NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
17
NHÌN LẠI MỘT THẾ
KỈ NGHIÊN CỨU TÍN
NGƯƠNG DÂN GIAN
NGÔ ĐỨC THỊNH" -
PHẠM QUỲNH PHƯƠNG”'
đr" ngưỡng dân gian có tuổi đời dài
hơn rất nhiều so với lịch sử nghiên
cứu về nó. Là một thành tố của văn hóa
đân gian. tín ngưỡng dân gian còn là cội
nguồn lịch sử, gốc rễ nguyên thủy của
phần lớn các hiện tượng văn hóa dân gian
truyền thống. Nhìn lại một thế kỷ nghiên
cứu tín ngưỡng dân gian, cũng là để nhìn
nhận lại công việc nghiên cứu một thành
tố cơ bản và cũng phức tạp nhất của văn
hóa dân gian.
I. Trước thế kỷ XX. các tác phẩm có
đề cập tới tín ngưỡng dân gian chủ yếu là
từ hai nguồn: trước hết là nguồn ghi
chép, khảo cứu và sáng tác của các trí
thức nho học (các thể loại sách “truyền
kỳ”). Có thể kế đến các tác phẩm như
Việt điện u linh của Lý Tế Xuyên, Lĩnh
Nam chích quái của Vũ Quỳnh-Kiểu
Phú, Truyền kè mạn lục của Nguyễn Dữ,
Vũ trung tùy bút, Tang thương ngẫu lục
của Phạm Đình Hổ... Đặc biệt là việc san
định và phong thần của nhà nước ở thời
Hậu Lê, gắn với tên tuổi Nguyễn Bính.
Các câu chuyện mang tính huyền thoại
do các nhà nho sưu tầm và hệ thống hóa
°'`PGS, TS Viện Nghiên cứu văn hóa dân
gian.
°” Thạc sĩ, Viện Nghiên cứu văn hóa dân
gian
đã đáp ứng nhu cầu về tư tưởng và tâm
hinh trong quá trình xây dựng nhà nước
phong kiến tự chủ của cha ông ta, mặt
khác, nhờ vậy cũng đã cung cấp cho các
nhà nghiên cứu đời sau nhiều tư liệu về
sự tích của các vị thân linh nước Việt.
Nguồn tài liệu thứ hai được rút ra từ
sách của các sử gia và những nhà nghiên
cứu phong tục. Có thể kế tới Đại Việt sử
hí toàn thư của Ngô 6ï Liên, Đại Việt
thông sử của Lê Quí Đôn, Lịch triều tạp
kỉ của Ngô Cao Lãng và các sách dưới
dạng “chí như Dư địa chí của Nguyễn
Trãi, Lịch triều hiến chương loại chí của
Phan Huy Chú, Đại Nam nhất thống chí
của Quốc sử quán triểu Nguyễn...Bộ mặt
chung của tín ngưỡng dân gian Việt Nam
đã được ghi dấu trong các tác phẩm này
qua những thống kê về các đền, miếu,
thần linh, các lễ nghỉ, thần tích...Tuy
nhiên, chưa thể coi đây là các tác phẩm
nghiên cứu mà chỉ là những ghi chép, tập
hợp dưới dạng tư liệu, đây đó có xen vào
những lời bình phẩm đậm tư tưởng Nho
øì\áo.
1.1. Cˆng việc nghiên cứu tín ngưỡng
dân gian chỉ thực sự xuất hiện vào đầu
thế kỷ XX với ảnh hưởng của văn hóa
phương Tây. Tư duy phân tích, hệ thống
của triết học phương Tây thời cận hiện
đại dường như có ưu thế hơn nhân sinh
quan, vũ trụ quan phương Đông (nhìn sự
vật luôn như một chỉnh thể không chia
cắt rõ ràng) trong việc nghiên cứu khoa
học. Bởi vậy, các nhà nghiên cứu tín
ngưỡng đầu tiên ở nước ta lại là những
học giả Pháp như: P.Gourou, M.Durand,
G.Dumioutler, P.Giran, L.Cadiere,
Bonlfacy, H.Maspero, H.Parmentler,
P.Stern, Przyluski, H.Deletie....
Tác giả Dumoutler với bài viết năm
1898, miêu tả khá chỉ tiết những quan
sát về lễ hội Phù Đổng và tín ngưỡng thờ
18
NGÔ ĐỨC THỊNH-PHẠM QUỲNH PHƯƠNG
phụng như là thành phần “lễ” trong lễ
hội, được coi là người tiếp cận sớm nhất,
còn người viết tương đối nhiều hơn cả về
tín ngưỡng dân gian Việt Nam là linh
mục Leopold Cadiere. Trong suốt thời
gian sống ở nước ta, với mục đích truyền
bá giáo lý đạo Kitô từ xứ đạo này đến xứ
đạo khác, Cadiere đã quan sát, tìm hiểu
và để lại nhiều công trình nghiên cứu
nghiêm túc về ngôn ngữ, lịch sử và dân
tộc học Việt Nam, trong đó đáng chú ý
nhất là những bài viết về đân tộc học tôn
giáo. Có thể coi ông là người mở đường
cho những người nghiên cứu Việt Nam
đầu thế kỷ này. Những bài nghiên cứu về
tôn giáo của ông khá sâu sắc và tỉ mỉ,
dựa trên những quan sát điển dã ở những
nơi ông sống và làm việc. Ông cũng là
một trong những cộng sự đầu tiên của tờ
BEFEO với bài viết Tín ngưỡng tà ngạn
ngữ dân gian uùng thung lũng Nguồn
Sơn (1901), và sau đó là tờ BAH (Tạp chí
những người bạn Huế cổ). Ông để lại
nhiều nghiên cứu có giá trị về tín
ngưỡng tôn giáo Việt Nam như: Việc thờ
đá ở An nam (1911), Các tôn giáo ở An
nam (1913), Tín ngưởng uà uiệc thực
hành tôn giáo của người An nam uùng
quanh Huế (1918), Gia đình uà đạo giáo
ở xứ An nam (1930), Phép dưỡng nhì theo
ma thuật thần bí ở An nam (1937), Về các
tảng đá mang ý nghĩa tôn giáo ở người
Việt” (1943), Tín ngưỡng 0à thực hành
tôn giáo của người Việt (3 quyển vào các
năm 1944,1955,19ã56).... Cũng có một vài
tác giả đã có hướng nghiên cứu so sánh,
thí dụ như H.Maspero. Trong khi tiếp
cận các tôn giáo của Trung Quốc, đặc biệt
là Đạo giáo, ông đã có những đối chiếu
liên hệ với các tín ngưỡng dân gian ở
nước ta, thí dụ như bài Những phong tục
tang lễ của người Thái đen ở thượng du
Bắc Bộ...
Những đóng góp của các học giả
phương Tây rất đáng trân trọng. bởi
những công trình của họ đến hôm nay
vần còn có giá trị thực tiên, đặc biệt là
giá trị tư liệu.
1.2. Tuy thực dân Pháp xâm lược
nước ta từ giữa thế kỷ XIX nhưng lớp trí
thức (kế cä nhà Nho) chịu ảnh hưởng tư
tưởng cách tân mới bắt đầu hình thành
đội ngũ vào đầu thế kỷ XX. Trong các tác
phẩm. bài viết của Phan Bội Châu, Phan
Chu Trinh, chúng ta bắt đầu thấy xuất
hiện các tư tưởng mới. Đây cũng chính là
thơi kỳ mà Phan Bội Châu gọi là “thơi đại
từ đã man đến khai hóa” và Nguyễn Lộ
Trạch, Đặng Huy Trứ, Nguyễn Trường Tộ
là "những người đã giống cái mầm khai
hóa đầu tiên". Tuy bênh vực quyền tự do
tín ngưỡng của mọi người, coi đó như một
yêu cầu đoàn kết dân tộc chống thực dân
(Nguyễn Trường Tộ, Phan Bôi Châu),
nhưng chỉ phối bởi quan niệm Nho giáo
về qui thần, nhìn chung thái độ của các sĩ
phu yêu nước thời kì đầu thế kỉ là phê
phán hủ tục trong thực thi tín ngưỡng,
coi đó như là “cái đáng thương của dân
trí nước ta”. Ví dụ như trong Việt Nam
quốc sử bhdo có đoạn: “Đến như việc tế
thần, dùng xôi thịt, với những 10 bò 9 dê,
trăm cân nghìn bát thì thật là buồn cười.
Nếu cho là không có thần thì nỡ nào vứt
một số tiền hữu dụng để cúng tế những
cái mô đất, tượng gỗ vô ích như thế? Nếu
coi là có thần thì thần cũng chỉ là một hơi
phảng phất, đời nào lại đi ăn nhờ các
thức ăn hay khói lửa của dân gian để
sống, ăn uống no say, giết hại sinh vật
mà bảo là “kính thần thì thật là vô lý”?),
Cũng ở giai đoạn này, các học giả
Phan Kế Bính, Đào Duy Anh, Nguyễn
Văn Tố, Nguyễn Văn Khoan..là những
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
—==ETEE==E=
người tiên phong trong việc tìm hiểu tín
ngưỡng dân gian qua các lễ nghi, phong
tục. Đặc biệt, họ đã bước đầu quan tâm
tới việc phân loại tín ngưỡng. Phan Kế
Bính trong Việt Nam phong tục đã phân
chia tín ngưỡng chủ yếu theo các phương
thức nghi lễ: Phù thủy, đồng cốt, thanh
đồng, cô hồn. Đào Duy Anh trong Việt
Nam uăn hóa sử cương phân chia tín
ngưỡng theo địa bàn thờ cúng: Tế tự của
quốc gia, tế tự ở hương thôn, tế tự ở gia
tộc và tế tự trong dân gian. Tác giả
Nguyễn Văn Khoan lại quan niệm việc
thờ phụng của dân gian gồm ba loại: thờ
phụng các chư vị (Liễu Hạnh), thờ các
tướng của Trần Hưng Đạo, và thờ các
linh hồn đưới cõi âm...Trên các tạp chí
Tri Tân, Nam Phong đăng tải rãi rác một
số bài báo, một số phóng sự như Việc
làng, Vụ án cái đình của Ngô Tất Tố.
trong đó có chứa đựng bức tranh tín
ngưỡng ở nhiều làng quê. Nhìn chung,
quan điểm của các học giả đầu thế kỷ
chưa đi sâu vào học thuật mà chủ yếu chỉ
đã phá nạn xôi thịt hay các tập tục bị coi
là “nhảm nhí” như “cô hồn”, “đồng cốt”.
Thậm chí Phan Kế Bính còn cho rằng:
“đạo đồng cốt còn thịnh hành ngày nào
thì đân trí còn ngu xuẩn ngày ấy”?
Tuy nhiên, vẫn có một số nhà nghiên
cứu nhận ra được những nét bản sắc văn
hóa dân tộc ẩn sau các tín ngưỡng này,
như ý kiến của giáo sư Nguyễn Văn
Huyên: "Nghiên cứu về việc thờ phụng
các vị Thánh Bất tử, một ngày kia, người
ta có thể thấy vai trò lịch sử của dân tộc
Viêt Nam ở Đông Nam Á trong việc xây
dựng những khái niệm tôn giáo và luận
đề văn chương. Dân tộc này không chịu
sao chép những gì của Trung Quốc mà tự
tạo lấy cuộc sống riêng trong trường kỳ
lịch sử vẫn luôn luôn được thanh xuân
hóa”“”, Có thể nói, trong nửa đầu thế kỷ,
19
giáo sư Nguyễn Văn Huyên là học giả
tâm huyết nhất, dành nhiều công sức
nhất và có nhiều thành công nhất trong
nghiên cứu vấn để phức tạp này. Trong
tổng số 4ð công trình của ông đã có 90
công trình đề cập đến các khía cạnh khác
nhau của tín ngưỡng và lễ nghi của dân
tộc, ví dụ: Sự phụng thờ các thần bất tử ở
Việt nam, Công xã làng 0à uiệc thờ thần
Thành hoàng, Sự tôn thờ Pháp Vũ-thần
Mưa, Mai táng giờ bị trong tín ngưỡng
Việt nam...Qua các công trình của ông
chúng ta thấy toát lên sự trân trọng đối
với những giá trị dân tộc. Trong phần kết
của bài tuuyết trình về “Tục thờ Pháp
Vũ-nữ thần Mưa”, ông đã khẳng định
rằng: “Như tôi đã nhiều lần cố gắng làm
sáng tỏ qua các tục thờ khác, một lần nữa
có thể thấy rằng thiên tài của nhân dân
Việt Nam cho dù thời gian đã trôi qua,
cho đù một vài chính giáo nào đó cố uy
tín đến đâu, rất có thể chính là nhờ tinh
thần khoan dung của mình đã đạt tới
những quan niệm tâm linh được sản sinh
trên mảnh đất nóng bỏng và sống động
này, đã làm cho đất nước này, với những
nỗ lực không ngừng thanh xuân hóa. có
được một tổng thể tôn giáo độc đáo và
tích cực”. Ông cũng đã nhiều lần nhấn
mạnh tần: quan trọng của việc nghiên
cứu tín ngưỡng dân gian: nếu không
nghiên cứu tín ngưỡng, lễ nghi và phong
tục thì không thể hiểu được những giá trị
tiềm ẩn trong một nền văn hóa dân tộc.
Với phương pháp tiếp cận có hệ thống,
cùng với một thái độ khách quan, Nguyễn
Văn Huyên đã để lại nhiều công trình
nghiên cứu về tín ngưỡng dân gian mà
chúng vẫn còn nguyên giá trị đối với hiện
tại và mai sau. Cách tiếp cận của ông
tương đối gần gũi với các học giả người
Pháp: không có xu hướng khái quát hoá
hay lý luận cao xa, mà chú trọng vào việc
20
NGÔ ĐỨC THỊNH-PHẠM QUỲNH PHƯƠNG
—————ễễễễễễEEEE Tờ
mô tả chỉ tiết một cách cẩn trọng. nhờ đó
có giá trị tư liệu quí giá. Ví như trong bài
Góp phần nghiên cứu một uị phúc thần
An nam Lý Phục Man, giáo sư đã cũng
cấp một danh mục tên những làng có thờ
chung một vị thần, ví dụ 20 làng thờ Lý
Bí, 31 làng thơ Triệu Quang Phục, 108
làng thờ Trương Hống, Trương Hát...Từ
đó người ta có thể nhận ra bối cảnh kinh
tế-văn hóa-xã hội, như đường dây liên
kết mỗi hình thức tín ngưỡng...
Có thể nói. nửa đầu thế kỷ XX là một
giai đoạn khá quan trọng, đặt nền móng
cho quá trình nhận thức của những người
quan tâm đến nền văn hóa dân tộc và
cũng là giai đoạn xuất hiện một số công
trình đáng chú ý, làm cơ sở cho công việc
nghiên cứu của thế hệ sau. Phương pháp
tiếp cận của các học giả Pháp-Việt thời kì
này chịu ảnh hưởng trường phái xã hội
học của nhân học Pháp. có một số điểm
gần gũi: Coi tín ngưỡng như một yếu tố
gắn bó với văn hóa dân tộc, là thành tố
cấu thành nghỉ lễ, phong tục và lễ hội. Sự
chu đáo, cần trọng, tỉ mỉ cũng như
phương pháp quan sát thực địa của họ
vẫn đáng để thế hệ các nhà nghiên cứu
hôm nay phải học tập.
2. Nửa cuối thế kỷ XX là thời kỳ lịch
sử dân tộc sang trang. Đất nước đã khẳng
định quyền độc lập, dân tộc được giải
phóng, trình độ dân trí đã được nâng cao
một bước đáng kể. Nhưng nhu cầu tâm
linh vẫn tôn tại dai đẳng, bền bỉ trong đời
sống tinh thần của mỗi con người. Trong
khi đó, ở thời kỳ này, với mục tiêu làm
cho “hệ tư tưởng của chủ nghĩa Mác -
Lênin trở thành hệ tư tưởng của toàn
dân”, các nhà nghiên cứu khoa học xã hội
nói chung và tôn giáo tín ngưỡng nói
riêng được vũ trang bởi thế giới quan duy
vật biện chứng, duy vật lịch sử, và chịu
ảnh hưởnz quan niệm chung của chủ
nghĩa vô thần. Hướng tìm tòi Khảo sát và
lý giải phần lớn được qui chiếu bởi tư
tưởng kinh điển của chủ nghĩa Mác và
đường lối chính sách của Đăng và Nhà
nước về tôn giáo. Có những nơi. những
lúc, những hiện tượng tôn giáo tín
ngưỡng vốn hết sức phức tạp này được
quan niệm và xử lý một cách giản đơn và
tả khuynh, đân tới những hậu quả đáng
tiếc. Tuy nhiên, sự biến động của đời
sống xã hội đã dẫn đến những biến động
trong đời sống tình thần của nhân dân và
cả những thay đổi trong quan điểm chính
sách của Đảng và Nhà nước đối với vấn
đề tôn giáo - tín ngưỡng. Điều này tất
nhiên ảnh hưởng quan trọng tới công việc
nghiên cứu của các nhà khoa học. Có thể
tạm phân chia thành hai giai đoạn với
mốc là trước và sau thời kỳ đổi mới (Đại
hội Đăng lần thứ VI năm 1986).
2.1. Trước những năm 80, tình hình
kinh tế - chính trị - xã hội ở nước ta
không có những điều kiện khách quan và
chủ quan cần thiết để quan tâm tới vấn
để tôn giáo tín ngưỡng. Sau chín năm
kháng chiến chống Pháp trường kì, đất
nước ta lại bị chia cắt. Tuy miền Bắc bắt
tay vào xêy dựng xã hội mới nhưng thực
_ chất cũng là để chỉ viện cho miền Nam và
trực tiếp chiến đấu chống chiến tranh
phá hoại của Mỹ. Trong bối cảnh ấy tất
cả phải giành cho cuộc kháng chiến
chống Mỹ cứu nước, nên có nhiều nhu
cầu - trong đó có nhu cầu tâm linh - bị
dồn nén, kiềm chế. Mặt khác, do nhận
thức chủ quan và những thành kiến lịch
sử, ở nhiều nơi đã nầy sinh thái độ kỳ thị
tôn giáo tín ngưỡng, nhiều đi tích bị tàn
phá, huỷ hoại, gây ra những vết thương
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
21
—
—— BC CC ccẽỆ€QCCCCCCCCCCCCC.Ộ.. h7 CC
tâm lý tình cảm trong lòng quần chúng
lao động. Trên diễn đàn công khai, chỉ có
một số rất ít nhà nghiên cứu bàn tới văn
đề này, và nếu có thì cũng với tư tuởng
chủ đạo “tôn giáo là thuốc phiện của
nhân dân” hiểu theo nghĩa thô thiển và
giản đơn nhất. Chính vì thế, trong các
sách báo ở Sài Gòn trước năm 1975 đã có
nhiều kế lợi dụng lớn tiếng công kích “sự
vô thần” và cho rằng những người cộng
sản không có niềm tin, có cộng sản thì
không có tôn giáo, và ngược lại. °)
Nếu đánh giá một cách khách quan
thì trong giai đoạn 1954 - 1975, các học
øii miền Nam quan tâm tới vấn để tín
ngưỡng nhiều hơn. Một số tạp chí như
Văn hoá nguyệt san, Bách Khoa, Hồn
nước, Tập san sử địa, Việt Nam bhdo
cổ....đăng tải lẻ tế nhưng khá nhiều bài
đưới đạng miêu tả phong tục hay lễ hội.
ví dụ như “Sự quan trọng của lễ động thổ
đâu năm trong xã hột Việt Nam đời trước
uà bây giờ” của Tiêu Liên (Tạp chí mới,
1953).” Thánh địa Lí Ta Ao” của Đỗ Nam
(Thế giới, 1956) "Tôn giáo của người
Chàm ở Việt nam” của Nghiêm Thẩm
(Quê hương 1969), “Bói đầu năm” của Hồ
Hữu Tường (Tập san sử địa. 1967), “Tín
ngưỡng uà cổ tục tôn thờ thần linh biển
cả tại Bình Thuận” của Lê Hữu Lễ (Văn
hóa tập san, 1970), “Ngh: thức cúng đình
làng ở nhà quê” của Phong An (Hồn nước,
1H71}.
Đáng chú ý nhất. theo chúng tôi là
một số cuốn sách. bài viết của hai tác giả
Toan Ánh và Nguyễn Đăng Thục. Toan
ánh viết khá nhiều về tín ngưỡng. mà sau
này đã được chọn tái bản trong cuốn Nếp
cũ - Tín ngưỡng Việt nam. Nguyễn Đăng
Thục quan tâm tới “Ý thức thần thoại và
tín ngưỡng thần linh”, Tứ bất tử hay
Trường Đạo nội và cũng đã chú ý tới tín
ngưỡng thờ Mẫu. Nhưng hai tác giả này
tiếp cận tín ngưỡng dân gian từ hai con
đường khác nhau. Nếu Toan Ánh tiếp cận
tín ngưỡng từ góc độ lễ hội, phong tục thì
Nguyễn Đăng Thục xuất phát từ việc
nghiên cứu lịch sử tư tưởng Việt Nam.
Nếu các bài viết của Toan Ánh nặng tính
chất miêu thuật, thì Nguyễn Đăng Thục
căn cứ chủ yếu vào thần thoại, truyền
thuyết đã vạch ra những đặc điểm của tư
tưởng bình dân Việt Nam vốn In đậm nét
những quan niệm tín ngưỡng truyền
thống. Những trang viết của ông về Đạo
nội có nhiều nhận xét rất sắc sảo và
thuyết phục.
2.2. Sau đại thắng mùa xuân năm
1975, Tổ quốc được hoàn toàn độc lập.
thống nhất, nhưng lại phải đối diện với
những tổn thất đọng lại của chiến tranh,
lúc này mới có giây phút bình tâm để
nhận ra nổi đau của mình: nhà cửa tan
nát, mất mát người thân và biết bao hậu
quả xã hội sau cuộc chiến. Những bí ẩn
của cõi tâm linh - vốn có gốc rễ từ xa xưa
- được người ta lại lao công tìm kiếm.
Cùng với những thay đổi của chính sách
về nông nghiệp, nông thôn và nông dân,
làng quê Việt Nam đã có nét khởi sắc.
Những cuộc hội làng, họp họ, họp đồng
hương đường như bùng nổ. Những người
bỏ công sức đi tìm hiểu ghi chép gia phả
họ mạc, tên tạo mồ mả tổ tiên, đi tìm lại
đi hài của người thân, phần lớn lại chính
là những người đã hiến dâng những năm
tháng tuổi trẻ và cä máu xương trong các
cuộc kháng chiến lâu đài và gian khổ.
Đình chùa miếu mạo, lễ hội truyền thống
trong các làng quê...vì thế đã tự hồi sinh.
Đó là một thực tế buộc các nhà khoa học
có ý thức về bản sắc văn hoá dân tộc phải
lưu tâm.
L5
L-5
Trong quản lí và nghiên cứu tôn giáo,
định hướng của Đảng và Nhà nước cũng
có những thay đổi, cả về tổ chức, cả về
quan niệm. Bên cạnh Ban Tôn giáo chính
phủ phải chịu trách nhiệm quản lý về
Nhà nước, đã xuất hiện một cơ quan
nghiên cứu khoa học chuyên ngành: Viện
Nghiên cứu Tôn giáo thuộc Trung tâm
Khoa học Xã hội và Nhân văn Quốc gia.
Ngoài ra, Viện Nghiên cứu Văn hóa dân
gian, Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam
cũng là các tổ chức có đóng góp đặc biệt
quan trọng trong công việc nghiên cứu
tín ngưỡng dân gian. Ở các tỉnh thành,
trong cơ quan tổ chức chính quyền cũng
thành lập Ban Tôn giáo. Nhiều nghị
quyết, nghị định, thông tư của Đảng và
Chính phủ có liên quan đến tín ngưỡng -
tôn giáo được ban hành. Chẳng hạn như
Nghị quyết số 24 của BCHTW Đảng, nghị
định về vấn đề hội đền đình chùa... Đặc
biệt, nội dung của các văn bản này có sự
đổi mới cơ bản về nhận thức. Ví dụ như
nghị quyết TWã về xây dựng và phát
triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến và
đậm đà bản sắc dân tộc đã thể hiện rõ
ràng quan điểm của Đảng và Nhà nước
ta: “Tôn trọng tự do tín ngưỡng và không
tín ngưỡng của nhân dân, bảo đâm cho
các tôn giáo hoạt động bình thường trên
cơ sở tôn trọng pháp luật, nghiêm cấm
xâm phạm tự do tín ngưỡng và không tín
ngưỡng. Thực hiện nhất quán chính sách
đoàn kết dân tộc. Khuyến khích ý tưởng
công bằng, bác ái, hướng thiện trong tôn
giáo, đồng thời tuyên truyền, giáo dục,
khắc phục tệ nạn mê tín dị đoan, chống
lại việc lợi dụng tôn giáo, tín ngưỡng để
thực hiện ý đồ xấu”. Điều này cũng được
khẳng định lại trong dự thảo báo cáo
chính trị sẽ trình tại Đại hội 9: “Đảng coi
NGÔ ĐỨC THỊNH-PHẠM QUỲNH PHƯƠNG
tín ngưỡng là một nhu cầu của một bộ
phận nhân dân...Cần phát huy những giá
trị tốt về văn hoá, đạo đức của tôn
giáo... Như vậy bên cạnh những tư
tưởng đã được khẳng định lâu nay như
"tự do tín ngưỡng và tự do không tín
ngưỡng”, “chống hủ tục mê tín dị đoan”,
“nghiêm cấm những hành vi lợi dụng tôn
giáo để chống lại nhà nước”, đã xuất hiện
những quan niệm mới như: Thừa nhận
hoạt động tôn giáo là một hoạt động xã
hội như mọi hoạt động xã hội khác,
khăng định đời sống tôn giáo là quyền
lợi, nhu cầu của một bộ phận nhân dân
mà nhà nước cần tôn trọng, đặc biệt là
việc nhấn mạnh mặt tích cực của văn
hoá, đạo đức tôn giáo đối với công cuộc
xây dựng xã hội mới. Đây chính là kết
quả của một sự kế thừa những tư tưởng
của Chủ tịch Hồ Chí Minh về thái độ đối
với tôn gìáo tín ngưỡng và cũng là sự
thay đối cần thiết phù hợp với những đòi
hỏi mới của lịch sử.
3. Quan điểm khoa học đúng đắn
trong chính sách tôn giáo, một mặt là kết
quả của quá trình nghiên cứu khoa học
nghiêm túc, mặt khác nó cũng đã tháo bỏ
những vướng mắc tư tưởng và tạo điều
kiện thuận lợi cho hướng đi nghiên cứu
công khai và ngày càng sâu sắc. Hơn nữa
ý thức về việc bảo tôn bản sắc của văn
hoá dân tộc trước khuynh hướng toàn cầu
hoá đã là nguyên nhân, nội lực thúc đẩy
quá trình này. Những vấn để tôn giáo nói
chung và iín ngưỡng đân gian nói riêng
đã được các nhà khoa học tiếp cận từ
nhiều góc độ và đạt được nhiều thành tựu
nhất định.
3.1. Trước hết cần nhắc tới những
đóng góp của các nhà triết học, xã hội học
và tôn giáo học. Nhiều cuốn sách, nhiều
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
2ð
TC SGGSGSB—— ___ Đ£ễỆ£ệễệỆễŸễệễỄễẽ CC
bài khảo cứu lý luận chung về tôn giáo đã
được viết, được dịch và xuất bản rộng rãi.
Có thể kể đến một số cuốn sách của Viện
Nghiên cứu tôn giáo như Về Tôn giáo,
Những uấn đề tôn giáo hiện nay, Về tôn
giáo tín ngưỡng Việt Nam hiện nay...Cấc
quan điểm tôn giáo của Mác, Phơ bách,
Hồ Chí Minh, Dukheim... được tìm hiểu,
phân tích và trao đổi nhằm hạn chế cách
lí giải giản đơn một chiều. Những mối
quan hệ phức tạp giữa tôn giáo và chính
trị. giữa đạo đức tôn giáo và lý tưởng đạo
đức của người cộng sản cũng được đề cập
đến với tinh thần khách quan công bằng
trên các tạp chí Triết học, Cộng sản, Giáo
dục lý luận.... Tuy nhiên các nhà triết
học, tôn giáo học chủ yếu quan tâm tới
các tôn giáo lớn như Ki tô, Phật, Đạo và
một số tôn giáo địa phương như Cao đài,
Hoà Hảo...mà ít quan tâm tới tín ngưỡng
đân gian. Nếu có đề cập đến ít nhiều
cũng chỉ vì xuất phát từ thực tế: các tôn
giáo lớn khi vào Việt Nam đã buộc phải
chấp nhận dung hoà với các tín ngưỡng
dân gian để có thể tổn tại. Bởi vậy, đã
hình thành các khái niệm “Phật giáo dân
gian” hay “Đạo giáo dân gian” như những
biến thái của tôn giáo chính thống.
3.2. Nếu việc nghiên cứu các tôn giáo
lớn thường đi trực diện vào các giáo lý
như Tân ước, Cựu ước, kinh Phật, để giải
mã các nghi thức thì công việc nghiên
cứu tín ngưỡng dân gian lại đi theo con
đường ngược lại. Nhà nghiên cứu phải
căn cứ từ những dấu hiệu vật chất,
những biểu hiện cụ thể của lễ nghỉ để
giải mã niềm tin sâu xa mà con người đã
gửi gắm trong tín ngưỡng. Chính vì thế
tín ngưỡng dân gian lại chủ yếu giành
được sự quan tâm, phát hiện của các nhà
dân tộc học và Folklore học trong quá
trình điền đã.
Các nhà nghiên cứu văn hoá dân gian
từ chỗ không quan -tâm lắm đến vấn đề
tín ngưỡng đã dần dân coi đó là một
thành tố của văn hoá dân gian, hay từ tín
ngưỡng dân gian tiếp cận với văn hóa
truyền thống dân tộc. Theo phương pháp
nghiên cứu chuyên ngành, tín ngưỡng
dân gian được tiếp cận thông qua việc
khảo sát Cấu hiệu vật chất của các hiện
tượng văn hoá. Có thể kế tới một số dạng
thức như:
- Dạng ngôn tử (thành văn hoặc
truyền miệng). Trong kho tàng truyện cổ
tích, thần thoại, truyền thuyết, ca dao,
dân ca, các vở chèo, văn chầu, giáng bút,
văn tế, văn khấn, và cả các hương ước
cổ...người ta thu thập được rất nhiều tư
liệu về tín ngưỡng. Nghiên cứu các bài
văn chầu lễ Mẫu đã được xuất bản trong
công trình Đạo Mẫu ở Việt Nam (1996),
chúng ta nhận ra một hệ thống thần điện
phong phú và hoàn chỉnh. Trong hàng
loạt các bản hương ước cổ được sưu tầm,
xuất bản, giới thiệu gần đây như: Hương
ước Thái Bình, Hà Tây, Hà Tĩnh, Nghệ
An, Thanh Hoá..., tín ngưỡng thờ Thành
hoàng trong các làng quê có thể được
hình dung khá rõ qua những quy ước về
luật lệ thở cúng...
- Dạng uật thể. Các di tích kiến trúc
đình, chùa, đền, phủ với các tác phẩm
điêu khắc (tượng và phù điêu trang trí,
tranh thờ...được coi là đối tượng nghiên
cứu của những nhà mỹ thuật dân gian.
Ngoài những cuốn sách mang tính tổng
hợp như : ÄMĩ (huật của người Việt, Mĩ
thuật ở làng của Nguyễn Quân và Phan
Cẩm Thượng, Hình tượng con người trong
nghệ thuật tạo hình của Trầp Lâm
Biển...còn có hàng trăm bài viết về mĩ
thuật dân gian trên các tạp chí. Trong
24
NGÔ ĐỨC THỊNH-PHẠM QUỲNH PHƯƠNG
——— ————=ễễễEEEEEEEŸễỶEEEETcc..---ồ5Š-555 5
các cuốn sách, bài viết này tín ngưỡng
được khẳng định như là một nội dung
quan trọng hàm chứa bên trong các hình
tượng nghệ thuật. Ví dụ. theo các nhà
nghiên cứu, màu sơn cánh gián của
tượng, mô típ rồng vờn mây hay cảnh
nam nữ vui đùa... được coi như biểu
tượng của tín ngưỡng phồn thực, của
khát vọng trường tồn của con người. Các
phong cách kiến trúc như hai tầng tắm
mái, nhà chữ công, chữ quốc..đều là
những dấu hiệu vật chất của quan niệm
tín ngưỡng.
- Dạng tổng hợp. Lễ hội là một sinh
hoạt văn hoá dân gian tổng thể. Trong lễ
hội có sự tổn tại đan xen các hoạt động
sáng tạo thuộc nhiều loại hình nghệ
thuật: văn chương (truyền thuyết, thần
tích), điễn xướng (âm nhạc, múa thiêng),
mĩ thuật (Kiến trúc, di tích, trang trí lễ,
trang phục hội người
dự)....Vùng lễ hội và những ngày lễ hội là
không - thời gian thiêng nhất trong năm
để con người bộc lộ tất cả quan niệm tâm
linh của mình. Trong các lễ hội truyền
thống, lễ thần là lý đo đầu tiên và cơ bản
để mở hội. Vì thế các công trình về lễ hội
(đù miễu thuật hay nghiên cứu) cũng là
những công trình hoặc cung cấp tư liệu
của tham
hoặc trực tiếp nghiên cứu về tín ngưỡng.
Những nhận định về tín ngưỡng trong lễ
hội đã đậm nét hơn trong các bài viết.
Một số cuộc hội thảo về lễ hội được tổ
chức, nhiều cuốn sách và hàng trăm bài
viết đã được công bố. Kho tư liệu phong
phú này cho thấy đời sống tín ngưỡng của
nhân dân là một hiện thực, dù có lúc
không được quan tâm, nhưng nó vẫn tiểm
ấn sâu sắc và thương trực.
Những dấu hiệu vật chất ấy của các
hiện tượng văn hoá đân gian được các
nhà nghiên cứu quan sát. tiếp cận và giải
mã. Từ chỗ chỉ col tín ngưỡng như mìột
mặt, một khía cạnh nhỏ trong nội dung
của công trình. đã đần dân xuất hiện
những tác phẩm chuyên khão, những bài
viết chuyên để về tín ngưỡng dân gian.
Có thể kể tới một số công trình mang
tính tổng hợp khái quát như : Tín ngưỡng
Uuà sinh hoạt uăn hoá dân gian (Ngô Đức
Thịnh chủ biên. sắp xuất bản), Tiếp cận
tín ngưỡng dân dã (Nguyễn Minh San),
Tín ngưởng làng xã (Vũ Ngọc Khánh),
Tín ngưỡng dân gian Huế (Trần Đại
Vinh), Thờ cúng dân gian uùng người
Tày - Nùng (Dương Sách và Dương
Bình).... Một số tác phẩm khác có tính
chất chuyên sâu về một hình thái tín
ngưỡng như Đạo Mẫu ở Việt Nam (Ngô
Đức Thịnh chủ biên), Tín ngường thờ
Thành hoàng (Nguyễn Duy Hinh), Tín
ngưởng thờ Thành hoàng của người Việt
ở châu thổ Bác bộ (Vũ Ngọc Khánh chủ
biên, chưa xuất bản), Tứ Bất tử (Vũ Ngọc
Khánh và Ngô Đức Thịnh), Tín ngưỡng
phôn thực (Trần Gia Linh), Tín ngưỡng
Then - To - Mo (Hà Đình Thành chủ
biên, chưa xuất bản), Then của người Tày
ở Cao Bảng (Nguyễn Thị Yên, chưa xuất
bản)... Trong số những công trình
chuyên khảo tín ngưỡng của những thập
niên cuối thế kỷ này rất cần nhắc tới
cuốn Thẩn, người uà đất Việt (1989),
của một người Việt ở nước ngoài - Tạ Chí
Đại Trường. Trong gần bốn trăm trang
sách, tác gia đã phân tích khá sâu sự
hình thành của hệ thống thần linh trên
đất Việt. Trên cơ sở phân tích các dữ kiện
hỗn độn, phức tạp của các lớp thần thoại,
truyền thuyết, tác giả đã trình bày, dự
đoán về ác bước biến chuyển của hệ
thống đó theo dòng lịch sử của các triều
đại phong kiến cũng như ở những không
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỐI
25
———Ee 7= —
gian văn hóa từ Bắc xuống Nam. Tác giả
cũng đã lý giải hiện tượng thần linh biến
dạng cũng như sự xuất hiện những thần
linh mới đến như là kết quả của quá
trình giao thoa văn hóa. giữa văn hóa các
vùng miền, giữa văn hóa bản địa và văn
hóa ngoại laI.
Có thể nói, nhìn vào các công trình
nghiên cứu đã công bố, hầu hết các hình
thức tín ngưỡng dân gian của người Việt
và nhiều tộc người thiểu số đã được tiếp
cận, khám phá ít nhiều. Đặc biệt có một
số tín ngưỡng thu hút được sự quan tâm
của nhiều người nghiên cứu hơn, đó là
thờ cúng tổ tiên, thờ Thành hoàng và thờ
Mẫu. Thờ cúng tổ tiên là tín ngưỡng được
chú ý nhiều bởi đó là hình thái tổn tại
phổ biến ở hầu hết các tộc người trên đất
nước ta và như giáo sư Nguyễn Đổng Chỉ
đã nhận xét: “Với lòng tôn sùng tổ tiên,
người Việt Nam đã đặt tất cả các tín
ngưỡng tôn giáo khác xuống hàng thứ
yếu””, Hơn nữa đây cũng là tín ngưỡng
được các thể chế chính trị từ xưa đến nay
luôn trân trọng thừa nhận dù với những
mức độ khác nhau. Khi nghiên cứu hình
thức này, các tác giả đã tập trung tìm
hiểu nguồn gốc, bản chất và nhất là ảnh
hưởng của Nho giáo, Đạo giáo, Phật giáo
đối với tín ngưỡng này. Đáng chú ý là có
một nghiên cứu sinh nước ngoài khi
nghiên cứu văn hóa Việt Nam đã lựa
chọn vấn đề thờ cúng tổ tiên của người
Việt trong sự đối sánh với tín ngưỡng này
ở các nước Đông Á. Tuy nhiên, nội hàm
của khái niệm “tổ tiên” vẫn chưa được
thống nhất. Nhiều tác giả coi tổ tiên chỉ
giới hạn trong quan hệ huyết thống: tổ
nhà, tổ họ. Một số tác giả khác, trong đó
có các tác giả bài này, đã mở rộng khái
niệm thờ cúng tổ tiên ra phạm vi cả nước
- thờ cúng thủy tổ dân tộc - Vua Hùng.
Điều này có thể lý giải từ hai khía cạnh,
khía cạnh huyền thoại (suy nguyên)
mang tính huyết thống về một “bọc
trứng” sinh thành và cả dân tộc và khía
cạnh xã hột, từ tâm thức của người Việt
theo xu hướng thân tộc hóa các quan hệ
xã hội ở phạm vi Làng và Nước. Rộng rãi
hơn nữa, có những tác giả lại có khuynh
hướng sử dụng nội hàm “tổ tiên” bao gồm
tất cả các vị tổ, kể cả tổ làng. tổ nghề.
Trong chùng mực nào đó, việc mở rộng đã
khiến thờ cúng tổ tiên hòa vào tín
ngưỡng thờ Thành hoàng vì hầu như các
vị tổ làng, tổ nghề sau khi được đân thờ
phụng thường được triều đình phong làm
thành hoàng.
Khác với tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên
có vai trò gắn kết cộng đồng huyết thống,
tín ngưởng thờ Thành hoàng cộng mệnh
những con người thuộc cộng đồng làng
xã. Vấn để thờ Thành hoàng đã được bàn
đến khá sớm trong một số tác phẩm của
Nguyễn Văn Huyên, Nguyễn Văn Khoan,
Nguyễn Bá Lãng...Ngay trong một cuốn
sách như ông thôn Việt Nam trong lịch
sử xuất bản năm 1978 cũng đã có tới vài
bài để cập đến vấn để này, vì các tác giả
đều nhận thấy “Thần Thành hoàng tượng
trưng cho sự thống nhất vận mệnh của
một cộng đồng sống chung trên một vùng
lãnh thổ ” và “Trong quan niệm tín
ngưỡng thành hoàng bao hàm và chằng
chéo nhiều tàn dư tín ngưỡng nguyên
thủy tô tem giáo, vật linh luận. bái vật
giáo và cả những mảnh vụn của các tôn
giáo tín ngưỡng của thời đại có gial cấp
như Đạo giáo, Phật giáo và cả Nho
giáo”? Bàn về xuất xứ của tín ngưỡng
cũng có ý kiến khác nhau : đó là tín
ngưỡng du nhập từ Trung Quốc vào thời
26
NGÔ ĐỨC THỊNH-PHAM QUỲNH PHƯƠNG
Kì thuộc Hán, hoặc vẫn là tín ngưỡng bản
địa ( thờ thần tự nhiên và phúc thần) có
vay mượn danh hiệu “Thành hoàng”. Giải
thích hiện tượng có tính phổ biến trong
các làng quê: trước hết thần là do dân tôn
sùng, sau đó triểu đình phong tặng mĩ
hiệu, các tác giả cho rằng có hai lí đo:
Nhà nước quân chủ tập quyền cố vươn
tay nắm lấy các làng xã, bao gồm cả
không gian thiêng của nó, và “triều đình
Việt Nam đã thành công trong việc quân
chủ hoá nhân vật Thành hoàng”; mặt
khác, còn có lý do từ lợi ích của các làng
xã. Việc triều đình phong chức cho Thần
đã tạo điều kiện cho các làng xã “nâng
cấp” vị thần bản thổ, vừa tránh cho các
“đâm thần”, “đâm từ (heo quan điểm của
nhà nước Nho giáo) tránh khỏi sự đàn áp
của nhà nước. Chính từ sự kết hợp này,
Thần của Vua và Thần của dân nhập vào
làm một, nên có một số tác giả đã nhận
xét về tính phức tạp của nghỉ lễ: Cúng
Thần của vua theo điển lễ, cúng thần của
đân lại theo tập tục”.
Nhiều tác giả trên cơ sở phân tích các
hương - khoán ước và kiến trúc - trang
trí đình làng đã phát hiện ra những nhận
xét thú vị về hình thức tín ngưỡng này.
Thí dụ như xem xét những biến đổi của
kiến trúc đình trong lịch sử, các nhà mỹ
thuật nhận xét : “Đình cuối thế kỷ XVII
thường xây chữ nhất, thành viên công xã
có thể hành lễ ở chỗ nào cùng được”.
“Hình thức tế có lẽ chưa hình thành,
thần và người còn gần gũi. Nhưng khi
Thành hoàng được phong kiến hoá, vua
ban sắc thường xuyên thì các đình sau
này được xây dựng thêm hậu cung cho uy
nghiêm, đần đần thêm nhà tiền tế, tả vu,
hữu vu”, Các tác giả còn quan tâm tới
sự khác biệt của tín ngưỡng Thành hoàng
giữa làng Việt Bắc Bộ và làng Việt Nam
Bộ. giữa làng buôn, làng biển và làng
nông. Ngày nay. bên cạnh những công
trình mang tính tổng hợp thần tích như
Thành hoàng Việt Nam hai tập của Phạm
Minh Thảo, Trần Thị An và Bùi Xuân
Mỹ, Sự tích các bà Thành hoàng của Đỗ
Thị Hảo.... đã xuất hiện một chuyên khao
khá bề thế và sâu sắc Tín ngưỡng
Thành hoàng Việt Nam của GS.
Nguyễn Duy Hinh. Trong cuốn sách dày
dặn của mình, với khá đây đủ các tư liệu
Hán Nôm. ông đã dựng lên bộ mặt chung
của thần điện Thành hoàng Việt Nam, lý
giải nguồn gốc cũng như nội dung. bản
chất của việc thở phụng Thành hoàng.
Ông viết rằng: “Nước ta có hai hệ Thành
hoàng khác nhau: hệ Thành hoàng kiểu
Trung Quốc và hệ Thành hoàng làng của
người Việt”””, Căn cứ vào bản chất của
các vị thân, cuốn sách đã phân Thành
hoàng ra làm bốn loại: Sơn thần và Thủy
thần; Thần Đá, Cây, Rừng, Đất: Thiên
thần (những nhân vật thần tiên không
phải lịch sử); Nhân thần.
Từ góc độ văn hóa dân gian, Viện
Nghiên cứu văn hóa dân gian đã hoàn
thành công trình Tín ngưỡng thờ Thành
hoàng của người Việt ở châu thổ Bác Bộ
do PGS.Vũ Ngọc Khánh chủ biên. Các tác
giả đã đưa ra những lý giải về nguồn gốc
của tục thờ Thành hoàng, phân loại trên
một ngàn vị Thành hoàng ở châu thổ Bắc
Bộ, các hình thức thờ cúng và nghỉ lễ,
đặc biệt là Hội làng và tục hèm, một
trong những nét độc đáo nhất của tục thờ
Thành hoàng của người Việt.
Tín ngưỡng thờ Mẫu uà nghỉ thúc
hầu đông được đặc biệt chú ý trong thập
niên gần đây. Trong cuộc hội thảo khoa
học dưới góc độ folklore mang tên Thền
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
27
thoại uà truyền thuyết uêề Mẫu Liễu
(1992). vấn đề về tín ngưỡng thờ Mẫu nói
chung và thờ Liễu Hạnh nói riêng đã bắt
đầu được đưa ra trao đổi. Sau đó nhiều
sinh viên và nghiên cứu sinh đã chọn đề
tài này để viết luận văn, luận án tốt
nghiệp. Càng ngày càng xuất hiện nhiều
chuyên khảo về Mẫu, thí dụ như : Đạo
Mẫu ở Việt Nam, Tam tòa Thánh Mẫu,
Công chúa Liễu Hạnh, Bà chúa Liễu, rất
nhiều vấn để phức tạp xoay quanh tín
ngưỡng này được đưa ra, từ khái niệm,
bản chất, nguồn gốc cho đến nghi thức.
Nội hàm “thờ Mẫu” được xác định rộng
hẹp khác nhau. PGS. Vũ Ngọc Khánh
nhắc tới Đạo Mẫu như một thứ Đạo làm
người: thái độ tôn trọng ngươi Mẹ. Quan
niệm hẹp hơn, “Thờ Mẫu” bao gồm việc
thờ phụng tất cả những vị nữ thần được
tôn Mẫu như Ÿ Lan, Quốc Mẫu Âu Cơ,
Đổng xung thiên thần Vương Mẫu (Mẹ
Thánh Gióng).... và “thờ Mâu” được coi
như sự phát triển cao của tục thờ nữ
thần. Một số nhà nghiên cứu khác xếp
vào hệ thống này ngoài thờ Liễu Hạnh và
triều đình của Bà, còn cả việc thờ cúng
thiên Yana, Bà chúa Xứ, Bà Đen, Linh
sơn thánh Mẫu, Bà chúa Ngọc, Bà Thiên
hậu... như những linh tượng được hình
thành trên cơ sở giao thoa giữa người
Việt và các tộc ngươi khác. Đặc biệt có
nhiều tác giả lại cho rằng “thờ Mẫu” đồng
nhất với tín ngưỡng Tam phủ, Tứ phủ.
Nguồn gốc của tín ngưỡng, có người nhận
định: “Đây là một hệ của Đạo Lão suy
thoái? Nhưng đa số các nhà nghiên
cứu cho đây là hình thức tôn giáo bản địa
được hình thành từ sự hỗn dung tôn giáo
giữa nền văn hoá truyền thống vốn chấp
nhận đa thần đề cao nữ thần với việc “
bản địa hoá” các tôn giáo ngoại lai. “Một
thứ thờ cúng đặc biệt nối liền Đạo giáo
với Đạo tự nhiên, đó là Tam phủ?d”
Nguyên nhân tôn tại và phát triển của
tín ngưỡng được các tác giả phát triển từ
nhiều căn nguyên ; từ nguyên nhân kinh
tế xã hội (vai trò của người phụ nữ trong
nền sân xuất lúa nước tự cung tự cấp). từ
góc độ đân tộc học (biểu hiện muốn níu
kéo lại giai đoạn Mẫu hệ đã từng tôn tại
trong lịch sử dân tộc), từ quan niệm tâm
linh về người phụ nữ (người có khäã năng
øiao cảm với thần linh), đến việc col đây
là một hình thức văn hoá bản địa đối
trọng với tư tưởng nho giáo chính thống
vốn xem thường phụ nữ. Có lẽ vấn đề
phức tạp nhất khi tiếp cận Đạo Mẫu là
nghi thức hầu đồng - hầu bóng - đồng
bóng. Từ góc độ folklore, PGS. Ngô Đức
Thịnh coi : “Hầu bóng là một hoạt động
sinh hoạt văn hoá dân gian tổng thể”,
“đây thực sự là một loại hình sân khấu
đặc thù, sân khấu tâm lính, một hình
thức sân khấu còn ở dạng nguyên hợp các
yếu tố tín ngưỡng và nghệ thuật”.
Nhiều nhà dân tộc học coi hầu đồng là
một hình thức Saman giáo ở giai đoạn
cao, một phương thức thông quan giữa
Thần và người. Còn phải lưu ý tới ý kiến
của tác giả Tạ Chí Đại Trường. Ngoài
tính chất của một sinh hoạt văn hoá đân
gian truyền thống, ông cho rằng các hiện
tượng hầu bóng còn mang “ý nghĩa mới
của sự giải phóng dục tình... điều mà các
nhà văn nhậy cảm (chẳng hạn như Vũ
Trọng Phụng đã nhận ra nhưng lại trình
bày qua sự phê phán đạo đức chứ không
theo nhận xét khoa học. Tín đồ đồng bóng
ở cửa Phủ, sân Đến ở giai đoạn này ( thập
niên 30,40) thuộc vào lớp người bên lề
của xã hội. Khuôn khổ vốn ràng buộc dục
tình mà nay đã không còn đủ phương tiện
28
NGÔ ĐỨC THỊNH-PHẠM QUỲNH PHƯƠNG
và uy thế để giữ gìn nữa”2”, Những cách
lý giải mang tính khách quan về hiện
tượng này đã và đang được gợi mở tạo ra
những căn cứ khoa học thực sự cho việc
đánh giá và bảo tồn.
Điểm qua một thế Kỷ nghiên cứu tín
ngưỡng dân gian, chúng ta có thể khẳng
định và trân trọng những đóng góp lớn
lao của các nhà nghiên cứu (kể cả những
người Việt ở nước ngoài), đối với lĩnh vực
văn hoá rất thú vị nhưng vô cùng phức
tạp này. Trong nhiều công trình các tác
giả đã cố gắng giải mã các quan niệm tín
ngưỡng dân gian ẩn sâu đưới lớp vỏ vật
chất của các hiện tượng văn hoá. Có
nhiều ý kiến giải mã sâu sắc và thuyết
phục, nhưng cũng có những cách lí giải
còn mang tính suy diễn giản đơn. Điều
này cũng dễ hiểu bởi các quan niệm tín
ngưỡng, vốn không có giáo lí chặt chẽ,
không tĩnh tại, mà luôn luôn vận động
trong sự vận động chung của xã hội, hơn
nữa nó lại được chồng xếp bởi tầng tầng
lớp lớp văn hoá. chưa kể tới nguyên nhân
sâu xa bởi những thành kiến chủ quan cố
hữu trong mỗi người. Tuy vậy, có thể nói,
tín ngưỡng ít được đề cập trực điện mà
mới chỉ được nghiên cứu chủ yếu đưới góc
độ văn hóa, có lẽ bởi một mặt, tín ngưỡng
cũng là văn hóa, là một bộ phận không
thể tách rời của văn
đường như ẩn dưới lớp vỏ văn hóa, các
nhà nghiên cứu để cập đến tín ngưỡng dễ
dàng hơn, đễ được chấp nhận hơn.
hóa, mặt khác,
Với xu hướng để cao và bão vệ những
bản sắc tốt đẹp của văn hoá dân tộc, với
cách tiếp cận khách quan, khoa học, loại
bỏ mọi định kiến và cả với những định
hướng đúng đắn của đường lối, chính
sách, chắc chắn trong thế kỷ tới, mảng
đối tượng này sẽ giành được nhiều sự
quan tâm đầu tư hơn nữa của các nhà
nghiên cứu và chúng ta có quyền hy vọng
ở những thành tựu sẽ đạt được.
NT. EFUQ.P
1. Phan Bội Châu, Việt nan quốc sử
bháo. TH, Nxb Giáo dục, 1962, tr.82
2. Phan Kế Bính, Việt nam phong
tực. Nxb Tp Hồ Chí Minh, 1992, tr.305
3. Nguyễn Văn Huyện, Sự phụng thờ
các u‡ Thánh Bất tử ở Việt nam. Nxb Viễn
Đông, 19414, tr.131
4. Hoàng Phương, Cộng sản tà. tôr
giáo tạt Việt nưìn. Đài gòn, 1966
5. Nguyễn Đồng Chỉ, Sự tồn tại quan
hệ thân tộc trong làng xa Việt nam (trong
Nông thôn Việt nam trong lịch sử). H.,Nxb
KHXH, 1978, tr.198
6. Lê Minh Ngọc, Tín ngưỡng Thành
hoàng uà tâm lý cộng đồng làng xã (trong
Nông thôn Việt nam trong lịch sử), sdd,
tr.338
vỆ Trần Từ, Cơ cấu tổ chức của làng
Việt cổ truyền ở Bắc Bộ. H., Nxb KKHXH,
1984, tr.128
8. Quang Trứ-Lâm Biền. Äfột uài uấn
đề xã thôn Việt nam qua các tài liệu mỹ
thuật (trong "Nông thôn Việt nam trong
lịch sử-Sdd), tr.3029
9. Nguyễn Duy Hinh, Tín ngưỡng
thành hoàng Việt nam. H., Nxb KHXH,
tri
10. Sơn Nam, Đình miễu oà lễ hội dân
gian. Nxb Tp HCM, 1992, tr.31
11. Trần Văn Giầu, Sự phát triển của
tư tưởng Việt nam từ thế bý XIX đến Cách
mạng tháng Tám. H.,Nxb KHXH, 1973,
tr.466
12. Ngô Đức Thịnh, Hét uăn uà nghỉ
thức hầu bóng là hiện tượng uăn hóa dân
gian tổng thể. Tạp chí Văn hóa dân gian số
4/1991, tr.56
13. Tạ Chí Đại Trường, Thần, người uà
đất Việt, California, Văn Nghệ xb, 1989,
tr.ð10.