Phân tích ‘Nỗi thương mình’ trích Truyện Kiều
Từ lúc gia đình gặp biến cố, phải bán mình chuộc cha, trao duyên lại cho em
Thúy Vân, Kiều đã trải qua 15 năm lưu lạc, trong 15 năm ấy, Kiều gặp phải bao sự
lọc lừa nhưng lần Thúy Kiều bị lừa đau đớn nhất lẽ lần nàng bị Giám
Sinh lừa bán đến lầu xanh. bước ngoặt bẻ ngang cuộc đời Thúy Kiều rẽ sang
một hướng khác. Rơi vào tay Bà, Kiều rút dao định tự tử nhưng không thành.
lầu Ngưng Bích, Kiều lại mắc bẫy Sở Khanh, bị đánh đập tơi bời.
Tiếp đó những tháng ngày ê chề nhục nhã của nàng trong vai trò nữ gái làng
chơi, đem tấm thân trong ngọc trắng ngà của mình mua vui cho những kẻ lắm tiền
háo sắc. Những ngày Thúy Kiều chốn lầu xanh những ngày ng cùng
buồn tủi, tâm trạng rối bời như nghĩ về thân phận, sự tủi nhục của kiếp hồng
nhan.Đoạn trích một kết cấu khá logic với diễn biến tâm trạng trớ trêu của
cuộc đòi đầy bất hạnh khi nghe những lời độc thoại nội tâm dầy đau đớn: “Khi
tỉnh rượu …xuân gì?” Đó cũng thời điểm mở đầu cho những chuỗi tâm sự nối
kết, ngỗn ngang. Kiều nghĩ đến thân phận mình để rồi “mình lại thương nh xót
xa” Kiều xót xa cho chính bản thân mình. Với nàng, hiện tại như một giấc cay
đắng khi nàng sánh với quá khứ.
Mở đầu đoạn trích Nỗi Thương Mình tâm trạng đau buồn, tủi hổ đến ê chề
của Thúy Kiều phải nếm trải trong chốn lầu xanh của mụ Bà:
“Biết bao bướm lả ong lơi,
Cuộc say đầy tháng trận cười suốt đêm.
Dập dìu gió cành chim
Sớm đưa Tống Ngọc tối tìm Trường Khanh
Bốn câu đầu của đoạn trích cho ta thấy hình ảnh lối sống bồ, nhơ nhớp
thân phận bẽ bàng của người n chốn lầu xanh. Nguyễn Du đã miêu tả thật
sống động bức tranh sinh hoạt chốn lầu xanh bằng t pháp ước lệ tượng trưng.
Trong chốn lầu xanh ấy Kiều phải tiếp khách mua vui cho “biết bao” người
nàng không thể nào nhớ đươc hay là đếm được, bởi lẻ một điều rằng hằng ngày
Kiêu tiếp khách làng chơi triền miên “suốt đêm, sớm đưa, tối m” những từ ng
ấy đã cho ta thấy đươc sự nhộn nhịp của chốn lầu xanh, i ăn nên làm
ra.
Bằng những hình nh ẩn dụ: bướm lả ong i, cuộc say đầy tháng, trận ời
suốt đêm” các điển tích điển cố: “lá gió nh chim”, “Tống Ngọc, Trường
Khanh” chỉ chung cho loại khách làng chơi phong lưu Nguyễn Du cho thấy tình
cảnh của Thúy Kiều tuy sống trong cảnh lầu xanh ởng như thanh tao, phong nhã
nhưng thực chất đó chỉ giả tạo, hằng ngày Kiều phải làm công việc nhơ nhuốc,
tiếp đủ các loại khách đến mua vui.
Điều này cho ta thấy hơn về nỗi bất hạnh tình cảnh trớ trêu của Thúy
Kiều. Bút pháp ước lệ giúp Nguyễn Du không tránh số phận thực tế của Kiều
vẫn giữ được chân dung cao đẹp của nàng. Qua đó ta thấy được thái độ trân
trọng, cảm thông của tác giả đối với nhân vật.
Ông đã tái hiện cái hoàn cảnh của Thúy Kiều bằng những sự đối lập nghiệt
ngã: một bên nước mắt Thúy Kiều một bên những cơn say, trận cười triền
miên. Do vậy bốn câu thơ đầu, mặc chưa được miêu tả trực tiếp, người đọc
vẫn thấy Kiều đang bị cuốn đi trong một cơn lốc hình, bị buộc vào cảnh sống
nhơ nhớp nơi nhà chứa. Hiện thực nghiệt ngã nhân vật phải trải qua, mở
thân phận bẽ bàng của người kỹ nữ. Nguyễn Du đã mỹ lệ a cho cảnh sống ấy
bằng một thứ ngôn ngữ ước lệ rất tài tình: ước lệ theo thành ngữ dân gian, ước lệ
theo điển tích làm cho sự hồi tưởng kiếp sống đớn đau của Kiều trở n tao nhã
hơn. Bởi chỉ hồi tưởng mới diễn tả hết sức sống chân thật của nội tâm nhân
vật, mới thể hiện đúng nỗi đau, mới nổi bật được phẩm giá sự chịu đựng giày
đáng thương của nhân vật. Đằng sau những câu thơ ấy tấm lòng cảm thông,
trân trọng tác gi dành cho Thúy Kiều.
Bốn câu thơ đầu đã đặt ra một tình thế của tâm trạng. lầu xanh có nhiều
nữ, họ thể bình thản coi việc làm của mình rất đỗi bình thường , trớ trêu thay
Kiều lại một nhân phẩm quá đỗi cao đẹp, một tâm hồn trong trắng, một bông
hoa từ cảnh sống “êm đềm trướng rủ màn che” bỗng nhiên bị ném vào bùn nhơ,
hai câu tiếp nói về tâm trạng của Kiều trong những ngày tủi nhục, nỗi ê chề, sự ép
buộc, đày đọa mà Kiều phải chịu đựng:
“Khi tỉnh ợu, lúc tàn canh
Giật mình mình lại thương mình xót xa
nơi lầu xanh đầy “cuộc say, trận ời” thì chỉ “khi tỉnh rượu c tàn canh”
Kiều mới một khoẳng khắc hiếm hoi để sống thực với chính mình cũng
hoàn cảnh Kiều tỉnh o nhất đối diện với con người mình. Thời gian và không
gian thật vắng lặng như gợi lên nỗi niềm xót xa. Nhịp thơ sự thay đổi giữa hai
câu thơ trên từ nhịp 3/3 chuyển sang nhịp 2/4/2. Hai chữ “giật mình kết hợp với
cách ngắt nhịp ấy đã diễn tả sự biến đổi đột ngột trong tâm hồn Kiều. Nàng bàng
hoàng đau xót trước thực tại phủ phàng trơ trọi chỉ một mình nàng tự xót xa,
đau đớn cho chính số phận bi thương, đoạn trường của mình.
Giật mình ko chỉ hành động bên ngoài của nhân vật khi một sự tác động
đột ngột nào đó của môi trường bên ngoài. Đó cái giật nh từ cảm c bên
trong nếu ko có thì Kiều cũng giống như tất cả các nữ khác trong thanh lâu
của bà. Kiều giật mình nhận ra sự tàn phá thảm hại về thể xác phẩm cách
của mình chốn lầu xanh, sự đơn lẻ loi của nh sự yếu đuối bất lực của
mình trước bao nhiêu sự xấu xa, cạm bẫy đang bủa vây nh ko thể chống đỡ.
Điệp từ “mình’’ lặp lại ba lần trong một câu thơ như tiếng nấc nghẹn ngào, tha
thiết của Thúy Kiều ý thức được về phẩm giá, nhân cách, quyền sống bản thân đó
cũng ý thức nhân quyền sống của con người trong lịch sử phong kiến
Nguyễn Du muốn truyền tải đến người đọc.
Đối với hai câu trên với nhịp thơ đầy nổi tủi nhục của Kiều thì những câu tiếp
theo sau những hồi ức dội về, hồi ức ơi sáng va đập thực tại tăm tối đọa đày:
“Khi sao phong gấm rủ
Giờ sao tan tác như hoa giữa đường
Mặt sao dày gió dạn sương
Thân sao ớm chán ong chương bấy thân”
Một gái khuê các, tài sắc vẹn toàn, hiền nh đoan trang hết mực. Một
gái nho gia bây gi trở thành một cành hoa tan c. Sự biến chuyển nhanh chóng
đến mức chính Kiều cũng phải bàng hoàng, sửng sốt. Phép đối lập như một biện
pháp nghệ thuật chủ yếu toàn đoạn trích nhất trong hai câu y càng tăng
thêm giá trị biểu cảm. tạo nên sự so sánh đối lập giữa hai quãng đời, hai thời
gian, hai tình cảm. Cặp từ đối lập chỉ thời điểm: “Khi sao / giờ sao” tạo nên cảm
giác đột ngột của sự thay đổi trong một khoảng thời gian không mấy cách biệt.
Chính điều này đã làm vết thương của Kiều nhức nhối, đau đớn như đào sâu
thêm vào nỗi t xa, i của Kiều.
Quá khứ hiện về đối lập với thực tại một cách khốc liệt, Kiều hồi tưởng lại
những tháng m “êm đềm trướng màn che thì lập tức thực tại phũ phàng lại
hiện lên nét hơn gấp bội, từ “phong gấm” diễn tả một sự bình yên, êm đềm
trong quá khứ đối lập gay gắt với từ “tan tác trong câu thơ nói về hiện tại như cái
thực trạng phũ phàng bao trùm vùi chôn quá khứ êm đẹp. Phép so sánh như hoa
giữa đường” ng làm nổi bật sự đối lập tuyệt đối giữa quá khứ thực tại, giữa
nhân hoàn cảnh. Cụm từ “bướm chán ong chường” “dày gió dạn sương”
nét sáng tạo về cách ng từ của Nguyễn Du, nhấn mạnh ý so nh theo mức độ
tăng tiến cho ta thấy s vùi dập, chà đạp Kiều phải gánh chịu. Các câu hỏi tu từ
đây đc ND sử dụng nhằm làm hơn s đau đớn, ê chề của Kiều trước thực tại
phủ phàng, tàn nhẫn.
Hai câu thơ day dứt một tiếng thở dài tuyệt vong của một cô gái vốn tài sắc
hơn người, khát khao hạnh phúc nhưng bậy giờ đã chán ngán tất cả:
“Mặc người mưa Sở mây Tần
Những mình nào biết xuân gì?”
Sống trong cảnh lầu xanh suốt ngày phải mua vui cho người khác hành hạ bản
thân mình, lặp đi lặp lại hằng ngày ai cũng sẽ thấy chán chường muốn bỏ tất c
Kiều cũng vậy. Sự đối lập giữa người khách ng chơi (số nhiều) với chính
mình Kiều (số ít) như thể hiện tột cùng nỗi đơn của nàng. Từ ”xuân” đây ý
chỉ niềm vui được ởng hạnh phúc lứa đôi nhưng với Thúy Kiều sống làm vợ
khắp người ta thì làm còn a xuân, chỉ thấy trong đó sự nhục nhã, lẻ loi,
trơ trọi đơn của cuộc đời người nữ mua vui. Từ mặc” đây lại chỉ sự bất
lực, mặc cho mọi thứ muốn tới đâu thì tới, dằn vặt nặng nề đay nghiến của Thúy
Kiều nhưng không làm sao khác được.
“Đòi phen gió tựa hoa kề
Nửa rèm tuyết ngậm bốn b trăng thâu
Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu
Người buồn cảnh vui đâu bao giờ
Đòi phen nét vẽ câu thơ
Cung cầm trong nguyệt ớc cờ dưới hoa
Vui vui ợng kẻo
Ai tri âm đó, mặn với ai.”
Bức tranh thiên nhiên ơi đẹp hiện lên, đủ cả: phong hoa tuyết
nguyệt, cảnh đẹp bốn mùa hội tụ vào nơi đây, gió xuân vi vu thổi, hoa hạ đua nhau
khoe sắc ngát hương, trăng thu ng vằng vặc, tuyết đông ph kín cả lầu tất cả đều
rất thực, rất sinh động như v nên bức tranh đầy màu sắc, âm thanh của lầu xanh
trong đó đủ những thú vui của con người: cầm thi họa càng điểm
cho bức tranh ấy thêm phần nhộn nhịp, sống động n bao giờ hết. Nhưng nêu lên
những cảnh thiên nhiên đẹp đẽ, tao nhã, nên thơ ấy lại như một sự giễu cợt, mỉa
mai, chua chát. ngụy trang khéo đến mấy, cũng không thể che đậy nổi cái
bản chất nhơ nhớp, bẩn thỉu bên trong của chốn “buôn thịt bán người”. Đoạn thơ
thế đồng thời hướng vào tâm trạng Kiều: Kiều luôn phải tách mình thành hai
nửa: một con người bề ngoài vui ợng, giả tạo một con người thực, sống để
xót xa mỗi lúc canh tàn.
Cảnh không th vui lòng người nặng trĩu nỗi tái.. Khi gió tựa hoa kề, khi
cung cầm thi họa, lúc nào nỗi đau cũng dâng đầy nghẹn trong lòng nàng. Ý
thức về nhân phẩm một khi trỗi dậy lại b giày xéo, khiến nàng không nguôi bẽ
bàng, nhục nhã về thân phận. Hai t “đòi phen được lặp lại trong tám câu thơ
càng th hiện hơn đó một nỗi đau thường trực, chưa lúc nào thôi dằn vặt Kiều.
Nỗi sầu của Kiều lan tỏa sang cảnh vật :
“Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu
Người buồn cảnh vui đâu bao giờ”
Bằng sự thông cảm lạ lùng, bằng tài năng diệu, Nguyễn Du đã viết nên
hai câu thơ hay nhất giữa ngoại cảnh tâm cảnh, giữa cảnh tình. Từ một
trường hợp c thể, thơ Nguyễn Du đã vươn tới tầm phổ quát, trở thành chân của
mọi thời. thể nói hai câu thơ đỉnh điểm của đoạn trích gột tả được sâu
sắc hơn bao giờ hết nội m của nhân vật từ đó lan tỏa sang cảnh vật một ch thật
tự nhiên hợp lí. Nỗi buồn của Thúy Kiều cứ dâng n, như sóng cồn triền miên
không bao giờ dứt, c khuấy động bên trong sâu thẳm con người Kiều để rồi
đến một lúc nào đó, tức nước vỡ bờ, dâng lên cuồn cuộn đánh động vào nỗi