
HỘI NGHỊ KHOA HỌC TOÀN QUỐC CHUYÊN NGÀNH ĐỘT QUỴ VÀ CÁC BỆNH THẦN KINH LIÊN QUAN LẦN THỨ X
412
NHU CẦU CHĂM SÓC TÍCH CỰC SAU ĐIỀU TRỊ TÁI THÔNG
TRONG NHỒI MÁU NÃO CẤP
Nguyễn Anh Tài1, Huỳnh Thị Xuân Hiền1, Trần Văn Nhật1
TÓM TẮT54
Mục tiêu: Sau can thiệp điều trị tái thông
nhồi máu não cấp (NMN), bệnh nhân (BN) cần
được theo dỏi sát diễn tiến bệnh, phát hiện sớm
và kiểm soát các biến chứng, điều trị các bệnh
nội khoa đi kèm… tại các đơn vị chăm sóc tích
cực thần kinh ít nhất 24 giờ(1). Nghiên cứu này
nhằm làm rõ hơn vấn đề này và giúp phân tầng
bệnh nhân. Đối tượng và phương pháp: Mô tả,
hồi cứu, thực hiện tại khu vực Hồi sức tích cực
đột quị (HSTCĐQ) bệnh viện Chợ rẫy (BVCR)
từ tháng 1/2016 - 12/2017 các BN NMN cấp
được điều trị tái thông bằng thuốc tiêu sợi huyết
(tpA) với cửa sổ điều trị < 4,5 giờ, lấy huyết khối
bằng dụng cụ với cửa sổ điều trị < 06 giờ, và kết
hợp cả hai phương pháp trên. Bệnh nhân được
thu thập các dữ liệu về nhân khẩu học (tuổi, giới
tính), các biến số về nguy cơ đột quỵ (tăng huyết
áp, rối loạn lipid máu, đái tháo đường, tình trạng
hút thuốc lá, rung nhĩ, bệnh mạch vành, các bệnh
lý tim mạch khác (rối loạn chức năng tâm thất,
bệnh van tim, thông liên nhĩ…), tiền sử đột quỵ
và các dữ liệu liên quan NMN lần này (điểm
NIHSS, các thông số sinh lý trước và sau tái
thông động mạch (huyết áp, glucose máu,
creatinine, vị trí NMN, phương thức can thiệp).
Các dữ liệu về can thiệp sau điều trị tái thông: (1)
1Khoa Nội thần kinh, Bệnh viện Chợ Rẫy
Chịu trách nhiệm chính: Nguyễn Anh Tài
ĐT: 0913724242
Email: anhtaintk@hotmail.com
Ngày nhận bài: 28/7/2024
Ngày gửi phản biện: 30/8/2024
Ngày duyệt bài: 6/9/2024
kiểm soát huyết áp bằng thuốc hạ huyết áp đường
tĩnh mạch hoặc các thuốc vận mạch; (2) Kiểm
soát tình trạng chảy máu não bằng huyết tương
tươi đông lạnh, kết tủa lạnh và/hoặc tiểu cầu đậm
đặc; (3) kiểm soát glucose máu bằng insulin qua
bơm tiêm điện; (4) theo dõi và kiểm soát các tình
trạng loạn nhịp tim; (5) theo doxi và kiểm soát
tình trạng suy hô hấp cần đặt nội khí quản với
các liệu pháp oxy có và không hổ trợ thông khí
bằng máy thở; (6) kiểm soát tình trạng tăng áp
lực nội sọ, phù não bằng các phương pháp nội
khoa và ngoại khoa (mở sọ giải ép) được thu thập
để phân tích. Kết quả: 70 bệnh nhân NMN cấp
được điều trị bằng các phương pháp tái thông và
theo dõi sau can thiệp tại khu Hồi sức tích cực
đột quỵ (HSTCĐQ). 26 (37,5%) BN có các can
thiệp tích cực và 44 (62,9%) BN không cần các
can thiệp này. Các can thiệp hồi sức sau điều trị
tái thông thường gặp: chảy máu não (CMN)
37%, phù não nặng và tăng áp lực nội sọ
(TALNS) 23%, Loạn nhịp tim 23%, tăng huyết
áp 08%, tăng glucose máu 06% và tụt huyết áp
03%. Khác biệt chính ở 02 nhóm là điểm NIHSS
sau can thiệp và tình trạng mạch, huyết áp.
Đường cong ROC được sử dụng để xem xét khả
năng cần hồi sức sau điều trị tái thông cho các
biến số có sự khác biệt và ghi nhận: điểm NIHSS
sau can thiệp là biến số có giá trị nhất với diện
tích dưới đường cong là 0,76. Kết luận: Độ nặng
của NMN ngay sau điều trị tái thông đánh giá
bằng thang điểm NIHSS là yếu tố dự đoán nhu
cầu cần can thiệp hồi sức sau đó. Dựa vào độ
nhạy và độ đặc hiệu, các cơ sở điều trị có thể
chọn lựa điểm cắt mức điểm NIHSS sau can