng kể khi thu hút 39/39 xã và
hơn 18 nghìn hộ gia đình trồng lúa tham gia
trong mùa hè thu năm 2013. Song dù luôn
được ưu tiên trong chính sách BHNN thì số
lượng xã và số lượng hộ tham gia giảm khá
lớn, mùa hè thu năm 2020 chỉ có 31/39 xã
và 3.577 hộ gia đình tham gia (UBND
huyện Yên Thành, 2021)
Vì vậy, nghiên cứu “Các nhân tố ảnh
hưởng đến quyết định tham gia BHNN trồng
lúa của các hộ nông dân trên địa bàn huyện
Yên Thành, tỉnh Nghệ An” được thực hiện

Tạp chí Khoa học, Tập 2, Số 3/2023
39
nhằm tìm ra cơ sở khoa học, từ đó đề xuất các
giải pháp để gia tăng số hộ gia đình trồng lúa
tham gia, đồng thời nhằm phát triển BHNN ở
địa phương trong thời gian tới.
2. NỘI DUNG
2.1. Cơ sở lý thuyết về bảo hiểm nông nghiệp
BHNN là một nghiệp vụ bảo hiểm phi
nhân thọ có đối tượng bảo hiểm là các rủi ro
phát sinh trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp
và đời sống nông thôn, bao gồm những rủi ro
gắn liền với: cây trồng, vật nuôi, vật tư, hàng
hóa, nguyên liệu, nhà xưởng (Nguyễn Văn
Định, 2012).
Mục đích Bảo hiểm: là nhằm hỗ trợ cho
Người sản xuất nông nghiệp chủ động khắc
phục và bù đắp thiệt hại tài chính do hậu quả
của thiên tai, dịch bênh gây ra, góp phần
đảm bảo ổn định, an sinh xã hội nông thôn,
thúc đầy sản xuất nông nghiệp (Thủ tướng
Chính phủ, 2011)
BHNN cho cây lúa là lình vực bảo hiểm
được cụ thể như sau:
- Người được bảo hiểm: là các hộ nông
dân/tổ chức trồng lúa tại địa bàn xã đã đăng
ký tham gia bảo hiểm và có quyền lợi hợp
pháp đối với cây lúa trên Diện tích lúa được
bảo hiểm.
- Đối tượng bảo hiểm là cây lúa (nước) mà
cụ thể là năng suất thu hoạch lúa được trồng
trên một đơn vị diện tích được thực hiện ở các
tỉnh là Nam Định, Thái Bình, Nghệ An, Hà
Tĩnh, Bình Thuận, An Giang và Đồng Tháp.
- Phạm vi được bảo hiểm: doanh nghiệp
bảo hiểm sẽ bồi thường cho người được
bảo hiểm mức sụt giảm năng suất lúa gây
ra bởi các rủi ro thiên tai và/hoặc sâu
bệnh/dịch bệnh trong thời hạn được bảo
hiểm. Các loại thiên tai, dịch bệnh trong
phạm vi bảo hiểm là các loại thiên tai như:
bão, lũ, lụt, hạn hán, rét đậm, rét hại,
sương giá, xâm nhập mặn, sóng thần,
giông, lốc xoáy; Các loại dịch bệnh như:
bệnh vàng lùn, lùn xoắn lá, lùn sọc đen,
đạo ôn, bạc lá, dịch rây nâu, sâu đục thân.
- Quy tắc, biểu phí và mức trách nhiệm
bảo hiểm cây lúa theo chỉ số năng suất
quy định
phí bảo hiểm tính cho từng vụ và
từng người được bảo hiểm và tính theo
công thức sau:
Phí bảo hiểm =Số tiền bảo hiểm X Tỷ lệ
phí bảo hiểm
Trong đó:
Số tiền bảo hiểm là giá trị bằng tiền
được bảo hiểm theo từng vụ được tính
bằng công thức:
Số tiền BH = Diện tích lúa được bảo hiểm X
năng suất bình quân xã X đơn giá lúa.
2.2. Phương pháp nghiên cứu
2.2.1. Cách tiếp cận nghiên cứu
Tác giả tiếp cận nghiên cứu theo phương
pháp định lượng. Đối tượng nghiên cứu là
quyết định tham gia BHNN cho cây lúa của
các hộ nông dân trên địa bàn huyện Yên
Thành, tỉnh Nghệ An. Từ đó, đề xuất một số
giải pháp để gia tăng số hộ tham gia BHNN
góp phần phát triển chương trình BHNN tại
địa phương trong thời gian tới.
Nghiên cứu thu thập thông tin từ cả các
nguồn thứ cấp và sơ cấp. Thông tin thứ cấp
được thu thập từ các báo cáo tổng kết hoạt
động sản xuất nông nghiệp hàng năm của các
đơn vị thuộc phạm vi nghiên cứu, báo cáo
thực hiện chương trình thí điểm BHNN, các
bài báo và các nghiên cứu trong nước và quốc
tế có liên quan đến vấn đề nghiên cứu.
Thông tin sơ cấp được thu thập thông qua
việc phỏng vấn các hộ nông dân trồng lúa
trên địa bàn huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An.
Số hộ nông dân được phỏng vấn là 200 hộ,
được chọn mẫu ngẫu nhiên đơn giản dựa trên
danh sách chủ hộ trồng lúa được cung cấp bởi
hội nông dân 3 xã là: xã Liên Thành, xã
Khánh Thành và xã Hoa Thành trên địa bàn

Tạp chí Khoa học, Tập 2, Số 3/2023
40
huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An. Chọn mẫu
ngẫu nhiên không lặp lại từ danh sách được
cung cấp để chọn ra các hộ điều tra
2.2.2. Phương pháp phân tích số liệu
- Phương pháp thống kê mô tả
Thống kê mô tả được sử dụng để mô tả
những đặc tính cơ bản của dữ liệu thu thập về
thực trang tham gia BHNN của các hộ nông
dân trồng lúa ở huyện Yên Thành tỉnh Nghệ
An mà nghiên cứu khảo sát. Thống kê mô tả
cung cấp những tóm tắt đơn giản về mẫu và
các thước đo. Cùng với phân tích đồ họa đơn
giản, chúng tạo ra nền tảng của mọi phân tích
định lượng về số liệu. Bước đầu tiên để mô tả
và tìm hiểu về đặc tính phân phối của một
bảng số liệu thô là lập bảng phân phối tần số
và tính toán các đặc trưng khác của mẫu.
- Phương pháp phân tích hồi quy logit
Nghiên cứu sử dụng mô hình hồi quy logit
để xác định các nhân tố tác động tới quyết
định tham gia hay không tham gia BHNN của
hộ gia đình. Mô hình dựa trên hàm xác suất
tích lũy với biến phụ thuộc nhận giá trị trong
khoảng {0,1}, là kết quả của một loạt các
biến giải thích. Theo Gujarati & Porter
(2009), hàm được thể hiện như sau :
Pi = E( Y = 1| Zi = B1 + B2Xi )
Pi : Khả năng xảy ra hiện tượng/sự việc
(tham gia BHNN);
Zi = B1 + B2Xi; Zi là yếu tố tác động tới
quyết định tham gia BHNN, nhận giá trị từ
âm vô cùng tới dương vô cùng và được thể
hiện bởi phương trình:
Trong mô hình ước lượng khả năng tham
gia BHNN của hộ gia đình, biến phụ thuộc là
biến nhị phân (Y) câu trả lời của hộ về quyết
định có tham gia BHNN hay không
(0=không, 1=có). Khi đó hàm logit được thể
hiện trực tiếp dưới dạng
Y = b0 + b1X1 + b2X2 + b3X3 + b4X4 + b5X5
+ …+ bnXn+ u
Trong đó:
Y là biến nhị phân phụ thuộc về quyết định
có tham gia BHNN hay không, với 1 là “có”,
0 là “không”;
X1 –Xn: Các biến giải thích;
b0-bn: Hệ số tương ứng của các biến giải thích;
u: Sai số (error term).
Đồng thời, sau khi chạy hồi quy logit tìm
kiếm các nhân tố có ý nghĩa thống kê, nghiên
cứu tiếp tục chạy tác động biên, nhằm xác
định mức độ ảnh hưởng cụ thể của từng nhân
tố đến quyết định tham gia BHNN, từ đó thảo
luận kết quả nghiên cứu.
Kế thừa và phát triển của các nghiên cứu của
Smith & Baquet (1996), Sherrick & cs (2004),
Oyinbo & cs (2013), Phan Đình Khôi & cs
(2014), Nguyễn Duy Chinh & cs (2016) tác giả
xây dựng mô hinh với các biến như sau:

Tạp chí Khoa học, Tập 2, Số 3/2023
41
Bảng 1: Các biến sử dụng trong mô hình logit: Phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến
quyết định tham gia BHNN của các hộ nông dân trồng lúa trên địa bàn huyện Yên
Thành, tỉnh Nghệ An
Các biến
Tên biến
Kỳ
vọng
dấu
Biến phụ thuộc
Y: Quyết định có tham gia BHNN hay không (0 = không;
1 = có)
Biến độc lập
X1: Tuổi của người chủ hộ (tuổi)
+
X2: Trình độ học vấn (0 = Phổ thông trở xuống; 1 = Trên
phổ thông)
+
X3: Số thành viên của hộ gia đình sống phụ thuộc vào
trồng lúa (người)
+
X4: Có gặp rủi ro về thiên tai năm trước không? (0 =
không; 1 = có)
+
X5: Quan tâm về mức phí BHNN không? (0 = không; 1
= có)
+
X6: Logarit thu nhập từ trồng lúa của chủ hộ
+
X7: Diện tích trồng lúa? (ha)
+
2.3. Kết quả nghiên cứu
2.3.1. Kết quả thống kê mô tả
Bảng 2: Đặc điểm của hộ gia đình huyện trong mẫu điều tra
Thông tin mẫu khảo sát
Số quan sát
Tỷ lệ %
Chủ hộ có trình độ học vấn trên PTTH
59
29,5
Hộ có gặp rủi ro do thiên tai
75
37,5
Hộ biết về chương trình BHNN
179
89,5
Hộ có quan tâm tới phí BHNN
136
68
Hộ tham gia BHNN cho cây lúa năm 2022
116
58
Kết quả điều tra cho thấy, trong số các hộ
trồng lúa được phỏng vấn thì:
- Chỉ có 29,5% số chủ hộ có trình độ trên
PTTH, trên 70% số hộ còn lại có trình độ học
vấn từ phổ thông trở xuống. Đây là đặc điểm
chung của lao động nông nghiệp – nông thôn.
Trong bối cảnh lao động trong lĩnh vực nông
nghiệp chiếm tới 73,06% trong tổng số lao
động tại huyện Yên Thành (UBND huyện Yên
Thành, 2023), trình độ đào tạo thấp sẽ gây ra
bất lợi cho người trồng lúa trong tiếp thu kỹ
thuật và khoa học công nghệ sản xuất mới, tiến
tiến hiện đại và đạt năng suất cao hơn.

Tạp chí Khoa học, Tập 2, Số 3/2023
42
- Huyện Yên Thành nằm trong vùng khí
hậu khắc nghiệt, thiên tai đã ảnh hưởng khá
lớn đến hoạt động trồng lúa, gây nên những
rủi ro cho hộ nông dân. Có 37,5% hộ nông
dân được điều tra có gặp rủi ro trong năm
trước. Rủi ro ảnh hưởng đến năng suất, dẫn
tới ảnh hưởng đến thu nhập của hộ nông dân,
do vậy người nông dân mong muốn một công
cụ đảm bảo thu nhập khi rủi ro xảy ra. Do
vậy, BHNN là một lựa chọn có ích.
- Có tới 89,5% hộ gia đình biết về chương
trình BHNN, 68% số hộ quan tâm tới phí
BHNN nhưng chỉ có 58% hộ tham gia
chương trình BHNN cho cây lúa trong năm
2022. Như vậy có thế thấy lượng hộ tham gia
trong mẫu khảo sát khá đông nhưng cũng
phần lớn số hộ rất quan tâm tới phí BHNN
được chính phủ hỗ trợ, cũng dễ hiểu vì trong
các chương trình hỗ trợ phí bảo hiểm nông
nghiệp hướng đến các đối tượng một cách rõ
ràng. Cá nhân sản xuất nông nghiệp nếu
thuộc diện hộ nghèo hoặc cận nghèo sẽ được
hỗ trợ tối đa 90% phí bảo hiểm nông
nghiệp. Đối với cá nhân sản xuất nông
nghiệp nếu không thuộc diện hộ nghèo hoặc
cận nghèo sẽ được hỗ trợ tối đa 20% phí bảo
hiểm nông nghiệp. Đối với các tổ chức sản
xuất nông nghiệp theo mô hình hợp tác liên
kết, tập trung quy mô lớn ứng dụng khoa học
công nghệ và các quy trình sản xuất tiên tiến
hướng tới một nền nông nghiệp sạch, công
nghệ tiên tiến và thân thiện với môi trường sẽ
được hỗ trợ tối đa 20% phí bảo hiểm nông
nghiệp (UBND tỉnh Nghệ An, 2021).
Bảng 3: Tuổi chủ hộ, số thành viên trong gia đình, diện tích và thu nhập từ trồng lúa
trong mẫu điều tra
Chỉ tiêu
Trung bình
Nhỏ nhất
Lớn nhất
Tuổi của chủ hộ (tuổi)
43.23
23
67
Số thành viên gia đình (người)
3,95
2
6
Thu nhập từ hoạt động trồng lúa (triệu đồng/năm)
22,43
9
48
Diện tích trồng lúa của hộ (ha)
0,29
0,1
0,65
Qua bảng trên ta thấy:
- Tuổi trung bình thống kê trên mẫu là
43,23 tuổi (tuổi lớn nhất là 67 tuổi và tuổi nhỏ
nhất là 23 tuổi). Theo Nkonde & cs (2015):
“Chủ hộ có độ tuổi càng cao thì càng tích lũy
nhiều kinh nghiệm và hiểu được những thay
đổi của môi trường nên sẽ xử lý hiệu quả các
tình huống bất ngờ trong sản xuất”. Với độ
tuổi trung bình này là khá phù hợp, khi vừa
có thời gian tích lũy đủ kinh nghiệm và vừa
có được sự nhanh nhạy trong việc tiếp nhận
các thông tin khoa học kỹ thuật và có những
thích ứng với xu thế mới trong đó có bảo
hiểm nông nghiệp trong nghề trồng lúa.
- Bình quân trong một hộ gia đình có 3,95
thành viên tham gia vào hoạt động trồng lúa
và phụ thuộc vào thu nhập của hộ gia đình.
Theo Tổng cục thống kê (2021) “số nhân
khẩu bình quân một hộ gia đình Việt Nam là
3,6 người”, mà mỗi hộ nông dân nơi đây
trung bình có 3,95 người thì đây là con số khá
cao. Số thành viên trong hộ gia đình cao, hộ
gia đình phải san sẻ thu nhập từ hoạt động sản
xuất của mình, có nghĩa thu nhập bình quân
đầu người sẽ giảm. Mặt khác thành viên phụ
thuộc tăng sẽ phát sinh rất nhiều chi phí cho
sinh hoạt cuộc sống. Vì vậy, người nông dân
sẽ hạn chế tham gia bảo hiểm
- Ở phần trên, ta thấy thu nhập từ hoạt động
trồng lúa năm 2022, trung bình là 22,43 triệu
đồng/năm, trong đó hộ có mức thu nhập thấp
nhất là 9 triệu đồng và hộ có thu nhập từ hoạt
động trồng lúa cao nhất là 48 triệu đồng. Nhìn
chung thu nhập từ hoạt động trồng lúa còn khá