HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
VŨ THỊ THU QUYÊN
PH¸P LUËT VÒ QUYÒN CñA
NG¦êI CH¦A THµNH NI£N PH¹M TéI ë VIÖT NAM
LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2015
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
VŨ THỊ THU QUYÊN
PH¸P LUËT VÒ QUYÒN CñA
NG¦êI CH¦A THµNH NI£N PH¹M TéI ë VIÖT NAM
Chuyên ngành : Lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật
Mã số : 62 38 01 01
LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. NGUYỄN CẢNH QUÝ
HÀ NỘI - 2015
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BLDS
: Bộ luật dân sự
BLHS
: Bộ luật hình sự
: Bộ luật lao động
BLLĐ
BLTTHS
: Bộ luật tố tụng hình sự
Bộ LĐ-TB-XH
: Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội
CNXH
: Chủ nghĩa xã hội
LHQ
: Liên hợp quốc
Đoàn TNCS Hồ Chí Minh
: Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ chí Minh
Luật BV, CS, GD trẻ em
: Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em
LHQ
: Liên hợp quốc
NCTN
: Người chưa thành niên
NCTNPT
: Người chưa thành niên phạm tội
: Tòa án nhân dân
TAND
TANDTC
: Tòa án nhân dân tối cao
TNHS
: Trách nhiệm hình sự
TPNCTN
: Tư pháp người chưa thành niên
VKSND
: Viện kiểm sát nhân dân
VKSNDTC
: Viện kiểm sát nhân dân tối cao
XHCN
: Xã hội chủ nghĩa
MỤC LỤC
Trang
1
MỞ ĐẦU
Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN
TỚI ĐỀ TÀI
6
6
1.1. Các công trình nghiên cứu liên quan tới pháp luật về quyền của
người chưa thành niên phạm tội
1.2. Nhận xét về các công trình nghiên cứu liên quan đến luận án và
24
những vấn đề tiếp tục được nghiên cứu trong luận án
Chương 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN CỦA
29
NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN PHẠM TỘI
2.1. Khái niệm và đặc điểm của pháp luật về quyền của người chưa
29
thành niên phạm tội
2.2. Nội dung, vai trò và các tiêu chí của pháp luật về quyền của
39
người chưa thành niên phạm tội
53
2.3. Pháp luật quốc tế, pháp luật của một số quốc gia về quyền của
người chưa thành niên phạm tội và những giá trị có thể vận
dụng ở Việt Nam
70
Chương 3: QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN VÀ THỰC TRẠNG PHÁP
LUẬT VỀ QUYỀN CỦA NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN
PHẠM TỘI Ở VIỆT NAM
3.1. Quá trình phát triển của pháp luật về quyền của người chưa
70
thành niên phạm tội ở Việt Nam
3.2. Những thành tựu đạt được của pháp luật về quyền của người
81
chưa thành niên phạm tội ở Việt Nam hiện nay
3.3. Những hạn chế, bất cập của pháp luật về quyền của người chưa
99
thành niên phạm tội và nguyên nhân
115
Chương 4: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP
LUẬT VỀ QUYỀN CỦA NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN
PHẠM TỘI Ở VIỆT NAM
4.1. Các quan điểm hoàn thiện pháp luật về quyền của người chưa
115
thành niên phạm tội
4.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về quyền của người chưa thành
120
148
niên phạm tội ở Việt Nam hiện nay
KẾT LUẬN
150
151
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ
CÔNG BỐ CÓ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận án là công trình nghiên cứu riêng của tôi.
Các kết quả nêu trong Luận án chưa được công bố trong bất kỳ công
trình nào của các tác giả khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận án
đảm bảo tính chính xác, tin cậy, trung thực, có nguồn gốc rõ ràng.
Tác giả
2
1
1
3
LỜI CẢM ƠN
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp th iết của đề tài
2. Mục đích, n hiệm vụ của luận án
3
3
2.1. Mục đích của luận án
2.2. Nhiệm vụ của luận án
3
4
3. Đối tượng và phạm vi ngh iên cứu của luận án
4. Cơ sở lý luận và các phương pháp n ghiên cứu của luận án
4
4
4.1. Cơ sở lý luận
4.2. Phươn g pháp ng hiên cứu
4
5
5
6
5. Đóng góp về mặt kh oa học của luận án
6. Ý nghĩa lý luận và th ực tiễn của luận án
7. Kết cấu của luận án
Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN TỚI ĐỀ TÀI .................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................... 6
1.1. CÁ C CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN TỚI PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN CỦA NG ƯỜI CH ƯA THÀNH NIÊN PHẠM TỘI ...................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................... 6
1.1.1. Các công tr ình ngh iên cứu trong n ước
1.1.1.1. Các công trình n ghiên cứu pháp luật về q uy ền của người chưa thành niên p hạm tội..................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................... 6
1.1.1.2. Các công trình n ghiên cứu về đảm bảo và thực hiện pháp luật về quy ền của người chưa thành niên phạm tội ......................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................... 13
19
1.1.2. Các công tr ình ngh iên cứu ở nước ngoài
1.2. NHẬN XÉT VỀ CÁC CÔNG T RÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ TIẾP TỤC Đ ƯỢC NGHIÊN CỨU T RONG LUẬN ÁN ............................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................... 24
24
1.2.1. Nhận xét về các công trình nghiên cứu có liên quan đến luận án
1.2.2. Nh ững nộ i dung được tiếp tục ng hiên cứu trong luận án
26
Chương 2 CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN CỦA 28
2.1. KHÁI NIỆM VÀ ĐẶ C ĐIỂM CỦA PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN CỦA NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN PHẠM TỘI ..................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................... 28
2.1.1. Khái n iệm người chưa thành n iên phạm tội và quy ền của người chưa thành niên phạm tội ............................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................. 28
28
32
2.1.1.1. Khái niệm người chưa thành niên phạm tội
2.1.1.2. Khái niệm quy ền của người chưa thành niên phạm tộ i
2.1.2. Khái n iệm pháp luật về quy ền của người ch ưa thành n iên phạm tội................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................... 34
2.1.3. Đặc điểm của pháp luật về quy ền của người ch ưa thành n iên phạm tội ............................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................. 36
2.2. NỘI DUNG, VAI TRÒ VÀ CÁ C TIÊU CHÍ CỦA PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN CỦA NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN PHẠ M TỘI ............................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................. 38
2.2.1. Nội dung của pháp luật về quy ền của người ch ưa thành n iên phạm tội.............................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................. 38
2.2.1.1. Pháp luật về quy ền của NCTNPT trong các văn bản quy phạm pháp luật hình s ự....................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................... 38
2.2.1.2. Pháp luật về quy ền của NCTNPT trong các văn bản quy phạm pháp luật tố tụng hình sự .......................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................... 39
2.2.1.3. Pháp luật về quy ền của NCTNPT trong các văn bản quy phạm pháp luật về thi hành án h ình s ự .............................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................. 42
43
52
147
150
2.2.2. Vai trò của pháp luật về quy ền của NCTNPT
2.2.3. Các tiêu chí của pháp luật về q uy ền của người chưa thành niên phạm tộ i ......................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................... 46
2.3. PHÁP LUẬT QUỐC TẾ, PHÁP LUẬT CỦA MỘT SỐ QUỐ C GIA VỀ QUYỀN CỦA NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN PHẠM TỘI VÀ NHỮNG GIÁ T RỊ CÓ THỂ VẬN DỤNG Ở VIỆT NA M ............................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................... 52
2.3.1. Pháp luật quốc tế về quyền của người chưa thành niên phạm tội
2.3.2. Pháp luật của một số nước trên thế giới về quy ền của người chưa thành n iên phạm tội ................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................... 56
2.3.3. Nh ững kinh ngh iệm trong pháp luật về quy ền của người ch ưa thành niên phạm tội ở các nước có thể vận dụng vào pháp luật V iệt Nam ................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................. 64
Chương 3 QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN VÀ THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN CỦA NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN PHẠM TỘI Ở VIỆT NAM .................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................... 69
3.1. QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN CỦA PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN CỦA NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN PHẠM TỘI Ở VIỆT NAM...................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................... 69
3.1.1. Pháp luật về quy ền của người chưa thành niên phạm tội từ năm 1945 cho đến tr ước Hiến pháp 1 959 ra đời ............................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................... 69
3.1.2. Pháp luật về quy ền của người chưa thành niên phạm tội từ năm 1959 đến trước khi H iến pháp 198 0 ra đời ................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................. 71
3.1.3. Pháp luật về quy ền của người chưa thành niên phạm tội từ khi có Hiến pháp 1980 đến trước khi Hiến pháp 1992 ra đ ời ............................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................ 73
3.1.4. Pháp luật về quy ền của người chưa thành niên phạm tội từ khi có Hiến pháp 1992 cho tới nay ...................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................... 77
3.2. NHỮNG THÀNH TỰU ĐẠT Đ ƯỢC CỦA PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN CỦA NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN PHẠM TỘI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY VÀ NGUYÊN NHÂN ................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................... 80
3.2.1. Pháp luật về quy ền của người chưa thành niên phạm tội trong các văn bản quy phạm pháp luật hìn h sự ....................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................... 80
3.2.2. Pháp luật về quy ền của người chưa thành niên phạm tội trong các văn bản quy phạm pháp luật tố tụng h ình s ự .......................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................... 84
3.2.3. Pháp luật về quy ền của người chưa thành niên phạm tội trong các văn bản quy phạm pháp luật về thi hành án hìn h sự............................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................... 92
3.3.4. Nguy ên nhân đạt đ ược nh ững thàn h tựu của pháp luật về quy ền của người chưa thành niên phạm tội ở Việt Nam hiện nay ....................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................... 97
3.3. NHỮNG HẠN CHẾ, BẤT CẬP CỦA PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN CỦA NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN PHẠM TỘI VÀ NGUYÊN NHÂN ........................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................... 98
3.3.1. Nh ững hạn chế, bất cập của pháp luật về q uy ền của người chưa thành niên phạm tộ i ...................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................... 98
3.3.2. Nguy ên nhân của những hạn chế, bất cập trong các quy định của pháp luật về quy ền của người chưa thàn h niên phạm tội....................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................... 108
Chương 4 QUAN ĐIỂ M VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN CỦA NG ƯỜI CH ƯA THÀNH NIÊN PHẠM TỘI Ở VIỆT NA M ............................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................ 114
4.1. CÁC QUAN ĐIỂM HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN CỦA NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN PHẠM TỘI......................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................... 114
4.1.1. Hoàn th iện pháp luật về quy ền của người ch ưa thành n iên phạm tội phải quán triệt các quan điểm, chủ trương của Đảng về quy ền của người chưa thành n iên ........................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................... 114
4.1.2. Hoàn th iện pháp luật về quy ền của người ch ưa thành n iên phạm tội phải đảm bảo y êu cầu của cuộc đấu tranh phòng chống tộ i phạm nói chung và tội phạm đối với ng ười ch ưa thành n iên nói riêng .......................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................... 115
4.1.3. Hoàn th iện pháp luật về quy ền của người ch ưa thành n iên phạm tội phải đảm bảo tính th ống nhất, đồng b ộ và khả th i............................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................. 116
4.1.4. Hoàn th iện pháp luật về quy ền của người ch ưa thành n iên phạm tội phải phù h ợp với các điều ước qu ốc tế m à Việt Nam đã ký kết, p hê chuẩn, tham gia và tiếp th u có chọn lọc các kinh n ghiệm nước ng oài ............................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................ 118
4.2. GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN CỦA NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN PHẠ M TỘI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY ................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................. 119
4.2.1. Hoàn th iện một số q uy phạm pháp luật về quy ền của người chưa thành niên p hạm tội trong pháp luật h ình s ự .......................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................... 119
4.2.2. Hoàn th iện một số q uy phạm pháp luật về quy ền của người chưa thành niên p hạm tội trong pháp luật tố tụn g hìn h sự.............................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................. 128
4.2.3. Hoàn th iện một số q uy phạm pháp luật về quy ền của người chưa thành niên p hạm tội trong pháp luật thi hành án hình s ự....................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................... 138
4.2.4. Hoàn th iện một số q uy phạm pháp luật về quy ền của người chưa thành niên p hạm tội trong các văn bản quy phạm pháp luật khác ........................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................ 140
4.2.5. Nâng cao trình độ, năng lực của Đại biểu Quốc h ội trong xây dựng, hoàn thiện các quy phạm pháp luật về quy ền của người chưa thàn h niên phạm tội ....................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................... 142
4.2.6. Nâng cao trình độ, năng lực của đội n gũ cán bộ, công ch ức soạn thảo các quy phạm pháp luật về quy ền của người ch ưa thành niên p hạm tội....................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................... 144
KẾT LUẬN
DANH MỤC CÁC CÔNG T RÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁ C GIẢ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI ........................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................ 149
DANH MỤC TÀI LIỆU THA M KHẢO
Vũ Thị Thu Quyên
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới PGS.TS. Nguyễn Cảnh
Quý, Viện Nhà nước và Pháp luật - người Thầy đã định hướng nghiên cứu,
tận tình hướng dẫn và giúp tôi tháo gỡ những khó khăn trong suốt quá trình
làm luận án.
Trong suốt quá trình thực hiện luận án, tôi đã nhận được sự giúp đỡ
tận tình về chuyên môn của các Thầy, Cô, các Nhà khoa học của Viện Nhà
nước và Pháp luật. Bên cạnh đó, tôi cũng nhận được sự động viên, góp ý khoa
học của các Nhà khoa học, các bạn đồng nghiệp. Bằng tình cảm chân thành
nhất, tôi xin trân trọng cảm ơn sự giúp đỡ quý báu đó.
Tôi xin chân thành cảm ơn Khoa Nhà nước và Pháp luật, Ban Giám
đốc Học viện Báo chí và Tuyên truyền, Viện Nhà nước và Pháp luật, Ban
Quản lý đào tạo Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh đã giúp đỡ, tạo
điều kiện thuận lợi nhất cho tôi học tập và tham gia nghiên cứu để hoàn
thành luận án này.
Tôi xin gửi lời cám ơn từ trái tim mình tới gia đình, những người thân
và bạn bè đã luôn bên cạnh, yêu thương, khích lệ và ủng hộ tôi trong suốt thời
gian vừa qua.
Hà Nội, ngày tháng 4 năm 2015
Tác giả
Vũ Thị Thu Quyên
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Người chưa thành niên phạm tội (NCTNPT) là hiện tượng tồn tại ở tất cả
các nước trên thế giới. Mọi quốc gia đều giải quyết vấn đề NCTNPT theo
những mức độ, cách thức khác nhau tùy thuộc vào điều kiện, tập quán và
pháp luật của mỗi nước. Ở góc độ quyền con người, quyền của NCTNPT
được công nhận là quyền của nhóm xã hội dễ bị tổn thương. Pháp luật về
quyền của NCTNPT là công cụ quan trọng để NCTNPT bảo vệ quyền ngay cả
khi các cơ quan có thẩm quyền xử lý hành vi phạm tội, đồng thời là công cụ
hữu hiệu để ngăn chặn các chủ thể xâm phạm quyền của các đối tượng này
trong quá trình tố tụng.
Xuất phát từ quan điểm luôn coi con người vừa là mục tiêu, vừa là
động lực phát triển xã hội của Đảng Cộng sản Việt Nam nên trong Chiến lược
về xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010 định
hướng 2020 chỉ rõ: “xây dựng và hoàn thiện pháp luật về bảo vệ quyền con
người, quyền tự do dân chủ của công dân” [7]. Đối với quyền của NCTNPT,
Đảng và Nhà nước có chính sách pháp luật phù hợp với mức độ hành vi, sự
phát triển về tâm, sinh lý và nhận thức của các đối tượng này, trong đó có
chính sách hình sự đối với NCTNPT.
Hiện nay ở Việt Nam, dưới góc độ lý luận pháp luật về quyền của
NCTNPT đã được nghiên cứu ở khía cạnh này hoặc khía cạnh khác. Tuy
nhiên, chưa có một công trình nào nghiên cứu một cách đầy đủ, toàn diện, có
hệ thống về vấn đề này để làm nền tảng lý luận cho việc đánh giá thực trạng
pháp luật về quyền của NCTNPT.
Về mặt thực tiễn, từ khi phê chuẩn Công ước quốc tế về quyền trẻ em
(gọi tắt là Công ước quyền trẻ em) vào năm 1990, Đảng và Nhà nước Việt Nam
đã đạt được những thành tựu nhất định, theo hướng nội luật hóa các nguyên tắc
của Công ước quyền trẻ em vào pháp luật và thực tiễn quốc gia. Chính sách pháp
luật của nước ta từ trước tới nay đều hướng đến việc cải tạo NCTNPT thành
những công dân có ích cho xã hội. Hệ thống các văn bản pháp luật về giáo dục,
2
đối xử và bảo vệ các quyền hợp pháp của NCTNPT được ban hành tạo nên sự
hài hoà hơn với Công ước quyền trẻ em. Các văn bản pháp luật này, cùng với
các biện pháp đã được áp dụng trong thực tiễn góp phần tích cực vào cuộc đấu
tranh chống vi phạm pháp luật ở người chưa thành niên (NCTN), mặt khác tạo ra
cơ sở pháp lý vững chắc bảo vệ quyền của NCTNPT.
Trong thời gian qua, Nhà nước tiếp tục quan tâm ghi nhận các quyền
của NCTNPT trong các văn bản quy phạm pháp luật hình sự, tố tụng hình sự
và các văn bản quy phạm pháp luật khác. Những văn bản quy phạm pháp luật
này là cơ sở pháp lý quan trọng để NCTNPT được hưởng quyền, đồng thời đó
chính là các bảo đảm về mặt pháp lý yêu cầu các chủ thể có thẩm quyền phải
tiến hành nhằm đáp ứng việc hưởng quyền của NCTNPT. Tuy nhiên, do
nhiều nguyên nhân cả chủ quan lẫn khách quan, một số quy phạm pháp luật
về quyền của NCTNPT còn bất cập, chưa đầy đủ, chưa đồng bộ, thiếu thống
nhất, chưa phù hợp với thực tiễn cuộc sống, thiếu tính khả thi, lạc hậu, thậm
chí mâu thuẫn. Tất cả những điều này đã và đang làm cho một số trường hợp
NCTNPT không được hưởng quyền, lợi ích chính đáng của mình; bên cạnh
đó cơ chế pháp lý để bảo vệ quyền của các đối tượng này còn chưa phù hợp,
gây khó khăn, cản trở quá trình thực thi pháp luật.
Thực trạng nêu trên đặt ra yêu cầu cấp thiết nghiên cứu hoàn thiện hệ
thống các quy phạm pháp luật về quyền của NCTNPT nhằm nâng cao hiệu
quả ngăn ngừa vi phạm quyền của các đối tượng này, đồng thời đảm bảo
NCTN vẫn được hưởng quyền khi tham gia vào các quan hệ pháp luật với tư
cách là người phạm tội.
Đặc biệt, trong xu thế mở cửa hội nhập sâu với thế giới, Việt Nam đã
ký nhiều điều ước quốc tế về bảo vệ quyền trẻ em trong đó có các quyền của
NCTNPT thì việc nghiên cứu hoàn thiện pháp luật về quyền của NCTNPT rất
cấp thiết, có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn.
Xuất phát từ những lý do trên nghiên cứu sinh đã chọn đề tài: “Pháp
luật về quyền của người chưa thành niên phạm tội ở Việt Nam” để nghiên
cứu viết luận án tiến sĩ Luật học.
3
2. Mục đích, nhiệm vụ của luận án
2.1. Mục đích của luận án
Nghiên cứu cơ sở lý luận, phân tích, đánh giá thực trạng và đề xuất
các quan điểm, giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về quyền của
NCTNPT ở Việt Nam hiện nay.
2.2. Nhiệm vụ của luận án
Để đạt được mục đích nghiên cứu nêu trên, luận án có các nhiệm vụ:
Một là, phân tích tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến luận án
và rút ra những vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu;
Hai là, xây dựng các khái niệm: NCTNPT; quyền của NCTNPT; pháp
luật về quyền của NCTNPT; làm rõ đặc điểm, nội dung, vai trò và tiêu chí
đánh giá pháp luật về quyền của NCTNPT; khái quát hóa các quy định pháp
luật của quốc tế và một số quốc gia về quyền của NCTNPT; làm rõ sự tương
thích của pháp luật quốc gia - quốc tế về pháp luật về quyền của NCTNPT;
Ba là, khái quát pháp luật về quyền của NCTNPT từ năm 1945 đến
nay; đánh giá khách quan thực trạng pháp luật về quyền của NCTNPT ở nước
ta trong thời gian qua, nêu lên những thành tựu và hạn chế, từ đó rút ra
nguyên nhân và những bài học kinh nghiệm qua thực tiễn làm cơ sở cho việc
đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật về vấn đề này;
Bốn là, trên cơ sở lý luận và thực tiễn, luận án xây dựng một số quan
điểm và đề xuất những giải pháp cơ bản, có tính khả thi, phù hợp với thông lệ
quốc tế nhằm hoàn thiện pháp luật về quyền của NCTNPT.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án
Đối tượng nghiên cứu của luận án là những vấn đề lý luận, thực tiễn và
quan điểm, giải pháp hoàn thiện pháp luật về quyền của NCTNPT ở Việt Nam.
Dưới góc độ lý luận về nhà nước và pháp luật, phạm vi nghiên cứu của
luận án là những vấn đề lý luận và thực tiễn của pháp luật về quyền của
NCTNPT với tư cách là người thực hiện hành vi phạm tội, tham gia tố tụng
với tư cách là bị can, bị cáo, người thi hành án hình sự (theo nghĩa rộng được
4
chỉ ra ở chương 2). Trong luận án này, tác giả chỉ tập trung nghiên cứu, đánh
giá hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật về quyền của NCTNPT từ năm
2004 đến năm 2014 (thời điểm BLTTHS 2003 có hiệu lực).
4. Cơ sở lý luận và các phương pháp nghiên cứu của luận án
4.1. Cơ sở lý luận
Luận án được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam
về nhà nước và pháp luật, về mối quan hệ giữa Nhà nước và công dân, những
quan điểm của Đảng và Nhà nước về quyền của NCTNPT.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Để giải quyết những nhiệm vụ nghiên cứu mà đề tài đặt ra, tác giả đã sử
dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử,
và kết hợp với các phương pháp nghiên cứu khoa học cụ thể sau đây:
- Phương pháp phân tích, tổng hợp lịch sử được sử dụng ở các chương
của luận án nhằm hệ thống hóa cơ sở lý luận, khái quát hóa, đánh giá thực
trạng và đề xuất các quan điểm, giải pháp hoàn thiện pháp luật về quyền của
NCTNPT.
- Phương pháp lịch sử, thống kê, so sánh được sử dụng để đánh giá quá
trình phát triển, thực trạng pháp luật về quyền của NCTNPT.
- Phương pháp phân tích tổng hợp, so sánh pháp luật cũng được sử
dụng trong việc xác định quan điểm, giải pháp hoàn thiện pháp luật về quyền
của NCTNPT có tính đến kinh nghiệm quốc tế về vấn đề này.
5. Đóng góp về mặt khoa học của luận án
Đây là công trình khoa học đầu tiên ở cấp độ tiến sĩ nghiên cứu vấn đề
pháp luật về quyền của NCTNPT ở Việt Nam hiện nay.
Luận án là công trình đầu tiên nghiên cứu một cách tương đối toàn diện
các vấn đề lý luận đối với vấn đề pháp luật về quyền của NCTNPT ở Việt
Nam; xây dựng khái niệm NCTNPT, quyền của NCTNPT, pháp luật về quyền
của NCTNPT, phân tích nội hàm các khái niệm này.
5
Luận án đưa ra và phân tích những đặc điểm, nội dung, vai trò và tiêu chí
của pháp luật về quyền của NCTNPT. Luận án đã khái quát hóa một số quy định
pháp luật mang tính điển hình của quốc tế và một số quốc gia, đồng thời chỉ ra
những kinh nghiệm có thể vận dụng ở Việt Nam.
Luận án đánh giá thực trạng pháp luật Việt Nam hiện nay về quyền của
NCTNPT, qua đó thấy được những nội dung tích cực cũng như phát hiện
những mâu thuẫn, sự không tương thích và bất cập trong một số quy định của
pháp luật về quyền của NCTNPT.
Luận án đã xây dựng các quan điểm và đề xuất các giải pháp mang tính
toàn diện hoàn thiện pháp luật về quyền của NCTNPT tạo cơ sở pháp lý vững
chắc cho việc thực thi pháp luật, đồng thời bảo đảm quyền của NCTN khi họ
phạm tội. Những giải pháp luận án đưa ra có tính mới, có cơ sở khoa học, góp
phần giải quyết những bất cập trong pháp luật về quyền của NCTNPT.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
Kết quả nghiên cứu của luận án có ý nghĩa to lớn về lý luận và thực tiễn:
- Về lý luận: Luận án góp phần làm phong phú thêm những vấn đề lý
luận của pháp luật về quyền của NCTNPT và việc hoàn thiện pháp luật trong
lĩnh vực này.
- Về thực tiễn: Luận án góp thêm những thông tin có giá trị giúp các
nhà hoạch định chính sách, các nhà lập pháp, các cán bộ làm công tác nghiên
cứu, giảng dạy cũng như những người làm công tác áp dụng pháp luật có cách
nhìn sâu sắc, toàn diện hơn đối với pháp luật về quyền của NCTNPT; trên cơ
sở đó có những đóng góp tích cực nhằm tăng cường cơ sở pháp lý đối với
việc thực thi pháp luật về quyền của NCTNPT ở Việt Nam hiện nay.
Kết quả nghiên cứu của luận án có thể làm tài liệu tham khảo cho
những người quan tâm nghiên cứu, làm công tác thực tiễn, thực thi pháp luật
về NCTN nói chung, NCTNPT nói riêng.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
luận án gồm có 4 chương, 10 tiết.
6
1.1. CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN TỚI PHÁP LUẬT
VỀ QUYỀN CỦA NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN PHẠM TỘI
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN TỚI ĐỀ TÀI
1.1.1. Các công trình nghiên cứu trong nước
1.1.1.1. Các công trình nghiên cứu pháp luật về quyền của người chưa
thành niên phạm tội
Ở Việt Nam chưa có công trình nào nghiên cứu trực tiếp và toàn diện
pháp luật về quyền NCTNPT mà chỉ có những nghiên cứu liên quan đến pháp
luật về NCTNPT ở những khía cạnh cụ thể.
Về các sách đã xuất bản có thể kể đến cuốn sách Tư pháp với người chưa
thành niên và quyền trẻ em [5]. Cuốn sách này biên soạn cho cán bộ làm công tác
trên lĩnh vực bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em, cũng như tất cả những ai quan
tâm đến vấn đề trẻ em, quyền của trẻ em. Nội dung của cuốn sách phân tích một
số văn bản quốc tế và Việt Nam có liên quan trực tiếp đến việc áp dụng pháp luật
đối với NCTN vi phạm pháp luật và thực tiễn bảo vệ, thực hiện quyền trẻ em theo
tinh thần của Công ước quyền trẻ em. Tại chương 2, trình bày khái quát pháp luật
Việt Nam với trẻ em làm trái pháp luật để làm căn cứ “tiến tới hài hoà hệ thống tư
pháp với NCTN ở Việt Nam với Công ước của LHQ về quyền trẻ em” trong
chương 3 của cuốn sách.
Nguyễn Văn Thông có cuốn Toà án và quyền trẻ em [65]. Cuốn sách
phân tích những chế định cơ bản của pháp luật về bảo vệ quyền trẻ em trong
các vụ án dân sự, lao động, hành chính, hình sự, và cung cấp thông tin về một
số tội vi phạm quyền và lợi ích của trẻ em trong Luật hình sự Việt Nam.
Chương 3 đưa ra những kiến nghị nhằm hoàn thiện cơ chế, chính sách, pháp
luật bảo vệ quyền trẻ em.
Quyền trẻ em [82] là cuốn tài liệu tập huấn đã chỉ ra mối quan hệ giữa
quyền trẻ em với quyền con người và cơ sở của việc bảo vệ quyền trẻ em
7
chính là bảo vệ quyền con người của trẻ em. Đặc biệt tài liệu này đã trực tiếp
đề cập đến quyền của trẻ em trong pháp luật quốc tế và Việt Nam. Quyền trẻ
em trong pháp luật Việt Nam được đề cập một cách trực diện trên tất cả các
lĩnh vực. Tài liệu này cũng cung cấp những thông tin cơ bản về việc thực hiện
quyền của trẻ em ở Việt Nam, hướng dẫn gợi mở các phương pháp tiếp cận,
nâng cao năng lực trong việc tổ chức thực hiện bảo vệ quyền trẻ em ở nước ta.
Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân về quyền phụ nữ và trẻ em [84] là tài
liệu tập huấn cho cán bộ ngành Toà án, đồng thời là sổ tay giúp người trực
tiếp làm việc có liên quan đến quyền trẻ với mục đích nâng cao trình độ
nghiệp vụ cho những người làm công tác có liên quan đến quyền trẻ em. Nội
dung của cuốn sách, một mặt tổng hợp các quy phạm pháp luật hiện hành có
liên quan đến quyền trẻ em, mặt khác hướng dẫn nghiệp vụ giải quyết loại án
liên quan đến quyền của nhóm đối tượng này.
Cuốn sách Quyền của phụ nữ và trẻ em trong các văn bản pháp lý quốc
tế và Việt Nam [83] đã khái quát những vấn đề cơ bản về quyền con người nói
chung, quyền trẻ em nói riêng trong pháp luật quốc gia và quốc tế cho cán bộ
công tác trong lĩnh vực này, đặc biệt cho các đại biểu Quốc hội - những người
trực tiếp hoạt động lập pháp. Các tác giả nêu khái quát về vấn đề quyền trẻ em
trong các văn bản pháp luật. Đồng thời cuốn sách cũng trình bày đầy đủ các
điều ước quốc tế về quyền trẻ em mà Việt Nam đã ký kết hoặc tham gia. Đây
chính là một trong những tài liệu tham khảo bổ ích, qua đó giúp cho chúng ta
có bức tranh toàn cảnh về pháp luật thực định đối với vấn đề quyền trẻ em.
Một số thuật ngữ và nguyên tắc cơ bản về tư pháp người chưa thành
niên [91] là tài liệu cung cấp các thuật ngữ cơ bản về tư pháp đối với NCTN
được sử dụng trong pháp luật quốc tế và quốc gia. Các thuật ngữ, khái niệm
được biên soạn dựa theo pháp luật Việt Nam. Phần thứ hai của cuốn tài liệu
cung cấp các kiến thức cơ bản nhất về các văn kiện pháp luật quốc tế về
TPNCTN. Áp dụng pháp luật với NCTN là một chủ đề được đề cập trong
nhiều tiêu chuẩn quốc tế. Các tiêu chuẩn này đề cập đến một phạm vi rộng và
phức tạp các vấn đề từ phòng ngừa đến can thiệp sớm, xét xử, các điều kiện
8
giam giữ và tái hòa nhập xã hội. Phần thứ ba là các nguyên tắc cơ bản về
TPNCTN. Trên cơ sở các văn bản pháp luật quốc tế nêu trên, hệ thống
TPNCTN ở Việt Nam cần tuân thủ các nguyên tắc cơ bản nhằm đảm bảo tính
tương thích với luật pháp quốc tế.
Cuốn sách Đánh giá tính tương thích các điều khoản của Bộ luật tố tụng
hình sự về người vi phạm pháp luật hình sự, người bị hại, người làm chứng là
người chưa thành niên với các chuẩn mực quốc tế [106], trình bày kết quả
nghiên cứu các điều khoản của BLTTHS nước Cộng hòa XHCN Việt Nam
quy định các vấn đề liên quan đến người vi phạm pháp luật hình sự và người
bị hại, người làm chứng là NCTN, so sánh với các chuẩn mực quốc tế về tư
pháp với trẻ em nhằm đánh giá mức độ tương thích giữa các quy định hiện
hành của Việt Nam với chuẩn mực quốc tế, cũng như đánh giá việc thực hiện
các quy định này trên thực tế. Trên cơ sở các kết quả nghiên cứu, báo cáo đưa
ra kết luận và khuyến nghị sửa đổi, bổ sung các quy định hình sự hiện hành
nhằm đảm bảo tính tương thích với Công ước quyền trẻ em cũng như các
chuẩn mực và thông lệ quốc tế có liên quan đến vấn đề quyền trẻ em.
Đề tài Nghiên cứu, đánh giá, phân tích tình hình người chưa thành niên vi
phạm pháp luật và hệ thống xử lý tại Việt Nam [110] là một trong 7 tiểu dự án
trong chương trình hợp tác tổng thể của Dự án Bảo vệ trẻ em được nghiên cứu
dưới dạng một đề tài khoa học. Mục tiêu chính của đề tài là nhằm cải thiện
khung pháp luật, chính sách về NCTN vi phạm pháp luật, nâng cao nhận thức và
tăng cường năng lực cho đội ngũ cán bộ, viên chức làm việc với các đối tượng;
tăng cường chăm sóc về tâm lý xã hội cho NCTN vi phạm pháp luật. Nghiên
cứu đi sâu đánh giá, phân tích tình trạng NCTN vi phạm pháp luật và hệ thống
xử lý NCTN vi phạm pháp luật ở Việt Nam hiện nay nhằm góp phần hoàn thiện
chính sách, pháp luật về đối tượng này. Đề tài tập trung nghiên cứu về NCTN vi
phạm pháp luật bị xử lý hành chính bằng hai biện pháp là đưa vào trường giáo
dưỡng và giáo dục tại xã, phường, thị trấn; về NCTN vi phạm pháp bị xử lý về
hình sự cũng chủ yếu nghiên cứu hình phạt tù và các biện pháp tư pháp. Tập thể
tác giả đã minh hoạ bức tranh toàn cảnh, sinh động về NCTN vi phạm pháp luật
9
ở Việt Nam, tuy nhiên những vấn đề của pháp luật về quyền của NCTNPT trong
đề tài này chưa đưa ra được cơ sở lý luận cũng như những yêu cầu cần thiết liên
quan đến nội dung của pháp luật về quyền của NCTNPT.
Bên cạnh đó có dự án Tăng cường năng lực hệ thống tư pháp người
chưa thành niên tại Việt Nam [109] của Viện Khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp.
Căn cứ vào quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về cải cách tổ chức và hoạt
động tư pháp, vận dụng quan niệm có tính hướng dẫn của LHQ trong Quy tắc
Bắc Kinh, Dự án này đã tập trung phân tích, đối chiếu các chuẩn mực quốc tế
về tư pháp đối với NCTN trong các điều ước quốc tế mà Việt Nam đã tham
gia với thực tiễn lập pháp và thi hành pháp luật của Việt Nam trong lĩnh vực
này. Trên cơ sở đó, Dự án đã đưa ra đánh giá tổng hợp về sự hài hoà giữa
pháp luật quốc gia và pháp luật quốc tế trong lĩnh vực tư pháp về NCTN;
những ưu điểm và hạn chế của hệ thống TPNCTN ở Việt Nam. Đồng thời, Dự
án đề xuất những kiến nghị, giải pháp nhằm góp phần hoàn thiện hệ thống
TPNCTN ở Việt Nam. Dự án chỉ rõ, việc hoàn thiện chính sách, pháp luật của
Nhà nước ta đối với NCTN vi phạm pháp luật tập trung chủ yếu vào việc
hoàn thiện ba yếu tố, đó là hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật, tổ chức,
bộ máy của các cơ quan tư pháp và đội ngũ cán bộ, viên chức tư pháp, đảm
bảo sự vận hành đúng đắn của từng mắt xích và những phương thức phối, kết
hợp chặt chẽ, hiệu quả giữa các mắt xích trong cả hệ thống đó.
Đề tài Hoàn thiện các quy định về thủ tục điều tra, truy tố và xét xử
người chưa thành niên phạm tội trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003
[105], trên cơ sở phân tích về mặt lý luận về thủ tục tố tụng đối với NCTNPT
cũng như thực tiễn áp dụng các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự
(BLTTHS) năm 2003 liên quan đến thủ tục tố tụng xử lý NCTNPT trong thời
gian qua, đề tài đưa ra một số giải pháp hoàn thiện quy định của BLTTHS về
thủ tục điều tra, truy tố và xét xử NCTNPT nhằm nâng cao chất lượng, hiệu
quả áp dụng, đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp và hội nhập quốc tế.
Về luận án tiến sĩ, có luận án nghiên cứu Những vấn đề lý luận và thực tiễn
về thủ tục đối với người chưa thành niên trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam
10
[43]. Đây là công trình đầu tiên nghiên cứu trực diện về đề tài này ở cấp độ tiến sĩ.
Luận án đề cập đến những vấn đề lý luận và thực tiễn về thủ tục tố tụng đối với
NCTNPT trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam. Công trình khoa học này đã chỉ ra
những đặc điểm của thủ tục tố tụng hình sự áp dụng đối với NCTNPT; chỉ ra mục
đích của việc đặt ra các quy định về thủ tục tố tụng đối với NCTNPT; phân tích
thực trạng pháp luật tố tụng hình sự về thủ tục tố tụng trong các vụ án có NCTN là
bị can, bị cáo, đồng thời phân tích thực tiễn thực thi các thủ tục tố tụng này đối với
các vụ án có NCTN là bị can, bị cáo, từ đó chỉ ra những hạn chế bất cập trong
pháp luật tố tụng hình sự về thủ tục của những vụ án này. Trên những cơ sở đó,
tác giả đã đề xuất một số nhóm giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật, chính sách,
cơ chế liên quan đến thủ tục tố tụng trong các vụ án có NCTN là bị can, bị cáo.
Về luận văn thạc sỹ, trên phương diện Luật hình sự, các nghiên cứu tập
trung vào các loại, mức trách nhiệm hình sự áp dụng với NCTNPT. Luận văn
Các hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội trong luật hình sự Việt
Nam [44] và luận văn Trách nhiệm hình sự của người chưa thành niên phạm
tội trong luật hình sự Việt Nam [18] đều có chung phần lớn đối tượng nghiên
cứu, dù có cách tiếp cận khác nhau: các quy định về trách nhiệm hình sự - các
quy định về hình phạt. Các luận văn này cũng đã chỉ ra được cơ sở lý luận và
thực tiễn của pháp luật hình sự về chính sách hình sự đối với NCTNPT. Trong
đó đã phân tích các loại hình phạt, các biện pháp tư pháp được quy định trong
BLHS và chỉ ra sự phù hợp giữa tính chất của các loại hình phạt, biện pháp tư
pháp với yêu cầu trừng phạt và giáo dục, cải tạo đối với NCTNPT; đã đưa ra
những nhận định trên phương diện lý luận và thực tiễn về trách nhiệm hình sự
đối với NCTNPT.
Không chỉ nghiên cứu quy định của pháp luật hình sự, tố tụng hình sự,
luận văn thạc sỹ Hoàn thiện pháp luật về quyền trẻ em ở Việt Nam hiện nay
[66], xác định cụ thể vai trò của pháp luật đối với việc thực hiện quyền trẻ em.
Trong đó, tác giả đã đề cập đến vai trò của pháp luật đối với việc bảo vệ trẻ
em vi phạm pháp luật; đánh giá thực trạng pháp luật Việt Nam về quyền trẻ
em, những hạn chế về pháp luật và thực hiện pháp luật về quyền trẻ em. Từ
11
các vấn đề nêu trên, tác giả đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp
luật về quyền trẻ em ở Việt Nam.
Trong số các công trình nghiên cứu khoa học pháp lý, có một số sách
chuyên khảo dưới dạng bình luận khoa học BLHS, BLTTHS như cuốn Bình
luận khoa học Bộ luật hình sự năm 1999 [107], cuốn Bình luận khoa học Bộ
luật hình sự tố tụng hình sự năm 2003 [115]. Trong các cuốn bình luận khoa
học này, đường lối xử lý, chính sách hình sự, thủ tục TTHS đối với NCTNPT
cũng được quan tâm nghiên cứu và đưa ra những bình luận khoa học mà nội
dung tương đối thống nhất, đó là giải thích các điều khoản Chương X BLHS
và Chương XXXII BLTTHS, mà không đánh giá nhiều về tính phù hợp của
pháp luật với các vấn đề lý luận về TPNCTNPT, sự tương tác giữa pháp luật
với thực tiễn tình hình tội phạm, không đưa ra những số liệu, những vụ án,
những trường hợp nổi cộm trong thực tiễn tư pháp để bình luận, không so
sánh các quy định về đường lối xử lý, chính sách hình sự, thủ tục TTHS đối
với NCTNPT trong pháp luật Việt Nam so với pháp luật nước ngoài.
Pháp luật Việt Nam về tư pháp người chưa thành niên [62] đã chỉ ra thực
trạng pháp luật về xử lý NCTN vi phạm pháp luật, trong đó nêu rõ nguyên tắc
xử lý, hệ thống biện pháp xử lý chính thức theo pháp luật Việt Nam. Từ đó,
tác giả kiến nghị 7 vấn đề hoàn thiện luật pháp, chính sách xử lý đối với
NCTN vi phạm pháp luật.
Hoàn thiện pháp luật về xử lý chuyển hướng đối với người chưa thành niên
vi phạm pháp luật [99] đã phân tích bản chất, tính ưu việt của việc xử lý chuyển
hướng và các yêu cầu của chuẩn mực quốc tế và khẳng định, việc áp dụng xử lý
chuyển hướng đối với NCTN vi phạm pháp luật có những điểm ưu việt nổi trội so
với việc áp dụng các chế tài chính thức trong quy định của pháp luật. Tác giả cũng
chỉ ra thực trạng pháp luật và thực tiễn áp dụng xử lý chuyển hướng đối với
NCTN vi phạm pháp luật ở nước ta. Trên cơ sở đó, đã đánh giá và đưa ra một số
kiến nghị trong việc thực hiện xử lý chuyển hướng đối với NCTN vi phạm pháp
luật ở Việt Nam.
12
Bài viết Hệ thống điều tra thân thiện với người chưa thành niên [31] đã
hệ thống lại các chuẩn mực quốc tế về điều tra thân thiện - điều tra nhạy cảm
và so sánh các chuẩn mực đó với việc quy định và thực hiện các quy định của
TTHS về hoạt động điều tra, các biện pháp ngăn chặn và các biện pháp cưỡng
chế khác được áp dụng trong vụ án NCTNPT của pháp luật Việt Nam. Để bảo
đảm quyền của NCTNPT, tác giả cũng đã đưa ra các quan điểm cá nhân ở
mức độ những ý tưởng ban đầu mang tính gợi mở về các giải pháp nâng cao
hiệu quả hệ thống điều tra thân thiện như: hoàn thiện pháp luật, xây dựng quá
trình điều tra, xử lý các vụ việc liên quan đến NCTNPT theo hướng thân
thiện, xây dựng môi trường thân thiện với NCTNPT trong quá trình điều tra,
nâng cao năng lực Cơ quan điều tra trong việc giải quyết các vụ án liên quan
đến NCTNPT, tăng cường thanh tra, giám sát các hoạt động điều tra liên quan
đến NCTNPT.
Pháp luật Việt Nam với việc đáp ứng các yêu cầu quốc tế về thủ tục tố
tụng xét xử đối với người chưa thành niên [68] đi sâu phân tích những yêu
cầu cơ bản của quốc tế về thủ tục tố tụng xét xử đối với NCTN và cả NCTN
là người bị hại, người làm chứng trong vụ án hình sự. Tác giả cũng trình bày
khái quát pháp luật Việt Nam về thủ tục tố tụng xét xử đối với NCTN đồng
thời đối chiếu với pháp luật quốc tế. Trong phần ba của bài viết, tác giả đề
xuất một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật tố tụng xét xử đối với
NCTN tạo môi trường xét xử thân thiện, đáp ứng những yêu cầu bảo vệ, thúc
đẩy các quyền của trẻ em và NCTN theo các chuẩn mực quốc tế mà Việt Nam
đã cam kết và phê chuẩn.
Tái hòa nhập cộng đồng đối với người chưa thành niên vi phạm pháp
luật [26] đã chỉ ra rằng, NCTN vi phạm pháp luật bị áp dụng các chế tài,
trong đó có những chế tài phải cách ly môi trường hoạt động bình thường của
xã hội, chịu sự quản lý, giám sát của các cơ sở có thẩm quyền, khi quay về
với gia đình, cộng đồng thì Nhà nước có những chính sách tái hòa nhập xã hội
phù hợp để các đối tượng này trở thành công dân có ích cho xã hội. Thực tiễn
công tác tái hòa nhập cộng đồng đối với NCTN vi phạm pháp luật ở nước ta
13
còn nhiều bất cập, mâu thuẫn và chưa phù hợp với thông lệ quốc tế đã được
tác giả chỉ ra sinh động, cụ thể. Để chuẩn bị các điều kiện cần thiết cho
NCTN vi phạm pháp luật tái hòa nhập cộng đồng theo tác giả, phải có những
quy định cụ thể, đầy đủ, phù hợp, đồng thời phải có cơ chế phối hợp giữa các
chủ thể trong việc thực thi vấn đề này.
Chính sách hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội [58] đã khắc
họa rõ nét chính sách hình sự - chính sách nhân đạo của Đảng và Nhà nước ta
dành cho NCTNPT kể cả khi các đối tượng này vi phạm pháp luật hình sự. Bài
viết cũng cho thấy, mục đích của việc áp dụng hình phạt đối với NCTN vi phạm
pháp luật hình sự là nhằm giáo dục, giúp đỡ những đối tượng này sửa chữa sai
lầm, có cơ hội để phát triển và trở thành công dân có ích cho xã hội. Với mục đích
đó, việc xử lý và áp dụng biện pháp hình sự đối với NCTNPT phải tuân thủ theo
những nguyên tắc dành riêng cho họ được quy định trong BLHS và các quy định
khác của hệ thống pháp luật.
1.1.1.2. Các công trình nghiên cứu về đảm bảo và thực hiện pháp luật
về quyền của người chưa thành niên phạm tội
Các công trình tiêu biểu nghiên cứu về đảm bảo và thực hiện pháp luật
về quyền của NCTNPT có thể kể đến:
Phòng ngừa thanh thiếu niên phạm tội – Trách nhiệm của gia đình, nhà
trường và xã hội [118] đã phân tích, đánh giá những vấn đề về phòng ngừa
NCTNPT. Trên cơ sở đó, các tác giả cũng đặt ra những yêu cầu đối với việc
hoàn thiện các quy định của pháp luật về NCTNPT và những bảo đảm để
quyền của NCTNPT được thi thi trên thực tế.
Bảo vệ quyền con người trong luật hình sự, luật tố tụng hình sự Việt
Nam [67] tuy không đề cập cụ thể đến việc bảo đảm quyền của NCTNPT
nhưng đã tiếp cận quyền con người trong phạm vi hẹp và liên quan nhiều hơn
đến lĩnh vực nghiên cứu của luận án: quyền con người trong pháp luật hình sự
và tố tụng hình sự.
14
Hoạt động của Radda Barnen vì trẻ em làm trái pháp luật, người chưa
thành niên phạm pháp [79] đã khái quát hoạt động của Tổ chức Cứu trợ trẻ
em Thuỵ Điển, thông qua các chương trình điều tra, nghiên cứu trong lĩnh vực
công tác với trẻ em làm trái pháp luật ở nhiều cấp độ khác nhau. Nhóm tác giả
đã trình bày khá ngắn gọn và đa dạng về hoàn cảnh xô đẩy trẻ em sa vào vòng
tội lỗi hoặc bị đẩy vào vòng tội lỗi, qua đó đề cao ý tưởng về sự phòng ngừa
hơn là những biện pháp xử phạt, kêu gọi sự trợ giúp của xã hội chung tay
cùng giải quyết vấn đề trẻ em làm trái pháp luật hơn là sự thẳng tay trừng trị.
Tài liệu chỉ rõ, pháp luật của quốc gia phải đảm bảo sự an toàn và an sinh cho
trẻ em phù hợp với Công ước quyền trẻ em, ngay cả khi các em là người có
hành vi vi phạm pháp luật bị xử lý theo các định chế pháp luật.
Kỷ yếu hội thảo khoa học Vấn đề chế tài xử lý các hành vi vi phạm
quyền trẻ em; việc xử lý đối với trẻ em vi phạm pháp luật; trách nhiệm của
gia đình, xã hội trong việc thực hiện quyền và bổn phận của trẻ em [88] tập
hợp các bài viết về nhiều vấn đề liên quan đến trẻ em, trẻ em vi phạm pháp
luật, cách thức xử lý vi phạm pháp luật của trẻ em, trách nhiệm của các chủ
thể trong xã hội đối với vấn đề thực hiện quyền trẻ em của những nhà nghiên
cứu, người làm công tác thực tiễn về các vấn đề nêu trên. Trong các nội dung
đó, các tác giả đã phân tích, đánh giá thực trạng tình hình trẻ em vi phạm
pháp luật hành chính, hình sự, những trẻ em là đối tượng vi phạm pháp luật;
đưa ra các giải pháp nhằm bảo đảm quyền của trẻ em trong các thủ tục xử lý
trẻ em vi phạm pháp luật.
Sự phát triển của trẻ em và hành vi vi phạm pháp của người chưa thành
niên [94] cung cấp thông tin về sự phát triển của NCTN, một số đặc điểm
phát triển sinh lý, thể chất và đặc điểm tâm lý khác biệt với người đã thành
niên. Thông qua việc hiểu rõ sự phát triển về sinh lý, thể chất, nhận thức, tình
cảm, năng lực, kỹ năng giao tiếp xã hội của trẻ em và NCTN, chúng ta có thể
hiểu rõ hơn nguyên nhân đã dẫn đến hành vi vi phạm pháp luật của các em để
đưa ra những ý kiến đúng đắn hơn về việc nên xử lý NCTN vi phạm pháp luật
và có các quyết định sáng suốt hơn về các hình thức can thiệp có thể sẽ có
15
hiệu quả đối với các em. Tài liệu chỉ ra rằng, trong những năm gần đây có
một số lượng đáng kể các nghiên cứu đã được tiến hành nhằm tìm hiểu rõ hơn
những yếu tố tác động đến tình trạng phạm pháp của NCTN, những giải pháp
có hiệu quả nhất giúp ngăn chặn tình trạng phạm pháp của NCTN, và những
hoạt động cụ thể để phòng ngừa NCTN đã có hành vi vi phạm pháp luật
không tiếp tục vi phạm pháp luật nữa.
Tình hình người chưa thành niên vi phạm pháp luật ở Việt Nam [95] đã
chỉ ra tính chất, mức độ nghiêm trọng của loại hành vi vi phạm cũng như các
biện pháp xử lý đối với NCTN vi phạm pháp luật; xác định được các yếu tố
nguy cơ dẫn đến hành vi vi phạm pháp luật ở NCTN. Đây là căn cứ giúp
người làm công tác thực tiễn có cái nhìn khái quát về thực trạng pháp luật
nước ta đối với vấn đề xử lý NCTN vi phạm pháp luật; đồng thời khắc phục
được những nguyên nhân tiềm ẩn của hành vi vi phạm pháp luật ở NCTN.
Tài liệu Tư pháp phục hồi và xử lý theo hướng không giam giữ [96]
nghiên cứu khái niệm tư pháp phục hồi và xử lý theo hướng không giam giữ,
trên cơ sở các nguyên tắc và các quyền được quy định trong Công ước quyền
trẻ em. Tư pháp phục hồi là biện pháp phản ứng hiệu quả nhất đối với NCTN
vi phạm pháp luật nhằm buộc họ phải chịu trách nhiệm đối với hành vi của
mình, theo cách thức tạo điều kiện cho các em tái hoà nhập cộng đồng một
cách thuận lợi, đồng thời làm cho NCTN không có cảm giác bị cô lập và miệt
thị. “Xử lý theo hướng không giam giữ” là một thủ tục thay thế để xử lý
NCTN phạm pháp theo cách không chính thức, ngoài hệ thống tư pháp chính
thống. Nó đề cập đến việc chuyển hoặc đưa người chưa thành niên ra khỏi hệ
thống tư pháp chính thức, theo nghĩa đen, để xử lý theo một thủ tục thay thế,
dựa vào cộng đồng. Trong quá trình này, xử lý theo hướng không giam giữ có
thể lôi kéo sự tham gia của một số thành tố tư pháp phục hồi, tuỳ thuộc vào
tính chất của việc xử lý theo hướng không giam giữ.
Người chưa thành niên và công an [92] là tài liệu tập huấn, đã chỉ ra
rằng, lần tiếp xúc đầu tiên của NCTN với hệ thống TPNCTN thường là lúc
các em bị công an hoặc cơ quan điều tra khác bắt giữ. Sự tiếp xúc ban đầu này
16
sẽ có tác động hết sức lâu dài đối với NCTN và có thể sẽ có ảnh hưởng sâu
sắc đến thái độ của họ đối với cán bộ nhà nước cũng như nguyên tắc nhà nước
pháp quyền. Bắt, tạm giữ và tạm giam là những biện pháp ngăn chặn nghiêm
khắc nhất có thể được áp dụng đối với một NCTN bị tố cáo là đã vi phạm
pháp luật hoặc thực hiện một tội phạm. Các biện pháp này được thừa nhận
rộng rãi là không có lợi cho NCTNPT vì chúng cách ly các em khỏi gia đình,
đặt các em trước nguy cơ bị lạm dụng về thể chất và bị ảnh hưởng bởi những
thói hư, tật xấu từ những người cùng bị giam giữ khác, đồng thời cản trở các
em thực hiện các quyền khác như quyền học hành, quyền được chăm sóc y tế.
Giải quyết vi phạm pháp luật của người chưa thành niên [90] quan tâm
đến vấn đề NCTN phải tham gia vào các thủ tục tố tụng của toà án hoặc một
hình thức xử lý khác do bị tố cáo là đã vi phạm pháp luật. Sự việc này xảy ra
vào thời điểm mà NCTN vốn rất dễ bị tổn thương cần được giúp đỡ và hướng
dẫn. Các thủ tục tố tụng và kỹ năng đặc biệt là hết sức quan trọng để bảo đảm
cho NCTN vi phạm pháp luật được đối xử một cách công bằng, được tạo cơ
hội và hướng dẫn để chịu trách nhiệm đối với hành vi của mình, và được tạo
cơ hội thứ hai để tránh mắc phải những sai phạm như vậy trong tương lai, có
thể phát triển thành những công dân có ích cho xã hội. NCTN bị coi là hay bị
tố cáo là đã vi phạm pháp luật có quyền được đối xử theo cách thức phù hợp.
Áp dụng các chế tài hành chính và hình sự đối với người chưa thành niên vi
phạm pháp luật [89] đã chỉ ra rằng một trong những nội dung chính để phân
biệt giữa hệ thống tư pháp về NCTN với hệ thống tư pháp dành cho người đã
thành niên. Tài liệu chỉ rõ: Mục đích của việc áp dụng chế tài; Nguyên tắc
tương xứng trong áp dụng chế tài đối với NCTN vi phạm pháp luật; Áp dụng
các biện pháp tước tự do ở mức tối thiểu đối với NCTN; Các giải pháp thay
thế cho việc áp dụng các biện pháp tước tự do (đưa vào cơ sở quản lý tập
trung đối với NCTN); Cải tiến việc áp dụng chế tài hành chính và hình sự đối
với người NCTN vi phạm pháp luật.
Phục hồi và các dịch vụ hỗ trợ cho người chưa thành niên vi phạm pháp
luật [93] cho thấy việc cung cấp các dịch vụ giám sát và hỗ trợ tại cộng đồng
17
cho NCTN vi phạm pháp luật là một cách tiếp cận hiệu quả hơn nhiều so với
các nỗ lực cải tạo các em trong trường giáo dưỡng, các cơ sở giam giữ hoặc
cơ sở tập trung khác. Tài liệu này nghiên cứu các loại hình dịch vụ hỗ trợ có
thể được cung cấp cho NCTN để thúc đẩy sự phục hồi và tái hoà nhập của các
em nhằm ngăn ngừa các em tái phạm.
Luật pháp và thuật ngữ quốc tế liên quan đến điều tra trẻ em và người
chưa thành niên [30] là một trong những tài liệu của Chương trình tập huấn
cho lực lượng công an về điều tra thân thiện đối với NCTN vi phạm pháp luật,
nạn nhân và nhân chứng trẻ em. Tài liệu chỉ ra: luật pháp, các tiêu chuẩn liên
quan tới công tác điều tra của các vụ án liên quan tới nghi phạm và nạn nhân
trẻ em và NCTN; khái niệm cơ bản trong các tiêu chuẩn quốc tế về điều tra
các vụ án liên quan tới phạm nhân và nạn nhân trẻ em và NCTN; các tiêu
chuẩn quốc tế liên quan tới các hoạt động nhạy cảm với trẻ em trong quá trình
điều tra các tội danh liên quan tới trẻ em và NCTN.
Trợ giúp pháp lý và đại diện cho người chưa thành niên gặp xung đột
với pháp luật, nạn nhân trẻ em và nhân chứng trẻ em [29] là cuốn cẩm nang
dành cho những người hành nghề luật tại Việt Nam. Nội dung chỉ rõ, những
người hành nghề luật có vai trò quan trọng trong bảo vệ các quyền của trẻ em
thông qua việc đại diện cho trẻ em trong các tiến trình tố tụng, cũng như cung
cấp thông tin và tư vấn pháp lý cho trẻ em. Cuốn sổ tay bao gồm 6 phần: Mô
tả nội dung của các tiêu chuẩn quốc tế về TPNCTN và vai trò của các chuyên
gia pháp lý trong hệ thống tư pháp; Trình bày về trẻ em và NCTN dễ bị tổn
thương và có nguy cơ trở thành nạn nhân; Mô tả các nhu cầu của trẻ em và
NCTN bị khởi tố hoặc kết án về các hành vi vi phạm pháp luật, những vấn đề
mà các em gặp phải khi xung đột với hệ thống tư pháp hình sự, cũng như các
hình thức trợ giúp pháp lý mà các em cần trong bối cảnh đó; Xem xét các trường
hợp trẻ em và NCTN bị lạm dụng, bị khai thác hoặc trở thành nạn nhân của tội
phạm và các hình thức trợ giúp pháp lý mà nhóm các em này có thể cần đến;
Xem xét các trường hợp trẻ em là nhân chứng của tội phạm mà theo yêu cầu của
18
pháp luật, các em phải hợp tác trong việc điều tra và truy tố tội phạm; Hướng
dẫn trình bày một số thực tiễn điển hình trong việc thực hiện trợ giúp pháp lý và
đại diện pháp luật cho trẻ em và NCTN.
Về luận án tiến sĩ có đề tài Bảo đảm quyền của người chưa thành niên trong
tố tụng hình sự ở Việt Nam [64]. Luận án này đã xây dựng được khái niệm bảo
đảm quyền của NCTN trong tố tụng hình sự, xác định các nội dung, đặc điểm bảo
đảm quyền của NCTN trong tố tụng hình sự; khái quát hóa vấn đề bảo đảm quyền
của NCTN trong tố tụng hình sự Việt Nam và thế giới; làm rõ sự giao thoa pháp
luật quốc gia và quốc tế về bảo đảm quyền của NCTN trong tố tụng hình sự; đồng
thời chỉ ra những bất cập, hạn chế của tư pháp hình sự Việt Nam trong việc bảo
đảm quyền của NCTN. Trên cơ sở các vấn đề lý luận và thực tiễn bảo đảm quyền
của NCTN trong tố tụng hình sự, luận án đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp
luật nhằm bảo đảm quyền của NCTN trong tố tụng hình sự.
Về luận văn thạc sỹ có đề tài Hoàn thiện pháp luật bảo đảm quyền của
người chưa thành niên phạm tội ở Việt Nam hiện nay [57]. Tác giả chỉ ra khái
niệm quyền của NCTNPT, pháp luật bảo đảm quyền của NCTNPT; đặc điểm,
nội dung pháp luật bảo đảm quyền của NCTNPT; phân tích, đánh giá thực
tiễn quy định của pháp luật bảo đảm quyền của NCTNPT, những tồn tại, bất
cập trong hệ thống pháp luật nhằm bảo đảm quyền của NCTNPT. Từ cơ sở lý
luận và thực tiễn đó, luận văn xác định phương hướng, đề xuất nội dung cụ
thể hoàn thiện pháp luật bảo đảm quyền của NCTNPT ở nước ta đáp ứng yêu
cầu của cuộc đấu tranh chống vi phạm pháp luật ở NCTN phù hợp với thông
lệ và các điều ước quốc tế mà Việt Nam đã phê chuẩn.
Bảo vệ quyền của NCTN trong tố tụng hình sự là một lĩnh vực của bảo
vệ quyền của NCTN và quyền trẻ em nói chung. Trong thời gian vừa qua, có
một số bài viết đã được đăng tải trên các tạp chí khoa học chuyên ngành
nghiên cứu về các quy định của pháp luật về quyền của NCTNPT. Bài viết Áp
dụng các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự về thủ tục tố tụng đối với người
chưa thành niên phạm tội [40] đã chỉ ra những bất cập trong các quy định về
độ tuổi, về vấn đề bảo đảm quyền bào chữa, về sự tham gia tố tụng của đại
19
diện gia đình, nhà trường và xã hội, đặc biệt là các bất cập trong việc quy định
các biện pháp bắt, tạm giữ NCTN và tạm giam bị can, bị cáo là NCTNPT. Bài
viết đã phân tích tính bất hợp lý trong một số quy định của pháp luật tố tụng
hình sự dẫn tới khó khăn cho việc áp dụng pháp luật và ảnh hưởng đến việc
bảo đảm quyền của NCTNPT trong tố tụng hình sự.
Yêu cầu đối với người tiến hành tố tụng trong vụ án có người chưa thành
niên phạm tội [59] đã phân tích cụ thể về các yêu cầu của pháp luật đối với
người tiến hành tố tụng trong vụ án có NCTNPT. Những yêu cầu này là
những đòi hỏi đối với các chủ thể tiến hành tố tụng nhằm bảo đảm quyền của
NCTNPT, đồng thời đảm bảo quá trình thực hiện quyền của NCTNPT được
hiện thực hóa trên thực tế. Các yêu cầu đối với người tiến hành tố tụng đã
được ghi nhận trong các văn bản quy phạm pháp luật, tuy nhiên còn nhiều bất
cập và chưa phù hợp thông qua bài viết đề xuất sửa đổi một số quy định về
yêu cầu đối với người tiến hành tố tụng hình sự trong vụ án có NCTNPT.
1.1.2. Các công trình nghiên cứu ở nước ngoài
Trên thế giới, việc nghiên cứu về quyền của NCTNPT và pháp luật về
lĩnh vực này đã được triển khai từ rất lâu. Vấn đề quyền của NCTNPT trong
việc giải quyết vụ án hình sự đã được đề cập đến trong quá trình hình thành
các trường phái pháp luật và các hệ thống pháp luật ở châu Âu.
Từ thế kỷ thứ XVI và thế kỷ XVII hai thẩm phán người Anh là Hale và
William Blackstone đã đặt ra vấn đề quy định độ tuổi chịu trách nhiệm hình
sự (TNHS) nhằm bảo vệ quyền của NCTNPT. Trong đó, Blackstone đã đưa ra
khái niệm “a defect of understanding” nghĩa là thiếu khả năng hiểu biết. Ông
cho rằng khả năng chịu TNHS không chỉ dựa vào độ tuổi mà còn căn cứ vào
cả yếu tố nhận thức và năng lực nhận biết của họ. Còn Hale thì mới đặt ra vấn
đề phân hóa các mức trong độ tuổi chịu TNHS.
Thế kỷ XVIII, vấn đề về NCTNPT đã được các nhà tư sản cấp tiến quan
tâm dưới góc độ yêu cầu một cơ chế không chỉ là trừng trị mà phải xử lý như
đối với người đã thành niên. Những người theo trường phái này cũng đã đưa
20
ra tư tưởng về hình thành thể chế tư pháp hình sự đối với NCTN, trong đó có
vấn đề về thành lập một tòa án NCTN.
Ở Pháp, đầu thế kỷ XX, các luật gia đã đề xuất thành lập Tòa án NCTN
ở châu Âu lục địa, điều này đã dẫn đường cho việc ban hành đạo luật đầu tiên
về bảo vệ quyền trẻ em năm 1912 (Loi du 15 mai 1912 sur la protection de
l’enfance) và quy định độ tuổi chịu TNHS là từ 16 tuổi trở lên.
Quyền của NCTNPT là những gợi ý để giới khoa học pháp lý châu Âu xây
dựng và thực thi các một số mô hình như: Một là, mô hình ngoài tư pháp là mô
hình xuất hiện đầu tiên và lâu đời nhất. Hai là, mô hình giảm bớt tính trừng phạt
trong việc áp dụng biện pháp cưỡng chế.
Ngoài những nghiên cứu về những vấn đề nêu trên, trong giai đoạn này
chưa có nghiên cứu nào về pháp luật về quyền của NCTNPT. Tuy nhiên có
thể khẳng định rằng, những nghiên cứu đó đã đặt nền móng cho các nghiên
cứu về quyền của NCTN nói chung cũng như pháp luật về quyền của
NCTNPT nói riêng trong những giai đoạn sau này.
Trong những thập niên sau của thế kỷ XX, qua một số sách tham khảo
đã được dịch hoặc chưa dịch ra tiếng Việt, qua các thông tin trên các diễn đàn,
nguồn thông tin và các nghiên cứu pháp luật về quyền của NCTNPT rất ít. Có
thể kể tên một số nghiên cứu có liên quan đến những vấn đề pháp luật về
quyền của NCTNPT như:
Protecting the world's children: Impact of the Convention of the Rights of
the Child in Diverse Legal Systems (Bảo vệ trẻ em trên thế giới: Tác động của
Công ước về quyền trẻ em tới các hệ thống pháp luật đa dạng) [137] là một
nghiên cứu so sánh về tác động của Công ước của LHQ về Quyền trẻ em tại 191
quốc gia với bốn hệ thống pháp luật điển hình của thế giới: Hệ thống thông luật
(Common Law), hệ thống luật dân sự (Civil Law), hệ thống luật Hồi giáo
(Muslim Law) và hệ thống pháp luật Châu Phi thuộc tiểu vùng sa mạc Sahara.
Trong nghiên cứu này, nhóm tác giả đã đúc kết một số kinh nghiệm tốt có thể áp
dụng ở nhiều nước trong việc thúc đẩy khuôn khổ pháp luật quốc gia về tư pháp
với NCTN phù hợp với Công ước quyền trẻ em.
21
Handbook for Professionals and Policymakers on Justice Matters
Involving Child Victims and Witnessed of Crime (Sổ tay về các vấn đề tư pháp
liên quan đến trẻ em là nạn nhân và nhân chứng của tội phạm dành cho các nhà
lập pháp và nhà chuyên môn) [135] đề cập đến những kiến thức nền tảng về
hoạt động tư pháp đối với NCTN trong luật nhân quyền quốc tế cho các nhà lập
pháp và nhà chuyên môn (thẩm phán, luật sư..) của các quốc gia, với mục đích
giúp họ bảo đảm các quyền của trẻ em trong tư pháp hình sự, trong đó tập trung
vào hai nhóm đối tượng là NCTN là nạn nhân và nhân chứng của tội phạm.
Protecting the rights of children in conflict with the law - Research on
Alternatives to the Deprivation of Liberty in Eight Countries (Bảo vệ các
quyền của trẻ em xung đột với pháp luật - Nghiên cứu về những lựa chọn thay
thế với việc tước tự do của trẻ em ở 8 quốc gia) [126] đã phân tích các tiêu
chuẩn pháp luật quốc tế liên quan đến việc áp dụng những lựa chọn thay thế
với việc tước tự do của trẻ em, sau đó khảo sát thực tế áp dụng những quy
định đó ở 8 quốc gia, bao gồm: Argentina, Brazil, Canada, Cộng hoà Liên
bang Đức, Kenya, Na-uy, Thụy Sĩ, Hà Lan.
Cuốn sách Protecting the rights of children in conflict with the law –
Programme and Advocacy Experiences from Member Organizations of the
Inter-agency Coordination Panel on Junenile Justice (Bảo vệ quyền của trẻ
em xung đột với pháp luật - Chương trình và những kinh nghiệm vận động
Ban điều phối liên tổ chức về NCTN trong hoạt động tư pháp) [138] phân tích
các chương trình và kinh nghiệm tổ chức, thực hiện các chương trình về
NCTN trong hoạt động tư pháp của các cơ quan LHQ như UNICEF, Cơ quan
phòng chống tội phạm và ma tuý của LHQ, Văn phòng Cao ủy LHQ về nhân
quyền và một số tổ chức liên chính phủ ở các quốc gia trên thế giới trong hai
thập kỷ gần đây, từ đó đưa ra một số nhận định và bài học kinh nghiệm mà có
thể áp dụng ở nhiều quốc gia trên thế giới.
Improving the Protection of Children in Conflict with the Law in South
Asia (Thúc đẩy bảo vệ trẻ em xung đột với pháp luật ở Nam Á) [136] cung
cấp những tri thức toàn diện về các quy tắc và tiêu chuẩn quốc tế về NCTN
22
trong các hoạt động tư pháp mà nghị viện và các nghị sĩ của các quốc gia cần
biết để áp dụng trong hoạt động lập pháp và giám sát thực thi pháp luật hình
sự với NCTN ở nước mình.
Cuốn sách Juvenile Court: A Judge's Guide for Young Adults and Their
Parents (Tòa án NCTN: Hướng dẫn của thẩm phán cho thanh thiếu niên và cha
mẹ của các em) [130] đã giới thiệu một hệ thống khái niệm về NCTN, phân
tích mục đích, ý nghĩa của việc thành lập Tòa án NCTN, xác định cơ cấu tổ
chức, cách thức và thủ tục hoạt động của các tòa án NCTN. Ngoài ra, cuốn
sách còn nêu ra những kỹ năng cần thiết cho NCTN vi phạm pháp luật và cha
mẹ của các em trong quá trình tố tụng tại tòa án.
Child Protection and Juvenile Justice system for juvenile in conflict with
law (Bảo vệ trẻ em trong hoạt động tư pháp đối với trẻ em xung đột với pháp
luật) [131] đã nêu ra các khái niệm NCTN, NCTN xung đột với pháp luật, đồng
thời phân tích các vấn đề như: tuổi chịu TNHS của NCTN; vai trò của cảnh sát,
của người giám sát NCTN; việc thực thi hình phạt cải tạo không giam giữ với
NCTN; vai trò của nhân viên công tác xã hội, của các tổ chức phi chính phủ, của
luật sư, của các phương tiện truyền thông đối với NCTN xung đột với pháp luật.
Tác giả đã phân tích 13 trường hợp thực tế điển hình về NCTN xung đột ở Ấn
Độ để chứng minh cho các luận điểm của mình.
Justice for Children: Autonomy Development and the State (Tư pháp cho
trẻ em: Nhà nước và sự phát triển tính tự quản của trẻ em) [127] đã phân tích
những thay đổi về tâm sinh lý của lứa tuổi NCTN và rút ra những nhận định về
khả năng và những vấn đề mà NCTN có thể "tự quản" mà không cần có sự can
thiệp của gia đình, nhà trường và pháp luật đối với hành vi của trẻ.
Justice for Children: Detention as a Last Resort - Innovative Initiatives
in the East Asia and Pacific Region (Tư pháp cho trẻ em: Giam giữ là biện
pháp cuối cùng - Các sáng kiến ở khu vực Châu Á - Thái Bình Dương) [139]
đã khảo sát hệ thống tư pháp với NCTN ở bốn quốc gia (Philipin, Thái Lan,
Campuchia, New Zealand) và quần đảo Palau và đưa ra kết luận, trong hoạt
động tư pháp đối với NCTN, việc giam giữ trẻ chỉ được coi là biện pháp cuối
23
cùng và mục tiêu của hệ thống này của một quốc gia không chỉ nhằm vào việc
trực tiếp ngăn ngừa hành vi phạm tội mà còn nhằm giải quyết những vấn đề
gốc rễ đẩy trẻ em đến hoàn cảnh phạm tội.
Cuốn sách American Juvenle Justice (hoạt động tư pháp đối với NCTN ở
Hoa Kỳ) [125] đã phân tích các giai đoạn phát triển lịch sử của hoạt động tư
pháp đối với NCTN, đặc biệt là sự hình thành và phát triển của hệ thống Tòa án
NCTN ở Hoa Kỳ. Trên cơ sở đó, tác giả lý giải sự cần thiết của việc thiết lập hệ
thống Tòa án NCTN cũng như của việc áp dụng phương thức xử lý chuyển
hướng đối với tội phạm NCTN từ thực tế và kinh nghiệm của nước Mỹ.
Cuốn sách The Juvenile Justice System: Delinquency, Processing, and
the Law (Hệ thống hoạt động tư pháp đối với NCTN: Hành vi phạm pháp,
tiến trình xử lý và pháp luật) [123] đã khát quát những vấn đề lý luận, thực
tiễn cốt lõi của một hệ thống TPNCTN; đồng thời phân tích một số trường
hợp điển hình về NCTNPT để rút ra những bài học kinh nghiệm về áp dụng
các hoạt động này ở các quốc gia. Cuốn sách cũng trình bày một cách khá
toàn diện về lịch sử, sự phát triển và những đặc điểm của hệ thống các hoạt
động TPNCTN ở một số quốc gia.
Cuốn sách Juvenile Justice: A Guide to Theory, Policy, and Practice
(Hoạt động tư pháp đối với NCTN: Hướng dẫn về lý thuyết, chính sách và
thực hiện) [134] phân tích toàn diện những vấn đề lý luận và nội dung của
pháp luật quốc tế về hoạt động TPNCTN, đồng thời gắn kết những yếu tố này
với thực tiễn thực hiện hoạt động TPNCTN trên thế giới để rút ra những nhận
định và bài học kinh nghiệm chung cho các quốc gia.
Identity: Youth and Crisis (Bản sắc: Thanh thiếu niên và Khủng hoảng)
[124] phân tích sâu sắc những đặc điểm tâm sinh lý của thanh thiếu niên mà xuất
phát từ cuộc vận lộn nội tâm đi tìm bản sắc ở độ tuổi mới lớn. Chính trong cuộc
vận lộn đó, có những lúc thanh thiếu niên có tâm trạng “nổi loạn”, muốn phá bỏ,
vượt qua những quy tắc đạo đức và pháp lý trong xã hội. Điều này giải thích cho
tỷ lệ phạm pháp cao trong nhóm xã hội này và là một yếu tố mà các nhà nước
không thể bỏ qua khi xây dựng và thực thi pháp luật với NCTN.
24
1.2. NHẬN XÉT VỀ CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN
ĐẾN LUẬN ÁN VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ TIẾP TỤC ĐƯỢC NGHIÊN CỨU
TRONG LUẬN ÁN
Bài viết Psychological Theory, Research, and Juvenile Delinquency
(Học thuyết, nghiên cứu tâm lý học và sự phạm pháp của NCTN) [120] tác
giả đã phân tích những yếu tố tâm lý chi phối hành vi phạm pháp của NCTN,
từ đó đề xuất những cách thức đối xử phù hợp với NCTNPT trong hệ thống tư
pháp. Theo các tác giả, do chưa trưởng thành về tinh thần, NCTN rất dễ bị
kích động và thực hiện các hành vi vượt ra ngoài các quy tắc cư xử được pháp
luật cho phép. Các cơ quan và quan chức thực thi pháp luật cần nhận rõ điều
này để hành xử một cách phù hợp và nhân bản với NCTNPT.
1.2.1. Nhận xét về các công trình nghiên cứu có liên quan đến luận án
Sau khi nghiên cứu các công trình nghiên cứu hiện có ở trong và ngoài
nước đã liệt kê ở các mục trên, tác giả có một số nhận xét như sau:
Thứ nhất, các công trình nghiên cứu đã đề cập đến một phạm vi rộng
những vấn đề lý luận, pháp lý, thực tiễn về quyền trẻ em nói chung, về hoạt động
tư pháp đối với NCTN nói riêng trên thế giới và ở Việt Nam. Trong những công
trình nghiên cứu này, trẻ em và NCTN tuy là hai khái niệm khác biệt, song được
coi là trùng khớp với nhau trong hoạt động tư pháp đối với NCTN. Một nguyên
tắc nền tảng được khẳng định trong các nghiên cứu hiện có ở trong và ngoài
nước đó là: NCTN có tư cách chủ thể của quyền con người, bình đẳng như
người lớn, tuy nhiên, do còn non nớt cả về thể chất lẫn tinh thần nên các em phải
được các nhà nước và xã hội bảo vệ một cách đặc biệt, bao gồm được dành cho
những quyền mà người lớn không được hưởng, trong đó có các quyền trong tố
tụng hình sự. Thêm vào đó, các quyền con người khi áp dụng với NCTN cũng
phải tính đến những đặc thù phát triển về thể chất, tâm lý của lứa tuổi để bảo
đảm lợi ích tốt nhất dành cho các em.
Thứ hai, giống như trong nghiên cứu về quyền con người, các nghiên
cứu về quyền của NCTNPT trên thế giới và Việt Nam đều tiếp cận theo
25
hướng đa ngành. Tuy nhiên, nếu như trong nghiên cứu về quyền con người,
những hướng tiếp cận chủ yếu là triết học, chính trị học và luật học thì trong
nghiên cứu về quyền của NCTNPT, các hướng tiếp cận trọng tâm là tâm lý
học, xã hội học và luật học. Điều này là bởi quyền của NCTNPT là một nội
dung chuyên sâu của lĩnh vực quyền con người, kế thừa, phát triển những nền
tảng lý luận và pháp lý của quyền con người. Trong hoạt động tư pháp đối với
NCTNPT, các nguyên tắc cơ bản như tính phổ quát, tính không thể phân chia,
tính không thể tước bỏ, tính liên hệ phụ thuộc lẫn nhau của quyền con người
vẫn là nền tảng, tuy nhiên, việc áp dụng các quyền con người với NCTNPT
còn được xem xét dưới các góc độ khác, cụ thể là độ trưởng thành về tâm sinh
lý mà khiến cho nhóm xã hội đặc biệt này có khả năng xung đột với pháp luật
ở mức độ cao hơn so với người lớn, cũng như dễ bị tổn thương hơn người lớn
khi phải đối mặt với hệ thống tư pháp của quốc gia.
Thứ ba, các công trình nghiên cứu hiện có, đặc biệt là các công trình ở
nước ngoài, đã cung cấp một góc nhìn khá toàn diện về hoạt động tư pháp đối
với NCTNPT ở nhiều khu vực và quốc gia trên thế giới. Điểm nổi bật rút ra ở
đây là mặc dù các quốc gia trên thế giới đang áp dụng nhiều hệ thống pháp luật
khác nhau song hầu hết đều đã áp dụng những nguyên tắc nền tảng của tư pháp
đối với NCTNPT theo luật nhân quyền quốc tế, đó là coi NCTNPT là những chủ
thể dễ bị tổn thương, cần được bảo vệ đặc biệt trong tiến trình tố tụng. Pháp luật
của hầu hết các nước, với mức độ và cách thức khác nhau, đều đã có những quy
định riêng về tố tụng với NCTNPT. Điểm nổi bật là các quy định về tố tụng hình
sự đối với NCTNPT có nhiều điểm khác biệt so với người đã thành niên và
thường theo hướng bảo vệ quyền của NCTNPT.
Thứ tư, các công trình nghiên cứu hiện có đã khái quát khá toàn diện, đầy
đủ khuôn khổ pháp luật quốc tế về tư pháp đối với NCTNPT, đồng thời bước
đầu phân tích khuôn khổ pháp luật của Việt Nam về vấn đề này. Một số công
trình nghiên cứu trong nước, đã ít nhiều so sánh, đánh giá mức độ tương thích
26
của hệ thống pháp luật Việt Nam với pháp luật quốc tế về vấn đề này. Điểm nổi
bật rút ra ở đây là trong vấn đề quyền của NCTNPT, hệ thống pháp luật hiện
hành của Việt Nam đã tương thích với những nguyên tắc và quy định cơ bản của
luật quốc tế, song vẫn còn bất cập ở một số nội dung cụ thể.
1.2.2. Những nội dung được tiếp tục nghiên cứu trong luận án
Như đã đề cập ở trên, các công trình nghiên cứu hiện có ở trong và ngoài
nước đã cung cấp một lượng tri thức, thông tin lớn và khá toàn diện về TPNCTN
trên thế giới và ở Việt Nam. Những tri thức, thông tin đó là tiền đề quan trọng để
tác giả tiếp tục tìm hiểu, phân tích những vấn đề đặt ra trong luận án. Từ những
đánh giá ở trên, những nội dung sau đây sẽ được luận án tiếp tục làm rõ:
Một là, luận án tiếp tục nghiên cứu những vấn đề lý luận của pháp luật
về quyền của NCTNPT. Trong đó, luận án sẽ đi nghiên cứu để chỉ ra các khái
niệm như NCTN phạm tội, quyền của NCTN phạm tội, pháp luật về quyền của
NCTNPT... Đây là những khái niệm nền tảng, nếu nội hàm chưa được làm rõ sẽ
khó xác định phạm vi, tính chất và nội dung của pháp luật về quyền của
NCTNPT một cách phù hợp. Vì vậy, trong luận án này sẽ phân tích và xác định
nội hàm của những khái niệm quan trọng đã nêu.
Hai là, pháp luật về quyền của NCTNPT ở Việt Nam hiện nay chưa
chỉ rõ các quyền của NCTNPT. Đa số các công trình nghiên cứu trong
nước chỉ tập trung vào các quyền của NCTNPT trong hoạt động tố tụng
hình sự mà không hoặc ít đề cập đến lĩnh vực khác. Trong thực tế, các
quyền của NCTNPT không chỉ thể hiện và được bảo vệ trong tố tụng hình
sự, mà còn trong pháp luật hình sự, quy định của luật thi hành án,… Để
khắc phục bất cập đó, trong luận án này, trong khi chú trọng các quy định
của pháp luật tố tụng hình sự, tác giả cũng mở rộng phân tích đến các nhóm
quy phạm pháp luật khác có liên quan đến quyền của NCTNPT.
Ba là, các nghiên cứu chưa đưa ra được những vấn đề lý luận về quyền
của NCTNPT, các tiêu chí, đặc điểm, vai trò của pháp luật về quyền của
27
NCTNPT. Các nghiên cứu đã cung cấp kiến thức toàn diện về TPNCTN, tuy
nhiên chưa thực sự tách bạch và làm rõ nội hàm các quyền của NCTNPT trong
mối quan hệ so sánh với các quyền của người đã thành niên phạm tội, cũng như
chưa xác định được mức độ tương thích giữa pháp luật Việt Nam và pháp luật
quốc tế trong các quy định về quyền của NCTNPT. Bất cập này gây khó khăn
cho việc xác định những sửa đổi, bổ sung cần thiết để hoàn thiện khuôn khổ
pháp luật Việt Nam về quyền của NCTNPT. Đây là một trong những nội dung
chính sẽ tập trung giải quyết trong luận án. Ngoài ra, luận án đi sâu nghiên cứu
pháp luật về quyền của NCTNPT ở một số nước trên thế giới và khu vực, từ
đó rút ra những kinh nghiệm có thể vận dụng ở Việt Nam.
Bốn là, chưa có nghiên cứu nào nghiên cứu về quá trình phát triển và
thực trạng pháp luật về quyền của NCTNPT hiện nay, do đó chưa đánh giá
thành tựu và những hạn chế. Toàn bộ Chương 3 của luận án sẽ nghiên cứu các
thời kỳ phát triển của pháp luật về quyền của NCTNPT kể từ năm 1945 đến
nay. Trong các thời kỳ đó, luận án đánh giá sự tiến bộ trong các quy định của
pháp luật về quyền của NCTNPT. Đồng thời, luận án sẽ phân tích, đánh giá
pháp luật về quyền của NCTNPT trong thời gian gần đây thông qua các văn
bản quy phạm pháp luật hình sự, tố tụng hình sự, thi hành án hình sự và các
văn bản quy phạm pháp luật khác có liên quan đến quyền của NCTNPT.
Năm là, chưa có một nghiên cứu nào chỉ ra tổng thể các quan điểm và
giải pháp hoàn thiện pháp luật về quyền của NCTNPT trên cơ sở luận giải,
đánh giá các vấn đề lý luận và thực tiễn đối với vấn đề này. Vì vậy, luận án
phân tích, xây dựng hệ thống quan điểm, đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp
luật về quyền của NCTNPT ở Việt Nam hiện nay.
28
Chương 2
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN CỦA
2.1. KHÁI NIỆM VÀ ĐẶC ĐIỂM CỦA PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN CỦA
NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN PHẠM TỘI
NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN PHẠM TỘI
2.1.1. Khái niệm người chưa thành niên phạm tội và quyền của
người chưa thành niên phạm tội
2.1.1.1. Khái niệm người chưa thành niên phạm tội
* Người chưa thành niên
Thuật ngữ NCTN được sử dụng rộng rãi trong các ngành khoa học khác
nhau như tâm lý học, giáo dục học, xã hội học, luật học. Tuy nhiên, thuật ngữ
NCTN chưa được thống nhất, tùy theo góc độ, lĩnh vực mà thuật ngữ này
được hiểu khác nhau.
Theo nhà tâm lý học G.Stanley Hall, thời kỳ chưa thành niên là thời kỳ
quá độ tuổi trẻ em chuyển lên người lớn và là thời kỳ gắn liền với những xung
đột, xáo trộn tâm trạng, nó cũng được quan niệm đồng nghĩa với tuổi đang lớn
hoặc đang trưởng thành [32].
Quy tắc tiêu chuẩn tối thiểu của LHQ về áp dụng pháp luật với NCTN
(Quy tắc Bắc Kinh) không đưa ra khái niệm về NCTN mà chỉ đưa ra thuật
ngữ “người ít tuổi”. Theo Quy tắc số 2.1 mục a của Quy tắc Bắc Kinh thì
“NCTN là người ít tuổi tuỳ theo từng hệ thống pháp luật có thể bị xét xử vì
phạm pháp theo phương thức khác với xét xử người lớn” [34]. Quy tắc của
LHQ về bảo vệ NCTN bị tước quyền tự do được Đại hội đồng LHQ thông
qua ngày 14/12/1990, có ghi nhận tại Quy tắc số 11 mục a rằng, NCTN là
người dưới 18 tuổi, giới hạn tuổi dưới mức này cần phải được pháp luật xác
định và không được tước quyền tự do của NCTN.
Như vậy, các văn bản pháp luật quốc tế không dựa vào đặc điểm tâm,
sinh lý hay sự phát triển thể chất, tinh thần mà trực tiếp hoặc gián tiếp ghi
nhận NCTN là người dưới 18 tuổi.
29
Ở Việt Nam, theo Từ điển tiếng Việt, khái niệm NCTN được hiểu như sau:
“NCTN là người chưa phát triển đầy đủ, toàn diện về thể lực, trí tuệ, tinh thần
cũng như chưa có đầy đủ về quyền và nghĩa vụ công dân”[81, tr.1114]. Khái
niệm đã chỉ rõ, NCTN là người chưa hoàn thiện cả về thể lực, trí lực lẫn tinh
thần. Do sự phát triển chưa hoàn thiện mà NCTN chưa tự mình thực hiện quyền
cũng như chưa thể tham gia một cách đầy đủ, chủ động vào các quan hệ pháp
luật làm phát sinh các quyền, nghĩa vụ cụ thể từ các quan hệ pháp luật đó.
Tuy nhiên, nếu chỉ xem xét quan niệm NCTN theo Từ điển tiếng Việt thì
rất khó xác định phạm vi đối tượng cụ thể trong cơ cấu dân số là NCTN. Theo
quan niệm này, yếu tố để xác định đối tượng là NCTN hoàn toàn phụ thuộc
vào dấu hiệu sự phát triển về tâm sinh lý, nhận thức. Dấu hiệu này được xác
định bởi yếu tố định tính, còn yếu tố định lượng (có thể coi độ tuổi là yếu tố
định lượng) chưa được xác định. Pháp luật Việt Nam hiện hành, độ tuổi của
NCTN đã được thống nhất trong BLHS, BLTTHS, Bộ luật dân sự, Bộ luật lao
động, Luật xử lý vi phạm hành chính và một số văn bản quy phạm pháp luật
khác. Các văn bản pháp luật trên quy định tuổi của NCTN là dưới 18 tuổi.
Như vậy về độ tuổi, NCTN là người chưa đủ 18 tuổi. Đây có thể coi là
giới hạn trên (tối đa) của tuổi chưa thành niên, còn giới hạn dưới (tối thiểu)
thông thường là 0. Ở độ tuổi này, những đặc điểm về tâm sinh lý của NCTN
có những biểu hiện khá phức tạp và mang những đặc trưng riêng tuỳ theo
từng giai đoạn của sự phát triển. Qua việc nghiên cứu những đặc trưng về
tâm, sinh lý, xã hội của NCTN, có thể nhận thấy một số điểm khác biệt của
NCTN so với người thành niên:
- NCTN là người chưa phát triển đẩy đủ về thể chất. Sự phát triển này
biểu hiện ở sự tăng trưởng về chiều cao, trọng lượng, cơ bắp, sự hoàn thiện
các giác quan… Điểm khác biệt này là do nhân tố sinh học.
- NCTN là người chưa phát triển đầy đủ về trí tuệ và tâm sinh lý. Cũng
là quá trình sinh học, bộ não của nhóm đối tượng này phát triển cùng với sự
phát triển về thể chất.
- NCTN chưa có đầy đủ quyền và nghĩa vụ công dân. Độ tuổi của NCTN
30
là ranh giới để phân biệt họ với người thành niên. Theo đó người chưa đủ 18
tuổi là NCTN, chưa có đầy đủ quyền và nghĩa vụ công dân. Còn người từ đủ
18 tuổi trở lên, về nguyên tắc có đầy đủ quyền và nghĩa vụ công dân.
Tóm lại, NCTN là người dưới 18 tuổi, chưa phát triển hoàn thiện về thể
chất và tinh thần, chưa có đầy đủ các quyền và nghĩa vụ pháp lý như người
đã thành niên.
* Người chưa thành niên phạm tội
Điều 40(1) Công ước quyền trẻ em đề cập đến NCTNPT là trẻ em có
hành vi vi phạm pháp luật hình sự. Điều 37 còn đề cập đến khái niệm trẻ em
bị tước tự do. Khái niệm này có thể được hiểu (tương đương với) là NCTNPT
bị tước tự do. Ngoài các khái niệm trên, một thuật ngữ khác cũng thường
được sử dụng bởi một số cơ quan nhân quyền LHQ và tổ chức quốc tế khác,
đó là trẻ em làm trái pháp luật, NCTN vi phạm pháp luật. Theo UNICEF,
NCTN làm trái với pháp luật là những người dưới 18 tuổi phải làm việc với
hệ thống tư pháp do bị nghi ngờ hay bị cáo buộc là phạm tội. Cũng có quan
điểm cho rằng, NCTN vi phạm pháp luật hay làm trái pháp luật được hiểu là
“những người dưới 18 tuổi đã thực hiện, hoặc bị tố cáo là đã thực hiện một
hành vi vi phạm pháp luật (hành chính hoặc hình sự)” [90]. Như vậy, khái
niệm NCTN vi phạm pháp luật có nội hàm rộng hơn khái niệm NCTNPT, do
vi phạm pháp luật không có nghĩa chỉ bao gồm pháp luật hình sự, và không có
nghĩa trong mọi trường hợp sẽ dẫn đến hậu quả là NCTN bị truy cứu TNHS
và bị xác định là phạm tội như với trường hợp NCTNPT.
Ở Việt Nam, NCTNPT là thuật ngữ được sử dụng nhiều trong luật hình
sự và tố tụng hình sự. BLHS năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) có một
chương riêng (chương X): Những quy định đối với NCTNPT. BLTTHS năm
2003 cũng đề cập đến khái niệm NCTNPT trong nhiều quy định của Chương
XXXII (Thủ tục tố tụng với NCTN). Tuy nhiên, cho đến nay pháp luật vẫn
chưa nêu ra một định nghĩa chính thức về NCTNPT.
Theo GS.TSKH Lê Cảm và TS. Đỗ Thị Phượng thì NCTNPT là người từ
đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi có năng lực TNHS chưa đầy đủ, do hạn chế bởi
31
các đặc điểm tâm sinh lý và đã có lỗi (cố ý hoặc vô ý) trong việc thực hiện
hành vi nguy hiểm cho xã hội bị luật hình sự cấm [13]. Quan niệm này chủ
yếu vẫn nhắc lại quy định của pháp luật và đưa ra khái niệm trên cơ sở độ tuổi
của NCTN và tiếp cận ở góc độ hẹp - tội phạm học.
Theo pháp luật Việt Nam hiện nay, người phạm tội là “người có đủ dấu
hiệu của chủ thể của tội phạm đã thực hiện hành vi được luật hình sự quy
định là tội phạm” [86, tr.36]. Người phạm tội có thể đã hoặc chưa thành niên,
trong đó NCTNPT là một dạng đặc thù của người phạm tội nói chung, ranh giới
ngăn cách NCTNPT và người thành niên phạm tội là 18 tuổi tròn [114, tr.311].
Người từ đủ 18 tuổi trở lên thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội và bị coi
là tội phạm, họ được xem là những người đã thành niên phạm tội, còn người
chưa đủ 18 tuổi mà thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội bị coi là tội phạm
thì sẽ được xem là NCTNPT.
Theo Điều 12 BLHS 1999, NCTNPT chỉ bao gồm những người từ đủ 14
tuổi nhưng chưa đủ 18 tuổi. Việc quy định về NCTNPT trong luật hình sự
trước hết có ý nghĩa xác định ranh giới giữa hành vi phạm tội với hành vi
không phải là tội phạm do họ thực hiện. Tuy nhiên, không phải tất cả NCTN
từ đủ 14 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội đều
bị coi là tội phạm. Luật hình sự quy định cụ thể, một người nếu chưa đủ 14
tuổi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội hoặc một người từ đủ 14 nhưng
chưa đủ 16 tuổi phạm tội ít nghiêm trọng, tội nghiêm trọng hoặc tội rất
nghiêm trọng với lỗi vô ý thì đều không phải chịu TNHS.
Như vậy, NCTNPT được quy định trong luật hình sự chủ yếu nhằm xác
định tội phạm đối với hành vi do NCTN thực hiện, hình phạt và các biện pháp
tư pháp khác cần áp dụng với NCTNPT cho phù hợp với tính chất, mức độ
nguy hiểm cho xã hội của tội phạm mà họ đã thực hiện trên cơ sở những đặc
điểm tâm, sinh lí của họ vào thời điểm họ phạm tội. Do đó, NCTNPT có thể
là: Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phạm tội rất nghiêm trọng do cố ý,
phạm tội đặc biệt nghiêm trọng; Nguời từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm
một tội được quy định trong BLHS.
32
Từ những phân tích trên có thể hiểu NCTNPT là người từ đủ 14 tuổi đến
chưa đủ 18 tuổi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong
BLHS, có lỗi và phải chịu hình phạt.
2.1.1.2. Khái niệm quyền của người chưa thành niên phạm tội
Tổ chức Radda Barnen quan niệm, quyền là những điều mà theo
lẽ công bằng và chính đáng một người phải được hưởng hoặc được
làm [4, tr.16].
Theo Từ điển tiếng Việt, “Quyền” được hiểu là: Điều mà pháp luật hoặc
xã hội công nhận cho được hưởng, được làm, được đòi hỏi (quyền công dân,
quyền bầu cử và quyền ứng cử); Những điều do địa vị hay chức vụ mà được
làm [113, tr.815]. Cho dù ở nghĩa thứ nhất hay nghĩa thứ hai, thì quyền vẫn là
những gì mà pháp luật hoặc xã hội công nhận cho được hưởng, được làm,
được yêu cầu, là khả năng xử sự nhất định của chủ thể nào đó, là khả năng
được hưởng, được làm, được yêu cầu từ các chủ thể khác.
Trong lịch sử, phản ứng của xã hội và pháp luật đối với NCTN thực hiện
hành vi phạm tội có lúc rất gay gắt. Trước đây, nhiều nước trên thế giới, trong
luật hình sự không có sự phân biệt giữa NCTNPT hay người đã thành niên
phạm tội. Thực tế, cả pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam đều chưa có
một định nghĩa về quyền của NCTNPT. Khái niệm này được đa số hiểu thông
qua các quyền cụ thể của NCTN trong hình sự và tố tụng hình sự. Xét về lịch
sử, quyền của NCTNPT là một thuật ngữ mới xuất hiện.
Pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia của các nước đều có những quy
định hạn chế nhất định về quyền và tự do ở mức độ phù hợp, cần thiết để bảo
vệ chế độ, đạo đức, sức khỏe và các quyền của người khác, phù hợp với yêu
cầu bảo đảm an ninh, quốc phòng của nhà nước. Hành vi phạm tội của NCTN
là vi phạm nghĩa vụ tuân theo Hiến pháp và pháp luật [47, điều 79], hành vi ấy
phải bị xử lý theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên, khi Nhà nước xử lý
NCTN có hành vi phạm tội, NCTN vẫn là con người, là công dân có những
quyền của mình. Nguyên nhân phạm tội của NCTN được giải thích từ nhiều lý
do khác nhau.
33
Mục đích của việc quy định các quyền này là để bảo vệ NCTNPT trong
tất cả các giai đoạn của tiến trình tố tụng; đặc biệt là để ngăn ngừa những hành
động tra tấn, đối xử tàn bạo, vô nhân đạo hay hạ nhục, cũng như sự bỏ mặc, thờ
ơ của các chủ thể các liên quan. Về bản chất, quyền của NCTNPT cũng là
quyền con người, quyền công dân nhưng được áp dụng với nhóm đối tượng là
NCTN đang đối mặt với Nhà nước và chế tài hình sự. Quyền của NCTNPT có
thể được hiểu theo cả nghĩa rộng và nghĩa hẹp.
Theo nghĩa rộng: Quyền của NCTNPT được xác định từ khi NCTN thực
hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội bị coi là tội phạm xét theo quy định của Luật
hình sự và bị khởi tố cho đến khi thi hành xong hình phạt theo quy định của pháp
luật hình sự tương ứng với hành vi phạm tội của họ.
Theo nghĩa này, quyền của NCTNPT được thể hiện trong tất cả các quy
định của pháp luật kể từ lúc NCTN thực hiện hành vi phạm tội trên thực tế và bị
các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ra các quyết định làm phát sinh quan hệ
pháp luật cho đến khi người đó thực hiện xong các chế tài hình sự do các cơ
quan nhà nước có thẩm quyền áp dụng đối với họ. NCTN khi thực hiện hành vi
phạm tội, họ có thể là chủ thể tham gia quan hệ pháp luật hình sự, nhưng họ
cũng có thể tham gia tố tụng với tư cách pháp lý cụ thể như: người bị tạm giam,
bị can, bị cáo, người bị kết án, người phải chấp hành bản án, quyết định có hiệu
lực của Tòa án. Trong toàn bộ quá trình này, khi tham gia vào các quan hệ pháp
luật NCTNPT cũng có các quyền như quyền được ăn, ở, quyền không bị xâm
phạm về sức khỏe, tính mạng, nhân phẩm, quyền được bảo vệ không bị đánh
đạp, tra tấn, dùng nhục hình, quyền được thông tin, quyền được thăm nuôi… Vì
thế trong mỗi tư cách nêu trên, NCTN đều có quyền theo quy định của pháp luật.
Luận án này nghiên cứu quyền của NCTNPT trong tất cả các tư cách nêu trên.
Theo nghĩa hẹp: Quyền của NCTNPT được xác định khi NCTN thực
hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong BLHS bị tòa án kết
tội bằng bản án có hiệu lực pháp luật và cho tới khi thi hành xong bản án.
Theo nghĩa này, bất kỳ ai thực hiện hành vi phạm tội nhưng chưa có bản án
kết tội đã có hiệu lực pháp luật thì không được coi người đó có tội.
34
Trong luận án này, nghiên cứu sinh xin được hiểu theo nghĩa rộng và có
thể đưa ra khái niệm như sau: Quyền của NCTNPT là quyền của người từ đủ
14 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi có hành vi nguy hiểm cho xã hội bị coi là tội
phạm được hưởng, được làm và được bảo vệ theo quy định của pháp luật
quốc gia và luật nhân quyền quốc tế kể từ khi người đó có bị khởi tố và trong
suốt quá trình giải quyết vụ án cho tới khi thi hành xong bản án hình sự.
2.1.2. Khái niệm pháp luật về quyền của người chưa thành niên
phạm tội
Cũng như các quốc gia trên thế giới tội phạm do NCTN thực hiện tồn tại
khá lâu trong lịch sử dân tộc ta. Nghiên cứu pháp luật thời kỳ phong kiến,
điển hình là bộ Quốc triều Hình luật (Bộ luật Hồng Đức) và bộ Hoàng Việt
luật lệ (Bộ luật Gia Long) có đề cập đến chính sách hình sự nhân đạo đối với
NCTNPT. Khi Cách mạng tháng Tám thành công, Nhà nước Việt Nam dân
chủ cộng hòa non trẻ đã bắt tay vào xây dựng hệ thống pháp luật để điều
chỉnh các quan hệ xã hội mới, trong đó đã chú ý đến việc thiết lập hành lang
pháp lý để bảo vệ quyền con người trong xét xử hình sự.
Điều chỉnh các quan hệ xã hội giữa nhà nước với người phạm tội được quy
định trong các văn bản quy phạm pháp luật ở những mức độ khác nhau. Đặc biệt
pháp luật về quyền của NCTNPT dùng để điều chỉnh các quan hệ xã hội phát
sinh giữa Nhà nước (đại diện cho Nhà nước là các cơ quan Công an, Kiểm sát,
Tòa án) với người phạm tội nhằm bảo vệ quyền của NCTNPT như các quyền về
ăn, ở, quyền bảo vệ tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự, quyền được
thông tin, quyền được học tập, quyền được tham gia... Ngoài ra, quyền của
NCTNPT một mặt, để bảo vệ quyền, lợi ích của các đối tượng này khi tham gia
vào quan hệ pháp luật hình sự, tố tụng hình sự; mặt khác, là hành lang pháp lý để
các chủ thể có thẩm quyền trong phạm vi theo luật định tiến hành xử lý hành vi
phạm tội của các cá nhân trong đó có NCTN.
Nhà nước ta trong thời gian qua đã ban hành các văn bản quy phạm pháp
luật để quy định cụ thể về quyền của NCTNPT như BLHS, BLTTHS, Luật thi
hành án hình sự và các văn bản pháp luật khác. Những văn bản quy phạm
35
pháp luật này là phương tiện (công cụ), một mặt công bố, ghi nhận trên thực
tế các điều mà NCTNPT được làm, được hưởng; mặt khác, qua đó hình thành
phương thức bảo vệ NCTNPT một cách toàn diện khỏi những tổn thương và
sự vi phạm từ phía các chủ thể khác. Các quy định về quyền của NCTNPT,
những yêu cầu về pháp lý đối với các chủ thể liên quan trong giải quyết vụ án
có NCTNPT do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành khi có hiệu
lực, mang tính bắt buộc thực hiện đối với các chủ thể có liên quan. Trong thực
tiễn giải quyết các vụ án NCTNPT vẫn có chủ thể vi phạm các quy định về
quyền của NCTNPT. Điều này cho thấy, việc cưỡng chế, buộc các chủ thể
liên quan phải thi hành nghiêm chỉnh các quy định của pháp luật để NCTNPT
hưởng quyền của mình là điều cần thiết.
Pháp luật về quyền của NCTNPT do các cơ quan nhà nước có thẩm
quyền như Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, TANDTC,
VKSNDTC, Bộ Công an… ban hành. Các cơ quan này, với thẩm quyền của
mình ban hành văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ phát sinh
giữa Nhà nước với NCTN khi có hành vi phạm tội của NCTN xảy ra trong
suốt quá trình điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự.
Pháp luật về quyền của NCTNPT đảm bảo cho quyền của họ không bị vi
phạm các chuẩn mực quốc tế và pháp luật của quốc gia, bảo đảm sự bình đẳng
của con người, của công dân, không phụ thuộc vào sự khác biệt về bất cứ lý
do nào, mọi hình thức phân biệt đối xử đều bị pháp luật nghiêm cấm. Quyền
của NCTNPT không thể thực hiện nếu không ghi nhận bằng pháp luật, thông
qua đó, nghĩa vụ tôn trọng và thực thi quyền trở thành quy tắc xử sự chung,
mang tính bắt buộc và thống nhất cho tất cả các chủ thể trong xã hội, chứ
không chỉ tồn tại dưới dạng những quy tắc đạo đức.
Qua phân tích, luận án đưa ra khái niệm pháp luật về quyền của NCTNPT
như sau: Pháp luật về quyền của NCTNPT bao gồm tổng thể các quy phạm pháp
luật do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành để điều chỉnh các quan hệ
xã hội phát sinh giữa các cơ quan Công an, Viện kiểm sát, Tòa án (đại diện cho
36
Nhà nước) với NCTNPT, và bảo vệ các quyền của NCTNPT từ khi bị khởi tố, điều
tra, truy tố, xét xử cho khi thi hành xong bản án hình sự.
2.1.3. Đặc điểm của pháp luật về quyền của người chưa thành niên
phạm tội
Nghiên cứu các văn bản pháp luật về quyền của NCTNPT ở Việt Nam
hiện nay, có thể rút ra những đặc điểm cơ bản như sau:
Thứ nhất, pháp luật về quyền của NCTNPT ra đời sớm
Ngay sau khi Cách mạng tháng Tám thành công, nhân dân ta đã phải tiến
hành cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp để bảo vệ nền độc lập của dân tộc.
Trong bối cảnh lịch sử ấy, công tác xây dựng pháp luật gặp rất nhiều khó khăn.
Tuy nhiên, một số vấn đề về quyền của NCTNPT đã được đề cập gián tiếp
trong các Sắc lệnh của Chủ tịch nước. Bên cạnh đó, một số Báo cáo tổng kết có
tính chất hướng dẫn nghiệp vụ chuyên môn của ngành Tòa án khi nói về vấn đề
xét xử vụ án NCTNPT cũng đã đề cập đến chính sách nhân đạo đối với
NCTNPT. Điều này cho thấy pháp luật về quyền của NCTNPT ra đời sớm hơn
so với các lĩnh vực khác như pháp luật bảo vệ môi trường, pháp luật cán bộ
công chức, pháp luật kinh doanh thương mại, v.v. Đồng thời, nguyên tắc xét xử
các vụ án hình sự đã ghi nhận quyền con người và những bảo đảm về quyền
con người trong tố tụng hình sự. Đây là nền tảng thiết lập các quy định trong
pháp luật về quyền của NCTNPT. Điều này khẳng định rằng, trong bộn bề
công việc của chính quyền mới được thiết lập và củng cố nhưng với sự quan
tâm của Nhà nước, các quy định của pháp luật về quyền của NCTNPT đã được
ghi nhận, cho dù các quy định này ở thời kỳ đầu còn tản mạn, chưa đầy đủ,
chưa đáp ứng được hết các quyền con người, quyền công dân của NCTNPT.
Thứ hai, pháp luật về quyền của NCTNPT được quy định chủ yếu trong
các văn bản quy phạm pháp luật hình sự, tố tụng hình sự và một số văn bản
quy phạm pháp luật khác
Để điều chỉnh quan hệ giữa Nhà nước (đại diện là cơ quan Công an,
Viện kiểm sát, Tòa án) với NCTNPT, Nhà nước đã ban hành các văn bản
37
pháp luật hình sự, tố tụng hình sự, thi hành án hình sự. Trong lĩnh vực tư pháp
hình sự, liên quan đến hành vi phạm tội, đến quyền của NCTNPT, pháp luật
đã quy định cách thức để các cơ quan đại diện cho Nhà nước xử lý hành vi đã
xâm phạm đến các quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ; đồng thời pháp
luật cũng quy định khi NCTNPT họ được bảo vệ thông qua các cơ chế nào;
cách thức (trình tự, thủ tục) mà Nhà nước xử lý hành vi ấy ra sao... Điều này
cho thấy, không thể quy định tất cả các nội dung nêu trên vào cùng một văn
bản có tính cùng loại. Hơn thế nữa, để giải quyết mối quan hệ xã hội phát sinh
giữa Nhà nước với NCTNPT cần có nhiều chủ thể tham gia vào quá trình này,
trong đó chủ thể đại diện cho Nhà nước để giải quyết mối quan hệ này cũng
đa dạng và tiến hành tùy theo từng giai đoạn của tố tụng hình sự. Vì thế trong
quá trình thực hiện nhiệm vụ của mình để giải quyết vụ án NCTNPT, các cơ
quan này, theo thẩm quyền phải hiện thực hóa các quy định trong các văn bản
luật do Quốc hội ban hành để thực thi nhiệm vụ.
Các quy định về quyền của NCTNPT nằm trong các văn bản luật như
Hiến pháp, BLHS, BLTTHS, Luật thi hành án hình sự, Luật BV,CS,GD trẻ
em… Đồng thời, cũng được quy định trong các văn bản dưới luật như Nghị
định của Chính phủ, Thông tư của TANDTC, VKSNDTC, Bộ Tư pháp, Bộ
Công an… Trong một số trường hợp, quyền của NCTNPT còn được quy định
trong các Hướng dẫn về nghiệp vụ cho các chủ thể có thẩm quyền khi thực thi
pháp luật đối với NCTNPT. Số lượng các văn bản quy phạm pháp luật về
quyền của NCTNPT nhiều, do nhiều chủ thể có thẩm quyền khác nhau ban
hành, có giá trị pháp lý khác nhau nhưng đều trực tiếp hoặc gián tiếp quy định
NCTNPT được hưởng, được làm và được bảo vệ; cũng như những cách thức
để bảo vệ các quyền này được thực thi trên thực tế.
Thứ ba, pháp luật về quyền của NCTNPT tập trung quy định, bảo vệ và
điều chỉnh các quan hệ xã hội về quyền của NCTNPT
Trong pháp luật về quyền của NCTNPT, các quyền của NCTNPT được
ghi nhận bằng hai cách: trực tiếp dành cho đối tượng được hưởng thụ; gián
38
tiếp qua các quy định về nghĩa vụ, yêu cầu, trách nhiệm của các chủ thể liên
quan trong giải quyết vụ án. Cách thức biểu hiện này khá phổ biến trong các
quy định về quyền của NCTNPT ở Việt Nam. Đa số các quy định về quyền
của NCTNPT trong BLTTHS 2003 đều thể hiện thông qua việc quy định
quyền đặc thù cho NCTNPT dưới dạng nghĩa vụ của các chủ thể liên quan.
Trong các quy định này, gián tiếp quy định quyền đặc thù của NCTNPT,
trực tiếp quy định nghĩa vụ, yêu cầu, trách nhiệm của các chủ thể liên quan.
Do vậy có thể nói, pháp luật về quyền của NCTNPT vừa ghi nhận quyền vừa
ghi nhận phương thức bảo đảm quyền. Những quy định này đã trao cho
NCTNPT những điều họ được hưởng, họ được làm trong hoàn cảnh, điều kiện
cụ thể; mặt khác ràng buộc trách nhiệm các chủ thể liên quan trong quá trình
giải quyết vụ án. Với cách quy định này, nhà làm luật đã dự liệu việc thực
hiện các quyền đặc thù cho NCTNPT ngay từ lúc xây dựng các quy phạm
pháp luật, thông qua quy định nghĩa vụ, yêu cầu, trách nhiệm của các chủ thể
liên quan trong việc giải quyết vụ án có NCTNPT. Nội dung pháp luật về
quyền của NCTNPT được quy định theo hướng ưu tiên trong việc hưởng
quyền, ưu tiên về trình tự, thủ tục giải quyết vụ án và các chế độ đối xử phù
2.2. NỘI DUNG, VAI TRÒ VÀ CÁC TIÊU CHÍ CỦA PHÁP LUẬT VỀ
QUYỀN CỦA NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN PHẠM TỘI
hợp với lứa tuổi theo hướng nhân đạo, nhân văn, gần gũi hơn, nhanh gọn hơn.
2.2.1. Nội dung của pháp luật về quyền của người chưa thành niên
phạm tội
Từ đối tượng, phạm nghiên cứu, khái niệm, nội dung pháp luật về quyền
của NCTNPT được nghiên cứu theo 3 nhóm quan hệ pháp luật:
2.2.1.1. Pháp luật về quyền của người chưa thành niên phạm tội trong
các văn bản quy phạm pháp luật hình sự
Quyền của NCTNPT trong các văn bản pháp luật hình sự thể hiện thông
qua những nội dung chủ yếu sau:
39
Về độ tuổi chịu TNHS: Việc quy định độ tuổi tối thiểu phải chịu TNHS ý
nghĩa rất lớn. Một mặt, khẳng định, chỉ ở độ tuổi nhất định NCTN thực hiện
hành vi nguy hiểm cho xã hội mới bị coi là tội phạm đồng thời mới có khả
năng phải thiết lập quan hệ pháp luật với Nhà nước. Mặt khác, thông qua việc
quy định về độ tuổi tối thiểu tạo ra hành lang vững chắc nhằm bảo vệ quyền
cho NCTN khi họ thực hiện tội phạm.
Về pháp luật hình sự trong việc xử lý NCTNPT: NCTN khi phạm tội phải
chịu trách nhiệm trước nhà nước, xã hội như mọi công dân khác vì NCTN cũng
là công dân của một quốc gia. Nội dung của chính sách xử lý NCTNPT được
ghi nhận trong những điều luật cụ thể, thể hiện rõ ràng, đầy đủ và nhất quán.
Nguyên tắc xử lý NCTNPT được tập hợp một cách đầy đủ và có hệ thống và
thấm nhuần tinh thần nhân đạo, coi trọng giáo dục, “tiết kiệm” các biện pháp
cưỡng chế và hình phạt; không tước đi quyền được tự do đến hết đời, không
tước đi quyền sống.
Về hình phạt và các biện pháp tư pháp áp dụng đối với NCTNPT: Pháp
luật quy định các loại và mức hình phạt khác nhau áp dụng với NCTN khi
phạm một tội cụ thể. Mức hình phạt tùy thuộc vào mức độ nghiêm trọng của
hành vi nguy hiểm cho xã hội, có tính đến nhân thân của người phạm tội và
các tình tiết khác. Các biện pháp tư pháp là những biện pháp mang tính giáo
dục, phòng ngừa, không phải là hình phạt. Việc áp dụng các biện pháp này thể
hiện tính nghiêm khắc, vai trò giáo dục của pháp luật đối với NCTNPT, đồng
thời tạo điều kiện để các em không phải đối mặt với quá trình tố tụng.
2.2.1.2. Pháp luật về quyền của người chưa thành niên phạm tội trong
các văn bản quy phạm pháp luật tố tụng hình sự
Quyền của NCTNPT trong luật tố tụng hình sự được thể hiện thông qua
các nội dung sau:
Một là, các nguyên tắc của tố tụng hình sự. Các nguyên tắc trong tố tụng
hình sự tạo cơ sở cho việc hưởng quyền của NCTNPT; mặt khác, hướng cho
các chủ thể tiến hành tố tụng tìm ra sự thật của vụ án, xác định có tội hay
40
không có tội của NCTN, áp dụng chế tài đúng và quan trọng hơn nữa, tránh
được sự vi phạm quyền của các đối tượng này. Trong một chừng mực nhất
định ngoài những nguyên tắc chung cho tất cả những ai phạm tội còn có
những nguyên tắc chỉ áp dụng đối với NCTNPT.
Hai là, các yêu cầu cụ thể đối với quá trình giải quyết vụ án có NCTN. Các
yêu cầu cụ thể này thể hiện sinh động các quyền của đối tượng:
- Về hệ thống riêng cho NCTNPT: Hệ thống này nhằm bảo đảm việc bảo
vệ quyền lợi của NCTN khi phạm tội. Theo đó, hệ thống này sẽ bao gồm các
quy định, thủ tục, các chủ thể và thể chế áp dụng riêng cho NCTN.
- Về quyền riêng tư của NCTNPT: Quyền riêng tư của NCTNPT có ý
nghĩa vô cùng quan trọng đối với việc bảo vệ ý thức về nhân phẩm và phẩm
giá của các đối tượng này; giúp giảm những nguy cơ tổn thương đối với các
đối tượng này trong quá trình tố tụng. Đặc biệt là nó giúp làm giảm tác động
tiêu cực của những định kiến, sự “dán mác” đối với NCTNPT.
Ba là, các yêu cầu cần thiết đối với người tiến hành tố tụng hình sự.
Việc quy định các yêu cầu đối với người tiến hành tố tụng là hết sức cần thiết.
Điều này xuất phát từ hai vấn đề: Nếu người tiến hành tố tụng có những kiến
thức, hiểu biết khoa học về đặc trưng lứa tuổi, tâm - sinh lý, những đặc trưng
về tính cách, tình cảm, hành vi của lứa tuổi chưa thành niên mới có thể lý giải
sâu sắc về cơ chế của hành vi, nguyên nhân, động cơ, mục đích phạm tội của
NCTN. Thứ hai, người tiến hành tố tụng trên cơ sở hiểu biết chung về lứa tuổi
chưa thành niên, tìm hiểu về những vấn đề, những đặc điểm riêng, cá tính,
tính cách, thái độ, quan hệ xã hội của đối tượng để đưa ra đánh giá, nhận xét
chính xác, phù hợp về tính chất, mức độ của hành vi, nguyên nhân, động cơ
mục đích, nhân thân, điều kiện làm căn cứ áp dụng các biện pháp xử lý [34].
Bốn là, pháp luật về quyền của NCTNPT khi thực hiện việc bắt. Việc bắt
NCTN liên quan trực tiếp đến tự do, nhân phẩm, danh dự, v.v, vì thế ghi nhận
những quyền cụ thể để các em tự bảo vệ, hoặc thông qua chủ thể khác bảo vệ
các em như:
41
Quyền được xem xét trả tự do. Việc xem xét trả tự do cho NCTN phải
không được trì hoãn vì việc bắt giữ là một hình thức tước tự do, có thể đem
lại những tác động tâm lý nặng nề đối với các em.
Quyền được thông báo cho cha mẹ hoặc người giám hộ. Mục đích của
ghi nhận quyền này nhằm đảm bảo sự tham gia của cha mẹ hoặc người giám
hộ cho các đối tượng này; giúp họ có được sự ủng hộ và trợ giúp tích cực,
giảm bớt sự sự hãi, căng thẳng.
Quyền được hưởng sự trợ giúp pháp lý và những hỗ trợ phù hợp khác.
Do quá trình giải quyết vụ án rất phức tạp nên NCTNPT cần nhận được sự trợ
giúp pháp lý và những hỗ trợ phù hợp khác để có thể đảm bảo rằng các đối
tượng này hiểu được quy trình tố tụng, có thể tham gia đầy đủ và được tư vấn
phù hợp về pháp lý và các khía cạnh khác của vụ án.
Năm là, pháp luật về quyền của NCTNPT trong quá trình khởi tố và điều tra.
Quá trình khởi tố, điều tra được diễn ra trong một thời gian khá dài và gồm nhiều
hoạt động tố tụng khác nhau do nhiều chủ thể có thẩm quyền tiến hành. NCTNPT
là đối tượng tham gia vào các quá trình này có các quyền sau:
Quyền không bị trì hoãn và tuân thủ thời hạn. Quá trình khởi tố, điều tra
có thể ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự phát triển bình thường của NCTN, do
đó pháp luật ghi nhận thời hạn cần thiết và không trì hoãn vì bất cứ lý do gì.
NCTNPT bị khởi tố có quyền được đưa vụ án ra xét xử và quyết định trong
thời gian sớm nhất có thể; giảm thiểu tối đa thời hạn tố tụng.
Quyền được điều tra thân thiện. Việc điều tra của các nhà chức trách
phải thực hiện trên cơ sở NCTNPT được coi là vô tội cho tới khi luật pháp
chứng minh được là có tội; cấm mọi hình thức đe dọa, vũ lực hoặc làm sợ hãi.
Không được ép cung, buộc NCTNPT nhận tội dưới bất kỳ hình thức nào.
Quyền được coi là vô tội và phải được đối xử như là người vô tội. Đây là
quyền pháp lý rất quan trọng, xuyên suốt quá trình tố tụng từ khi khi khởi tố
đến khi xét xử và bản án chưa có hiệu lực pháp luật.
42
Quyền bào chữa và nhờ người bào chữa. Quyền bào chữa bảo đảm cho
việc xác định toàn diện các vấn đề cần phải chứng minh trong vụ án
NCTNPT cũng như bảo đảm cho các đối tượng này nhận được các hỗ trợ về
tâm lý trong quá trình điều tra, sự tham gia của người bào chữa và đại diện
gia đình, nhà trường, tổ chức trong giai đoạn điều tra được ghi nhận.
Quyền được đối xử nhân đạo. Nguyên tắc của luật nhân quyền quốc tế
đó là, tất cả những ai bị tước quyền tự do đều được đối xử một cách nhân đạo
và tôn trọng nhân phẩm; không bị tước đoạt quyền tự do một cách bất hợp
pháp hay tùy tiện; việc giam giữ NCTNPT trước khi xét xử chỉ trong thời hạn
thích hợp, ngắn nhất, là biện pháp cuối cùng khi không còn sự lựa chọn khác.
Sáu là, pháp luật về quyền của NCTNPT trong xét xử. Toà án độc lập
trong xét xử và các thủ tục xét xử đều phải được tiến hành một cách đúng đắn
và tôn trọng quyền của NCTNPT trong hoạt động xét xử. NCTNPT có quyền
được coi là vô tội cho tới khi tội của họ được chứng minh theo pháp luật:
Quyền được xét xử theo một thủ tục đặc biệt (hoặc là thủ tục riêng). Thủ
tục đặc biệt này có thể được biểu hiện thông qua các quy định như: thành
phần Hội đồng xét xử; yêu cầu về kỹ năng xét xử; bố trí phiên xét xử; sự có
mặt của người tham dự phiên xét xử, v.v..
Quyền được trợ giúp pháp lý và những hỗ trợ phù hợp khác trong quá
trình xét xử. Tương tự như các giai đoạn khác của quá trình tố tụng, quyền
được sự trợ giúp pháp lý và những hỗ trợ phù hợp khác.
Quyền riêng tư. Mục đích của việc ghi nhận quyền riêng tư là để bảo vệ
nhân phẩm, giá trị của NCTNPT, đồng thời ngăn ngừa định kiến và sự kỳ thị
của xã hội đối với họ. Việc ghi nhận quyền riêng tư không những được ghi
nhận trong quá trình xét xử mà còn được ghi nhận ở tất cả quá trình tố tụng.
2.2.1.3. Pháp luật về quyền của người chưa thành niên phạm tội trong
các văn bản quy phạm pháp luật về thi hành án hình sự
Hoạt động thi hành các phán quyết của Tòa án đối với NCTNPT vô cùng
quan trọng. Vì vậy, cần xác định nguyên tắc, các quyền riêng đối với
43
NCTNPT, như: Hệ thống các trại cải tạo (nhà tù), trừ trường hợp lấy đi chính
đáng hay để duy trì kỷ luật, phải không được làm trầm trọng thêm nỗi đau vốn
có, mục đích và lý do kết án chấp hành hình phạt tù có thời hạn hay bất kỳ
một biện pháp tương tự nào khác tước bỏ tự do chính là để bảo vệ xã hội
chống lại tội ác; Mục đích và lý do kết án tù chỉ có thể đạt được nếu thời gian
chấp hành hình phạt, trong khả năng lớn nhất, đảm bảo được rằng khi NCTN
trở về với xã hội thì người đó không chỉ sẵn sàng mà còn có khả năng sống
một cuộc sống tuân theo pháp luật và tự lực; Nơi cải tạo NCTNPT là nơi
không có khác biệt giữa cuộc sống trong trại với cuộc sống tự do vốn có, tôn
trọng nhân phẩm của NCTN với tư cách là con người; Đề cao giáo dục dạy
nghề và hướng nghiệp, tham vấn việc làm, phát triển thể lực, đạo đức; Lao
động trong thời gian chấp hành hình phạt tù của NCTNPT không được tạo ra
và mang tích chất khổ sai; Thực hiện giáo dục là công việc bắt buộc.
2.2.2. Vai trò của pháp luật về quyền của người chưa thành niên
phạm tội
Xét trong mối quan hệ với việc bảo vệ quyền của NCTNPT, vai trò của
pháp luật về quyền của NCTNPT được thể hiện qua những nội dung sau:
Thứ nhất, pháp luật về quyền của NCTNPT có vai trò thể chế hóa chủ
trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về quyền của NCTNPT
Chính sách hình sự của Đảng và Nhà nước ta đối với NCTNPT là cơ sở
để từ đó pháp luật thể chế hóa, cụ thể hóa thành những điều luật cụ thể nhằm
trao cho họ “công cụ hữu hiệu” để được hưởng những lợi ích đã được pháp
định; đồng thời ngăn ngừa có hiệu quả sự vi phạm những quyền này từ phía
các chủ thể khác. Chính sách hình sự của Đảng và Nhà nước áp dụng đối với
NCTNPT chủ yếu là nhằm cải tạo, giáo dục, giúp đỡ các em sửa chữa những
sai lầm, phát triển lành mạnh để có thể trở thành những công dân trẻ có ích
cho xã hội. Xuất phát từ tư tưởng đó, xác định NCTNPT là đối tượng đặc biệt
được áp dụng đường lối xử lý hình sự và giáo dục, cải tạo đặc thù phù hợp với
lứa tuổi chưa trưởng thành, pháp luật về quyền của NCTNPT đã có các ghi
44
nhận những quyền và những quy định áp dụng riêng nhằm tạo điều kiện tốt nhất
cho các đối tượng này. Bên cạnh đó, pháp luật cũng quy định những bảo đảm cho
việc điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án đối với NCTNPT phải được tiến hành
một cách khách quan, phù hợp, toàn diện, đúng pháp luật.
Thứ hai, pháp luật về quyền của NCTNPT có vai trò bảo vệ quyền con
người của NCTNPT
Pháp luật ghi nhận các quyền của NCTNPT đã được xã hội thừa nhận.
Thông qua pháp luật, các quyền này của NCTNPT được bảo vệ. Pháp luật
thông qua các đặc tính vốn có của mình, đưa ra điều cấm và những hành vi
bắt buộc phải làm nhằm ngăn ngừa và chống lại hành vi vi phạm từ các chủ
thể khác. Cũng chính từ việc pháp luật ghi nhận NCTNPT có những quyền
nhất định mà các đối tượng này có công cụ tự bảo vệ mình. Do vậy, pháp luật
về quyền của NCTNPT trước hết là cơ sở pháp lý để các đối tượng này được
hưởng quyền của mình. Bên cạnh việc được hưởng quyền của NCTNPT, ghi
nhận trách nhiệm của nhà nước và các chủ thể khác trong việc bảo đảm cho
sự hưởng thụ các quyền đó của họ.
Quyền của NCTNPT được pháp luật ghi nhận trong nhiều văn bản quy
phạm pháp luật khác nhau. Các quy định này đều có nội dung là quyền của
NCTNPT và cơ chế để bảo vệ các quyền đó. Có thể kể đến các văn bản quy
phạm pháp luật đặc thù như BLHS, BLTTHS; Luật thi hành án hình sự,
v.v…Quyền của NCTNPT được ghi nhận trong các văn bản này hết sức phong
phú và đa dạng phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội, cũng như cuộc đấu tranh
phòng chống tội phạm NCTN ở nước ta, đồng thời kết hợp hài hòa với các
chuẩn mực quốc tế về quyền của NCTNPT mà Việt Nam tham gia, ký kết.
Những quy định của pháp luật là cơ sở mang tính pháp lý quan trọng, có
tính nguyên tắc trong việc ghi nhận quyền của NCTNPT. Những quyền này
không chỉ được quy định một cách trực tiếp trong các văn bản quy phạm pháp
luật mà còn được ghi nhận một cách gián tiếp thông qua các quy định về tổ
chức, hoạt động của các chủ thể có thẩm quyền trong việc xem xét, xử lý
45
NCTNPT. Nếu không có các quy định của pháp luật về quyền của NCTNPT
thì sẽ không có căn cứ pháp lý để các chủ thể thực thi pháp luật bảo vệ
NCTNPT bằng cơ chế này.
Thứ ba, pháp luật về quyền của NCTNPT có vai trò ngăn ngừa sự vi
phạm quyền của NCTNPT
Quá trình xử lý NCTNPT dựa trên những cơ sở, nền tảng pháp lý nhất
định, đó là pháp luật hình sự và tố tụng hình sự. Để đảm bảo quyền của NCTN
trong quá trình xử lý hành vi phạm tội của họ, đồng thời ngăn ngừa sự lạm
quyền, vi phạm quyền của NCTN từ phía cơ quan công quyền, đòi hỏi phải xác
định một cách khoa học về tổ chức, con người, quy trình, thủ tục cũng như
những yêu cầu cần thiết và những mối quan hệ giữa các chủ thể tiến hành tố
tụng với nhau. Quá trình tố tụng với NCTNPT là quá trình tố tụng đặc biệt liên
quan đến hai vấn đề nhậy cảm đó là quyền con người và đối tượng của quá
trình này là NCTN, nên pháp luật quốc tế và pháp luật của các quốc gia đều xác
định các quy trình, thủ tục chặt chẽ. Rào cản ngăn ngừa sự vi phạm quyền của
NCTNPT không chỉ thể hiện ở các quyền tố tụng cụ thể của các đối tượng này,
mà còn thể hiện trong một loạt quy định khác, cụ thể như: Chính sách hình sự
đối với NCTNPT; nguyên tắc xử lý đối với NCTNPT; các thủ tục tố tụng đặc
biệt dành cho NCTNPT; những yêu cầu đối với người tiến hành tố tụng khi giải
quyết vụ án có NCTNPT… Tất cả những nội dung này tạo ra hành lang pháp lý
ngăn ngừa sự vi phạm quyền của NCTNPT từ các cơ quan và người tiến hành
tố tụng ngay từ khi bắt đầu và trong suốt quá trình tố tụng.
Thứ tư, pháp luật về quyền của NCTNPT có vai trò giáo dục đối với
NCTNPT
Pháp luật nói chung là phương tiện quan trọng để giáo dục mọi chủ thể
trong xã hội theo một trật tự nhất định. Pháp luật về quyền của NCTNPT luôn
xác định rõ NCTN khi thực hiện hành vi phạm tội có những quyền gì, trong
điều kiện, tình huống, hoàn cảnh nào thì họ được làm những gì, làm như thế
46
nào. Đồng thời với các quy định nêu trên, pháp luật về quyền của NCTNPT
cũng quy định các chủ thể khác trong xã hội có nghĩa vụ gì, trách nhiệm và
phải làm những gì NCTNPT được hưởng quyền của mình trên thực tế.
Pháp luật về quyền của NCTNPT tạo cho đối tượng này khả năng sử
dụng những quyền đã được pháp luật ghi nhận để phục vụ chính mình. Bên
cạnh đó, các chủ thể khác có nghĩa vụ tôn trọng và không làm ảnh hưởng tới
việc hưởng thụ các quyền đó. Việc bản thân NCTNPT nhận thức được quyền,
giới hạn quyền của mình cũng như khả năng hiện thực hóa các quyền đó vào
trong thực tế bối cảnh hiện tại mà họ đang đối mặt đã phản ánh sâu sắc vai trò
giáo dục của pháp luật nói chung, của pháp luật về quyền của NCTNPT nói
riêng. Ở góc độ này, pháp luật về quyền của NCTNPT có vai trò giáo dục
riêng, giáo dục cho chính NCTNPT.
Sự tồn tại các quy phạm pháp luật về quyền của NCTNPT tự bản thân nó
đã có ý nghĩa giáo dục, nó tác động đến nhận thức, tư tưởng của mỗi cá nhân
trong xã hội, giáo dục ý thức tôn trọng quyền con người, quyền của cá nhân
khác trong từng hoàn cảnh, lĩnh vực nhất định của đời sống xã hội. Thông qua
đó giáo dục cho mỗi người biết trân trọng những giá trị, phẩm giá, cũng như
sự tự do mà phải qua quá trình lâu dài con người mới đạt được. Cũng chính
nội dung của pháp luật về quyền của NCTNPT mà nó còn giáo dục ý thức
tuân thủ pháp luật, tôn trọng các nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa trong
quá trình giải quyết vụ án có NCTNPT. Ở góc độ này, pháp luật về quyền của
NCTNPT có vai trò giáo dục chung.
2.2.3. Các tiêu chí của pháp luật về quyền của người chưa thành
niên phạm tội
Tiêu chí của pháp luật về quyền của NCTNPT là những chuẩn mực dựa
vào đó để nhận biết được tính thống nhất, tính phù hợp, sự tương thích và khả
thi trong các văn bản, các quy phạm pháp luật về quyền của NCTNPT, qua đó
có thể đánh giá thực trạng, đề ra những giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật
47
về quyền của NCTNPT. Pháp luật về quyền của NCTNPT cho thấy bao gồm
các tiêu chí sau đây:
Thứ nhất, tính thống nhất, đồng bộ của pháp luật về quyền của NCTN PT
Đây là điều kiện tiên quyết cho sự hợp thành hệ thống các văn bản quy
phạm pháp luật về quyền của NCTNPT. Điều này đòi hỏi việc xây dựng các
quy định về quyền của NCTNPT đảm bảo sự thống nhất của hệ thống pháp
luật từ Hiến pháp cho đến các bộ luật, luật, văn bản quy phạm pháp luật khác
có liên quan. Hơn nữa, do pháp luật về quyền của NCTNPT là một bộ phận
trong hệ thống pháp luật của quốc gia ghi nhận, bảo vệ quyền con người của
NCTNPT, vì thế các quy định liên quan đến vấn đề này phải bảo đảm thống
nhất với các quy định về quyền con người, quyền công dân. Tính thống nhất
và đồng bộ đó phải được thể hiện ở các khía cạnh sau:
Một là, các quy định về quyền của NCTNPT trong các văn bản quy
phạm pháp luật không mâu thuẫn, không chồng chéo, không triệt tiêu nhau,
có sự liên kết chặt chẽ, sự phối hợp, tác động điều chỉnh theo hướng tôn trọng
nhân phẩm, giá trị và các quyền của NCTNPT. Mọi sự mâu thuẫn, chồng
chéo về nội dung sẽ làm cho sự điều chỉnh pháp luật không hiệu quả, tạo kẽ
hở cho lạm quyền, gây khó khăn cho NCTNPT trong việc thụ hưởng quyền.
Hai là, sự thống nhất, đồng bộ trong nội dung về quyền của NCTNPT với
mục đích bảo vệ quyền con người nói chung, quyền của nhóm đối tượng đặc
biệt này. Điều này đòi hỏi khi ghi nhận quyền cho nhóm đối tượng này phải
phù hợp với chủ trương, chính sách, các văn bản quy phạm pháp luật khác về
quyền con người, quyền công dân trong điều kiện kinh tế, chính trị, văn hóa,
xã hội và mô hình tổ chức, cơ chế hoạt động của các chủ thể có thẩm quyền
giải quyết vụ án hình sự. Nếu một quyền nào đó của NCTNPT được ghi
nhận trong pháp luật, nhưng không phù hợp với điều kiện và mô hình tổ
chức bộ máy đang vận hành thì cũng không thể thực thi và điều đó dẫn đến
những khó khăn cho việc hưởng quyền và bảo vệ quyền. Việc ghi nhận
quyền của NCTNPT còn là ghi nhận cơ chế để quyền được thực hiện trên
thực tế, tránh tình trạng quy định của pháp luật mang tính hình thức.
48
Ba là, các quy phạm pháp luật về quyền của NCTNPT nằm rải rác trong
nhiều văn bản pháp luật khác nhau, có giá trị pháp lý khác nhau, nhưng có mối
quan hệ thống nhất biện chứng với nhau, không mâu thuẫn, loại trừ lẫn nhau và
các quy định cụ thể phải là sự cụ thể hoá tinh thần chỉ đạo được nêu ra trong
những quy định mang tính chung, tính nguyên tắc, tính chỉ đạo. Điều này cũng
phải được thể hiện trong mối quan hệ giữa các quy định về quyền của NCTNPT
trong các văn bản luật có giá trị pháp lý cao hơn các quy định trong văn bản dưới
luật. Chẳng hạn, Thông tư, Hướng dẫn của TANDTC về đường lối xử lý đối với
các vụ án có NCTNPT được ban hành nhằm cụ thể hóa, thể chế hóa nội dung, tinh
thần đã được quy định trong BLHS, BLTTHS.
Thứ hai, tính cụ thể, rõ ràng của pháp luật về quyền của NCTNPT
Tính cụ thể của pháp luật về quyền của NCTNPT không nằm ngoài tính
cụ thể của pháp luật nói chung. Ở phương diện chung, trong các văn bản pháp
luật về quyền của NCTNPT phải bao hàm các quy định pháp lý có khả năng
điều chỉnh tốt nhất mọi vấn đề liên quan đến quyền của NCTNPT. Xét ở biểu
hiện cụ thể, quy định trong các văn bản pháp luật về quyền của NCTNPT phải
thực sự trở thành hành lang pháp lý chuẩn mực về quyền dành cho các đối
tượng này, đồng thời thông qua đó hướng hành vi của các chủ thể liên quan
giải quyết vụ án hiệu quả. Tính cụ thể này biểu hiện thông qua các quy phạm
pháp luật. Quy phạm pháp luật có thể được coi là thành tố nhỏ nhất hình
thành nên pháp luật về quyền của NCTNPT. Các quy phạm pháp luật này vừa
có tính khái quát vừa có tính cụ thể. Một mặt, nó là quy tắc xử sự chung, dùng
để giải quyết các vụ án do NCTN gây ra. Mặt khác, nó phải cụ thể, vì theo
nguyên tắc chung, quy phạm pháp luật là hình mẫu, là chuẩn mực để điều
chỉnh quan hệ xã hội trong trường hợp cụ thể đã được dự liệu bằng phương
pháp trừu tượng hóa. Từ nguyên tắc chung này có thể thấy quy phạm pháp
luật về quyền của NCTNPT phải biểu hiện đầy đủ, chính xác và cụ thể nhất
pháp luật về quyền con người trong phạm vi hẹp.
Trong các quy phạm pháp luật về quyền của NCTNPT, nội dung ngắn
gọn, rõ ràng, chính xác, một nghĩa. Như vậy mới giúp người được hưởng
49
quyền (NCTNPT) và chủ thể liên quan nhận thức được rõ ràng pháp luật cho
phép họ được làm gì, phải làm gì, không được làm gì, làm thế nào, ở đâu, bao
giờ, khi nào… Ở góc độ thực thi, nếu quy định không cụ thể mà chỉ chung
chung, trừu tượng, pháp luật về quyền của NCTNPT sẽ không hiệu quả.
Bên cạnh những vấn đề có tính khái quát nêu trên, tính cụ thể của pháp
luật về quyền của NCTNPT còn phải được thể hiện thông qua việc quy định
các quyền của NCTNPT một cách cụ thể, các đối tượng này có những quyền
gì theo quy định của luật hình sự, luật tố tụng hình sự, luật thi hành án hình
sự. Các quyền cụ thể phải được ghi nhận phù hợp với các yêu cầu pháp lý
chung và phù hợp với đặc trưng của NCTN có hành vi nguy hiểm cho xã hội
bị coi là tội phạm.
Thứ ba, tính tương thích với luật quốc tế của pháp luật về quyền
NCTNPT
Trong bối cảnh toàn cầu hoá, pháp luật quốc gia không thể tách rời pháp
luật quốc tế - với ý nghĩa là hệ thống quy tắc xử sự đã được cộng đồng quốc
tế thừa nhận và áp dụng chung. Điều này đặc biệt đúng khi nói đến pháp luật
về quyền của NCTNPT.
Như đã đề cập ở những phần trên, quyền của NCTNPT ở các quốc gia
hiện nay phần lớn được xây dựng phù hợp các nguyên tắc, tiêu chuẩn của luật
nhân quyền quốc tế về vấn đề này. Có thể nói tính tương thích với các tiêu
chuẩn quốc tế về TPNCTN là một tiêu chí đánh giá sự tiến bộ của pháp luật
quốc gia về quyền của NCTNPT. Việc bảo đảm sự tương thích này không chỉ
giúp tăng cường tính hợp lý của pháp luật quốc gia, mà còn giúp làm giảm
nguy cơ xung đột pháp luật giữa các nước xuất phát từ những bất đồng về
quan niệm và cách giải quyết các vụ án NCTNPT.
Trong lĩnh vực quyền của NCTNPT, thông qua việc Việt Nam tham gia,
ký kết các điều ước quốc tế về quyền trẻ em, về NCTNPT, để phát huy đầy đủ
vai trò quan trọng của pháp luật trong việc bảo vệ, chăm sóc NCTN, Nhà
nước ta đã thể chế hóa quyền con người, quyền của NCTNPT thành các quy
50
định cụ thể trong hệ thống pháp luật, có các cơ chế đảm bảo cho các quy định
này được thực thi trên thực tế.
Thể chế hóa quyền của NCTNPT trong hệ thống pháp luật, không chỉ là
cụ thể hóa thành các quyền cụ thể mà còn bao hàm cả việc quy định các hình
thức, biện pháp xử lý những hành vi vi phạm quyền của các đối tượng này;
quy định tổ chức bộ máy hoạt động Nhà nước, chức năng, nhiệm vụ, quyền
hạn và trách nhiệm của các cơ quan nhà nước, tổ chức, cá nhân trong bộ máy
ấy; xây dựng hệ thống các thủ tục tố tụng hình sự mang tính đặc thù áp dụng
cho NCTNPT; cụ thể hóa các điều ước quốc tế về quyền của NCTNPT mà
Việt Nam đã tham gia, ký kết, hay phê chuẩn nhằm bảo vệ các đối tượng này
khi họ phải đối mặt với quá trình tố tụng chặt chẽ, nghiêm ngặt.
Thứ tư, tính khả thi của pháp luật về quyền của NCTNPT
Để những quy định trong pháp luật về quyền của NCTNPT được thực thi
trong đời sống xã hội khi các quy định về vấn đề này phù hợp với hệ thống
pháp luật hiện hành, với thực tế quyền con người, quyền công dân, cuộc đấu
tranh phòng chống tội phạm, truyền thống, văn hoá, phong tục, tập quán của
quốc gia. Nói cách khác, các quy định về quyền của NCTNPT khi xây dựng
phải đặt trong mối quan hệ hợp lý với các vấn đề thực tại về quyền con người,
quyền của người phạm tội, cũng như các quy định về tội phạm, hình phạt,
cách thức, mô hình xử lý hành vi phạm tội.
Khi các quy định về quyền của NCTNPT trong pháp luật không đầy đủ,
cụ thể và rõ ràng thì hậu quả chủ yếu là chúng sẽ tạo kẽ hở mà các chủ thể
tiến hành tố tụng không thực thi đầy đủ các quyền của NCTNPT. Trong khi
đó, tính không khả thi của các quy định này lại thường đưa các chủ thể nêu
trên vào tình trạng mà bản thân họ cũng không mong muốn.
Mục đích của việc quy định đầy đủ, toàn diện, rõ ràng để bất cứ NCTN
nào khi thực hiện hành vi phạm tội, cũng như khi đối mặt với cơ quan công
quyền phán xét về tính hợp pháp của hành vi, họ nhận thức được quyền, lợi
ích và cả những yêu cầu đối với họ. Thông qua các quy định đó, các chủ thể
51
có thẩm quyền giải quyết vụ án có NCTNPT xử sự phù hợp. Pháp luật về
quyền của NCTNPT được coi là có tính khả thi khi đáp ứng các yêu cầu:
Một là, các quy định về quyền của NCTNPT phải có nội dung phù hợp
với quan điểm, đường lối, chính sách chung về quyền con người và hệ thống
TPNCTN của quốc gia. Điều này nhằm phòng ngừa những xung đột ở tầm
chính sách làm cho các quy phạm về quyền của NCTNPT không được hoặc
không có khả năng thực hiện trên thực tế. Hệ thống các quy định về quyền
của NCTNPT thể chế hóa các quan điểm, đường lối của Đảng ta về bảo vệ,
chăm sóc, giáo dục NCTN qua từng thời kỳ.
Hai là, các quy định về quyền của NCTNPT phù hợp với các điều kiện
chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm nói
chung, tội phạm NCTN nói riêng ở thời điểm tồn tại của quốc gia. Tiêu chuẩn
này đặt ra nhằm bảo đảm rằng, các quy định về quyền của NCTNPT “đi vào
thực tế cuộc sống” và không bị thực tế cuộc sống đào thải.
Ba là, pháp luật về quyền của NCTNPT phải đi vào cuộc sống, mọi
người đều nhận thức được cách đầy đủ ý nghĩa và hiểu được nội dung của các
quy định để từ đó xử sự phù hợp với yêu cầu của pháp luật. Nghĩa là nội dung
các quy định cần rõ ràng, không chứa đựng những yêu cầu mập mờ, gây tranh
cãi, có thể áp dụng nhiều cách. Điều này là để mọi người, đặc biệt là
NCTNPT, các chủ thể liên quan đến giải quyết NCTNPT đều hiểu đầy đủ,
chính xác nội dung, ý nghĩa của các quy định, từ đó tuân thủ và thực thi.
Thứ năm, tính khoa học trong xây dựng quy phạm pháp luật về quyền
của NCTNPT
Việc xây dựng, ban hành các văn bản quy phạm pháp luật trong đó có
chứa đựng các quy phạm pháp luật về quyền của NCTNPT phản ánh nhu cầu
phát triển khách quan của xã hội; là vấn đề có ý nghĩa đối với sự phát triển
quyền con người, quyền công dân; là công cụ để bảo vệ con người, NCTNPT
và để hướng hành vi của các chủ thể trong quá trình giải quyết vấn đề
NCTNPT theo một trật tự phù hợp.
52
Xây dựng quy phạm pháp luật về quyền của NCTNPT là hoạt động
mang tính sáng tạo, là quá trình nhận thức các quy luật tâm, sinh lý, xã hội,
xác định vai trò quan trọng của các quan hệ xã hội thuộc lĩnh vực quyền con
người, quyền công dân gắn với đối tượng cụ thể vừa có yếu tố bảo vệ
(NCTN) vừa có yếu tố trừng trị (phạm tội). Thông qua việc sử dụng các quy
tắc đặc thù của kỹ thuật lập pháp, nhà nước đặt ra các quy tắc, chuẩn mực
mang tính bắt buộc chung trong các quy định về quyền của NCTNPT. Để
pháp luật về quyền của NCTNPT có tính khoa học, cần đáp ứng các vấn đề:
Một là, nghiên cứu một cách toàn diện, sâu sắc các quy luật tâm, sinh lý,
xã hội của nhóm đối tượng là NCTNPT để từ đó rút ra những giá trị chuẩn
mực có ý nghĩa đối với quyền của NCTNPT. Điều này giúp cho nội dung của
pháp luật về quyền của NCTNPT đáp ứng được yêu cầu về sự phù hợp, đồng
bộ, cụ thể và khả thi.
Hai là, tính khoa học trong pháp luật về quyền của NCTNPT thể hiện
những nguyên tắc tối ưu được vạch ra để áp dụng trong thực tiễn; xác định
2.3. PHÁP LUẬT QUỐC TẾ, PHÁP LUẬT CỦA MỘT SỐ QUỐC GIA
VỀ QUYỀN CỦA NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN PHẠM TỘI VÀ NHỮNG
GIÁ TRỊ CÓ THỂ VẬN DỤNG Ở VIỆT NAM
chính xác cơ cấu của quy phạm pháp luật; cách biểu đạt bằng ngôn ngữ pháp
lý có tính cô đọng, logic, chính xác và đơn nghĩa. Với yêu cầu này đòi hỏi
việc xây dựng các quy định của pháp luật về quyền của NCTNPT phải tuân
thủ chặt chẽ các động tác, thủ tục cần thiết của các chủ thể lập pháp.
2.3.1. Pháp luật quốc tế về quyền của người chưa thành niên phạm tội
Có nhiều điều ước quốc tế về quyền của NCTN ra đời trong hơn nửa thế
kỷ qua và việc tăng cường bảo vệ các quyền của NCTNPT cũng là một khía
cạnh quan trọng trong hoạt động của các cơ quan và chương trình của LHQ.
Trong các điều ước quốc tế và các chương trình của LHQ về vấn đề trẻ em sử
dụng đồng thời cả hai khái niệm trẻ em và NCTN. Trong một số văn bản, khái
niệm trẻ em được gọi là NCTN hoặc thanh, thiếu niên. Trong quan hệ với
pháp luật và thực thi pháp luật, trẻ em thường được gọi là NCTN.
53
Nội dung các điều ước trên có tính đến sự đa dạng và cơ cấu pháp luật
của các quốc gia, phản ánh mục đích và tinh thần giải quyết vấn đề NCTNPT.
Quy tắc Bắc Kinh chỉ ra những mục đích của việc áp dụng pháp luật với
NCTN và việc xử lý đối với NCTNPT luôn xem xét tới điều kiện hoàn cảnh
của NCTN và mức độ của tội phạm. Liên quan đến thủ tục xét xử, quy tắc này
cho rằng, một NCTN bị quy là phạm tội được hưởng quyền xử lý đúng theo
luật định và quyền được hưởng sự đối xử đặc biệt, kể cả sự cần thiết phải tiến
hành tố tụng trong một bầu không khí hiểu biết, bảo đảm sự có mặt của cha
mẹ, tôn trọng quyền riêng tư của NCTN; yêu cầu phải có những người được
đào tạo chuyên sâu tham gia tố tụng để giải quyết vụ án. Quy tắc của LHQ về
bảo vệ NCTN bị tước quyền tự do quy định các nguyên tắc cụ thể áp dụng đối
với tất cả các hình thức giam giữ; phải tách riêng những NCTN và người lớn
trong cùng các cơ sở giam giữ. Đồng thời nhấn mạnh việc bảo vệ NCTN bị
tước quyền tự do không chỉ xác định các quyền mà còn quy định cách đối xử
với họ khi phạm tội. Sự tôn trọng các quyền của NCTN cũng là bộ phận
khăng khít của công tác quản lý, giáo dục người phạm tội chưa thành niên .
Pháp luật và thông lệ quốc tế đã quy định một khuôn khổ pháp lý cụ thể
về vấn đề NCTN vi phạm pháp luật hình sự. Mục đích của việc đưa ra những
quy định này nhằm xác định những tiêu chuẩn tối thiểu bắt buộc về những
quyền phải được tôn trọng đối với NCTNPT.
Trong Công ước quyền trẻ em tại Điều 37 và Điều 40 quy định các
quyền và bảo vệ cơ bản bắt buộc áp dụng dành cho NCTN như: Cấm sử dụng
nhục hình hoặc bất cứ biện pháp xử lý hình phạt tàn nhẫn, vô nhân đạo, hoặc
hạ thấp nhân phẩm đối với NCTNPT; không áp dụng hình phạt tử hình hoặc
tù chung thân đối với các hành vi phạm tội do người chưa đủ 18 tuổi thực
hiện [35, Điều 37].
Cũng tại Điều 40 của Công ước này quy định quyền của NCTNPT và
thiết lập những bảo vệ và tiêu chuẩn cho việc quản lý như: NCTNPT được đối
xử theo cách thức phù hợp về nhân cách và phẩm giá, tăng cường sự tôn trọng
đối với các quyền con người và tự do cơ bản của người khác (có tính đến lứa
54
tuổi); Quyền của NCTNPT được tôn trọng suốt quá trình khởi tố, điều tra, truy
tố, xét xử và thi hành án. Sự bảo vệ cơ bản này bao gồm các quyền như: Được
giả định vô tội cho tới khi bị chứng minh rằng đã phạm tội theo pháp luật;
Được thông báo nhanh chóng và trực tiếp về những điều bị buộc tội; Được trợ
giúp pháp lý hoặc những giúp đỡ thích hợp khác để chuẩn bị và trình bày lý lẽ
bào chữa của mình; Không bị ép buộc phải khai hoặc nhận tội, được thẩm vấn
hoặc nhờ người thẩm vấn những người làm chứng chống lại mình, được mời và
thẩm vấn những người làm chứng cho mình; Quyền đòi hỏi một nhà chức trách
hoặc một cơ quan tư pháp có thẩm quyền cao hơn, độc lập, vô tư xét lại phán
quyết cũng như những biện pháp bị áp dụng theo quy định của pháp luật; Được
giúp đỡ không mất tiền của một người phiên dịch; Quyền riêng tư của
NCTNPT được tôn trọng đầy đủ trong suốt quá trình tố tụng.
Công ước quyền trẻ em cũng quy định các quốc gia thành viên xác định
một độ tuổi tối thiểu mà dưới độ tuổi đó, NCTN được coi là không có khả
năng phạm tội để hình thành các biện pháp xử lý với những đối tượng này mà
không cần đến các thủ tục tư pháp, với điều kiện các quyền con người và
những bảo vệ cơ bản về pháp lý được tôn trọng đầy đủ. Công ước này yêu cầu
các quốc gia thành viên có những biện pháp khác nhau như buộc tiếp nhận
chăm sóc, chỉ dẫn, giám sát, tham vấn, thử thách, đỡ đầu, các chương trình
giáo dục và dạy nghề hay các biện pháp thay thế khác để thay thế chăm sóc
tập trung, nhằm đảm bảo NCTNPT được đối xử phù hợp với phúc lợi và
tương xứng với hoàn cảnh cá nhân và hành vi phạm tội của họ [35, Điều 40].
Cùng với Công ước quyền trẻ em, có các quy định khác về phòng ngừa
và đối xử với những NCTNPT, gồm:
Thứ nhất, Quy tắc tối thiểu phổ biến của LHQ về việc áp dụng pháp luật
đối với NCTN (Quy tắc Bắc Kinh).
Quy tắc Bắc Kinh quy định hoạt động tư pháp đối với NCTN phải chú
trọng đến phúc lợi và phải bảo đảm đối xử phù hợp với tính cách và tội phạm
mà người đó gây ra. Những biện pháp thay thế khác bên ngoài sự chăm sóc
55
của các cơ quan và tổ chức trong thể chế phải nhằm đảm bảo cho NCTNPT
được đối xử một cách phù hợp với phúc lợi và tương xứng với tình cảm và tội
phạm mà đối tượng đã thực hiện. Quy tắc này yêu cầu vấn đề hạnh phúc và sự
cải tạo của NCTNPT phải là mục đích chính. Những hình thức như răn đe
được xem xét để quyết định thời hạn của bản án áp dụng đối với NCTNPT
trong thời hạn không quá dài, không phù hợp với phúc lợi và việc cải tạo.
Một đóng góp quan trọng khác của Quy tắc Bắc Kinh là sự thừa nhận
việc xử lý NCTNPT mà không cần phải đưa ra toà án. Cần cân nhắc, suy tính
bất cứ khi nào thích hợp để xử lý NCTNPT không dùng đến hình thức xét xử
chính thức (quy tắc số 11); Việc miễn TNHS nhằm tránh đưa NCTNPT ra toà
vì việc xét xử có thể gây chấn thương về tâm lý và mặc cảm xấu hổ.
Liên quan đến quyền của NCTNPT trong thủ tục xét xử, Quy tắc khẳng
định, NCTN bị quy là phạm tội được hưởng quyền được xử lý đúng theo pháp
luật và quyền được hưởng sự đối xử đặc biệt, tôn trọng những quyền riêng tư;
yêu cầu phải có những người được đào tạo chuyên sâu để giải quyết vụ án.
Quy tắc đã đưa ra chính sách xét xử khi xét xử NCTNPT là: Hình thức
giam giữ để chờ xét xử chỉ được sử dụng như là biện pháp cuối cùng, trong
thời gian ngắn nhất có thể [36, 13(1)]; không một NCTNPT nào bị tách khỏi
sự giám sát của cha mẹ, trừ khi điều đó cần thiết phải làm như vậy [37,
18(2)]; việc đưa NCTNPT vào một trại giam luôn là biện pháp cuối cùng và
trong thời hạn tối thiểu cần thiết [34, 9].
Thứ hai, Hướng dẫn của LHQ về phòng ngừa phạm pháp ở NCTN
(Hướng dẫn Riát).
Hướng dẫn Riát đưa ra cách tiếp cận phòng ngừa tội phạm tích cực và
toàn diện, trong đó coi NCTN là trung tâm. Cách tiếp cận này hướng tới giải
quyết các nguyên nhân xã hội căn bản dẫn đến hành vi phạm tội của NCTN.
Theo đó, phòng ngừa NCTNPT bao gồm việc giải quyết các hoàn cảnh tiêu
cực của NCTN thông qua cơ quan chức năng và cơ chế kiểm soát xã hội, dựa
vào việc tích cực thúc đẩy sự phát triển và phúc lợi của NCTN từ khi còn nhỏ.
56
Chiến lược phòng ngừa NCTNPT tốt nhất là có nhiều biện pháp để thúc đẩy
quyền của NCTN và tăng cường sự phát triển cộng đồng. Để làm được điều
này cần đầu tư vào giáo dục, dạy nghề, tạo việc làm cho NCTN phù hợp với
kinh tế thị trường và sở thích cá nhân. Việc này đòi hỏi phải có sự hợp tác
giữa các cơ quan nhà nước và tổ chức phi chính phủ hoạt động trên các lĩnh
vực tư pháp, phúc lợi xã hội, y tế, sức khỏe, giáo dục, lao động và việc làm.
Thứ ba, Quy tắc của LHQ về việc bảo vệ NCTN bị tước tự do.
Quy tắc này đưa ra các hướng dẫn đầy đủ và toàn diện về điều kiện và
việc đối xử với NCTNPT bị tước tự do. Quy tắc này được áp dụng với tất cả
những NCTN bị đưa vào các cơ sở quản lý giáo dục tập trung (trại giam, trại
cải tạo, trung tâm giáo dục) theo lệnh của bất kỳ cơ quan tư pháp, hành chính
hoặc cơ quan công quyền nào.
Trọng tâm của Quy tắc này là đảm bảo việc tước tự do không dẫn đến vi
phạm hoặc tước các quyền khác mà NCTNPT được hưởng theo Công ước
quyền trẻ em. Quy tắc này nhấn mạnh: NCTNPT bị tước tự do có quyền sử
dụng những phương tiện và dịch vụ đáp ứng tất cả các yêu cầu về sức khỏe và
phẩm giá con người; NCTNPT bị tước tự do có quyền được cung cấp đầy đủ
thực phẩm, nước uống sạch, chỗ ngủ sạch sẽ, quần áo phù hợp với thời tiết,
cũng như việc phòng bệnh và chữa bệnh; NCTNPT bị tước tự do được tiếp
cận các hoạt động vui chơi giải trí có ý nghĩa cho việc phục hồi, tái hòa nhập
và phát triển của mình; NCTNPT bị tước tự do có quyền hưởng sự giáo dục
và được đào tạo nghề để chuẩn bị việc làm trong tương lai; Nhân viên ở các
cơ sở quản lý giáo dục tập trung được đào tạo về cách đối xử phù hợp với
NCTNPT bị tước tự do; NCTNPT bị tước tự do được hỗ trợ khi họ trở về với
gia đình và xã hội, được tạo điều kiện đi học và tìm việc làm sau khi chấp
hành xong biện pháp giáo dục.
2.3.2. Pháp luật của một số nước trên thế giới về quyền của người
chưa thành niên phạm tội
Thực tế các quốc gia trên thế giới cho thấy đều tồn tại hiện tượng
NCTNPT. Mỗi quốc gia giải quyết vấn đề này theo những mức độ, cách thức
57
khác nhau tuỳ thuộc vào những điều kiện, tập quán, pháp luật của mỗi nước.
Cùng với luật pháp quốc tế về NCTNPT, các quốc gia trên thế giới đã đưa ra
các quy định về quyền của NCTNPT phù hợp với điều kiện kinh tế, văn hoá,
xã hội, phong tục, tập quán, pháp luật của mỗi nước.
Thứ nhất, pháp luật Thái Lan về quyền của NCTNPT
Ở Thái Lan, ngày 28/1/1952, Thái Lan đã thành lập Toà án NCTN trung
ương. Mục đích của việc thành lập Toà án này là dành cho trẻ em và những
NCTN dưới 18 tuổi một biện pháp xử lý đặc biệt khi họ vi phạm pháp luật
hình sự. Tuy nhiên, thẩm quyền của Toà án NCTN còn được phép giải quyết
một số trường hợp tranh chấp gia đình liên quan tới hạnh phúc và lợi ích của
trẻ em và NCTN. Theo Điều 72 BLHS Thái Lan năm 2003, một đứa trẻ chưa
đến 7 tuổi cũng bị áp dụng hình phạt vì những tội đã được pháp luật quy định.
Trẻ em từ 7 đến 14 tuổi nếu phạm tội cũng bị xét xử và có thể chịu hình phạt
tù nhưng Toà án sẽ quyết định biện pháp xử lý đặc biệt bằng cách đưa vào
một trường cải tạo hoặc gửi trẻ em đó cho một người hay một cơ quan nào mà
Toà án thấy có khả năng thích hợp với việc cải tạo, giáo dục trẻ em đó [104,
Điều 72].
NCTN từ 14 đến 17 tuổi có thể bị phạt và được hưởng hình phạt đặc
biệt. Trong trường hợp ở độ tuổi này, trước khi xét xử, tuyên án, Toà án bao
giờ cũng xem xét kỹ hoàn cảnh, nhân thân và môi trường của người đó [104,
Điều 75]. NCTNPT bị bắt, phải được đưa ngay tới trại giam giữ trong vòng
24 giờ và trong vòng 30 ngày tạm giữ công tố viên phải hoàn thành thủ tục và
đưa ra xét xử tại Toà án NCTN (Điều 50 và 51 Luật tổ chức Toà án NCTN và
gia đình 1991 Thái Lan). Trong quá trình giam giữ NCTNPT vẫn được chăm
sóc và bảo vệ tốt. Các em được chăm sóc và kiểm tra sức khoẻ không mất
tiền. Cơ quan điều tra sẽ tiến hành điều tra hoàn cảnh gia đình, môi trường
sống... liên quan đến đối tượng này. Những hoạt động này được tiến hành
nhanh chóng nhằm giải quyết những vấn đề liên quan đến việc tước quyền tự
do chưa chính thức của NCTNPT; đồng thời có những thông tin chính xác về
nhân thân của đối tượng này giúp cho công tác xét xử, cải tạo hiệu quả.
58
Hội đồng xét xử NCTNPT gồm hai thẩm phán, hai hội thẩm nhân dân và
bắt buộc một trong hai hội thẩm phải có một hội thẩm là nữ. Phiên toà xét xử
phải được xử kín và chỉ có những đối tượng sau mới được tham dự phiên xét
xử: NCTN với tư cách bị cáo; người bào chữa; cha mẹ hoặc người giám hộ;
cán bộ toà án; công tố viên; bị hại; nhân chứng; người phiên dịch; cán bộ
công tác xã hội; người khác được toà cho phép. Tuỳ theo điều kiện cụ thể, có
thể kháng cáo, kháng nghị lên phiên toà NCTN của Toà phúc thẩm. Thủ tục
tố tụng của Toà án NCTN ở Thái Lan cũng đòi hỏi phải có cán bộ chuyên sâu
hơn như các nhà tâm lý, y tế, giám sát, công tác xã hội. Mục đích tố tụng với
các đối tượng này là tạo cơ hội sửa chữa, thay đổi hành vi và mong muốn sau
cùng là giúp họ trở thành những công dân tốt cho xã hội chứ không nhằm vào
mục đích xử phạt NCTNPT như xử phạt người đã thành niên phạm tội.
Trước đây, pháp luật hình sự Thái Lan quy định áp dụng hình phạt tử
hình đối với NCTN trên 17 tuổi phạm tội. Năm 2003, Thái Lan sửa đổi quy
định trên theo hướng cấm tuyên án tử hình hoặc tù chung thân đối với người
chưa đủ 18 tuổi vào thời điểm thực hiện hành vi phạm tội. Mức phạt tù tối đa
dành cho đối tượng này là 50 năm tù. Trong trường hợp người phạm tội dưới
18 tuổi nếu bị kết án tử hình hoặc tù chung thân, hình phạt dành cho họ sẽ tự
động giảm xuống còn 50 năm tù.
Thứ hai, pháp luật Trung Quốc về quyền của NCTNPT
Điều 44 BLHS năm 1979 của Trung Quốc quy định không áp dụng hình
phạt tử hình đối với những người chưa đủ 18 tuổi vào thời điểm thực hiện
hành vi phạm tội. Tuy nhiên, người từ đủ 16 tuổi nhưng chưa đủ 18 tuổi phạm
tội đặc biệt nghiêm trọng vẫn có thể bị kết án tử hình và bản án tử hình sẽ
được “treo” trong thời hạn hai năm. Nếu phạm nhân thực sự hối hận về hành
vi phạm tội của mình thì khi hết hai năm, án tử hình sẽ được giảm xuống
thành tù chung thân. Nếu phạm nhân vừa thực sự hối hận, vừa lập được thành
tích, hình phạt sẽ được giảm xuống tù có thời hạn với mức tối thiểu là 15 năm
và tối đa là 20 năm, tính từ sau khi hết thời hạn hai năm. Trong trường hợp có
59
bằng chứng cho thấy phạm nhân chống lại việc cải tạo một cách rõ ràng thì
hình phạt tử hình sẽ được thực hiện.
Đến năm 1997, tại điều 49 BLHS (đã sửa đổi) của Trung Quốc đã cấm
áp dụng hình phạt tử hình đối với người chưa đủ 18 tuổi vào thời điểm thực
hiện hành vi phạm tội. Sửa đổi này của pháp luật hình sự Trung Quốc phù
hợp với yêu cầu quốc tế, bởi nước này đã phê chuẩn Công ước quyền trẻ em
vào ngày 31/1/1992 [122]. Để bảo đảm quyền của NCTNPT, Luật tố tụng
hình sự Trung Quốc ghi nhận các quyền và nghĩa vụ cho người tham gia tố
tụng theo trình tự tố tụng hình sự và theo từng loại người tham gia tố tụng.
Theo đó, NCTNPT khi bị bắt, bị tạm giữ, bị điều tra, truy tố và xét xử có
quyền: bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa; được yêu cầu hủy bỏ các
biện pháp bắt buộc; được thông báo kết luận giám định; được hỏi người làm
chứng và người giám định; ...
Thứ ba, pháp luật Nhật Bản về quyền của NCTNPT
Tuổi thành niên của người Nhật Bản theo luật định là 20 tuổi. Mặc dù vậy,
Nhật Bản vẫn quy định NCTN ở độ tuổi 18, 19 cũng có thể bị tuyên án tử hình
khi phạm tội. Quy định này phù hợp với Công ước của LHQ về quyền trẻ em
lẫn Công ước về các quyền dân sự và chính trị mà Nhật Bản là thành viên.
Ở Nhật Bản, Luật NCTN quy định, phân toà NCTN của Toà án gia đình
giải quyết các vụ việc liên quan đến người dưới 20 tuổi. Mục đích của Luật
này là không trừng phạt những NCTNPT mà "giúp đỡ cho họ phát triển tốt,
tiến hành những biện pháp bảo vệ để thay đổi tính cách của NCTNPT và
tạo ra một môi trường giáo dục để điều chỉnh NCTN đã chót mắc phải sai
lầm” [133].
Luật tố tụng hình sự của Nhật Bản quy định việc điều tra thuộc chức
năng của cảnh sát và cơ quan công tố. Nếu Toà án xét thấy cần có biện pháp
chăm sóc, bảo vệ thì thẩm phán ra quyết định đưa NCTNPT vào trại giam chờ
ngày xét xử. Thời hạn tạm giam không quá 4 tuần. Trong thời gian 4 tuần,
Toà án phải hoàn tất những thủ tục cần thiết để đưa ra xét xử. Ở Nhật Bản
không có thủ tục riêng cho việc truy tố và xét xử NCTNPT. Theo Luật
60
NCTN, thì công tố viên không có quyền tham gia xét xử tại các Toà án gia
đình. Tuy nhiên, thẩm phán có thể cho phép công tố viên tham dự và khi cần
thiết có thể yêu cầu công tố viên tiến hành điều tra thêm.
Ở Nhật Bản cho phép NCTNPT khi bị đưa ra xét xử tại Toà án gia đình,
có một hoặc hai người đại diện tham gia phiên tòa. Người đại diện không phải
là luật sư bào chữa như trong phiên toà xét xử người đã thành niên. Người đại
diện này không nhất thiết phải là luật sư, có thể là giáo viên hoặc người
làm công tác xã hội... Luật không quy định chi tiết các bước tiếp theo cần
tiến hành như thế nào mà chỉ đưa ra quy định chung rằng, Toà án gia đình
phải tiến hành xét xử trên cơ sở "chân tình, có lợi" cho NCTNPT và "cần
có mọi cố gắng để bảo vệ cho được những thuộc tính cao đẹp nhất của
nhóm đối tượng này và để cho họ có niềm tin" và việc xét xử cần tiến hành
công khai [133].
Quyền của NCTNPT trong luật tố tụng hình sự của Nhật Bản được thể
hiện ở một số khía cạnh sau: Một, quyền được pháp luật bảo vệ và tạo thuận
lợi cho sự tự bảo vệ khỏi sự xâm phạm trái pháp luật tự phía các cơ quan tiến
hành tố tụng. Theo đó đã ghi nhận nguyên tắc tranh tụng nhằm bảo đảm việc
buộc tội NCTNPT được khách quan, hạn chế việc làm oan người vô tội nhất
là đối tượng trẻ tuổi; Hai, việc tạm giữ, tạm giam NCTNPT phải tuân thủ triệt
để về thời hạn, các quy định về trình tự, thủ tục giam, giữ; Ba, quyền im lặng
và quyền từ chối khai báo; Bốn, quyền được tự bảo vệ và nhờ người khác bảo
vệ; Năm, quyền được coi là vô tội cho đến khi hành vi phạm tội được xác
định trong một phiên xử công khai; được tôn trọng những giá trị con người
nói chung; được tôn trọng, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của công dân
khi tham gia tố tụng hình sự. Ngoài ra, NCTNPT có các quyền cụ thể khác
quy định cho các đối tượng phạm tội.
Thứ tư, pháp luật Cộng hoà Pháp về quyền của NCTNPT
Quyền của NCTNPT được thể hiện cụ thể trong luật hình sự và luật tố
tụng hình sự Cộng hoà Pháp. Chế định TNHS của NCTNPT luôn gắn liền với
chế định thẩm phán vị thành niên (thẩm phán xét xử các vụ án có NCTNPT).
61
Ở Pháp, hệ thống các cơ quan tư pháp chịu trách nhiệm điều tra, truy tố
và xét xử vụ án có NCTNPT đã xuất hiện từ cuối thế kỉ thứ XIX nhưng phải
đến những năm đầu của thế kỉ XX thì toà án vị thành niên - chế định pháp lý
hình sự chuyên biệt đầu tiên chịu trách nhiệm về các vụ án hình sự do NCTN
thực hiện mới chính thức ra đời (năm 1912). Vào năm 1940, thẩm phán vị
thành niên - một chế định tố tụng hình sự của Pháp mới xuất hiện. Luật cho
phép trong trường hợp khẩn cấp, thẩm phán vị thành niên còn có thể hỏi trực
tiếp về tình trạng gia đình hoặc hoàn cảnh cá nhân của NCTN mà không cần
tuân thủ các quy định được quy định tại điều 114 BLTTHS Cộng hoà Pháp.
Hoạt động xét xử của thẩm phán vị thành niên được tiến hành theo hai
phương thức: xét xử theo hình thức giản đơn (rút gọn) hoặc là tiến hành xét
xử tập thể dưới hình thức toà án vị thành niên. Khi xét xử tập thể, chủ toạ có
quyền cho phép NCTNPT vắng mặt một phần hoặc toàn bộ trong quá trình
xét xử. Thẩm phán chủ tọa cũng có quyền hạn chế sự tham gia của những
người không liên quan. Pháp luật của Cộng hòa Pháp còn quy định cụ thể các
điều kiện công bố các chứng cứ thu thập được trong quá trình điều tra vụ án
như băng ghi âm, ghi hình; việc công bố bản án, họ tên thật của bị cáo đều
được quy định theo hướng có lợi cho NCTN. Những biện pháp phòng ngừa có
thể áp dụng đối với NCTNPT gồm: (1) giao lại cho cha mẹ hoặc người đỡ
đầu; (2) đưa vào trung tâm giáo dục; (3) đưa vào trung tâm y tế, giáo dục; (4)
đặt dưới sự trợ giúp tư pháp hoặc đưa vào các cơ sở riêng biệt dành cho trẻ
em phạm tội ở độ tuổi học sinh.
Trẻ em dưới 10 tuổi thực hiện hành vi phạm tội, toà án NCTN có thể
tuyên một hay nhiều biện pháp có tính chất giáo dục, phòng ngừa như tịch thu
công cụ, phương tiện phạm tội hoặc tài sản do phạm tội mà có mà người đó
đang tàng trữ hay sở hữu; cấm xuất hiện tại nơi mà hành vi phạm tội đã được
thực hiện trong thời gian không quá 1 năm trừ trường hợp đó là nơi sinh sống;
cấm gặp gỡ tiếp xúc trong thời hạn không quá 1 năm với nạn nhân, với những
đồng phạm; thực hiện các biện pháp có tính chất giúp đỡ, sửa chữa; buộc phải
theo những lớp học thực hành nghề nghiệp.
62
Với những người phạm tội 13 tuổi, các biện pháp có thể áp dụng là: Giao
lại cho cha mẹ hoặc người thân; đưa vào trung tâm giáo dục hoặc đào tạo
nghề; đưa vào trung tâm y tế; đưa vào trung tâm giáo dục, cải tạo. Đối với
những người từ đủ 13 tuổi đến dưới 18 tuổi, Toà án NCTN có thể áp dụng
hình phạt tước tự do. Mức hình phạt được áp dụng đối với NCTNPT không
vượt quá ½ mức phạt tù mà luật quy định. Nếu hình phạt quy định là tù chung
thân thì hình phạt cao nhất được tuyên không vượt quá 20 năm tù.
Trường hợp NCTN từ 13 tuổi đến dưới 18 tuổi bị kết án và bị tuyên phạt
hình phạt tù nhưng cho hưởng án treo có thử thách thì thẩm phán vị thành
niên tại nơi mà người bị kết án sinh sống sẽ thực hiện các quyền của thẩm
phán thi hành án (Điều 739, 741(2) BLTTHS Cộng hoà Pháp) cho đến khi hết
thời gian thử thách. Thẩm phán vị thành niên có quyền chấm dứt việc cho
hưởng án treo trong trường hợp người bị kết án vi phạm điều kiện thử thách
mà toà án đã áp dụng.
Thứ năm, pháp luật Hoa Kỳ về quyền của NCTNPT
Mặc dù không có hệ thống Toà án NCTN thống nhất cho toàn liên bang,
song ở Hoa Kỳ có một số bang đã xây dựng và vận hành hệ thống toà án
NCTN riêng của mình. Chính quyền liên bang tác động đến chính sách đối
với NCTNPT của các bang bằng cách đặt ra các điều kiện chung đi kèm với
những khoản ngân sách mà liên bang cấp cho chính quyền các bang. Hiện tại,
đã có một số bang thành lập Toà án NCTN để chuyên trách việc bảo vệ quyền
của NCTNPT. Một số bang thì đang thử nghiệm mô hình Toà án gia đình phụ
trách cả việc giải quyết các vụ án có NCTNPT.
Năm 1988, Hoa Kỳ bãi bỏ án tử hình đối với người dưới 16 tuổi phạm
tội, độ tuổi chịu TNHS được quy định khác nhau giữa các bang. Chỉ có 13
tiểu bang đã thiết lập độ tuổi tối thiểu, khoảng từ 6 đến 14 tuổi.
Hoa Kỳ hiện là một trong hai nước còn lại trên thế giới (cùng với Sô-ma-
li) chưa phải là thành viên Công ước quyền trẻ em, vì vậy không phải chịu sự
ràng buộc của Công ước trong việc xóa bỏ hình phạt tử hình với NCTNPT.
Tuy nhiên, vào năm 1988, Tòa án Tối cao Hoa Kỳ đã ra phán quyết bãi bỏ
63
hình phạt tử hình đối với người dưới 16 tuổi phạm tội. Ở thời điểm năm 2013,
có 32 bang ở Hoa Kỳ vẫn áp dụng hình phạt tử hình [132], trong đó một số
bang cho phép tử hình người dưới 18 tuổi phạm tội. Tính từ tháng 1/1973 đến
tháng 4/2003, có 22 NCTN bị tử hình, trong đó, chỉ có một người thực hiện
hành vi phạm tội vào năm 16 tuổi, số còn lại phạm tội vào năm 17 tuổi. Về
sau, còn 19 bang áp dụng hình phạt tử hình dành cho người dưới 18 tuổi.
Theo Tổ chức Ân xá Quốc tế, kể từ khi Tuyên ngôn về quyền con người
được thông qua, hơn một nửa số quốc gia trên thế giới đã bãi bỏ án tử hình.
Thế nhưng Hoa Kỳ vẫn chưa thông qua quy định cấm áp dụng hình phạt tử
hình dành cho NCTNPT. Khoản 5 Điều 6 Công ước Quốc tế về quyền dân sự
và chính trị (có hiệu lực năm 1976) quy định không được phép tuyên án tử
hình với người phạm tội dưới 18 tuổi. Hoa Kỳ đã ký công ước này nhưng lại
bảo lưu điều khoản trên. Vì vậy, Tòa án Tối cao Hoa Kỳ vẫn cho phép các
bang tiếp tục sử dụng án tử hình. Hơn 10 quốc gia đã lên tiếng phản đối, yêu
cầu Hoa Kỳ rút bảo lưu nhưng nước này vẫn từ chối. Tháng 3/2005, Tòa án
Tối cao Hoa Kỳ mới quyết định sửa luật theo hướng cấm tử hình người thực
hiện hành vi phạm tội khi chưa đủ 18 tuổi. Những người bỏ phiếu thuận cho
rằng khi NCTN thực hiện một tội ác nào đó thì nhà nước có thể tước bỏ của
họ một số quyền tự do cơ bản nhất, nhưng không được dập tắt cuộc sống của
họ. Theo Tòa án Tối cao Hoa Kỳ, hình phạt tử hình dành cho NCTNPT là độc
ác và bất thường. Việc bãi bỏ án tử hình đối với các đối tượng này thể hiện sự
đồng thuận với các quốc gia chống lại án tử hình dành cho NCTNPT. Với
phán quyết này, 72 người tại 12 bang của Hoa Kỳ đã thoát án tử hình do thực
hiện hành vi phạm tội khi chưa đủ 18 tuổi.
Thứ sáu, pháp luật New Zealand về quyền của NCTNPT
Nghị viện New Zealand thông qua Đạo luật về Trẻ em, Thanh thiếu niên
và Gia đình từ năm 1989. Đạo luật này điều chỉnh các vấn đề liên quan đến
chăm sóc và bảo vệ trẻ em và NCTN có hoàn cảnh đặc biệt, bao gồm cả
NCTNPT. Mục đích của việc ban hành đạo luật này là để nội luật hóa Công
ước quyền trẻ em cũng như tích hợp những yếu tố luật tục tốt đẹp về chăm
64
sóc, bảo vệ trẻ em của cộng đồng thổ dân vào luật pháp New Zealand. Vì vậy,
trong đạo luật này, ngoài những nguyên tắc và tiêu chuẩn quốc tế nền tảng về
TPNCTN, một số luật tục của cộng đồng thổ dân như các biện pháp họp gia
đình, cộng đồng để giải quyết các mâu thuẫn có liên quan tới NCTNPT và
nhiều biện pháp khác về chăm sóc và bảo vệ các đối tượng này đã được ghi
nhận. Nhiều nước trên thế giới (có Thái Lan) đã kế thừa những biện pháp này.
Độ tuổi tối thiểu chịu TNHS ở New Zealand quy định là 10 tuổi, nhưng
Toà Thanh thiếu niên chỉ có quyền tài phán đối với người từ đủ 14 tuổi tới 16
tuổi. Đạo luật này cũng quy định một số nguyên tắc tư pháp Thanh thiếu niên
nhằm hướng dẫn quá trình ra quyết định của các bên liên quan như: (i) không
áp dụng xử lý hình sự nếu vẫn có thể áp dụng một phương án thay thế để giải
quyết vấn đề; (ii) không áp dụng xử lý hình sự để đạt được mục đích phúc lợi;
(iii) các biện pháp xử lý NCTNPT nên hỗ trợ cho cả gia đình và giúp xây
dựng các kỹ năng xử lý hành vi vi phạm của con cái họ; (iv) các đối tượng
này có quyền được bảo vệ đặc biệt trong suốt quá trình điều tra, tố tụng.
Cảnh sát đóng vai trò quan trọng trong việc áp dụng xử lý chuyển hướng
và làm giảm số vụ việc chuyển tới Toà Thanh thiếu niên để xét xử chính thức.
Toà Thanh thiếu niên là một nhánh thuộc hệ thống Toà án cấp thành phố và
các Thẩm phán là những chuyên gia có kinh nghiệm xử lý các vụ án có
NCTNPT. Nếu NCTNPT không có luật sư, Toà án phải chỉ định luật sư cho
họ. Quá trình xét xử của Toà án Thanh thiếu niên là xét xử kín nhằm bảo vệ
quyền riêng tư của NCTNPT. Toà án có quyền tự chủ trong việc lựa chọn áp
dụng nhiều quyết định liên quan đến NCTNPT như: tha bổng, buộc chịu giám
sát, buộc lao động phục vụ cộng đồng, khắc phục hậu quả, khiển trách, tước
một số quyền công dân, hoặc chuyển NCTNPT sang toà án cấp thành phố để
áp dụng các biện pháp như với người trưởng thành [9].
2.3.3. Những kinh nghiệm trong pháp luật về quyền của người chưa
thành niên phạm tội ở các nước có thể vận dụng vào pháp luật Việt Nam
Ở mỗi quốc gia, tuỳ thuộc vào sự phát triển kinh tế - xã hội, lịch sử lập
pháp, truyền thống và các yếu tố về tâm - sinh lý của con người, tình hình
65
phạm tội và yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm ở NCTN mà có những
quy định về độ tuổi, mức độ chịu TNHS, thủ tục, cách thức xử lý hành vi
phạm tội... của các đối tượng này khác nhau. Song không thể phủ nhận một
điều là mục đích xem xét, xử lý hành vi phạm tội của của NCTN nhằm tạo
điều kiện tốt nhất để họ sửa chữa sai lầm, phấn đấu trở thành người có ích cho
xã hội. Pháp luật của các nước đều hướng tới bảo vệ NCTNPT từ mọi góc độ.
Qua nghiên cứu khái quát pháp luật quyền của NCTNPT của một số
nước, những kinh nghiệm có thể tiếp thu, tham khảo có chọn lọc để vận dụng
ở Việt Nam như sau:
Thứ nhất, pháp luật về quyền của NCTNPT được quy định thời hạn tiến
hành tố tụng và thủ tục rút gọn
Hầu hết pháp luật các nước đều có những quy định riêng về thời hạn tiến
hành các hoạt động tố tụng đối với NCTNPT như ở Pháp còn có các quy định
khống chế thời gian lấy lời khai đối với NCTNPT. Theo đó, không được phép
lấy lời khai của NCTNPT liên tục quá 2 giờ và tổng thời gian không được quá
4 giờ trong một ngày.
Thủ tục rút gọn trong tố tụng hình sự không phải là vấn đề mới mẻ trong
khoa học pháp lý. Thủ tục này với các hình thức khác nhau được áp dụng
tương đối phổ biến ở nhiều quốc gia trên thế giới, tuy nhiên chưa được áp
dụng trên thực tế ở Việt Nam. Đây là một kinh nghiệm cần được cụ thể hóa
và áp dụng vào thực tiễn Việt Nam để giải quyết vụ án có NCTNPT, nếu có
đủ điều kiện nhất định nhằm giúp cho việc điều tra, truy tố và xét xử được
nhanh chóng.
Thứ hai, pháp luật về quyền của NCTNPT được quy định theo mô hình
xử lý thân thiện
Nhiều quốc gia đưa ra các quy định về thủ tục tố tụng thân thiện với
NCTNPT. Có những nước quy định việc lấy lời khai của NCTNPT được tiến
hành tại các phòng đặc biệt mà không phải tại trụ sở cơ quan điều tra. Phòng lấy
lời khai phải bảo đảm các yêu cầu về thân thiện như: yên tĩnh, tạo sự thoải mái,
tạo cảm giác an toàn, không gây sợ hãi cho NCTNPT… Tại một số quốc gia còn
66
quy định việc lấy lời khai phải được tiến hành ở các Trung tâm bào chữa cho trẻ
em, nơi đó được trang bị các phương tiện và cơ sở vật chất tốt nhất để các đối
tượng này có được cảm giác an toàn khi cung cấp các thông tin cho cơ quan tiến
hành tố tụng.
Thứ ba, pháp luật về quyền của NCTNPT về việc áp dụng các biện pháp
ngăn chặn
Kinh nghiệm pháp luật của nhiều nước cho thấy, không chú trọng các căn
cứ về loại tội phạm, khung hình phạt để quyết định áp dụng các biện pháp tạm
giam mà coi khả năng NCTNPT có thể bỏ trốn, che giấu, tiêu hủy chứng cứ
hoặc thực hiện các hành vi khác cản trở quá trình giải quyết vụ án hoặc tiêu chí
về không có chỗ ở cố định là căn cứ chủ yếu để xem xét, quyết định việc sử
dụng các biện pháp ngăn chặn.
Thú tư, pháp luật về của NCTNPT quy định quyền được giữ bí mật cho
NCTNPT
Một số điều ước quốc tế về các vấn đề liên quan đến NCTNPT của LHQ
kêu gọi các quốc gia cần áp dụng các biện pháp quản lý chặt chẽ các thông tin
liên quan đến NCTN trong vụ án hình sự. Hồ sơ của NCTNPT phải được lưu
giữ bí mật và không được phép cho bên thứ ba tiếp cận, các vụ án liên quan
đến các đối tượng này phải được xét xử kín để tránh những tổn thương có thể
gây ra do sự công khai của hoạt động tố tụng.
Thứ năm, pháp luật về quyền của NCTNPT được quy định thông qua
chế định thẩm phán NCTN, tòa án NCTN
Chế định về thẩm phán NCTN không phải là chế định mới nhưng nghiên
cứu chế định này một cách có hệ thống trong sự so sánh với hệ thống pháp
luật Việt Nam, đặc biệt là các quy định trong luật hình sự và tố tụng hình sự là
vấn đề còn chưa được đề cập nhiều trong các sách báo pháp lý. Nghiên cứu
chế định này trong luật hình sự và luật tố tụng hình sự Cộng hoà Pháp cho
chúng ta thấy vai trò to lớn của thẩm phán vị thành niên trong quá trình điều
tra, xét xử và cải tạo giáo dục NCTNPT. Vai trò đó được thể hiện không
những từ giai đoạn điều tra, xét xử mà còn đến giai đoạn thi hành án, điều đó
67
thể hiện quan điểm của các nhà lập pháp của Cộng hoà Pháp muốn đặt nhiều
kì vọng hơn vào thẩm phán vị thành niên và chế định thẩm phán vị thành niên
được đánh giá như là phát minh của Pháp những năm 40 của thế kỉ trước. Còn
nhiều vấn đề cần phải bàn về tính công minh trong hoạt động của thẩm phán
vị thành niên nhưng rõ ràng vai trò của thẩm phán vị thành niên trong hệ
thống các cơ quan tiến hành tố tụng là không thể phủ nhận.
Thứ sáu, pháp luật về quyền của NCTNPT được quy định thông qua các
biện pháp giáo dục
Sự phong phú của các biện pháp có tính chất giáo dục được áp dụng với
NCTNPT, các chế định liên quan đến quá trình chuẩn bị tái hoà nhập cộng
đồng của người bị kết án, xu hướng áp dụng càng nhiều các biện pháp có tính
cứng rắn trong thời gian gần đây ở một số nước có thể giúp các nhà nghiên
cứu, các nhà lập pháp Việt Nam trong việc tìm hướng đi cho các thiết chế
trong luật hình sự và luật tố tụng hình sự đối với NCTNPT ở Việt Nam, đó là
yêu cầu bức thiết, nhất là khi Việt Nam là một trong các quốc gia đã phê
chuẩn Công ước quyền trẻ em.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2
Bằng phương pháp tiếp cận khoa học để xác định những nội dung quan
trọng liên quan đến pháp luật về quyền của NCTNPT, luận án đã tập trung
làm rõ các khái niệm NCTNPT, quyền của NCTNPT. Ở góc độ luật học, luận
án đã luận giải và xây dựng khái niệm, nội dung, đặc điểm, vai trò và các tiêu
chí của pháp luật về quyền của NCTNPT.
Các tiêu chí của pháp luật về quyền của NCTNPT được hình thành trên
cơ sở các tiêu chí pháp lý chung, tuy nhiên các tiêu chí này cần được xác định
trên cơ sở mới, quan hệ với quyền con người trong pháp luật ở điều kiện thực
tại của quốc gia cũng như phù hợp với thông lệ chung và điều ước quốc tế mà
quốc gia đã gia nhập hoặc ký kết.
68
Thực tiễn hệ thống pháp luật của nước ta thời gian qua do nhiều nguyên
nhân khác nhau mà pháp luật về quyền của NCTNPT mới bắt đầu được quan
tâm ở Việt Nam. Quá trình hoàn thiện pháp luật về quyền của NCTNPT ở
Việt Nam do vậy có thể tiếp thu, kế thừa được các kinh nghiệm lập pháp trên
thế giới. Có thể khẳng định, đây cũng là quá trình nội luật hóa một số quy
định trong Công ước quyền trẻ em và một số điều ước quốc tế khác về
TPNCTN. Bên cạnh đó, chúng ta cũng tiếp thu được một số kinh nghiệm lập
pháp của các quốc gia về vấn đề này. Nhiều thiết chế mà các nước đã thực
hiện có thể là những kinh nghiệm tốt cho Việt Nam tham khảo, vận dụng.
69
3.1. QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN CỦA PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN CỦA
NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN PHẠM TỘI Ở VIỆT NAM
Chương 3
QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN VÀ THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ
QUYỀN CỦA NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN PHẠM TỘI Ở VIỆT NAM
3.1.1. Pháp luật về quyền của người chưa thành niên phạm tội từ
năm 1945 cho đến trước Hiến pháp 1959 ra đời
Từ khi Cách mạng tháng Tám thành công cho đến khi kháng chiến
chống Pháp kết thúc thắng lợi, Nhà nước ta vừa phải tiến hành bảo vệ nền độc
lập của dân tộc, vừa phải tiến hành công cuộc kiến thiết đất nước. Trong tình
hình ấy, công tác xây dựng pháp luật nói chung, cũng như xây dựng những
quy định về quyền của NCTNPT còn nhiều hạn chế. Có rất ít các quy phạm
pháp luật quy định trực tiếp quyền của NCTNPT. Hầu hết các quy định về
quyền của NCTNPT không được tập hợp một cách có hệ thống, mà nằm rải
rác ở các văn bản pháp luật khác nhau. Thậm chí, pháp luật về quyền của
NCTNPT thường được đề cập trong các báo cáo tổng kết có tính chất hướng
dẫn nghiệp vụ chuyên môn của ngành Tòa án. Chủ yếu thời kỳ này, về pháp
luật, chúng ta vẫn sử dụng một số chế định tiến bộ trong Bộ luật, văn bản luật
do thực dân Pháp và triều đình phong kiến ban hành trên cơ sở có sự sửa đổi,
bổ sung phù hợp với chế độ xã hội mới. Đặc biệt thời kỳ này, luật hình sự,
luật tố tụng hình sự chưa có đạo luật riêng. Vì thế mà các quy định về quyền
của NCTNPT không có sự đặc thù, mang tính riêng biệt cho nhóm đối tượng
này. Khi NCTNPT việc xử lý được tiến hành theo các quy định chung cho bất
kỳ công dân nào phạm tội. Trong thời kỳ này, quyền của NCTNPT về cơ bản
được phản ánh qua các quy định chung về quyền con người trong tố tụng hình
sự được khái quát dưới đây:
Sắc lệnh số 33/SL ngày 13/9/1945, Chính phủ lâm thời về thành lập Tòa
án, quy định các nguyên tắc về tổ chức, thực hiện hoạt động xét xử của Tòa
án. Một trong những quy định của Sắc lệnh có ý nghĩa quan trọng đối với
70
quyền của NCTNPT là nguyên tắc xét xử công khai (điều VI), nguyên tắc
đảm quyền tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa của bị cáo (điều V).
Sắc lệnh số 52/SL ngày 20/10/1945 xá tội các phạm nhân (một số loại tội
phạm trước ngày 19/8/1945). Theo đó việc xá tội cho các phạm nhân có áp
dụng đối với NCTNPT.
Sắc lệnh số 51/SL ngày 17/4/1946 của Chính phủ Lâm thời với tên gọi là
thủ tục rút ngắn. Khoản 2 Điều 23 của sắc lệnh này quy định: Nếu là việc tiểu
hình mà lại là việc phạm pháp quả tang, ông biện lý phải hỏi cung ngay bị can
và có thể hạ trát tống giam rồi đưa ra xét xử tại một phiên tòa tiểu hình gần
nhất. Thủ tục này được áp dụng đối với các vụ án đơn giản, phạm pháp quả
tang, hình phạt từ 5 năm tù trở xuống.
Ngày 09/11/1946, Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ cộng
hòa được Nghị viện (Quốc hội khóa I) thông qua. Trong Hiến pháp, những tư
tưởng, nguyên tắc quan trọng đối với việc bảo đảm quyền con người khi họ
phạm tội, quyền của NCTNPT nói riêng đã được ghi nhận như: Tất cả công
dân Việt Nam đều bình đẳng trước pháp luật; Công dân Việt Nam không bị
bắt bớ và giam cầm khi chưa có quyết định của Tòa án, có quyền bất khả xâm
phạm về thư tín, về nhà ở, về tài sản; Các phiên tòa xét xử phải công khai trừ
trường hợp đặc biệt. Bị cáo được quyền tự bào chữa hoặc mượn luật sư;
Nghiêm cấm tra tấn, đánh đập, ngược đãi những bị cáo và tội nhân; Thẩm
phán chỉ tuân theo pháp luật trong khi xét xử, các cá nhân, cơ quan khác
không được can thiệp vào việc xét xử của Tòa án.
Ở thời kỳ này, việc thiết lập hành lang pháp lý cũng như thủ tụng tố tụng
giải quyết các vụ án hình sự nói chung, giải quyết NCTNPT nói riêng chủ yếu
tuân thủ và dựa trên cơ sở các quy định mang tính Hiến định cho hoạt động tư
pháp Việt Nam được quy định trong Hiến pháp 1946. Do vậy, chưa có chế
định riêng về thủ tục để giải quyết các vụ án về NCTNPT. Hoạt động tố tụng
trong những vụ án có NCTNPT vẫn phải tuân thủ đầy đủ các quy định về thủ
tục tố tụng cho người đã thành niên phạm tội.
71
Ngoài Hiến pháp 1946, có một số văn bản khác của nhà nước quy định
về việc về việc bảo đảm quyền con người của người phạm tội như: Sắc lệnh
số 69/SL ngày 18/6/1949 cho phép bị can nhờ một công dân không phải luật
sư để bào chữa; Nghị định số 181-NV/6 ngày 12/6/1951 của Liên bộ Nội vụ -
Tư pháp ấn định những chi tiết về sự thiết lập, tổ chức và kiểm soát trại giam.
Ngày 24/01/1957, Luật số 103-SL/L005 về bảo đảm quyền tự do thân
thể và quyền bất khả xâm phạm đối với nhà ở, đồ vật, thư tín của nhân dân
được ban hành trong đó quy định về nguyên tắc chung, trình tự, thủ tục tiến
hành việc bắt người, tạm giữ, tạm giam, khám người, đồ vật, nhà ở, thư tín.
Những quy định trên, về cơ bản đã đảm bảo cho việc xét xử nói chung,
xét xử NCTNPT một cách công bằng, khách quan theo quy định của pháp
luật. Đây là những văn bản pháp lý trên đã xác lập nền tảng cơ bản cho quyền
của NCTNPT phát triển ở các giai đoạn sau này.
3.1.2. Pháp luật về quyền của người chưa thành niên phạm tội từ
năm 1959 đến trước khi Hiến pháp 1980 ra đời
Trong thời kỳ này có nhiều văn bản quy định ở các mức độ khác nhau về
quyền của NCTNPT:
Một là, khái niệm người vị thành niên đã được quy định trong pháp luật.
Theo đó “người vị thành niên được hiểu là con trai hay con gái chưa đủ 18
tuổi” [74, tr.12]. Đây được xem như là một căn cứ trong việc giải quyết nhiều
vấn đề pháp luật quan trọng có liên quan đến NCTNPT.
Hai là, pháp luật quy định cụ thể giới hạn tuổi chịu TNHS. Trong Chỉ thị
số 46 ngày 14/01/1969 của TANDTC đã xác định, đối với trẻ em hư dưới 14
tuổi thì không đưa ra tòa án xét xử; từ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi, nếu trường
hợp cần thiết phải đưa ra xét xử thì có châm chước đến tuổi còn non trẻ của
chúng; riêng đối với loại từ 14 đến 16 tuổi, chỉ nên xét xử trong trường hợp
phạm tội nghiêm trọng” (thời kỳ này pháp luật hình sự chỉ chia thành 2 loại
tội phạm là tội phạm ít nghiêm trọng và tội phạm nghiêm trọng) [74, tr.15].
Trong Báo cáo Tổng kết công tác 4 năm (1965-1968) của TANDTC
nhấn mạnh, với một số trường hợp cá biệt cũng có thể đặt vấn đề truy cứu
72
TNHS các em dưới 14 tuổi được, nhưng không nên đơn thuần chỉ nhìn vấn
đề này dưới giác độ năng lực TNHS, mà điều chủ yếu là phải nhìn các giác
độ yêu cầu của xã hội đối với việc giáo dục thiếu niên [74, tr.16].
Điểm tiến bộ trong luật hình sự thời kỳ này là đã xác định độ tuổi 14 là
tuổi bắt đầu phải chịu TNHS, nhưng không phải mọi trường hợp người từ đủ
14 tuổi trở lên thực hiện hành vi bị coi là tội phạm đều bị đưa ra xét xử mà chỉ
đưa ra xét xử trong trường hợp cần thiết, đối với người từ 14 đến dưới 16 tuổi
chỉ đưa ra xét xử trong trường hợp phạm tội nghiêm trọng [74, tr.16]. Hướng
dẫn xét xử với một số tội phạm cụ thể, TANDTC đã yêu cầu, đối với những
người từ 14 tuổi tròn trở lên đến 16 tuổi, chỉ nên truy tố trong những trường
hợp phạm tội nghiêm trọng như giết người, cướp của, hiếp dâm. Riêng về
hiếp dâm nói chung vẫn chủ yếu là giáo dục và cũng chỉ nên truy tố trong
những trường hợp phạm tội nghiêm trọng [74, tr.18].
Ba là, pháp luật về quyền của NCTNPT còn được thể hiện thông qua
quy định về TNHS có tính chất giảm nhẹ và có mục đích giáo dục là chính.
Điểm tiến bộ vượt bậc trong quy định về quyền của NCTNPT thời kỳ
này là quy định TNHS có tính chất giảm nhẹ đối với NCTN trên cơ sở đánh
giá về mức độ nhận thức của bản thân về tính chất nguy hiểm cho xã hội của
hành vi mà họ thực hiện. Mức hình phạt áp dụng chỉ nên từ khoảng 15 năm tù
trở xuống; đối với NCTNPT từ đủ 16 đến dưới 18 tuổi có thể xử nhẹ hơn một
phần so với can phạm đã lớn và không nên áp dụng tử hình [74, tr.19].
Hướng dẫn của TANDTC đã xác định rõ trách nhiệm của các cơ quan
liên quan đến công tác giáo dục trẻ em và chỉ ra vai trò của TAND trong việc
giải quyết tình trạng NCTNPT. Tòa án cần phân biệt những trường hợp giao
cho gia đình bảo lĩnh giáo dục hoặc cho tập trung vào các trường trẻ em hư do
cơ quan công an phụ trách, với những trường hợp cần thiết phải đưa ra truy
cứu TNHS xét xử trước tòa án [74, tr.23]. Đối tượng được áp dụng là
NCTNPT có độ tuổi từ 7 đến 17 tuổi. Trong đó bao gồm cả những trường hợp
chưa đủ tuổi chịu TNHS và những trường hợp đã đủ tuổi phải chịu TNHS khi
thực hiện tội phạm nhưng lại không bị đưa ra truy tố, xét xử. Những đối tượng
73
này sẽ được đưa vào các trường phổ thông công nông nghiệp với thời gian
giáo dục là 2 năm. Thời gian này có thể được rút ngắn hoặc kéo dài tùy thuộc
vào mức độ tiến bộ của họ [74, tr.25]. Quy định này mở rộng khả năng áp
dụng những biện pháp tác động không phải là hình phạt đối với NCTNPT
nhằm tạo điều kiện để họ có thể sớm trở lại cuộc sống bình thường.
Ngoài ra, còn có các văn bản quy định chung, trong đó thể hiện quyền
của NCTNPT trong quá trình tố tụng, như: Thông tư số 06/TATC ngày
19/9/1967 của TANDTC về bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo; Bản
rút kinh nghiệm số 607/NKPL ngày 13/9/1973 của TANDTC về việc viết bản
án sơ thẩm và phúc thẩm (do Công văn số 612/NCPL ngày 14/9/1973 của
TANDTC gửi cho Toà án các địa phương); Thông tư số 16/TATC ngày
27/9/1974 của TANDTC hướng dẫn về trình tự, thủ tục sơ thẩm về hình sự…
Những văn bản này không chỉ đề cập đến nguyên tắc chủ yếu khi xét xử mà
còn bao gồm các chế định về bào chữa, đại diện gia đình, quyền và nghĩa vụ
của cơ quan tiến hành tố tụng… khi giải quyết vụ án có NCTNPT.
Như vậy, mặc dù vẫn chưa có BLHS, BLTTHS nên hoạt động xét xử
NCTNPT nói riêng vẫn phải dựa vào đường lối, chính sách của Đảng và Nhà
nước. Song những khuôn khổ pháp luật về quyền của NCTNPT trong thời kỳ
này đã có thêm một bước phát triển so với thời kỳ trước.
3.1.3. Pháp luật về quyền của người chưa thành niên phạm tội từ khi
có Hiến pháp 1980 đến trước khi Hiến pháp 1992 ra đời
Những quy định của Hiến pháp 1980 là căn cứ pháp lý cho việc ban
hành các văn bản quy phạm pháp luật hình sự, tố tụng hình sự về quyền của
NCTNPT, đánh dấu sự ghi nhận mang tính hệ thống về quyền của NCTNPT.
Thứ nhất, BLHS đã được Quốc hội nước Cộng hòa XHCN Việt Nam,
tại kỳ hợp thứ 9 Quốc hội khóa VI chính thức thông qua ngày 27/6/1985 (gọi
tắt là BLHS 1985). Lần đầu tiên trong lịch sử lập pháp hình sự của Việt Nam,
vấn đề NCTNPT được quy định thành một chế định hoàn chỉnh. BLHS 1985
đã sửa đổi nhiều quy định trước đó về quyền của NCTNPT và bổ sung một số
quy định mới:
74
Một là, pháp luật về quyền của NCTNPT quy định cụ thể độ tuổi chịu
TNHS. Điều 58 quy định, người từ đủ 14 tuổi trở lên nhưng chưa đủ 16 tuổi
phải chịu TNHS về những tội phạm nghiêm trọng do cố ý. Người từ đủ 16
tuổi trở lên phải chịu TNHS về mọi tội phạm.
Hai là, pháp luật về quyền của NCTNPT quy định chính sách hình sự:
Việc xử lý hành vi phạm tội của NCTN chủ yếu nhằm giáo dục, giúp đỡ họ
sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh và trở thành công dân có ích cho xã
hội; VKS có quyền miễn truy cứu TNHS NCTNPT nếu người đó phạm tội ít
nghiêm trọng, gây hại không lớn, có nhiều tình tiết giảm nhẹ và nếu được gia
đình hoặc một tổ chức xã hội nhận trách nhiệm giám sát, giáo dục; Chỉ đưa
NCTNPT ra xét xử và áp dụng hình phạt trong những trường hợp cần thiết;
Không xử phạt tù chung thân hoặc tử hình NCTNPT, NCTNPT được hưởng
mức án nhẹ hơn mức án áp dụng đối với người đã thành niên; Hậu quả pháp
lý liên quan đến việc áp dụng hình phạt đối với NCTNPT nhẹ hơn so với
người đã thành niên; Án đã tuyên với NCTNPT khi chưa đủ 16 tuổi thì không
tính để xác định tái phạm hoặc tái phạm nguy hiểm; NCTNPT bị kết án nếu
cải tạo tốt thì được xét giảm thời hạn chấp hành hình phạt vào thời gian sớm
hơn hoặc ở mức cao hơn so với người đã thành niên; Thời gian để xóa án đối
với NCTNPT là một nửa thời hạn quy định cho người thành niên.
Ba là, pháp luật về quyền của NCTNPT quy định cụ thể và giới hạn các
loại hình phạt, như: đối với những trường hợp cần thiết phải đưa NCTNPT ra
xét xử và chỉ áp dụng một trong những hình phạt là Cảnh cáo, Cải tạo không
giam giữ, Tù có thời hạn; không xử phạt tù chung thân hoặc tử hình.
Bốn là, pháp luật về quyền của NCTNPT quy định các biện pháp tư pháp
có tính chất giáo dục, phòng ngừa. TAND có thể áp dụng các biện pháp tư
pháp có tính chất giáo dục, phòng ngừa đối với NCTNPT: Buộc phải chịu thử
thách; Đưa vào trường giáo dưỡng.
Năm là, pháp luật về quyền của NCTNPT quy định cụ thể về các nguyên
tắc quyết định hình phạt đối với NCTN. Nếu điều luật quy định hình phạt cao
nhất là tù chung thân hoặc tử hình thì hình phạt cao nhất áp dụng đối với
75
NCTNPT từ đủ 16 tuổi trở lên khi phạm tội là 20 năm tù và đối với người từ
đủ 14 tuổi trở lên nhưng chưa đủ 16 tuổi khi phạm tội là 15 năm tù. Còn nếu
điều luật quy định hình phạt cao nhất là 20 tù thì mức hình phạt cao nhất áp
dụng đối với NCTNPT là không quá 12 năm tù.
Thứ hai, ngày 28/6/1988 BLTTHS được Quốc hội nước Cộng hoà XHCN
Việt Nam thông qua, thay thế cho các văn bản pháp luật đơn lẻ trước đây về
thủ tục tố tụng đối với NCTNPT (gọi tắt là BLTTHS 1988).
Bộ luật này quy định trình tự, thủ tục khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và
thi hành án. Trong đó có quy định “Thủ tục đặc biệt” tại Chương XXXI -
phần VII là sự kế thừa và phát triển pháp luật tố tụng hình sự dành cho
NCTNPT của Nhà nước ta từ Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến khi ban
hành bộ luật với tinh thần đổi mới, đặc biệt nguyên tắc, đường lối xử lý nhóm
đối tượng này không ngừng được hoàn thiện và phát triển. Mục đích của việc
xử lý NCTNPT chủ yếu là giáo dục, giúp đỡ sửa chữa sai lầm, phát triển lành
mạnh và trở thành công dân có ích cho xã hội. Ngoài ra, để đảm bảo chất
lượng công tác xét xử, các cơ quan có thẩm quyền đã ban hành những văn bản
dưới luật hướng dẫn thi hành Chương XXXI BLTTHS 1988. Có thể khái quát
quyền của NCTNPT được quy định trong Bộ luật này như sau:
Pháp luật về quyền của NCTNPT được thể hiện thông qua quy định về
người tiến hành tố tụng: Bộ luật này quy định Điều tra viên, kiểm sát viên,
thẩm phán tiến hành tố tụng về những vụ án NCTNPT phải là những người
hiểu biết cần thiết về tâm lý học và khoa học giáo dục cũng như về hoạt động
đấu tranh phòng chống tội phạm của NCTN. Hội đồng xét xử NCTNPT phải có
một Hội thẩm nhân dân là giáo viên hoặc cán bộ Đoàn TNCS Hồ Chí Minh.
Pháp luật về quyền của NCTNPT được thể hiện thông qua quy định về
việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn như việc bắt, tạm giữ, tạm giam. Việc
bắt NCTNPT phải đầy đủ các điều kiện là, có đủ căn cứ quy định về việc bắt bị
can, bị cáo để tạm giam, bắt người trong trường hợp khẩn cấp hoặc bắt người
phạm tội quả tang; Chỉ được bắt NCTN trong những trường hợp phạm tội nghiêm
trọng; Nếu xét thấy việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn đối với NCTNPT là
76
không cần thiết, cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án có thể ra quyết định giao
NCTNPT cho cha mẹ hoặc người đỡ đầu của họ giám sát để đảm bảo sự có mặt
của NCTN khi có giấy triệu tập của cơ quan tiến hành tố tụng.
Pháp luật về quyền của NCTNPT được thể hiện thông qua quy định về
việc bào chữa. Trong vụ án có NCTNPT, thì việc tham gia của người bào chữa
là bắt buộc. Nếu NCTNPT không lựa chọn người người bào chữa, cơ quan điều
tra, Viện kiểm sát, Tòa án phải yêu cầu Đoàn luật sư cử người bào chữa cho
các đối tượng này. Công văn số 52/1999/KHXX ngày 15/6/1999 hướng dẫn
thực hiện một số quy định của BLTTHS 1988 đối với NCTNPT như sau: Sự
tham gia của người bào chữa trong trường hợp này là bắt buộc đối với cơ
quan tiến hành tố tụng chứ không bắt buộc đối với bị can, bị cáo.
Pháp luật về quyền của NCTNPT được thể hiện thông qua quy định về
việc tham gia tố tụng của gia đình, nhà trường và tổ chức xã hội. Đại diện gia
đình NCTNPT, thầy cô giáo, đại diện nhà trường, Đoàn TNCS Hồ Chí Minh
và các tổ chức xã hội khác, nơi NCTN trước khi phạm tội học tập, lao động và
sinh sống có quyền và nghĩa vụ tham gia tố tụng hình sự theo quyết định của
cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án. Trong những trường hợp cần thiết,
đại diện của gia đình NCTNPT phải có mặt trong các cuộc hỏi cung tại cơ
quan điều tra. Nếu được đồng ý, đại diện gia đình NCTNPT có thể hỏi người
này trong quá trình tham gia hỏi cung. Ngoài ra đại diện của gia đình còn
được trình bày chứng cứ, đưa ra yêu cầu, khiếu nại, đọc hồ sơ vụ án khi kết
thúc điều tra. Tại phiên tòa xét xử, sự tham gia của gia đình là bắt buộc.
Pháp luật về quyền của NCTNPT được thể hiện thông qua các quy định
về xét xử. Thành phần của Hội đồng xét xử phải có Hội thẩm nhân dân là giáo
viên hoặc cán bộ Đoàn TNCS Hồ Chí Minh. Đồng thời Bộ Tư pháp có Thông
tư số 267/QĐTA, hướng dẫn bầu Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân trong đó,
chú ý cơ cấu Hội thẩm là giáo viên, là cán bộ Đoàn Thanh niên… để phù hợp
với đặc điểm của tình hình địa phương và quy định của BLTTHS.
Pháp luật về quyền của NCTNPT thể hiện thông qua các quy định về thi
hành án hình sự. Các hình phạt được áp dụng đối với NCTNPT đã được nêu ở
77
phần trên. Tuy nhiên pháp luật cũng quy định, nếu NCTNPT phải chấp hành
hình phạt tù có thời hạn thì họ phải được giam giữ theo chế độ riêng. Trong
thời gian chấp hành hình phạt tù các em phải được học văn hóa, học nghề.
Khi chấp hành xong hình phạt tù có thời hạn, Ban Giám thị trại giam phải
phối hợp với chính quyền xã, phường và tổ chức xã hội ở địa phương giúp đỡ
trở về với cuộc sống bình thường.
3.1.4. Pháp luật về quyền của người chưa thành niên phạm tội từ khi
có Hiến pháp 1992 cho tới nay
Trong suốt mấy chục năm kể từ khi có Hiến pháp 1992 đến nay, để khắc
phục những hạn chế trong các văn bản pháp luật quy định quyền của
NCTNPT, Nhà nước đã chú ý xây dựng hệ thống các quy định cụ thể, chặt
chẽ và đầy đủ. Biểu hiện tiến bộ là đã sửa đổi, bổ sung và ban hành một số
đạo luật mới cũng như những văn bản hướng dẫn thi hành các đạo luật này.
Thứ nhất, văn bản luật pháp luật quy định về quyền của NCTNPT
Một là, ngày 21/12/1999, Quốc hội nước ta đã thông qua BLHS năm
1999 (BLHS 1999) thay thế cho BLHS 1985. Ở góc độ pháp luật hình sự,
Chương X của BLHS 1999 đã quy định những vấn đề về NCTNPT. Từ điều
68 đến điều 77 BLHS 1999 đã quy định chính sách hình sự của nhà nước ta
đối với NCTNPT. Những điều luật này đã tạo ra hành lang pháp lý vững chắc
để NCTNPT bảo vệ quyền của mình, đồng thời thông qua đó, các cơ quan
tiến hành tố tụng căn cứ vào chương X - BLHS 1999 để xác định giới hạn phải
chịu TNHS ở NCTN và chính sách hình sự mang tính nhân đạo mà Nhà nước
ta dành cho NCTNPT. Các quy định ở Chương X - BLHS 1999 là những quy
định mang tính đặc thù được áp dụng để xử lý NCTNPT. Xuất phát từ đặc
điểm tâm - sinh lý và sự phát triển chưa hoàn thiện của NCTN mà những quy
định trong chương này có sự phân hóa giữa các nhóm tuổi chưa thành niên.
Người từ đủ 14 tuổi đến chưa đủ 16 tuổi, chính sách hình sự có giảm nhẹ hơn
so với NCTN từ đủ 16 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi phạm tội. Cũng đó, quyền của
NCTNPT được hưởng có sự khác biệt so với người đã thành niên và được thể
78
hiện trong các quy định về hình phạt, các biện pháp tư pháp, quyết định hình
phạt và xóa án tích.
Hai là, qua gần 15 năm thi hành, với 3 lần sửa đổi bổ sung, BLTTHS
1988 đã là một trong những căn cứ pháp lý quan trọng giúp cơ quan tiến hành
tố tụng tiến hành các hoạt động giải quyết các vụ án có NCTNPT, đồng thời
cũng đã ghi nhận và bảo vệ quyền của NCTNPT. Tuy nhiên, trong công cuộc
đổi mới toàn diện đất nước trên tất cả các lĩnh vực trong đó có cải cách tư
pháp, BLTTHS 1988 có một số điều luật quy định về quyền của NCTNPT
không còn phù hợp nữa, có những quy định bộc lộ hạn chế nhất định về
quyền của NCTNPT. Ngày 26/11/2003 BLTTHS năm 2003 (BLTTHS 2003)
được Quốc hội thông qua, có hiệu lực thi hành từ ngày 1/7/2004. Chương
XXXII của Bộ luật này đã quy định về thủ tục tố tụng đối với NCTNPT.
Quyền của NCTNPT trong quá trình giải quyết vụ án hình sự đã được ghi
nhận trong các quy định tại Chương XXXII BLTTHS 2003 làm căn cứ để
NCTNPT bảo vệ quyền của mình, đồng thời đây cũng chính là các yêu cầu
đối với các chủ thể tiến hành tố tụng để đảm bảo việc hưởng quyền của
NCTNPT. Trong lần sửa đổi, bổ sung này, BLTTHS 2003 đã cố gắng khắc
phục những bất cập trong công tác điều tra, truy tố và xét xử đối với
NCTNPT và ngày càng hướng tới một quy trình thân thiện, bảo vệ và ghi
nhận những quyền cụ thể của NCTNPT khi tiến hành tố tụng. Những biểu
hiện này sẽ được trình bày cụ thể trong mục 3.2.
Ba là, Luật thi hành án hình sự năm 2010 được Quốc hội ban hành nhằm
điều chỉnh các quan hệ phát sinh trong quá trình thi hành án hình sự. Nguyên
tắc thi hành án hình sự đối với NCTNPT đã được thể hiện: “Thi hành án đối
với NCTN chủ yếu nhằm giáo dục, giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm, phát triển
lành mạnh và trở thành người có ích cho xã hội” [53, Điều 5]. Trong Luật thi
hành án hình sự cũng dành một mục riêng quy định về phạm nhân là NCTN
thi hành án phạt tù và một mục riêng về NCTN thi hành biện pháp tư pháp
đưa vào trường giáo dưỡng. Những quy định ở các mục này thể hiện chính
79
sách nhân đạo đối với NCTNPT, mặt khác, thể hiện việc ghi nhận các quyền
ưu tiên của phạm nhân là NCTNPT. Sự ưu tiên đó được thể hiện trong các
quy định về chế độ ăn, mặc, sinh hoạt văn hóa, văn nghệ, vui chơi giải trí.
Có thể đánh giá chung là một số đạo luật nêu trên đã thể hiện tính tích
cực, sự tương thích trong pháp luật Việt Nam về quyền của NCTNPT. Nội
dung quyền của NCTNPT trong các văn bản này tiếp tục kế thừa các quy định
trước đó, đã thể hiện chính sách hình sự nhân đạo của Nhà nước ta đối với
NCTNPT. Quyền của các đối tượng này được quy định cụ thể, rõ ràng hơn
trong quá trình xử lý vụ án. Đây là hành lang pháp lý vững chắc để NCTN
được hưởng sự “ưu ái” của Nhà nước; là công cụ hữu hiệu để các chủ thể có
thẩm quyền giải quyết vụ án chính xác, hiệu quả, đáp ứng được yêu cầu bảo
vệ quyền của NCTNPT, phù hợp với thông lệ quốc tế về vấn đề này.
Thứ hai, văn bản khác quy định về quyền của NCTNPT
Trên cơ sở những văn bản quy phạm pháp luật nêu trên, có nhiều văn
bản hướng dẫn việc thi hành ra đời tạo điều kiện để thực thi pháp luật về
quyền của NCTNPT được đảm bảo trên thực tế và đáp ứng việc hưởng quyền
của NCTNPT. Có thể kể đến một số văn bản mang tính dưới luật sau đây
được ban hành trong thời gian vừa qua:
- Thông tư số 08/2001/TT-BCA ngày 12/11/2011 của Bộ Công an hướng
dẫn thực hiện một số quy định về tạm giữ, tạm giam.
- Thông tư liên tịch số 10/2007/TTLT-BTP-BCA-BQP-BTC-VKSNDTC-
TANDTC ngày 28/12/2007 của Bộ Tư pháp, Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, Bộ
Tài chính, VKSNDTC, TANDTC hướng dẫn áp dụng một số quy định về trợ
giúp pháp lý trong hoạt động tố tụng.
- Thông tư liên tịch số 01/2011/TTLT-VKSNDTC-TANDTC-BCA-
BTP-BLĐTBXH ngày 12/7/2011. Thông tư này đã đặt ra những quy định có
ý nghĩa quan trọng trong việc bảo vệ quyền của NCTNPT thông qua việc quy
định các yêu cầu đối với cơ quan tiến hành tố tụng.
3.2. NHỮNG THÀNH TỰU ĐẠT ĐƯỢC CỦA PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN
CỦA NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN PHẠM TỘI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
VÀ NGUYÊN NHÂN
80
3.2.1. Pháp luật về quyền của người chưa thành niên phạm tội trong
các văn bản quy phạm pháp luật hình sự
Quyền của NCTNPT đã được thể hiện sinh động trong các văn bản quy
phạm pháp luật. BLHS 1999 kế thừa và phát triển những quy định về quyền
của NCTNPT đã được ghi nhận trong BLHS 1985. Các văn bản pháp luật
hình sự quy định quyền của NCTNPT bằng việc quy định quyền đặc thù cho
nhóm đối tượng đặc thù - NCTNPT, cụ thể như sau:
Một là, quy định của pháp luật về hình phạt đối với NCTNPT. BLHS
1999 quy định NCTNPT chỉ bị áp dụng một trong 4 loại hình phạt là: cảnh
cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ và tù có thời hạn.
Hình phạt phạt tiền lần đầu tiên được quy định trong BLHS 1999 đối với
NCTNPT từ đủ 16 đến dưới 18 tuổi đã mở rộng phạm vi áp dụng hình phạt
không tước tự do cho các đối tượng này.
Trong 4 loại hình phạt áp dụng đối với NCTNPTcó tới 3 loại hình phạt
không tước tự do (cảnh cáo, phạt tiền và cải tạo không giam giữ), duy nhất chỉ
có hình phạt tù có thời hạn là bị tước tự do (tù có thời hạn) [48, điều 71].
Quy định về các loại hình phạt áp dụng với NCTNPT thì hình phạt cải
tạo không giam giữ là hình phạt chính không buộc đối tượng phải cách ly
khỏi môi trường xã hội và chỉ áp dụng với người từ đủ 16 đến dưới 18 tuổi.
Điều 30, Điều 73 và Nghị định số 60/2000/NĐ-CP ngày 30/10/2000 của
Chính phủ quy định về NCTNPT thi hành hình phạt cải tạo không giam giữ.
Theo quy định này, thời hạn cải tạo không giam giữ áp dụng đối với
NCTNPT không được quá ½ thời hạn mà điều luật quy định; NCTN khi chấp
hành hình phạt cải tạo không giam giữ thì không bị khấu trừ thu nhập.
Tù có thời hạn là hình phạt nghiêm khắc nhất trong số các hình phạt áp
dụng đối với NCTNPT. Thời gian áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với
81
NCTNPT ngắn hơn đối với người đã thành niên phạm tội tương ứng và được
chia thành hai mức tùy theo độ tuổi.
Hai là, các quy định hướng dẫn xử lý đối với NCTNPT. Mục đích chủ
yếu của việc xử lý NCTNPT là nhằm giáo dục, giúp đỡ sửa chữa sai lầm, phát
triển lành mạnh và trở thành công dân có ích cho xã hội. Đây là nguyên tắc
bao trùm, mang tính chỉ đạo, thể hiện chính sách hình sự của Đảng và Nhà
nước ta trong quá trình xử lý vụ án có NCTNPT.
Việc áp dụng các biện pháp xử lý hình sự đối với NCTNPT phải cân
nhắc nhằm đảm bảo mục đích giáo dục, uốn nắn những hành vi sai lệch, giúp
các em thấy rõ sai phạm tự giác sửa chữa. Trong mọi trường hợp điều tra, truy
tố, xét xử hành vi phạm tội của NCTN, các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền
phải xác định khả năng nhận thức về tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành
vi phạm tội, nguyên nhân và điều kiện gây ra tội phạm [48, Điều 69(1)].
Việc truy cứu TNHS NCTNPT và áp dụng hình phạt được thực hiện chỉ
trong trường hợp thật cần thiết và phải căn cứ vào tính chất của hành vi phạm
tội, vào đặc điểm nhân thân và yêu cầu đảm bảo an toàn công cộng. Không xử
phạt chung thân hoặc tử hình đối với NCTNPT. Khi xử phạt tù có thời hạn,
NCTNPT được hưởng mức án nhẹ hơn mức án áp dụng đối với người đã thành
niên phạm tội tương ứng. Không áp dụng hình phạt phạt tiền đối với NCTNPT
từ 14 đến dưới 16 tuổi. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với NCTNPT.
Án đã tuyên đối với NCTNPT khi chưa đủ 16 tuổi thì không tính để xác
định tái phạm hoặc tái phạm nguy hiểm; Thời hạn xóa án tích đối với
NCTNPT là ½ thời hạn so với người đã thành niên; NCTNPT được áp dụng
biện pháp tư pháp như giáo dục tại xã, phường, thị trấn hoặc đưa vào trường
giáo dưỡng thì không bị coi là có án tích (coi là chưa bị kết án).
Ba là, các quy định của pháp luật về biện pháp tư pháp áp dụng đối
với NCTNPT. Với NCTNPT khi thấy không cần thiết áp dụng hình phạt thì
có thể áp dụng các biện pháp tư pháp. Các biện pháp này có tính giáo dục,
phòng ngừa cao đối với NCTNPT nhưng khi áp dụng nó (Điều 77) không
82
làm cho người bị áp dụng có án tích; bao gồm: Giáo dục tại xã, phường, thị
trấn và Đưa vào trường giáo dưỡng.
Ngày 19/6/2009, Quốc hội thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều
của BLHS 1999. Tuy nhiên, hầu hết các quy định về quyền của NCTNPT
trong BLHS 1999 không thay đổi, trừ quy định về nguyên tắc xử lý đối với
NCTNPT. Cụ thể, khoản 5 Điều 69 được bổ sung thêm nguyên tắc khi áp
dụng hình phạt đối với NCTNPT cần hạn chế áp dụng hình phạt tù. Quy định
bổ sung này mở rộng quyền không bị tước tự do của NCTNPT, tạo cơ hội cho
NCTNPT được cải tạo trong môi trường xã hội bình thường.
Từ các quy định của pháp luật về quyền của NCTNPT trong các văn bản
quy phạm pháp luật hình sự nêu trên có thể rút ra nhận xét sau:
Thứ nhất, các văn bản pháp luật hình sự đã thể chế hoá chủ trương,
chính sách của Đảng và Nhà nước ta về biện pháp giáo dục, xử lý và bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp của NCTNPT, tạo khung pháp lý để các đối tượng
này thụ hưởng, đồng thời qua đó, các chủ thể liên quan thực hiện. Các quyền
đó trên thực tế được ghi nhận thông qua các quy định trong BLHS 1999 và
một số văn bản hướng dẫn thi hành.
Thứ hai, xét về tổng thể các quy định trong các văn bản pháp luật hình
sự về quyền của NCTNPT mang tính thống nhất, đồng bộ với các quy định
pháp luật hình sự nói chung. Các quy định về quyền của NCTNPT trong
BLHS 1999 được quy định tại Chương X của Bộ luật này. Đây là một chương
riêng điều chỉnh nhóm đối tượng đặc thù là NCTNPT. Nhưng các quy định tại
chương này vẫn nằm trong tổng thể các quy định về tội phạm và hình phạt
của luật hình sự. Chính vì vậy mà tại Điều 68 BLHS 1999 đã quy định rằng,
NCTN từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội phải chịu TNHS theo những
quy định của Chương này, đồng thời theo những quy định khác của Phần
chung BLHS không trái với những quy định của Chương này [48, Điều 68].
Chính quy định này đã thể hiện rõ quyền của NCTNPT trong pháp luật hình
sự không tách biệt nhau mà vẫn thống nhất với nhau để điều chỉnh quan hệ
xuất hiện khi có hành vi phạm tội. Thông qua đó, để xác định một NCTN nào
83
đó khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội có bị coi là tội phạm hay
không, và có được hưởng, được làm, được bảo vệ theo cách thức “đặc biệt”
hay không thì ngoài việc xem xét các quy định tại Chương X BLHS 1999,
còn phải xem xét các quy định khác trong Bộ luật này.
Bên cạnh đó, các quy định về quyền của NCTNPT trong văn bản pháp
luật hình sự, không chỉ thống nhất trong các quy định của luật hình sự, mà sự
thống nhất đó còn được thể hiện trong việc thống nhất với các văn bản quy
phạm pháp luật khác (như BLTTHS, Luật thi hành án hình sự) tạo thành một
thể thống nhất quy định một cách trực tiếp hay gián tiếp quyền của NCTNPT.
Thứ ba, pháp luật về quyền của NCTNPT được quy định trong các văn
bản pháp luật hình sự khá cụ thể. Điều này được biểu hiện thông qua việc
quy định về tuổi chịu TNHS, nguyên tắc xử lý, hình phạt, các biện pháp tư
pháp, quyết định hình phạt, giảm án, xoá án tích đối với NCTNPT. Các quy
định này đã chỉ rõ khi nào NCTNPT được hưởng chính sách hình sự nhân
đạo của Nhà nước dành cho mình; được giảm nhẹ hình phạt so với người
đã thành niên… Đồng thời, để NCTNPT được hưởng đầy đủ các quyền
này, luật hình sự cũng đặt ra các quy định cụ thể trong việc áp dụng hình
phạt, quyết định hình phạt trong vụ án có NCTNPT. Cách thức quy định
quyền của NCTNPT ở đây khá rõ ràng, quy định quyền gắn liền trách
nhiệm của các chủ thể liên quan và quy định cách thức thực hiện của chủ
thể liên quan qua đó gián tiếp quy định quyền của NCTNPT. Ngôn ngữ thể
hiện trong các quy định của luật hình sự về quyền của NCTNPT chuẩn
mực, rõ ràng và cô đọng.
Thứ tư, tinh thần và nội dung cơ bản của Công ước quyền trẻ em đã
được thể hiện cụ thể trong BLHS 1999 cả ở phần tội phạm và hình phạt.
Công ước quyền trẻ em và các văn kiện pháp lý khác liên quan đến NCTN và
NCTN vi phạm pháp luật đều thể hiện rõ: Độ tuổi của NCTN là người dưới
18 tuổi; Thiết lập hệ thống các quy tắc để bảo vệ NCTN ngay cả khi các đối
tượng này vi phạm pháp luật. Trên tinh đó, BLHS 1999 đã khẳng định rõ,
NCTN là người dưới 18 tuổi. Tuy nhiên khi người dưới 18 tuổi phạm tội thì
84
việc xem xét hành vi phạm tội ấy vẫn được đặt ra, nhưng chỉ những NCTN từ
đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi mới phải chịu TNHS về hành vi pham tội của
mình. Trong đó, người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi chỉ phải chịu TNHS về
tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc phạm tội đặc biệt nghiêm trọng. Đặc
biệt NCTNPT được hưởng sự “ưu ái” so với người đã đã thành niên phạm tội.
Đây là sự cố gắng lớn của Nhà nước ta với tư cách là thành viên tham gia các
điều ước quốc tế nêu trên, trong điều kiện thực tế lập pháp ở Việt Nam.
Thứ năm, các quy định trong văn bản pháp luật hình sự về quyền của
NCTNPT trong thời gian qua đã trở thành cơ sở pháp lý quan trọng để một
mặt NCTNPT được làm, được hưởng, được yêu cầu; đồng thời giúp cho các
chủ thể liên quan thực thi hiệu quả và bảo vệ quyền cho các đối tượng này.
Độ tuổi tối thiểu phải chịu TNHS được quy định trong BLHS 1999, dưới
ngưỡng tuổi đó, NCTN không thể bị truy cứu TNHS, không bị nhà chức trách
xử lý bằng pháp luật hình sự. Việc quy định NCTN ở các độ tuổi khác nhau,
tuỳ vào loại tội phạm và lỗi để truy cứu TNHS thể hiện sự phân hoá đối tượng
khi thực hiện hành vi nguy hiểm bị coi là tội phạm. Chính từ cách phân hoá
đó các nhà lập pháp xây dựng cách thức xử lý các đối tượng cho phù hợp.
3.2.2. Pháp luật về quyền của người chưa thành niên phạm tội trong
các văn bản quy phạm pháp luật tố tụng hình sự
Kế thừa một số quy định trong BLTTHS 1988 về thủ tục giải quyết vụ án
có NCTNPT, BLTTHS 2003 đã ghi nhận các quyền của NCTNPT trong tố
tụng hình sự phù hợp với thực tế điều kiện của nước ta. “Quyền chung”,
“quyền đặc thù” của NCTNPT trong BLTTHS 2003 được quy định bằng cả hai
hình thức biểu hiện trực tiếp và gián tiếp. Ngoài các “quyền chung” mà bất kỳ
ai khi phạm tội cũng được hưởng theo quy định của BLTTHS thì NCTNPT còn
có những “quyền đặc thù” mà chỉ ở họ mới được hưởng. Trong nội dung này,
luận án chỉ đi sâu phân tích khía cạnh đặc thù và những quy định về quyền đặc
thù mà NCTNPT được hưởng so với người đã thành niên.
Một là, pháp luật về quyền của NCTNPT quy định các yêu cầu cần thiết
đối với người tiến hành tố tụng. Xuất phát từ các đặc điểm về tâm sinh lý xã
85
hội và pháp lý của NCTNPT các văn bản pháp luật tố tụng hình sự quy định về
những yêu cầu đặc biệt đối với họ. Đây là những quy định thể hiện gián tiếp
quyền của NCTNPT. Xét về nội dung biểu hiện, BLTTHS 2003 quy định, Điều
tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán tiến hành tố tụng đối với NCTNPT phải là
người có những hiểu biết cần thiết về tâm lý học, khoa học giáo dục cũng như
về hoạt động đấu tranh phòng, chống tội phạm của NCTN [49, Điều 302(1)].
Quy định này thể hiện rất rõ các yêu cầu về kỹ năng làm việc với NCTNPT của
người tiến hành tố tụng. Người tiến hành tố tụng trong vụ án là được đào tạo kỹ
lưỡng về các kỹ thuật hoạt động thân thiện với NCTN, có khả năng đảm bảo
các hoạt động tố tụng do mình tiến hành phù hợp với quyền của họ. Từ quy
định này đã gián tiếp xác lập quyền được đối xử phù hợp với lứa tuổi trong các
hoạt động điều tra, truy tố, xét xử.
Hai là, pháp luật về quyền của NCTNPT quy định các yêu cầu cần xác
định rõ trong vụ án có NCTNPT. Khi tiến hành điều tra, truy tố, xét xử với
những vụ án có NCTNPT, ngoài những vấn đề chung cần phải chứng minh,
để bảo vệ quyền của NCTNPT các cơ quan tiến hành tố tụng cần làm rõ:
Tuổi, trình độ phát triển về thể chất và tinh thần, mức độ nhận thức về hành vi
phạm tội của NCTN; Điều kiện sinh sống và giáo dục; Có hay không có
người lớn xúi giục; Nguyên nhân và điều kiện phạm tội [49, Điều 302(2)].
Đây là những đối tượng chứng minh đặc biệt, bên cạnh các đối tượng chứng
minh cơ bản trong mọi vụ án hình sự quy định tại Điều 66 BLTTHS 2003.
Nói cách khác, quá trình giải quyết vụ án NCTNPT được đặt ra với những đòi
hỏi cao hơn về phạm vi đối tượng chứng minh để không làm oan, sai
NCTNPT, không gây ra những tổn thương "pháp lý" cho các đối tượng này.
Quy định trên một mặt xác lập quyền mà NCTNPT được thụ hưởng, mặt khác
NCTNPT có quyền được cơ quan tiến hành tố tụng chứng minh đầy đủ hơn,
toàn diện hơn các tình tiết buộc tội. Xét về khía cạnh quyền của NCTNPT, quy
định này thể hiện tính nhân đạo của pháp luật trên cơ sở nguyên tắc suy đoán vô
tội: trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về các cơ quan tiến hành tố tụng,
nếu mọi nghi ngờ về hành vi phạm tội của NCTN không được loại trừ theo
86
trình tự, thủ tục do luật TTHS quy định thì phải được giải thích theo hướng có
lợi cho NCTNPT. Nguyên tắc suy đoán vô tội đã được áp dụng để quy định
về hướng suy đoán tuổi đối với trường hợp một người phạm tội có thể ở độ
tuổi thành niên hay chưa thành niên, đủ 16 tuổi hay chưa đủ 16 tuổi, đủ 14
tuổi hay chưa 14 tuổi theo hướng có lợi cho người phạm tội.
Ngoài độ tuổi, để bảo vệ quyền của NCTNPT, BLTTHS còn có các quy
định yêu cầu làm rõ trình độ phát triển về thể chất và tinh thần, mức độ nhận
thức về hành vi phạm tội của NCTN, điều kiện sinh sống, giáo dục của
NCTNPT, có hay không có người thành niên xúi giục, nguyên nhân điều kiện
phạm tội nhằm xác định cá tình tiết giảm nhẹ về nhân thân của NCTNPT.
Ba là, pháp luật về quyền của NCTNPT quy định việc áp dụng các
biện pháp ngăn chặn. Các văn bản quy phạm pháp luật về quyền của
NCTNPT đã quy định chặt chẽ về các biện pháp ngăn chặn. Việc quy định
này dựa trên những đặc điểm về tâm sinh lý, trí tuệ, hiểu biết của NCTN và
chính sách nhân đạo của nhà nước ta. Hiện nay, trong BLTTHS 2003 quy
định về các biện pháp ngăn chặn đối với NCTNPT hoàn toàn phù hợp với
Điểm b Điều 37 Công ước quyền trẻ em. Tinh thần chung được quy định
trong BLTTHS 2003 đó là chỉ áp dụng biện pháp tạm giam đối với NCTNPT
trong những trường hợp thật cần thiết khi áp dụng các biện pháp ngăn chặn
khác không có hiệu quả.
Trong BLTTHS 2003 quy định cụ thể việc hạn chế quyền tự do của
NCTNPT để khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử phải đáp ứng các điều kiện cụ thể
về độ tuổi, loại tội phạm, lỗi và một số yếu tố thuộc về nhân thân theo Điều 303
và các điều luật khác. Điều 303 BLTTHS 2003 đã thu hẹp đáng kể phạm vi
những trường hợp NCTNPT bị áp dụng các biện pháp ngăn chặn này. Cơ hội
không bị mất quyền tự do trong quá trình giải quyết vụ án của NCTNPT cũng
được mở rộng hơn. BLTTHS 2003 chỉ rõ, nếu thấy việc áp dụng biện pháp
ngăn chặn đối với NCTNPT là không cần thiết thì có thể ra quyết định giao
đối tượng cho cha mẹ, người đỡ đầu để giám sát và bảo đảm sự có mặt tại cơ
quan tiến hành tố tụng khi được triệu tập.
87
Bốn là, pháp luật quy định về quyền bào chữa đối với NCTNPT. Theo
BLTTHS 2003: Người đại diện hợp pháp của NCTNPT có thể lựa chọn người
bào chữa hoặc tự mình bào chữa cho NCTNPT. Trong trường hợp NCTNPT
hoặc đại diện hợp pháp của những người này không lựa chọn được người bào
chữa thì cơ quan tiến hành tố tụng phải yêu cầu Đoàn luật sư phân công Văn
phòng luật sư cử người bào chữa cho họ [49, Điều 305]. Quy định này phù
hợp với tư tưởng thể hiện trong Quy tắc Bắc Kinh: trong suốt quá trình tố
tụng NCTN có quyền được nhờ cố vấn đại diện pháp luật cho mình hoặc yêu
cầu giúp đỡ pháp lý miễn phí như điều khoản quy định sự giúp đỡ như thế ở
quốc gia đó. Cha mẹ, hoặc người giám hộ có quyền tham dự vào quá trình tố
tụng và có thể được yêu cầu tham dự vào quá trình đó [34, 15].
Quyền bào chữa của NCTNPT được thể hiện chặt chẽ thông qua quy
định về việc tham gia tố tụng của người bào chữa là bắt buộc. Tuy nhiên, đối
với những trường hợp khi phạm tội, người phạm tội là NCTN, nhưng khi khởi
tố, truy tố, xét xử mà họ đã đủ 18 tuổi thì không bắt buộc phải có sự tham gia
của người bào chữa. Theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 57 và Điều 305
BLTTHS 2003, thì NCTNPT hoặc đại diện hợp pháp của họ không lựa chọn
người bào chữa thì cơ quan tiến hành tố tụng yêu cầu Đoàn Luật sư phân công
Văn phòng Luật sư cử người bào chữa cho họ. Vấn đề này cũng được quy
định rõ trong Nghị quyết số 03/2004/NQ/HĐTP. Bên cạnh quyền được bào
chữa, thì Nghị quyết này cũng ghi nhận quyền thay đổi người bào chữa và
quyền từ chối người bào chữa của NCTNPT.
Năm là, pháp luật về quyền của NCTNPT quy định về việc tham gia tố
tụng của gia đình, nhà trường và tổ chức xã hội. Đại diện gia đình NCTNPT,
giáo viên, đại diện nhà trường, Đoàn TNCS Hồ Chí Minh, tổ chức khác nơi
người này học tập, lao động và sinh sống có quyền và nghĩa vụ tham gia tố tụng
theo quyết định của cơ quan có thẩm quyền.
Trường hợp NCTNPT từ đủ 14 đến dưới 16 tuổi thì việc lấy lời khai, hỏi
cung những người này phải có mặt đại diện của gia đình (trừ trường hợp cố ý
88
vắng mặt mà không có lý do chính đáng); đại diện gia đình có thể hỏi
NCTNPT nếu được người tiến hành tố tụng đồng ý; được đưa ra tài liệu, đồ
vật, yêu cầu, khiếu nại; được đọc hồ sơ vụ án khi kết thúc điều tra.
Tại phiên tòa xét xử NCTNPT phải có mặt đại diện của gia đình (trừ
trường hợp cố ý vắng mặt mà không có lý do chính đáng), đại diện của nhà
trường, tổ chức [49, Điều 306]. Tại phiên toà xét xử, sự tham gia của đại diện
gia đình NCTNPT, đại diện nhà trường hoặc tổ chức (nếu có) là bắt buộc.
Sáu là, pháp luật về quyền của NCTNPT được thể hiện trong các quy
định về điều tra, truy tố. Quyết định khởi tố vụ án hình sự là cơ sở pháp lý
đầu tiên để thực hiện điều tra. Sau khi khởi tố NCTNPT (khởi tố bị can là
NCTN), NCTNPT có các quyền:
Quyền được thông báo nhanh chóng và trực tiếp về những điều bị buộc
tội. Cơ quan khởi tố NCTNPT phải thông báo cho gia đình, người đại diện
hợp pháp của họ biết về việc NCTNPT bị khởi tố về tội gì [49, Điều 303(3)].
Quyền được xem xét trả tự do. Khi bị áp dụng một biện pháp ngăn chặn
hạn chế quyền tự do của NCTNPT, cơ quan tiến hành tố tụng phải xem xét
ngay việc áp dụng biện pháp đó có phù hợp trong trường hợp cụ thể này
không; có thể thay thế việc áp dụng biện pháp này bằng biện pháp không hạn
chế tự do mà vẫn phù hợp, để từ đó ra các quyết định trả tự do cho NCTNPT.
Quyền được trợ giúp pháp lý và những hỗ trợ phù hợp khác trong giai
đoạn này. Điều 11 quy định bị can, bị cáo có quyền nhờ người khác bào chữa.
Cơ quan tiến hành tố tụng có nhiệm vụ bảo đảm cho các đối tượng này thực
hiện quyền bào chữa của mình theo quy định của BLTTHS [49, Điều 11].
Theo quy định này, trong vụ án hình sự bị can, bị cáo đã thành niên hay chưa
thành niên đều có quyền bào chữa. Với NCTNPT tham gia vụ án hình sự với
các địa vị pháp lý này ngoài quy định ở Điều 11 BLTTHS 2003 về quyền bào
chữa còn có quy định tại Điều 305 của Bộ luật này và Nghị quyết của Hội
đồng thẩm phán TANDTC đã trình bày ở nội dung trên.
89
Quyền được ưu tiên giải quyết nhanh chóng, kịp thời vụ án. Quá trình xử
lý NCTNPT có thể ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự phát triển của NCTN nên
Công ước quyền trẻ em quy định rằng, khi NCTN bị tố cáo hoặc bị buộc tội vi
phạm hình sự có quyền được đưa vụ án ra xét xử và quyết định trong thời
gian sớm nhất có thể và thời hạn này phải ngắn hơn so với thời hạn tương ứng
trong vụ án của người đã thành niên [49, Điều 40(2)]. Phù hợp với quy định
này, BLTTHS cũng quy định về thời hạn điều tra tại Điều 119(2). Tuy nhiên,
đối với NCTN từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi, thời hạn điều tra là bốn tháng vì
các đối tượng này chỉ bị xử lý khi thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng hoặc
tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Hiện nay chưa có quy định riêng về thời hạn
điều tra các vụ án NCTNPT. Thông tư liên tịch số 01/2011/TTLT-VKSTC-
TANDTC-BCA-BTP-BLĐTBXH ngày 12/7/2011, khoản 6 Điều 3 quy định
các cơ quan tiến hành tố tụng cần ưu tiên giải quyết nhanh chóng, kịp thời các
vụ án có liên quan đến NCTNPT. Đây là tiến bộ của pháp luật nhằm tuân thủ
khuyến nghị của Uỷ ban quyền trẻ em - LHQ về yêu cầu các vụ án có
NCTNPT cần được xử lý nhanh hơn so với các vụ án thông thường, giảm
nguy cơ tổn hại và gián đoạn trong cuộc sống của các đối tượng này.
Quyền được đối xử thân thiện trong quá trình các chủ thể liên quan thu
thập chứng cứ, hỏi cung NCTNPT. Quyền này thể hiện những nội dung như:
Được quy định thông qua nguyên tắc của tố tụng hình sự: “Bảo đảm quyền
bất khả xâm phạm về thân thể của công dân” [49, Điều 6]; Được quy định
thông qua các yêu cầu đối với người tiến hành tố tụng hình sự (khoản 1 Điều
302 BLTTHS); Sự khác biệt trong việc thu thập chứng cứ đối với NCTNPT
so với người đã thành niên phạm tội. Mặc dù BLTTHS năm 2003 chưa có
điều khoản cụ thể nào quy định về vấn đề này, mà chỉ có Thông tư liên tịch
01/2011/TTLT hướng dẫn cụ thể tại Điều 10.
Bảy là, pháp luật về quyền của NCTNPT được thể hiện trong các quy
định về xét xử, bao gồm:
Quyền được suy đoán vô tội. Quyền này được quy định thông qua những
Nguyên tắc cơ bản của luật tố tụng hình sự, theo đó không ai bị coi là có tội
90
và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của Toà án đã có hiệu lực
pháp luật [49, Điều 9]. Bất kỳ ai, kể cả NCTN có hành vi nguy hiểm cho xã
hội, nhưng chưa có bản án của Toà án đã có hiệu lực pháp luật thì đều coi là
chưa có tội. Khi không đủ bằng chứng để chứng minh NCTNPT, việc suy
đoán cần được thực hiện theo hướng có lợi cho họ.
Quyền bí mật thông tin cá nhân (quyền riêng tư) của NCTNPT. Quyền
này được thể hiện thông qua quy định về việc xét xử kín [49, Điều 307(1)].
Điều 18 BLTTHS 2003 quy định những trường hợp Toà án có thể xét xử kín
là: để giữ bí mật nhà nước, bí mật của đương sự theo yêu cầu chính đáng; để
bảo vệ thuần phong mỹ tục của dân tộc. Thông tư liên tịch số 01/2011/TTLT
cũng quy định, ngoài các trường hợp quy định ở Điều 18 BLTTHS 2003, Tòa
án có thể quyết định xét xử kín vụ án có NCTNPT. Đặc biệt theo Thông tư
này, không được tiến hành xét xử lưu động vụ án có NCTNPT, trừ trường hợp
cần giáo dục, tuyên truyền pháp luật và phòng ngừa tội phạm.
Quyền của NCTNPT thể hiện thông qua các quy định về yêu cầu khi xét
xử vụ án có NCTNPT. BLTTHS 2003 và Thông tư liên tịch 01/2011/TTLT
hướng dẫn quy định của BLTTHS về NCTNPT đã xác định các yêu cầu này
khá chi tiết như: Thành phần Hội đồng xét xử vụ án NCTNPT (phải có Hội
thẩm nhân dân đang hoặc đã là giáo viên hoặc cán bộ Đoàn TNCS Hồ Chí
Minh); Xét xử kín vụ án có NCTNPT để tạo thuận lợi cho quá trình tái hòa
nhập cộng đồng. Khi xét xử, Tòa án có thể sắp xếp vị trí của những người tiến
hành tố tụng, những người tham gia tố tụng trong phòng xử án nhằm làm
giảm cảm giác căng thẳng, sợ hãi đối với NCTNP. Không còng tay hoặc sử
dụng các phương tiện cưỡng chế khác trong quá trình xét xử tại Tòa án (trừ
trường hợp đặc biệt). Tại phiên tòa xét xử phải có mặt đại diện của gia đình bị
cáo (trừ trường hợp khác) đại diện của nhà trường, tổ chức nơi học học tập, sinh
hoạt. Trường hợp cần thiết hoặc khi có yêu cầu, Tòa án có thể mời đại diện cơ
quan Lao động - Thương binh và Xã hội, Hội Phụ nữ, Đoàn TNCS Hồ Chí Minh
hoặc cán bộ trợ giúp khác tham gia phiên tòa để hỗ trợ cho họ. Việc thẩm vấn,
xét hỏi NCTNPT tại phiên tòa phải theo quy định tại Điều 209 BLTTHS và phù
91
hợp với lứa tuổi, mức độ phát triển của đối tượng. Những lời giải thích về quyền
và nghĩa vụ, thủ tục xét xử cũng như các câu hỏi đưa ra tại phiên tòa cần đơn
giản, rõ ràng để đảm bảo cho NCTNPT và đại diện gia đình của họ có thể hiểu
và trả lời đúng câu hỏi. Hội đồng xét xử phải cho phép NCTNPT bày tỏ ý kiến,
quan điểm, nguyện vọng của mình và phải cân nhắc, xem xét các ý kiến, quan
điểm, nguyện vọng đó trước khi ra bản án, quyết định.
Từ thực trạng các quy định về quyền của NCTNPT trong pháp luật ở
nước ta hiện nay, rút ra nhận xét sau:
Thứ nhất, nhìn tổng quan, pháp luật về quyền của NCTNPT đã được
quy định tương đối đầy đủ, cụ thể trong BLTTHS 2003 và các văn bản hướng
dẫn thi hành; điều chỉnh trực tiếp quan hệ tố tụng hình sự và với vai trò bảo vệ
quyền của NCTNPT trong tố tụng hình sự; các quy định của luật tố tụng hình
sự đã khẳng định sự tôn trọng và bảo vệ các quyền cơ bản của công dân trong
tố tụng hình sự. Các nguyên tắc trong Chương II BLTTHS 2003 là cơ sở pháp
lý để các hoạt động tố tụng hình sự tuân thủ nghiêm chỉnh.
Thứ hai, việc quy định thủ tục tố tụng hình sự có ý nghĩa rất quan trọng
đối với NCTNPT và liên quan trực tiếp đến quyền của các đối tượng này. Ý
nghĩa này được thể hiện qua: Một là, Thủ tục tố tụng hình sự đã hiện thực hoá
chính sách tố tụng hình sự đối với NCTNPT sao cho phù hợp với chính sách
nhân đạo của Đảng và Nhà nước ta và các quy định khác của pháp luật; Hai
là, việc quy định thủ tục tố tụng hình sự đối với NCTNPT không chỉ ghi nhận
cho họ được hưởng sự “ưu ái” so với người đã thành niên phạm tội, mà còn
bảo vệ các đối tượng này khỏi bị tổn thương trong quá trình giải quyết vụ án.
Thứ ba, quyền của NCTNPT đã được quy định cụ thể trong các quy
phạm về phạm vi áp dụng thủ tục tố tụng cho các đối tượng này. NCTNPT sẽ
được tiến hành theo thủ tục dành riêng và những quy định khác của BLTTHS
2003, không trái với các quy định “đặc biệt” nêu trên. Đây có thể nói là tiến
bộ của luật tố tụng hình sự trong điều kiện Việt Nam chưa có một đạo luật
điều chỉnh về NCTNPT. Những quy định này đã "mặc nhiên" xác nhận rằng,
92
NCTNPT là đối tượng đặc biệt trong tố tụng hình sự và họ có quyền riêng mà
trong những hoàn cảnh tương tự chỉ có họ mới được hưởng.
Thứ tư, pháp luật về quyền của NCTNPT được thể hiện đầy đủ, cụ thể và
sinh động trong các quy định về đối tượng chứng minh. Đối tượng chứng
minh là tổng hợp những vấn đề cần được xác định làm rõ để giải quyết đúng
đắn vụ án hình sự. Xác định đối tượng chứng minh là điều kiện cần thiết để
nhận thức vụ án, và trong lĩnh vực quyền của NCTNPT, nó ảnh hưởng trực
tiếp đến việc hưởng quyền hay bị tước quyền của NCTN.
Thứ năm, pháp luật tố tụng hiện hành đã dần dần xác lập mô hình điều
tra, xét xử theo hướng thân thiện đối với NCTNPT. Khi mô hình này hoàn
thiện thì quyền được đối xử phù hợp với lứa tuổi trong các hoạt động tố tụng
hình sự của NCTNPT sẽ được hiện thực hoá. Bởi lẽ mô hình này đòi hỏi đạt
được ba tiêu chí cơ bản bước đầu cần có là: có cơ sở vật chất; cách thức ứng
xử khi tiến hành hoạt động tố tụng đối với NCTNPT của người tiến hành tố
tụng; có cán bộ tiến hành tố tụng chuyên sâu về các vụ án có NCTNPT.
3.2.3. Pháp luật về quyền của người chưa thành niên phạm tội trong
các văn bản quy phạm pháp luật về thi hành án hình sự
Với ý nghĩa là giai đoạn cuối cùng của quá trình giải quyết vụ án, thi hành
án hình sự có quan hệ hữu cơ với các giai đoạn khởi tố, điều tra, truy tố và xét
xử. Thi hành án hình sự đối với NCTNPT tuân thủ theo các quy định cụ thể tại
Chương X BLHS 1999, Chương XXXII BLTTHS 2003, Luật thi hành án hình
sự; các Nghị định và quy chế trại giam. Trong các văn bản pháp luật này đã trực
tiếp và gián tiếp quy định quyền của NCTNPT, bao gồm:
Một là, pháp luật về quyền của NCTNPT quy định về chấp hành hình
phạt tù. Trong quá trình chấp hành hình phạt tù NCTNPT cũng được hưởng
những quyền cơ bản của công dân như quyền sống, quyền được pháp luật bảo
họ về tính mạng, danh dự, nhân phẩm, quyền bình đẳng trước pháp luật,
quyền không bị tra tấn, đánh đạp, trừng trị tàn bạo… BLTTHS 2003 và Luật
93
thi hành án hình sự 2010 đã có những quy định riêng (đặc thù) về cách thức
đối xử với NCTNPT theo đó đã xác lập các quyền của NCTNPT:
Quyền được giam giữ riêng với người đã thành niên. Điều 308 BLTTHS
2003 quy định như sau: NCTNPT chấp hành hình phạt tù theo chế độ giam
giữ riêng do pháp luật quy định; Không được giam giữ chung NCTN với
người thành niên [49, Điều 308(1)]. Luật thi hành án hình sự 2010 quy định
phạm nhân là NCTN được giam giữ theo chế độ riêng phù hợp với sức khoẻ,
giới tính và đặc điểm nhân thân, với tiêu chuẩn ăn, mặc, tư trang cao hơn so
với phạm nhân đã thành niên [53, Điều 52]. Quyền này được quy định cụ thể
như: diện tích phòng ở trên đầu phạm nhân, tiêu chuẩn về quần áo, thực phẩm
cho các đối tượng này phù hợp với sự phát triển. Điều này phù hợp với Công
ước quyền trẻ em, đó là, NCTN phải được giam giữ riêng với người thành
niên khi bị tước tự do và các quốc gia phải xây dựng cơ sở giam giữ riêng cho
NCTN [35, Điều 37(c)].
Quyền được học nghề, học văn hoá trong thời gian chấp hành hình phạt tù.
Theo quy định tại Điều 308 BLTTHS 2003, NCTN bị kết án phải được học
nghề hoặc học văn hoá trong thời gian chấp hành hình phạt tù [49, Điều
308(2)]. Luật thi hành án hình sự 2010 đã quy định: Trong thời gian chấp hành
án, trại giam có trách nhiệm giáo dục phạm nhân là NCTN về văn hoá, pháp
luật và dạy nghề phù hợp với lứa tuổi, trình độ văn hoá, giới tính, sức khoẻ,
chuẩn bị điều kiện để họ hoà nhập cộng đồng sau khi chấp hành xong án phạt
tù; trong đó thực hiện bắt buộc chương trình tiểu học, phổ cập trung học cơ sở
và học nghề [53, Điều 51(2)]. Như vậy, ngay cả khi phải chấp hành hình phạt
tù thì quyền được học tập của NCTN vẫn được hưởng, được Nhà nước quan
tâm, bảo đảm mục tiêu hoà nhập và giáo dục. Đây chính là một phương thức
Nhà nước sử dụng để bảo vệ quyền phát triển (theo nghĩa rộng) của NCTN.
Học văn hoá, học nghề là chế độ bắt buộc của NCTN chấp hành hình phạt tù.
NCTNPT khi chấp hành hình phạt tù được học tập thông qua các chương trình
xoá mù chữ, giáo dục phổ thông, đồng thời đo tiếp cận hệ thống dạy nghề, được
94
học một nghề phù hợp với giới tính, lứa tuổi và khả năng của mình nhằm chuẩn
bị điều kiện hoà nhập cộng đồng sau khi chấp hành xong hình phạt. Thông tư
liên tịch số 07/2007/TTLT-BCA-BQP-BTC ngày 06/7/2007 của Bộ Công an,
Bộ Quốc phòng, Bộ Tài chính hướng dẫn chế độ lao động, dạy nghề và sử
dụng kết quả lao động của phạm nhân trong trại giam, quy định NCTN được
miễn lao động nặng nhọc, độc hại theo danh mục của pháp luật. Phạm nhân
NCTN lao động 8 giờ trong 1 ngày, được nghỉ các ngày lễ, Tết, thứ bảy, chủ
nhật theo quy định của luật lao động. Thời gian phạm nhân học văn hoá, học
nghề, nghe phổ biến thời sự, chính sách, pháp luật, học chương trình giáo dục
công dân được trừ vào thời gian lao động.
Quyền được hưởng các chế độ về thăm, gặp, nhận gửi thư, quà. Luật thi
hành án hình sự 2010, phạm nhân là NCTNPT có quyền được gặp thân nhân
không quá ba lần trong một tháng, mỗi lần gặp không quá ba giờ, trường hợp
đặc biệt được gặp không quá 24 giờ; được liên lạc với thân nhân qua điện
thoại mỗi tháng không quá bốn lần, mỗi lần không quá 10 phút, có sự giám
sát của cán bộ trại giam và tự chịu chi phí [53, Điều 53]. Theo những quy
định này quyền của NCTNPT khi chấp hành hình phạt tù đã mở rộng và có sự
ưu đãi hơn so với các phạm nhân đã thành niên được hưởng.
Hai là, pháp luật về quyền của NCTNPT quy định về thi hành hình
phạt khác và các biện pháp tư pháp. Các hình phạt khác và biện pháp tư
pháp này bao gồm: cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ, án treo, giáo
dục tại xã, phường, thị trấn. Các biện pháp này đều được thi hành tại cộng
đồng nơi NCTNPT bị kết án hoặc bị áp dụng biện pháp tư pháp; phải chấp
hành đầy đủ các nghĩa vụ lao động, học tập, tuân thủ pháp luật dưới sự giám
sát chặt chẽ của chính quyền địa phương, gia đình, tổ chức xã hội mà không
có sự khác biệt đối với người đã thành niên. Nghị định số 10/2012/NĐ-CP
ngày 17/2/2012 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành biện pháp tư pháp
giáo dục tại xã, phường, thị trấn đối với NCTNPT có chỉ rõ: Không bị phân
biệt đối xử vì lỗi lầm; được tạo điều kiện lao động học tập, sinh hoạt tại cộng
95
đồng; được hướng dẫn các thủ tục và trợ giúp pháp lý theo quy định của pháp
luật; Được học văn hoá để xoá mù, hoàn thành chương trình giáo dục tiểu học,
trung học cơ sở; có quyền đề nghị các cơ sở giáo dục phổ thông, giáo dục
thường xuyên, giáo dục nghề nghiệp trong hệ thống giáo dục quốc dân để vào
học tập, đào tạo; Được tạo điều kiện tìm việc làm; được xem xét vay vốn từ các
ngân hàng chính sách xã hội, các quỹ tại địa phương; ...
Ba là, pháp luật về quyền của NCTNPT quy định về giảm thời gian
chấp hành hình phạt tù có thời hạn. Việc giảm thời gian chấp hành hình
phạt tù có thời hạn của NCTNPT về cơ bản được áp dụng theo các quy định
chung, nhưng cũng một số điểm đặc thù đó là: NCTNPT bị phạt chấp hành
hình phạt tù nếu có nhiều tiến bộ và chấp hành được ¼ thời hạn thì được Tòa
án xét giảm; NCTN bị kết án phạt tù có thời hạn nếu lập công hoặc mắc các
bệnh hiểm nghèo như HIV/AIDS thì được xét giảm ngay và có thể được miễn
chấp hành phần hình phạt còn lại; NCTN bị kết án chưa chấp hành xong hình
phạt, nếu lập công lớn hoặc mắc bệnh hiểm nghèo và không còn nguy hiểm
cho xã hội nữa thì được xét miễn chấp hành toàn bộ hình phạt.
Bốn là, pháp luật về quyền của NCTNPT quy định về thi hành biện
pháp đưa vào trường giáo dưỡng. Việc đưa NCTNPT vào trường giáo dưỡng
với tính chất là biện pháp tư pháp được áp dụng đối với NCTNPT theo quy
định tại Điều 70 BLHS 1999, chứ không phải là hình phạt. NCTNPT nếu do
tính chất nghiêm trọng của hành vi phạm tội, do nhân thân và môi trường
sống của người đó mà cần đưa vào một tổ chức kỷ luật chặt chẽ thì Toà án
quyết định đưa vào trường giáo dưỡng thời hạn từ 1 đến 2 năm. NCTNPT
được quản lý, giáo dục đạo đức, pháp luật, được hướng nghiệp, dạy văn hoá,
dạy nghề và được sinh hoạt phù hợp với lứa tuổi. Tiêu chuẩn, chế độ của
NCTNPT được hưởng theo quy định của Chính phủ về trường giáo dưỡng.
Năm là, pháp luật về quyền của NCTNPT quy định về xoá án tích.
BLTTHS 2003 quy định, việc xoá án tích đối với NCTNPT khi có đủ điều
kiện quy định tại Điều 77 BLHS 1999 được tiến hành theo thủ tục chung, thời
96
hạn để xoá án tích đối với các đối tượng này là ½ thời hạn quy định tại Điều
64 của Bộ luật này [49, Điều 310]. Xoá án tích là quyền có ý nghĩa đặc biệt
quan trọng đối với khả năng phục hồi và tái hoà nhập của NCTNPT. Quyền
này của NCTNPT có tính đến yếu tố đặc thù và được giảm nhẹ hơn so với
người đã thành niên.
Sáu là, pháp luật quyền của NCTN quy định về tái hoà nhập khi chấp
hành xong hình phạt tù. BLTTHS 2003 quy định, đối với NCTN chấp hành
xong hình phạt tù, Ban Giám thị trại giam phải phối hợp với chính quyền và
tổ chức xã hội ở xã, phường, thị trấn để giúp người đó trở về cuộc sống bình
thường [49, Điều 308(4). Việc chuẩn bị cho NCTN hết thời hạn chấp hành
hình phạt tù tái hoà nhập cộng đồng tại các trại giam được tiến hành trong
thời gian 2 tháng trước khi hết thời hạn chấp hành hình phạt tù của NCTN. Để
có cơ sở định hướng cho việc tái hoà nhập của NCTNPT với cộng đồng, có
hai vấn đề rất quan trọng đã được đề cập đến đó là: cơ sở pháp lý của tái hoà
nhập và các yếu tố tâm lý, các nhu cầu cơ bản của NCTN đã có quá khứ phạm
tội. Điều này đã được quy định rõ trong các văn bản pháp luật.
Từ thực trạng quy định của pháp luật về quyền của NCTNPT trong thi
hành án hình sự và tái hoà nhập cộng đồng, rút ra nhận xét sau:
- Pháp luật về quyền của NCTNPT quy định NCTNPT có quyền được
giam giữ riêng với người đã thành niên. Khi NCTNPT chấp hành hình phạt tù
được hưởng nhiều ưu ái về chế độ thăm nuôi cũng như việc miễn giảm, tha tù
trước thời hạn. Ngoài việc được hưởng chế độ chăm sóc theo đúng quy định
phù hợp với khả năng thực tế của Nhà nước, thì phạm nhân là NCTN được
cho phép thăm nuôi dễ dàng và thuận lợi hơn người đã thành niên.
- Trong thời gian chấp hành hình phạt tù, NCTNPT vẫn được học văn
hoá, học nghề phù hợp với lứa tuổi, trình độ, giới tính để khi mãn hạn trở về
cộng đồng có thể nhanh chóng hoà nhập với cộng đồng.
97
- NCTNPT chấp hành hình phạt tù phải thực hiện việc lao động cải tạo,
song được bố trí các công việc nhẹ nhàng và có tính chất hướng nghiệp.
- Khi chấp hành xong hình phạt tù, NCTN được các chủ thể có liên quan
giúp đõ trở về hoà nhập với cộng đồng, tạo cơ hộ có công ăn việc làm hoặc
tham gia các hoạt động xã hội.
3.3.4. Nguyên nhân đạt được những thành tựu của pháp luật về
quyền của người chưa thành niên phạm tội ở Việt Nam hiện nay
Những thành tựu đạt được của pháp luật về quyền của NCTNPT trong
thời gian qua ở Việt Nam về cơ bản là do những nguyên nhân sau đây:
Thứ nhất, vấn đề NCTNPT và quyền của NCTNPT không chỉ là mối
quan tâm đặc biệt của Đảng và Nhà nước Việt Nam, mà còn là mối quan tâm
thường xuyên của mỗi gia đình và xã hội. Với sự nỗ lực của Nhà nước và xã
hội, trong thời gian qua đã có những thúc đẩy quan trọng cho việc xây dựng
và hoàn thiện pháp luật về quyền của NCTNPT. Trong những năm gần đây
Nhà nước ta thực hiện chủ trương cải cách tư pháp theo tinh thần của Nghị
quyết Đại hội toàn quốc lần thứ X của Đảng và các Nghị quyết của Bộ Chính
trị (Nghị quyết số 08/NQ-TW, Nghị quyết số 48/NQ-TW, Nghị quyết số
49/NQ-TW…). Đây là những định hướng chính trị quan trọng cho việc thể
chế hóa các quan điểm, chính sách của Đảng và Nhà nước về quyền con
người và quyền của NCTN, NCTNPT trong pháp luật.
Thứ hai, trong thời gian qua, sự phát triển về quyền con người, quyền cơ
bản của công dân thể hiện sự đổi mới tư duy nhận thức trong việc ghi nhận và
đảm bảo các quyền này trên thực tế. Từ bối cảnh chung đó, quyền con người
trong tố tụng hình sự, đặc biệt là quyền của NCTN khi đối mặt với những
nguy cơ phải thiết lập quan hệ với Nhà nước (thông qua các cơ quan nhà
nước), trong điều kiện các em còn non nớt về thể chất, hạn chế về trí tuệ, đã
có sự đổi mới và đánh giá toàn diện. Sự phát triển, bổ sung và đề cao quyền
con người, quyền của các đối tượng dễ bị tổn thương (trong đó có quyền của
NCTNPT) luôn luôn được quan tâm và đặt ra yêu cầu thường xuyên cụ thể
98
hóa, bổ sung, xây dựng mới các quy phạm pháp luật làm cơ sở pháp lý cho
việc hưởng quyền và bảo vệ các quyền.
Thứ ba, kinh tế xã hội ngày càng phát triển, điều kiện vật chất - kỹ
thuật ngày càng được nâng cao tạo điều kiện thuận lợi cho các chủ thể có
thẩm quyền tiến hành rà soát, sửa đổi, bổ sung và ban hành mới các quy phạm
pháp luật trong đó có các quy phạm pháp luật về quyền của NCTNPT. Quy
trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật đã được đổi mới, trong
đó phải kể đến sự tham gia tích cực của các chủ thể trong xã hội, nhất là các
cơ quan chức năng đang hàng ngày làm việc với trẻ em, NCTN, đang trực tiếp
thực thi pháp luật về NCTN và quyền của NCTNPT.
Thứ tư, kể từ khi LHQ được thành lập, tổ chức này đã thông qua hàng
3.3. NHỮNG HẠN CHẾ, BẤT CẬP CỦA PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN
CỦA NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN PHẠM TỘI VÀ NGUYÊN NHÂN
trăm văn kiện quốc tế về quyền con người, trong đó có khoảng 1/3 đề cập đến
quyền trẻ em và tư pháp đối với NCTNPT. Các nguyên tắc, tiêu chuẩn và
hướng dẫn quốc tế về tư pháp đối với NCTNPT đã tác động to lớn tới cách
nhìn nhận của các quốc gia về quyền của NCTNPT, cũng như về hoàn cảnh
và nhu cầu của các em, đặc biệt trong tố tụng hình sự. Trong giai đoạn hiện
nay, hầu hết các quốc gia đã tham gia Công ước quyền trẻ em và tự nguyện
tuân thủ các văn kiện quốc tế về tư pháp đối với NCTN, coi đó là những
chuẩn mực, thước đo chung để đánh giá, hoàn thiện hệ thống các quy định về
quyền của NCTNPT ở quốc gia mình.
3.3.1. Những hạn chế, bất cập của pháp luật về quyền của người
chưa thành niên phạm tội
Bên cạnh những thành tựu đạt được, pháp luật về quyền của NCTNPT ở
Việt Nam hiện nay có một số hạn chế, bất cập nhất định. Hiện tại, Việt Nam
chưa có một văn bản pháp luật cụ thể quy định về quyền của NCTNPT. Các
quy định về quyền của NCTNPT nằm rải rác ở nhiều văn bản pháp luật khác
nhau, được ban hành vào những thời điểm khác nhau, và có giá trị pháp lý
99
khác nhau. Chính vì thế, trong thực tế có những quy định về quyền của
NCTNPT chưa thống nhất với nhau, thậm chí chồng chéo nhau dẫn đến khó
thực thi, làm ảnh hưởng đến việc hưởng quyền của NCTNPT, đến quan hệ
pháp luật hình sự, quan hệ pháp luật tố tụng hình sự liên quan trực tiếp đến
quyền, tự do, lợi ích hợp pháp của chủ thể tham gia vào các quan hệ đó.
Thứ nhất, những hạn chế, bất cập của pháp luật về quyền của
NCTNPT trong các quy phạm pháp luật hình sự
Quyền của NCTNPT được quy định trong các quy phạm pháp luật hình
sự thông qua hai nội dung chủ yếu là tội phạm và hình phạt.
Một là, hiện nay chưa có những quy định thể hiện đường lối xử lý mang
tính phân hoá giữa các trường hợp NCTNPT ở các giai đoạn phạm tội khác
nhau. Trong các quy định về NCTNPT, ngoài quy định mang tính nguyên tắc
về áp dụng hình phạt là phải căn cứ vào tính chất của hành vi phạm tội, vào
đặc điểm về nhân thân và yêu cầu của việc phòng ngừa tội phạm, không có
quy định nào cụ thể hoá yêu cầu về việc giảm nhẹ hình phạt đối với NCTNPT
ở giai đoạn chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa đạt so với trường hợp tội
phạm hoàn thành.
Hai là, quy định về hệ thống chế tài hình sự áp dụng đối với NCTNPT
còn bất cập, làm cho việc hưởng quyền của các đối tượng này bị hạn chế.
Trong số các hình phạt không tước tự do có thể áp dụng với NCTNPT, có
hình phạt chưa thực sự phù hợp với đặc điểm tâm, sinh lý cũng như nhu cầu
giáo dục, phục hồi của đối tượng này. Hình phạt cảnh cáo là hình phạt nhẹ
nhất trong hệ thống hình phạt, thể hiện sự khiển trách công khai của Nhà nước
đối với người phạm tội. Sau khi Hội đồng xét xử tuyên án thì hình phạt cũng
được thi hành xong. Hình phạt này trong trường hợp cụ thể không phát huy
tác dụng đối với NCTNPT vì không có cơ chế theo dõi, hỗ trợ NCTN nhận
thức được lỗi lầm và khắc phục các nguyên nhân, điều kiện phạm tội.
Hiệu quả giáo dục của hình phạt phạt tiền đối với NCTNPT cũng là vấn
đề cần suy nghĩ. Hình phạt này “đánh” vào lợi ích vật chất của người phạm
100
tội, khiến cho người phạm tội không dám tiếp tục phạm tội trong tương lai.
Thực tế hiện nay, một số NCTNPT mặc dù có tài sản riêng nhưng chưa ý thức
được đầy đủ giá trị của đồng tiền, chưa nhận thức được những vất vả, khó
nhọc để kiếm ra đồng tiền. Việc áp dụng hình phạt phạt tiền đối với những đối
tượng này vì thế không thực sự hiệu quả.
Ba là, hệ thống chế tài áp dụng đối với NCTNPT còn mang nặng tính
giam giữ. Trong số các chế tài có thể áp dụng đối với NCTNPT, chỉ có hai
chế tài có thể áp dụng đối với NCTN từ đủ 14 tuổi đến chưa đủ 16 tuổi và cả
hai chế tài này đề là chế tài tước tự do, đó là đưa vào trường giáo dưỡng hoặc
tù có thời hạn. Lý do là bởi đối tượng này chỉ bị truy cứu TNHS khi phạm tội
rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng, mà đối với những tội
phạm này thì luật lại không quy định các chế tài không tước tự do. Thực tiễn
cho thấy, có trường hợp NCTNPT đặc biệt nghiêm trọng do vô ý, không nhận
thức được đầy đủ hậu quả do hành vi của mình có thể gây ra, ví dụ như cắt
trộm đường dây điện thoại. Cũng có trường hợp phạm tội rất nghiêm trọng do
cố ý nhưng lần đầu, do thiếu kỹ năng sống cần thiết như kỹ năng kiềm chế
nóng giận, giải quyết xung đột một cách hoà bình, v.v. Đối với những trường
hợp như vậy, nếu chúng ta có những chế tài không tước tự do và phát huy vai
trò của các thành tố trong cộng đồng như dòng họ, hàng xóm láng giềng, tổ
dân phố, Đoàn Thanh niên... để kèm cặp, giáo dục thật chặt chẽ, lôi cuốn đối
tượng này vào các hoạt động bổ ích ngay tại cộng đồng, kết hợp giữa giải
quyết những nguyên nhân, điều kiện dẫn đến phạm tội với giúp họ hàn gắn
những mối quan hệ với người bị hại, với chính gia đình và cộng đồng của
mình đã bị dạn nứt do hành vi phạm tội gây ra, thì có lẽ không cần phải đưa
vào trường giáo dưỡng hay trại cải tạo - một môi trường hoàn toàn không có
lợi cho sự phát triển, hoàn thiện nhân cách của NCTN trong tương lai.
Đối với NCTNPT từ đủ 16 tuổi trở lên, mặc dù hai phần ba trên tổng số
sáu chế tài là chế tài không tước tự do, nhưng thực tiễn, việc áp dụng các chế
101
tài này đối với NCTNPT lại khá hạn chế. Đây chính là nguyên nhân khiến
Toà án ngần ngại áp dụng những hình phạt này vì hiệu quả giáo dục, phục hồi
chưa cao của một số hình phạt không tước tự do như đã phân tích ở trên.
Bốn là, quy định về hình phạt tù có thời hạn đối với NCTNPT mới chỉ
dừng lại ở việc khống chế mức hình phạt tối đa mà chưa xác định mức hình
phạt tối thiểu. Rõ ràng các quy định này thiếu tính cụ thể dẫn đến việc xác
định mức hình phạt tù tối thiểu được áp dụng đối với NCTNPT trong các
trường hợp cụ thể không thống nhất.
Năm là, trong các quy định về quyền của NCTNPT không có quy định
về quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của BLHS 1999 nên Điều 47 quy
định về vấn đề này sẽ được vận dụng chung cho cả NCTNPT và người đã
thành niên phạm tội. Vấn đề nảy sinh ở đây là, do cùng sử dụng chung khung
hình phạt được quy định trong các điều luật về tội phạm cụ thể, để giảm nhẹ
hình phạt theo mọi tiêu chí sẽ dẫn đến bất hợp lý trong giới hạn giảm nhẹ hình
phạt khi vận dụng Điều 47 BLHS 1999 đối với NCTNPT. Điều này không thể
hiện tính đặc thù về quyền của NCTNPT được hưởng trong việc quyết định
hình phạt nhẹ hơn quy định của pháp luật hình sự.
Sáu là, pháp luật hình sự chưa cụ thể hóa các mức hình phạt tương ứng
với tính chất mức độ phạm tội đối với NCTNPT. Tại Điều 74 BLHS chỉ quy
định mức hình phạt tù có thời hạn cho 2 nhóm độ tuổi (từ đủ 16 tuổi đến dưới
18 tuổi và từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi), đã tạo nên sự không hợp lý, nhiều
trường hợp gây bức trong xã hội khi đặt các trường hợp phạm tội của NCTN
cạnh nhau. Ví dụ như trường hợp của Lê Văn Luyện (Bắc Giang) thực hiện
tội phạm đặc biệt nghiêm trọng gây hậu quả đặc biệt lớn (3 người chết, 1
người bị thương, tài sản bị chiếm đoạt lên tới hàng tỷ đồng) khi đối tượng này
đã gần đủ 18 tuổi. Còn trong những trường hợp khác, cũng thực hiện tội phạm
đặc biệt nghiêm trọng nhưng chỉ gây hậu quả 1 người chết, nhân thân tương
tự như trường hợp nêu trên thì cũng vẫn áp dụng khoản 1 Điều 74 BLHS.
102
Bảy là, pháp luật về quyền của NCTNPT khi quy định về miễn, giảm chế
tài hình sự đối với NCTNPT thể hiện rõ quan điểm hạn chế tối đa thời gian
NCTNPT phải ở trong trường giáo dưỡng và trại cải tạo. Tuy nhiên, chưa có
quy định nhằm bảo đảm hiệu quả giáo dục, phục hồi, ngăn ngừa tái phạm của
các đối tượng này. Bởi vì, quy định về miễn chấp hành hình phạt tù còn lại,
chấm dứt thời hạn ở trường giáo dưỡng đều theo hướng không có ràng buộc
đối với NCTN được trả tự do và những yếu tố nguy cơ, nguyên nhân, điều
kiện phạm tội của NCTNPT chưa được giải quyết đầy đủ, NCTNPT được trả
tự do mà không có ràng buộc sẽ dễ quay trở lại con đường vi phạm pháp luật.
Tám là, mặc dù trong pháp luật hình sự đã có quy định về miễn TNHS
đối với NCTNPT ít nghiêm trọng hoặc nghiêm trọng, gây hại không lớn, được
gia đình, cơ quan, tổ chức nhận giám sát, giáo dục và đây chính là con đường
mà NCTNPT được hưởng quyền không bị xử lý chính thức và giao cho gia
đình, cơ quan, tổ chức giám sát, giáo dục. Trên thực tế, biện pháp này còn ít
được áp dụng do thiếu hướng dẫn cụ thể về cách thức giám sát, giáo dục.
Pháp luật cũng chưa quy định hậu quả pháp lý đối với trường hợp NCTN
được áp dụng chế tài này, nhưng lại tiếp tục có những hành vi vi phạm pháp
luật, không tuân thủ sự giám sát, giáo dục của gia đình, cơ quan, tổ chức.
Thứ hai, những hạn chế, bất cập của pháp luật về quyền của
NCTNPT trong các quy phạm pháp luật tố tụng hình sự
Đánh giá quyền của NCTNPT trong các quy định của pháp luật tố tụng
hiện nay có thể khái quát ở những điểm sau đây:
Một là, một số quy định trong các văn bản pháp luật tố tụng hình sự chưa
tương thích với các chuẩn mực quốc tế về các quyền được đảm bảo lợi ích tốt
nhất của trẻ em, quyền không biệt đối xử, quyền sống còn, phát triển của
NCTNPT. Chẳng hạn, hiện nay pháp luật về quyền của NCTNPT chưa có quy
định về quyền được học văn hóa, được chăm sóc đầy đủ và cung cấp dinh
dưỡng phù hợp với lứa tuổi trong trường hợp NCTNPT bị tạm giam.
Hai là, Việt Nam chưa có hệ thống tư pháp dành riêng cho NCTN nói
chung, NCTNPT nói riêng. BLTTHS 2003 và các quy định khác mới chỉ có
103
một số điều luật áp dụng riêng với NCTNPT. Tuy nhiên các quy định này lại
chưa chi tiết và chưa quy định một cách cụ thể NCTNPT được hưởng quyền
gì. Quyền của NCTNPT được hiểu gián tiếp thông qua các nghĩa vụ, trách
nhiệm, yêu cầu đối với cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng và
các chủ thể liên quan.
Ba là, một số quy phạm pháp luật tố tụng hình sự chưa quy định đầy đủ,
cụ thể về quyền được bảo vệ danh dự, nhân phẩm và quyền riêng tư của
NCTNPT. Quy định về bảo vệ danh dự, nhân phẩm và quyền riêng tư của
người phạm tội còn khá chung chung, áp dụng cho cả NCTNPT và người đã
thành niên. Quyền riêng tư của NCTNPT được thể hiện rõ nhất trong quy định
về việc xét xử kín. Tuy nhiên quy định này thực tế chưa thể bảo đảm quyền
riêng tư của NCTNPT bởi lẽ, vẫn có thể xét xử công khai, vẫn thông tin trực
tiếp về nhân thân và hình ảnh của NCTNPT cho các cơ quan truyền thông.
Bốn là, quy định về việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn thể hiện một
số điểm bất cập, hạn chế về quyền của NCTNPT, cụ thể: Các văn bản pháp
luật tố tụng mới chỉ hạn chế gia hạn tạm giam mà chưa có quy định về thời
hạn tạm giam rút ngắn đối với NCTNPT. Công ước quyền trẻ em khẳng định
rằng, việc giam giữ hay bỏ tù trẻ em phải được tiến hành phù hợp với pháp luật
và chỉ được coi là biện pháp cuối cùng và áp dụng trong thời hạn thích hợp ngắn
nhất [35]. Tuy nhiên, việc áp dụng trong thời hạn thích hợp ngắn nhất chưa
được thể hiện, điều này có nghĩa rằng, khi NCTNPT bị áp dụng biện pháp tạm
giam thì “bình đẳng” như đối với người đã thành niên về thời hạn tạm giam. Đây
chính là biểu hiện của sự không phù hợp trong các quy định về quyền của
NCTNPT so với các chuẩn mực quốc tế; đồng thời chưa thể hiện chính sách đối
xử đặc biệt đối với NCTNPT về vấn đề này ở Việt Nam.
Hạn chế của BLTTHS hiện hành là chưa quy định về chế độ tạm giam
NCTNPT (dù chỉ là quy định mang tính nguyên tắc). Thực tế chưa có sự phân
hoá điều kiện, tiêu chuẩn mà NCTN và người thành niên được hưởng khi bị
tạm giam, chưa có quy định về giam giữ NCTNPT trong các nơi tạm giam.
104
Ngoài biện pháp ngăn chặn nêu trên, NCTNPT còn có thể được áp dụng
các biện pháp ngăn chặn khác quy định tại Điều 91, 92, 93 của BLTTHS 2003.
Tuy nhiên các biện pháp ngăn chặn khác này lại chưa được quy định cụ thể
được áp dụng như thế nào đối với NCTNPT, có giống như đối với người đã
thành niên phạm tội không, biện pháp Cấm đi khỏi nơi cư trú có được linh hoạt
áp dụng để thay thế biện pháp tạm giam đã được áp dụng trước đó không v.v,
những vấn đề này chưa được các nhà làm luật quy định cụ thể. Xét ở khía cạnh
ưu tiên, đây là những biện pháp cần được áp dụng đối với NCTNPT để thay thế
các biện pháp tạm thời hạn chế quyền tự do của họ.
Năm là, quy định về quyền của NCTNPT được nhờ người bào chữa
trong BLTTHS 2003 chưa hợp lý. Các Điều 48, 49, 50, 57 BLTTHS 2003
quy định quyền của bị can, bị cáo là NCTN hoặc người đại diện hợp pháp của
các đối tượng này được nhờ người khác bào chữa. Tuy nhiên trong bối cảnh
thực tế đang tạm giam, các đối tượng này khó có thể lựa chọn được người bào
chữa. Còn người đại diện hợp pháp của họ có thể lựa chọn người bào chữa
nhưng thường gặp khó khăn liên quan đến việc cấp Giấy chứng nhận cho
người bào chữa. Do vậy quy định này chưa hợp lý, mang tính hình thức, khó
thực hiện được trên thực tế.
Sáu là, ở Việt Nam chưa có quy định cụ thể về quyền của NCTNPT
được tiếp cận kỹ năng làm việc thân thiện. Điều này rất có ý nghĩa đối với
NCTNPT. Thông qua kỹ năng tiếp cận thân thiện của người tiến hành tố tụng
làm giảm bớt những tác động tiêu cực của hệ thống tư pháp tới sự phát triển
về tâm lý xã hội và phúc lợi của NCTN. Cần thiết phải quy định một số tiêu
chuẩn nhất định trong các văn bản pháp luật tố tụng hình sự để từ đó
NCTNPT được làm việc với các cơ quan tiến hành tố tụng trong không gian,
bầu không khí và những điều kiện thuận lợi, phù hợp với sự phát triển của họ.
Bảy là, quyền được giữ bí mật thông tin cá nhân (riêng tư) của NCTNPT
quy định tại Điều 307 BLTTHS 2003 và các văn bản hướng dẫn thi hành Bộ
luật này chưa chặt chẽ. Theo quy định nêu trên, việc xét xử kín chưa phải là
105
một nguyên tắc bắt buộc đối với các vụ án có NCTNPT trong tố tụng hình sự
Việt Nam. Quy định về xét xử kín nhưng không hoàn toàn đồng nghĩa với
việc giữ kín thông tin về NCTNPT bởi vẫn phải tuyên án công khai. Đồng
thời, cũng chưa có quy định về hạn chế việc nhận dạng NCTNPT trên các
phương tiện thông tin đại chúng.
Cũng liên quan đến vấn đề xét xử kín và quyền riêng tư của NCTNPT,
hình thức xét xử lưu động vụ án có NCTNPT để tăng tính giáo dục, răn đe
chung theo quy định hiện nay đã vi phạm quyền về đời tư của NCTN. Cho dù
quy định về xét xử lưu động đối với NCTNPT đã hạn chế phạm vi áp dụng
nhưng vẫn chưa triệt để, bởi trong quy định này vẫn dự kiến khả năng tổ chức
xét xử lưu động những vụ án có NCTNPT trong trường hợp cần giáo dục,
tuyên truyền pháp luật và phòng ngừa tội phạm.
Tám là, quy định về sự tham gia của đại diện gia đình NCTNPT, nhà
trường, các tổ chức xã hội… vào quá trình tố tụng nói chung, đặc biệt vào việc
xét xử chưa cụ thể và chưa thống nhất với một số quy định khác. Tại khoản 3
Điều 306 BLTTHS 2003 quy định, tại phiên toà xét xử bị cáo là NCTN phải có
mặt đại diện gia đình bị cáo, trừ trường hợp đại diện gia đình cố ý vắng mặt mà
không có lý do chính đáng, đại diện của nhà trường, tổ chức. Như vậy, với quy
định này, trong trường hợp đại diện gia đình NCTNPT vắng mặt tại phiên toà
mà không có lý do chính đáng hoặc vắng đại diện của nhà trường, tổ chức thì
Toà án phải hoãn phiên toà vì sự có mặt của những người này là bắt buộc. Tuy
nhiên, cũng trong BLTTHS 2003, quy định để hoãn phiên toà tại Điều 194 lại
không dẫn chiếu đến trường hợp vắng mặt nêu trên.
Chín là, quyền của NCTNPT được giải quyết vụ án với thời hạn ngắn
hơn (rút gọn) chưa được quy định rõ. Khoản 6 Điều 3 Thông tư liên tịch số
01/2011/TTLT có quy định về việc ưu tiên giải quyết nhanh chóng, chính xác,
kịp thời liên quan đến NCTN, nhưng giải quyết nhanh chóng là giải quyết thế
nào, trong bao lâu chưa được quy định. Ngay cả BLTTHS 2003 vẫn chưa đặt
106
ra thời hạn tối đa đối với quá trình giải quyết một vụ án mà mới chỉ quy định
về thời hạn khởi tố, thời hạn điều tra, thời hạn truy tố, thời hạn xét xử nên
không thể biết thời hạn nhanh chóng là thế nào. Trong khi đó, thủ tục rút gọn
quy định tại chương XXXIV của BLTTHS 2003 lại không xác định vụ án liên
quan đến NCTNPT là một trong số loại án phải áp dụng thủ tục đặc biệt này.
Thứ ba, những hạn chế, bất cập của pháp luật về quyền của NCTNPT
trong các quy phạm pháp luật thi hành án và các văn bản khác
Một là, hiện nay chưa có quy định về những quyền đặc thù trong chế độ
thi hành hình phạt cải tạo không giam giữ, án treo đối với NCTNPT mà vẫn
áp dụng quy định chung như đối với người đã thành niên phạm tội.
Hai là, phạt tù là hình phạt tước quyền tự do có thời hạn đối với
NCTNPT, còn đưa NCTNPT vào trường giáo dưỡng không phải là hình phạt
mà là biệt pháp tư pháp nhưng cũng hạn chế tự do, cách ly NCTNPT khỏi môi
trường xã hội bình thường trong một thời gian nhất định. Cả hình phạt tù và
biện pháp tư pháp này đều được áp dụng đối với NCTNPT, tuy nhiên việc
quy định các chế độ mà NCTNPT được hưởng có sự bất hợp lý. Luật thi hành
án hình sự 2010, tại các điều 42, 52 và 132 quy định phạm nhân là NCTN
được bảo đảm tiêu chuẩn định lượng ăn như phạm nhân là người thành niên
[53, Điều 52(1)]. Theo đó, phạm nhân được bảo đảm tiêu chuẩn định lượng,
ngày lễ, tết theo quy định của pháp luật phạm nhân được ăn thêm nhưng mức
ăn không quá năm lần tiêu chuẩn ăn thường ngày [53, Điều 42(1)]. Ngày lễ,
tết theo quy định của Luật lao động bao gồm các ngày: Tết dương lịch, ngày
Giỗ tổ Hùng Vương; 30/4, 1/5, 2/9 và Tết Nguyên đán. Trong khi đó, đối với
NCTNPT bị áp dụng biện pháp tư pháp đưa vào trường giáo dưỡng thì quy
định: học sinh được bảo đảm tiêu chuẩn định lượng ăn, ngày lễ, tết dương lịch
được ăn thêm không quá ba lần tiêu chuẩn ăn ngày thường; ngày Tết Nguyên
đán được ăn thêm không quá năm lần ngày thường [53, Điều 132(1)].
107
Ba là, quy định về quyền được học văn hoá của NCTN tại các cơ sở thi
hành án mang tính hình thức và không quy định mang tính bắt buộc vì thế
việc hưởng quyền của NCTN đối với vấn đề này không khả thi.
Trong thời gian thi hành hình phạt NCTN được trại giam, trường giáo
dưỡng tổ chức dạy học xoá mù chữ và phổ cập tiểu học. Mặc dù thực tế, các
trại giam đã có nhiều cố gắng nhưng do đặc điểm nhân thân, điều kiện tổ chức
dạy và học tại trại giam gặp rất nhiều khó khăn: số phạm nhân NCTN cần xoá
mù, phổ cập tiểu học quá ít, không cùng trình độ, nên không thể tổ chức được
lớp học. Hơn nữa, chưa có chế tài đối với các trường hợp không tổ chức học
văn hóa cho NCTNPT nên quy định này chưa được thực hiện trên thực tế.
Bốn là, quy định quyền được học nghề của NCTN tại cơ sở thi hành án.
Quyền này mang tính nhân văn, nhân đạo của Nhà nước đối với phạm nhân
NCTN. Cũng giống như quyền được học văn hoá tại các cơ sở thi hành án,
quyền được học nghề theo quy định hiện nay mang tính hình thức. Đa số các
nghề dạy tại cơ sở thi hành án chỉ là các nghề phổ thông nên rất khó khăn cho
NCTNPT có thể kiếm sống khi tái hoà nhập cộng đồng.
Năm là, các quy định về quyền được hưởng sự chăm sóc sức khoẻ, vui
chơi giải trí của phạm nhân NCTN chưa phù hợp với sự phát triển bình
thường đối với NCTN. Cụ thể:
- Theo quy định hiện nay tiêu chuẩn ăn của NCTN tại các cơ sở thi hành
án (trại giam và trường giáo dưỡng) là 17 kg gạo/tháng chưa phù hợp với lứa
tuổi đang phát triển. Với mức lương thực này, chưa thể cung cấp đủ năng
lượng cho sự phát triển của NCTN trong giai đoạn này. Đồng thời tiêu chuẩn
về thực phẩm đáp ứng cho sự phát triển đầy đủ về thể chất của NCTN cũng
không phù hợp (tiêu chuẩn 1kg cá, 1kg thịt/tháng).
- Quy định về diện tích sàn tối thiểu 2m2/người là quá chật chội để
NCTN có môi trường sống đảm bảo cho phát triển phù hợp về thể chất; đồng
thời cũng không có sự phân hoá giữa NCTN với người đã thành niên.
108
- Quyền được vui chơi, giải trí lành mạnh, được hoạt động văn hoá, văn
nghệ là quyền được quy định trong Luật BV,CS,GD trẻ em 2004, và được quy
định trong các văn bản pháp luật về thi hành án hình sự đối với NCTN. Việc
vui chơi, giải trí, tham gia các hoạt động văn hoá, văn nghệ là điều kiện không
thể thiếu trong quá trình hình thành và phát triển thể lực, trí lực của NCTN,
nhưng hiện nay việc quy định quyền này đối với NCTN trong các cơ sở thi
hành án mang tính hình thức, không có điều kiện thực hiện trên thực tế.
Sáu là, quy định về quyền được giúp đỡ để tái hoà nhập cộng đồng của
NCTN sau khi hết thời hạn chấp hành hình phạt hoặc biện pháp tư pháp được
quy định trong Điều 58 Luật BV,CS,GD trẻ em 2004 còn chung chung, chưa
cụ thể. Hiện tại, vẫn chưa quy định một cơ chế rõ ràng với một cơ quan đầu
mối có trách nhiệm thực hiện quyền được hỗ trợ tái hoà nhập của NCTNPT.
Bảy là, chưa có quy định cụ thể, mang tính bắt buộc về sự hỗ trợ của
chính quyền địa phương và các tổ chức dành cho NCTN trở về cộng đồng.
Điều này khiến cho NCTN khi được trả tự do vẫn gặp khó khăn trong việc
tiếp tục học tập hay tìm kiếm việc làm.
3.3.2. Nguyên nhân của những hạn chế, bất cập trong các quy định
của pháp luật về quyền của người chưa thành niên phạm tội
Những hạn chế, bất cập của pháp luật về quyền của NCTNPT như đã
nêu trên, theo tác giả, là do những nguyên nhân sau đây:
Thứ nhất, pháp luật về quyền của NCTNPT chưa quán triệt được quan
điểm nhân đạo, nhân văn đối với NCTNPT. Xét về lịch sử, Việt Nam đi lên từ
một nước thuộc địa nửa phong kiến, nền kinh tế chủ yếu là nông nghiệp, lại
phải trải qua những cuộc chiến tranh ác liệt và quy mô lớn. Điểm xuất phát đi
lên CNXH ở nước ta là từ một nền kinh tế chậm phát triển lại chưa qua chủ
nghĩa tư bản, chưa qua dân chủ tư sản nên chưa có điều kiện về vật chất và
khả năng để xây dựng một hệ thống quy định dành riêng cho NCTNPT. Con
người và đời sống cá nhân, ý thức cá nhân nhiều lúc, nhiều nơi còn chịu ảnh
109
hưởng của những tàn dư trong xã hội phong kiến và chủ nghĩa thực dân, sự
níu kéo của tập quán và tư tưởng phong kiến vốn kìm hãm và triệt tiêu nhân
cách, động lực, quyền và tự do của cá nhân. Tư duy và nhận thức về quyền
con người, quyền của các nhóm đối tượng nhất là NCTNPT trì trệ, bao biện
và không bao dung, chậm đổi mới tất yếu dẫn đến việc định hình, hình thành
và phát triển pháp luật về quyền con người nói chung, quyền của công dân nói
riêng. Tư duy, nhận thức như vậy cũng tác động trực tiếp đến nội dung của
pháp luật trong đó có các quy phạm pháp luật về quyền của NCTNPT.
Thứ hai, hoạt động giải thích pháp luật của các cơ quan nhà nước có
thẩm quyền chưa kịp thời, chưa được thực hiện thường xuyên, liên tục. Do
nhân dân ta chủ yếu nhận thức và thực hiện pháp luật theo câu chữ trong văn
bản (theo nghĩa đen của những câu chữ đó). Trong khi đó các cơ quan nhà
nước có thẩm quyền ban hành không quy định một cách chi tiết và cũng
không có sự giải thích cụ thể nên việc hiểu theo những ý khác nhau đã xảy ra.
Thứ ba, cùng với sự phát triển của hệ thống pháp luật nói chung, pháp
luật về quyền của NCTNPT cũng đang ngày càng hoàn thiện để thực hiện tốt
vai trò của mình. Việc ban hành các văn bản quy phạm pháp luật quy định
quyền của NCTNPT phản ánh thực tế khách quan sự phát triển các quan hệ xã
hội ở những lĩnh vực khác nhau. Hoạt động xây dựng pháp luật về quyền của
NCTNPT là hoạt động mang tính khoa học và sáng tạo của các cơ quan nhà
nước có thẩm quyền. Trong thời gian qua các văn bản pháp luật về quyền của
NCTNPT đã có sự sửa đổi, bổ sung, kể cả ban hành mới như BLHS 1999 sửa
đổi, bổ sung năm 2009; BLTTHS 2003 với các văn bản hướng dẫn thi hành,
Luật thi hành án hình sự 2010… Tuy nhiên thực tế rất đa dạng và phát triển
không ngừng, trong khi đó có nhiều quy phạm pháp luật được xây dựng ở các
thời điểm khác so với sự phát triển của xã hội hiện tại. Việc không lường
trước sự thay đổi nhanh chóng của các mối quan hệ cũng như nhu cầu ngày
càng cao của con người, của NCTN trong điều kiện kinh tế xã hội phát triển
110
đã và đang làm cho quy định về quyền của NCTNPT không phù hợp. Vì lý do
đó, trong các văn bản còn một số nội dung chưa được quy định rõ ràng, chưa
cụ thể, còn thiếu thống nhất với nhau và một số quyền của NCTNPT chưa
được quy định trong pháp luật. Công tác hệ thống hoá pháp luật về quyền của
NCTNPT chưa được tiến hành thường xuyên, liên tục và khẩn trương nên đã
không loại bỏ được các quy định thiếu thống nhất, chồng chéo không phù hợp
với thực tế. Các quy phạm pháp luật về quyền của NCTNPT có số lượng
tương đối lớn, nhưng còn khá tản mạn, chưa tập trung.
Sở dĩ có tình trạng nêu trên là do các nhà làm luật chưa nghiên cứu một
cách toàn diện, sâu sắc các vấn đề về tâm lý xã hội, nhu cầu, tư tưởng, tình cảm
của NCTNPT; chưa nghiên cứu động thái các hành vi, nhu cầu, sự phát triển của
các đối tượng này; chưa phân tích đánh giá thực trạng các quy định đó đã và
đang đáp ứng được điều gì của NCTNPT, đã thực sự điều chỉnh phù hợp quan
hệ pháp luật giữa Nhà nước và NCTNPT hay chưa. Công tác hệ thống hoá pháp
luật nói chung, hệ thống hoá các quy phạm pháp luật về quyền của NCTNPT
chưa tiến hành thường xuyên, liên tục nên chưa phát hiện được những điểm
không phù hợp, mâu thuẫn, chồng chéo và những “khoảng trống” trong các quy
định này. Để hoàn thiện các quy phạm pháp luật về quyền của NCTNPT cần
thiết phải có sự tổng kết, đánh giá các tiêu chí, rà soát, sửa đổi những quy định
không còn phù hợp, bổ sung những quy định mới cho phù hợp.
Thứ tư, năng lực, kỹ năng xây dựng pháp luật về quyền của NCTNPT
của một số chủ thể có thẩm quyền còn yếu, chưa được đào tạo về khoa học
pháp lý, về kỹ thuật lập pháp, chưa mang tính chuyên môn sâu, vẫn đa số là
làm việc không chuyên trách. Kỹ thuật lập pháp là một vấn đề rộng, phức tạp,
đòi hỏi các chủ thể lập pháp phải quan tâm. Đối với pháp luật về quyền của
NCTNPT cần phải được xây dựng ở trình độ kỹ thuật pháp lý cao. Các nhà
làm luật chưa thể hiện sự tối ưu (chỉ có một và một mà thôi) trong việc quy
định các quyền mà NCTNPT được hưởng, được làm, được yêu cầu. Tương tự
111
như thế, cách mà nhà làm luật quy định quyền gián tiếp cho NCTNPT thông
qua các yêu cầu, cách thức mà chủ thể liên quan phải thực hiện nhằm đáp ứng
việc hưởng quyền của NCTNPT cũng ở trạng thái như vậy. Điều này cho
thấy, trình độ lập pháp chưa cao nên việc quy định quyền của NCTNPT cũng
còn nhiều vấn đề cần phải đặt ra. Nguyên nhân này xuất phát từ chính truyền
thống lập pháp trong nhà nước ta, đồng thời cũng xuất phát từ khả năng, trình
độ của các Đại biểu Quốc hội, của các cán bộ, công chức trực tiếp xây dựng
dự thảo. Đại biểu Quốc hội ở nước ta có khoảng 70% làm việc không chuyên
trách, kiến thức chuyên sâu về pháp luật, về quyền của NCTNPT còn có
những hạn chế nhất định, hơn nữa lại không trực tiếp làm việc ở các cơ quan
bảo vệ trẻ em hay cơ quan bảo vệ pháp luật nên chưa xây dựng được những
quy phạm pháp luật phù hợp với thực tiễn về bảo vệ quyền của NCTNPT. Đa
số cán bộ, công chức thuộc các cơ quan lập pháp chưa được đào tạo kỹ năng
soạn thảo pháp luật mà mới chủ yếu được đào tạo ở trình độ đại học hoặc trên
đại học về các chuyên ngành khác nhau; những kinh nghiệm về lập pháp nhất
là lập pháp về quyền của NCTNPT chưa toàn diện và khoa học.
Thứ năm, công tác đầu tư nguồn lực cho công tác xây dựng, hoàn thiện
pháp luật về quyền của NCTNPT chưa thật sự đáp ứng yêu cầu, chưa có lộ
trình và xác định nội dung ưu tiên thích hợp. Việt Nam là một trong số ít các
nước trên thế giới có hệ thống cơ quan bảo vệ, chăm sóc trẻ em. Đây là một
hệ thống sâu rộng theo ngành dọc gắn liền với hệ thống cơ quan chính quyền
địa phương. Với cơ cấu tổ chức như vậy, có thể nói hệ thống này có khả năng
tìm hiểu và nắm bắt được những nhu cầu và vấn đề đặt ra đối với NCTN và
NCTNPT. Theo quy định của Luật BV,CS,GD trẻ em 2004, hệ thống các cơ
quan chức năng bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em có chức năng phối hợp
hoạt động với các chủ thể để thực hiện mục tiêu, kế hoạch, chế độ, chính sách
và chương trình hành động vì trẻ em. Với trách nhiệm đó, trong vấn đề về
quyền của NCTNPT, cơ quan này có trách nhiệm xây dựng phương hướng, kế
112
hoạch, chương trình hành động, các chế độ, chính sách để trình Chính phủ
quyết định. Tuy nhiên, đối với pháp luật về quyền của NCTNPT là một lĩnh
vực mang tính kỹ thuật lập pháp và chuyên môn nghiệp vụ cao thuộc chức
năng của hệ thống các cơ quan bảo vệ pháp luật. Trong mối quan hệ mang
tính chất phối hợp với các cơ quan này, các cơ quan bảo vệ, chăm sóc, giáo
dục trẻ em vẫn chưa tìm được cơ chế thích hợp cho việc điều phối các nội
dung liên quan đến quy định về quyền của NCTNPT. Vì thế các quy phạm
pháp luật về quyền của NCTNPT vẫn xuất phát từ chính các nhà làm luật mà
vẫn chưa đứng trên lập trường của các chủ thể bảo vệ cho quyền của
NCTNPT. Điều này đã dẫn đến tình trạng thiếu những quy định về quyền của
NCTNPT phù hợp với thực tiễn, đặc thù của nhóm độ tuổi này.
Hệ thống cơ quan bảo vệ pháp luật hiện nay chưa đáp ứng được các đòi
hỏi trong việc giải quyết vụ án hình sự có NCTNPT theo những chuẩn mực
quốc tế. Vì vậy trong thực tiễn chưa thể quy định quyền của NCTNPT thông
qua hình thức gián tiếp các yêu cầu, đòi hỏi đối với các chủ thể tiến hành tố
tụng hình sự với NCTNPT. Mối quan hệ giữa bản thân các cơ quan bảo vệ
pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án có NCTNPT cũng còn một số điểm
chồng chéo, mâu thuẫn và vướng mắc về cơ chế. Ví dụ việc bảo đảm các yêu
cầu về tố tụng dành cho NCTN, việc xác minh các yếu tố nhân thân, điều kiện
sống và giáo dục của NCTNPT.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3
Qua các thời kỳ, quyền của NCTNPT đã liên tục được củng cố, phát
triển và hiện đã bao gồm một hệ thống quy phạm pháp luật trong nhiều văn
bản từ Hiến pháp cho đến các bộ luật, đạo luật và văn bản pháp quy. Những
quy phạm pháp luật này không chỉ đề cập quyền cụ thể của NCTNPT mà còn
113
đề cập đến những yêu cầu với các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội và gia
đình trong việc tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm các quyền của NCTNPT.
Trọng tâm của chương 3 chính là mục 3.2 và 3.3. Trong hai mục này, tác
giả đã phân tích làm rõ khuôn khổ pháp luật hiện hành và những tồn tại, hạn
chế trong các quy định về quyền của NCTNPT. Để khảo sát vấn đề một cách
toàn diện và đánh giá được tính tương thích với các nguyên tắc, tiêu chuẩn có
liên quan của luật nhân quyền quốc tế, trong mục này, tác giả đã tiếp cận các
quyền của NCTNPT trong pháp luật Việt Nam theo quá trình xử lý NCTNPT,
đó là điều tra; truy tố, xét xử; thi hành án và tái hòa nhập cộng đồng. Trong
pháp luật hiện hành của Việt Nam, các quyền quan trọng của NCTNPT đã
được thừa nhận; các yêu cầu và giới hạn hành động với các cơ quan và cán bộ
tiến hành tố tụng khi làm việc với NCTNPT đã được xác lập. Vì vậy, hệ thống
các quy phạm pháp luật hiện hành của Việt Nam về cơ bản đã tương thích với
những tiêu chuẩn tối thiểu của LHQ về quyền của NCTNPT. Tuy nhiên, pháp
luật Việt Nam hiện nay vẫn chưa quy định một cách trực tiếp quyền của
NCTNPT mà chủ yếu quy định gián tiếp thông qua các nghĩa vụ, yêu cầu đối
với các chủ thể liên quan. Ngoài ra, nội dung một số quyền bất hợp lý, không
thể hiện thực hoá, mang tính hình thức khiến cho việc hưởng các quyền này
trong thực tế còn nhiều khó khăn, vướng mắc.
114
4.1. CÁC QUAN ĐIỂM HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN CỦA
NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN PHẠM TỘI
Chương 4
QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN
CỦA NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN PHẠM TỘI Ở VIỆT NAM
4.1.1. Hoàn thiện pháp luật về quyền của người chưa thành niên
phạm tội phải quán triệt các quan điểm, chủ trương của Đảng về quyền
của người chưa thành niên
Từ khi bắt đầu công cuộc đổi mới (1986) đến nay, xuất phát từ chủ
trương tôn trọng, bảo vệ và phát triển quyền con người, Nhà nước Việt Nam
đã và đang có nhiều nỗ lực để bảo đảm các quyền con người được tôn trọng
và thực hiện. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) đã nhấn mạnh: “Chú trọng cải
thiện điều kiện sống, lao động và học tập của thanh niên, thiếu niên, giáo dục
và bảo vệ trẻ em” [19 tr.79-80]. Khi xây dựng, hoàn thiện pháp luật về quyền
của NCTNPT cần phải đặt trong mối quan hệ tổng thể của bối cảnh chung đời
sống xã hội. Trong bối cảnh đó, pháp luật về quyền của NCTNPT không chỉ
là mối quan tâm đặc biệt của Đảng và Nhà nước, mà còn là mối quan tâm
thường xuyên của mỗi gia đình và của toàn xã hội. Trong Văn kiện Đại hội
Đảng toàn quốc lần thứ IX, X, XI, ngoài việc hoạch định đường lối chiến lược
về phát triển toàn diện con người Việt Nam còn thể hiện chính sách chăm sóc,
bảo vệ trẻ em tập trung vào thực hiện quyền trẻ em, tạo điều kiện cho trẻ em
được sống trong môi trường an toàn và lành mạnh, phát triển hài hòa về thể
chất, trí tuệ, tinh thần và đạo đức;... trẻ em sống trong hoàn cảnh đặc biệt khó
khăn có cơ hội học tập và vui chơi.
Quyền của NCTNPT là một trong những nội dung của quyền con người,
quyền của các nhóm dễ bị tổn thương. Đảng và Nhà nước ta luôn khẳng định
sự nhất quán trong đường lối, chủ trương, chính sách về quyền con người,
quyền của các nhóm người trong các lĩnh vực của đời sống xã hội. Đây là yêu
115
cầu cần thiết và quan trọng về mặt chính trị, pháp luật về quyền của NCTNPT
phải gắn liền với công cuộc cải cách tư pháp, cải cách bộ máy nhà nước,
hướng tới sự phát triển toàn diện của con người vì con người. Vì vậy, trong
quá trình hoàn thiện pháp luật về quyền của NCTNPT cần phải nghiên cứu,
nhận thức, quán triệt sâu sắc hệ thống các quan điểm của Đảng và Nhà nước
về quyền con người, quyền công dân, quyền của NCTN cũng như về cuộc đấu
tranh phòng chống tội phạm NCTN để việc hoàn thiện đi đúng hướng và phù
hợp với hoàn cảnh, điều kiện của Việt Nam.
4.1.2. Hoàn thiện pháp luật về quyền của người chưa thành niên
phạm tội phải đảm bảo yêu cầu của cuộc đấu tranh phòng chống tội
phạm nói chung và tội phạm đối với người chưa thành niên nói riêng
Cùng với sự phát triển kinh tế xã hội, trong thời gian vừa qua, tình hình
NCTNPT ở Việt Nam có xu hướng gia tăng, diễn biến ngày một phức tạp,
tính chất của hành vi phạm tội ngày càng nguy hiểm. Thực trạng này đã và
đang đặt ra yêu cầu cần thiết cho cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm ở
NCTN. Công tác điều tra, truy tố, xét xử phải được thực hiện một cách chủ
động hơn, nhanh chóng phát hiện, ngăn chặn, xử lý kịp thời hành vi phạm tội
của NCTN. Bên cạnh đó cũng cần phải nhận thức đầy đủ và sâu sắc quy luật
khách quan của vấn đề nêu trên đó là, khi đã có hành vi phạm tội thì xử lý
nghiêm minh nhưng vẫn phải đảm bảo quyền con người của các đối tượng đó.
Pháp luật về quyền của NCTNPT cần phải vừa bảo vệ được các quyền của
NCTNPT vừa đáp ứng các yêu cầu của việc xử lý đối với hành vi phạm tội
của NCTN. Muốn giải quyết được yêu cầu này, cần có một hệ thống pháp luật
với đa dạng các quy định trong đó được đặt trong quan hệ giữa nhà nước với
người phạm tội là NCTN, đồng thời phải tính đến tính đặc thù của NCTN khi
phạm tội cũng như quá trình tham gia các quan hệ tố tụng hình sự.
Đấu tranh phòng chống tội phạm và quyền của NCTNPT trong cuộc đấu
tranh này liên quan mật thiết tới hệ thống TPNCTN. TPNCTN bao gồm tất cả
các quá trình và thủ tục xử lý các hành vi vi phạm pháp luật do NCTN thực
hiện, đồng thời bao gồm cả hòa giải, giáo dục, xử lý hành chính, xử lý hình sự
116
và tái hòa nhập cộng đồng sau khi đã chấp hành đầy đủ hình phạt và các biện
pháp giáo dục được áp dụng. Trên thế giới, có nhiều chương trình tư pháp
phục hồi dành cho NCTNPT. Việt Nam, yếu tố tư pháp phục hồi chưa phát
triển mà mới chỉ có rải rác trong một số quy định về xử phạt vi phạm hành
chính đối với NCTN. Do vậy, với mục tiêu hướng thiện cho đối tượng này,
đồng thời có giải pháp hữu hiệu để quyền của họ được ghi nhận bằng pháp
luật thông qua các quy định trong quá trình xử lý hình sự cần được xây dựng
theo hướng "mềm" hơn. Trong vụ án có NCTNPT, nên coi là một trong
những trường hợp khởi tố theo yêu cầu của người bị hại. Điều này xuất phát
từ lý do, trong tư pháp phục hồi, mục tiêu hướng tới là hàn gắn các tổn thương
mà NCTNPT đã gây ra cho các quan hệ xã hội được đề cao. Tuy nhiên, thực
tiễn tư pháp phục hồi ở Việt Nam chưa phát triển mà vẫn chỉ tồn tại với tư
cách là khái niệm khoa học. Việc áp dụng vào pháp luật về quyền của
NCTNPT vẫn đang ở trong tương lai.
4.1.3. Hoàn thiện pháp luật về quyền của người chưa thành niên
phạm tội phải đảm bảo tính thống nhất, đồng bộ và khả thi
Các quy định trong pháp luật về quyền của NCTNPT không tách rời
nhau, luôn tồn tại trong một chỉnh thể thống nhất, tác động qua lại và bổ sung
cho nhau. Điều này tất yếu dẫn đến việc sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện các quy
định về quyền của NCTNPT phải đảm bảo tính thống nhất, đồng bộ và khả
thi. Nếu chỉ nhấn mạnh đến việc điều chỉnh một vấn đề nào đó, một giai đoạn
hay một mặt nào đó của các quy định về quyền của NCTNPT sẽ làm giảm bớt
đi hiệu lực và hiệu quả của nó. Đồng thời việc sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện
các quy định này phải tiến hành hoàn thiện đồng bộ, thống nhất các quy định
khác về quyền con người, quyền công dân nói chung. Vì vậy, phải xác định
đầy đủ các vấn đề cần sửa đổi, bổ sung trong quá trình hoàn thiện các quy
định về quyền của NCTNPT và cùng với nó là xây dựng hệ thống quy phạm
pháp luật thống nhất, đồng bộ, khả thi trên các vấn đề sau:
Thứ nhất, tính thống nhất, đồng bộ về sự nội tại trong các quy định về
quyền của NCTNPT và giữa các quy định về quyền của NCTNPT với các quy
117
định về quyền con người khi phạm tội và các quy định khác về quyền công
dân. Các quy định về quyền của NCTNPT phải được sửa đổi, bổ sung ở tất cả
các vấn đề có liên quan như:
Một là, các quyền của NCTNPT phải được quy định cụ thể, rõ ràng về
những điều mà họ được hưởng, được làm, được bảo vệ như thế nào. Cụ thể
hoá các quyền chung áp dụng cho người phạm tội thành các quy định mang
tính đặc thù áp dụng đối với NCTNPT. Hạn chế các quyền quy định mang
tính gián tiếp.
Hai là, khi quy định quyền của NCTNPT phải đảm bảo sự tương xứng
với mức độ nghiêm trọng trong hành vi phạm tội của NCTN với người đã
thành niên, tránh chênh lệch quá lớn.
Ba là, các quy định về quyền của NCTNPT trong các văn bản pháp luật
hình sự, văn bản pháp luật tố tụng hình sự, văn bản pháp luật về thi hành án
hình sự cần có sự thống nhất với nhau, tránh mâu thuẫn không đáng có giữa
các quy định này. Sự thống nhất, hài hoà này là yếu tố quan trọng tạo nên
hiệu lực, hiệu quả của pháp luật về quyền của NCTNPT.
Bốn là, cần quan tâm đến việc hoàn thiện về mặt hình thức của các quy
định về quyền của NCTNPT. Sự thiếu thống nhất, thiếu chặt chẽ về logic
pháp lý và kỹ thuật lập pháp sẽ hạn chế hiệu quả của pháp luật, nhiều khi dẫn
đến việc áp dụng trong thực tiễn không đúng, không thống nhất. Điều này cho
thấy, hoàn thiện pháp luật về quyền của NCTNPT cần thiết phải tiến hành
song song cả hai mặt: nội dung và hình thức.
Thứ hai, hoàn thiện pháp luật về quyền của NCTNPT phải phù hợp với
Hiến pháp năm 2013 về quyền con người, quyền cơ bản của công dân và đảm
bảo thực hiện các quyền này trên thực tế; đồng thời đảm bảo tính thống nhất
đồng bộ với các đạo luật có liên quan trong hệ thống pháp luật ở nước ta. Các
quyền của NCTNPT đều được quy định bắt nguồn từ các quy định trong Hiến
pháp. Vì thế có thể khẳng định, Hiến pháp hiện hành không chỉ là nguồn mà
còn có vai trò định hướng đối với quyền của NCTNPT, tạo cơ sở pháp lý cơ
118
bản định hướng cho việc quy định quyền của người phạm tội nói chung,
quyền của NCTNPT nói riêng.
Bên cạnh đó, quy định về quyền của NCTNPT có quan hệ chặt chẽ với
các quy định về quyền con người trong hình sự, tố tụng hình sự, quyền của trẻ
em vi phạm pháp luật.... cho nên việc hoàn thiện các quy định về quyền của
NCTNPT cần phải tiến hành đồng thời với việc cải cách hệ thống tư pháp
hình sự, TPNCTN. Nếu không, sẽ dẫn đến tình trạng tạo ra những khoảng
trống không được pháp luật điều chỉnh, hoặc có sự chồng chéo, mâu thuẫn
giữa các quy định. Vì vậy, sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện quy định về quyền của
NCTNPT phải đi liền với nghiên cứu, rà soát, đối chiếu với các quy định liên
quan trong các đạo luật để loại bỏ những quy định không phù hợp, mâu thuẫn.
4.1.4. Hoàn thiện pháp luật về quyền của người chưa thành niên
phạm tội phải phù hợp với các điều ước quốc tế mà Việt Nam đã ký kết,
phê chuẩn, tham gia và tiếp thu có chọn lọc các kinh nghiệm nước ngoài
Quyền của NCTNPT là vấn đề được quốc tế quan tâm. Nắm vững các
giá trị của của thời đại về quyền con người trong các điều ước quốc tế có ý
nghĩa cực kỳ quan trọng trong việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật và thực
thi về quyền con người nói chung và quyền của NCTN nói riêng. Trong thời
gian qua, hầu hết các quốc gia trên thế giới đều nỗ lực trong việc xây dựng và
hoàn thiện các quy định của pháp luật về quyền của NCTNPT phù hợp với
các tiêu chuẩn của pháp luật quốc tế. Không những thế, một số quốc gia còn
xây dựng những tiêu chuẩn nhằm ngăn chặn và bảo vệ quyền của đối tượng
này ở mức độ cao hơn so với quy định của Công ước quyền trẻ em và các
điều ước khác.
Việt Nam cũng như các quốc gia khác, với tư cách là thành viên của các
điều ước quốc tế, chúng ta không thể không thực thi những cam kết mà chúng
ta đã chấp thuận. Việc làm sao để pháp luật về quyền của NCTNPT ở Việt
Nam tương thích với các điều ước quốc tế về TPNCTN là nghĩa vụ mang tính
pháp lý quốc tế và quá trình ấy phải được tiến hành một cách chủ động, tích
cực và nghiêm túc. Thực hiện các điều ước quốc tế về quyền của NCTNPT
119
chính là việc đưa những nguyên tắc quốc tế vào hệ thống pháp luật, chính
sách của Nhà nước ta đối với NCTNPT. Việc hoàn thiện các quy định về
quyền của NCTNPT đảm bảo sự tương thích, chọn lọc có kế thừa kinh
nghiệm lập pháp của nước ngoài cần được quán triệt. Luật pháp quốc tế và
luật pháp của một số quốc gia có những quy định về quyền của NCTNPT tiến
bộ, phù hợp với thực tiễn của Việt Nam. Những giải pháp, mô hình lập pháp
liên quan đến quyền của NCTNPT đã được vận dụng sáng tạo và có hiệu quả
ở các quốc gia khác nhau, nhưng có những vấn đề đối với chúng ta còn mới
mẻ cần phải nghiên cứu để tiếp thu, bổ sung cho các quy định về quyền của
NCTNPT. Quá trình "nội luật hóa" này cần phải được tiến hành thận trọng, có
sự chọn lọc, chắt lọc những hạt nhân hợp lý phù hợp với điều kiện thực tế của
nước ta. Để làm được điều đó, cần:
Trong quá trình xây dựng các quy định về quyền của NCTNPT phải thực
hiện công tác rà soát, đối chiếu một cách nghiêm túc các điều ước quốc tế về
quyền con người, về TPNCTN mà Việt Nam là thành viên.
4.2. GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN CỦA NGƯỜI
CHƯA THÀNH NIÊN PHẠM TỘI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Trước khi ký kết công ước, điều ước về các vấn đề thuộc lĩnh vực tư
pháp đối với NCTN, ngoài việc đối chiếu với văn bản pháp luật liên quan
cũng cần có sẵn phương án chỉnh sửa, ban hành mới các quy định để tránh
tình trạng điều ước sau khi đã có hiệu lực, không thể áp dụng trực tiếp nhưng
lại chưa có văn bản hướng dẫn thi hành.
4.2.1. Hoàn thiện một số quy phạm pháp luật về quyền của người
chưa thành niên phạm tội trong pháp luật hình sự
Từ thực tiễn các quy định trong luật hình sự ở nước ta hiện nay, căn cứ vào
Nghị quyết số 07/2011/QH13 ngày 06/8/2011 của Quốc hội khoá XIII về
Chương trình xây dựng Luật, Pháp lệnh năm 2012 và điều chỉnh chương trình
xây dựng Luật, Pháp lệnh năm 2011, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã ban hành
Nghị quyết số 433/NQ-UBTVQH13 ngày 30/12/2011 về việc thành lập Ban
soạn thảo BLHS (sửa đổi). Điểm 1.2 tiểu mục 1 Phần IV - Định hướng cơ bản
120
sửa đổi BLHS trong Đề cương định hướng sửa đổi, bổ sung BLHS số 7724/ĐC-
BSTBLHS (SĐ) ngày 24/9/2012 có nêu sự cần thiết sửa đổi, bổ sung các quy
định của BLHS về chính sách hình sự liên quan đến NCTN, đặc biệt là các quy
định nhằm mở rộng điều kiện và phạm vi áp dụng các hình phạt không mang
tính giam giữ đối với NCTNPT; mở rộng khả năng tha tù trước thời hạn có điều
kiện để sớm đưa các em trở về với cộng đồng cũng như khả năng xử lý chuyển
hướng đối với NCTNPT; bảo vệ tốt hơn NCTN bị xâm hại [11, tr.5]. Theo đó,
việc tổng kết này nhằm đánh giá một cách khách quan và toàn diện thực tiễn một
số quy định của BLHS hiện nay liên quan đến quyền của NCTNPT cần được sửa
đổi, bổ sung những vấn đề sau:
Thứ nhất, sửa đổi, bổ sung quyền của NCTNPT trong các quy định về
nguyên tắc xử lý đối với NCTNPT
Xuất phát từ đường lối vận động, giáo dục thanh thiếu niên của Đảng và
Nhà nước, từ những đặc điểm tâm - sinh lý của NCTNPT và trên cơ sở những
kinh nghiệm thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội phạm do NCTN thực hiện,
cũng như các nguyên tắc cơ bản của luật hình sự Việt Nam, các nhà làm luật
nước ta đã quy định toàn diện và thống nhất trong Điều 69 BLHS những
nguyên tắc cơ bản có tính chất chỉ đạo, xuyên suốt quá trình khi xử lý
NCTNPT. Đặc biệt, để tăng cường khả năng áp dụng các hình phạt không
phải là hình phạt tù, hạn chế áp dụng hình phạt tù, đồng thời sửa đổi, bổ sung
các nguyên tắc xử lý NCTNPT theo hướng phù hợp hơn với Công ước quyền
trẻ em và những chuẩn mực quốc tế khác của LHQ, do đó, Luật sửa đổi, bổ
sung một số điều của BLHS ngày 19/6/2009 của Quốc hội đã bổ sung theo
hướng nhấn mạnh nội dung: khi áp dụng hình phạt đối với NCTNPT cần hạn
chế áp dụng hình phạt tù trong nội dung Điều luật này. Tuy vậy, nghiên cứu
Điều 69 BLHS cho thấy có một số vấn đề nên sửa đổi, bổ sung như sau:
Một là, khoản 2 Điều 69 BLHS quy định về nguyên tắc xử lý NCTNPT
nên sửa đổi, bổ sung theo hướng:
- NCTNPT có thể được miễn TNHS cần thu hẹp lại là những người đủ 16
tuổi trở lên nhưng chưa đủ 18 tuổi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội
121
được quy định trong BLHS là tội phạm, không nên quy định chung tất cả
NCTNPT. Bởi vì, theo khoản 2 Điều 12 BLHS về Tuổi chịu TNHS đã quy
định: Người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu TNHS về
tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.
- Để bảo đảm thống nhất với khoản 3 Điều 8 BLHS nên sửa câu chữ (từ
chữ gây hại thành chữ thiệt hại) như sau: “tội ít nghiêm trọng, hoặc tội
nghiêm trọng, gây thiệt hại không lớn” vì đã là tội phạm (dù ít nghiêm trọng,
nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hay đặc biệt nghiêm trọng), thì trong mọi
trường hợp đều gây nguy hại cho xã hội, chứ không thể có “tội ít nghiêm
trọng hoặc tội nghiêm trọng, gây hại không lớn”.
Hai là, khoản 4 Điều 69 BLHS quy định nguyên tắc khi xét xử, nếu thấy
không cần thiết phải áp dụng hình phạt đối với NCTNPT, thì Tòa án áp dụng
một trong các biện pháp tư pháp được quy định tại Điều 70 của Bộ luật này
nên sửa đổi, bổ sung theo hướng: Cần khẳng định rõ trong quy định của
BLHS rằng, nếu Tòa án áp dụng một trong các biện pháp tư pháp đối với
NCTNPT, thì người đó được miễn hình phạt. Trường hợp này thực chất là
miễn hình phạt có điều kiện, và kèm theo nó là việc áp dụng một trong các
biện pháp tư pháp hình sự.
Ba là, ghi nhận một số nguyên tắc của pháp luật quốc tế vào nội dung
Điều 69 BLHS theo hướng nhân đạo và có lợi hơn cho NCTNPT, phù hợp với
chính sách hình sự của Nhà nước ta, cụ thể:
- Bổ sung nguyên tắc: Lợi ích tốt nhất của NCTN phải là mối quan tâm
hàng đầu trong quá trình xử lý NCTNPT [17]. Trước đó, quá trình thảo luận
Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS 1999 đã đưa nguyên tắc
này vào Dự thảo, song khi sửa đổi lại không đưa vào. Tác giả cho rằng, đây là
quyền cơ bản quan trọng của NCTNPT, đồng thời cũng là nguyên tắc có ý
nghĩa hết sức quan trọng, giúp các cơ quan tiến hành tố tụng có thêm định
hướng rõ ràng khi xử lý đối tượng này, sự xem xét, cân nhắc để đưa ra quyết
định cuối cùng phải dựa trên lợi ích bảo vệ quyền lợi, hạnh phúc và tương lai
của họ. Nguyên tắc này cũng phù hợp với yêu cầu quy định tại điểm 1 Điều 3
122
Công ước quyền trẻ em là trong tất cả các hành động liên quan đến trẻ em, dù
do các cơ quan phúc lợi xã hội công cộng hay tư nhân, Tòa án, các nhà chức
trách hành chính hay các cơ quan lập pháp tiến hành thì lợi ích tốt nhất của trẻ
em phải là mối quan tâm hàng đầu [112, tr.175].
- Bổ sung nguyên tắc: Việc áp dụng biện pháp giam giữ đối với NCTNPT
phải luôn là biện pháp cuối cùng và chỉ trong một thời gian cần thiết tối thiểu.
Thực tiễn, có nhiều ảnh hưởng xấu đối với một cá nhân sống trong môi trường
mất tự do, đặc biệt đối với NCTN là những đối tượng dễ bị ảnh hưởng tiêu cực
nhất. Hơn nữa, các ảnh hưởng tiêu cực không chỉ vì mất tự do mà còn vì bị tách
khỏi môi trường xã hội bình thường, đối với NCTN thì thực sự là nghiêm trọng
hơn so với người lớn, bởi họ đang ở giai đoạn phát triển ban đầu. Cũng vì lý do
này mà Những Quy tắc tối thiểu phổ biến của LHQ quốc về bảo vệ NCTN bị
tước quyền tự do đã khuyến nghị tại điểm 2 mục I “Những nguyên tắc cơ bản”
là: Việc tước quyền tự do của NCTN chỉ nên được sử dụng như là một biện
pháp cuối cùng cho một thời gian cần thiết tối thiểu và chỉ nên giới hạn trong
những trường hợp ngoại lệ. Thời gian của biện pháp trừng phạt này cần được
cơ quan tư pháp quyết định mà không loại trừ khả năng sớm trả tự do cho
NCTN đó [112, tr.239]. Do vậy, để NCTNPT được hưởng lợi ích tốt nhất, đồng
thời khẳng định rằng giáo dục, phòng ngừa luôn là mực tiêu hàng đầu trong
việc xử lý họ nên bổ sung nguyên tắc này.
- Bổ sung nguyên tắc: Biện pháp xử lý chuyển hướng luôn được ưu
tiên áp dụng trong việc xử lý NCTNPT. Bởi lẽ, với tinh thần chủ đạo trong
việc xử lý NCTNPT là lấy giáo dục là mục đích chính thì việc tạo cơ hội
cho họ tự kiểm điểm, nhận thức được những hành vi sai trái của mình và
chịu trách nhiệm về các hành vi đó mà không bị tước tự do, giam giữ và
không bị ghi án tích là rất quan trọng. Ngoài các hình thức xử lý hành
chính và xử lý hình sự chính thức do pháp luật quy định, hiện nay chưa xác
lập khung pháp lý riêng cho các hình thức xử lý khác mang tính giáo dục,
phòng ngừa xã hội đối với đối tượng đặc thù này. Cho nên, với mục đích
quy định quyền này để giảm tới mức thấp nhất các hậu quả tiêu cực nếu
123
NCTNPT và bị xử lý hình sự hoặc hành chính (như: không có sự liên hệ,
chia sẻ, quan tâm của gia đình, gián đoạn việc học tập, học nghề, bị các
phạm nhân khác xâm hại về thể chất, tinh thần hoặc bị kỳ thị, miệt thị, xa
lánh của xã hội...) thì rất cần thiết để thúc đẩy xây dựng các biện pháp thay
thế (chuyển hướng) trong xử lý họ.
- Bổ sung nguyên tắc: Quyền về các thông tin cá nhân (riêng tư), cũng
như quyền trợ giúp pháp lý của NCTNPT trong quá trình xử lý. Bảo vệ
NCTN khỏi những tác động có hại của việc công khai những thông tin của đối
tượng này liên quan đến có hay không có hành vi phạm tội có ý nghĩa quan
trọng. Tuy nhiên, BLHS chưa quy định về nguyên tắc bảo vệ sự riêng tư của
NCTNPT trong quá trình xử lý đối với các đối tượng này, trong khi đó, Mục 8
“Bảo vệ sự riêng tư” trong Phần I “Những nguyên tắc chung” trong Quy tắc
Bắc Kinh đã ghi nhận rằng, quyền riêng tư của NCTN phải được tôn trọng
trong tất cả các giai đoạn nhằm tránh những tác hại gây ra do sự công khai
hóa quá mức hay do việc dán ảnh truy nã [112, tr.207]. Ngoài ra, quyền được
trợ giúp pháp lý của NCTNPT cũng được khuyến nghị bảo vệ trong Những
Quy tắc tối thiểu phổ biến của LHQ về bảo vệ NCTN bị tước quyền tự do, đề
cập tại điểm a mục 18 rằng, NCTN cần phải có quyền có luật sư bảo chữa và
có quyền yêu cầu sự giúp đỡ pháp lý không phải trả tiền nếu sự giúp đỡ đó có
sẵn, và có quyền thường xuyên tiếp túc với luật sư tư vấn của mình. Những bí
mật và sự riêng tư trao đổi đó phải được bảo đảm [112, tr.242], cũng như bảo
đảm quyền có người bào chữa của “trẻ em không nơi nương tựa”, quyền được
quyền trợ giúp pháp lý (Điều 10 Luật trợ giúp pháp lý năm 2006) và “bị can,
bị cáo là NCTN” bắt buộc phải có người bào chữa (Điều 57 BLTTHS 2003).
- Bổ sung nguyên tắc: Quyền được áp dụng án treo đối với NCTNPT
trong quá trình xử lý đối tượng này với tư cách là biện pháp miễn chấp hành
hình phạt tù có điều kiện bởi vì, biện pháp này hạn chế áp dụng hình phạt tù,
phù hợp với các nguyên tắc xử lý của pháp luật Việt Nam và quốc tế, đồng
thời thực tiễn xét xử cho thấy đã áp dụng tương đối nhiều [14, tr.90], họ chịu
sự giám sát, giáo dục của gia đình, cơ quan, tổ chức, qua đó, cũng coi là một
124
biện pháp chuyển hướng xử lý, giúp NCTNPT nhanh chóng tái hòa nhập với
cộng đồng và trở thành người có ích cho xã hội.
Bốn là, về kỹ thuật lập pháp hình sự, tên Chương X BLHS nên đổi
thành: Trách nhiệm hình sự đối với NCTNPT sẽ bao quát và đầy đủ hơn. Hiện
nay, BLHS Liên bang Nga năm 1996, sửa đổi năm 2010 cũng có một Mục IV
trong BLHS với tên gọi tương tự. Ngoài ra, tên gọi Điều 69 BLHS bao gồm
nhiều nguyên tắc xử lý, nên cần sửa thành “Các nguyên tắc...”; thay cụm từ
“án đã tuyên” (khoản 6 Điều 69) thành “án tích” vì căn cứ để tính tái phạm,
tái phạm nguy hiểm (Điều 49) là “đã bị kết án, chưa được xóa án tích mà lại
phạm tội”, trong khi đó, án đã tuyên có thể là có tội, có thể là vô tội, có thể
được miễn hình phạt. Vì thế, trường hợp nếu một người được Tòa án tuyên vô
tội tức là không có tội, còn nếu người đó được Tòa án tuyên miễn hình phạt
thì họ lại đương nhiên được xóa án tích theo quy định chung (đoạn 1 Điều
64). Ngoài ra, nên bổ sung sau cụm từ “tính chất” là cụm từ “mức độ nguy
hiểm cho xã hội” (khoản 3 Điều 69 BLHS) cho đánh giá đúng, đầy đủ và
chính xác khi làm sáng tỏ vấn đề “tội phạm”.
Thứ hai, sửa bổi, bổ sung quyền của NCTNPT trong các quy định về
các biện pháp tư pháp được áp dụng đối với NCTNPT
Các biện pháp tư pháp cũng là những biện pháp cưỡng chế về hình sự,
do BLHS quy định. Cùng với hình phạt, các biện pháp tư pháp còn giúp cho
việc xử lý tội phạm và người phạm tội được triệt để và toàn diện hơn. Nếu các
biện pháp tư pháp chung có mục đích hỗ trợ hay thay thế cho hình phạt, thì các
biện pháp tư pháp riêng áp dụng đối với NCTNPT lại có mục đích thay thế cho
hình phạt với ý nghĩa giáo dục, cải tạo NCTNPT và phòng ngừa tội phạm do
NCTN thực hiện. BLHS hiện hành quy định, Tòa án có thể áp dụng một trong các
biện pháp tư pháp hình sự đối với NCTNPT sau:
Một là, các biện pháp tư pháp có tính chất giáo dục, phòng ngừa áp dụng
riêng đối với NCTNPT. Đây là các biện pháp tư pháp hình sự chỉ áp dụng đối
với NCTNPT (Điều 70 BLHS) gồm: giáo dục tại xã, phường, thị trấn và đưa
vào trường giáo dưỡng. Các biện pháp tư pháp này áp dụng đối với NCTNPT
125
trong trường hợp khi xét xử, nếu thấy không cần thiết phải áp dụng hình phạt,
căn cứ tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân
thân của đối tượng và yêu cầu của việc phòng ngừa tội phạm.
Hai là, các biện pháp tư pháp có tính chất giáo dục, phòng ngừa áp dụng
chung đối với NCTNPT. Đây là các biện pháp tư pháp chung, được áp dụng
cho người đã thành niên phạm tội và NCTNPT (các Điều 41, 42 và 43
BLHS) bao gồm: tịch thu, sung quỹ Nhà nước đối với vật, tiền trực tiếp liên
quan đến tội phạm, trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại; buộc
công khai xin lỗi và bắt buộc chữa bệnh. Nghiên cứu nội dung Điều 70
BLHS, cho thấy có một số vấn đề nên sửa đổi, bổ sung như sau:
- Tên gọi của điều nên sửa là: “Các biện pháp tư pháp được áp dụng đối
với NCTNPT” cho thống nhất với Điều 71, vì tên Điều luật này (Điều 71) là:
“Các hình phạt được áp dụng đối với NCTNPT”.
- Các biện pháp tư pháp đối với NCTNPT nên quy định rõ trong BLHS
(Điều 70) về khái niệm biện pháp tư pháp (khoản 2), trong đó nhấn mạnh mục
đích áp dụng là “thay thế” cho hình phạt, để phân biệt với mục đích áp dụng
của hình phạt, cũng như mục đích áp dụng của các biện pháp xử lý hành chính
khác đối với NCTN có hành vi vi phạm pháp luật.
- Biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn, tại khoản 2 Điều 70 BLHS,
các nhà làm luật cũng chưa điều chỉnh trường hợp hết thời gian giáo dục (từ
một năm đến hai năm) mà NCTNPT đó vẫn chưa tự giáo dục được (như: họ
tiếp tục vi phạm kỷ luật, nội quy, quy tắc chung của cộng đồng, xã hội...).
Trong trường hợp này, để bảo đảm tính giáo dục và phòng ngừa tội phạm,
BLHS nên quy định bổ sung - Tòa án có thể gia hạn thêm (chẳng hạn có thể
thêm một năm) hoặc quy định vấn đề “chuyển sang” áp dụng biện pháp
nghiêm khắc hơn (đưa vào trường giáo dưỡng) nhằm phát huy và nâng cao
hiệu quả áp dụng biện pháp này, tiếp tục rèn luyện, tu dưỡng, giáo dục
NCTNPT khi họ chưa chịu rèn luyện, cố gắng và sửa chữa sai lầm.
- Biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng, tại khoản 3 Điều 70 BLHS quy
định căn cứ áp dụng là nếu thấy do tính chất nghiêm trọng của hành vi phạm
126
tội nhưng chưa quy định tiêu chí căn cứ vào đâu để đánh giá tính chất nghiêm
trọng của hành vi phạm tội. Do đó, nên có văn bản hướng dẫn nội dung này,
song về cơ bản có thể dựa vào: tội phạm thuộc loại gì, quan hệ xã hội được
BLHS bảo vệ, động cơ, mục đích phạm tội, hậu quả của tội phạm đã xảy ra,
hình thức lỗi, độ tuổi; v.v...
Thứ ba, sửa đổi, bổ sung quyền của NCTNPT trong các quy định về hình
phạt được áp dụng đối với NCTNPT
Khi áp dụng hình phạt đối với NCTNPT, giáo dục luôn là mục đích
chính trong việc áp dụng. Hình phạt áp dụng đối với NCTNPT là biện pháp
cưỡng chế nghiêm khắc nhất so với các biện pháp cưỡng chế khác và việc áp
dụng các hình phạt này đối với người bị kết án là NCTN sẽ dẫn đến hậu quả
pháp lý là người đó bị coi là có án tích. Tuy nhiên, mức độ cưỡng chế của các
hình phạt áp dụng đối với NCTNPT bao giờ cũng nhẹ hơn so với người đã
thành niên do những đặc điểm tâm - sinh lý và chính sách hình sự của Nhà
nước đối với loại đối tượng này quyết định.
Đối với NCTNPT, Tòa án chỉ được áp dụng cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo
không giam giữ hoặc hình phạt tù có thời hạn. Trong trường hợp NCTNPT là
người nước ngoài, thì họ có thể bị Tòa án áp dụng hình phạt trục xuất. Tuy
vậy, nghiên cứu các Điều 71, 72, 73 và 74 BLHS, nhận thấy có một số vấn đề
cần được xem xét và sửa đổi, bổ sung như sau:
Một là, nhìn từ góc độ bảo đảm các lợi ích tốt nhất cho NCTNPT thì về
nguyên tắc cần mở rộng phạm vi áp dụng các hình phạt không tước tự do đối
với đối tượng này, tránh việc phải đưa họ vào trại giam như: hạn chế điều
kiện áp dụng, mở rộng loại tội áp dụng... cho phù hợp với chuẩn mực quốc tế
và chính sách hình sự của Nhà nước đối với NCTNPT. Do đó, căn cứ các
Điều 71, 72, 73 và 74 và các Điều 12, 29 và 31 BLHS cho thấy:
- Đối với hình phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ, rõ ràng chỉ có thể áp
dụng đối với người đã thành niên và NCTN từ đủ 16 tuổi trở lên phạm tội, chứ
không thể áp dụng đối với NCTN từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phạm tội. Bởi lẽ,
hình phạt này chỉ áp dụng đối với các tội phạm ít nghiêm trọng, có nhiều tình tiết
127
giảm nhẹ, nhưng chưa đến mức miễn hình phạt [48, Điều 29]. Trong khi đó,
NCTN từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi chỉ phải chịu TNHS về tội phạm rất nghiêm
trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng [48, Điều 12]. Theo quy định
tại Điều 71 BLHS có 4 loại hình phạt là cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam
giữ và tù có thời hạn được áp dụng đối với NCTNPT, nhưng NCTNPT từ độ tuổi
14 đến chưa đủ 16 tuổi sẽ không thể được áp dụng hình phạt cảnh cáo. Vì vậy, để
quy định về quyền của NCTNPT trong BLHS được cụ thể, rõ ràng cần quy định
cụ thể các về các loại hình phạt áp dụng đối với hai nhóm độ tuổi của NCTNPT
theo Điều 12 BLHS.
- Điều 74 BLHS quy định, đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi
khi phạm tội... nếu là tù có thời hạn thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng
không quá ba phần tư mức phạt tù mà điều luật đã quy định; và đối với người
từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi khi phạm tội... nếu là tù có thời hạn thì mức
hình phạt cao nhất được áp dụng không quá một phần hai mức phạt tù mà
điều luật quy định. Theo đó, không quá ba phần tư và không quá một phần hai
mức phạt tù thì đây là mức phạt tù thấp nhất hay mức phạt tù cao nhất hay
trung bình cộng, v.v... Vì vậy, nên sửa lại cho chính xác và phù hợp trên
phương diện lý luận và thực tiễn là: không quá ba phần tư mức phạt tù cao
nhất mà điều luật đã quy định, và: không quá một phần hai mức phạt tù cao
nhất mà điều luật đã quy định.
Hiện nay quy định về tù có thời hạn theo Điều 74 BLHS chưa cá thể hóa
mức hình phạt đối với NCTNPT ở các độ tuổi khác nhau. Vì thế, cần sửa đổi
điều luật này bằng cách xác định rõ các độ tuổi khác nhau thì mức phạt tù sẽ
khác nhau. Chẳng hạn với các độ tuổi như đủ 14 đến cận 15 tuổi, đủ 15 tuổi
đến cận 16 tuổi, đủ 16 đến cận 17 tuổi và đủ 17 đến cận 18 tuổi thì mức hình
phạt tù có thời hạn sẽ khác nhau.
Hai là, hoàn thiện những quy định về TNHS của NCTNPT. Về cơ bản
đường lối xử lý NCTNPT đã thể hiện sự quan tâm đặc biệt đối với NCTNPT.
Để NCTNPT được hưởng sự công bằng, phù hợp với tính chất, mức độ hành
vi phạm tội (do quy định hình phạt đối với NCTNPT mới chỉ dừng ở khống
128
chế mức hình phạt tối đa chưa xác định cụ thể mức hình phạt tối thiểu và hình
phạt được quy định trong BLHS) chưa thể hiện rõ đường lối xử lý mang tính
phân hoá giữa các trường hợp NCTNPT ở những giai đoạn phạm tội khác
nhau. Xuất phát từ khung hình phạt đã quy định đối với các tội phạm cụ thể là
chuẩn được sử dụng để xác định các mức giảm nhẹ theo các tiêu chí khác
nhau, vì thế bất cập liên quan đường lối xử lý NCTNPT cần giải quyết cụ thể
bằng quy định mang tính phân hoá về khung hình phạt. Cụ thể, Điều 69 trong
quy định về nguyên tắc xử lý NCTNPT, nhà làm luật cần đưa ra phương án
quy định về khung hình phạt đối với NCTNPT liên quan đến vấn đề nêu trên.
4.2.2. Hoàn thiện một số quy phạm pháp luật về quyền của người
chưa thành niên phạm tội trong pháp luật tố tụng hình sự
Thứ nhất, sửa đổi, bổ sung một số điều khoản quy định về nguyên tắc
xử lý các vụ án có NCTNPT theo hướng phù hợp với pháp luật hiện hành
và phù hợp với chuẩn mực quốc tế mà Việt Nam đã tham gia, ký kết
Hướng sửa đổi Chương XXII BLTTHS, trước hết là quy định thủ tục tố
tụng chuyên biệt, đặc thù trong giải quyết vụ án hình sự có NCTNPT. Cụ thể,
luận án đề xuất một số phương hướng sửa đổi, bổ sung để hoàn thiện các quy
định về quyền của NCTNPT thông qua các quy định về thủ tục điều tra, truy
tố, xét xử NCTNPT trong BLTTHS như sau:
Nguyên tắc chung khi tiến hành tố tụng đối với NCTNPT là những vấn
đề chung cần tiếp cận, xử lý khi giải quyết vụ án có nhóm đối tượng này tham
gia. Công ước quyền trẻ em và các điều ước quốc tế khác đều yêu cầu pháp
luật quốc gia cần đảm bảo các nguyên tắc chung, cơ bản nhất để bảo vệ quyền
trẻ em trong tố tụng hình sự, trong đó nguyên tắc đầu tiên quan trọng nhất là
đảm bảo lợi ích tốt nhất của trẻ em.
Trong BLTTHS 2003 chưa có điều khoản nào quy định rõ nguyên tắc khi
giải quyết các vụ án liên quan đến NCTNPT trong tố tụng hình sự phải cân nhắc
để đảm bảo lợi ích tốt nhất của trẻ em. Điều 69 của BLHS chỉ quy định nguyên
tắc xử lý đối với NCTNPT là chủ yếu nhằm giáo dục, giúp đỡ họ sửa chữa sai
lầm, phát triển lành mạnh và trở thành công dân có ích cho xã hội. Trong thực
129
tiễn, không phải lúc nào nguyên tắc lợi ích tốt nhất của trẻ em cũng được coi là
mối quan tâm hàng đầu, vẫn còn những người tiến hành tố tụng chưa quán triệt
triệt để nguyên tắc này trong quá trình xử lý các vụ án liên quan đến trẻ em.
Để thể hiện rõ những quan điểm và tư tưởng này, kiến nghị bổ sung một
điều luật vào Phần thứ nhất - Những quy định chung, Chương II - Những
nguyên tắc cơ bản của BLTTHS hiện hành, trong đó quy định các nội dung
mang tính nguyên tắc của việc điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự liên quan
đến NCTNPT. Trên cơ sở nguyên tắc chung này, sẽ định hướng tiếp theo các
định chế cụ thể về quyền của NCTNPT. Đây là cơ sở pháp lý cơ bản nhất cho
người tiến hành tố tụng xem xét, cân nhắc khi ra các quyết định xử lý vụ án có
NCTNPT. Cụ thể, đề nghị bổ sung một điều luật mới về tiến hành tố tụng đối với
NCTNPT. Trong điều luật này cần thể hiện những nội dung sau đây:
- Mọi hoạt động tố tụng hình sự tiến hành đối với người tham gia tố tụng là
NCTNPT phải bảo đảm tránh gây tổn hại về sức khỏe, tâm lý, nhân phẩm và
phải đảm bảo lợi ích hợp pháp tốt nhất cho họ.
- Hoạt động tố tụng hình sự tiến hành đối với NCTNPT phải được thực
hiện nhanh chóng, kịp thời, trong môi trường thân thiện.
- Tôn trọng và bảo vệ sự riêng tư của NCTNPT. Các thông tin cá nhân của
NCTNPT tham gia tố tụng phải được bảo đảm giữ bí mật. Việc công bố bất kỳ
thông tin nào dẫn đến việc nhận dạng được NCTNPT đều bị cấm, trừ khi có
quyết định của các cơ quan có thẩm quyền.
- Người tiến hành tố tụng phải cân nhắc các biện pháp khác nhau cho các
vụ án có liên quan đến NCTNPT, bảo đảm tôn trọng quyền riêng tư, bảo vệ sức
khỏe và tránh gây tổn hại cho các đối tượng là NCTN khác có liên quan.
Thứ hai, sửa đổi, bổ sung quyền của NCTNPT trong các quy định về
hoạt động điều tra, truy tố, xét xử
Khắc phục những vướng mắc, bất cập nảy sinh trong nhận thức và áp
dụng quy định của BLTTHS hiện hành về thủ tục tố tụng đối với NCTNPT,
đáp ứng yêu cầu bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của các đối tượng này
trong tố tụng hình sự và đường lối, chính sách hình sự của Đảng, Nhà nước ta
130
về đấu tranh phòng, chống tội phạm do NCTN thực hiện, luận án đề xuất một
số phương hướng sửa đổi, bổ sung để hoàn thiện các quy định về thủ tục điều
tra, truy tố, xét xử NCTNPT trong BLTTHS hiện nay như sau:
Một là, sửa đổi quy định về phạm vi áp dụng các quy định trong Chương
XXXII về thủ tục tố tụng đối với NCTN
Trong BLTTHS 2003 chỉ quy định phạm vi áp dụng thủ tục tố tụng đặc
biệt đối với NCTNPT. Để phù hợp với chuẩn mực pháp luật quốc tế, trước hết
cần phải quan tâm đối với những đối tượng sau: những NCTNPT, NCTN bị
tổn thương, bị thiệt hại bởi tội phạm và người làm chứng là NCTN, theo đó
cần sửa đổi phạm vi áp dụng tại Điều 301 sẽ bao gồm NCTNPT, người làm
chứng, người bị hại. Đồng thời để đảm bảo lợi ích của NCTN cho đến độ tuổi
được xác định, cần giải quyết vướng mắc thực tiễn của vụ án NCTN mà
BLTTHS không quy định cụ thể là trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử mà
NCTN đủ 18 tuổi thì giải quyết theo thủ tục nào. Thông thường nếu một
NCTN trong quá trình tố tụng hình sự bước sang tuổi trưởng thành thì việc áp
dụng BLHS vẫn dựa trên độ tuổi của người đó vào thời điểm phạm tội, tuy
nhiên có thể áp dụng thủ tục tố tụng dành cho người lớn với đối tượng này.
Do đó, việc kết án và áp dụng hình phạt đối với NCTNPT cần căn cứ vào độ
tuổi của người đó khi thực hiện hành vi phạm tội bị kết án, song không phải
lúc nào cũng cần phải áp dụng thủ tục tố tụng dành riêng cho NCTNPT,
chẳng hạn có thể không cần sự hỗ trợ của cộng đồng trong giai đoạn xét xử.
Hai là, sửa đổi, bổ sung quy định về tiêu chuẩn cần có của người tiến hành
tố tụng đối với các vụ án liên quan đến NCTNPT
Đào tạo là vấn đề rất quan trọng đối với các cán bộ làm việc trong hệ thống
tư pháp vì nó giúp cho họ biết cách áp dụng các nguyên tắc, chuẩn mực
TPNCTN và việc áp dụng vào thực tiễn như một yêu cầu về kỹ năng. Do đó, đề
nghị cần khẳng định rõ tiêu chuẩn về đào tạo trong BLTTHS, ít nhất và trước hết
đối với các chức danh tư pháp Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán. Mặt
khác, ở nước ta vẫn chưa thành lập các bộ phận chuyên trách trong các cơ quan
131
tiến hành tố tụng để giải quyết các vụ án liên quan đến NCTNPT. Theo đó cần
thiết phải sửa đổi vấn đề này của BLTTHS theo hướng sau:
- Quy định Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân
được phân công tiến hành tố tụng đối với NCTNPT phải là người đã được đào
tạo hoặc có kinh nghiệm về điều tra, truy tố, xét xử với đối tượng này hoặc là
người có những hiểu biết cần thiết về tâm lý học, khoa học giáo dục về lứa tuổi
chưa thành niên, tội phạm ở NCTN.
- Quy định cụ thể về việc khi tiến hành điều tra, truy tố và xét xử, ngoài
những yêu cầu chứng minh được quy định trong BLTTHS, cơ quan tiến hành tố
tụng, người tiến hành tố tụng cần phải xác định rõ các vấn đề: Độ tuổi, mức độ
phát triển về thể chất và tinh thần, mức độ nhận thức về hành vi phạm tội của
NCTN; Điều kiện sinh sống và giáo dục của họ; Có hay không có người thành
niên xúi giục họ phạm tội; Nguyên nhân và điều kiện phạm tội.
Ba là, bổ sung quy định về xác định độ tuổi NCTNPT trong văn bản mang
tính chất luật
Trong BLTTHS hiện nay chưa có điều khoản nào hướng dẫn việc xác định
độ tuổi của NCTN. Thông tư liên tịch số 01/2011/TTLT hướng dẫn thi hành một
số quy định của BLTTHS đối với người tham gia tố tụng là NCTN, trong đó có
hướng dẫn về cách xác định độ tuổi của NCTN đã giải quyết khó khăn về xác
định tuổi của NCTNPT, phù hợp với chuẩn mực pháp luật quốc tế.
Bốn là, sửa đổi quy định về áp dụng biện pháp ngăn chặn đối với NCTNPT
Từ những phân tích tại Chương 3 về việc áp dụng biện pháp ngăn chặn đối
với NCTNPT, đề nghị sửa đổi Phần những quy định chung liên quan đến thủ tục
điều tra, truy tố, xét xử NCTNPT như sau:
Sửa đổi các biện pháp ngăn chặn theo hướng: quy định rõ khái niệm biện
pháp ngăn chặn, bổ sung nội dung thể hiện sự hạn chế việc áp dụng các biện
pháp ngăn chặn tước tự do của NCTNPT, gồm các nội dung: Một, biện pháp
ngăn chặn là biện pháp cưỡng chế nhà nước, quy định trong BLTTHS, do cơ
quan hoặc người có thẩm quyền theo quy định của pháp luật áp dụng nhằm ngăn
132
chặn tội phạm, bảo đảm cho công tác điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hoặc
không cho họ tiếp tục phạm tội mới. Hai, NCTNPT chỉ bị áp dụng biện pháp
tạm giam trong trường hợp cần thiết và trong thời gian ngắn nhất có thể.
Cần bổ sung các quy định mới đảm bảo các điều kiện tối đa cho NCTNPT
khi bị tạm giam thực hiện các quyền tự bảo vệ, được hưởng sự trợ giúp pháp lý
cũng như bảo vệ quyền riêng tư, đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp và phù hợp
với pháp luật quốc tế. Do đó phải quy định về quyền của NCTNPT khi bị tạm
giam theo hướng: Một, khi bị tạm giam phải được giam riêng với người đã thành
niên. Hai, các quyền về ăn, ở, quyền được thăm nuôi, quyền được thông tin,
quyền được bảo vệ về tính mạng, sức khỏe, quyền không bị tra tấn, đánh đập,
quyền được bào chữa phải được đảm bảo trong suốt quá trình tạm giam và phải
được cơ quan nhà nước có thẩm quyền đảm bảo.
Sửa đổi, bổ sung quy định về thời hạn tạm giam để điều tra. Đề nghị bổ
sung nội dung quy định riêng về thời hạn tạm giam NCTNPT theo hướng rút
ngắn bằng 1/2 hoặc bằng 3/4 thời hạn tạm giam so với người đã thành niên tùy
thuộc độ tuổi. Cơ quan điều tra có trách nhiệm thường xuyên rà soát, xem xét
việc hủy bỏ, thay đổi hoặc gia hạn tạm giam đối với NCTNPT trong quá trình
điều tra vụ án, đảm bảo trong mọi trường hợp các đối tượng này được bảo vệ
quyền và lợi ích kịp thời. Tước quyền tự do của NCTNPT phải được hạn chế
như là biện pháp cuối cùng và phải trong thời hạn phù hợp. Việc gia hạn tạm
giam cần đề xuất trước 5 ngày trước khi hết hạn để Viện kiểm sát xem xét, cân
nhắc đầy đủ việc phê chuẩn tiếp tục tạm giam hoặc thay đổi việc áp dụng biện
pháp ngăn chặn, hoặc xử lý chuyển hướng đối với NCTNPT.
Thống nhất với các quy định tại Phần những quy định chung, thủ tục tố
tụng đặc biệt đối với NCTN trong điều tra, truy tố, xét xử nói chung và áp dụng
các biện pháp ngăn chặn nói riêng cần được cụ thể hóa nguyên tắc xử lý đối với
NCTNPT, bao gồm cả trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng để thuận tiện
cho việc áp dụng. Theo đó, các quy định về tạm giam cần được sửa đổi và quy
định cụ thể và thể hiện các nội dung sau:
133
Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi chỉ có thể bị tạm giam nếu có đủ căn cứ
quy định của BLTTHS và chỉ khi xét thấy thực sự cần thiết. Thời hạn tạm giam đối
với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi bằng một phần hai mức thời hạn trong điều
luật tương ứng được áp dụng.
Người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi chỉ có thể bị tạm giam nếu có đủ căn
cứ quy định của BLTTHS và chỉ khi xét thấy thực sự cần thiết, và chỉ trong
những trường hợp phạm tội nghiêm trọng do cố ý, phạm tội rất nghiêm trọng
hoặc phạm tội đặc biệt nghiêm trọng. Thời hạn tạm giam đối với người từ đủ 16
tuổi đến dưới 18 tuổi bằng ba phần tư mức thời hạn trong điều luật tương ứng
được áp dụng.
Khi áp dụng biện pháp tạm giam đối với NCTNPT, cơ quan tiến hành tố
tụng phải xác định chính xác độ tuổi của họ nhằm áp dụng đúng các quy định
của BLTTHS. Cơ quan tiến hành tố tụng phải thường xuyên theo dõi, kiểm tra
và khi xét thấy không còn cần thiết áp dụng biện pháp ngăn chặn đó thì kịp thời
hủy bỏ hoặc thay thế bằng các biện pháp ngăn chặn khác không hạn chế tự do
đối với họ. Khi tạm giam đối với NCTNPT, cơ quan tiến hành tố tụng cần hạn
chế việc gia hạn thời hạn tạm giam.
Phải tạm giam riêng NCTNPT với người đã thành niên. Khi xét thấy
NCTNPT có biểu hiện hoang mang, lo lắng có thể manh động dẫn đến có hành
vi tiêu cực thì cơ quan điều tra yêu cầu cơ sở giam giữ áp dụng các biện pháp
phù hợp để tránh hậu quả xấu có thể xảy ra. Chế độ tạm giam NCTNPT được
bảo đảm theo quy định của pháp luật hiện hành.
Năm là, sửa đổi, bổ sung quy định quyền của NCTNPT thông qua các quy
định về kỹ năng lấy lời khai
Mặc dù các cán bộ điều tra có thể áp dụng các kỹ năng điều tra thân
thiện với NCTNPT một cách tự phát, nhưng điều quan trọng là BLTTHS cần
quy định chính thức về các bảo vệ cơ bản cần đảm bảo cũng như các hướng
dẫn về lấy lời khai thân thiện với các đối tượng này. Các quy định đó trong
BLTTHS trở thành nguyên tắc áp dụng, thay thế quy định về vấn đề này trong
các Thông tư. Đề nghị bổ sung quy định chuyên biệt về việc lấy lời khai đối
134
với NCTNPT bằng một điều luật mới, một điều luật cụ thể, trong đó phải thể
hiện đầy đủ tinh thần và những nội dung cơ bản sau: Ai lấy lời khai, lấy vào
thời điểm nào, việc sử dụng ngôn ngữ khi lấy lời khai của NCTNPT, thời gian
lấy lời khai diễn ra như thế nào, thông báo cho gia đình, người bào chữa, người
đại diện hợp pháp của họ về việc lấy lời khai, hỏi cung, v.v.. Trường hợp cần
thiết, khi NCTNPT hoặc gia đình có yêu cầu, có thể mời cán bộ chuyên trách,
cán bộ trợ giúp, tư vấn về pháp lý, y tế cùng tham gia để tạo tâm lý yên tâm,
thoải mái cho họ.
Lấy lời khai của người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phạm tội hoặc trong
những trường hợp cần thiết khác, cơ quan tiến hành tố tụng phải thông báo
trước cho đại diện của gia đình để bảo đảm sự có mặt của họ. Việc lấy lời khai
của NCTNPT khi không có mặt đại diện gia đình chỉ được thực hiện trong
trường hợp người đó không có gia đình, đại diện gia đình cố ý vắng mặt mà
không có lý do chính đáng hoặc họ từ chối tham gia. Trường hợp đại diện gia
đình của NCTNPT không thể có mặt, để bảo đảm trình tự, thủ tục tố tụng
được tiến hành kịp thời theo quy định, thì việc lấy lời khai của các đối tượng
này vẫn phải thực hiện nhưng cơ quan tiến hành tố tụng phải mời cán bộ
thuộc một trong các cơ quan Lao động - Thương binh và Xã hội, Hội Phụ nữ,
Đoàn TNCS Hồ Chí Minh hoặc Luật sư tham gia lấy lời khai, hỏi cung.
Đại diện gia đình, cán bộ thuộc cơ quan Lao động - Thương binh và Xã
hội, đại diện Hội Phụ nữ, Đoàn TNCS Hồ Chí Minh, Luật sư có thể được bố
trí ngồi cạnh NCTNPT để tạo tâm lý yên tâm, thoải mái cho họ
Sáu là, sửa đổi, bổ sung các quy định về quyền của NCTNPT liên quan đến
vấn đề giám sát đối với NCTN
Có trường hợp NCTNPT không còn cha, mẹ, không có nơi cư trú rõ
ràng, lang thang. Vì vậy, để thực hiện được quyền của đối tượng này, cần có
những quy định mở rộng và cụ thể để việc giám sát đầy đủ, có hiệu quả đối
với NCTNPT. Trong BLTTHS hiện nay không đặt ra trách nhiệm đối với
người có nghĩa vụ giám sát khi để NCTNPT bỏ trốn, tiếp tục phạm tội hoặc
không có mặt theo giấy triệu tập. Để bảo đảm hiệu quả của việc giám sát,
135
nâng cao trách nhiệm của người giám sát, cần sửa đổi, bổ sung theo hướng
quy định người được giao nhiệm vụ giám sát phải chịu trách nhiệm pháp lý
nếu vi phạm nghĩa vụ giám sát. Với NCTNPT không còn cha mẹ, không có
nơi cư trú rõ ràng hoặc là người lang thang, cơ nhỡ,… thì Cơ quan điều tra
phải tìm mọi biện pháp để xác định lý lịch cũng như gia đình của họ. Trong
trường hợp không xác định được thì phải đề nghị cơ quan Lao động - Thương
binh và Xã hội hoặc Đoàn TNCS Hồ Chí Minh, Hội Phụ nữ ở nơi bắt giữ, nơi
xảy ra tội phạm hoặc nơi có thẩm quyền điều tra cử cán bộ giám sát họ.
Bảy là, sửa đổi quy định về quyền của NCTNPT liên quan đến vai trò tham
gia tố tụng của gia đình, nhà trường và tổ chức xã hội
Quy định sự tham gia tố tụng của gia đình, nhà trường và các tổ chức xã
hội trong BLTTHS chưa cụ thể, ảnh hưởng đến việc hưởng quyền của
NCTNPT. Trong trường hợp cần thiết thì việc lấy lời khai, hỏi cung phải có
mặt đại diện của gia đình... Đại diện của gia đình có thể hỏi bị can nếu được
Điều tra viên đồng ý [49, Điều 306], tuy nhiên chưa có quy định như thế nào
được coi là trường hợp cần thiết. Theo Thông tư liên tịch 01/2011/TTLT
trường hợp cần thiết hoặc khi NCTN có yêu cầu, Tòa án có thể mời đại diện
cơ quan Lao động - Thương binh và Xã hội, Hội Phụ nữ, Đoàn TNCS Hồ Chí
Minh hoặc cán bộ trợ giúp khác tham gia phiên tòa để hỗ trợ cho họ.
Từ thực trạng đã phân tích ở tiết 3.2 của chương 3, đề nghị sửa đổi quy
định này theo hướng: Một, bỏ cụm từ “nếu được Điều tra viên đồng ý” để
không hạn chế quyền giúp đỡ NCTNPT; Hai, bổ sung đoạn “Khi xét thấy cần
thiết hoặc khi NCTNPT có yêu cầu, Toà án có thể mời đại diện cơ quan Lao
động - Thương binh và Xã hội, Hội Phụ nữ, Đoàn Thanh niên hoặc cán bộ trợ
giúp khác tham gia phiên toà để hỗ trợ cho họ”, tạo điều kiện trợ giúp pháp lý
tối đa cho các đối tượng này; Ba, bổ sung việc hoãn phiên tòa trong trường
hợp vắng mặt những người mà Tòa án coi là cần thiết để bảo vệ quyền lợi cho
NCTNPT; Bốn, bổ sung quyền khiếu nại các quyết định tố tụng của những
người tiến hành tố tụng và Tòa án.
136
Tám là, sửa đổi, bổ sung quyền của NCTNPT liên quan đến các quy định
về thủ tục xét xử
Quyền được xét xử trong môi trường thân thiện là một trong những quyền
quan trọng đã được các điều ước quốc tế ghi nhận. Xu hướng của các quốc gia
trên thế giới là ghi nhận trong hệ thống pháp luật quyền của NCTNPT được xét
xử trong môi trường phù hợp với lứa tuổi. BLTTHS hiện nay không có quy định
nào về quyền này của NCTNPT, thậm chí cũng không có quy định về việc tạo
một môi trường xét xử thân thiện. Thông tư liên tịch 01/2011/TTLT có quy
định, khi tiến hành xét xử, Tòa án có thể sắp xếp lại vị trí của những người
tiến hành tố tụng, những người tham gia tố tụng trong phòng xử án nhằm làm
giảm cảm giác căng thẳng, sợ hãi đối với NCTNPT. Tuy nhiên, cần pháp điển
hóa những quy định này vào trong BLTTHS, ghi nhận một cách chính thức
quyền của NCTNPT được xét xử trong môi trường thân thiện. Quyền này
phải được quy định cụ thể với các nội dung sau:
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm các cấp trong các vụ án có
NCTNPT phải có Hội thẩm nhân dân đang hoặc đã là giáo viên hoặc cán bộ
Đoàn TNCS Hồ Chí Minh hoặc là cán bộ cơ quan bảo vệ, chăm sóc trẻ em.
- Ngoài các trường hợp quy định về xét xử kín nói chung, Tòa án có thể
quyết định xét xử kín các vụ án NCTNPT. Việc tuyên án được tiến hành công
khai nhưng phải đảm bảo giữ bí mật thông tin cá nhân. Không tiến hành xét
xử lưu động vụ án có NCTNPT, trừ trường hợp cần thiết.
- Khi tiến hành xét xử, Tòa án có thể sắp xếp lại vị trí của những người
tiến hành tố tụng, những người tham gia tố tụng trong phòng xử án tạo bầu
không khí thân thiện, giảm cảm giác căng thẳng, sợ hãi đối với NCTNPT.
- Không còng tay hoặc sử dụng các phương tiện cưỡng chế khác trong
quá trình xét xử tại Tòa án, trừ trường hợp họ có việc làm tiêu cực hoặc có
biểu hiện chống đối, gây mất trật tự tại phiên toà.
- Việc thẩm vấn, xét hỏi NCTNPT tại phiên tòa phải theo quy định của
BLTTHS và phù hợp với lứa tuổi, mức độ phát triển của đối tượng. Những lời
giải thích về quyền và nghĩa vụ, thủ tục xét xử cũng như các câu hỏi đưa ra tại
137
phiên tòa cần đơn giản, rõ ràng để đảm bảo cho NCTNPT và đại diện gia đình
của họ có thể hiểu và trả lời đúng câu hỏi.
- Hội đồng xét xử phải cho phép NCTNPTP được bày tỏ ý kiến, quan điểm,
nguyện vọng của mình và phải cân nhắc, xem xét các ý kiến, quan điểm, nguyện
vọng đó trước khi ra bản án, quyết định.
- Khi xét xử, nếu thấy không cần thiết phải quyết định hình phạt đối với
họ thì Tòa án áp dụng một trong những biện pháp tư pháp quy định tại BLHS.
Chín là, đề nghị thành lập Tòa chuyên trách về NCTN. Việc thành lập
Tòa chuyên trách về NCTN xuất phát từ những đặc thù về tâm sinh lý của
NCTN đòi hỏi phải hoàn thiện hệ thống pháp luật để có những biện pháp xử
lý và những thủ tục tố tụng riêng biệt đối với NCTN. Bên cạnh đó, với tình
hình thực tiễn NCTNPT và NCTN là nạn nhân của hành vi phạm tội; hiệu quả
giải quyết những loại vụ việc này trong thực tiễn, thì việc thành lập Tòa
chuyên trách đối với NCTN ở Việt Nam là hết sức cần thiết phù hợp với yêu
cầu khách quan. Tòa chuyên trách về NCTN ra đời sẽ đáp ứng tốt hơn yêu
cầu bảo vệ, chăm sóc và giáo dục NCTNPT; thúc đẩy và phát triển các biện
pháp bảo vệ NCTNPT phù hợp với pháp luật và thông lệ quốc tế. Kinh
nghiệm một số quốc gia trên thế giới đã chỉ ra những ưu điểm khi thành lập
Tòa chuyên trách về NCTN đó là: Tòa chuyên trách đối với NCTN đảm bảo
và phù hợp với cải cách tư pháp, không làm phình to bộ máy của Tòa án
nhưng vẫn đảm bảo được những giá trị tốt nhất cho NCTN; Việc xây dựng
Tòa chuyên trách NCTN đảm bảo thúc đẩy và phát triển các hoạt động bảo vệ
NCTN. Việt Nam đang trong quá trình triển khai thực hiện Nghị quyết số 49-
NQ/TW về cải cách tư pháp, trong đó có việc đổi mới tổ chức và hoạt động
của Tòa án nhân dân. Vì thế, việc xây dựng Tòa chuyên trách về NCTN là
vấn đề mang tính lý luận và thực tiễn. Mô hình tổ chức của Tòa chuyên trách
về NCTN cần được cụ thể hóa thành những quy định trong Luật tổ chức Tòa
án nhân dân và các văn bản hướng dẫn thi hành. Điều này cũng đồng nghĩa
với việc phải tiến hành sửa đổi, bổ sung một số đạo luật và pháp lệnh.
138
Bên cạnh việc thành lập Tòa chuyên trách về NCTN cũng cần lưu ý
thành lập các đơn vị nghiệp vụ chuyên về giải quyết các vụ án liên quan đến
NCTN ở các Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát. Điều này sẽ đảm bảo quyền
và lợi ích hợp pháp của NCTN khi tham gia tố tụng, đồng thời sẽ làm cho các
quy định của pháp luật được áp dụng một cách đồng bộ, thống nhất.
4.2.3. Hoàn thiện một số quy phạm pháp luật về quyền của người
chưa thành niên phạm tội trong pháp luật thi hành án hình sự
Từ những phân tích trong 3.2 Chương 3 cho thấy các quy định của
BLTTHS, Luật thi hành án hình sự hiện nay chưa thể hiện rõ quyền của
NCTNPT ở “chế độ giam giữ” trong quá trình chấp hành hình phạt tù và “chế
độ giam giữ” trong việc áp dụng biện pháp ngăn chặn. Hiện nay chưa có một
văn bản pháp lý độc lập trong đó có quy định về quyền của NCTNPT trong
các trại tạm giam. Trong khi đó, chế độ tạm giam hoàn toàn khác biệt với chế
độ giam giữ khi chấp hành án phạt tù của NCTNPT. Từ lý do trên cần sửa
đổi, bổ sung các vấn đề sau:
Một là, sửa đổi, bổ sung quy định mang tính nguyên tắc về chế độ tạm
giam NCTNPT, trên cơ sở đó ban hành hướng dẫn cụ thể về nội dung này.
Hiện nay BLTTHS (Điều 308) cần được sửa đổi theo hướng quy định cụ thể
cả chế độ tạm giam và chấp hành hình phạt tù. Cần nhấn mạnh tính đặc thù
trong tạm giam và chấp hành hình phạt tù đối với NCTNPT. Các quyền của
NCTNPT khi bị tạm giam và chấp hành hình hình phạt tù cần được quy định
cụ thể căn cứ vào đặc điểm tâm sinh lý, lứa tuổi và phù hợp với các điều ước
quốc tế mà Việt Nam đã ký kết. Ví dụ như quyền được xem xét trả tự do ngay
khi không cần thiết áp dụng các biện pháp và hình phạt nêu trên; quyền được
bảo vệ tính mạng, được chăm sóc sức khoẻ; quyền được đối xử nhân đạo;
quyền được trợ giúp pháp lý và các hỗ trợ phù hợp khác…
Hai là, để quyền được học tập, học nghề của NCTNPT khi thi hành án
khả thi cần sửa đổi theo hướng sau: Xây dựng các chương trình giáo dục định
hướng với NCTNPT đang thi hành hình phạt tù; Quy định bắt buộc đối với cơ
139
quan thi hành án phải thực hiện chương trình giáo dục tiểu học, phổ cập trung
học cơ sở cho, không được vì lý do số lượng NCTNPT chấp hành hình phạt tù
trong trại ít, trình độ không đồng đều để không thực hiện quyền này; Quy
định rõ ràng, cụ thể NCTNPT chấp hành hình phạt tù được học nghề, theo đó
việc dạy nghề cho các đối tượng này là bắt buộc và trình độ nghề của các đối
tượng này phải tương đương sơ cấp nghề.
Ba là, để quyền được vui chơi, giải trí của NCTNPT trong khi chấp hành
hình phạt tù được hiện thực hóa, cần sửa đổi quy định về quyền này theo
hướng: Quy định về sân chơi, số lượng đầu sách tối thiểu trong thư viện dành
cho NCTN; Số lượng tối thiểu dụng cụ thể thao phải trang bị phục vụ nhu cầu
rèn luyện sức khỏe của NCTN. Quy định cụ thể trong Luật thi hành án hình
sự về quyền được hoạt động, tham gia các hoạt động thể dục, thể thao, sinh
hoạt văn hoá, văn nghệ, nghe đài, đọc sách, xem truyền hình và các hình thức
vui chơi giải trí khác. Theo đó quy định cụ thể thời gian một ngày được tiến
hành các hoạt động nêu trên và phải đảm bảo thời gian vui chơi, giải trí, hoạt
động thể dục, thể thao nhiều hơn so với quy định đối với người đã thành niên.
Bốn là, tăng khẩu phần ăn về chất lượng dinh dưỡng cho NCTNPT phải
chấp hành hình phạt tù, nhất là NCTN từ đủ 14 đến dưới 16 tuổi. Nhóm đối
tượng này đang trong quá trình phát triển mạnh mẽ về thể lực và trí tuệ, trong
độ tuổi “ăn không biết no”, nhu cầu về dinh dưỡng cao hơn bình thường để
phát triển. Tăng diện tích sàn tối thiểu đối với NCTNPT trong cơ sở chấp
hành hình phạt tù. Buồng giam phải thoáng mát về mùa hè, kín về mùa đông,
hợp vệ sinh môi trường.
Năm là, quy định việc giam giữ riêng NCTNPT trong cơ sở chấp hành
hình phạt tù là nguyên tắc không được vi phạm; không vì lý do quản lý hoặc
các lý do khác để giam giữ chung với người đã thành niên. Theo đó cần nhấn
mạnh (điều 51 Luật thi hành án hình sự), trong mọi trường hợp NCTNPT phải
được giam giữ riêng phù hợp với sức khoẻ, giới tính và đặc điểm nhân thân.
140
Sáu là, bổ sung quy định cụ thể về chế độ chăm sóc sức khoẻ, chăm sóc
y tế đối với NCTNPT trong cơ sở chấp hành hình phạt tù. Luật thi hành án
hình sự chưa có quy định về quyền này dành riêng cho NCTNPT. Xuất phát
từ đặc điểm tâm sinh lý của đối tượng, đề xuất bổ sung thêm quy định về
quyền được chăm sóc sức khoẻ, chăm sóc y tế đối với NCTNPT khi thi hành
án phạt tù. Quy định này nhấn mạnh đến tính đặc thù của đối tượng, do đang
trong quá trình phát triển về thể chất, có sự thay đổi mạnh mẽ về sinh học cần
được quan tâm chăm sóc sức khoẻ vị thành niên. Theo đó, điều luật này đưa
vào mục những quy định chung đối với phạm nhân là NCTN. Ngoài quy định
về chăm sóc y tế cho phạm nhân nói chung, để thể hiện quyền đặc thù của
NCTNPT, nội dung của điều luật phải thể hiện được nôi dung: NCTNPT
được khám sức khoẻ định kỳ; Được tư vấn về sức khoẻ vị thành niên, sức
khoẻ tâm thần; Được quan tâm chăm sóc đặc biệt khi ốm đau, bệnh tật.
Bảy là, sửa đổi, bổ sung quy định về lao động của NCTNPT trong cơ sở
thi hành án phạt tù. Luật thi hành án phạt tù mới chỉ quy định về địa điểm lao
động, tính chất công việc đối với NCTNPT mà chưa quy định về điều kiện lao
động, thời gian lao động của NCTNPT khi phải chấp hành hình phạt tù. Vì
thế, cần phải quy định cụ thể trong điều luật về nội dung này. Theo đó việc
quy định cần thể hiện được nội dung, tinh thần sau: NCTNPT chỉ phải lao
động trong điều kiện thời tiết thuận lợi không ảnh hưởng đến sức khoẻ; Thời
gian lao động phải phù hợp với lứa tuổi chưa thành niên; Thời gian tối đa lao
động trong một ngày, trong một tuần làm việc phải quy định cụ thể trong điều
luật; Mục đích của lao động để rèn luyện sức khoẻ, giáo dục ý thức lao động.
4.2.4. Hoàn thiện một số quy phạm pháp luật về quyền của người
chưa thành niên phạm tội trong các văn bản quy phạm pháp luật khác
Một là, sửa đổi, bổ sung một số quy định về quyền của NCTNPT trong
tái hoà nhập cộng đồng. Chương 3 luận án đã trình bày, công tác tái hoà nhập
NCTNPT bị cách lý khỏi xã hội mang ý nghĩa quan trọng trong chính sách
pháp luật của nước ta. Đây có thể được coi là khâu cuối cùng của hệ thống tư
141
pháp đối với NCTN. Vấn đề tái hoà nhập cộng đồng đối với NCTNPT đã
được quy định trong nhiều văn bản pháp luật như BLHS, BLTTHS, Luật thi
hành án hình sự; trong các Nghị định… Các quy định trong các văn bản nêu
trên đã thể chế hoá và quán triệt một số chính sách lớn của Đảng ta. Ở nước ta
hiện nay không có hệ thống cơ quan chuyên trách thực hiện chức năng tái hòa
nhập cộng đồng cho NCTNPT nên cần xây dựng các quy định về vấn đề này
để đảm bảo rằng ngay cả khi NCTN đã chấp hành xong hình phạt họ có một
môi trường hoàn toàn thân thiện và phù hợp để phát triển và trở thành công
dân có ích cho xã hội. Trong có coi trọng sự phối hợp giữa các chủ thể như
gia đình NCTN, các trại giam, chính quyền địa phương, các tổ chức kinh tế,
tổ chức xã hội, cộng đồng dân cư trong quá trình tái hòa nhập cộng đồng của
NCTN. Một số quốc gia trên thế giới như Thái Lan, Philippin, Hà Lan rất coi
trọng cơ chế phối hợp này và được xác định là quyền quan trọng mà
NCTNPT sau khi chấp hành xong hình phạt được sự quan tâm của nhà nước
và xã hội để phục hồi nhân cách, niềm tin và các giá trị.
Hai là, nghiên cứu thí điểm xây dựng mô hình doanh nghiệp xã hội,
doanh nghiệp công ích sử dụng người lao động là NCTNPT chấp hành xong
hình phạt, biện pháp tư pháp. Đây có thể nói là một trong những mô hình tái
hòa nhập cộng đồng còn khá mới mẻ tại Việt Nam khi vấn đề giải quyết việc
làm ở nước ta đang bức xúc và phức tạp. Vì thế, để thực hiện được yêu cầu
này cần đổi mới tư duy và có nhận thức đầy đủ trên tinh thần bao dung, đánh
giá đúng khả năng, giá trị của NCTN đối với sự phát triển của xã hội và bản
thân các em. Do đó, cần đưa thông điệp này vào trong các văn bản quy phạm
pháp luật về kinh tế, giáo dục. Đồng thời phát huy vai trò của các chủ thể, các
doanh nghiệp các tổ chức từ thiện, thậm chí là các gia đình, hộ gia đình, tổ
hợp tác để thành lập các nhóm, tổ, doanh nghiệp đồng hành cùng với nhà
nước và đặc biệt là tạo điều kiện để NCTNPT sau khi chấp hành xong hình
phạt và biện pháp tư pháp có cơ hội cống hiến và làm việc.
142
4.2.5. Nâng cao trình độ, năng lực của Đại biểu Quốc hội trong xây
dựng, hoàn thiện các quy phạm pháp luật về quyền của người chưa
thành niên phạm tội
Hệ thống quy phạm pháp luật về quyền của NCTNPT còn chưa đồng bộ,
một số quy định còn chồng chéo, mâu thuẫn, chưa đầy đủ và cụ thể dẫn tới
khó khăn, thậm chí hiểu sai trong quá trình vận dụng và thực thi. Đây chính là
vật cản lớn đối với việc tôn trọng và thực thi quyền của NCTNPT. Để hoàn
thiện pháp luật về quyền của NCTNPT, đối với đại biểu Quốc hội - chủ thể
lập pháp quan trọng, cần:
Một là, đổi mới hơn nữa tư duy và nhận thức của các đại biểu Quốc hội
khi xây dựng các quy phạm pháp luật về quyền của NCTNPT. Để làm được
điều này, trước hết cần xây dựng và thống nhất những nguyên tắc có tính định
hướng trong tư tưởng chỉ đạo làm kim chỉ nam cho việc ban hành các quy
phạm pháp luật đó. Quán triệt những nội dung làm cơ sở nền tảng trong chính
sách của Đảng và Nhà nước về NCTNPT, đó là chính sách hình sự nhân đạo,
là quyền con người của đối tượng chưa phát triển đầy đủ về thể chất và trí tuệ.
Hai là, có cơ chế cụ thể để phát huy tối đa tính chủ động, sáng tạo của
đại biểu Quốc hội trong hoạt động xây dựng pháp luật về quyền của
NCTNPT, trong đó đặc biệt quan tâm tới đại biểu Quốc hội chuyên trách.
Điều này đặt ra hai vấn đề:
- Phải “tăng hợp lý tỷ lệ đại biểu chuyên trách, có trình độ, hiểu biết
pháp; xác lập cơ chế bảo đảm thực hiện quyền sáng kiến pháp luật của Đại
biểu Quốc hội”[7]. Đáp ứng yêu cầu của việc hoàn thiện pháp luật về quyền
của NCTNPT ở nước ta hiện nay, việc tăng số lượng đại biểu chuyên trách
trước hết cần tập trung cho một số Ủy ban như: Ủy ban Pháp luật, Ủy ban Tư
pháp, Ủy ban Văn hóa, Giáo dục, Thanh thiếu niên và nhi đồng của Quốc hội
theo hướng tất cả các thành viên của Ủy ban này đều là đại biểu chuyên trách.
Đối với vấn đề của NCTNPT thì tăng số lượng đại biểu có kiến thức, có năng
lực và sự am hiểu về NCTN và pháp luật về NCTN. Việc hoàn thiện pháp luật
về quyền của NCTNPT không chỉ có yêu cầu về trình độ học vấn của đại biểu
143
Quốc hội, mà đối với pháp luật về quyền của NCTNPT là vấn đề phức tạp,
nhạy cảm nên yêu cầu đối với đại biểu Quốc hội còn phải am hiểu về tâm sinh
lý và những vấn đề xã hội của NCTNPT từ đó mới thấu hiểu và có cách giải
quyết vấn đề này phù hợp và hiệu quả nhất. Quyền của NCTNPT phải được
các đại biểu Quốc hội xem xét trên cả bình diện chung (cuộc đấu tranh phòng
chống tội phạm) và trên bình diện cụ thể (NCTN chưa phát triển đầy đủ cả về
thể chất và trí tuệ). Chính từ những vấn đề này, các đạo luật có liên quan đến
NCTN nói chung, NCTNPT nói riêng nên thành lập nhóm tư vấn xây dựng
luật bao gồm các đại biểu Quốc hội đã có kinh nghiệm, am hiểu, hoặc đã trực
tiếp làm công tác chuyên môn có liên quan đến NCTNPT.
- Đặc biệt cần đề cao trách nhiệm của đại biểu Quốc hội trong việc thực
thi quyền sáng kiến pháp luật về quyền của NCTNPT. Các đại biểu Quốc hội là
chủ thể quan trọng có quyền sáng kiến lập pháp về quyền của NCTNPT. Sáng
kiến pháp luật về quyền của NCTNPT của đại biểu Quốc hội là việc đưa ra
kiến nghị với Quốc hội hoặc Ủy ban Thường vụ Quốc hội về việc xây dựng,
ban hành văn bản luật, xây dựng, ban hành văn bản pháp lệnh trong một năm
hoặc một nhiệm kỳ Quốc hội để điều chỉnh các vấn đề về quyền của NCTNPT.
Kể từ ngày 15/4/1992 (ngày Quốc hội khóa VIII thông qua Hiến pháp năm
1992, trong đó có quy định quyền sáng kiến pháp luật của đại biểu Quốc hội)
đến hết khóa XI, Quốc hội đã xây dựng, ban hành được 160 đạo luật, Ủy ban
Thường vụ Quốc hội xây dựng và thông qua được 119 pháp lệnh (trong số 199
pháp lệnh) nhưng chưa có luật hay pháp lệnh nào do đại biểu Quốc hội trình.
Vì thế cũng chưa có luật hay pháp lệnh nào về quyền của NCTNPT do đại biểu
Quốc hội trình dự án. Bên cạnh đó, việc kiến nghị về luật, pháp lệnh về quyền
của NCTNPT cũng không có đại biểu Quốc hội nào đưa ra.
Khi dự án luật hoặc pháp lệnh có chứa đựng quy phạm pháp luật về
quyền của NCTNPT được gửi xin ý kiến đại biểu Quốc hội một, hai hoặc
nhiều lần, thì đại biểu Quốc hội có trách nhiệm nghiên cứu một cách độc lập
dự án hoặc có quyền yêu cầu thảo luận tại Đoàn đại biểu Quốc hội. Trong
những trường hợp này, Đoàn đại biểu Quốc hội có thể mời chuyên gia, các
144
nhà khoa học, các cơ quan hữu quan tư vấn, báo cáo, trình bày ý kiến về vấn
đề này. Tuy nhiên trên thực tiễn các quy định này trong nhiều trường hợp
không thực hiện được do việc quy định không đồng bộ, không có cơ chế phối
hợp nên không thực hiện được. Điều này ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động
bình thường của Quốc hội, ảnh hưởng đến hoạt động lập pháp nói chung, đến
việc ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về quyền của NCTNPT. Ví dụ,
trong trường hợp dự án luật có liên quan đến quyền của NCTNPT mà một đại
biểu Quốc hội cần được tham khảo, được thông tin bởi các chuyên gia, các
nhà hoạt động thực tiễn nhưng không được Đoàn đại biểu tổ chức hội thảo,
thảo luận thì cũng rất khó để đại biểu đó góp ý một cách hiệu quả cho nội
dung dự án luật được hỏi ý kiến. Vì vậy, pháp luật cần bám sát thực tiễn để
quy định hợp lý quyền và trách nhiệm của đại biểu Quốc hội, từ đó mới phát
huy sự sáng tạo và vai trò của đại biểu Quốc hội trong quá trình xây dựng
pháp luật nói chung, văn bản pháp luật về quyền của NCTNPT nói riêng.
4.2.6. Nâng cao trình độ, năng lực của đội ngũ cán bộ, công chức
soạn thảo các quy phạm pháp luật về quyền của người chưa thành niên
phạm tội
Quy trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật là một quy trình phức
tạp, có sự tham gia của nhiều chủ thể khác nhau. Tùy theo từng loại văn bản
quy phạm pháp luật mà quy trình, cách thức xây dựng, ban hành quy định
khác nhau. Việc tiến hành quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm
pháp luật được thực hiện theo kế hoạch, là một trong những bước (giai đoạn)
vô cùng quan trọng đánh giá hiệu quả, chất lượng của văn bản đó.
Soạn thảo các văn bản luật trong đó có chứa đựng các quy phạm pháp
luật về quyền của NCTNPT được giao cho các cơ quan có thẩm quyền như
TANDTC, VKSNDTC, Bộ Tư pháp, Bộ Công an… Việc soạn thảo văn bản
quy phạm pháp luật được thực hiện bởi các cán bộ, công chức của các cơ
quan này. Khi xây dựng dự thảo, các chủ thể phải dựa trên cơ sở lý luận và
thực tiễn về quyền của NCTNPT, các vấn đề về đấu tranh phòng chống tội
phạm; tham khảo kinh nghiệm và thực tế về vấn đề này của thế giới; thu thập
145
bằng chứng khoa học trong và ngoài nước để làm căn cứ xây dựng. Muốn
làm được việc này các cán bộ, công chức phải là người am hiểu về vấn đề
quyền của NCTNPT, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước ta. Chỉ khi
cán bộ, công chức soạn thảo văn bản này có kiến thức pháp lý, có kiến thức
tâm lý - xã hội, có kinh nghiệm thực tiễn về làm việc với NCTNPT, có kĩ
năng soạn thảo văn bản, có lòng bao dung và sự đồng cảm với những hành vi
vi phạm pháp luật của NCTN mới giúp cho họ suy luận và giải quyết thấu
đáo, hợp lý và hài hòa các mối quan hệ trong quá trình khẳng định, ghi nhận
quyền của NCTNPT vào trong các văn bản quy phạm pháp luật.
Thực tiễn, không phải tất cả các cán bộ, công chức được giao nhiệm vụ
soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật về quyền của NCTNPT đều có trình độ
và năng lực để tiến hành. Chúng ta vẫn gặp những bất cập của các quy phạm
pháp luật là do hạn chế về trình độ năng lực của một số cán bộ, công chức
trong quá trình xây dựng dự thảo. Nhất là đối với văn bản có chứa đựng quy
phạm pháp luật về quyền của NCTNPT điều này sẽ gây ra hệ quả xấu cho
việc hưởng quyền của NCTNPT, đồng thời cũng không đáp ứng được yêu cầu
bảo đảm quyền con người nói chung trong giải quyết vụ án hình sự. Vì thế,
với mong muốn thúc đẩy quá trình hoàn thiện các quy định của pháp luật về
quyền của NCTNPT, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền cần xây dựng và
thực thi nghiêm túc các yêu cầu về tuyển dụng, sử dụng cán bộ, công chức,
nhất là người sẽ trực tiếp thực thi nhiệm vụ soạn thảo các văn bản này. Bên
cạnh đó, do tính đặc thù cần phải thể hiện trong các quy phạm pháp luật về
quyền của NCTNPT, cần phải đào tạo, bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng soạn
thảo văn bản, nhất là bồi dưỡng thông qua quá trình hoạt động thực tiễn về
công tác làm việc, xử lý NCTNPT. Trong đó cũng cần lưu ý đào tạo, bồi
dưỡng lý luận và thực tiễn về vấn đề này qua các chương trình, khóa học ở
nước ngoài để họ có cách tiếp cận, giải quyết vấn đề phù hợp với thông lệ
quốc tế và kinh nghiệm của một số quốc gia trên thế giới.
146
KẾT LUẬN CHƯƠNG 4
Hoàn thiện pháp luật về quyền của NCTNPT là đòi hỏi khách quan xuất
phát từ những bất cập trong thực tiễn pháp luật về quyền của NCTNPT ở Việt
Nam hiện nay và trước yêu cầu của cải cách tư pháp. Các bất cập mang tính nội
tại của hệ thống tư pháp đối với NCTNPT, trong đó chủ yếu là hoạt động tố
tụng hình sự; khoảng cách giữa các quy định trong hệ thống pháp luật và thực
tiễn thực thi pháp luật về quyền của NCTNPT đã tác động đến việc hưởng
quyền của các đối tượng này. Do vậy, để pháp luật về quyền của NCTNPT
thực sự phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý của lứa tuổi, phù hợp với quan điểm,
chính sách về bảo vệ NCTNPT, phù hợp với thông lệ quốc tế chính là nội dung
được luận án luận giải và đưa ra những giải pháp sửa đổi, bổ sung.
Việc hoàn thiện pháp luật về quyền của NCTNPT có ý nghĩa rất quan
trọng. Tuy nhiên, các quy định về quyền của NCTNPT hiện nay ở nước ta được
quy định trong nhiều văn bản quy phạm pháp luật khác nhau thuộc nhiều ngành
luật vì thế để hoàn thiện pháp luật về quyền của NCTNPT, luận án đã đưa ra
những giải pháp cho việc hoàn thiện đó thông qua hoàn thiện các quy định
trong luật hình sự, luật tố tụng hình sự, trong các văn bản về thi hành án và các
văn bản quy phạm pháp luật khác.
Đồng thời với việc hoàn thiện các quy định trong các văn bản quy phạm
pháp luật nêu trên, luận án cũng đề xuất các giải pháp liên quan đến việc nâng
cao trình độ, năng lực của đại biểu Quốc hội và một số chủ thể khác trong quá
trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật về quyền của NCTNPT.
147
KẾT LUẬN
Quyền con người là thiêng liêng và bất khả xâm phạm, có tính phổ biến
và tính đặc thù, trong đó có đặc thù về đối tượng, mà NCTN là một trong
những đối tượng như vậy. NCTN có thể là chủ thể của tội phạm và cũng vì thế
trở thành chủ thể tham gia vào nhiều quan hệ pháp luật cụ thể khác nhau. Trong
những quan hệ này, thể hiện sự không bình đẳng và vị trí yếu thế của NCTN -
người đã thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội, bị các cơ quan nhà nước có
thẩm quyền thực hiện các trình tự, thủ tục xử lý.
Pháp luật, ngoài việc quy định cách thức xử sự cho các chủ thể tham gia
vào các quan hệ pháp luật nêu trên, còn đặt ra các yêu cầu, cách thức nhằm bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của NCTN khỏi bị xâm hại bởi quá trình thực thi
các quan hệ pháp luật giữa Nhà nước (thông qua các cơ quan tiến hành tố tụng
và người tiến hành tố tụng) với NCTNPT. Từ những đặc thù về đối tượng, đặc
thù về lĩnh vực quan hệ xã hội (hình sự, tố tụng hình sự, thi hành án) đòi hỏi
cần có những cơ chế bảo vệ đặc biệt, trong đó có các quy định của pháp luật
thực định về quyền của NCTN. Trong luận án, tác giả đã tập trung nghiên cứu
một số vấn đề cụ thể như sau:
1. Luận giải và làm rõ khái niệm về NCTNPT, quyền của NCTNPT từ đó
đưa ra khái niệm pháp luật về quyền của NCTNPT; làm rõ đặc điểm, nội dung,
vai trò và các tiêu chí đánh giá pháp luật về quyền của NCTNPT.
2. Nghiên cứu một số điều ước quốc tế và tham khảo các quy định trong
hệ thống pháp luật của một số quốc gia về quyền của NCTNPT; qua đó luận
án chỉ ra rằng: ngoài việc xây dựng đạo luật đặc thù về NCTN, các quốc gia
đã thực hiện đồng bộ các phương thức bảo vệ NCTNPT thông qua việc quy
định trong pháp luật quyền cho các đối tượng này.
3. Đối chiếu các tiêu chí bảo đảm, bảo vệ trong tư pháp hình sự quốc tế
với các quy định trong hệ thống pháp luật Việt Nam về quyền của NCTNPT
cũng như nghiên cứu, đánh giá các quy định pháp luật về quyền của NCTNPT,
luận án nhận thấy:
148
Một là, nhìn chung, các quy định về quyền của NCTNPT trong pháp luật
Việt Nam, về cơ bản đã đáp ứng được đòi hỏi của thực tiễn giải quyết các vụ án
có NCTNPT; đồng thời bước đầu đã quy định một số quyền của NCTNPT độc
lập với người thành niên;
Hai là, bên cạnh đó, vẫn còn nhiều quy định chưa rõ ràng dẫn đến việc
nhận thức và áp dụng pháp luật chưa thống nhất; một số quy định còn bất cập
cả về lý luận lẫn thực tiễn; một số quy định lại chưa được điều chỉnh dẫn đến
khó khăn trong việc hưởng quyền của NCTNPT cũng như bảo vệ các quyền
của NCTNPT.
4. Trên cơ sở những phân tích thực trạng quyền của NCTNPT theo pháp
luật Việt Nam hiện hành, tiếp cận xu hướng quốc tế và quán triệt quan điểm
chỉ đạo của Đảng, Nhà nước ta trong cải cách tư pháp, luận án đã nghiên cứu,
đề xuất giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về quyền của NCTNPT.
Có thể còn những hạn chế và thiếu sót nhất định, song phần nghiên cứu
kèm theo các kiến nghị nêu trong luận án là những đóng góp mang tính sáng
kiến pháp luật để giải quyết những tồn tại theo hướng hoàn thiện pháp luật nói
chung, những quy định của pháp luật về quyền của NCTNPT nói riêng./.
149
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ
ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
1. Vũ Thị Thu Quyên (2010), "Chính sách hình sự đối với người chưa thành
niên phạm tội", Lý luận chính trị và truyền thông, (6), tr.42-45.
2. Vũ Thị Thu Quyên (2010), "Yêu cầu đối với người tiến hành tố tụng trong
vụ án có người chưa thành niên phạm tội", Dân chủ và Pháp luật, (9), tr.36-
39.
3. Vũ Thị Thu Quyên (2010), "Pháp luật Việt Nam với việc bảo vệ quyền con
người qua nghiên cứu trường hợp người chưa thành niên phạm tội", Giáo dục lý
luận, (12), tr.44-48.
4. Vũ Thị Thu Quyên (2012), "Quyền của người chưa thành niên phạm tội
trong pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam", Dân chủ và Pháp luật, (5),
tr.8-14.
5. Vũ Thị Thu Quyên (2014), "Xét xử người chưa thành niên phạm tội - Thực
trạng và kiến nghị thành lập tòa chuyên trách", Cảnh sát phòng chống tội
phạm, (46/193), tr.41-46.
6. Vũ Thị Thu Quyên (2014), "Quan điểm chỉ đạo quá trình hoàn thiện pháp
luật về quyền của người chưa thành niên phạm tội ở Việt Nam hiện nay", Lý
luận chính trị và truyền thông, (10), tr.18-22.
150
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
I. Nhóm tài liệu trong nước
1. Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam (1997), Nghị
quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 3 khóa VIII, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
2. Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam (1997), Nghị
quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 7 khóa VIII, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
3. Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Nghị
quyết của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp
trong thời gian tới, Lưu hành nội bộ.
4. Radda Barnen (2000), Tài liệu tập huấn về quyền trẻ em, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
5. Vũ Ngọc Bình (1997), Tư pháp người chưa thành niên và quyền trẻ em,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
6. Bộ Chính trị, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam
(2002), Nghị quyết số 08/NQ-TW ngày 02/01 của Bộ Chính trị về một số
nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới, Hà Nội.
7. Bộ Chính trị, Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam
(2005), Nghị quyết 48-NQ/TW về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ
thống pháp luật đến năm 2010 định hướng 2020, Hà Nội.
8. Bộ Chính trị, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam
(2005), Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 02/6 của Bộ Chính trị về chiến
9. lược cải cách tư pháp đến năm 2020, Hà Nội.
Bộ Công an (2004), Thông tư số 22/2004/TT-BCA (V19) ngày 15/12
hướng dẫn thi hành một số quy định của Nghị định số 163/2003/NĐ-CP
ngày 19/12/2003 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành biện pháp
giáo dục tại xã, phường, thị trấn, Hà Nội.
151
10. Bộ Công an - Bộ Quốc phòng - Bộ Tài chính (2007), Thông tư liên tịch
số 07/2007/TTLT-BCA-BQP-BTC ngày 07/6 hướng dẫn chế độ lao động,
dạy nghề và sử dụng kết quả lao động của phạm nhân trong trại giam,
Hà Nội.
11. Bộ Tư pháp (2012), Đề cương định hướng sửa đổi, bổ sung Bộ luật hình
sự số 7724/ĐC-BSTBLHS(SĐ) ngày 24-9-2012 của Ban Soạn thảo Bộ
luật hình sự (sửa đổi), Hà Nội.
12. Bộ Tư pháp (2012), Báo cáo đánh giá các quy định của Bộ luật hình sự
liên quan đến người chưa thành niên và thực tiễn thi hành, Nxb Tư
pháp, Hà Nội.
13. Lê Cảm, Đỗ Thị Phượng (2004), "Tư pháp hình sự đối với người chưa
thành niên - những khía cạnh pháp lý hình sự, tố tụng hình sự, tội phạm
học và so sánh luật học” (Phần 1 - Những khía cạnh pháp lý hình sự),
Tòa án nhân dân, (20/10).
14. Lưu Ngọc Cảnh (2010), Các hình phạt và biện pháp tư pháp áp dụng đối
với người chưa thành niên phạm tội theo luật hình sự Việt Nam, Luận văn
thạc sĩ luật học, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội.
15. Chính phủ (2003), Nghị định số 76/2003/NĐ-CP ngày 27/6 quy định và
hướng dẫn cụ thể việc áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục, Hà
Nội.
16. Chính phủ (2003), Nghị định số 142/2003/NĐ-CP ngày 24/11 quy định
việc áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào trường giáo dưỡng, Hà
Nội.
17. Chính phủ (2008), Tờ trình số 155/TTr-CP ngày 09-10-2008 về “Dự án
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật hình sự năm 1999”, Hà
Nội.
18. Trần Văn Dũng (2003), Trách nhiệm hình sự của người chưa thành niên
phạm tội trong Luật hình sự Việt Nam, Luận văn thạc sĩ luật học, trường
Đại học Luật Hà Nội.
152
19. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
20. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
21. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
22. A.I. Đôgôva (1987), Những khía cạnh tâm lý - xã hội về tình trạng phạm
tội của người chưa thành niên, (Người dịch: Lục Thanh Hải; Người hiệu
đính: Nguyễn Tất Viễn), Nxb Pháp lý, Hà Nội.
23. GS.TS Trần Ngọc Đường (2011), Quyền con người, quyền công dân
trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
24. Nguyễn Văn Hảo (1972), Bộ Hình luật Việt Nam, Nxb Khai trí, Sài Gòn.
25. Hệ thống hóa các văn bản pháp luật về hình sự và tố tụng hình sự
(1998), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
26. Nguyễn Văn Hoàn (2008), "Tái hòa nhập cộng đồng đối với người chưa
thành niên vi phạm pháp luật", Nghiên cứu lập pháp, (20), tr.39-45.
27. Hoàng Việt luật lệ, Nguyễn Quang Thắng và Nguyễn Văn tài dịch
(1998), Nxb Văn hóa - Thông tin, Hà Nội.
28. Hội đồng phối hợp công tác phổ biến, giáo dục pháp luật (Bộ Công an)
(1998), Những quy định chung của pháp luật Việt Nam đối với người
chưa thành niên vi phạm pháp luật, Hà Nội.
29. Hội Luật gia Việt Nam (2007), Trợ giúp pháp lý và đại diện cho người
chưa thành niên gặp xung đột với pháp luật, nạn nhân trẻ em và nhân
chứng trẻ em, Sổ tay.
30. Hội Luật gia Việt Nam, UNICEF (2006), Luật pháp và thuật ngữ quốc tế
liên quan đến điều tra trẻ em và người chưa thành niên, Tài liệu tập
huấn.
153
31. Phạm Văn Hùng (2008), "Hệ thống điều tra thân thiện với người chưa
thành niên", Nghiên cứu lập pháp (20), tr.28-33.
32. John W.Santrock (2004), Tìm hiểu thế giới của tuổi vị thành niên (người
dịch: Trần Thị Hương Lan), Nxb Phụ nữ, Hà Nội.
33. Lê triều Hình luật, Nguyễn Quang Thắng dịch (1998), Nxb Văn hóa-
Thông tin, Hà Nội.
34. Liên Hợp quốc (1985), Quy tắc tiêu chuẩn tối thiểu của Liên Hợp quốc
về áp dụng pháp luật với người chưa thành niên (Quy tắc Bắc Kinh) ,
Tài liệu tập huấn.
35. Liên Hợp quốc (1989), Công ước quốc tế về quyền trẻ em, Tài liệu tập
huấn.
36. Liên Hợp quốc (1990), Hướng dẫn của Liên Hợp quốc về phòng ngừa
pháp pháp ở người chưa thành niên (Hướng dẫn Riyadh), Tài liệu tập
huấn.
37. Liên Hợp quốc (1990), Quy tắc của Liên Hợp quốc về bảo vệ người
chưa thành niên bị tước quyền tự do, Tài liệu tập huấn.
38. Liên Hợp quốc (1999), Tạp chí quốc tế về chính sách hình sự, (49,50).
39. Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội (2011), Bảo vệ các nhóm dễ bị tổn
thương trong tố tụng hình sự, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
40. Nguyễn Đức Mai (2007), "Áp dụng các quy định của Bộ luật tố tụng
hình sự về thủ tục tố tụng đối với người chưa thành niên phạm tội", Kiểm
sát, (6), tr.27-32.
41. Đinh Xuân Nam (2008), "Thực trạng và giải pháp phòng chống vi phạm
pháp luật của NCTN", Nghiên cứu lập pháp, (20), tr.34-38.
42. OHCHR (2009), Quyền con người trong quản lý tư pháp, Nxb Công an
nhân dân, Hà Nội.
43. Đỗ Thị Phượng (2008), Những vấn đề lý luận và thực tiễn về thủ tục đối
với người chưa thành niên trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam, Luận án
tiến sĩ luật học, Khoa Luật - Đại học quốc gia Hà Nội.
154
44. Hà Thị Quế (1998), Các hình phạt đối với người chưa thành niên phạm
tội trong Luật hình sự Việt Nam, Luận văn thạc sĩ luật học, trường Đại
học Luật Hà Nội.
45. Quốc hội (1985), Bộ luật hình sự, Hà Nội.
46. Quốc hội (1988), Bộ luật tố tụng hình sự, Hà Nội.
47. Quốc hội (1992), Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam,
Hà Nội.
48. Quốc hội (1999), Bộ luật hình sự, Hà Nội.
49. Quốc hội (2003), Bộ luật tố tụng hình sự, Hà Nội.
50. Quốc hội (2004), Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em, Hà Nội.
51. Quốc hội (2005), Bộ luật dân sự, Hà Nội.
52. Quốc hội (2009), Bộ luật hình sự (sửa đổi), Hà Nội.
53. Quốc hội (2010), Luật thi hành án hình sự, Hà Nội
54. Quốc hội (2012), Bộ luật lao động, Hà Nội.
55. Quốc hội (2013), Hiến pháp nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, Hà Nội.
56. Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2011), Đại biểu
Quốc hội khóa XIII (2011-2016), Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà
Nội.
57. Vũ Thị Thu Quyên (2003), Hoàn thiện pháp luật bảo đảm quyền của
người chưa thành niên phạm tội ở Việt nam hiện nay, Luận văn thạc sĩ
luật học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
58. Vũ Thị Thu Quyên (2010), "Chính sách hình sự đối với người chưa
thành niên phạm tội", Lý luận chính trị và truyền thông, (6), tr.42-45.
59. Vũ Thị Thu Quyên (2010), "Yêu cầu đối với người tiến hành tố tụng
trong vụ án có người chưa thành niên phạm tội", Dân chủ và pháp luật,
(9), tr.36-39.
60. Vũ Thị Thu Quyên (2010), "Pháp luật Việt nam với việc bảo vệ quyền
con người qua nghiên cứu trường hợp người chưa thành niên phạm tội",
Giáo dục lý luận, (12), tr.44-48.
155
61. Vũ Thị Thu Quyên (2012), "Quyền của người chưa thành niên phạm tội
trong pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam", Dân chủ và pháp luật,
(5), tr.8-14.
62. Đặng Thanh Sơn (2008), "Pháp luật Việt Nam về tư pháp người chưa
thành niên", Nghiên cứu lập pháp, (20),tr.6-15.
63. Nguyễn Thị Thanh (2008), Bảo vệ quyền của người chưa thành niên
trong tư pháp hình sự Việt Nam, Luận văn thạc sĩ luật học, Khoa Luật -
Đại học Quốc gia Hà Nội.
64. Lê Minh Thắng (2013), Bảo đảm quyền của người chưa thành niên
trong tố tụng hình sự ở Việt Nam, Luận án tiến sĩ luật học, Học viện
Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
65. Nguyễn Văn Thông (1998), Tòa án và quyền trẻ em, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội.
66. Đỗ Thị Thơm (2004), Hoàn thiện pháp luật về quyền trẻ em ở Việt Nam
hiện nay, Luận văn thạc sĩ luật học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí
Minh.
67. Trần Quang Tiệp (2007), Bảo vệ quyền con người trong luật hình sự, tố
tụng hình sự Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
68. Nguyễn Xuân Tĩnh (2008), "Pháp luật Việt Nam với việc đáp ứng các
yêu cầu quốc tế về thủ tục tố tụng xét xử đối với người chưa thành niên",
Nghiên cứu lập pháp, (20), tr.46-53.
69. Tòa án nhân dân tối cao (1962), Bộ luật tố tụng hình sự của nước Cộng
hòa Liên bang Xô viết xã hội chủ nghĩa, (Tài liệu dịch tham khảo), Hà
Nội.
70. Tòa án nhân dân tối cao (1968), Báo cáo công tác tổng kết 4 năm giai
đoạn 1965-1968, Hà Nội.
71. Tòa án nhân dân tối cao (1975), Tập hệ thống hóa luật lệ về hình sự, Hà Nội.
72. Tòa án nhân dân tối cao (1976), Tập hệ thống hóa luật lệ về tố tụng hình
sự, Hà Nội.
156
73. Tòa án nhân dân tối cao (1976), Chuyên đề sơ kết kinh nghiệm về việc
xét xử các vụ án về người chưa thành niên phạm tội (gửi kèm theo Công
văn số 37-NCLP ngày 16/01/1976 của Tòa án nhân dân tối cao), Hà
Nội.
74. Toà án nhân dân tối cao (1979), Hệ thống hoá luật lệ về hình sự. Tập 2,
1975 - 1978, Hà Nội.
75. Tòa án nhân dân tối cao (1999), Công văn số 52/1999/KHXX ngày 15/6
về việc thực hiện một số quy định của Bộ luật tố tụng hình sự đối với bị
cáo là người chưa thành niên, Hà Nội.
76. Tòa án nhân dân tối cao (2000), Nghị quyết số 01/2000/NQ-HĐTP ngày
04/8 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp
dụng một số quy định trong phần chung của Bộ luật hình sự năm 1999,
Hà Nội.
77. Tòa án nhân dân tối cao (2007), Thủ tục điều tra và xét xử liên quan đến trẻ
em và người chưa thành niên: Đánh giá về các thủ tục nhạy cảm đối với trẻ
em, (Báo cáo), Hà Nội.
78. Trịnh Quốc Toản (chủ biên) (2007), Tội phạm do người chưa thành niên
thực hiện trên địa bàn Hà Nội - Thực trạng và giải pháp, Nxb Công an
nhân dân, Hà Nội.
79. Tổ chức Cứu trợ trẻ em Thụy Điển (1999), Hoạt động của Radda
Barnen vì trẻ em làm trái pháp luật, Tài liệu tập huấn.
80. Nguyễn Thanh Trúc (2008), "Biện pháp chấp hành có điều kiện thời hạn
còn lại của hình phạt tù đối với người chưa thành niên phạm tội", Nghiên
cứu lập pháp, (20), tr.59-66.
81. Từ điển Luật học (1999), Nxb Từ điển Bách khoa, Hà Nội.
82. Trung tâm nghiên cứu quyền con người - Học viện Chính trị quốc gia Hồ
Chí Minh (2001), Quyền trẻ em, Hà Nội.
157
83. Trung tâm Thông tin - Thư viện, Văn phòng UNICEF Việt Nam (2003),
Quyền phụ nữ và trẻ em trong các văn bản pháp lý quốc tế và Việt Nam,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
84. Trường Cán bộ Tòa án (2002), Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân về
quyền phụ nữ và trẻ em, Hà Nội.
85. Trường Đại học Luật Hà Nội (2005), Giáo trình Luật tố tụng hình sự
Việt Nam, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
86. Trường Đại học Luật Hà Nội (1997), Từ điển giải thích thuật ngữ luật
học, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
87. Uỷ ban Bảo vệ, chăm sóc trẻ em Việt Nam (1997), Việt Nam và các văn
kiện quốc tế về quyền trẻ em, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
88. Uỷ ban Bảo vệ, chăm sóc trẻ em Việt Nam (2001), Vấn đề chế tài xử lý
các hành vi vi phạm quyền trẻ em; việc xử lý trẻ em vi phạm pháp luật;
trách nhiệm của gia đình, xã hội trong việc thực hiện quyền và bổn phận
của trẻ em, Kỷ yếu hội thảo, Hà Nội.
89. Uỷ ban Dân số, Gia đình và Trẻ em, UNICEF (2005), Áp dụng các chế
tài hành chính và hình sự đối với người chưa thành niên vi phạm pháp
luật, Tài liệu tập huấn.
90. Uỷ ban Dân số, Gia đình và Trẻ em, UNICEF (2005), Giải quyết vi
phạm pháp luật của người chưa thành niên, Tài liệu tập huấn.
91. Uỷ ban Dân số, Gia đình và Trẻ em (2005), Một số thuật ngữ và nguyên
tắc cơ bản về tư pháp người chưa thành niên, Tài liệu tập huấn.
92. Uỷ ban Dân số, Gia đình và Trẻ em, UNICEF (2005), Người chưa thành
niên và công an, Tài liệu tập huấn.
93. Uỷ ban Dân số, Gia đình và trẻ em, UNICEF (2005), Phục hồi và các
dịch vụ hỗ trợ cho người chưa thành niên vi phạm pháp luật, Tài liệu tập
huấn.
158
94. Uỷ ban Dân số, Gia đình và Trẻ em, UNICEF (2005), Sự phát triển của
trẻ em và hành vi vi phạm pháp luật của người chưa thành niên, Tài liệu
tập huấn.
95. Uỷ ban Dân số, Gia đình và Trẻ em, UNICEF (2005), Tình hình người
chưa thành niên vi phạm pháp luật ở Việt Nam, Tài liệu tập huấn.
96. Uỷ ban Dân số, Gia đình và trẻ em, UNICEF (2005), Tư pháp phục hồi
theo hướng không giam giữ, Tài liệu tập huấn.
97. UNICEF và Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2010), Kết quả khảo sát về
thực thi tố tụng hình sự với người chưa thành niên tại Hà Nội, Hà Nội.
98. UNICEF - Viện Khoa học pháp lý (2005), Nghiên cứu, đánh giá, phân
tích tình hình người chưa thành niên vi phạm pháp luật và hệ thống xử lý
tại Việt Nam, (Báo cáo tổng hợp), Hà Nội.
99. Đỗ Thúy Vân (2008), "Hoàn thiện pháp luật về xử lý chuyển hướng đối
với người chưa thành niên vi phạm pháp luật", Nghiên cứu lập pháp.
(20), tr.16-22.
100. Văn phòng Cao ủy Liên hợp quốc về nhân quyền (1999), Thông tin
chuyên đề số 4 (Quyền trẻ em tạo lập một nền văn hóa nhân quyền), Hà
Nội.
101. Viện kiểm sát nhân dân tối cao - Tòa án nhân dân tối cao - Bộ Công an -
Bộ Tư pháp - Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội (2011), Thông tư
liên tịch số 01/2011/TTLT-VKSNDTC-TANDTC-BCA-BTP-BLĐTBXH
ngày 12/7 hướng dẫn thi hành một số quy định của Bộ luật tố tụng hình
sự đối với người tham gia tố tụng là người chưa thành niên, Hà Nội.
102. Viện Khoa học kiểm sát (2002), Bộ luật tố tụng hình sự của Cộng hòa
Liên bang Nga, (Tài liệu dịch tham khảo), Hà Nội.
103. Viện Khoa học kiểm sát (2002), Bộ luật tố tụng hình sự của Cộng hòa
nhân dân Trung Hoa, (Tài liệu dịch tham khảo), Hà Nội.
104. Viện Khoa học kiểm sát (2002), Bộ luật tố tụng hình sự của Thái Lan,
(Tài liệu dịch tham khảo), Hà Nội.
159
105. Viện Khoa học kiểm sát (2008), Hoàn thiện các quy định về thủ tục điều
tra, truy tố và xét xử người chưa thành niên phạm tội trong Bộ luật tố
tụng hình sự năm 2003, Hà Nội
106. Viện Khoa học kiểm sát, UNICEF Việt Nam (2012), Đánh giá tính
tương thích các điều khoản của Bộ luật tố tụng hình sự về người vi phạm
pháp luật hình sự, người bị hại, người làm chứng là người chưa thành
niên với các chuẩn mực quốc tế, Nxb Tư pháp, Hà Nội.
107. Viện Khoa học pháp lý (2000), Bình luận khoa học Bộ luật hình sự năm
1999, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh.
108. Viện Khoa học pháp lý (2004), Bình luận khoa học Bộ luật tố tụng hình
sự năm 2003, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh.
109. Viện Nghiên cứu pháp lý - Bộ Tư pháp (2000), Tăng cường năng lực hệ
thống tư pháp người chưa thành niên tại Việt Nam, (dự án), Hà Nội.
110. Viện Nghiên cứu pháp lý - Bộ Tư pháp (2003), Nghiên cứu, đánh giá,
phân tích tình hình người chưa thành niên vi phạm pháp luật và hệ thống
xử lý tại Việt Nam, Hà Nội.
111. Viện Nghiên cứu pháp lý - Bộ Tư pháp (2001), "Một số vấn đề lý luận
và thực tiễn về tái hòa nhập cộng đồng của công dân sau thời gian cải
tạo, giam giữ", Thông tin khoa học pháp lý, (4).
112. Viện Nghiên cứu Quyền con người (2006), Tư pháp người chưa thành
niên, Phần Phụ lục, Cục Xuất bản, Hà Nội.
113. Viện Ngôn ngữ học (2010), Từ điển tiếng Việt, Nxb Từ điển Bách khoa,
Hà Nội.
114. Võ Khánh Vinh (chủ biên) (2002), Giáo trình luật hình sự Việt Nam
(phần chung), Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
115. Võ Khánh Vinh (2004), Bình luận khoa học Bộ luật tố tụng hình sự năm
2003, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
116. Võ Khánh Vinh (chủ biên) (2010), Quyền con người - Tiếp cận đa ngành
và liên ngành luật học (3 tập), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
160
117. Vụ Pháp luật hình sự - hành chính (Bộ Tư pháp) và UNICEF (2010),
Báo cáo đánh giá, kiến nghị về xử lý chuyển hướng, tư pháp phục hồi đối
với người chưa thành niên vi phạm pháp luật ở Việt Nam, Hà Nội.
118. Nguyễn Xuân Yêm (2004), Phòng ngừa thanh thiếu niên phạm tội -
trách nhiệm của gia đình, nhà trường và xã hội, Nxb Công an nhân dân,
Hà Nội.
II. Nhóm tài liệu nước ngoài
119. Anne Wyvekens (2006), The French Juvenile Justice System, trong J.
Junger-Tas and S. H. Decker (eds.), International Handbook of Juvenile
Justice, 173–186, © 2006 Springer.
120. Boyd R.Mc Candles và John Mc.David (2009), "Psychological Theory,
Research, and Juvenile Delinquency", The Journal of Criminal and
Police Science, (pg 54).
121.CRC (2012), Consideration of reports submitted by States parties under
article 44 of the Convention, Concluding observations: Viet Nam,
CRC/C/VNM/CO/3-4, Sixtieth session, 29 May-15 June 2012.
122.Dawei Wang (2006), The Study of Juvenile Delinquency and Juvenile
September/Octobe 2006, Protection in the People’s Republic of China, in Crime & Justice
tại
International
http://www.cjimagazine.com/archives_PDF/CJI_Magazine_Archive_2006_09-
10.pdf (truy cập ngày 25/8/2013).
123.Dean J.Champion, Alida V.Merlo, Peter J.Benekos (2012), The Juvenile
Justice System: Delinquency, Processing, and the Law. 7th Ed. Upper
Saddle River, NJ: Pearson Prentice Hall Inc.
124.Erikson E.H (1994), Identity: Youth and Crisis, W. W.Norton & Company at
the United State.
125.Franklin E.Jimring (2005), American Juvenle Justice, Oxford University
Press.
161
126.Hatt, Ann-Catherine, Melo Eduardo, Ngugi Lynn, Suvilaakso Tanja,
Totland Thea, Van Der Huls, Ing-Britt, Vega Rosana và Zug Katja
(2008), Protecting the rights of children in conflict with the law -
Research on Alternatives to the Deprivation of Liberty in Eight
Countries, Oxford University Press.
127.Harry Adams (2008), Justice for Children: Autonomy Development and the
State, State University of New York Press.
128.Helena Valkova (2006), Restorative Approaches and Alternatives
Methods: Juvenile Justice Reform in the Czech Republic trong J. Junger-
Tas and S.H. Decker (eds.), International Handbook of Juvenile Justice,
pg.377-396.
129.Jean Piaget (1970), Child's Conception of Physical Causality, Routledge
Publisher, 1 edition (January 4, 2007).
130.Leora Krygier (2008), Juvenile Court: A Judge's Guide for Young Adults
and Their Parents, Scarecrow Publications.
131.Maharukh Adenwalla (2006), Child Protection and Juvenile Justice system
for juvenile in conflict with law, CHILDLINE India Foundation.
132.Nicholas Bala and Julian V.Roberts (2006), Canada’s Juvenile Justice
System: Promoting Community-Based Responses to Youth Crime, in
Josine Junger-Tas and Scott H. Decker (eds.), International Handbook of
Juvenile Justice, pg 37-63.
133.Nobuhito Yoshinaka (2012), “Historical Analysis of Juvenile Justice
System in Japan”, Hirosima University Journal, tại http://ir.lib.hiroshima-
u.ac.jp/metadb/up/kiyo/AN0021395X/HLJ_20-3_302.pdf, (truy cập ngày
25/3/ 2012).
134.Steven M.Cox , Jennifer M.Allen, Robert D.Hanser, John J.Conrad
(2010), Juvenile Justice: A Guide to Theory, Policy, and Practice, SAGE
Publications.
162
135.UN (2009), Handbook for Professionals and Policymakers on Justice
Matters Involving Child Victims and Witnessed of Crime, Oxford
University Press.
136.UNICEF (2007), Improving the Protection of Children in Conflict with
the Law in South Asia, New York.
137. UNICEF (2008), Protecting the world's children: Impact of the Convention
of the Rights of the Child in Diverse Legal Systems, New York.
138. UNICEF (2011), Protecting the rights of children in conflict with the law
- Programme and Advocacy Experiences from Member Organizations of
the Inter-agency Coordination Panel on Junenile Justice, Oxford
University Press.
139.UNICEF (2011), Justice for Children: Detention as a Last Resort -
Innovative Initiatives in the East Asia and Pacific Region, UNICEF at
Sweden.