VĂN MẪU LỚP 11 PHÂN TÍCH VẺ ĐẸP LÃNG MẠN VÀ HÀO HÙNG CỦA NHÂN VẬT

TRỮ TÌNH TRONG BÀI THƠ LƯU BIỆT KHI XUẤT DƯƠNG – PHAN BỘI CHÂU

BÀI MẪU SỐ 1:

Xuất dương lưu biệt không những là một bài thơ hay, mà còn là một mốc quan trọng đánh dấu cuộc đời hoạt động cứu nước sôi nổi cùng thơ văn cổ động lòng yêu nước và đấu tranh cách mạng đầy nhiệt huyết của nhà chí sĩ Phan Bội Châu. Bài thơ được ứng khẩu trong hoàn cảnh tác giả tạm biệt bạn bè đồng chí để lên đường. Xuất dương lưu biệt là bài ca hào sảng và hùng tráng về chí nam nhi của nhân vật trữ tình mang vẻ đẹp lãng mạn và hào hùng.

Bài thơ Xuất dương lưu biệt là giờ phút con hổ được về rừng, con cá kình được ra biển khơi, con đại bàng được tung cánh, dù phía trước còn biết bao khó khăn và nguy hiểm, nhưng chúng có cái hanh phúc được vẫy vùng. Sau một thời gian tham gia các phong trào yêu nước nhưng không đem lại hiệu quả, Phai Bội Châu đã trăn trở suy tư để tìm ra một con đường cứu nước mới để đưa nước Việt Nam hùng mạnh như các nước ở Đông Á (Trung Quốc, Nhật Bản). Đến năm 1905 ông giã biệt bạn bè để sang Nhật cầu giúp đỡ. Xuất dương lưu biệt là những lời lẽ tỏ rõ quyết tâm của ông trước khi lên đường:

Làm trai há phải lạ trên đời.

Há đế càn không tự chuyển dời.

Câu thơ thể hiện rõ quan niệm về chí nam nhi của Phan Bội Châu, làm trai trước hết phải được sự nghiệp anh hùng. Chúng ta bắt gặp ý thơ này trong bài Thuật hoài của Phạm Ngũ Lão:

Nam nhi vị liễu công danh trái

Tu thỉnh nhân gian thuyết Vũ hầu

Hay trong thơ của Nguyễn Công Trứ.

Chí làm trai nam bắc đông tây

Cho phỉ sức vẫy vùng trong bốn biển.

Quan niệm của cụ Phan giống với các nhà nho thuở xưa, đã là con người sống trong trời đất này, phải làm được một điều gì đấy, đã sinh ra làm kẻ nam nhi cũng phải mong có điều lạ. Nhưng tới câu thơ thứ hai, ý thơ cửa Phan Bội Châu đã bắt đầu khác: Lẽ nào dể trời đất chuyền vần lấy sao. Nghĩa là Phan Bội Châu đã thoát ra khỏi tư tưởng thiên mệnh của người xưa. Xưa kia người anh hùng tiết tháo Đặng Dung chua chát nhận

ra thời vận (tức ý trời) là nhân tố quyết định nên sự thành bại. chứ không phải do tài năng của bản thân:

Thời lai đồ điếu thành công dị.

Vận khứ anh hùng ẩm hận đa.

(Gặp thời thì anh hùng thật, người câu cá cũng dễ dàng làm nên công trạng / vận

đã hết thì anh hùng cũng chỉ nuốt hận mà thôi).

Với Phan Sào Nam thì ngược lại, ông đặt con người ngang tầm với càn khôn (đất trời). Càn khôn xoay vần cuộc đời thi cớ gì con người không xoay vần được càn không. Người xưa nói: Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên (Mưu việc do con người, nhưng thành công là bởi ý trời). Phan Bội Châu không đề cập chuyện thành bại ở đây nhưng ý chí dám xoay lại càn khôn thì không chỉ là ngang tàng, bướng bỉnh mà có phần tự tin, lạc quan. Thoát khỏi tư tưởng thiên mệnh là bước đột khởi để người chí sĩ cách mạng thực hiện chí nam nhi của mình. Sau khi so mình với càn khôn, tác giả lại so mình với đồng loại:

Uu bách niên trung tri hữu ngã

Khởi thiên tải hậu cánh vô thùy

(Trong khoảng trăm năm cần có tớ Sau này muôn thuở há không ai?).

Hào kiệt xưa kém thua càn khôn nhưng với đồng loại thì tự cho mình là xuảt chúng, không bao giờ chịu ở trong đám đông tầm thường. Với Phan Bội Châu thì khác nhiều, ông vừa đánh giá cao cá nhân anh hùng, nhưng cũng không cho cá nhân ấy là duy nhất. Câu thơ thứ ba của bài rất gần với ý thơ của Nguyền Công Trứ.

Đã mang tiếng ở trong trời đất

Phải cỏ danh gì với núi sông.

Nhưng ở câu thơ thứ tư thì lại rất khác. Tác giả đặt vai trò của cá nhân mình bình đẳng với các cá nhân khác, tuy rằng đó mới chỉ là một câu nghi vấn: Sau này muôn thuở, há không ai? Nhưng đã chứng tỏ Phan Bội Cháu không coi mình Là duy nhất.

Bản thân là một nhà nho, nhưng không vì thế mà Phan Bội Châu giữ lấy sự cố hữu của nhà nho, trái lại ông là con người của thực tiễn, hăm hớ với trào lưu đổi mới. Đầu tiên đó là sự dổi mới của tư tưởng nhận thức.

Non sông đã chết sống thêm nhục

Hiền thánh còn đâu học cũng hoài.

Nhà thơ đã đặt số phận của đất nước bên cạnh số phận cùa mỗi người, điều này không phải đến Phan Bội Châu mới có. Nhưng có lẽ ít ai nói được điều đó da diết thống thiết như cụ Phan. Nước đã mất đồng nghĩa với anh hùng chịu nhục. Nhục thì phải đứng lên rửa nhục, làm được điều đó thì xứng đáng là anh hùng. Việc học cũng phải quan niệm lại. Nếu như ở Nguyên Khuyến hay Tú Xương:

Sách vở ích gì cho buổi ấy

Hay:

Ông nghè ông cống cũng nằm co.

Chỉ là niềm cảm khái cho đạo thánh hiền đến buổi lụi tàn, thì ở Phan Bội Châu là sự phê phán đến gay gắt. Sách vở thánh hiền vô dụng mà còn ngồi tong thì chỉ là hoài, là nghi mà thôi.

Sau đổi mới về tư tưởng, nhận thức là sự đổi mới về hành động:

Muốn vượt biển đông theo cách gió

Muôn trùng sóng bạc tiễn ra khơi.

(Nguyện trục trường phong đông hải khứ Thiên trùng bạch lãng nhất tề phỉ).

Sóng gió ở đây không phải là sóng gió bình thường, mà là gió dài (trường phong), sóng bạc (bạch lãng) tức sóng to gió lớn (phong ba bão táp). Người hào kiệt không những không sợ sóng gió mà còn coi sóng gió là bạn đường (những khó khăn nguy hiểm trên dường hoạt động) là đối tượng để mình dua sức, đua tài

Hai câu thơ cuối thế hiện ý chí mạnh mẽ của Phan Bội Châu, mong muốn được ra đi bất chấp mọi khó khăn gian khổ. Câu thơ gợi một cảm giác bừng bừng tráng khí chứ không mang một chút lo âu, cũng chẳng hề nghĩ đến quan san muôn dặm hay lữ thứ tha hương. Nhiệt huyết cứu nước cứu nòi đã lấn át đi tất cả. Câu thơ vượt Biển Đông cũng ngầm ý là sang Nhật Bản, đất nước nhờ biết duy tân mà trở nên hùng cường, đánh thắng cả nước Nga hùng mạnh, là tấm gương sáng cho các dân tộc noi theo.

Vẻ đẹp lãng mạn và hào hùng của nhân vật trữ tình trong tác phẩm đã được thế hiện rõ nét trong chí làm trai của tác giả. Nó thể hiện khát vọng độc lập tự do cùa các bậc chí sĩ yêu nước thuở xưa.

Trong bối cảnh đất nước Vua là tượng gỗ, dân là thân trâu (á – tế – á — ca), sự xuất hiện của Phan Bội Châu với sứ mệnh hai vai gánh vác cả sơn hà đã thổi vào lịch sử văn học một luồn sinh khí hào hùng chưa từng có. Qua vẻ đẹp lãng mạn mà hào hùng của nhân vật trữ tình, Phan Bội Châu muôn hát vang chí nam nhi, trở thành gạch nối giữa lí tưởng cao đẹp của nhà nho chân chính với lí tưởng cách mạng xã hội chủ nghĩa của người cộng sản, mà tiêu biểu là Nguvền Ái Quốc – Hồ Chí Minh.

Nhằm khơi dậy lòng yêu nước, kêu gọi đấu tranh vì độc lập tự do của Tổ quốc, trong các sáng tác thơ ca của mình Phan Bội Châu thường xây dựng những nhân vật trữ tình đầy băn khoăn trăn trởvì trách nhiệm, vì khát vọng làm người ở đời...

BÀI MẪU SỐ 2:

...Trong bài thơ Lưu biệt khi xuất dương,hình tượng nhân vật trữ tình hiện lên thật

đẹp đẽ, hùng vĩ gắn với lý tưởng tự khẳng định mình và lòng yêu nước thiết tha:

Làm trai phải lạ trên đời Há để càn khôn tự chuyển dời Trong khoảng trăm năm cần có tớ Sau này muôn thuở há không ai Non sông dã chết sống thêm nhục liền thánh làm chi học cũng hoài Muốn vượt bể Đông theo cánh gió Muôn trùng sóng bạc tiễn ra khơi.

Bài thơ nguyên văn làm bằng chữ Hán có tên Xuất dương lưu biệt.Như ta đã biết, sau khi vận động thành lập hội Duy tân (1905) Phan Bội Châu tranh thủ viện trợ nước ngoài đào tạo cốt cán cho phong trào yêu nước. Bài thơ được làm trong buổi chia tay với các đồng chí của mình trước khi tác giả lên đường. Trên đây là bản dịch thơ của Tòn Quang Phiệt.

Nhân vật trữ tình trong bài thơ có một khát vọng lớn lao:

Làm trai phái lạ trên đời

Há để càn khôn tự chuyển dời.

Ý thức cá nhân của con người ấy thể hiện rất rõ. ‘Làm trai’ tức là ý thức về trách nhiệm của thân phận ‘Chí nam nhi nam bắc đông tây’. ‘Làm trai phải lạ trên đời! ‘. ‘Phái lạ’ là sao? ‘Phải lạ’ là phải có điều gì khác hẳn, vượt lên hẳn mọi thứ tầm thường trên đời. Nói như Nguyễn Công Trứ thì đó là ‘Phải có danh gì với núi sông’. Phan Bội Châu đã ghi dấu ấn với sông với núi bằng khát vọng xoay trời chuyển đất: ‘Há để càn khôn tự chuyển dời’. Không để đất trời tựvần xoay, phải chế ngựsự biến dối ày bằng những hành động, việc làm xứng đáng với thân nam nhi.

Kháng định chí làm trai, tiến thêm một bước là khẳng định một cái ‘Tôi’ kỳvĩ:

Trong khoảng trăm năm cần có tớ

SAU nảy muôn thuở há không ai.

Lời nói hùng khí ấy chỉcó thể thốt lên từ một bậc anh hùng. Trong khoảng trăm năm cứa cuộc đời cần có ta gánh vác. Câu thơ khẳng định vai trò cá nhân đối với vận mệnh đất nước và cũng là thể hiện một cái ‘tôi’ đầy trách nhiệm sẵn sàng gánh vác kế trăm năm nghiệp vuông trên của cơ đồ xã tắc. Trong thời cuộc rối ren đẩu thế kỷ XX, khi bao kẻ chỉ chăm chăm ‘nằm co’ cho khuôn vừa thòi thế, sự vùng vẫy của cái tôi kia thật đáng trân trọng.

Tin ở bán thân cái ‘tôi’, nhân vật trữ tình còn tin ở tương lai ‘sau này muôn thuở há không ai’. Sau này nghìn năm lại không có ai lưu danh muôn thuởvì dân vì nước hay sao? Cau thơ có dáng dấp một câu hỏi nhưng cũng là một câu khẳng định ắt sau này có người làm nên nghiệp lớn, lưu danh muôn thuởcứu dân cứu nước. Đó không là ta thì sẽ là

một người hậu thế. Lời thơ bày tỏ niềm tin tưởng vào tương lai, đó giống như sự trao 2Ú'i lịch sử vào tay hậu thế.

Bàn về chí lam trai, bàn về cái ‘tôi’ ở đời, nhà thơ đặt nhân vật trữ tình hoàn cảnh

cụ thê cùa đất nước:

Non sòng đã chết sống thêm nhục

Hiên thánh lùm chi học cũng hoài.

Luận vế lẽsống chết ở đời để khẳng định, đề cao tư tưởng mới mẻ của nhân vật trữ tình. * ‘Non sông đã chết sống thêm nhục’. Nếu như chí làm trai gắn số phận kẻ làm trai với trách nhiệm xoay trời chuyển đất thì nước nhà có sa cơ ‘đã chết’ cái nhục thuộc vềsựsống kẻ làm trai. Nhận trách nhiệm chung về mình, đó là biểu hiện cao độ cùa lòng tự trọng con người. ở đây lòng tự trọng được thể hiện ở nỗi đau mất nước, nỗi nhục quốc thể.

Đặc biệt, tư tướng nhàn vật trữ tình đối vói nghiệp bút nghiên là một tư tưởng vô cùng mới mé ‘Hiền thánh làm chi học cũng hoài’. Tư tưởng ấy khẳng định: đạo Nho, chữ Nho, quan điểm nhà Nho (hiền thánh) đã không còn hợp thời hợp thế. Chúng không còn tác dụng thúc đẩy sự phát triển của dân tộc. Vậy, trong thời đại mới cần xếp bút nghiên nắm lây vũ khí mà tranh đấu cho lòng tự tôn dân tộc, lòng tự trọng cá nhàn. Tư tưởng ày hết sức mới mẻ, táo bạo thoát ra khỏi lề lối sáo mòn gò ép của tư tưởng Nho gia thúc giục con người lên đường tranh đấu.

Vậy lên đường tranh đấu bằng cách nào?

Muốn vượt biển Đông theo cánh gió

Muôn trùng sóng bạc tiễn ra khơi.

Hình tượng nhân vật trữ tình không còn hiện lên trong khuôn khổ những tư tưởng ý chí mà vụt hóa thành con người của hành động. Càu thơ khắc họa một cuộc tiễn đưa hào hùng của lịch sử. Hình ảnh tư thế người ra đi vô cùng lớn lao kỳvĩ ‘vượt bể Đông theo cánh gió’ để ‘Muôn trùng sóng bạc tiễn ra khơi’. Phải là ‘bể Đông’ ‘cánh gió’ mới xứng đáng với sự kỳvĩ của ước mơ người anh hùng. ‘Muôn trùng sóng bạc’ của quê hương tiễn đưa người anh hùng ra đi vì chí lớn. Bài thơ khép lại nhưng mớ ra hy vọng cho tương lai đất nước dựa vào cuộc ra đi hào hùng cua bậc anh hùng hào kiệt.

Hình tượng nhân vật trữ tình trong bài thơ hiện lên ỏ nhiều phương diện: tư tưởng khát vọng, hành động. Qua đó bộc lộ những quan điểm mới mẻ, tiến bộ về nhân sinh quan. Bài thơ kết thúc ớ hình ảnh người ra đi đẹp hào hùng gieo vào lòng người những đợi chờ hy vọng.

Hóa thân vào nhân vật trữ tình của bài thơ, Phan Bội Châu thể hiện khát vọng ý chí cá nhân làm nên nhiều biến động đổi thay trong lịch sử. ở nhà thơ, thơ là người và

người cũng như thơ. Nhắc đến thư để ta thêm muôn phần ngưỡng mộ con người nhà chí sĩ yêu nước Phan Bội Châu.

BÀI MẪU SỐ 3:

Trong lí luận văn học, người ta thường quan niệm nhân vật trữ tình là hình tượng văn học trực tiếp thổ lộ những cảm xúc, tình cảm, tâm trạng trong tác phẩm. Nhân vật trữ tình không có diện mạo, ngôn ngữ, hành động... cụ thể, chi tiết như nhân vật tự sự. Trong một bài thơ trữ tình, nhân vật trữ tình có thể là chính tác giả, cũng có thể là nhà thơ hóa thân vào nhân vật khác, tạo thành nhân vật trữ tình nhập vai. Ở bài Lưu biệt khi xuất dương, nhân vật trữ tình chính là nhà thơ - nhà chiến sĩ cách mạng Phan Bội Châu. Bởi vậy, nói đến vẻ đẹp của nhân vật trữ tình trong bài thơ này cũng tức là nói đến vẻ đẹp tâm hồn của tác giả.

Sinh thời, Phan Bội Châu rất tâm đắc câu thơ của Viên Mai (Trung Quốc):

Mỗi phạn bất vong duy trúc bạch,

Lập thân tối hạ thị văn chương.

Có thể tạm dịch là:

Mỗi bữa không quên ghi sử sách,

Lập thân hèn nhất ấy văn chương.

Như thế cũng có nghĩa là Phan Bội Châu không muốn lấy văn chương làm lẽ sống. Nhưng do yêu cầu của cách mạng, trong hơn nửa thế kỉ cầm bút, ông đã sử dụng cả chữHán lẫn chữ Nôm, sáng tác một khối lượng tác phẩm đồ sộ, gồm hàng trăm bài thơ, bài văn và hàng chục cuốn sách, bằng nhiều thể loại khác nhau. Trong đó, bài thơ Lưu biệt khi xuất dương là một trong những tác phẩm tiêu biểu, vẻ đẹp của bài thơ này trước hết là vẻ đẹp tâm hồn của nhân vật trữ tình - tác giả.

Thơ Phan Bội Châu phản ánh cuộc đời cách mạng của nhà chí sĩ lúc lạc quan đắc ý, lúc thất bại đau buồn. Bởi vậy, khi phân tích thơ văn của ông không thể không tìm hiểu kĩ hoàn cảnh ra đời của một tác phẩm. Nói ở phạm vi hẹp hơn, ta chỉ có thể hiểu được vẻ đẹp của nhân vật trữ tình trong bài Lưu biệt khi xuất dương nếu hiểu được kĩ lưỡng hoàn cảnh ra đời của bài thơ này.

Vào cuối thế kỉ XIX, sau cái chết oanh liệt của Cao Thắng và của Phan Đình Phùng, phong trào cần Vương đã thất bại. Dẫu trên rừng Yên Thế (thuộc địa phạn tỉnh Bắc Giang) vẫn còn đì đoàng tiếng súng của nghĩa quân Hoàng Hoa Thám, nhưng thực chất, giặc đã làm chủ tình thế. Dần dần, chúng đặt ách đô hộ lên cả ba kì. Đất nước ta lúc này thật là tăm tối. "Câu chuyện "Bình Tây phục quốc" tưởng chỉ là một mớ kí ức tê tái" (Đặng Thai Mai) của người Việt Nam. Nhưng rồi, nhờ truyền thống quật cường của dân tộc, nhờ ảnh hưởng của "tân thư" từ nước ngoài..., đến những năm đầu thế kỉ XX, cả một lớp nhà nho đầy nhiệt huyết đã thức tỉnh với những phong trào: Duy Tân, Đông Du, Đông kinh nghĩa thục, chống thuế ở Trung Kì... Họ tập hợp nhau lại, bất liên lạc với những lực lượng chống Pháp ở trong nước. Nhiều cậu học sinh cắt nghiến búi tóc trên

đầu, quyết tâm đoạn tuyệt với lối học cử tử để đi tìm lí tưởng mới. Họ thoát li gia đình và xuất dương, đi Tàu, đi Nhật, đi Xiêm — "tất cả chí hướng của thế hệ trí thức yêu nước đã nhằm vào một mục tiêu vĩ đại: "khôi phục nước nhà" (Đặng Thai Mai). Trong bối cảnh ấy, năm 1905, Phan Bội Châu cùng với Tiểu La Nguyễn Thành lập tổ chức Duy Tân hội. Sau đó, theo chủ trương của hội, Phan Bội Châu chia tay bè bạn sang Trung Quốc và Nhật Bản, tranh thủ sự giúp đỡ của những nước này đối với phong trào cách mạng Việt Nam.

Trước khi lên đường, vào lúc chia tay, Phan Bội Châu đã sáng tác bài Xuất dương lưu biệt (có nghĩa là: Để lại lúc từ biệt ra nước ngoài) bằng chữ Hán theo thể thất ngôn bát cú Đường luật. Bài thơ này đã nhanh chóng được phổ biến rộng rãi và được dịch ra tiếng Việt. Bản dịch của Tôn Quang Phiệt là bản dịch khá thành công, tuy có một vài chỗ chưa lột tả hết tinh thần nguyên tắc.

Bài Lưu biệt khi xuất dương thể hiện rõ tư thế hào hùng, sự quyết tâm cao độ và những ý tưởng mới mẻ của nhân vật trữ tình - nhà cách mạng Phan Bội Ghâu buổi đầu ra nước ngoài tìm đường cứu nước.

Mở đầu bài thơ, nhân vật trữ tình trực tiếp thể hiện một lí tưởng sống, một khát vọng lớn lao. Là đấng nam nhi sinh ra ở đời thì phải làm được những việc lớn lao phi thường (điều lạ) phải chủ động xoay chuyến đất trời, không thể để cho trời đất tự chuyển vần (Há để càn khôn tự chuyển vần) lấy sao? Ý tưởng táo bạo này có lần đã được họ Phan nhắc đên với thái độ đầy lạc quan trong bài Chơi xuân:

Giang sơn còn tô vẽ mặt nam nhi,

Sinh thời thế phải xoay nên thời thế.

Đúng là làm trai, khát vọng được làm những việc to lớn vốn được Phan Bội Châu tâm niệm từ rất sớm. Sau này, ông đã kể lại trọng một tác phẩm tự thuật: "Từ lúc bé đọc sách hiểu được ít nhiều nghĩa lí vẫn không thiết gì sống theo thói thường như người xung quanh" (Phan Bội Châu niên biểu). Nhưng cũng phải đến những năm đầu thế kỉXX, khi họ Phan có điều kiện xuất dương cứu nước, khát vọng làm trai trong con người này mới được thể hiện đầy đủ. Thực ra, từ xa xưa, chí làm trai đã thường được nói đến trong văn học. Phạm Ngũ Lão — một viên tướng lừng danh thời Trần đã từng đánh đông dẹp bắc, vẫn thấy chưa trả xong "món nợ" của kẻ làm trai và cảm thấy thẹn thùng khi nghe chiến tích của Khổng Minh Gia Cát Lượng:

Công danh nam tử còn vương nạ

Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ Hầu.

(Thuật hoài)

Trong buổi "giã nhà" cùng ba quân ra chiến trường, hình ảnh người chinh phụ

trong Chinh phụ ngâm của Đặng Trần Côn dường như đẹp hơn, hùng dũng hơn:

Chí làm trai dặm nghìn da ngựa

Gieo Thái Sơn nhẹ tựa hồng mao.

Và Nguyễn Công Trứ cũng đã không chỉ một lần tâm niệm:

Đã mang tiếng ở trong trời đất

Phải có danh gì với núi sông.

(Đi thi tự vịnh)

"Chí làm trai" là tư tưởng rất đáng trân trọng, là sức mạnh tinh thần giúp cho nhiều người lập nên những công tích vang dội, có ích cho đất nước, cho xã hội. Đối với Phan Bội Châu, thực hiện chí nam nhi chính là chủ động tiến hành sự nghiệp cứu nước. Trong hoàn cảnh ra đời của bài thơ như đã trình bày ở trên, việc khẳng định chí nam nhi càng có ý nghĩa cao cả.

Đến hai câu thực, ý tưởng của nhân vật trữ tình được triển khai rõ hơn: "Giữa khoảng trăm năm này cần phải có ta chứ, chẳng nhẽ ngàn năm sau lại không có ai (để lại tên tuổi) ư?". Người xưa quan niệm một kiếp người là một trăm tuổi. Do đó, "giữa khoảng trăm năm" có nghĩa là cuộc sống một cá nhân trong thực tại. Còn ngàn năm sau là nói đến lịch sử, nói đến tương lai. Câu đầu của phần thực, người dịch chuyển chữ ta thành chữ tớ. Tớ nói được cái hăm hở, lạc quan, trẻ trung, nhưng lại làm mất đi sự trịnh trọng đường hoàng không thật phù hợp với nội dung của đoạn thơ: long trọng tuyên bố về một lẽ sống, một tư thế vào đời của đấng tu mi nam tử. Hơn nữa, câu thơ dịch thanh thoát đọc êm tai, nhưng lại làm mất đi âm điệu chắc nịch, nói như "đinh đóng cột" của tác giả. Hai câu thơ trên thoạt xem dường như có chút ngông nghênh tự phụ, thực ra là bộc lộ ý thức sâu sắc về cái "tôi" cá nhân tích cực. Cái "tôi" này chẳng những khẳng định trách nhiệm đối với hiện tại, tức là đối với vận mệnh hôm nay của đất nước, mà còn khẳng định nghĩa vụ đối với lịch sử muôn đời. Thật là tư thế của con người có chí khí lớn, muốn vươn tới đỉnh cao của lịch sử, phóng tầm mắt tới nghìn đời sau. Tư thế ấy càng được khẳng định hiên ngang hơn nữa ở hai câu luận:

Non sông đã chết, sống chí nhục

Hiền thánh đã vắng thì đọc sách cũng ngu thôi.

Ở con người này, số phận gắn làm một với số phận đất nước, sống chết cùng non sông, vinh nhục cùng Tổ quốc, ở con người này dường như không có chút băn khoăn về quan hệ cá nhân, quan hệ đời tư. Một tư thế sử thi hùng vĩ biết bao!

Ở đây, nhân vật trữ tình tuy nói về mình nhưng cũng là nói cho cả một thế hệ, cả

một dân tộc đang chuyển mình theo một lí tưởng cứu nước mới, phù hợp với thời đại

mới. Hiền thánh đã chết, kinh sử mất thiêng, nhà thơ dứt khoát hướng thẳng về

tương lai, đầy lạc quan tin tưởng.

Bài thơ kết bằng hai câu tuyệt đẹp, đầy cảm hứng lãng mạn:

Muốn vượt, biển Đông theo cánh gió,

Muôn trùng sóng bạc tiễn ra khơi.

Đúng là con đại bàng cất cánh bay ra biển khơi, bay vào thời đại. Hình ảnh thơ,

nếu hiểu đúng như nguyên tắc, còn lãng mạn và hào hùng hơn nữa:

Thiên trùng bạch lãng nhất tề phi.

(Ngàn đợt sóng bạc cùng bay lên).

Lưu biệt khi xuất dươnglà bài thơ tiêu biểu cho tư tưởng và phong cách Phan Bội Châu ở giai đoạn đầu của cuộc đời cách mạng, khi ông xuất dương ra đi cứu nước theo đường lối cách mạng mới mà ông xiết bao tin tưởng. Bài thơ mang khẩu khí của bậc trượng phu đội trời đạp đất. Cái hay của bài thơ xuất phát từ vẻ đẹp của nhân vật trữ tình với khát vọng làm nên sự nghiệp lớn lao, với khí thế hăm hở và "một dự cảm mới mẻ" (Nguyền Huệ Chi). Bởi vậy, bài thơ có giá trị khích lệ, động viên, tuyên truyền cách mạng mạnh mẽ, nhất là đối với thế hệ thanh niên yêu nước hồi đầu thế kỉ XX.

BÀI MẪU SỐ 4:

Từ xưa đến nay, văn học luôn là tấm gương phản ánh khách quan bộ mặt đất nước và hiện thực xã hội. Trong xã hội phong kiến, văn học trung đại với những tác giả và tác phẩm tiêu biểu đã thổi bùng lên những tình cảm, ý thức, tư tưởng của con dân Việt Nam để xua tan màn đêm tăm tối. Với hình tượng nhân vật trữ tình trong bài thơ “Lưu biệt khi xuất dương”, nhà thơ Phan Bội Châu đã mang đến một luồng gió mới mẻ trong nhận thức của những con người yêu nước.

Phan Bội Châu, nhà thơ, nhà cách mạng lớn của dân tộc thường được gọi với cái tên trìu mến “ông già Bến Ngự”. Phan Bội Châu là người khơi dòng chảy cho loại văn chương trữ tình chính trị. Thơ văn của ông có sức chiến đấu mạnh mẽ, "đọc thơ văn Phan Bội Châu, lí trí chưa kịp nhận thức và tán thành thì ngó lại, trái tim đã bị nó hoàn toàn chinh phục rồi". Giá trị của thơ văn Phan Bội Châu chính là ở cảm xúc cách mạng chân thành, sôi nổi. Ông nói thẳng và cổ vũ trực tiếp cho cách mạng. Bài thơ Xuất dương lưu biệt thể hiện những nét đặc sắc của phong cách thơ tuyên truyền vận động cách mạng của Phan Bội Châu. Năm 1905, sau khi Duy tân hội được thành lập, Phan Bội Châu nhận nhiệm vụ xuất dương sang Nhật để đặt cơ sở đào tạo cốt cán cho phong trào cách mạng trong nước. Xuất dương lưu biệt được sáng tác trong buổi chia tay lên đường. Bài thơ đăng lần đầu trên tạp chí Binh sự Hàng Châu số 34 tháng 2 năm 1917. Bài thơ đã gây xúc động trong lòng bạn đọc bởi ý thức trách nhiệm giải phóng đất nước ra khỏi ách thực dân của tác giả. Và đặc biệt hơn cả, hình tượng nhân vật trữ tình đầy mới mẻ trong bài thơ đã giúp bài thơ tỏa sáng rực rỡ,:

Sinh vi nam tử yếu hi kì

Khẳng hứa càn khôn tự chuyển di

Ư bách niên trung tu hữu ngã

Khởi thiên tải hậu cánh vô thùy

Giang sơn tử hĩ sinh đồ nhuế

Hiền thánh liêu nhiên tụng diệc si!

Nguyện trục trường phong Đông hải khứ

Thiên trùng bạch lãng nhất tề phi.

Hình tượng nhân vật trữ tình trong thơ trung đại là phương thức bộc lộ ý thức nhà thơ. Nhân vật trữ tình là con người “đồng dạng” của tác giả. Nhân vật trữ tình là hình tượng khái quát như một tính cách văn học được xây dựng trên cơ sở lấy sự thật của tiểu sử tác giả làm nguyên mẫu, là hình tượng để nhà thơ thổ lộ tình cảm chân thành của mình trong những tình huống trữ tình. Tuy nhiên, nhân vật trữ tình trong thơ thống nhất nhưng không đồng nhất với cái tôi nhà thơ, là hình tượng trực tiếp bộc lộ suy nghĩ, tình

cảm. Bài thơ “Xuất dương lưu biệt” đã khắc họa được hình tượng nhân vật trữ tình mang vẻ đẹp riêng, thể hiện tư tưởng, tình cảm cũng như ý thức cá nhân của Phan Bội Châu.

Ngay từ những câu thơ đầu tiên, tác giả đã thể hiện rõ ràng quan niệm của mình về chí làm trai của nhân vật trữ tình. Cái chí làm trai mà nhà thơ nói đến trong bài thơ trước hết là “phải lạ ở trên đời”. Đó là một lí tưởng sống, một khát vọng lớn lao. Đấng nam nhi phải làm được những việc lớn lao, phi thường, phải chủ động xoay chuyển trời đất, không để cho trời đất tự chuyển vần. Chí làm trai cũng đã được đề cập trong rất nhiều bài thơ cùng thời kì :

Chí làm trai nam bắc đông tây

Cho phỉ sức vẫy vùng trong bốn bể

(Nguyễn Công Trứ - Chí khí làm trai)

Hay trong bài thơ “Tỏ lòng” của nhà thơ Phạm Ngũ Lão:

Nam nhi vị liễu công danh trái

Tu thính nhân gian thuyết Vũ hầu

Vẫn tiếp tục thể hiện chí làm trai của văn học truyền thống nhưng Phan Bội Châu đã mang đến cho chí khí ấy một sắc màu, một khí thế mới, hiện đại hơn.Làm đấng nam nhi trên đời này phải làm điều kì lạ, kì tích để giúp đời, giúp dân, giúp nước. Làm trai là phải tung hoành ngang dọc, dời non lấp bể: Ở câu thứ hai, Phan Bội Châu viết “Há để càn khôn tự chuyển dời”. Phải là bậc hào kiệt trên đời này thì mới phát ngôn như vậy. Nội lực mạnh mẽ phi thường. Con người muốn tham gia vào sự vận động của vũ trụ. “Há để càn khôn tự chuyển dời” là câu hỏi tu từ vừa khẳng định vừa muốn đối thoại với hết thảy các đấng mày râu trên đời này. Nhận thức về mối quan hệ giữa con người và vũ trụ về sự tác động của con người đối với vũ trụ như vậy thật là tích cực, thật là cách mạng. Câu thơ làm thức dậy nội lực của mỗi con người để họ tham gia cải tạo tự nhiên, cải tạo xã hội.

Nhà thơ chuyển chữ “ta” thành chữ “tớ” ở câu thơ thứ ba . “Tớ” phản ánh được cái hăm hở, lạc quan, trẻ trung. Hai câu thơ trên dường như có chút ngông nghênh tự phụ nhưng thực ra là sự bộc lộ sâu sắc về cái tôi cá nhân tích cực. Cái tôi này chẳng những khẳng đinh trách nhiệm đối với hiện tại, với vận mệnh của đất nước mà còn khẳng định nghĩa vụ với lịch sử. Đó là tư thế của người có chí khí lớn, muốn vươn tới những đỉnh cao của lịch sử. Cái chí làm trai mà cụ Phan nói trong bài thơ chắc chắn khiến chúng ta thấy cảm phục về những con người sống ý thức được vai trò, trách nhiệm của mình đối với lịch sử. Mỗi con người sống là phải gắn liền với đất nước, dân tộc, biết sống chết cùng dân tộc. Rõ ràng nhân vật trữ tình tuy đang nói về mình nhưng thực chất là tiếng nói đại diện cho cả một tầng lớp, một thế hệ và cao hơn là cả dân tộc. Cách nhìn nhận, suy nghĩ của tác giả là hướng về tương lai phía trước chứ không phải là lối sống hoài niệm.

Đây cũng chính là một điểm rất tiến bộ mà thông qua bài thơ chúng ta không chỉ cảm nhận được ý nghĩa của chúng mà còn học tập được vào thực tế cuộc sống của mình.

Dầu sao trong bốn câu đầu này chỉ mới nói đến điều phải “lạ”, mà chưa nói rõ “việc lạ” cần làm là gì? Bốn câu tiếp theo sẽ dần dần làm sáng lên điều đó. Hai câu luận là một sự nhìn nhận phi thường:

Giang sơn tử hĩ sinh đồ nhuế,

Hiền thánh liêu nhiên tụng diệc si

Câu trên đã gợi ra một thực tại đau lòng của nước ta: Khi chủ quyền đã về tay kẻ ngoại bang, thì non sông xem như đã chết. Sống mà không có quyền làm chủ là sống nhục. Bốn chữ “giang sơn tử hĩ” chất đầy đau đớn và phẫn uất. Phan Bội Châu không phủ nhận nho học, đạo lí Khổng Mạnh nhưng cần phải biết rằng : Hiền thánh đã vắng bóng thì có đọc sách cũng ngu thôi! Người con trai sống mà không làm gì cho đất nước thì chỉ thêm nhục. Bởi đó là nhắm mắt quay lưng cho “càn khôn tự chuyển đi”, là phó mặt mình cho đời xoay vần. Tất cả những gì thiêng liêng xứng đáng với một bậc nam tử coi như đã chết. Nhà thơ chối bỏ phương pháp học cũ, lối học từ chương, một nền học cũ còn thiếu về khoa học, nặng lí thuyết, nhẹ thực hành. Chối bỏ nền học vấn cũ đầy tinh thần cách mạng. Đọc hai câu thơ của Phan Sào nam mà ngỡ như nghe đâu đây giọng thơ của Nguyễn Khuyến :

Sách vở ích gì cho buổi ấy

Áo xiêm nghĩ lại thẹn thân già

(Ngày xuân dặn con cháu)

Nhưng vẫn rất khác. Thơ Nguyễn Khuyến ngậm ngùi mà hoài nghi, hoài nghi ích lợi của sách vở, hoài nghi cái học của ngày xưa. Còn thơ Phan Bội Châu phủ định “tụng diệc si”. Phan Bội Châu không phủ nhận đạo lí thánh hiền, không hoài nghi tư tưởng Khổng Mạnh vì bối cảnh của nhà thơ khác với Nguyễn Khuyến lúc ấy. Với Tam nguyên Yên Đỗ, ông chọn con đường về ở ẩn nên bị giằng xé, vì thế dẫn đến hoài nghi. Phan Bội Châu lại chọn con đường khác, ông là con người cách mạng đầy nhiệt huyết, khao khát cách tân đất nước, phủ nhận những cái cũ đầy triệt để và mạnh mẽ. Ông đưa ra một lí lẽ vô cùng xác đáng : cái học cũ không mang đến cho thế hệ mới cách nhìn đầy đủ để xây dựng đất nước. Vì thế, kẽ sĩ hiện đại phải có hành động xứng đáng. Hành động kiệt xuất phi thường ấy bây giờ chính là: Xuất dương tìm đường cứu nước.

Đứng trước thực tại của xã hội như thế, Phan Bội Châu đã quyết tâm nói lên tiếng

nói của mình:

Muốn vượt biển Đông theo cánh gió,

Muôn trùng sóng bạc tiễn ra khơi.

Câu thơ gợi ta nhớ đến tư thế của con chim lớn trong thơ Quận He:

Bay thẳng cánh muôn trùng Tiêu Hán,

Phá vòng vây bạn với Kim Ô.

Nhưng câu thơ của Phan Bội Châu không còn là một hình ảnh ước lệ nữa. Phong trào Đông Du mà ông là người chủ trương và việc xuất dương mà ông là người khởi sự chính là những hành động phi thường của những bậc trượng phu sẵn sàng ném đời mình vào muôn trùng sóng bạc ra khơi tìm đường làm sống lại “giang sơn đã chết”, tìm cách xoay chuyển càng khôn. Đọc đến đây, ta liên tưởng như những đợt sóng đang dậy lên trong trí tưởng tượng của tác giả. Thể hiện tâm thế, tư thế của nhân vật trữ tình muốn lao ngay vào môi trường mới mẻ, sôi động; muốn bay lên làm quẫy sóng đại dương, bay lên cùng với những đợt sóng trào sôi vừa thoáng hiện trong tâm tưởng. Làn sóng sôi sục muốn ra đi tìm đường cứu nước. Câu kết đã làm cho thể thơ tuyên truyền chính trị trở thành thơ trữ tình chính trị, thể hiện được tình yêu tổ quốc của nhà thơ trước thực tại đau lòng của nước nhà.

"Lưu biệt khi xuất dương" thể hiện vẻ đẹp lãng mạn, hào hùng của lớp nhà nho tiên tiến đầu thế kỉ XX : ý tưởng mạnh mẽ, táo bạo, nhiệt huyết và khát vọng giải phóng dân tộc luôn sôi trào. Bằng một giọng thơ sôi nổi, đầy hào khí, tác giả đã thể hiện được tinh thần chung của thời đại, đã thổi vào không khí cách mạng đầu thế kỉ XX một luồng sinh khí mới. Điều này có một ý nghĩa vô cùng quan trọng cho sự nghiệp cách mạng Việt Nam ở thời điểm cam go nhất.

Bài thơ được viết bằng chữ Hán, theo thể thất ngôn bát cú Đường luật. Hình thức cổ điển nhưng tứ thơ, khí thơ và cảm hứng lại rất hiện đại, đó là sản phẩm tinh thần của một nhà nho tiến bộ. Bài thơ thể hiện một lí tưởng sống cao đẹp, đồng thời là một bài học về đạo làm người.

Phan Bội Châu đã sử dụng bút pháp ước lệ phóng đại nhưng đầy mới mẻ ở chỗ đã thổi hồn vào hình tượng nhân vật trữ tình để làm bật lên ý thức về cái tôi của mình, cái tôi luôn thao thức vì sự sống còn của giống nòi dân tộc. Nếu những câu thơ đầu “cái tôi” hiện ra trước càn khôn, trước Bách niên trung, Thiên tải hậu những chiều kích kì vĩ của không gian và thời gian thì những câu thơ sau cái tôi càng hiện ra sắc nét với tất cả những gì lớn lao nhất. Bút pháp ước lệ cùng giọng điệu rắn rỏi, kiên quyết cũng làm bật lên ý thức cá nhân cá thể, vươt ra quan niệm của các nhà thơ trước. Ẩn đằng sau giọng thơ đầy uy nghiêm và hùng dũng đó là tư tưởng của giai cấp dân chủ tư sản trước vận mệnh của đất nước. Tất cả những điều trên đã khắc họa một cách sắc nét hình tượng người anh hùng ý thức về cái tôi của mình, cái tôi đầy trách nhiệm. Đó là tiếng gọi lên đường của những con người yêu nước. Bài thơ “Xuất dương lưu biệt”, với hình tượng nhân vật trữ

tình độc đáo của nó, đã thực sự đạt được những giá trị cần thiết của một tác phẩm văn học chân chính.

Hình tượng thơ làm hiển hiện trước mắt ta hàng ngàn đợt sóng sôi réo trắng xóa, lạ là không vỗ vào bở mà “nhất tề phi” (cùng bay lên). Hình tượng vừa kì vĩ vừa thơ mộng thể hiện được tinh thần phơi phới, nhiệt huyết, thăn hoa của nhà thơ mà cũng là nhà cách mạng. Bài thơ là khúc tráng ca của một thời đại đau thương nhưng đáng tự hào của dân tộc Việt Nam. Nó là tấm gương sáng ngời muôn thủa để người đời sau soi mình, thổi bùng lên lòng yêu nước của triệu triệu con người Việt Nam, làm thức dậy những giá trị tinh thần dân tộc. Đó là những giá trị bất hủ của thi phẩm "Xuất dương lưu biệt".