…………/………… ……/……
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
NGUYỄN THỊ TRANG TRÁCH NHIỆM CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRONG VIỆC BẢO VỆ QUYỀN CON NGƯỜI – TỪ THỰC TIỄN KIỂM SÁT GIẢI QUYẾT CÁC VỤ VIỆC DÂN SỰ TẠI VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỈNH ĐẮK LẮK
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH
1
ĐẮK LẮK, NĂM 2024
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ
……/……
…/… HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
NGUYỄN THỊ TRANG
TRÁCH NHIỆM CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRONG VIỆC BẢO VỆ QUYỀN CON NGƯỜI – TỪ THỰC TIỄN KIỂM SÁT GIẢI QUYẾT CÁC VỤ VIỆC DÂN SỰ TẠI VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỈNH ĐẮK LẮK
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH Chuyên ngành: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính Mã số: 8 38 01 02
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS NGUYỄN QUỐC SỬU
LỜI CAM ĐOAN
ĐẮK LẮK, NĂM 2024
LỜI CẢM ƠN
Trong suốt thời gian theo học, nghiên cứu và hoàn thành chương trình học và
làm luận văn tại trường, bản thân tôi đã nhận được sự quan tâm của quý thầy cô, các
phòng ban tại Học viện và phân viện Tây Nguyên. Tác giả xin trân trọng gửi lời
cảm ơn tới:
Tập thể Khoa Nhà Nước và Pháp luật – Học viện hành chính quốc gia; Các
thầy, cô giáo Học viện hành chính quốc gia và Phân viện Tây Nguyên cùng các
thầy, cô giáo đã tham gia quản lý, giảng dạy, động viên và giúp đỡ tôi trong suốt
thời gian từ năm 2021 đến 2023 học tập và nghiên cứu tại Học viện, Phân viện.
Cảm ơn thầy PGS.TS Nguyễn Quốc Sửu, người hướng dẫn quá trình làm
luận văn. Thầy đã tận tâm, tận tình và giúp đỡ tác giả trong quá trình thực hiện đề
tài.
Dù đã tận lực, cố gắng hoàn thành luận văn theo yêu cầu của thầy hướng dẫn
và của Học viện, nhưng chắc chắn luận văn tốt nghiệp vẫn còn tồn tại thiếu sót, kính
mong được quý thầy, cô góp ý và chỉ bảo thêm để quá trình bảo vệ luận văn của tác
giả đạt kết quả cao.
Xin trân trọng cảm ơn!
Tác giả luận văn
Nguyễn Thị Trang
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn là công trình nghiên cứu riêng của tôi. Các kết
quả nêu trong luận văn là trung thực, đảm bảo độ chuẩn xác. Các số liệu, thông tin,
tài liệu tham khảo trong luận văn có xuất xứ rõ ràng, được trích dẫn đầy đủ.
Tôi hoàn thành chịu trách nhiệm về công trình nghiên cứu của mình.
Tác giả luận văn
Nguyễn Thị Trang
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BLTTDS: Bộ luật tố tụng dân sự
KSHĐTP: Kiểm sát hoạt động tư pháp
KSV: Kiểm sát viên
KTV: Kiểm tra viên
QCD: Quyền công dân
QCN: Quyền con người
QSDĐ: Quyền sử dụng đất
TTDS: Tố tụng dân sự
TAND: Tòa án nhân dân
VKSND: Viện kiểm sát nhân dân
VKS: Viện kiểm sát
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1
1. Tính cấp thiết của đề tài ...................................................................................... 1
2. Tình hình nghiên cứu .......................................................................................... 2
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ...................................................................... 7
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ...................................................................... 8
5. Phương pháp nghiên cứu .................................................................................... 9
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài ............................................................... 9
7. Bố cục đề tài ....................................................................................................... 9
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN CON NGƯỜI VÀ
TRÁCH NHIỆM CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRONG VIỆC BẢO
VỆ QUYỀN CON NGƯỜI THÔNG QUA HOẠT ĐỘNG KIỂM SÁT GIẢI
QUYẾT CÁC VỤ VIỆC DÂN SỰ ......................................................................... 10
1.1 Khái quát về quyền con người, cơ chế bảo vệ quyền con người ............... 10
1.1.1 Khái niệm, bản chất của QCN ................................................................. 10
1.1.2 Nội dung quy định của pháp luật quốc tế về QCN .................................. 14
1.1.3 Cơ chế pháp lý về bảo vệ QCN................................................................ 18
1.2 Trách nhiệm của VKSND trong bảo vệ QCN thông qua hoạt động kiểm
sát giải quyết các vụ việc dân sự. ....................................................................... 26
1.2.1 Khái quát chung về giải quyết vụ việc dân sự, kiểm sát giải quyết vụ việc
dân sự ............................................................................................................... 26
1.2.2 Nội dung, hình thức bảo vệ QCN thông qua hoạt động kiểm sát giải
quyết các vụ việc dân sự của VKSND .............................................................. 31
1.2.1.1 Nội dung bảo vệ QCN thông qua hoạt động kiểm sát giải quyết các vụ
việc dân sự ........................................................................................................ 31
1.3. Các điều kiện đảm bảo tăng cường trách nhiệm của VKSND trong bảo
vệ QCN ................................................................................................................. 47
1.3.1. Bảo đảm các giá trị cơ bản của Nhà nước pháp quyền XHCN: ............ 47
1.3.2. Bảo đảm mục tiêu xây dựng nền tư pháp chuyên nghiệp, hiện đại, công
bằng, nghiêm minh, liêm chính, phụng sự Tổ quốc, phục vụ Nhân dân .......... 48
1.3.3. Bảo đảm thực hiện có hiệu quả chức năng, nhiệm vụ của VKSND ....... 50
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG THỰC HIỆN TRÁCH NHIỆM CỦA VIỆN
KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỈNH ĐẮK LẮK TRONG BẢO VỆ QUYỀN CON
NGƯỜI THÔNG QUA KIỂM SÁT GIẢI QUYẾT CÁC VỤ VIỆC DÂN SỰ . 54
2.1 Khái quát chung về tình hình các vụ việc dân sự và giải quyết các vụ việc
dân sự tại tỉnh Đắk Lắk ...................................................................................... 54
2.1.1 Khái quát chung về các vụ việc dân sự tại tỉnh Đắk Lắk ........................ 54
2.1.2 Khái quát chung về giải quyết các vụ việc dân sự tại tỉnh Đắk Lắk ....... 55
2.2 Tình hình thực hiện trách nhiệm của VKSND tỉnh Đắk Lắk trong bảo vệ
QCN thông qua hoạt động kiểm sát giải quyết các vụ việc dân sự ................ 56
2.2.1 Thực trạng trách nhiệm bảo vệ QCN thông qua hoạt động kiểm sát việc
trả lại đơn khởi kiện, đơn yêu cầu .................................................................... 56
2.2.2 Thực trạng trách nhiệm bảo vệ QCN thông qua hoạt động kiểm sát việc
thụ lý, giải quyết vụ việc dân sự ....................................................................... 59
2.2.3 Thực trạng trách nhiệm bảo vệ QCN thông qua hoạt động nghiên cứu hồ
sơ, yêu cầu xác minh, thu thập tài liệu, chứng cứ ............................................ 64
2.2.4 Thực trạng trách nhiệm bảo vệ QCN thông qua hoạt động tham gia
phiên tòa, phiên họp và phát biểu quan điểm của KSV về việc giải quyết các vụ
việc dân sự ........................................................................................................ 66
2.2.5 Thực trạng trách nhiệm bảo vệ QCN thông qua hoạt động kiểm sát bản
án, quyết định giải quyết vụ việc dân sự .......................................................... 69
2.2.6 Thực trạng trách nhiệm bảo vệ QCN thông qua kiến nghị, kháng nghị
bản án, quyết định của Tòa án có vi phạm pháp luật ...................................... 71
2.3 Đánh giá chung về trách nhiệm của VKSND tỉnh Đắk Lắk trong bảo vệ
QCN thông qua hoạt động kiểm sát giải quyết các vụ việc dân sự ................ 84
2.3.1 Thành tựu, ưu điểm và nguyên nhân ....................................................... 84
2.3.2 Tồn tại, hạn chế và nguyên nhân ............................................................. 90
CHƯƠNG 3: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG TRÁCH
NHIỆM CỦA VKSND TỈNH ĐẮK LẮK TRONG BẢO VỆ QUYỀN CON
NGƯỜI THÔNG QUA KIỂM SÁT GIẢI QUYẾT CÁC VỤ VIỆC DÂN SỰ . 96
3.1 Quan điểm về tăng cường đảm bảo QCN thông qua hoạt động kiểm sát
giải quyết các vụ việc dân sự .............................................................................. 96
3.2 Giải pháp đảm bảo QCN thông qua hoạt động kiểm sát giải quyết các vụ
việc dân sự của VKSND tỉnh Đắk Lắk ............................................................. 99
3.2.1 Giải pháp chung ...................................................................................... 99
3.2.2 Giải pháp riêng áp dụng đối với VKSND tỉnh Đắk Lắk ........................ 111
KẾT LUẬN ............................................................................................................ 119
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................. 120
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Giá trị QCN được phổ biến rộng rãi trong cả nhân loại, là kết quả của quá
trình đấu tranh và phát triển kéo dài của tất cả các dân tộc và nhân dân trên toàn
cầu. Quyền của con người cần phải được thừa nhận bởi pháp luật, đó là những
quyền tự nhiên, vốn có và được công nhận rộng rãi. Những quyền này được bảo vệ
theo quy định của pháp luật và các thỏa thuận quốc tế, và áp dụng cho tất cả mọi
người. Quyền con người được quan tâm từ dư luận các nước và có sự tác động
mạnh mẽ tới chính trị, xã hội của mỗi quốc gia và quốc tế. Lần đầu tiên quy định về
quyền dân sự, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân tại Chương 2 đã được Hiến
pháp năm 2013 thực hiện. Điều này không chỉ là việc kế thừa từ các hiến pháp trước
đó mà còn là sự thể hiện của chủ trương và tư duy mới của đất nước về việc phát
huy yếu tố con người, xem con người như chủ thể, nguồn lực và mục tiêu của sự
phát triển theo.
Khoản 3 Điều 107 Hiến pháp năm 2013 quy định rõ về nhiệm vụ bảo vệ
QCN của VKSND. Vai trò, nhiệm vụ và quyền hạn của VKSND đã được tăng
cường và làm rõ, không chỉ giới hạn ở công tác kiểm sát mà còn mở rộng ra kiểm
sát các hoạt động của các cơ quan tư pháp. Để bảo vệ QCN và đảm bảo tính công
bằng trong phiên họp và phiên tòa giải quyết các vụ việc dân sự, BLTTDS năm
2015 đã quy định rõ vai trò và thẩm quyền của VKSND, bao gồm việc tham gia vào
phiên họp, phiên tòa để phát biểu ý kiến, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm, giám
đốc thẩm hoặc tái thẩm, cũng như thu thập chứng cứ và xác minh thông tin. Tuy
nhiên, việc giải quyết các vụ việc dân sự vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế và vi phạm
QCN trong hoạt động tố tụng. Những vi phạm này không chỉ ảnh hưởng trực tiếp
đến chủ thể được bảo vệ mà còn làm suy yếu vai trò và năng lực bảo vệ QCN của
VKSND.
Điểm mới của Hiến pháp năm 2013 đã được quy định lần đầu tiên về nhiệm
vụ bảo vệ QCN của VKSND. Thực tế cho thấy vi phạm QCN trong hoạt động
TTDS của các cơ quan tư pháp vẫn diễn ra phổ biến. Yêu cầu và trách nhiệm bảo vệ
1
QCN của VKSND cần được nghiên cứu, đánh giá, và thực tiễn bảo vệ QCN trong
hoạt động tố tụng giải quyết các vụ việc dân sự của VKSND còn tồn tại nhiều hạn
chế, khó khăn. Vì lẽ đó, đề tài “Trách nhiệm của Viện kiểm sát nhân dân trong
việc bảo vệ QCN - Từ thực tiễn kiểm sát giải quyết các vụ việc dân sự tại VKSND
tỉnh Đắk Lắk” được chọn làm đề tài nghiên cứu luận văn thạc sĩ nhằm đáp ứng yêu
cầu cấp thiết hiện nay. Đề tài này có ý nghĩa lý luận và thực tiễn, nhằm mục tiêu
giải quyết các hạn chế, khó khăn trong bảo vệ QCN và QCN trong hoạt động
TTDS.
2. Tình hình nghiên cứu
Vấn đề thực hiện trách nhiệm, thẩm quyền của VKS trong TTDS nói chung,
đối với công tác kiểm sát việc giải quyết các tranh chấp dân sự nói riêng với mục
tiêu bảo vệ QCN đã lôi cuốn sự chú ý của đông đảo tác giả. Qua quá trình khảo sát
các công trình khoa học liên quan đến đề tài luận văn, tác giả nhận thấy thông
thường các công trình đi vào nghiên cứu một lĩnh vực tố tụng gắn với vai trò bảo vệ
hoặc bảo đảm QCN của VKSND, hoặc trong cả hoạt động tư pháp, hoặc nhấn mạnh
đến vai trò của VKSND. Sản phẩm của hoạt động nghiên cứu các công trình được
công bố dưới nhiều hình thức khác nhau như: Đề tài nghiên cứu khoa học, sách
chuyên khảo, các luận án, luận văn, các bài báo khoa học, kỷ yếu hội thảo khoa học
trong lĩnh vực ngành luật học và nhiều chuyên ngành khác nhau. Các công trình
khoa học được công bố từ trước đến nay liên quan đến đề tài luận văn chủ yếu tập
trung vào lĩnh vực tố tụng hình sự vì đây là lĩnh vực được quan tâm nhiều nhất. Vì
vậy, về cơ bản là chưa có một công trình nghiên cứu toàn diện, chuyên sâu về bảo
vệ QCN trong hoạt động tố tụng dân sự của VKSND ở nước ta hiện nay.
Trong phạm vi nghiên cứu chủ đề luận văn, tác giả chỉ lựa chọn và nêu ra
những quan điểm nghiên cứu chính của một số công trình tiêu biểu ở trong nước và
một số nước trên thế giới có liên quan trực tiếp tới các nội dung ở chuyên ngành
luận văn. Trên tinh thần đó, có thể tổng hợp một số công trình đã công bố liên quan
đến đề tài của Luận văn thành các nhóm vấn đề như sau:
2
- Nhóm công trình nghiên cứu các vấn đề lý luận về bảo vệ quyền con người
trong hoạt động tố tụng của VKSND:
+ Sách chuyên khảo, Quyền con người, của GS. TS. Võ Khánh Vinh (chủ
biên), nhà xuất bản khoa học xã hội, (2011). Trong cuốn sách chuyên khảo này, tại
phần II, Chương VIII. Bảo vệ quyền con người bằng Tòa án đã trình bày một số vấn
đề lý luận và pháp luật về bảo vệ QCN của người bị buộc tội và của người bị hại
trong TTHS. Theo tác giả, QCN trong TTHS cần được bảo vệ chủ yếu tập trung vào
2 chủ thể là người bị buộc tội và bị hại. Trong TTDS, chủ thể cần được bảo vệ là
đương sự nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
Tác giả đã phân tích, chỉ rõ quyền của đương sự trong quan hệ pháp luật TTDS cần
được bảo vệ trên cơ sở 10 nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự.
+ Luận án tiến sỹ luật học, Bảo đảm quyền tố tụng của đương sự trong
TTDS, của Nguyễn Thị Thúy Hằng, tại trường Đại học Luật Hà Nội, 2019. Luận án
đã xây dựng được vấn đề lý luận cơ bản về bảo đảm quyền tố tụng của đương sự
trong TTDS như bản chất, cơ sở khoa học của việc xây dựng các quy định về bảo
đảm quyền tố tụng của đương sự; xác định được nội dung của biện pháp lý bảo đảm
quyền tố tụng của đương sự và các yếu tố cơ bản chi phối thực hiện việc bảo đảm
quyền tố tụng của đương sự trong TTDS. Đây có thể coi là một trong những công
trình hiếm hoi đi sâu vào lĩnh vực bảo đảm quyền tố tụng của đương sự trong
TTDS.
Trong những công trình trên, các tác giả đi sâu vào nghiên cứu việc bảo đảm,
bảo vệ QCN trong hoạt động tư pháp nói chung và hoạt động tố tụng nói riêng. Các
bài viết tập trung phân tích, làm rõ một số vấn đề lý luận về bảo đảm, bảo vệ QCN
trong hoạt động tư pháp nói chung và hoạt động tố tụng nói riêng (chủ yếu là
TTHS), như: khái niệm bảo đảm, bảo vệ QCN; đặc điểm, nội dung, các yếu tố tác
động đến việc bảo đảm, bảo vệ QCN trong hoạt động tư pháp và hoạt động tố tụng.
Một số bài viết sôi nổi về chế định VKSND trong tiến trình cải cách tư pháp
và trước bối cảnh sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 2013. Điển hình như: Lê Hữu
Thể, Một số vấn đề về mô hình tổ chức bộ máy và chức năng, nhiệm vụ của VKS
3
trong tiến trình cải cách tư pháp, kỷ yếu hội thảo về VKS trong tiến trình cải cách
tư pháp, Hải phòng 2008; Sách chuyên khảo (2012), Sửa đổi, bổ sung Hiến pháp
1992 - Những vấn đề lý luận và thực tiễn, tập 1 những vấn đề chung về Hiến pháp
và Bộ máy nhà nước, Nxb Hồng Đức, trong đó bài viết của tác giả Nguyễn Thái
Phúc, Sửa đổi, bổ sung Hiến pháp 1992 về chế định VKSND; Đề tài khoa học cấp
Bộ, Báo cáo thường niên năm 2013 về Đổi mới tổ chức và hoạt động của TAND và
VKSND trong năm 2013 theo Nghị quyết số 49/TW của Bộ Chính trị về “Chiến
lược cải cách tư pháp đến năm 2020” do tác giả Nguyễn Thị Việt Hương chịu trách
nhiệm tổ chức nghiên cứu. Các công trình tập trung nghiên cứu làm rõ vị trí, vai trò,
chức năng, nhiệm vụ của VKS trong bộ máy nhà nước, qua đó, các công trình đều
khẳng định VKSND có vị trí là cơ quan độc lập trong bộ máy nhà nước, thực hiện
chức năng THQCT và KSHĐTP.
+ Luận văn thạc sĩ luật học, “Đảm bảo pháp lý về QCN trong hoạt động tư
pháp của VKSND Việt Nam hiện nay” của Ngô Diệu Hiền, tại Học viện Chính trị
quốc gia Hồ Chí 13 Minh, năm 2013. Trong phần lý luận, luận văn làm rõ cơ sở lý
luận đảm bảo pháp lý về QCN trong hoạt động tư pháp của VKSND. Trong đó, chỉ
ra khái quát về đảm bảo pháp lý về QCN trong hoạt động tư pháp của VKSND.
Luận văn đã đưa ra khái niệm đảm bảo pháp lý về QCN trong hoạt động tư pháp
của VKSND là việc đảm bảo các điều kiện, yếu tố cần và đủ cho quá trình thực hiện
QCN trong lĩnh vực hoạt động tư pháp của VKSND, nhằm làm cho hoạt động này
có hiệu lực, hiệu quả cao nhất. Luận văn cũng chỉ rõ một số đặc trưng cơ bản của
đảm bảo pháp lý về QCN trong hoạt động tư pháp của VKSND
+ Luận văn thạc sĩ luật học, Nhiệm vụ bảo vệ QCN, QCD của VKSND - qua
thực tiễn tại VKSND huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định, của Trần Hoàng Nhung, tại
Khoa Luật - Đại học Quốc Gia Hà Nội, năm 2014. Trong phần lý luận, Luận văn đi
vào phân tích, chỉ rõ quan niệm về QCN và bảo vệ QCN của VKSND. Luận văn đã
chỉ rõ các đặc trưng cơ bản của bảo vệ QCN của VKSND và phân tích các nguyên
tắc bảo vệ QCN, QCD trong hệ thống các nguyên tắc cơ bản của Luật TTHS và
Luật TTDS, TTHC.
4
- Nhóm công trình nghiên cứu thực trạng về bảo vệ QCN trong hoạt động tố
tụng của VKSND:
+ Luận văn thạc sỹ luật học, Vai trò của VKSND tỉnh Đăk Nông trong bảo vệ
QCD, Tạ Đình Đề, chuyên ngành luật hiến pháp và luật hành chính tại Học viện
Hành chính quốc gia, năm 2016. Luận văn giới hạn phạm vi nghiên cứu chỉ dừng lại
ở việc phân tích, đánh giá những vấn đề lý luận và thực tiễn có liên quan đến vai trò
của VKSND trong việc bảo vệ QCD là người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, bị án trong
TTHS.
+ Luận văn thạc sỹ luật học, Vai trò của VKSND tỉnh trong bảo vệ QCN từ
thực tiễn tỉnh Đắk Lắk, của Huỳnh Ngọc Hoàng Hải, tại Học viện Hành chính quốc
gia, năm 2016. Luận văn giới hạn phạm vi nghiên cứu trong lĩnh vực hình sự.
Chương 2 của luận văn trình bày về thực trạng vai trò của VKSND tỉnh Đắk Lắk
trong bảo vệ QCN. Trên cơ sở đó đưa ra đánh giá chung về những thành tựu và hạn
chế, bất cập và nguyên nhân của chúng.
+ Luận văn thạc sĩ luật học, Nhiệm vụ bảo vệ QCN, QCD của VKSND - qua
thực tiễn tại VKSND huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định, của Trần Hoàng Nhung, tại
Khoa Luật - Đại học Quốc Gia Hà Nội, năm 2014. Phần thực trạng, Luận văn đã
phân tích các nhiệm vụ cụ thể qua từng khâu công tác trong chức năng THQCT và
KSHĐTP của VKSND trên địa bàn huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định. Trên cơ sở đó
đưa ra đánh giá chung về thực trạng bảo vệ QCN, QCD của VKSND huyện Vụ
Bản, tỉnh Nam Định.
Tìm hiểu về các tài liệu liên quan đến đề tài có nội dung đề cập đến thực
trạng bảo vệ QCN trong hoạt động tố tụng của VKSND ở nước ta hiện nay, chúng
tôi nhận thấy đa số các công trình tiếp cận ở phạm vi khái quát chung mang tính
đánh giá về những kết quả đạt được và những tồn tại của thực trạng này và nguyên
nhân của nó ở Việt Nam hiện nay. Phần lớn các công trình nghiên cứu chuyên sâu
về bảo vệ QCN của VKSND được nghiên cứu trong lĩnh vực TTHS.
5
- Nhóm công trình nghiên cứu về quan điểm, giải pháp bảo vệ quyền con
người, quyền công dân trong hoạt động tố tụng của Viện kiểm sát nhân dân:
+ Đề tài khoa học cấp bộ, Chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp của
VKSND trong giai đoạn mới - Nhận thức và thực tiễn, Vụ pháp chế và quản lý khoa
học, VKSND tối cao, năm 2018. Đề tài đi sâu phân tích, đánh giá quy định của hệ
thống pháp luật về chức năng KSHĐTP của VKSND, từ đó đề xuất một số giải
pháp hoàn thiện và nâng cao hiệu quả KSHĐTP trong giai đoạn mới thực hiện chức
năng này.
+ Luận án tiến sỹ luật học, Bảo đảm quyền tố tụng của đương sự trong
TTDS, của Nguyễn Thị Thúy Hằng, tại trường Đại học Luật Hà Nội, năm 2019.
Trên cơ sở, phân tích, đánh giá một cách toàn diện những hạn chế, bất cập trong
quy định của pháp luật cũng như thực tiễn thực hiện các quy định của pháp luật về
bảo vệ quyền tố tụng của đương sự. Luận án đã xây dựng được hệ thống các yêu
cầu, kiến nghị khoa học về bảo đảm quyền tố tụng của đương sự trong TTDS đáp
ứng được xu hướng hội nhập quốc tế và đường lối, chủ trương của Đảng, Nhà nước
về cải cách tư pháp bảo đảm quyền con người trong hoạt động xét xử, bao gồm các
kiến nghị hoàn thiện quy định của pháp luật TTDS về bảo đảm quyền của đương sự
trong TTDS và các kiến nghị thực hiện pháp luật. Đây là những kiến nghị, giải pháp
có giá trị tham khảo cho luận văn khi viết phần giải pháp hoàn thiện pháp luật
TTDS.
+ Luận văn thạc sĩ luật học, Đảm bảo pháp lý về QCN trong hoạt động tư
pháp của VKSND Việt Nam hiện nay, của Ngô Diệu Hiền, tại Học viện Chính trị
quốc gia Hồ Chí Minh, năm 2013. Phần giải pháp, luận văn đưa ra yêu cầu và giải
pháp đảm bảo pháp lý về QCN trong hoạt động tư pháp của VKSND. Trong phần
yêu cầu khách quan đảm bảo pháp lý về QCN trong hoạt động tư pháp của VKSND,
luận văn đã đưa ra hai yêu cầu là xuất phát từ yêu cầu xây dựng nhà nước pháp
quyền XHCN trong xu thế hội nhập quốc tế và xuất phát từ thực trạng đảm bảo
pháp lý về QCN trong hoạt động tư pháp ở nước ta hiện nay. Trên cơ sở đó, luận
6
văn đưa ra một số giải pháp đảm bảo pháp lý về QCN trong hoạt động tư pháp của
VKSND.
+ Luận văn thạc sỹ luật học, Vai trò của VKSND tỉnh Đăk Nông trong bảo vệ
QCN, Tạ Đình Đề, chuyên ngành luật hiến pháp, luật hành chính tại Học viện Hành
chính quốc gia, năm 2016. Phần giải pháp tại Chương 3, luận văn đưa ra một số giải
pháp tăng cường vai trò của VKSND tỉnh Đắk Nông trong bảo vệ QCN.
Những công trình, bài viết đã được nghiên cứu thấy rằng: Việc đi sâu vào
nghiên cứu về các nguyên tắc tổ chức quyền lực nhà nước và vấn đề về chức năng,
nhiệm vụ, quyền hạn của VKS trong TTDS dưới góc độ của Luật nhà nước đã được
thực hiện. Tuy nhiên, việc nhìn nhận hoạt động kiểm sát các hoạt động tư pháp của
VKS dưới góc độ bảo vệ QCN theo Hiến pháp năm 2013, theo Luật Tổ chức VKS
nhân dân năm 2014, BLTTDS năm 2015 là một vấn đề còn mới, đặc biệt là trong
khu vực cấp tỉnh như tỉnh Đắk Lắk. Vì thế, việc nghiên cứu về tiến hành kiểm sát
các vụ việc dân sự để bảo vệ QCN cần phải được thực hiện một cách có hệ thống từ
lý luận đến thực tiễn. Mục tiêu là tìm ra những giải pháp có ích trong bối cảnh hiện
nay và không trùng lắp với các công trình khoa học đã được công bố trước đó. Đề
tài luận văn này mang tính ứng dụng cho VKS ở cấp tỉnh và mong muốn góp phần
vào việc hoàn thiện công tác kiểm sát và bảo vệ quyền, lợi ích của người dân.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1 Mục đích
Mục đích chính của luận văn là bổ sung luận cứ khoa học nhằm làm rõ cơ sở
lý luận xác định trách nhiệm của VKSND đối với công tác bảo vệ QCN trong hoạt
động kiểm sát giải quyết các vụ việc dân sự. Trên cơ sở lý luận đã minh chứng, luận
văn phân tích thực tiễn về trách nhiệm bảo vệ QCN thông qua hoạt động kiểm sát
giải quyết các vụ việc dân sự của VKSND và thực tế VKSND tỉnh Đắk Lắk hiện
nay. Từ đó kiến nghị các biện pháp khoa học góp phần hoàn thiện thể chế và tổ
chức thực thi bảo vệ QCN thông qua hoạt động kiểm sát giải quyết các vụ việc dân
sự của VKSND hiện nay.
7
3.2 Nhiệm vụ
Từ mục đích nêu trên, luận văn có nhiệm vụ: Làm rõ những vấn đề lý luận về
QCN trong TTDS; Nêu được cơ sở pháp lý xác định chức trách, nhiệm vụ, thẩm
quyền của VKS trong hoạt động kiểm sát giải quyết các vụ việc dân sự để đảm bảo
QCN trong TTDS; Làm sáng tỏ hoạt động của VKS trong kiểm sát giải quyết vụ
việc dân sự để đảm bảo QCN trong TTDS; Nhận xét, đánh giá về hoạt động kiểm
sát giải quyết vụ việc dân sự của VKS nhân dân tỉnh Đắk Lắk, từ đó đề xuất những
định hướng, biện pháp cụ thể để góp phần bảo vệ QCN trong công tác giải quyết vụ
việc dân sự của VKS trong giai đoạn hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1 Đối tượng
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những vấn đề lý luận và thực tiễn về
trách nhiệm của VKSND trong việc bảo vệ QCN, từ thực tiễn kiểm sát giải quyết
các vụ việc dân sự của VKSND tỉnh Đắk Lắk hiện nay. Nghiên cứu tính khoa học
và khả thi của các giải pháp, kiến nghị nhằm nâng cao trách nhiệm của VKSND
trong bảo vệ QCN thông qua hoạt động kiểm sát giải quyết các vụ việc dân sự hiện
nay.
4.2 Phạm vi nghiên cứu
– Phạm vi nội dung: Đề tài luận văn của tác giả đi sâu nghiên cứu về trách
nhiệm của VKSND trong việc bảo vệ QCN thông qua hoạt động kiểm sát giải quyết
các vụ, việc dân sự.
– Phạm vi không gian: Đề tài luận văn thu thập tài liệu thực tế trong phạm vi
hai cấp ngành VKSND tỉnh Đắk Lắk.
– Phạm vi thời gian: Đề tài luận văn của tác giả tiến hành khảo sát và đánh
giá thực tiễn về trách nhiệm của VKSND trong việc bảo vệ QCN thông qua hoạt
động kiểm sát giải quyết các vụ, việc dân sự trong thời gian 03 năm gần đây, từ năm
2021 đến năm 2023.
8
5. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu căn cứ trên nền tảng lý luận và phương pháp luận
của triết học Mác - Lênin, quan điểm xây dựng Nhà nước pháp quyền của Hồ Chí
Minh và chủ trương đường lối về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân đã được Đảng Cộng sản Việt Nam và Nhà
nước ta ban hành. Phương pháp được áp dụng đối với đề tài là tiếp cận hệ thống liên
ngành khoa học xã hội và nhân văn, đề cập đến luật học (đặc biệt là tiếp cận chuyên
ngành luật Hiến pháp, pháp luật về QCN, Lý luận nhà nước và pháp luật, luật
TTDS, chuyên ngành khoa học kiểm sát. ..). Vận dụng các phương pháp tiếp cận
khoa học cơ bản: phương pháp định lượng, thống kê, phân tích, tổng hợp, so sánh,
minh chứng, ...
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
Luận văn có giá trị làm sâu sắc hơn lý luận bảo vệ QCN thông qua TTDS,
việc bảo đảm QCN trong công tác kiểm sát các vụ việc dân sự của VKSND trong
bối cảnh thực hiện Hiến pháp 2013, Luật Tổ chức VKS nhân dân năm 2014 và
BLTTDS 2015. Kết quả nghiên cứu của luận văn có ý nghĩa quan trọng về cơ sở lý
luận và thực tiễn phục vụ công tác giảng dạy, bồi dưỡng, học tập chuyên ngành
pháp luật, bồi dưỡng chính trị, pháp luật và nghiệp vụ công tác kiểm sát.
7. Bố cục đề tài
Bố cục của luận văn bao gồm phần mở đầu, kết luận, danh mục từ vựng viết
tắt cùng danh mục các tư liệu tham khảo, phần nội dung của luận văn chia làm 3
chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về QCN và trách nhiệm của VKSND trong
việc bảo vệ QCN thông qua hoạt động kiểm sát giải quyết các vụ việc dân sự.
Chương 2: Thực trạng trách nhiệm của VKSND tỉnh Đắk Lắk trong bảo vệ
QCN thông qua kiểm sát giải quyết các vụ việc dân sự.
Chương 3: Quan điểm và giải pháp tăng cường trách nhiệm của VKSND tỉnh
Đắk Lắk trong bảo vệ QCN thông qua kiểm sát giải quyết các vụ việc dân sự.
9
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN CON NGƯỜI
VÀ TRÁCH NHIỆM CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRONG VIỆC
BẢO VỆ QUYỀN CON NGƯỜI THÔNG QUA HOẠT ĐỘNG KIỂM SÁT
GIẢI QUYẾT CÁC VỤ VIỆC DÂN SỰ
1.1 Khái quát về quyền con người, cơ chế bảo vệ quyền con người
1.1.1 Khái niệm, bản chất của QCN
1.1.1.1 Khái niệm QCN:
QCN là một khái niệm vô cùng phức tạp, và được định nghĩa theo nhiều cách
khác nhau, mỗi cách tiếp cận đều mang đến một góc nhìn riêng biệt về vấn đề này.
Mỗi định nghĩa chỉ ra những thuộc tính cụ thể, tuy nhiên không có định nghĩa nào
bao quát hết tất cả các thuộc tính của QCN. Sự phù hợp của các định nghĩa hiện có
về QCN phụ thuộc vào quan điểm chủ quan của mỗi người, tuy nhiên, ở cấp quốc
tế, có một định nghĩa về QCN do Liên Hợp Quốc công bố thường được nhà nghiên
cứu trích dẫn. Theo đó, QCN là những bản quyền pháp lý toàn cầu được thiết lập để
bảo vệ cá nhân và nhóm người khỏi hành vi hoặc sự bỏ qua gây tổn thương cho
danh dự, quyền tự do cơ bản của con người. Ngoài ra, một định nghĩa khác thường
được trích dẫn là QCN là những quyền không phân biệt giới tính, tôn giáo, chủng
tộc hay vị trí xã hội. Tất cả thành viên của cộng đồng loài người sở hữu nó từ khi
sinh ra chỉ vì họ là con người. Định nghĩa này mang dấu ấn của học thuyết về các
quyền tự nhiên.
Ở Việt Nam, một số cơ quan nghiên cứu và chuyên gia cũng đã đưa ra định
nghĩa về QCN. Mặc dù có những định nghĩa khác nhau, nhưng thông thường QCN
được hiểu là những nhu cầu và lợi ích tự nhiên đã được công nhận và bảo vệ bởi
luật pháp quốc gia và các hiệp định pháp lý quốc tế. Vì vậy, ở mọi góc độ, ở mọi
cấp độ, QCN được xác định là tiêu chuẩn được cộng đồng quốc tế thừa nhận và tuân
thủ. Những tiêu chuẩn này là những giá trị chung của toàn thể nhân loại, được áp
dụng đối với con người và áp dụng cho hết thảy mọi người. Bằng cách này, nhân
phẩm của mỗi thành viên thuộc đại gia đình nhân loại sẽ được bảo vệ vì họ sẽ có thể
10
phát huy tối đa các năng lực tiềm ẩn của mình với tư cách là một con người. Cho dù
có một vài điểm dị biệt nhỏ trong cách tiếp cận nhưng có một điểm chung là QCN
là những giá trị cao đẹp phải được trân trọng và bảo vệ trong toàn nhân loại xuyên
qua từng thời kỳ lịch sử.
QCN là tập hợp các quyền lợi cơ bản và không thể xâm phạm được của con
người, được công nhận bởi pháp luật và xã hội. Đây là những quyền lợi mà con
người được sinh ra là có, không phụ thuộc vào bất kỳ tổ chức nào. Cơ chế pháp lý
về bảo vệ quyền con người đảm bảo rằng mỗi cá nhân đều được đối xử công bằng
và tôn trọng trong xã hội. Khi mỗi cá nhân được biết và nhận thức về những quyền
lợi của họ, họ có thể tự tin hơn trong việc yêu cầu và bảo vệ quyền của mình. Cơ
chế pháp lý cũng giúp ngăn chặn sự lạm dụng quyền lực và đảm bảo rằng mọi
người đều được đối xử bình đẳng trước pháp luật.
QCN trong TTDS xuất phát từ những quyền tự nhiên của con người, các
quyền đó được thừa nhận với những giá trị mang tính phổ quát nhất. Trước hết, cơ
sở lý luận về quyền con người trong tố tụng dân sự xuất phát từ hệ thống pháp lý
quốc tế. QCN trong TTDS được Tuyên ngôn Thế giới về quyền con người và các
Công ước quốc tế về quyền con người và một số Nghị quyết của Đại hội đồng Liên
Hợp Quốc ghi nhận. Đây là những nguyên tắc chung nhất để từ đó, con người có cơ
sở tự bảo vệ và yêu cầu các nhà nước thành viên bảo vệ họ. Trong TTDS, luật pháp
quốc tế thừa nhận sự tham gia của ba nhóm người, tương ứng với ba nhóm quyền
con người trong TTDS: Nhóm quyền của các bên tranh chấp (quyền của nguyên
đơn, bị đơn); nhóm quyền của người tiến hành tố tụng (điển hình là Tòa án). Thứ
hai, lý luận về QCN trong TTDS xuất phát từ hệ thống pháp lý quốc gia: Hệ thống
pháp luật quốc gia có vai trò tạo cơ sở pháp lý cho con người được hành động trong
khuôn khổ pháp lý khi tham gia các quan hệ pháp luật. Đối với TTDS, các chủ thể
tham gia quan hệ pháp luật TTDS luôn xác định Hiến pháp, BLTTDS là những
nguồn cơ bản, hữu hiệu không chỉ điều chỉnh hành vi mà còn là những đảm bảo
pháp lý về QCN trong lĩnh vực TTDS. Hệ thống pháp luật TTDS xác định các nội
dung cơ bản như: Nguyên tắc cơ bản trong quy trình TTDS; Các quyền cơ bản của
11
đương sự; Thẩm quyền và điều kiện đảm bảo việc thực hiện các quyền của người
tiến hành tố tụng, cơ quan tiến hành tố tụng cũng như trách nhiệm của người tiến
hành tố tụng trong việc đảm bảo quyền của đương sự và những người có liên quan
trong tố tụng dân sự; Các quyền cơ bản của người đại diện, người bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của đương sự, người làm chứng, người giám định, phiên dịch v.v...
1.1.1.2 Bản chất của QCN
Nhận thức phổ biến của cộng đồng quốc tế cho rằng QCN có những tính chất
cơ bản sau đây:
Tính phổ biến. Sự phổ biến của tính nhân quyền được thể hiện qua việc chúng
là quyền bất biến của mọi người và phải được đối xử công bằng với tất cả thành
viên trong gia đình nhân loại, bất kể lý do nào. Tuy nhiên, việc công bằng không có
nghĩa là tất cả mọi người đều được hưởng quyền lợi một cách như nhau, mà thay
vào đó, họ cần phải có vị trí và khả năng để hưởng thụ QCN một cách tương đương.
Tính không thể tước đoạt. Các QCN không thể bị tước bỏ hay hạn chế một
cách tùy tiện bởi bất cứ chủ thể nào. Kể cả bởi các Nhà nước. Mọi cấm đoán, hạn
chế hay tước bỏ quyền lợi của một cá nhân đều phải được pháp luật cho phép và
phải nhằm mục đích bảo đảm quyền lợi chính đáng, hợp pháp của tập thể hay của cá
nhân ấy.
Tính không thể phân chia, phụ thuộc lẫn nhau. Tất cả các quyền của con
người đều có tầm quan trọng như nhau nên việc bị tước bỏ hoặc hạn chế bất kỳ
quyền nào đều gây ra tác động tiêu cực đối với giá trị, nhân phẩm và sự phát triển
của con người, nếu vi phạm một quyền sẽ gây ra ảnh hưởng tiêu cực trực tiếp hoặc
gián tiếp đến việc bảo đảm các quyền khác và ngược lại.
Hiện nay, trong khoa học xã hội nói chung và khoa học pháp lý nói riêng tồn
tại nhiều quan điểm khác nhau xoay quanh vấn đề về đặc điểm của QCN. Dựa vào
những nét tương đồng của các quan điểm đó, có thể phân chúng thành ba quan điêm
liên đến đặc điểm cơ bản của QCN. Quan điểm thứ nhất cho rằng, QCN chỉ mang
tính phổ biến. Theo quan điểm thứ hai thì ngược lại, QCN chỉ mang tính đặc thù.
12
Trong khi đó, quan điểm thứ ba lại cho rằng, QCN vừa mang tính phổ biến lại vừa
mang tính đặc thù. Vậy, đâu là thực chất của vấn đề? Phân tích hình thức pháp lý
của QCN có thể khẳng định ngay rằng quan điểm thứ hai coi QCN chỉ có tính đặc
thù là hoàn toàn không chính xác, vì nó không chỉ được ghi nhận trong pháp luật
quốc gia mà còn được ghi nhận cả trong các điều ước quốc tế. Một khi các quốc gia
tham gia ký kết hoặc công nhận các điều ước quốc tế về QCN cũng có nghĩa là thừa
nhận tính phổ biến của nó. Quan điểm thứ nhất thừa nhận QCN chỉ có tính phổ biến
liệu có thuyết phục được mọi người về tính khoa học của nó? Câu trả lời ở đây là
không. Vấn đề là ở chỗ, tuy là giá trị chung của loài người song đối với xã hội có
phân công giai cấp đối lập, QCN có ý nghĩa sâu sắc. Mặt khác, QCN còn gắn với
quyền lợi dân tộc căn bản nằm trong phạm trù lợi ích quốc gia. Đặc biệt, QCN còn
gắn liền với lịch sử, truyền thống mà còn tuỳ thuộc vào mức độ phát triển kinh tế -
xã hội của mỗi quốc gia. Việc sao chép máy móc các tiêu chuẩn, mô hình của quốc
gia này cho quốc gia khác sớm muộn gì cũng không được chấp nhận trên thực tế.
Về điều này không thể không đồng ý với ý kiến cho rằng “việc xử lý và bảo vệ QCN
là trách nhiệm và quyền hạn của mỗi quốc gia, dân tộc, phải phù hợp với đặc thù
lịch sử, chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội,... đồng thời phải phù hợp với những mục
tiêu, chuẩn mực và nguyên tắc quốc tế đã được thừa nhận rộng rãi. Chúng tôi
không chấp nhận bên ngoài áp đặt quan điểm về QCN và lợi dụng QCN để can
thiệp vào công việc nội bộ, đặt điều kiện trong quan hệ quốc tế” [7, tr.134]. Quốc
gia nào trên thế giới cũng có chủ quyền gắn với lãnh thổ và biên giới quốc gia, cũng
có quyền độc lập trong các quan hệ quốc tế. Do vậy, sẽ là hết sức vô lý khi áp đặt
các tiêu chuẩn nhân quyền của quốc gia này lên một quốc gia khác, dù đó là sự áp
đặt “mang tính chất vô tư”. Từ những điều phân tích trên đây, tác giả chia sẻ với
quan điểm thứ ba cho rằng QCN vừa có tính phổ biến vừa có tính đặc thù. Tính đặc
thù đó thể hiện ở mỗi quốc gia, mỗi dân tộc và từng khu vực trên thế giới. Tính đặc
thù của QCN được tạo nên bởi truyền thống dân tộc, lịch sử và chủ quyền quốc gia.
Do đó, tính phổ biến của QCN không thể được sử dụng để phủ nhận tính đặc thù
của nó. Bên cạnh đó khi tiếp cận, xử lý vấn đề QCN cần kết hợp hài hòa các chuẩn
13
mực, nguyên tắc chung của luật pháp quốc tế với những điều kiện đặc thù về lịch
sử, chính trị, kinh tế - xã hội, các giá trị văn hóa, tín ngưỡng, tôn giáo, phong tục tập
quán của mỗi quốc gia, khu vực [8, tr.182]. Cũng từ những điều phân tích trên đây
có thể thấy trong xã hội có các giai cấp đối kháng, QCN thể hiện rõ nét bản chất
giai cấp của nó, sự phát triển của xã hội loài người, đặc biệt là trong điều kiện hội
nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, đã dẫn đến việc bản chất giai cấp của QCN ngày
càng “bị thu hẹp” và thay thế bằng bản chất xã hội. QCN vừa là kết quả của các
cuộc cách mạng xoá bỏ mọi áp bức bất công, là tài sản chung của loài người và là
nền tảng, động lực của dân chủ và tiến bộ xã hội.
1.1.2 Nội dung quy định của pháp luật quốc tế về QCN
1.1.2.1 Quyền dân sự, chính trị
Những quy định của pháp luật quốc tế về QCN đóng vai trò quan trọng trong
việc đảm bảo và bảo vệ quyền dân sự, chính trị của mỗi cá nhân trên toàn thế giới.
Việc xác định rõ ràng các quy định này không chỉ là vấn đề của một quốc gia mà
còn là trách nhiệm của cộng đồng quốc tế để đảm bảo tôn trọng và thực thi các
quyền này một cách công bằng và minh bạch. QCN là khái niệm rộng lớn, bao gồm
các quyền dân sự, quyền chính trị, quyền kinh tế, xã hội và văn hóa. Trong bối cảnh
hiện nay, với sự phát triển không ngừng của xã hội và sự tăng cường của việc hợp
tác quốc tế, việc thảo luận và thực thi quy định về quyền dân sự, chính trị trở nên
cấp bách hơn bao giờ hết. Các quyền này không chỉ đơn giản là những định nghĩa
trên giấy tờ mà còn là các giá trị cốt lõi của con người mà không thể phủ nhận.
Quyền dân sự, chính trị là một khía cạnh quan trọng của QCN, đảm bảo các cá nhân
được tự do, bình đẳng và công bằng trong xã hội. Pháp luật quốc tế có vai trò quan
trọng trong việc bảo vệ và thúc đẩy việc thực thi các quyền này trên toàn cầu. Các
quyền dân sự thường bao gồm quyền tự do cá nhân, như quyền tự do ngôn luận, tự
do tôn giáo, tự do di chuyển và quyền công bằng trước pháp luật. Quyền chính trị
thường liên quan đến quyền tham gia vào quyết định chính trị của một quốc gia, bao
gồm quyền bầu cử và quyền tham gia vào cuộc sống chính trị cộng đồng.
1.1.2.2 Quyền kinh tế, xã hội, văn hóa
14
Trong lĩnh vực kinh tế, QCN cũng đóng vai trò quan trọng. Việc bảo vệ quyền
lợi của người lao động, quyền được làm việc trong môi trường an toàn và quyền
biểu tình lao động là những điểm quan trọng mà pháp luật quốc tế thường quan tâm.
Ngoài ra, việc ngăn chặn sự kỳ thị và đạo đức trong lĩnh vực kinh tế cũng là một
phần quan trọng của việc bảo vệ QCN trong lĩnh vực này. Trong thời đại công nghệ
số, QCN trong lĩnh vực kinh tế cũng cần được đặc biệt chú trọng. Việc bảo vệ thông
tin cá nhân, ngăn chặn việc lạm dụng dữ liệu và đảm bảo rằng mọi người có quyền
truy cập công bằng vào các cơ hội kinh tế là những vấn đề đang trở nên ngày càng
quan trọng trong lĩnh vực này.
Quyền kinh tế của con người được bảo vệ và quy định mạnh mẽ trong các văn
bản pháp luật quốc tế. Một số điểm quan trọng về quyền kinh tế của con người bao
gồm: Quyền sở hữu tư nhân: Pháp luật quốc tế thừa nhận quyền sở hữu tư nhân là
một quyền cơ bản của con người. Điều này đảm bảo cá nhân có quyền sở hữu và
quản lý tài sản cá nhân một cách tự do; Quyền lao động: Các văn bản quốc tế bảo vệ
quyền lao động của con người bằng cách đảm bảo điều kiện làm việc công bằng,
lương thích đáng và không phân biệt đối xử; Chống kỳ thị kinh tế: Pháp luật quốc tế
cũng nghiêm cấm mọi hình thức kỳ thị kinh tế, bao gồm việc loại bỏ các rào cản
kinh tế không công bằng giữa các cá nhân hoặc nhóm người. Một số công ước quốc
tế quan trọng về quyền kinh tế của con người như: Công ước ILO: Bảo vệ quyền lao
động và thúc đẩy việc cải thiện điều kiện làm việc; Hiến Chương LHQ: Bảo vệ
quyền sở hữu tư nhân và nguyên tắc công bằng trong thương mại; Công ước về
Nhân Quyền: Bảo vệ quyền kinh tế và quyền lao động của con người.
Quyền văn hóa của con người đóng vai trò quan trọng trong việc bảo vệ và
thúc đẩy sự đa dạng văn hóa trên toàn cầu. Một số quy định của pháp luật quốc tế
về quyền văn hóa của con người bao gồm: Quyền tự do tư duy: Mọi người có quyền
tự do tư duy, tìm kiếm, nhận và truyền đạt thông tin và ý kiến một cách tự do mà
không bị can thiệp; Bảo vệ di sản văn hóa: Các văn bản quốc tế thường đề cập đến
việc bảo vệ di sản văn hóa, bao gồm việc bảo tồn các di tích lịch sử, văn hóa và
truyền thống dân tộc; Quyền tham gia vào cuộc sống văn hóa: Đảm bảo mọi người
15
có quyền tham gia vào cuộc sống văn hóa của cộng đồng một cách tích cực và
không bị phân biệt đối xử. Một số tài liệu quốc tế quan trọng về quyền văn hóa của
con người như: UNESCO 1972: Bảo vệ di sản văn hóa thế giới và khuyến khích
hợp tác quốc tế trong lĩnh vực này; Hiến Chương LHQ: Bảo vệ quyền tự do tư duy
và tự do truyền thông; UNESCO 2001: Bảo vệ và khuyến khích sự đa dạng văn hóa
trên toàn cầu.
Quyền xã hội bao gồm nhiều khía cạnh khác nhau như quyền y tế, quyền
giáo dục, quyền phát triển bền vững. Một số điểm quan trọng về quyền xã hội của
con người bao gồm: Quyền y tế cơ bản: Mọi người đều có quyền truy cập vào dịch
vụ y tế cơ bản để đảm bảo sức khỏe và chăm sóc y tế cho bản thân; Quyền giáo dục:
Pháp luật quốc tế thừa nhận quyền giáo dục là quyền cơ bản của con người và
khuyến khích việc phát triển giáo dục đại học và nghề nghiệp cho tất cả mọi người;
Phát triển bền vững: Bảo vệ môi trường sống và khuyến khích phát triển bền vững
là một khía cạnh quan trọng của quyền xã hội của con người. Một số văn bản quốc
tế quan trọng về quyền xã hội của con người: UNICEF: Bảo vệ quyền trẻ em và
đảm bảo điều kiện sống tốt cho trẻ nhỏ; Công ước về Nhân Quyền: Bảo vệ quyền y
tế cơ bản và quyền giáo dục của con người; Công ước về Môi Trường: Bảo vệ môi
trường sống và khuyến khích phát triển bền vững.
1.1.2.3 Quyền của một số nhóm người dễ bị tổn thương
Pháp luật quốc tế bảo vệ QCN bằng cách thiết lập các chuẩn mực và nguyên
tắc cơ bản đối với việc đối xử công bằng và tôn trọng đối với tất cả mọi người. Các
văn bản quốc tế, như Tuyên ngôn Nhân quyền của Liên Hợp Quốc và các công ước
quốc tế về QCN, đều cam kết bảo vệ các quyền cơ bản của con người mà không
phân biệt đối xử dựa trên bất kỳ lý do nào. Điều này bao gồm việc bảo vệ quyền của
những nhóm người dễ bị tổn thương, như trẻ em, người tàn tật, người già, người
nghèo và phụ nữ. Mặc dù chưa từng có công ước nào hay văn bản quốc tế nào đưa
ra định nghĩa về người dễ bị tổn thương, nhưng tinh thần bảo vệ quyền của nhóm
người này, được thể hiện qua những văn kiện quốc tế quan trọng về QCN cũng như
một số điều ước quốc tế đặc thù của từng nhóm người. Các văn kiện quốc tế tổng
16
quát về QCN có thể kể đến như Hiến chương Liên hợp quốc (LHQ) về QCN năm
1945; Tuyên ngôn Nhân quyền quốc tế năm 1948; Tuyên bố Viên và Chương trình
hành động năm 1993; Tuyên bố thiên niên kỷ của LHQ năm 2000… Các văn kiện
cụ thể về quyền tự do, cơ bản của con người như: Công ước quốc tế về các quyền
dân sự, chính trị năm 1966; Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa
năm 1966…
Ngoài những nhóm người trên, người dễ bị tổn thương, theo một số quan
điểm quốc tế hiện nay, còn có thể là người di tản hoặc tìm kiếm nơi lánh nạn,
người thiểu số, người sống chung với HIV- AIDS, tù binh chiến tranh, người đồng
tính hoặc người chuyển giới… Và danh sách người dễ bị tổn thương có thể được
mở rộng bởi “theo cách tiếp cận về vấn đề này, mỗi chúng ta, vào lúc này hay lúc
khác, trong hoàn cảnh này hay hoàn cảnh khác, đều có thể thuộc về một hoặc một
vài nhóm dễ bị tổn thương”. Mặc dù các quốc gia không phải có nghĩa vụ nội luật
hóa tất cả những quyền của nhóm người dễ bị tổn thương trên trong các văn kiện
pháp lý quốc tế, nhưng các văn kiện này là cơ sở quan trọng để Ủy ban Nhân
quyền LHQ cũng như các cơ quan khác đánh giá và đưa ra những khuyến nghị.
Đồng thời, phạm vi nội luật hoá trong pháp luật quốc gia cũng phụ thuộc vào cách
tiếp cận và lĩnh vực mà pháp luật quốc gia điều chỉnh. Ví dụ, tuỳ theo lĩnh vực điều
chỉnh, đó là pháp luật hình sự, pháp luật dân sự hay pháp luật lao động... mà phạm
vi người yếu thế cũng có khác nhau, không phải là toàn bộ danh sách mà pháp luật
quốc tế đề cập ở trên. Bảo vệ quyền của nhóm người dễ bị tổn thương không chỉ là
trách nhiệm pháp lý mà còn là trách nhiệm đạo đức và nhân văn của mọi cá nhân và
tổ chức. Việc thực hiện các biện pháp bảo vệ quyền của trẻ em, phụ nữ, người
khuyết tật, người già… không chỉ nâng cao chất lượng cuộc sống của họ mà còn
đóng góp vào sự phát triển toàn diện và bền vững của xã hội. Các nước cần hợp tác
chặt chẽ để thúc đẩy việc thực thi các quy định pháp luật quốc tế về quyền của
nhóm người dễ bị tổn thương. Việc tăng cường ý thức cộng đồng, đào tạo và giáo
dục về QCN là cách hiệu quả để xây dựng một xã hội công bằng và nhân văn, nơi
mà tất cả mọi người đều được đối xử công bằng và tôn trọng.
17
1.1.3 Cơ chế pháp lý về bảo vệ QCN
1.1.3.1 Khái niệm
Theo từ điển Tiếng Việt, “bảo vệ” có nghĩa là chống lại mọi sự hủy hoại, xâm
phạm để giữ gìn cho được nguyên vẹn, hoặc là bênh vực bằng lý lẽ để giữ vững ý
kiến hay quan điểm. Từ nội dung của thuật ngữ “bảo vệ” và với những tính chất, nội
dung của QCN cho thấy “bảo vệ QCN” có nội dung cơ bản là chống lại mọi sự hủy
hoại, xâm phạm để giữ gìn cho “nhân phẩm, lợi ích, nhu cầu và năng lực” của tất cả
mọi người trong xã hội được “nguyên vẹn” và tồn tại an toàn. Theo đó, ở nghĩa
chung nhất “bảo vệ QCN” là hoạt động chống lại mọi sự hủy hoại, xâm phạm lợi
ích, nhu cầu, nhân phẩm để giữ gìn cho QCN được nguyên vẹn. Trên phương diện
pháp lý, trong hoạt động bảo vệ QCN thì pháp luật có vị trí, vai trò quan trọng hàng
đầu, bởi vì pháp luật là phương tiện chính thức hóa giá trị xã hội của QCN, pháp lý
hóa giá trị xã hội của các quyền tự nhiên; là công cụ sắc bén của nhà nước trong
việc thực hiện thúc đẩy và bảo vệ QCN; pháp luật tạo cơ sở pháp lý để mọi cá nhân
đấu tranh bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Pháp luật xác lập và bảo
vệ sự bình đẳng giữa các cá nhân trong xã hội và sự độc lập tương đối của các cá
nhân với tập thể, cộng đồng, nhà nước, thông qua việc pháp điển hóa các quyền và
tự do tự nhiên, vốn có của cá nhân. Chỉ khi mang tính pháp lý, các quyền tự nhiên
mới chuyển thành những QCN có đầy đủ giá trị hiện thực bằng pháp luật. Đồng
thời, pháp luật là phương tiện bảo đảm giá trị thực tế của các QCN.
Bảo vệ QCN hiện nay được thực hiện thông qua ba cơ chế đó là cơ chế quốc
tế, cơ chế khu vực và cơ chế quốc gia. Trong đó, cơ chế quốc tế và cơ chế khu vực
có tầm ảnh hưởng rất lớn đến cơ chế quốc gia, đặc biệt đối với các quốc gia tham
gia công ước, điều ước quốc tế về bảo vệ QCN. Như vậy, nghĩa vụ bảo vệ QCN của
mỗi nhà nước được coi là một nghĩa vụ chủ động bởi để ngăn chặn sự vi phạm
QCN của bên thứ ba, các nhà nước phải chủ động đưa ra những biện pháp và xây
dựng các cơ chế phòng ngừa, xử lý những hành vi vi phạm. Theo đó, ở cấp độ quốc
tế, bảo vệ QCN được hiểu là hoạt động của mỗi nhà nước nhằm ngăn ngừa, phòng
chống, xử lý những hành vi vi phạm QCN của bất cứ chủ thể nào. Trong các cơ chế
18
bảo vệ QCN, cơ chế quốc gia có vai trò quan trọng nhất, được chứng minh bằng
lịch sử lâu đời và có hiệu quả cao trong thực tiễn. Theo đó, các quốc gia có trách
nhiệm tạo cơ sở, tiền đề để thực hiện nhiệm vụ bảo vệ QCN như pháp luật, bộ máy
nhà nước, cơ chế thực hiện vận hành bộ máy. Để thực hiện nhiệm vụ bảo vệ QCN
mỗi quốc gia cần xây dựng một hệ thống pháp luật với mục đích ngăn chặn và xử lý
những hành vi vi phạm QCN, bên cạnh đó cũng tính đến việc phục hồi, khôi phục
lại những quyền và lợi ích hợp pháp của người bị vi phạm. Việc thực hiện hoạt
động này thường được trao cho những cơ quan nhà nước có thẩm quyền tùy theo
từng lĩnh vực mà QCN bị xâm hại, hạn chế hoặc bị tước bỏ.
Trên cơ sở khái niệm về QCN và những phân tích nêu trên, bảo vệ QCN có
thể hiểu là toàn bộ các hoạt động phát hiện, ngăn ngừa và xử lý những hành vi vi
phạm QCN, nhằm khôi phục những quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân đã bị
xâm hại, hạn chế hoặc tước bỏ bởi hành vi vi phạm pháp luật về QCN, do các chủ
thể có thẩm quyền thực hiện.
TTDS là một hình thức thủ tục tố tụng tư pháp, là công cụ pháp lý quan trọng
bảo vệ QCN nhằm mục đích giải quyết các tranh chấp trong lĩnh vực dân sự. TTDS
là công cụ để sử dụng trong những trường hợp cần áp dụng khả năng tác động của
quyền lực nhà nước nhằm giải quyết thỏa đáng các tranh chấp trong lĩnh vực dân
sự. Các bên tham gia vào quan hệ pháp luật TTDS về nội dung đang bị tranh chấp
và trở thành thành chủ thể của quan hệ pháp luật dân sự được gọi là đương sự trong
TTDS, là những cá nhân hoặc tổ chức bao gồm nguyên đơn, bị đơn, người có quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan. Bảo vệ QCN trong TTDS có thể hiểu là nhiệm vụ của nhà
nước thông qua hệ thống cơ quan tư pháp tiến hành hoạt động ngăn chặn mọi hành
vi vi phạm QCN để khôi phục lại những QCN đã bị xâm hại được thực hiện theo
thủ tục TTDS nhằm bảo đảm cho các quyền của cá nhân được tôn trọng và thực thi
trên thực tế. Do đó, pháp luật TTDS sự mang ý nghĩa hết sức quan trọng nhằm bảo
vệ QCN trong TTDS để các quyền về dân sự, kinh tế của cá nhân, công dân được
thực hiện trong thực tiễn, qua đó bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự,
người tham gia tố tụng khác.
19
1.1.3.2 Cơ chế quốc tế về bảo vệ QCN
Như đã đề cập, về cơ bản, cơ chế quốc tế về bảo vệ QCN thể hiện ở bộ máy
các cơ quan và các quy tắc, thủ tục về bảo vệ QCN trong hệ thống Liên hợp quốc.
Mặc dù có mục tiêu chung là để bảo vệ QCN, song dựa trên vị thế pháp lý và chức
năng, nhiệm vụ, các cơ quan QCN Liên hợp quốc được chia thành hai dạng: các cơ
quan được thành lập theo (hoặc dựa trên) Hiến chương và các cơ quan được thành
lập theo (hoặc dựa trên) một số điều ước quan trọng về QCN. Một số tài liệu gọi hệ
thống các cơ quan và thủ tục này là cơ chế dựa trên Hiến chương và cơ chế dựa trên
điều ước.
Cơ chế dựa trên Hiến chương: Do bảo vệ và thúc đẩy các QCN được xác định
là một trong những mục tiêu cơ bản của Liên hợp quốc nên cả 6 cơ quan chính (Đại
hội đồng - General Assembly, Hội đồng Bảo an - Security Council, Hội đồng Kinh
tế và Xã hội - Economic and Social Council - ECOSOC, Hội đồng Quản thác -
Trusteeship Council và Toà án quốc tế - International Court of Justice - ICJ), đều có
trách nhiệm trên lĩnh vực này. Một số cơ quan chính thiết lập một mạng lưới các cơ
quan giúp việc về QCN, đồng thời xây dựng một quy chế để huy động sự tham gia,
hỗ trợ của các tổ chức phi chính phủ (quốc tế, khu vực và quốc gia) vào hoạt động
thúc đẩy và bảo vệ QCN.
Cơ chế dựa trên công ước: Cơ chế này được dựa trên các ủy ban giám sát việc
thực hiện một số công ước quốc tế về QCN được thành lập theo quy định của chính
các công ước đó (ngoại trừ Uỷ ban về các quyền kinh tế, xã hội, văn hoá được thành
lập theo một nghị quyết của ECOSOC). Nếu như các cơ quan trong cơ chế dựa trên
Hiến chương có những chức năng đa dạng, bao gồm cả việc nghiên cứu, xây dựng
các dự thảo văn kiện, thẩm định, theo dõi, giám sát và điều hành các chương trình,
hoạt động về QCN... thì hệ thống uỷ ban công ước có chức năng hẹp hơn. Các uỷ
ban này được thiết lập chỉ để giám sát, thúc đẩy việc thực hiện những điều ước quốc
tế về QCN, thông qua việc nhận, xem xét và ra khuyến nghị liên quan đến các báo
cáo về việc thực hiện những công ước này của những quốc gia thành viên (và với
20
một số uỷ ban, còn thông qua thẩm quyền nhận, xem xét và xử lý các khiếu nại về
việc vi phạm các QCN được ghi nhận trong một số công ước).
1.1.3.3 Cơ chế quốc gia về bảo vệ QCN
Cơ chế quốc gia về bảo vệ QCN xuất phát từ và nhằm thực hiện những nghĩa
vụ của các nhà nước được nêu trong tất cả các văn kiện quốc tế về QCN. Nòng cốt
của cơ chế là các cơ quan quốc gia về bảo vệ và thúc đẩy nhân quyền. Các cơ quan
quốc gia về bảo vệ và thúc đẩy nhân quyền có hình thức tổ chức rất đa dạng.
Tại Việt Nam, QCN được bảo vệ chặt chẽ thông qua các cơ chế pháp lý quốc
gia. Cơ chế pháp lý về bảo vệ QCN được quy định trong Hiến pháp 2013 và các văn
bản pháp lý khác như Bộ luật Hình sự, Bộ luật Dân sự, Bộ luật Lao động, Luật Bảo
vệ quyền lợi người tiêu dùng, Luật Tư pháp và nhiều văn bản khác. Các văn bản
này tập trung vào việc bảo vệ quyền sống, quyền tự do, quyền bình đẳng và quyền
được hưởng lợi ích từ sự phát triển kinh tế xã hội của mỗi cá nhân. Ngoài ra, Việt
Nam không chỉ chú trọng vào việc bảo vệ QCN trên lãnh thổ quốc gia mà còn hợp
tác quốc tế trong lĩnh vực này bằng việc tham gia vào nhiều công ước quốc tế về
QCN như Công ước Quốc tế về Quyền Dân Sự và Chính Trị, Công ước Quốc tế về
Quyền Kinh Tế, Xã Hội và Văn Hóa. Việt Nam tham gia và thúc đẩy các hợp đồng,
hiệp định quốc tế liên quan đến QCN nhằm mục đích cùng nhau tạo ra môi trường
khung cho việc bảo vệ QCN không chỉ tại Việt Nam mà còn trên toàn thế giới.
Hiến pháp là tài liệu căn cứ quan trọng nhất để bảo vệ QCN, trong đó quy định
rõ việc tôn trọng và bảo vệ QCN là nghĩa vụ hàng đầu của Nhà nước. Ở mỗi quốc
gia, có các cơ quan chuyên trách giám sát việc bảo vệ QCN. Tại Việt Nam, Ủy ban
nhân quyền là cơ quan có trách nhiệm chủ trì, phối hợp với các cơ quan, tổ chức
trong và ngoài hệ thống chính trị, xã hội, hoạt động giám sát, theo dõi, đánh giá,
cung cấp thông tin, khuyến khích, bảo vệ và thúc đẩy QCN. Ngoài ra, hệ thống luật
pháp, hệ thống tư pháp, cơ quan quản lý nhà nước, các cơ quan chức năng như Tòa
án, Công an, VKSND cũng có vai trò quan trọng trong việc thực thi, bảo vệ và thúc
đẩy QCN. Công tác giám sát cũng được thực hiện thông qua các tổ chức xã hội dân
sự và truyền thông độc lập. Tuyên ngôn độc lập của nước Việt Nam dân chủ cộng
21
hoà được Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc vào ngày 2/9/1945, nó được xem là một văn
bản có ý nghĩa lịch sử trên bình diện thế giới đối với QCN. Từ ngày lập quốc cho
đến bây giờ, nhà nước Việt Nam luôn luôn đề cao nguyên tắc QCN, xem đó là một
trong những nguyên tắc hình thành luật pháp của nhà nước. Tuy nhiên, nguyên tắc
trên không được thể hiện một cách đầy đủ qua các bản hiến pháp năm 1946, năm
1959 và năm 1980; trong Hiến pháp 1992, lần đầu tiên trong lịch sử lập hiến tại
nước ta, nguyên tắc tôn trọng các QCN được xác định thành đạo luật căn bản của
nhà nước. Đây là một bước phát triển mới của các quyền và nghĩa vụ cơ bản của
công dân theo Hiến pháp (Điều 50). Đảng và nhà nước ta cũng thực thi nhiều chính
sách để bảo đảm QCN, tham gia hầu hết các điều ước quốc tế về QCN và đã đạt
được nhiều thành tựu to lớn. Qua đó góp phần xây dựng một đất nước giàu mạnh,
công bằng, dân chủ, văn minh, đóng góp vào cuộc đấu tranh chung của toàn nhân
loại vì mục tiêu hòa bình và tiến bộ xã hội. Những quyết định tiến triển trong Hiến
pháp mới nhất của Việt Nam đã được kế thừa và phát triển từ những quy định của
những bản Hiến pháp trước đây. Hiến pháp năm 2013 đã có sự đổi mới căn bản và
quan trọng cả về cơ cấu, sắp xếp cách viết và nội dung. Việc tiếp tục nâng cao chất
lượng chỉ đạo QCN, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân đã được thể hiện rõ
ràng trong Hiến pháp. Với việc thể hiện rõ ràng qua 35 điều luật theo các tiêu chuẩn
pháp lý quốc tế. Những quy định về bảo vệ QCN có tầm khái quát quy định trong
Hiến pháp 2013 (Điều 14) được cụ thể hóa tại các văn bản luật chuyên ngành.
Chẳng hạn, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định nhiệm vụ của mình là “góp
phần bảo vệ công lý, bảo vệ QCN, QCD.” (Điều 2). BLTTDS năm 2015 cũng ghi
nhận quyền yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp là quyền tự do dân
chủ rất quan trọng của cá nhân: Cơ quan, tổ chức, cá nhân có quyền khởi kiện, yêu
cầu giải quyết vụ, việc dân sự tại để yêu cầu tòa án bảo vệ công lý, bảo vệ QCN,
QCD, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của mình hoặc của
người khác (Điều 4).
QCN trong TTDS đã và đang được cụ thể hóa trong văn bản quy phạm pháp
luật mà điển hình là BLTTDS năm 2015, quy định cụ thể tại chương II: Những
22
nguyên tắc cơ bản và từ Điều 70 đến Điều 74 BLTTDS. Theo đó, trong TTDS,
đương sự có phạm vi quyền và nghĩa vụ rất lớn và họ bình đẳng với nhau. Trên cơ
sở nguyên tắc và tự định đoạt, các đương sự thực hiện việc bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của mình.
Một trong những đặc trưng cơ bản của TTDS là nguyên tắc tự định đoạt của
đương sự. Nguyên tắc này thể hiện vai trò tích cực chủ động của đương sự trong
việc tự bảo vệ và yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích của mình. Cùng với
nguyên tắc về quyền tự định đoạt là nguyên tắc bình đẳng giữa các bên và nguyên
tắc hòa giải. Như vậy, rõ ràng hiệu quả của thủ tục TTDS phụ thuộc vào tính tích
cực của các bên, và điều này hoàn toàn phụ thuộc vào mức độ quyền và nghĩa vụ
của họ do pháp luật TTDS quy định. Nguyên tắc chung là các bên có quyền và
nghĩa vụ ngang nhau khi tham gia tố tụng.
Các bên có các quyền sau: Cung cấp chứng cứ và chứng minh để bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của mình; Yêu cầu cá nhân, cơ quan, tổ chức đang lưu giữ, quản
lý chứng cứ cung cấp chứng cứ đó cho mình để giao nộp cho tòa án, đề nghị tòa án
xác minh, thu thập chứng cứ của vụ án mà mình không thể thực hiện được hoặc đề
nghị tòa án triệu tập người làm chứng, trưng cầu giám định, định giá, khiếu nại với
VKS về những chứng cứ mà tòa án đã xác minh, thu thập do đương sự khác yêu cầu
được biết và ghi chép, sao chụp các tài liệu, chứng cứ do các đương sự khác xuất
trình hoặc do tòa án thu thập đề nghị tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, tự
thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ án; tham gia hòa giải do tòa án tiến hành,
nhận thông báo hợp lệ để thực hiện các quyền, nghĩa vụ của mình; tự bảo vệ hoặc
nhờ người khác (như luật sư, luật gia) bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình;
tham gia phiên tòa; yêu cầu thay đổi người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng
theo quy định của BLTTDS; tranh luận tại phiên tòa; kháng cáo, khiếu nại bản án,
quyết định của tòa án; phát hiện và thông báo cho người có thẩm quyền kháng nghị
căn cứ để kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm bản án, quyết định của
tòa án đã có hiệu lực pháp luật.
23
Ngoài các quyền và nghĩa vụ chung nêu trên, BLTTDS năm 2015 còn quy
định các quyền, nghĩa vụ cho riêng nguyên đơn và bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa
vụ liên quan. Đối với nguyên đơn, có quyền sau: Rút một phần hoặc toàn bộ yêu
cầu khởi kiện, thay đổi nội dung yêu cầu khởi kiện; Đề nghị tòa án đưa người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan tham gia tố tụng; Đề nghị tòa án tạm đình chỉ giải
quyết vụ án. Bị đơn có những quyền riêng sau đây: Chấp nhận một phần hoặc toàn
bộ yêu cầu của nguyên đơn; bác bỏ toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn; đưa ra yêu cầu
phản tố đối với nguyên đơn nếu có liên quan đến yêu cầu của nguyên đơn hoặc đề
nghị đối với nghĩa vụ mà nguyên đơn yêu cầu; được thông báo về việc bị khởi kiện.
Để bảo vệ quyền lợi cho các bên, BLTTDS năm 2015 còn quy định việc kế
thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng của các đương sự trong điều kiện đương sự bị chết
hoặc chấm dứt hoạt động, nếu quyền có nghĩa vụ tài sản đang bị tranh chấp của họ
được thừa kế (Điều 74). Thông thường, vụ án dân sự phát sinh là do chính nguyên
đơn khởi kiện. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp do nhiều nguyên nhân khác nhau,
theo quy định của BLTTDS năm 2015, cùng tham gia vào tố tụng còn có người đại
diện của đương sự và người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. Người
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự là người được đương sự nhờ và
được Tòa án chấp nhận để tham gia tố tụng bảo vệ quyền và lợi ích của đương sự.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự có thể là luật sư hoặc cũng
có thể là bất cứ công dân Việt Nam nào có năng lực hành vi dân sự đầy đủ và đáp
ứng các yêu cầu theo quy định của BLTTDS năm 2015. Vấn đề người đại diện
trong TTDS được giải quyết dựa trên cơ sở các quy định về đại diện trong Bộ luật
dân sự. Người đại diện trong TTDS bao gồm người đại diện theo pháp luật và người
đại diện theo ủy quyền. Nhằm bảo vệ một cách đầy đủ, khách quan các quyền và lợi
ích của các bên, pháp luật quy định một số trường hợp không được làm người đại
diện và những trường hợp tòa án phải chỉ định người đại diện. Ví dụ, trong khi tiến
hành TTDS, nếu có đương sự là người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự mà không
có người đại diện hoặc có người đại diện theo quy định tại khoản 1 Điều 88 Bộ luật
Tố tụng dân sự năm 2015, thì tòa án phải chỉ định người đại diện cho người đó để
24
tham gia tố tụng tại tòa án, hoặc ví dụ những người sau đây không được làm người
đại diện trong tố tụng dân sự như: cán bộ, công chức trong ngành tòa án, kiểm sát,
công an, trừ trường hợp họ tham gia tố tụng với tư cách người đại diện cho cơ quan
của họ hoặc với tư cách là người đại diện theo pháp luật.
Rõ ràng, đương sự trong TTDS là chủ phạm vi quyền rất rộng lớn và khả năng
sử dụng phương thức khởi kiện, sử dụng thủ tục TTDS để bảo vệ quyền và lợi ích
chính đáng của mình một cách hữu hiệu nhất. Ưu thế của thủ tục TTDS thể hiện ở
những nguyên tắc đặc trưng của nó là quyền tự định đoạt của các bên đương sự đảm
bảo cho các bên chủ động áp dụng các phương thức, biện pháp khác nhau với mục
tiêu cao nhất, phục hồi một cách nhanh chóng, kịp thời và đầy đủ quyền và lợi ích
của mình đã và đang bị vi phạm hoặc tranh chấp. Các bên có thể tự hòa giải với
nhau hoặc người khởi kiện có thể tự mình rút đơn khởi kiện. Nguyên tắc tự định
đoạt có hiệu lực trong suốt quá trình áp dụng thủ tục TTDS; và nguyên tắc này là cơ
sở để xác định không những chỉ có quyền và nghĩa vụ của các bên mà đối với các
chủ thể khác như tòa án và VKS, những chủ thể được coi là người tiến hành TTDS.
Đề cao nguyên tắc về quyền tự định đoạt của các bên là tâm điểm của nội
dung quá trình hoàn thiện pháp luật TTDS và cải cách tư pháp ở Việt Nam trong
thời kỳ đổi mới. Nguyên tắc này có ý nghĩa xuyên suốt tất cả các giai đoạn của quá
trình tố tụng từ khi khiếu kiện, thụ lý vụ án cho đến khi thi hành án, kết thúc vụ án,
cùng với việc áp dụng nguyên tắc hai cấp xét xử, nguyên tắc độc lập của tòa án khi
xét xử, nguyên tắc về quyền tự định đoạt của các bên cho phép xác định thẩm quyền
của các cấp tòa án cũng như vai trò và vị trí của VKS trong trong TTDS. Cùng với
việc ban hành BLTTDS, VKS không còn có thẩm quyền khởi tố vụ án dân sự như
trước đây, hoặc quy định rằng tòa án có trách nhiệm tiến hành hòa giải và tạo điều
kiện thuận lợi; để các đương sự thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ việc dân
sự, bảo đảm cho đương sự thực hiện quyền bảo vệ của họ theo quy định của pháp
luật. Việc giải quyết vụ việc dân sự được tiến hành một cách công khai, đảm bảo sự
tham gia của Hội thẩm nhân dân; xét xử tập thể. Về nguyên tắc, tiếng nói và chữ
viết trong TTDS là tiếng Việt (Điều 20, BLTTDS năm 2015). Tuy nhiên, để bảo vệ
25
lợi ích của các chủ thể thuộc các dân tộc khác nhau, BLTTDS quy định rằng người
tham gia TTDS có quyền dùng tiếng nói và chữ viết của dân tộc mình và trong
trường hợp này, tòa án phải chỉ định người phiên dịch. Bên cạnh đó, để bảo vệ
quyền tự do, dân chủ của người dân trong TTDS, pháp luật quy định quyền khiếu
nại, tố cáo của họ trong TTDS và trong trường hợp đó, cơ quan chức cá nhân có
thẩm quyền phải tiếp nhận, xem xét và giải quyết kịp thời, đúng pháp luật các khiếu
nại, tố cáo, thông báo bằng văn bản về kết quả giải quyết cho người đã khiếu nại, tố
cáo biết.
1.2 Trách nhiệm của VKSND trong bảo vệ QCN thông qua hoạt động
kiểm sát giải quyết các vụ việc dân sự.
1.2.1 Khái quát chung về giải quyết vụ việc dân sự, kiểm sát giải quyết vụ
việc dân sự
1.2.1.1 Khái niệm
Khi nói đến giải quyết vụ việc dân sự, chúng ta đề cập đến quá trình phân xử
những tranh chấp, mâu thuẫn giữa các cá nhân, tổ chức trong xã hội một cách hợp
lý và công bằng. Điều quan trọng trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự là tôn
trọng quy định pháp luật, đảm bảo nguyên tắc công bằng, minh bạch và đúng luật.
Có nhiều phương pháp giải quyết vụ việc dân sự như đàm phán, hòa giải, trọng tài,
hoặc thông qua phiên tòa án. Quá trình giải quyết vụ việc dân sự thường bắt đầu khi
một bên có khiếu nại hoặc tố cáo về việc xảy ra mâu thuẫn, tranh chấp với bên kia.
Đầu tiên, họ có thể thử giải quyết vấn đề một cách hòa bình thông qua đàm phán
hoặc hòa giải. Nếu không thể đạt được thỏa thuận, họ có thể nộp đơn kiện lên cơ
quan tư pháp để yêu cầu giải quyết vụ việc dân sự thông qua phiên tòa.
Giải quyết vụ việc dân sự chính là quá trình mà Tòa án hoặc cơ quan có thẩm
quyền khác tiến hành nhằm giải quyết các tranh chấp hoặc yêu cầu phát sinh từ các
quan hệ dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại và lao động. Quá
trình này bao gồm nhiều bước, từ việc tiếp nhận đơn khởi kiện, chuẩn bị xét xử, xét
xử sơ thẩm, phúc thẩm đến thi hành án. Các bước cơ bản trong giải quyết vụ việc
26
dân sự gồm: Tiếp nhận đơn khởi kiện: Người khởi kiện nộp đơn khởi kiện tại tòa án
có thẩm quyền; Thụ lý vụ án: Tòa án kiểm tra và thụ lý đơn khởi kiện nếu đủ điều
kiện; Chuẩn bị xét xử: Bao gồm các hoạt động thu thập chứng cứ, lấy lời khai, hòa
giải giữa các bên tranh chấp; Xét xử sơ thẩm: Tòa án tiến hành phiên tòa sơ thẩm để
xem xét và ra phán quyết; Xét xử phúc thẩm (nếu có): Nếu có kháng cáo, kháng
nghị, vụ án sẽ được xem xét lại ở phiên tòa phúc thẩm.
Trên hành lang pháp lý, việc giải quyết vụ việc dân sự đòi hỏi sự tham gia
của các cơ quan chức năng, trong đó VKS đóng vai trò quan trọng. Khái niệm kiểm
sát giải quyết vụ việc dân sự đề cập đến quá trình kiểm tra, rà soát, xác định vi
phạm pháp luật, và tiến hành các biện pháp khắc phục theo đúng quy định của pháp
luật. Với sứ mệnh bảo vệ quyền lợi hợp pháp của các bên tham gia, VKS phải thực
thi công lý một cách khách quan và công bằng, tạo ra sự minh bạch và tin cậy trong
quá trình giải quyết vụ việc dân sự. Mục đích của hoạt động này là đảm bảo việc
giải quyết vụ việc dân sự được thực hiện đúng pháp luật, bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của các bên liên quan. Các nhiệm vụ chính của VKSND trong kiểm sát
giải quyết vụ việc dân sự bao gồm: Kiểm sát việc thụ lý, giải quyết vụ án: Giám sát
việc thụ lý và các bước xử lý vụ án dân sự của tòa án để đảm bảo đúng quy trình
pháp luật; Tham gia phiên tòa: KSV có thể tham gia phiên tòa để giám sát hoạt
động xét xử, đảm bảo phán quyết của tòa án là công bằng và đúng pháp luật; Kháng
nghị bản án, quyết định của tòa án: Nếu phát hiện có vi phạm pháp luật trong quá
trình xét xử, VKS có quyền kháng nghị bản án, quyết định của tòa án; Kiểm sát việc
thi hành án: Giám sát quá trình thi hành các bản án, quyết định dân sự để đảm bảo
quyền và lợi ích hợp pháp của các bên được thực hiện đầy đủ. Mối quan hệ giữa
giải quyết và kiểm sát giải quyết vụ việc dân sự là mối quan hệ giám sát và kiểm
soát. Tòa án thực hiện chức năng giải quyết các tranh chấp dân sự, trong khi VKS
thực hiện chức năng kiểm sát để đảm bảo quá trình giải quyết đó tuân thủ đúng
pháp luật. Sự phối hợp này giúp nâng cao tính minh bạch, công bằng và hiệu quả
trong công tác tư pháp dân sự. Những khái niệm này thể hiện rõ sự phân công chức
27
năng và nhiệm vụ giữa các cơ quan trong hệ thống tư pháp nhằm đảm bảo quyền lợi
hợp pháp của công dân và tổ chức trong các quan hệ dân sự.
1.2.1.2 Thẩm quyền giải quyết vụ việc dân sự
Khi xảy ra mâu thuẫn hoặc tranh chấp trong xã hội, việc giải quyết vụ việc
dân sự cần phải thông qua các cơ quan có thẩm quyền. Thẩm quyền này được quy
định rõ trong văn bản pháp luật và được thực thi để đảm bảo sự công bằng và hiệu
quả trong quá trình xử lý vụ việc. Các vụ việc dân sự thường liên quan đến việc bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên tham gia. Quá trình giải quyết vụ việc dân
sự đòi hỏi sự nỗ lực từ phía cả hai bên để tìm ra giải pháp hòa bình và khả thi.
Trong hệ thống pháp luật Việt Nam, các vụ việc dân sự được giải quyết thông qua
các cơ quan tư pháp, chủ yếu là Tòa án, trong việc thụ lý, xét xử và ra quyết định về
các vụ việc liên quan đến tranh chấp dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh,
thương mại và lao động. Cụ thể:
Thẩm quyền của Tòa án: Tòa án là cơ quan có thẩm quyền cao nhất trong
việc giải quyết các vụ việc dân sự tại Việt Nam. Tòa án được xem là tổ chức có
thẩm quyền pháp lý chính thức để xét xử và phán quyết các tranh chấp, mâu thuẫn
giữa các bên. Tòa án có quyền ra quyết định cuối cùng và các quyết định này phải
được tất cả mọi người tuân thủ.
Thẩm quyền của các cơ quan khác:
Trọng tài thương mại: Giải quyết các tranh chấp về hợp đồng kinh doanh,
thương mại theo sự thỏa thuận của các bên liên quan khi có điều khoản trọng tài.
Hòa giải viên: Hòa giải các tranh chấp dân sự tại cơ sở trước khi các bên đưa
vụ việc ra tòa án, nhằm giảm tải cho hệ thống tòa án và thúc đẩy giải quyết tranh
chấp bằng phương thức hòa giải.
1.2.1.3 Thẩm quyền kiểm sát giải quyết vụ việc dân sự
Thẩm quyền kiểm sát giải quyết vụ việc dân sự của VKSND là chức năng,
nhiệm vụ của cơ quan này nhằm giám sát và kiểm tra tính hợp pháp của các hoạt
động tư pháp trong quá trình giải quyết các vụ việc dân sự. Mục đích của hoạt động
28
kiểm sát này là đảm bảo việc thực thi pháp luật một cách đúng đắn, bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của các bên liên quan, đồng thời nâng cao hiệu quả và uy tín của hệ
thống tư pháp. Thẩm quyền kiểm sát giải quyết vụ việc dân sự của VKSND được
quy định trong Hiến pháp, Luật tổ chức VKSND, và Bộ luật TTDS. Các quy định
này xác định rõ vai trò, chức năng, và nhiệm vụ của VKSND trong hoạt động kiểm
sát:
Cơ quan tiến hành tố tụng là tòa án, nơi thực hiện chức năng xét xử bởi những
người tiến hành tố tụng. Nếu những người này thiếu sự cẩn trọng, trách nhiệm, chủ
quan, hay thiên vị do tình cảm hoặc ảnh hưởng từ lợi ích và các mối quan hệ lệ
thuộc, vi phạm quyền tố tụng dễ xảy ra. Do đó, việc VKS thực hiện kiểm sát giải
quyết các vụ việc dân sự được coi là một trong những hoạt động giám sát để đảm
bảo quyền tố tụng của các bên được thực hiện hiệu quả. Tuy nhiên, không phải tất
cả các nước đều áp dụng cơ chế kiểm sát của VKS để bảo đảm quyền tố tụng của
các đương sự. Ví dụ, ở những quốc gia như Hoa Kỳ, Anh, Viện công tố chỉ có vai
trò trong việc buộc tội các bị cáo trong những vụ án hình sự chứ không đóng vai trò
quan trọng trong giải quyết các vụ việc dân sự. Bởi vì quan niệm của các nước này
cho rằng, trong hoạt động TTDS là giải quyết các tranh chấp về lợi ích cá nhân, do
đó Viện công tố sẽ không tham gia vào hoạt động này [9, tr.100]. Ngược lại, ở một
số nước như Nga, Trung Quốc, Pháp quy định rằng VKS có quyền tham gia vào quá
trình TTDS. Tuy nhiên, mức độ và sự can thiệp của VKS vào quá trình này ở mỗi
quốc gia là khác nhau. Ở Việt Nam, vai trò kiểm sát của VKS được coi là một trong
những “kênh” để bảo vệ quyền lợi hợp pháp của đương sự trong TTDS và được
điều chỉnh theo Điều 21 của Bộ luật TTDS năm 2015. Pháp luật TTDS nhiều nước
xã hội chủ nghĩa, đều khẳng định bảo đảm quan trọng của việc tuân thủ nguyên tắc
pháp chế xã hội chủ nghĩa là chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong
TTDS [10, tr.36]. Sự tham gia của VKS trong TTDS được coi là một phần quan
trọng trong việc đảm bảo rằng mọi cá nhân, tổ chức và cơ quan liên quan sẽ phải
tuân theo đúng và nghiêm ngặt theo luật lệ của TTDS nói chung, cũng như đảm bảo
tính hợp pháp của các quyết định và bản án từ Tòa án nói riêng [10, tr.36]. Qua việc
29
tiến hành kiểm sát các hoạt động TTDS, VKS bảo đảm rằng các hoạt động TTDS
được thực hiện theo đúng quy định pháp luật, tạo điều kiện thuận lợi để quyền lợi
hợp pháp của các đương sự được bảo vệ [11, tr.55]. Quan điểm của TS. Phạm Hữu
Nghị lại cho rằng, việc giải quyết tranh chấp dân sự giữa các bên không nên bị can
thiệp trực tiếp bởi VKSND với tư cách công quyền, trái ngược hoàn toàn với quan
điểm trước đó [12, tr.41]. TS. Nguyễn Thái Phúc cũng đã nhận định rằng việc nói
về vai trò độc lập của Tòa án là khó khăn khi hoạt động chức năng xét xử được
kiểm sát bởi VKS [13, tr.48]. Như vậy, có các quan điểm trái ngược nhau đối với
việc kiểm sát của VKS đối với quá trình giải quyết vụ việc dân sự nói chung, bảo
đảm quyền tố tụng của các đương sự nói riêng. Theo tác giả, trong việc kiểm sát các
hoạt động tố tụng thì VKS bảo đảm quá trình giải quyết vụ án diễn ra theo đúng quy
trình và thủ tục tố tụng, bảo đảm rằng các quyền tố tụng của đương sự được thi
hành trên thực tiễn. Đồng thời, từ hoạt động kiểm sát VKS có thể phát hiện kịp thời
những sai phạm pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ việc nhằm có những
kiến nghị, kháng nghị phù hợp để bảo đảm cho các quyền tố tụng của đương sự
được thi hành. Bởi vì suy đến cùng thì việc kiểm sát hoạt động xét xử của Toà án
cùng với đương sự trong tố tụng là nhằm bảo đảm Toà án giải quyết vụ án dân sự
được công minh, khách quan, vô tư, đúng pháp luật cũng như giúp đương sự chấp
hành đúng qui định của pháp luật [14, tr.20].
Trách nhiệm bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của mọi tổ chức, cá nhân khi
tham gia giải quyết các vụ việc dân sự là trách nhiệm của VKSND, quy định rõ tại
Hiến pháp năm 2013 (Điều 107) và Luật tổ chức VKSND năm 2014 (Điều 2). Vai
trò của VKSND trong lĩnh vực TTDS được tăng cường, từ đó bảo vệ tốt hơn lợi ích
của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của những yếu thế theo yêu cầu của thực
tiễn và đảm bảo tuân thủ quy định pháp luật. VKS sẽ kiểm sát việc tuân theo pháp
luật đối với cá nhân, cơ quan, tổ chức trong việc tiến hành hoặc tham gia tố tụng
giải quyết các tranh chấp dân sự, đảm bảo tuân thủ theo quy định pháp luật và thực
hiện quyền bảo vệ lợi ích hợp pháp của công dân. Do vậy, VKSND thể hiện rõ vai
trò hết sức quan trọng với tư cách là chủ thể bảo vệ QCN trong hoạt động TTDS.
30
1.2.2 Nội dung, hình thức bảo vệ QCN thông qua hoạt động kiểm sát giải
quyết các vụ việc dân sự của VKSND
1.2.1.1 Nội dung bảo vệ QCN thông qua hoạt động kiểm sát giải quyết các
vụ việc dân sự
a. Quy định quyền của chủ thể được bảo vệ trong hoạt động TTDS
Trong TTDS, chủ thể quan trọng nhất cần thiết để được bảo hộ là đương sự và
những người tham gia tố tụng khác. Đương sự có phạm vi quyền và nghĩa vụ rất lớn
và bình đẳng với nhau trong TTDS. Dựa trên nguyên lý quyền tự quyết định, việc
thực hiện bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của chủ thể được thực hiện thông qua
đương sự. Trong TTDS, có nhiều chủ thể tham gia, tuy nhiên chỉ có chủ thể mà lợi
ích của họ được bảo vệ mới được gọi là các bên đương sự trong TTDS. Để xử lý
các tranh chấp dân sự một cách chính xác, việc xác lập đúng tư cách chủ thể là các
bên đương sự có vai trò then chốt đối với sự bảo vệ quyền của các bên trong quan
hệ pháp luật TTDS.
b. Phát hiện, ngăn chặn, xử lý hành vi vi phạm, khôi phục quyền, lợi ích hợp
pháp của người bị vi phạm
Việc bảo vệ QCN của các cơ quan hành chính nhà nước nói chung, của
VKSND nói riêng được thực hiện trên nguyên tắc mọi hành động xâm phạm quyền
riêng tư của công dân phải bị ngăn chặn trừ khi có lý do chính đáng. Khoản 1 Điều
20 Hiến pháp năm 2013 quy định rằng quyền bất khả xâm phạm về thân thể của mọi
người được bảo đảm theo pháp luật. Theo đó, Luật tổ chức VKSND năm 2014 cũng
quy định mục đích của KSHĐTP, tại điểm đ khoản 2 Điều 4: “VKSND KSHĐTP
nhằm bảo đảm mọi vi phạm pháp luật trong hoạt động tư pháp phải được phát hiện
kịp thời...”. Qua đó, nguyên tắc bảo vệ quyền và lợi ích của công dân phải được
VKSND tuân thủ và thực hiện một cách nghiêm túc, để phát hiện và xử lý hành vi
xâm phạm đến quyền và lợi ích của công dân. Trách nhiệm chính của VKSND là
bảo vệ các quyền của công dân, như tự do, sức khỏe, tính mạng, danh dự, nhân
phẩm và tài sản. Trong việc thực hiện chức năng và nhiệm vụ của mình, VKSND sẽ
31
chịu trách nhiệm trong việc phát hiện mọi hành vi vi phạm quyền của công dân. Tuy
nhiên, theo quy định của pháp luật, VKS cần được đảm bảo rằng họ có trách nhiệm
phát hiện kịp thời các hành vi vi phạm trong thời gian và điều kiện mà Luật quy
định. Điều này sẽ tạo điều kiện cho việc ngăn chặn, xử lý và khôi phục quyền lợi
của người bị vi phạm một cách hiệu quả. Chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp đã
được quy định rõ ràng trong Hiến pháp năm 2013. Hoạt động kiểm sát tuân theo
pháp luật của VKS là một loại hoạt động mang tính cấp bách nhà nước, có nguồn
gốc từ quyền lực giám sát của Quốc hội; tiến hành kiểm tra và giám sát tuân theo
Hiến Pháp và luật lệ trong các hoạt động cụ thể theo sự chỉ đạo từ Quốc hội [15].
VKS thực hiện hoạt động kiểm sát cũng là thực hiện hoạt động giám sát tư pháp
theo luật định theo lệnh uỷ thác của Quốc hội. Đồng thời, VKSND cũng là cơ quan
nhà nước có chức năng thích hợp nhất được giao trọng trách bảo vệ QCN. Thông
qua việc thực hiện chức năng Kiểm sát hoạt động tư pháp, cụ thể là kiểm sát hoạt
động của Toà án để phát hiện xâm phạm QCN của cơ quan tư pháp, từ đó sẽ đảm
bảo thẩm quyền của Toà án đối với các tranh chấp dân sự. Chức năng KSHĐTP là
hoạt động có tính chất giám sát nhà nước, là một công cụ giám sát, kiểm soát quyền
lực nhà nước của cơ quan tư pháp. Tuy nhiên, khác với hoạt động giám sát nhà
nước thông thường về tư pháp, KSHĐTP là sự giám sát thông qua các hoạt động
thực tiễn của cơ quan tư pháp và các cơ quan được phân công thực hiện quyền tư
pháp trong quá trình hoạt động [16, tr.39].
Ngăn chặn hành vi vi phạm QCN
Việc ngăn chặn hành vi vi phạm QCN là một hoạt động mang tính cản trở, trì
hoãn, và dừng lại những hành vi này. Hành vi này được thực hiện trong lĩnh vực
TTDS của VKSND bằng cách áp dụng các biện pháp để cản trở, trì hoãn và ngăn
chặn hành vi vi phạm QCN thông qua các thủ tục TTDS. Hiệu quả của pháp luật đối
với công tác ngăn chặn hành vi xâm phạm QCN trong lĩnh vực TTDS được thể hiện
thông qua tính chất quyền lực nhà nước của pháp luật. Hoạt động này có vai trò
then chốt và trọng tâm, đặc biệt là khi liên quan đến chức năng của VKSND, nó rõ
ràng biểu hiện vai trò của công tác thực hiện kiểm soát hành vi xâm phạm QCN.
32
Thực tế cho thấy rằng có rất nhiều hành vi xâm phạm QCN trong các lĩnh vực dân
sự. Do tính chất đặc biệt của lĩnh vực TTDS, việc xâm phạm quyền và lợi ích chủ
yếu được tập trung vào nhóm quyền dân sự, kinh tế, văn hóa và xã hội. Người bị
xâm phạm quyền và lợi ích muốn được bảo vệ sẽ phải tiến hành khởi kiện tại Tòa
án. VKSND sẽ đảm bảo việc bảo vệ quyền lợi hợp pháp ngay từ khi Tòa án nhận
đơn khởi kiện. Đồng thời, vai trò giám sát hoạt động của Tòa án cũng được thực
hiện bởi cơ quan VKSND và có quyền yêu cầu Tòa án tuân thủ đúng theo các điều
khoản pháp luật khi quyền của các bên bị xâm phạm.
Xử lý hành vi vi phạm QCN
Trong khuôn khổ của quyền hạn và nhiệm vụ được ủy quyền bởi nhà nước,
hoạt động của VKSND thông qua THQCT và KSHĐTP có trách nhiệm xử lý các vi
phạm đến QCN một cách kịp thời và nghiêm minh (quy định tại điểm đ khoản 2
Điều 4 Luật Tổ chức VKSND năm 2014). Do đó, VKSND có trách nhiệm bảo vệ
quyền lợi của công dân khi xử lý các hành vi phạm tội hoặc các hành vi xâm hại
nghiêm trọng đến tính mạng, danh dự, uy tín... cá nhân hoặc tổ chức. Trong hoạt
động TTDS, chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tố tụng
của Tòa án để đảm bảo mọi vi phạm pháp luật trong hoạt động tố tụng phải được xử
lý nghiêm minh, kịp thời. Do đó, khi các vụ việc dân sự được giải quyết, nếu có vi
phạm của Tòa án trong xét xử và làm ảnh hưởng, xâm hại đến quyền lợi của bên
đương sự, VKSND có quyền xử lý theo quy định.
Khôi phục quyền, lợi ích hợp pháp của người bị vi phạm
Bảo vệ QCN là hành vi được xác lập theo mong muốn và yêu cầu của nhà
nước, cá nhân, chủ thể trong xã hội với mục tiêu bảo vệ các quyền, lợi ích chính
đáng của chủ thể bị xâm phạm. Việc bảo vệ QCN chỉ được thực hiện khi nó được
nhà nước đại diện hoặc mỗi cá nhân, công dân trong xã hội nhận thấy cần thiết, có
nhu cầu và yêu cầu thực hiện các hoạt động bảo vệ để đảm bảo QCN được tôn trọng
và thi hành trên thực tiễn. Trái lại, nếu chính nhà nước và chủ thể của QCN không
có nhu cầu, không yêu cầu bảo vệ QCN, thì hoạt động này sẽ không được tiến hành
trong đời sống xã hội. Qua đó có thể hiểu nhu cầu và yêu cầu bảo vệ là vô cùng cấp
33
thiết, quan trọng nhất, nó sẽ trực tiếp ảnh hưởng đến nhà nước và mỗi cá nhân, công
dân trong xã hội thực hiện hoạt động bảo vệ QCN. Nhà nước cũng như cá nhân sẽ
thực hiện hoạt động bảo vệ quyền công dân khi từng chủ thể trên đã nhận thức rõ
được hành vi có nguy cơ đe doạ gây phương hại hoặc là hành vi đã xâm hại QCN.
Khi họ nhận thức rõ hành vi này sẽ đe doạ hoặc xâm hại các quyền, lợi ích hợp
pháp của mỗi cá nhân, công dân thì nhà nước, cá nhân sẽ thực hiện những hoạt động
cần thiết để đấu tranh, ngăn chặn và hạn chế những hành vi ảnh hưởng tiêu cực đến
QCN. Khi quyền của từng cá nhân, công dân bị xâm phạm thì họ luôn có nhu cầu
được bảo vệ, đó vừa là mong muốn tự thân, cũng là trách nhiệm của nhà nước và xã
hội trong đấu tranh với các hành vi xâm hại QCN nhằm bảo đảm duy trì sự ổn định
và tiến bộ của xã hội, cũng như khôi phục lại những quyền, lợi ích chính đáng của
công dân. Trên thực tế, nhà nước sẽ chỉ thực hiện hoạt động bảo vệ QCN của cá
nhân khi cá nhân đề nghị hoặc trừ khi nhà nước cảm thấy thật sự cấp bách cũng như
thể hành vi tội phạm gây tổn hại hoặc đe doạ gây tổn hại đến lợi ích của nhà nước.
Với tư cách là cơ quan bảo vệ pháp luật, nhiệm vụ đặc biệt trong hoạt động tố tụng
được giao cho VKSND. Trong TTDS, khi đương sự yêu cầu khởi kiện, thì Tòa án
sẽ thụ lý giải quyết. Do đó, hoạt động bảo vệ QCN của VKSND là hoạt động được
thực hiện bằng quyền lực nhà nước dựa trên sự tự nguyện và chủ động của người có
nhu cầu được bảo vệ.
Quá trình khôi phục quyền không chỉ là để bảo vệ những quyền mà còn nhằm
tái thiết lại lợi ích do quyền đó mang lại đã bị mất hoặc sẽ mất do hành vi vi phạm
luật [18, tr. 45]. Hoạt động vận dụng pháp luật khôi phục QCN là việc áp dụng các
công cụ, phương thức và hành vi nhất định nhằm ép buộc các chủ thể đã xâm hại
QCN phải thi hành. Khi mỗi cá nhân, đương sự bị hành vi trái pháp luật trong quan
hệ dân sự thì họ có quyền khởi kiện, đề nghị Toà án giải quyết và họ sẽ trở thành
chủ thể của quan hệ pháp luật TTDS, họ sẽ được pháp luật bảo hộ trong việc khởi
kiện nhằm khôi phục lại, đòi lại những thứ đã bị mất, đã bị xâm phạm. Với vai trò
hiến định KSHĐTP, kiểm sát TTDS, VKSND có trách nhiệm, quyền hạn kiểm sát
việc giải quyết các vụ việc dân sự, bảo đảm mọi hành vi đều đúng theo qui định của
34
pháp luật và thực hiện quyền bảo vệ lợi ích chính đáng của công dân. Qua đó, phạm
vi, cách thức, mức độ quyền, lợi ích đối với từng chủ thể có yêu cầu khôi phục sẽ
được xác định thông qua VKSND. Đồng thời, VKSND cũng sẽ thực hiện khôi phục
khi có điều kiện nhằm bắt buộc các chủ thể khác tự nguyện khôi phục lại quyền và
lợi ích chính đáng của cá nhân khi họ không tuân theo hoặc làm tổn hại đối với
người có quyền. Mục tiêu là nhằm khôi phục lại quyền và lợi ích chính đáng của
mỗi cá nhân, quyền công dân vì lợi ích của quốc gia, dân tộc.
1.2.2.2 Hình thức bảo vệ QCN thông qua hoạt động kiểm sát giải quyết các
vụ việc dân sự
Việc bảo vệ QCN trong hoạt động tố tụng cần phải được thực hiện, VKSND
sẽ phải tiến hành việc ban hành văn bản như yêu cầu, kháng nghị, kiến nghị để
TAND khắc phục vi phạm pháp luật trong quá trình giải quyết các vụ việc dân sự.
Trong phạm vi thẩm quyền của mình, VKSND các cấp có nhiệm vụ và quyền hạn
để phát hiện mọi vi phạm pháp luật của Tòa án. Tùy thuộc vào mức độ vi phạm,
VKSND sẽ ban hành kiến nghị, kháng nghị, yêu cầu khắc phục kịp thời. Đây cũng
là cách thức bảo vệ QCN trong hoạt động tố tụng. Mục đích của điều này là đảm
bảo rằng các vụ việc dân sự được giải quyết theo đúng luật và góp phần bảo vệ hiệu
quả các QCN trong hoạt động TTDS trong thực tiễn. Theo quy định của pháp luật,
VKSND có thể áp dụng các biện pháp để hạn chế, ngăn chặn và loại bỏ vi phạm
pháp luật, từ đó bảo vệ quyền lợi hợp pháp của người tham gia vào hoạt động tố
tụng.
a. Thông qua hoạt động kiểm sát việc trả lại đơn khởi kiện, đơn yêu cầu
Quy định về quyền khởi kiện tại Tòa án nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức, đồng thời cũng có quy định về việc trả đơn khởi
kiện và đơn yêu cầu trong trường hợp không tuân theo luật định. Việc trả lại đơn
khởi kiện, đơn yêu cầu mà không tuân theo quy định sẽ gây ảnh hưởng tiêu cực tới
quyền lợi hợp pháp của người liên quan. Do đó, việc kiểm sát chặt chẽ việc trả lại
các đơn này là trách nhiệm của VKS nhằm bảo vệ quyền lợi hợp pháp của người
liên quan và để đảm bảo rằng Thẩm phán có thể xem xét và giải quyết các vụ án
35
theo đúng quy định của pháp luật. Khoản 1 Điều 192 BLTTDS năm 2015 đã bổ
sung, quy định rõ một số trường hợp trả đơn khởi kiện. Cụ thể, trong trường hợp
người khởi kiện không ghi đầy đủ, cụ thể những nội dung của đơn khởi kiện theo
quy định tại Điều 189 BLTTDS 2015 hoặc ghi không đúng tên, địa chỉ của người bị
kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan mà không sửa chữa, bổ sung theo yêu
cầu của Thẩm phán thì Tòa án sẽ trả lại đơn khởi kiện. Đặc biệt BLTTDS 2015 đã
bổ sung trường hợp trong đơn khởi kiện, người khởi kiện đã ghi đầy đủ và đúng địa
chỉ nơi cư trú của người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan nhưng họ
không có nơi cư trú ổn định, thường xuyên thay đổi nơi cư trú, trụ sở mà không
thông báo địa chỉ mới cho cơ quan, người có thẩm quyền theo quy định của pháp
luật về cư trú làm cho người khởi kiện không biết được nhằm mục đích che giấu địa
chỉ, trốn tránh nghĩa vụ đối với người khởi kiện thì Thẩm phán không trả lại đơn
khởi kiện mà xác định người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan cố tình
giấu địa chỉ và tiến hành thụ lý, giải quyết theo thủ tục chung. Khi trả lại đơn khởi
kiện, đơn yêu cầu và các tài liệu, chứng cứ kèm theo cho người khởi kiện, Tòa án
phải có văn bản ghi rõ lý do trả lại đơn khởi kiện, đơn yêu cầu đồng thời gửi cho
VKSND cùng cấp. Đương sự có quyền khởi kiện, VKS có quyền kiến nghị với Toà
án xem xét việc trả lại đơn khởi kiện, đơn yêu cầu.
Sau khi nhận được thông báo về việc trả lại đơn khởi kiện, đơn yêu cầu của
Toà án cùng cấp, Viện trưởng VKS phân công KSV, KTV xem xét, giải quyết,
kiểm sát, vào sổ kiểm sát việc trả lại đơn khởi kiện, đơn yêu cầu hợp lệ. Khi cần
thiết thì thực hiện quyền yêu cầu theo quy định tại điểm c khoản 2 Điều 20 và Điều
21 TTLT số 02/2016. Trường hợp xét thấy việc Tòa án trả lại đơn khởi kiện không
có căn cứ thì báo cáo, đề xuất Viện trưởng để thực hiện quyền kiến nghị với Tòa án
đã trả lại đơn khởi kiện theo quy định tại khoản 1 Điều 194 BLTTDS. Trường hợp
không đồng ý với quyết định trả lời khiếu nại, kiến nghị về việc trả lại đơn khởi
kiện của Thẩm phán, trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày nhận được quyết định, VKS
cùng cấp thực hiện quyền kiến nghị với Chánh án Tòa án trên một cấp trực tiếp theo
quy định tại khoản 6 Điều 194 BLTTDS. Trường hợp có căn cứ xác định quyết định
36
giải quyết khiếu nại, kiến nghị của Chánh án Tòa án trên một cấp trực tiếp có vi
phạm pháp luật thì trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày nhận được quyết định, VKS
có quyền kiến nghị với Chánh án TAND cấp cao nếu quyết định bị khiếu nại, kiến
nghị là của Chánh án TAND cấp tỉnh hoặc với Chánh án TAND tối cao nếu quyết
định bị khiếu nại, kiến nghị là của Chánh án TAND cấp cao. Quyết định của Chánh
án TAND cấp cao hoặc của Chánh án TAND tối cao là quyết định cuối cùng. Trong
những trường hợp mà thông báo về việc trả lại đơn khởi kiện, đơn yêu cầu cho VKS
hoặc về nội dung, hình thức thông báo không được gửi đầy đủ hoặc chậm trễ theo
quy định của pháp luật bởi Toà án, VKS có quyền yêu cầu và kiến nghị Tòa án sửa
chữa vi phạm.
b. Thông qua hoạt động kiểm sát việc thụ lý, giải quyết vụ việc dân sự
Khoản 2 Điều 58 BLTTDS 2015 quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của KSV
khi được Viện trưởng VKS phân công thực hiện kiểm sát việc tuân theo pháp luật
trong TTDS đó là kiểm sát việc thụ lý, giải quyết vụ việc dân sự. Quy định trên nêu
rõ VKS tiến hành kiểm sát việc tuân theo pháp luật đối với việc thụ lý giải quyết các
vụ việc dân sự. Đồng thời, thực hiện quyền yêu cầu, kiến nghị, kháng nghị theo quy
định của pháp luật ngay từ khi Toà án đã thụ lý vụ, việc dân sự. Theo quy định,
VKS có trách nhiệm kiểm sát việc Toà án thụ lý vụ, việc dân sự. Trong quá trình
thụ lý giải quyết vụ việc dân sự, VKSND kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Toà
án, của Thẩm phán, Thư ký Toà án, người được giao giải quyết các vụ việc dân sự
và những người tham gia tố tụng nhằm đảm bảo quyết định thụ lý của Toà án được
chính xác, khách quan và đúng pháp luật.
c. Thông qua hoạt động nghiên cứu hồ sơ, yêu cầu xác minh, thu thập tài
liệu, chứng cứ
Xuất phát từ chức năng KSHĐTP của VKS, BLTTDS năm 2015 quy định về
thẩm quyền xác minh, thu thập tài liệu, chứng cứ của VKS, bổ sung so với
BLTTDS năm 2004 như sau: KSV khi được Viện trưởng phân công thực hiện kiểm
sát việc tuân theo pháp luật trong TTDS có nhiệm vụ, quyền hạn “Yêu cầu Tòa án
xác minh, thu thập chứng cứ trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự theo quy định
37
của Bộ luật này; thu thập tài liệu, chứng cứ theo quy định tại khoản 6 Điều 97 của
Bộ luật này” (khoản 3 Điều 58). VKS thu thập tài liệu, chứng cứ để bảo đảm cho
việc thực hiện thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái
thẩm (khoản 6 Điều 97).
Yêu cầu là hình thức thực hiện quyền của VKSND trong hoạt động KSHĐTP
đối với những chủ thể hữu quan nhằm đảm bảo việc thực hiện chức trách, quyền
hạn của VKSND. Một số yêu cầu thường được VKSND thực hiện bao gồm: Yêu
cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân thực hiện hoạt động tư pháp theo đúng quy định của
pháp luật hoặc tự kiểm tra việc thực hiện hoạt động tư pháp theo thẩm quyền và báo
cáo kết quả về VKSND; Yêu cầu xuất trình chứng cứ, tài liệu do VKSND chứng
minh sự đúng đắn của từng hành vi, quyết định trong hoạt động tư pháp; Yêu cầu,
đề nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền phát hiện, xử lý các vi phạm pháp
luật đối với hoạt động tư pháp. Do vậy, hoạt động của VKSND thực hiện các yêu
cầu trên theo quy định của pháp luật cũng là một trong những hình thức đảm bảo
QCN đối với hoạt động TTDS của VKSND.
Sau khi nhận được hồ sơ vụ việc do Tòa án chuyển qua, cán bộ, KSV được
Lãnh đạo phân công kiểm sát giải quyết vụ việc dân sự tiến hành nghiên cứu toàn
bộ hồ sơ vụ việc. Việc nghiên cứu hồ sơ giúp KSV nắm đầy đủ nội dung vụ án (bao
gồm quan hệ pháp luật tranh chấp, thành phần tham gia và tư cách pháp lý của
đương sự, các yêu cầu của đương sự); nắm vững hệ thống tài liệu, chứng cứ và các
tình tiết của vụ án; Xác định các vi phạm pháp luật tố tụng của Thẩm phán và
những người tham gia tố tụng để xây dựng để cương hỏi và phát biểu ý kiến tại
phiên tòa; Làm cơ sở cho việc thực hiện thẩm quyền yêu cầu, kiến nghị nhằm kịp
thời khắc phục các vi phạm pháp luật, góp phần bảo đảm cho việc giải quyết vụ án
kịp thời, đúng pháp luật. Thời gian nghiên cứu hồ sơ vụ án của KSV tối đa là 15
ngày kể từ ngày nhận được hồ sơ vụ án. Khi nghiên cứu hồ sơ vụ án, kiểm sát việc
xác minh, thu thập tài liệu, chúng cứ, KSV, KTV kiểm sát về trình tự, thủ tục, về
nguồn chứng cứ, bảo đảm tài liệu, chứng cứ được thu thập hợp pháp, khách quan,
đầy đủ, làm cơ sở cho việc giải quyết vụ án đúng pháp luật.
38
d. Thông qua hoạt động tham gia phiên tòa, phiên họp và phát biểu quan
điểm của KSV về việc giải quyết các vụ việc dân sự
Điều 21 BLTTDS năm 2015 đã được quy định rõ về trường hợp VKSND
tham gia phiên tòa, phiên họp giải quyết vụ việc dân sự, đồng thời được quy định
rằng VKS tham gia phiên tòa sơ thẩm trong trường hợp Toà án không được từ chối
giải quyết vụ việc dân sự với lý do không có điều luật để giải quyết. Cụ thể: VKS
tham gia các phiên họp sơ thẩm đối với các việc dân sự; phiên tòa sơ thẩm đối với
những vụ án do Tòa án tiến hành thu thập chứng cứ hoặc đối tượng tranh chấp là tài
sản công, lợi ích công cộng, QSDĐ, nhà ở hoặc có đương sự là người chưa thành
niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự,
người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi hoặc trường hợp Tòa án không
được từ chối giải quyết vụ việc dân sự vì lý do chưa có điều luật để áp dụng theo
quy định tại khoản 2 Điều 4 BLTTDS năm 2015. Điều đáng chú ý là lần đầu tiên Bộ
luật này quy định rằng trong trường hợp VKS viên được phân công tham dự phiên
tòa, phiên họp sơ thẩm hoặc phiên tòa, phiên họp phúc thẩm mà không có mặt, Hội
đồng xét xử vẫn tiếp tục quá trình xét xử mà không hoãn phiên tòa, trừ khi VKS có
kháng nghị phúc thẩm. Quy định trên góp phần đảm bảo cho việc xét xử, giải quyết
vụ án dân sự được kịp thời, hiệu quả, tăng cường trách nhiệm của KSV và của
VKSND. Sự tham gia của VKS vào phiên tòa, cuộc họp giải quyết vụ việc dân sự là
biểu hiện của vị trí và vai trò quan trọng của VKS trong hệ thống TTDS. Qua đó,
niềm tin vào công lý của người liên quan và cộng đồng được củng cố, góp phần
quan trọng trong việc bảo vệ quyền lợi và lẽ phải trong TTDS khi có sự tham gia
của VKS.
Hoạt động phát biểu quan điểm của VKS tại phiên toà sơ thẩm: Để đảm bảo
sự thống nhất với Hiến pháp năm 2013 và Luật Tổ chức VKSND năm 2014, Luật
Tổ chức TAND năm 2014, việc bổ sung quy định về phát biểu của KSV tại phiên
toà sơ thẩm đã được thực hiện để khắc phục những hạn chế và bất cập của quy định
tại Điều 234, BLTTDS năm 2004 và Điều 262 BLTTDS năm 2015: “Sau khi những
người tham gia tố tụng phát biểu tranh luận và đối đáp xong, KSV phát biểu ý kiến
39
về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký Toà án,
người tham gia TTDS trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước
khi Hội đồng xét xử nghị án, phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án”. Dưới góc độ
khoa học pháp luật và thực tiễn xét xử các vụ việc dân sự ở nước ta hiện nay, việc
quy định cho phép VKSND được tham gia sâu hơn đối với quá trình giải quyết vụ
việc dân sự, đồng thời quy định cho phép KSV phát biểu ý kiến của VKS đối với
quá trình giải quyết vụ việc dân sự tại phiên toà, là hoàn toàn phù hợp và có tính
khả thi cao trên các khía cạnh sau đây: KSV tham gia phát biểu quan điểm của VKS
đối với quá trình giải quyết vụ án không có nghĩa là Hội đồng xét xử chỉ theo ý kiến
hay phải dựa trên ý kiến của KSV, ngược lại còn làm phong phú thêm các quan
điểm, đường lối giải quyết vụ án, đưa ra các luận cứ, tình tiết trên cơ sở nghiên cứu
vụ án để Hội đồng xét xử có thêm cơ sở phục vụ cho việc xem xét toàn diện, đưa ra
quyết định sau cùng đối với vụ việc dân sự. Do vậy, ý kiến phát biểu của KSV về
đường lối giải quyết vụ án không ảnh hưởng đến tính độc lập trong việc xét xử của
Toà án theo nguyên tắc Toà án xét xử độc lập và luôn tuân theo pháp luật. Ý kiến
này chỉ là một góp ý để Hội đồng xét xử tham khảo, cũng như ý kiến của đại diện
đương sự. Qua đó, các ý kiến này góp phần bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
các đương sự, đảm bảo cho mọi hoạt động trước, trong và sau phiên toà, phiên họp
được thực hiện theo đúng quy định của pháp luật. Đồng thời, quyền và lợi ích chính
đáng của đương sự và những người tham gia tố tụng khác được được bảo vệ. Thực
tế xét xử cho thấy, KSV phát biểu quan điểm của VKS về đường lối giải quyết vụ
việc tại phiên toà phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm đã đem lại hiệu quả cao đối
với công tác giải quyết vụ việc dân sự; bên cạnh đó, góp phần nâng cao trách nhiệm
của VKSND khi tham gia phiên toà, phiên họp sơ thẩm giải quyết vụ việc dân sự.
Bởi vậy, bản thân từng KSV khi phát biểu ý kiến về đường lối giải quyết vụ việc
dân sự tại phiên toà, phiên họp sơ thẩm cũng đặt vấn đề “trách nhiệm” của mình
trước pháp luật và tại cơ quan, đơn vị mình.
Hoạt động phát biểu của KSV khi tham gia phiên tòa xét xử vụ án dân sự có
vai trò quan trọng trong công tác kiểm sát việc giải quyết vụ án dân sự; thể hiện trực
40
tiếp, chính thức, tập trung, phản ánh rõ ràng và đầy đủ kết quả hoạt động kiểm sát
việc giải quyết vụ án dân sự; góp phần củng cố vai trò, vị trí của VKSND trong
TTDS, thể hiện trách nhiệm của KSV VKSND đối với xã hội và nhân dân; là cơ sở
quan trọng để Tòa án xem xét ban hành bản án, quyết định giải quyết vụ án dân sự
có căn cứ và đúng pháp luật; là phương thức tuyên truyền, phổ biến pháp luật, nâng
cao nhận thức pháp luật của người tham gia tố tụng và nhân dân; là cơ sở để nhân
dân thực hiện giám sát trực tiếp đối với các hoạt động của VKSND trong quá trình
giải quyết vụ án dân sự.
e. Thông qua hoạt động kiểm sát bản án, quyết định giải quyết vụ việc dân sự
Công tác kiểm sát bản án, quyết định của Tòa án là một trong những nhiệm
vụ, quyền hạn của VKSND khi kiểm sát việc giải quyết vụ việc dân sự được quy
định tại khoản 5 Điều 27 Luật Tổ chức VKSND năm 2014. Trên cơ sở đó, VKS có
thẩm quyền kháng nghị, kiến nghị bản án, quyết định của Tòa án có vi phạm pháp
luật; kiến nghị, yêu cầu Tòa án, cơ quan, tổ chức, cá nhân thực hiện hoạt động tố
tụng (khoản 7 Điều 27 Luật Tổ chức VKSND).
Theo quy định của BLTTDS, VKS thực hiện quyền kiểm sát đối với các
quyết định sau: Quyết định chuyển vụ án dân sự cho Tòa án khác (Điều 41); Quyết
định nhập hoặc tách vụ án (Điều 42); Quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện
pháp khẩn cấp tạm thời (Điều 140); Quyết định tiếp tục giải quyết vụ án dân sự
(Điều 216); Quyết định đưa vụ án ra xét xử (Điều 220); Quyết định hoãn phiên tòa
(Điều 233)… Khi nhận được các quyết định trên, KSV, KTV được phân công phải
vào sổ thụ lý theo từng loại quyết định, lập phiếu kiểm sát để kiểm tra tính có căn
cứ và hợp pháp của quyết định như: thời hạn Tòa án gửi quyết định cho VKS, trình
tự, thủ tục, nội dung, hình thức của các quyết định theo đúng hướng dẫn tại Quy chế
công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ việc dân sự của Viện trưởng VKSND Tối
cao (gọi tắt là Quy chế 364). Trường hợp phát hiện vi phạm phải kịp thời báo cáo
Lãnh đạo Viện để xem xét thực hiện quyền yêu cầu, kiến nghị theo quy định pháp
luật.
41
Đối với việc kiểm sát các quyết định: Quyết định công nhận sự thỏa thuận
của các đương sự (Điều 212); tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự (Điều 214); đình
chỉ giải quyết vụ án dân sự (Điều 217); bản án sơ thẩm (Điều 266 đến Điều 269)
được thực hiện theo quy định tại Điều 16, 17, 18 và Điều 26 Quy chế 364. Khi nhận
được các quyết định, bản án nói trên, KSV, KTV phải lập phiếu kiểm sát, kiểm sát
chặt chẽ về thời hạn gửi, căn cứ, thẩm quyền ban hành, nội dung, hình thức của bản
án, quyết định. Nếu xét thấy cần phải nghiên cứu hồ sơ vụ việc thì yêu cầu Tòa án
chuyển hồ sơ theo quy định tại Điều 5 Thông tư liên tịch số 02/2016. Trường hợp
phát hiện vi phạm thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm để xem xét kháng nghị
hoặc kiến nghị theo thẩm quyền. Trường hợp đã hết thời hạn kháng nghị của VKS
cùng cấp thì báo cáo Lãnh đạo VKS cấp trên trực tiếp xem xét kháng nghị phúc
thẩm theo thẩm quyền. Khi xét thấy cần thiết phải thu thập tài liệu, chứng cứ để bảo
đảm cho việc kháng nghị phúc thẩm, KSV, KTV báo cáo Lãnh đạo Viện để thực
hiện quyền thu thập tài liệu, chứng cứ theo quy định tại khoản 6 Điều 97 BLTTDS.
Trường hợp bản án, quyết định sơ thẩm đã có hiệu lực pháp luật mà phát hiện vi
phạm nghiêm trọng hoặc có tình tiết mới làm thay đổi cơ bản nội dung bản án,
quyết định thì KSV, KTV đề xuất với Lãnh đạo Viện để báo cáo VKS có thẩm
quyền xem xét kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm.
Thực tế đã chứng minh rằng, việc phát hiện vi phạm khi nghiên cứu và kiểm
sát bản án, quyết định giải quyết các vụ việc dân sự trong của Tòa án chủ yếu là các
vụ, việc không được kiểm sát bởi VKS và không có sự tham gia của VKS vào phiên
tòa xét xử. Điều này đòi hỏi KSV phải có năng lực chuyên môn, nghiệp vụ vững
vàng, cũng như thường xuyên nghiên cứu và tích lũy kinh nghiệm thực tiễn vì
những vi phạm trong bản án, quyết định không phản ánh được đầy đủ các tình tiết
khách quan của vụ án nên khó phát hiện vi phạm trên thực tế. Việc thực hiện công
tác này một cách chặt chẽ sẽ đóng góp vào việc nâng cao số lượng và chất lượng
các kháng nghị, kiến nghị của VKS, từ đó đảm bảo quyền lợi hợp pháp của các
đương sự.
42
g. Thông qua kiến nghị, kháng nghị bản án, quyết định của Tòa án có vi
phạm pháp luật
Kiến nghị:
Kiến nghị là cách thức VKSND thực hiện quyền trong quá trình kiểm sát các
hoạt động tư pháp. Việc sử dụng kiến nghị được VKSND áp dụng trong những
trường hợp khi phát hiện vi phạm pháp luật trong việc giải quyết các vụ việc dân sự
mà chưa đạt đến mức cần thiết phải kháng nghị, hoặc khi phát hiện nguyên nhân và
điều kiện gây ra vi phạm pháp luật của các cơ quan, tổ chức, đơn vị liên quan cần áp
dụng biện pháp phòng ngừa. Cụ thể, hành vi, quyết định nào của cơ quan, tổ chức,
cá nhân trong hoạt động tư pháp có vi phạm ít nghiêm trọng mà không thuộc trường
hợp phải kháng nghị thì bị VKSND kiến nghị yêu cầu khắc phục và xử lý người vi
phạm. Nếu có sơ hở, thiếu sót trong hoạt động quản lý, VKSND sẽ kiến nghị cơ
quan, tổ chức liên quan để khắc phục và áp dụng biện pháp ngăn chặn việc vi phạm
pháp luật và tội phạm. Việc VKSND ban hành kiến nghị đối với các cơ quan hữu
quan được coi là một biện pháp bảo vệ QCN trong quá trình tố tụng. Thực tế cho
thấy, sự hiệu quả của việc bảo vệ QCN trong hoạt động TTDS được thể hiện thông
qua việc kiến nghị được ban hành với số lượng và chất lượng cao.
Luật Tổ chức VKS năm 2014 quy định cụ thể, rõ ràng và chặt chẽ về chế định
kiến nghị hơn so với Luật Tổ chức VKSND các năm 1960, 1981 và năm 2002. Tại
điểm c, khoản 3, Điều 4 Luật Tổ chức VKSND năm 2014 quy định: “Khi thực hiện
chức năng KSHĐTP, VKSND có nhiệm vụ, quyền hạn sau đây: Kiến nghị cơ quan,
tổ chức, cá nhân có thẩm quyền khắc phục, xử lý nghiêm minh vi phạm pháp luật
trong hoạt động tư pháp; kiến nghị cơ quan, tổ chức hữu quan áp dụng các biện
pháp phòng ngừa vi phạm pháp luật và tội phạm.” Tại khoản 2 Điều 5 Luật Tổ
chức VKSND năm 2014 quy định: “Trường hợp hành vi, quyết định của cơ quan, tổ
chức, cá nhân trong hoạt động tư pháp có vi phạm pháp luật ít nghiêm trọng không
thuộc trường hợp kháng nghị quy định tại khoản 1 Điều này thì VKSND kiến nghị
cơ quan, tổ chức, cá nhân đó khắc phục vi phạm và xử lý nghiêm minh người vi
phạm pháp luật; nếu phát hiện sơ hở, thiếu sót trong hoạt động quản lý thì kiến
43
nghị cơ quan, tổ chức hữu quan khắc phục và áp dụng các biện pháp phòng ngừa vi
phạm pháp luật và tội phạm. Cơ quan, tổ chức cá nhân có liên quan có trách nhiệm
xem xét, giải quyết, trả lời kiến nghị của VKSND theo quy định của pháp luật”. Tại
khoản 7 Điều 27 Luật Tổ chức VKSND năm 2014 quy định: “Nhiệm vụ, quyền hạn
của VKSND khi kiểm sát việc giải quyết vụ án hành chính, vụ việc dân sự, hôn nhân
và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động và những việc khác theo quy định
của pháp luật: Kháng nghị, kiến nghị bản án, quyết định của Tòa án có vi phạm
pháp luật; kiến nghị, yêu cầu Tòa án, cơ quan, tổ chức, cá nhân thực hiện hoạt
động tố tụng”.
Ngày 02/01/2020 VKSND tối cao ban hành Hướng dẫn công tác kiểm sát giải
quyết các vụ, việc dân sự, hôn nhân gia đình năm 2020 số 02/HD/VKS-TC. Trong
đó có nêu nhiệm vụ cụ thể và giải pháp thực tiễn trong công tác kiến nghị, cụ thể:
“VKS các cấp tập trung đẩy mạnh và nâng cao chất lượng công tác kiến nghị đảm
bảo đạt và vượt tỷ lệ kiến nghị được chấp nhận theo Nghị quyết của Quốc hội.
Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, VKS các cấp có trách nhiệm nghiên cứu, phát
hiện, tổng hợp những vi phạm pháp luật của Tòa án để thực hiện quyền kiến nghị
yêu cầu Tòa án khắc phục vi phạm theo đúng quy định của pháp luật. Cần chú
trọng phát hiện những vi phạm của các cơ quan, tổ chức khác, nhất là các cơ quan
quản lý nhà nước về đất đai, trong đó tập trung vào công tác lập hồ sơ và cấp giấy
chứng nhận QSDĐ; việc lưu trữ... để kiến nghị đối với các cơ quan tổ chức đó thực
hiện các biện pháp khắc phục, phòng ngừa vi phạm nhằm bảo đảm sự tuân thủ
pháp luật. Tiếp tục thực hiện tốt việc quản lý, báo cáo, đánh giá chất lượng kiến
nghị để phục vụ hoạt động giám sát của Quốc hội tại các kỳ họp”. Những quy định,
hướng dẫn trên là cơ sở cho việc thực hiện quyền kiến nghị khi thực hiện chức năng
kiểm sát trong hoạt động tư pháp trong TTDS.
Kháng nghị:
Kháng nghị phúc thẩm dân sự là quyền năng pháp lý của VKSND trong quá
trình KSHĐTP được quy định trong Luật Tổ chức VKSND năm 2014 (khoản 7,
Điều 27) và BLTTDS năm 2015 (Điều 278), nhằm “Bảo vệ pháp luật, bảo vệ QCN,
44
QCD, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi
ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, góp phần bảo đảm pháp luật được chấp hành
nghiêm chỉnh và thống nhất” (khoản 2 Điều 2 Luật Tổ chức VKSND và khoản 2
Điều 13 BLTTDS).
Kháng nghị của VKSND bao gồm: Kháng nghị các quyết định, bản án của
TAND theo trình tự thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm hoặc tái thẩm; kháng nghị
với Toà án cùng cấp và cấp dưới, yêu cầu cơ quan tổ chức, cá nhân có liên quan
khắc phục những vi phạm pháp luật đối với việc ban hành quyết định, bản án của
Toà án. Kháng nghị cũng là một biện pháp cần thiết nhằm thi hành chức trách,
quyền hạn của VKSND, kháng nghị cũng là một biện pháp bảo đảm QCN đối với
hoạt động tư pháp. Trong trường hợp xảy ra vụ việc, bản án hoặc quyết định được
thực hiện bởi cơ quan hoặc cá nhân có thẩm quyền trong việc tiến hành các hoạt
động tố tụng có hậu quả vi phạm pháp luật nghiêm trọng, gây tổn thất đến quốc gia,
lợi ích của nhà nước và quyền lợi chính đáng của cộng đồng hay cá nhân, thì
VKSND phải tiến hành kháng nghị. Cơ quan, cá nhân có thẩm quyền phải chấp
hành kháng nghị của VKSND theo qui định của pháp luật.
Với tầm quan trọng đặc biệt đó, VKSND tối cao ban hành Chỉ thị số 10/CT-
VKSTC, ngày 06/4/2016 về, “Tăng cường công tác kháng nghị phúc phẩm, giám
đốc thẩm, tái thẩm các vụ việc dân sự, vụ án hành chính”; Chỉ thị số 07/CT-
VKSTC, ngày 21/8/2021 về, “Tăng cường công tác kháng nghị phúc phẩm, giám
đốc thẩm, tái thẩm các vụ án hành chính, vụ việc dân sự” (thay thế Chỉ thị số
10/CT-VKSTC, ngày 06/4/2016) và Hướng dẫn số 33/HD-VKSTC ngày
17/10/2019 về, “Phát hiện vi phạm của bản án, quyết định sơ thẩm giải quyết các
vụ, việc dân sự, thực hiện thẩm quyền kháng nghị ngang cấp theo thủ tục phúc thẩm
nhằm giảm tỷ lệ bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm bị Tòa án cấp phúc
thẩm hủy có trách nhiệm của VKS ngang cấp; đồng thời, nâng cao tỷ lệ, chất lượng
kháng nghị phúc thẩm của VKS ngang cấp”.
Kháng nghị bản án, quyết định dân sự là hoạt động tố tụng của người tiến
hành tố tụng có thẩm quyền thể hiện quan điểm phản đối bản án, quyết định dân sự
45
mà Toà án đã tuyên trước đó, yêu cầu Toà án có thẩm quyền xét xử lại. Kháng nghị
phúc thẩm là quyền hạn mà pháp luật quy định duy nhất đối với VKSND để kháng
nghị những bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật của Toà án cùng
cấp và cấp dưới trực tiếp khi thấy có vi phạm pháp luật nghiêm trọng nhằm đề nghị
Toà án giải quyết lại theo trình tự phúc thẩm để bảo đảm yêu cầu xét xử vụ án theo
quy định của pháp luật, đảm bảo lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích chính đáng
của đương sự. Quy định của Điều 278 trong BLTTDS quy định rằng: Bản án sơ
thẩm, quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự, quyết định đình chỉ giải
quyết vụ án dân sự của Tòa án cấp sơ thẩm có thể bị kháng nghị bởi Viện trưởng
VKS cùng cấp và cấp trên trực tiếp để yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm giải quyết lại
theo thủ tục phúc thẩm. Quy định của BLTTDS về người có quyền kháng nghị theo
thủ tục phúc thẩm dân sự là đặc điểm để phân biệt với kháng nghị giám đốc thẩm và
tái thẩm dân sự. Viện trưởng VKSND có quyền kháng nghị phúc thẩm hoặc kháng
nghị giám đốc thẩm, tái thẩm. Tuy nhiên, kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm của
Viện trưởng VKSND được thực hiện đối với các bản án, quyết định đã có hiệu lực
pháp luật và bản án, quyết định đó có sai lầm, vi phạm pháp luật hoặc phát hiện có
tình tiết mới. Còn kháng nghị phúc thẩm của Viện trưởng VKSND được áp dụng
trong trường hợp bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật. Điều 282
BLTTDS ghi nhận: Bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm hoặc những phần
bản án sơ thẩm, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị thì
chưa được đưa ra thi hành, trừ trường hợp pháp luật quy định cho thi hành ngay.
Xuất phát từ nguyên tắc bảo đảm phần bản án, quyết định sơ thẩm không bị kháng
nghị có giá trị thi hành, đồng thời bảo đảm cho việc xử lý vụ việc kịp thời, nhanh
chóng theo quy định pháp luật, BLTTDS yêu cầu Toà án cấp sơ thẩm phải xem xét
lại nội dung của bản án, quyết định sơ thẩm có kháng cáo, kháng nghị nếu có ảnh
hưởng đến quá trình xem xét phần kháng cáo, kháng nghị (Điều 293 BLTTDS).
46
1.3. Các điều kiện đảm bảo tăng cường trách nhiệm của VKSND trong bảo
vệ QCN
1.3.1. Bảo đảm các giá trị cơ bản của Nhà nước pháp quyền XHCN:
Thượng tôn pháp luật, pháp luật là tối cao: Mọi tổ chức, cá nhân trong xã
hội, kể cả các cơ quan nhà nước, đều phải tuân thủ pháp luật. Pháp luật phải được
xây dựng dựa trên nguyên tắc công bằng, dân chủ và minh bạch. Mọi công dân đều
bình đẳng trước pháp luật, không có sự phân biệt đối xử dựa trên bất kỳ tiêu chí nào
như giới tính, dân tộc, tôn giáo, hay địa vị xã hội. Thượng tôn pháp luật là nguyên
tắc căn bản của hệ thống pháp luật. VKSND cần thực hiện trách nhiệm của mình
dựa trên cơ sở của pháp luật, không có sự chênh lệch, tiên lượng, hay chi phối từ bất
kỳ cá nhân hay tổ chức nào khác. Việc thực hiện công việc theo pháp luật giúp đảm
bảo quyền lợi, tự do và bình đẳng của con người.
Bảo vệ QCN và quyền công dân: Nhà nước có trách nhiệm bảo đảm các
QCN cơ bản được tôn trọng và bảo vệ, bao gồm quyền sống, quyền tự do, quyền an
toàn, quyền bình đẳng, và các quyền dân sự, chính trị, kinh tế, xã hội và văn hóa.
Các quyền và nghĩa vụ của công dân phải được quy định rõ ràng trong pháp luật và
được bảo đảm thực hiện đầy đủ, bao gồm quyền bầu cử, quyền ứng cử, quyền tự do
ngôn luận, quyền tự do hội họp, và quyền khiếu nại, tố cáo. VKSND cần đảm bảo
việc bảo vệ QCN và quyền công dân theo đúng quy định của pháp luật. VKSND
cần kiên quyết đấu tranh với các hành vi vi phạm QCN và quyền công dân, bảo vệ
và thúc đẩy sự công bằng và bình đẳng cho mọi công dân.
Phân chia quyền lực và kiểm soát lẫn nhau: Quyền lực nhà nước cần được
phân chia rõ ràng giữa các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp. Mỗi cơ quan có
chức năng và quyền hạn riêng biệt, đồng thời có cơ chế kiểm soát lẫn nhau để ngăn
chặn sự lạm quyền. Cơ chế kiểm soát và cân bằng quyền lực phải được thiết lập một
cách hiệu quả để đảm bảo rằng không có cơ quan hoặc cá nhân nào có thể lạm
quyền hoặc vi phạm pháp luật. VKSND cần được đảm bảo độc lập và không có sự
can thiệp từ bất kỳ tổ chức hay cá nhân nào khác. Tuy nhiên, việc này không có
nghĩa là VKSND được hoạt động hoàn toàn độc lập. Việc kiểm soát lẫn nhau giữa
47
các cơ quan chức năng như VKSND, Tòa án và Công an nhân dân giúp đảm bảo
quyền lực không bị lạm dụng và công lý được thực hiện đúng đắn.
Tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa: Pháp chế xã hội chủ nghĩa là cơ sở
để đảm bảo quyền lợi và lợi ích chung của người dân. Hệ thống pháp luật cần được
hoàn thiện, đồng bộ và nhất quán, đảm bảo tính minh bạch, dễ hiểu và khả thi. Các
quy định pháp luật phải phản ánh đúng các giá trị cơ bản của xã hội chủ nghĩa. Pháp
luật cần được sử dụng như một công cụ chủ yếu để quản lý và điều hành các hoạt
động của nhà nước, bảo đảm sự công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình của
các cơ quan nhà nước. VKSND cần tăng cường vai trò của mình trong việc xây
dựng, sửa đổi và thực hiện pháp chế xã hội chủ nghĩa. Việc này đòi hỏi không chỉ
khả năng sử dụng và áp dụng pháp luật mà còn cần trang bị kiến thức chuyên môn,
nắm vững tình hình xã hội và có khả năng đưa ra quyết định công bằng.
1.3.2. Bảo đảm mục tiêu xây dựng nền tư pháp chuyên nghiệp, hiện đại,
công bằng, nghiêm minh, liêm chính, phụng sự Tổ quốc, phục vụ Nhân dân
Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ tư pháp: Để đảm bảo mục tiêu xây
dựng một nền tư pháp chuyên nghiệp, việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ tư
pháp là yếu tố then chốt. Cần thiết phải có các chính sách đào tạo, bồi dưỡng nguồn
nhân lực pháp lý. Đồng thời, cần đầu tư vào việc tạo điều kiện để cán bộ tư pháp có
cơ hội tiếp cận với các khóa đào tạo, học bổng để nâng cao trình độ chuyên môn và
kiến thức pháp lý. Sự chuyên nghiệp và am hiểu sâu sắc về pháp luật sẽ giúp cán bộ
tư pháp có khả năng thực thi công bằng và nghiêm minh. Cán bộ tư pháp cần được
đào tạo bài bản, liên tục cập nhật kiến thức pháp luật mới và các kỹ năng chuyên
môn cần thiết. Đảm bảo cán bộ tư pháp có đạo đức nghề nghiệp cao, ý thức trách
nhiệm, công tâm, và luôn đặt lợi ích của Tổ quốc và Nhân dân lên hàng đầu. Quy
trình tuyển dụng, bổ nhiệm cán bộ tư pháp cần được thực hiện minh bạch, công
bằng, dựa trên năng lực và phẩm chất đạo đức.
Hiện đại hóa hệ thống tư pháp: Việc hiện đại hóa hệ thống tư pháp không
chỉ giúp nhanh chóng giải quyết các vấn đề pháp lý mà còn tạo điều kiện thuận lợi
cho người dân tiếp cận công lý. Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong
48
quản lý hồ sơ, tra cứu pháp luật, giải quyết tranh chấp, quản lý và hoạt động tư pháp
để nâng cao hiệu quả, tính minh bạch và sự tiện lợi cho người dân. Đơn giản hóa
thủ tục hành chính, giảm thiểu thời gian và chi phí cho người dân và doanh nghiệp
khi tiếp cận dịch vụ tư pháp. Thực hiện quy trình tư pháp trực tuyến sẽ giảm thiểu
tối đa thủ tục phức tạp, đồng thời tăng cường minh bạch và minh chứng số trong
hoạt động tư pháp.
Bảo đảm tính công bằng và nghiêm minh trong xét xử: Bảo đảm sự độc lập
của các tòa án trong xét xử, không chịu sự can thiệp của bất kỳ cơ quan, tổ chức hay
cá nhân nào. Mọi hành vi vi phạm pháp luật phải được xử lý nghiêm minh, không
có sự phân biệt đối xử, đảm bảo tính răn đe và giáo dục. Tăng cường công khai,
minh bạch trong các hoạt động xét xử, đảm bảo quyền được thông tin của người dân
và xã hội. Để đảm bảo tính công bằng và nghiêm minh trong quá trình xét xử,
VKSND cần tăng cường sự minh bạch trong quy trình đưa ra các quyết định truy tố,
kháng nghị. Việc xây dựng hệ thống giám sát chặt chẽ, đánh giá công bằng kết quả
xét xử cũng đóng vai trò quan trọng. Ngoài ra, việc đề cao nguyên tắc tiến hành xét
xử công bằng, minh bạch, phải kiểm soát chặt chẽ việc sử dụng thông tin, chứng cứ
để đảm bảo quá trình tư pháp diễn ra một cách công bằng, minh bạch nhất.
Phụng sự Tổ quốc và phục vụ Nhân dân: Mục tiêu cao cả nhất của nền tư
pháp là phục vụ Tổ quốc, phục vụ Nhân dân. Mọi hoạt động của ngành tư pháp phải
lấy lợi ích của Nhân dân làm trung tâm, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của
người dân được bảo vệ một cách tốt nhất. Cải thiện khả năng tiếp cận của người dân
đối với các dịch vụ tư pháp, đảm bảo mọi người đều có quyền tiếp cận công lý một
cách công bằng và thuận lợi. Để đạt được mục tiêu này, VKSND cần đa dạng hóa
các hình thức phục vụ, tạo điều kiện thuận lợi cho người dân tiếp cận công lý. Việc
tổ chức các chương trình tư vấn pháp lý, cung cấp thông tin pháp luật đến cộng
đồng sẽ giúp tăng cường nhận thức pháp lý cho người dân, đồng thời tăng cường
lòng tin và sự hỗ trợ từ phía VKSND.
Hợp tác quốc tế: Tích cực học hỏi kinh nghiệm từ các quốc gia có nền tư
pháp phát triển, áp dụng những thực tiễn tốt nhất phù hợp với điều kiện Việt Nam.
49
Việc thúc đẩy hợp tác quốc tế trong lĩnh vực tư pháp không chỉ mở rộng tầm nhìn,
nâng cao trình độ chuyên môn cho cán bộ tư pháp mà còn mang lại cơ hội tiếp cận
với những tiêu chuẩn quốc tế, giúp cải thiện hoạt động tư pháp theo hướng chuyên
nghiệp và hiện đại hơn. Qua việc học hỏi kinh nghiệm quốc tế, VKSND có thể áp
dụng những phương pháp tiên tiến, hiệu quả trong quá trình xây dựng nền tư pháp
chất lượng và phục vụ tốt nhất cho Nhân dân.
1.3.3. Bảo đảm thực hiện có hiệu quả chức năng, nhiệm vụ của VKSND
Hoàn thiện khung pháp lý: Cần hoàn thiện hệ thống pháp luật liên quan đến
QCN, đảm bảo rõ ràng, minh bạch và khả thi. Đặc biệt, cần có các quy định cụ thể
về trách nhiệm và quyền hạn của VKSND trong việc bảo vệ QCN. Việc này cần
được thúc đẩy thông qua việc đẩy mạnh việc thẩm định, kiểm tra và hoàn thiện các
văn bản điều chỉnh hoạt động của cơ quan kiểm sát. Đồng thời, cần phối hợp chặt
chẽ với các cơ quan chức năng khác để xây dựng và điều chỉnh các quy định pháp
lý liên quan đến hoạt động kiểm sát, tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho sự hoạt động
của VKSND. Đảm bảo rằng các quy định pháp luật của Việt Nam phù hợp với các
công ước quốc tế về QCN mà Việt Nam đã tham gia ký kết.
Đào tạo và nâng cao năng lực cho cán bộ của VKSND: Một yêu cầu quan
trọng khác trong việc tăng cường trách nhiệm của VKSND là đào tạo và nâng cao
năng lực cho cán bộ, công chức của VKS. Để bảo vệ QCN một cách chính xác và
hiệu quả, cán bộ, công chức cần phải có kiến thức sâu rộng về pháp luật, đặc biệt là
pháp luật về QCN cũng như các kỹ năng điều tra và xử lý các vụ việc liên quan đến
vi phạm QCN. Việc đầu tư vào đào tạo và phát triển năng lực của cán bộ sẽ giúp họ
thực hiện nhiệm vụ của mình một cách chuyên nghiệp. Tăng cường nhận thức về
tầm quan trọng của việc bảo vệ QCN trong toàn bộ hệ thống VKSND, đảm bảo cán
bộ kiểm sát có ý thức trách nhiệm cao trong thực hiện nhiệm vụ.
Tăng cường công tác kiểm sát: VKSND cần thực hiện tốt vai trò giám sát
việc tuân thủ pháp luật của các cơ quan nhà nước, tổ chức, cá nhân, đảm bảo rằng
các QCN được tôn trọng và bảo vệ đúng pháp luật. Cần chú trọng đến việc xây
dựng kế hoạch kiểm sát chi tiết, minh bạch và hiệu quả; đồng thời, thực hiện kiểm
50
tra, giám sát việc thực hiện kế hoạch một cách nghiêm ngặt, kịp thời. Đảm bảo mọi
hành vi vi phạm pháp luật đều được phát hiện, xử lý một cách nhanh chóng và công
bằng, tạo sự tin tưởng từ phía công dân và xã hội đối với cơ quan kiểm sát. Thiết lập
các cơ chế giám sát chặt chẽ để theo dõi việc thực hiện QCN trong các hoạt động
điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án. Thực hiện kiểm tra định kỳ và đột xuất để
phát hiện và khắc phục kịp thời các sai phạm, bảo đảm sự liêm chính và minh bạch
trong hoạt động của VKSND.
Tăng cường hợp tác quốc tế và học hỏi kinh nghiệm: Tăng cường hợp tác với
các tổ chức quốc tế về QCN để học hỏi kinh nghiệm, nhận hỗ trợ kỹ thuật và đào
tạo. Nghiên cứu và áp dụng các thực tiễn tốt từ các quốc gia khác vào hoạt động bảo
vệ QCN của VKSND.
Đẩy mạnh công tác truyền thông và giáo dục pháp luật: Tăng cường công
tác truyền thông, giáo dục pháp luật về QCN, cần xây dựng kế hoạch truyền thông
rõ ràng, đa dạng, kịp thời và hiệu quả, nhằm nâng cao nhận thức của công dân về
vai trò, chức năng của cơ quan kiểm sát. Đồng thời, cần tăng cường công tác giáo
dục pháp luật, giúp người dân nắm vững pháp luật, thúc đẩy ý thức tuân thủ pháp
luật và tích cực tham gia vào việc ngăn chặn, xử lý các hành vi vi phạm pháp luật.
Công khai các hoạt động của VKSND liên quan đến việc bảo vệ QCN để tạo niềm
tin và sự ủng hộ của xã hội.
Phát triển cơ sở vật chất và công nghệ: Cần đầu tư vào việc xây dựng, nâng
cấp cơ sở vật chất hiện đại đáp ứng yêu cầu công tác kiểm sát, đồng thời tăng cường
ứng dụng công nghệ thông tin vào quá trình kiểm sát và giám sát. Việc này giúp
nâng cao hiệu suất làm việc, tối ưu hóa quá trình xử lý vụ án, cũng như tăng cường
khả năng phòng, chống tội phạm hiệu quả. Xây dựng cơ sở dữ liệu và hệ thống
thông tin liên kết cho VKSND. Thông qua việc quản lý và cập nhật dữ liệu một
cách hiệu quả, Viện có thể nắm bắt tình hình, xu hướng của các vấn đề liên quan
đến bảo vệ QCN. Hệ thống thông tin liên kết cũng giúp Viện có khả năng truy cứu
thông tin nhanh chóng, từ đó đảm bảo việc thực thi pháp luật đúng mức và kịp thời.
51
Thúc đẩy sự minh bạch và truy cứu trách nhiệm của VKSND: Minh bạch và
truy cứu trách nhiệm là yếu tố then chốt trong việc tăng cường trách nhiệm của
VKSND. Viện cần công khai thông tin về các hoạt động giám sát, kết quả đánh giá,
cũng như những biện pháp xử lý các vi phạm pháp luật liên quan đến QCN. Chỉ
thông qua sự minh bạch và truy cứu trách nhiệm, Viện có thể xây dựng niềm tin từ
phía công dân và xã hội, đồng thời nâng cao uy tín và hiệu quả của mình.
Tiểu kết chương 1
Chương 1 đã trình bày khái niệm, bản chất, cơ chế, nội dung quy định của
pháp luật về bảo vệ QCN. Đồng thời, vai trò, chức năng và nhiệm vụ của VKSND
trong tư cách là người bảo vệ QCN trong hoạt động TTDS cũng được xác định rõ
ràng. Đặc biệt, đã chỉ rõ được khái niệm giải quyết và kiểm sát giải quyết các vụ
việc dân sự, ý nghĩa của lĩnh vực này trong bảo vệ QCN. Qua đó, nội dung và hình
thức bảo vệ QCN trong hoạt động TTDS của VKSND đã được xác định cụ thể như
sau: Chủ thể và quyền của chủ thể sẽ được bảo vệ; việc phát hiện, ngăn chặn, xử lý
và truy cứu hành vi vi phạm QCN, cũng như khôi phục quyền lợi ích hợp pháp của
người bị vi phạm. Hình thức bảo vệ QCN trong hoạt động tố tụng của VKSND xuất
phát từ nhiệm vụ và quyền hạn của VKSND, thông qua các biện pháp như ban hành
quyết định, kháng nghị, kiến nghị và yêu cầu. Việc đưa ra các vấn đề lý luận về lĩnh
vực TTDS trong việc bảo vệ QCN liên quan chặt chẽ đến vai trò, chức năng và
nhiệm vụ của VKSND. Điều này giúp xác định và làm rõ sự khác biệt giữa các
phương thức bảo vệ QCN trong hoạt động TTDS của VKSND. Như vậy, những vấn
đề lý luận về bảo vệ QCN trong hoạt động TTDS đã được trình bày tại chương 1
của luận văn. Những luận điểm khoa học như khái niệm, nguồn gốc, bản chất, cơ
chế bảo vệ và quy chế pháp lý về QCN đã được khái quát. Vai trò, chức năng và
nhiệm vụ của VKSND trong việc bảo vệ QCN thông qua hoạt động kiểm sát giải
quyết các vụ việc dân sự cũng đã được nêu rõ. Khái niệm, thẩm quyền kiểm sát giải
quyết các vụ việc dân sự, nội dung, hình thức và phương thức bảo vệ QCN trong
hoạt động TTDS của VKSND cũng đã được đề cập. Đây là những cơ sở lý luận
chính giúp tác giả đánh giá thực trạng bảo vệ QCN trong hoạt động TTDS của
52
VKSND tỉnh Đắk Lắk hiện nay. Trong đó, cơ sở lý luận chủ yếu để đánh giá thực
trạng bảo vệ QCN trong hoạt động TTDS của VKSND tỉnh Đắk Lắk hiện nay, đó là
đối tượng, cách thức, phương pháp bảo vệ QCN trong hoạt động TTDS của
VKSND.
53
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG THỰC HIỆN TRÁCH NHIỆM CỦA VIỆN
KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỈNH ĐẮK LẮK TRONG BẢO VỆ QUYỀN CON
NGƯỜI THÔNG QUA KIỂM SÁT GIẢI QUYẾT CÁC VỤ VIỆC DÂN SỰ
2.1 Khái quát chung về tình hình các vụ việc dân sự và giải quyết các vụ
việc dân sự tại tỉnh Đắk Lắk
2.1.1 Khái quát chung về các vụ việc dân sự tại tỉnh Đắk Lắk
Tỉnh Đắk Lắk là một tỉnh toạ lạc tại trung tâm khu vực Tây Nguyên, nơi có hệ
thống sông Sêrêpôk và sông Ba hợp lưu. Nền kinh tế chủ đạo của tỉnh Đắk Lắk là
nhờ vào sản xuất và chế biến nông, lâm nghiệp. Tỉnh có tiềm năng về du lịch sinh
thái. Tỉnh Đắk Lắk là nơi mà diện tích trồng cà phê và sản lượng xuất khẩu cà phê
lớn nhất cả nước. Ngoài ra, tỉnh cũng là nơi mà bông, cacao, cao su, điều lớn của
Việt Nam được trồng. Đồng thời, nơi đây cũng là địa điểm phát triển các loại cây ăn
trái khác như sầu riêng, bơ, chôm chôm, xoài và vải… Đắk Lắk có diện tích
13.125,37 km2. Cộng đồng dân cư Đắk Lắk gồm 47 dân tộc. Trong đó, người Kinh
chiếm hơn 70%; các dân tộc thiểu số như Ê Đê, Nùng, M'nông, Thái, Tày, ... chiếm
gần 30% dân số toàn tỉnh. Trên địa bàn tỉnh, không chỉ đồng bào dân tộc sinh sống
ở vùng sâu vùng xa, mà còn có một bộ phận đáng kể dân nhập cư ở các tỉnh phía
Bắc và miền Trung về đây tìm hiểu cơ hội sinh sống và lập nghiệp.
Trong những năm gần đây, dân số của tỉnh Đắk Lắk đã trải qua sự biến đổi do
sự gia tăng tự nhiên, chủ yếu là do di dân tự do. Điều này đã đặt ra thách thức to lớn
đối với địa phương trong việc xử lý vấn đề đất ở, nông nghiệp cùng các vấn đề môi
trường, an ninh quốc phòng và giữ gìn cảnh quan. Nền kinh tế của tỉnh Đắk Lắk
ngày một phát triển và các dự án cơ sở hạ tầng cũng ngày một hoàn thiện góp
phần thúc đẩy phát triển mạnh mẽ tỉnh Đắk Lắk nói riêng cũng như vùng Tây
Nguyên nói chung. Tuy nhiên, bên cạnh sự phát triển của nền kinh tế thì vẫn còn
tồn đọng nhiều khó khăn do có sự khác biệt giữa các vùng miền và sự phân hóa
giàu nghèo nên dẫn đến khả năng nhận thức và thực hiện pháp luật của người dân
còn nhiều hạn chế.
54
Với đặc điểm địa bàn rộng, địa hình phức tạp, cộng đồng dân cư đa dạng, tình
hình tranh chấp dân sự trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk diễn ra khá phổ biến, ngày càng
tăng và phức tạp. Đặc biệt là các quan hệ tranh chấp về hợp đồng như vay tài sản,
hợp đồng mua bán tài sản, hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ - tài sản trên đất, hợp
đồng đặt cọc, tranh chấp hợp đồng giao khoán; yêu cầu tuyên bố văn bản công
chứng vô hiệu; tranh chấp QSDĐ và yêu cầu hủy giấy chứng nhận QSDĐ; tranh
chấp lối đi, kiện đòi đất lấn chiếm; tranh chấp chia di sản thừa kế; kiện đòi tài sản,
yêu cầu bồi thường thiệt hại... Tranh chấp chia tài sản chung sau khi ly hôn, thay
đổi người nuôi con, cấp dưỡng nuôi con, chia tài sản mà nam nữ chung sống với
nhau như vợ chồng, xác định cha cho con,...
2.1.2 Khái quát chung về giải quyết các vụ việc dân sự tại tỉnh Đắk Lắk
Trong thời gian qua, số lượng các loại vụ việc mà các Tòa án phải thụ lý, giải
quyết vẫn tiếp tục tăng với tính chất, mức độ ngày càng phức tạp. Bên cạnh nhiệm
vụ phải làm tốt công tác giải quyết, xét xử các loại vụ việc, đáp ứng yêu cầu cải
cách tư pháp và các chỉ tiêu, yêu cầu theo Nghị quyết của Quốc hội; các cơ quan
Tòa án còn phải tiếp tục tập trung thực hiện tốt Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án;
tổ chức thi hành Nghị quyết của Quốc hội về phiên tòa xét xử trực tuyến...
Theo số liệu thống kê 3 năm gần đây, số vụ việc dân sự tại tỉnh Đắk Lắk đã
giải quyết là 29.639 vụ việc. Về cơ bản, đa số việc giải quyết các vụ việc dân sự
đảm bảo đúng quy định pháp luật, vượt chỉ tiêu của ngành và Quốc hội đề ra kể cả
số lượng và chất lượng đồng thời tạo niềm tin của nhân dân đối với ngành Tư pháp.
Tuy nhiên còn tồn tại một số hạn chế như: việc giải quyết án tranh chấp dân sự liên
quan đến đất đai có nhiều vụ kéo dài thời gian, nhiều vụ án phải tạm đình chỉ chờ
Ủy ban nhân dân và các cơ quan chuyên môn trả lời, cung cấp tài liệu chứng cứ; án
quá thời hạn chuẩn bị xét xử do lỗi của Thẩm phán vẫn còn; công tác phối hợp tổ
chức thẩm định, định giá tài sản, còn chưa kịp thời, việc đo đạc xác định ranh giới,
tứ cận còn có sai sót, không chính xác dẫn đến việc tuyên nội dung chưa chính xác,
không đầy đủ; vẫn còn tình trạng Thẩm phán, Thư ký tinh thần trách nhiệm chưa
cao, còn chủ quan trong việc giải quyết án, việc nắm bắt, vận dụng, áp dụng pháp
55
luật chưa chính xác, không đầy đủ, dẫn đến bản án bị hủy, bị sửa do lỗi chủ quan
chiếm tỷ lệ còn cao, thời gian giải quyết vụ việc còn kéo dài, chưa đáp ứng được
yêu cầu đặt ra.
Phòng kiểm sát giải quyết các vụ, việc dân sự (viết tắt là Phòng 9), là phòng
chuyên môn của VKSND tỉnh Đắk Lắk, có nhiệm vụ kiểm sát việc tuân theo pháp
luật đối với việc giải quyết các vụ, việc dân sự theo thẩm quyền được quy định tại
Luật tổ chức VKSND và BLTTDS. Trong những năm vừa qua Phòng 9 đã thực
hiện tốt chức năng nhiệm vụ cụ thể: Giúp Viện trưởng VKSND tỉnh Đắk Lắk tổ
chức thực hiện nhiệm vụ kiểm sát việc tuân theo pháp luật đối với việc giải quyết
các vụ, việc dân sự của Toà án cùng cấp đối với cấp dưới theo quy định của Luật tổ
chức VKSND và BLTTDS; phát hiện vi phạm và tham mưu giúp lãnh đạo VKS
tỉnh ra các quyết định kháng nghị, kiến nghị thi hành các bản án, quyết định có vi
phạm pháp luật của Toà án nhân dân cùng cấp và cấp dưới. Quản lý tình hình hoạt
động và chỉ đạo, hướng dẫn nghiệp vụ; theo dõi và đôn đốc thực hiện nhiệm vụ
chuyên môn, các chỉ tiêu kế hoạch đối với VKSND các huyện, thị xã, thành phố về
công tác kiểm sát giải quyết các vụ, việc dân sự; Kiểm tra thường xuyên hoặc định
kỳ về chuyên môn nghiệp vụ và việc thực hiện chỉ tiêu kế hoạch công tác đối với
các VKSND cấp dưới. Tập huấn nghiệp vụ, rút kinh nghiệm về công tác kiểm sát
giải quyết các vụ, việc dân sự; trả lời thỉnh thị án và giải đáp các vướng mắc về
nghiệp vụ của các đơn vị huyện, thị xã, thành phố. Xây dựng các chuyên đề nghiệp
vụ theo sự phân công của Lãnh đạo Viện tỉnh và Vụ 9 VKSND tối cao. Trả lời đơn,
thư khiếu nại liên quan đến những vụ, việc dân sự do Toà án giải quyết; kịp thời
phát hiện vi phạm của các bản án, quyết định dân sự để kiến nghị và kháng nghị
theo thẩm quyền.
2.2 Tình hình thực hiện trách nhiệm của VKSND tỉnh Đắk Lắk trong bảo
vệ QCN thông qua hoạt động kiểm sát giải quyết các vụ việc dân sự
2.2.1 Thực trạng trách nhiệm bảo vệ QCN thông qua hoạt động kiểm sát
việc trả lại đơn khởi kiện, đơn yêu cầu
56
BLTTDS 2015, có một quy định mới đối với việc phân công thẩm phán của
Toà án thực hiện việc giải quyết tranh chấp và tổ chức phiên họp về giải quyết
khiếu nại, kiến nghị liên quan đến việc hoàn trả lại đơn khởi kiện, đơn yêu cầu. Qua
đó, cho biết Nhà nước rất quan tâm đến việc bảo đảm quyền và lợi ích chính đáng
của người khởi kiện, người yêu cầu, cũng như giải quyết kiến nghị của VKSND.
Theo đó, VKS có thêm nhiệm vụ tham gia phiên họp giải quyết khiếu nại, kiến nghị
về việc trả lại đơn khởi kiện, đơn yêu cầu.
Nhằm bảo đảm việc kiểm sát chặt chẽ việc trả lại đơn khởi kiện, đơn yêu cầu
của Tòa án theo các quy định, VKSND tỉnh Đắk Lắk đã tiến hành kiểm sát 100%
công việc này, phân công KSV tham gia đầy đủ các phiên họp để đảm bảo tính
chính xác. Mọi kết quả kiểm sát được báo cáo cho VKS cấp trên trong trường hợp
cần kiến nghị Chánh án Tòa án giải quyết.
Thẩm phán trả lại đơn khởi kiện, đơn yêu cầu trong các trường hợp được quy
định tại khoản 1 Điều 192, khoản 1 Điều 364 BLTTDS. Việc Tòa án trả lại đơn
khởi kiện, đơn yêu cầu không đúng quy định pháp luật sẽ xâm phạm đến quyền
khởi kiện vụ án dân sự, yêu cầu giải quyết việc dân sự để yêu cầu Tòa án bảo vệ
quyền con người của đương sự. Những vi phạm của Tòa án trong việc trả lại đơn
khởi kiện, đơn yêu cầu thường được phát hiện qua công tác kiểm sát của VKSND
tỉnh Đắk Lắk như: Trả lại đơn khởi kiện trong trường hợp người khởi kiện có quyền
khởi kiện và có đủ điều kiện khởi kiện theo quy định của pháp luật; Vụ án thuộc
thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhưng Tòa trả lại đơn khởi kiện vì cho rằng
không thuộc thẩm quyền giải quyết; Trả lại đơn trong trường hợp trong đơn khởi
kiện, người khởi kiện đã ghi đầy đủ và đúng địa chỉ nơi cư trú của người bị kiện,
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan nhưng họ không có nơi cư trú ổn định,
thường xuyên thay đổi nơi cư trú, trụ sở mà không thông báo địa chỉ mới cho cơ
quan, người có thẩm quyền theo quy định của pháp luật về cư trú làm cho người
khởi kiện không biết được nhằm mục đích che giấu địa chỉ, trốn tránh nghĩa vụ đối
với người khởi kiện… Vi phạm phổ biến nhất của Tòa án đó là không ghi rõ lý do
trả lại đơn khởi kiện trong văn bản thông báo trả lại đơn khởi kiện, đơn yêu cầu.
57
Như vậy sẽ gây khó khăn cho đương sự và VKSND khi nhận được thông báo trả lại
đơn khởi kiện mà không biết rõ lý do để thực hiện quyền khiếu nại, quyền kiến nghị
theo quy định của luật.
Qua thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình, VKSND khi kiểm sát việc trả
lại đơn khởi kiện, đơn yêu cầu của Tòa án phát hiện những vi phạm trên sẽ yêu cầu,
kiến nghị Tòa án sửa chữa, khắc phục kịp thời các vi phạm. Để kiểm sát chặt chẽ
công tác này, hai cấp ngành KSND tỉnh Đắk Lắk đã thực hiện các công việc cụ thể:
Lập sổ sách riêng để theo dõi việc trả lại đơn khởi kiện, đơn yêu cầu của Tòa án.
Trong đó, lập cụ thể các cột mục như ngày, tháng, năm Tòa án nhận đơn khởi kiện;
Số, ngày, tháng, năm Tòa án ra quyết định trả lại đơn khởi kiện, đơn yêu cầu; Lý do
trả lại đơn khởi kiện, đơn yêu cầu; ngày, tháng, năm Viện kiểm sát nhận được thông
báo trả lại đơn khởi kiện, đơn yêu cầu của Tòa án; Phân công Kiểm sát viên kiểm
sát việc trả lại đơn khởi kiện, đơn yêu cầu của Tòa án; khi phát hiện có vi phạm thì
kịp thời báo cáo đề xuất lãnh đạo có công văn rút hồ sơ lưu tại Tòa án để nghiên
cứu, xem xét việc kiến nghị theo thẩm quyền. Toàn bộ hoạt động này phải được lập
thành hồ sơ, đưa vào lưu trữ đúng quy định và cập nhật kết quả cụ thể vào sổ theo
dõi; Hàng tuần, hàng tháng tăng cường phối hợp với Tòa án trong việc đối chiếu sổ
sách, chốt số liệu những vụ việc Tòa án trả lại đơn khởi kiện, đơn yêu cầu; khi phát
hiện những trường hợp Tòa án đã trả lại đơn khởi kiện nhưng chưa thông báo cho
Viện kiểm sát phải yêu cầu Tòa án khắc phục kịp thời. Qua đó, quyền khởi kiện của
đương sự được bảo vệ, đảm bảo thực hiện đúng theo quy định của pháp luật.
Tuy nhiên, pháp luật quy định về kiểm sát trả đơn khởi kiện còn chưa rõ
ràng, cụ thể dẫn đến hoạt động kiểm sát việc trả đơn khởi kiện của VKS còn gặp
một số khó khăn vướng mắc và chưa thật sự có hiệu quả. Qua việc kiểm tra thực tế
về hoạt động kiểm sát, nhận thấy rằng đã có những trường hợp mà các căn cứ quy
định tại khoản 1 Điều 192 của Bộ luật TTDS đã được áp dụng bởi Tòa án để trả lại
đơn khởi kiện cho đương sự mà chưa chính xác. Đáng lẽ ra, khi trả lại đơn khởi
kiện, Tòa án nên gửi kèm theo văn bản hoặc thông báo rõ ràng lý do trả lại đơn,
nhưng có những trường hợp lại không thực hiện điều này. Sự thiếu minh bạch này
58
gây ra khó khăn cho cả đương sự và VKS trong việc xác định xem lý do trả lại đơn
có hợp lý hay không. Khoản 1 Điều 21 Thông tư liên tịch số 02/2016/TTLT-
VKSNDTC-TANDTC ngày 31/8/2016 của VKSND tối cao, TAND tối cao quy
định việc phối hợp giữa VKSND và TAND trong việc thi hành một số quy định của
BLTTDS thì quy định “Trường hợp VKS cần xem xét kiến nghị việc trả lại đơn khởi
kiện, đơn yêu cầu hoặc sau khi nhận được thông báo mở phiên họp giải quyết khiếu
nại về việc trả lại đơn khởi kiện, đơn yêu cầu thì VKS gửi văn bản yêu cầu Tòa án
cho sao chụp một số hoặc toàn bộ bản sao đơn khởi kiện, đơn yêu cầu và tài liệu,
chứng cứ”. Theo quy định trên thì chỉ trừ trường hợp cần thiết để kiểm sát hoặc giải
quyết tranh chấp thì VKS mới có quyền đề nghị Toà án sao chụp đơn khởi kiện
cùng các tài liệu chứng cứ kèm theo nhưng không phải đối với tất cả trường hợp trả
lại đơn khởi kiện của Toà án, VKS đều có quyền đề nghị sao chụp tài liệu, chứng
cứ. Quy định trên gây khó khăn, trở ngại đối với công tác kiểm sát việc trả lại đơn
khởi kiện và không phát hiện kịp thời sai phạm, khuyết điểm của Toà án cho nên
công tác kiểm sát trả lại đơn khởi kiện hiệu quả không cao. BLTTDS ở khoản 1
Điều 194 chỉ quy định thời hạn kiến nghị của VKS là 10 ngày tính từ ngày nhận
được thông báo trả lại đơn khởi kiện chứ không quy định cụ thể thời hạn bao nhiêu,
tính từ ngày có quyết định trả lại đơn khởi kiện thì Toà án mới chuyển cho VKS hồ
sơ kiểm sát việc trả lại đơn khởi kiện là chưa bảo đảm. Quy định dẫn có thể dẫn đến
việc không thụ lý hoặc thậm chí “lãng quên” VKS sẽ không kiểm sát được ảnh
hưởng đến hiệu quả công tác kiểm sát trả đơn khởi kiện.
2.2.2 Thực trạng trách nhiệm bảo vệ QCN thông qua hoạt động kiểm sát
việc thụ lý, giải quyết vụ việc dân sự
Tại VKSND tỉnh Đắk Lắk, công tác kiểm sát việc thụ lý, giải quyết vụ việc
dân sự được thực hiện một cách chặt chẽ, đảm bảo kiểm sát 100% các vụ án ngay từ
khi Tòa án thụ lý vụ án.
Bảng 2.1: Số liệu kiểm sát thụ lý, giải quyết các vụ việc dân sự:
(Nguồn: Theo số liệu thống kê Báo cáo tổng kết công tác năm 2021, năm
2022, năm 2023 của VKSND tỉnh Đắk Lắk)
59
Đơn vị: vụ, việc
Năm Số vụ việc kiểm sát thụ lý, giải quyết
Sơ thẩm Phúc thẩm
Thụ lý Giải quyết Thụ lý Giải quyết
11.879 8.937 432 337 2021
12.785 9.803 533 358 2022
12.746 9.641 769 563 2023
37.410 28.381 1.734 1.258 Tổng
Giai đoạn sơ thẩm: Sau khi vụ việc dân sự được thụ lý, Tòa án phải gửi
thông báo bằng văn bản cho VKS cùng cấp. Khi thông báo thụ lý được nhận, cán
bộ, KSV được phân công để tiến hành vào sổ thụ lý, lập phiếu kiểm sát, kiểm tra
nội dung và thời hạn ra thông báo theo quy định của Điều 196 và Điều 365 của
BLTTDS năm 2015. KSV thực hiện: Kiểm sát thời hạn ra thông báo thụ lý và nội
dung của thông báo thụ lý. Trong đó chú trọng làm rõ quan hệ pháp luật phát sinh
yêu cầu, tranh chấp. Làm rõ tính hợp pháp của việc khởi kiện, việc yêu cầu. Xác
định người khởi kiện, người yêu cầu có quyền khởi kiện, yêu cầu hay không. Cơ
quan, tổ chức khởi kiện, yêu cầu phải thông qua người đại diện theo quy định của
pháp luật. Việc ủy quyền khởi kiện hoặc ủy quyền yêu cầu phải làm thành văn bản,
trong đó nêu cụ thể nội dung ủy quyền, phạm vi ủy quyền, thời gian ủy quyền theo
quy định của pháp luật. Người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự
thực hiện quyền, nghĩa vụ của người khởi kiện hoặc yêu cầu thông qua người đại
diện theo pháp luật.
Về quan hệ pháp luật mà phát sinh yêu cầu hoặc tranh chấp của đương sự,
KSV xem xét những quan hệ pháp luật đó có thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa
án theo quy định của BLTTDS hay không. Thẩm quyền thụ lý của vụ án được xác
định bởi Tòa án. Việc xem xét vụ án đã được thụ lý, cũng như việc có thẩm quyền
giải quyết vụ án theo quy định của BLTTDS hay không, đều do KSV thực hiện.
60
Nếu sau khi thụ lý, xét thấy vụ, việc dân sự đó không thuộc thẩm quyền giải quyết
của mình thì Tòa án đã thụ lý ra quyết định chuyển hồ sơ cho Tòa án có thẩm quyền
theo quy định tại khoản 1 Điều 41 BLTTDS 2015, đồng thời cũng phải gửi ngay
quyết định chuyển hồ sơ vụ, việc cho VKS cùng cấp biết. Khi nhận được quyết định
chuyển giao hồ sơ cho Toà án có thẩm quyền hoặc quyết định tách (nhập) vụ án,
cán bộ, KSV được giao nhiệm vụ vào sổ kiểm sát theo từng quyết định, lập phiếu
kiểm sát để đánh giá tính chất có cơ sở và hợp pháp của quyết định, nếu có vi phạm
phải đánh giá mức độ của vi phạm và tham mưu lãnh đạo VKS đề nghị Toà án xử lý
theo từng quyết định hoặc tổng hợp kiến nghị chung theo thẩm quyền.
Về xác định thời hiệu khởi kiện hoặc yêu cầu: Điều 184 BLTTDS 2015 quy
định “thời hiệu khởi kiện, thời hiệu yêu cầu giải quyết việc dân sự được thực hiện
theo quy định của Bộ luật Dân sự”; bổ sung nguyên tắc áp dụng thời hiệu, đó là:
Tòa án chỉ áp dụng quy định về thời hiệu theo yêu cầu áp dụng thời hiệu của một
bên hoặc các bên với điều kiện yêu cầu này phải được đưa ra trước khi Tòa án cấp
sơ thẩm ra bản án, quyết định giải quyết vụ việc. Trường hợp pháp luật không có
quy định về thời hiệu yêu cầu thì thời hiệu yêu cầu để Tòa án giải quyết việc dân sự
là một năm, kể từ ngày phát sinh quyền yêu cầu, trừ các việc dân sự có liên quan
đến quyền dân sự về nhân thân của cá nhân thì không áp dụng thời hiệu yêu cầu.
Giai đoạn phúc thẩm, việc thông báo thụ lý vụ án được tiến hành tương tự
như ở giai đoạn sơ thẩm. Sau khi vụ án được thụ lý, thông báo bằng văn bản phải
được gửi cho VKS cùng cấp. Khi nhận được thông báo thụ lý, cán bộ, KSV sẽ được
phân công tiến hành vào sổ thụ lý, lập phiếu kiểm sát và kiểm tra nội dung theo
Điều 285 BLTTDS 2015. Thời hạn ra thông báo thụ lý cũng đặc biệt quan trọng và
KSV cần chú ý đến việc xử lý đơn kháng cáo theo quy định tại Điều 283 BLTTDS
2015, ngoài quy định tại Điều 285 BLTTDS 2015. Đối với đơn kháng cáo, Tòa án
cấp sơ thẩm phải gửi hồ sơ vụ án, đơn kháng cáo và tài liệu, chứng cứ bổ sung kèm
theo cho Tòa án cấp phúc thẩm trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày hết thời
hạn kháng cáo, người kháng cáo đã nộp cho Tòa án cấp sơ thẩm biên lai thu tiền
tạm ứng án phí phúc thẩm. Việc kiểm tra các vấn đề về nội dung thông báo thụ lý
61
cũng đã được tiến hành bởi KSV giống như ở giai đoạn sơ thẩm, bao gồm các nội
dung và quy định về đơn kháng cáo theo Điều 272 BLTTDS 2015, cũng như việc
xem xét quan hệ pháp luật phát sinh tranh chấp và thẩm quyền thụ lý của Tòa án.
Đối với thời hạn kháng cáo, Điều 273 BLTTDS 2015 quy định: Thời hạn
kháng cáo đối với bản án của Tòa án cấp sơ thẩm là 15 ngày, kể từ ngày tuyên án,
thời hạn kháng cáo đối với quyết định tạm đình chỉ, đình chỉ giải quyết vụ án của
Tòa án cấp sơ thẩm là 07 ngày, kể từ ngày đương sự, cơ quan, tổ chức, cá nhân khởi
kiện nhận được quyết định hoặc kể từ ngày quyết định được niêm yết theo quy định
của BLTTDS 2015. Bộ luật cũng bổ sung trường hợp đương sự, đại diện cơ quan, tổ
chức hoặc cá nhân khởi kiện đã tham gia phiên tòa nhưng vắng mặt khi Tòa án
tuyên án mà có lý do chính đáng thì thời hạn kháng cáo được tính từ ngày họ nhận
được bản án hoặc bản án được niêm yết, còn nếu không có lý do chính đáng thì thời
hạn kháng cáo vẫn được tính từ ngày tuyên án. Trong trường hợp phát hiện vụ án bị
sai quy định mà Tòa án tiếp tục giải quyết vụ án đó, VKS sẽ thực hiện quyền kháng
nghị yêu cầu hủy bản án phúc thẩm. Đối với công tác phối hợp, VKS cấp trên sẽ
yêu cầu VKS cấp dưới gửi ngay thông báo kháng cáo của Tòa án cùng cấp sau khi
nhận được để thông tin về việc bản án sơ thẩm có kháng cáo được chuyển đến VKS
cấp trên và theo dõi việc thụ lý và gửi thông báo thụ lý của Tòa án có kịp thời, đầy
đủ và đúng quy định.
Quá trình kiểm sát thông báo thụ lý vụ, việc dân sự của Tòa án được VKSND
hai cấp tỉnh Đắk Lắk thực hiện theo quy trình và đảm bảo tuân thủ quy định của
pháp luật, cụ thể: Sau khi tiếp nhận các thông báo thụ lý của Tòa án cùng cấp
chuyển đến, bộ phận văn thư vào sổ công văn đến, trình lãnh đạo Viện phê duyệt,
sau đó chuyển cho chuyên viên của bộ phận ghi chép vào sổ thụ lý. Sau đó, chuyển
giao cho KSV được phân công để nghiên cứu, lập hồ sơ, kiểm sát thông báo thụ lý.
Do đó, 100% thông báo thụ lý của Tòa án cùng cấp được kiểm sát theo đúng Quy
chế của Ngành. Qua đó phát hiện một số dạng vi phạm của Tòa án thường xảy ra
trong việc thụ lý, giải quyết các vụ việc dân sự như:
62
- Vi phạm trong việc xác định sai quan hệ tranh chấp: Trong vụ án tranh chấp
hợp đồng vay tài sản giữa nguyên đơn và bị đơn có xác lập hợp đồng vay tài sản
không thời hạn và không có lãi. Đây là quan hệ tranh chấp vay tài sản nhưng Tòa án
khi thụ lý giải quyết lại xác định quan hệ tranh chấp là kiện đòi tài sản là chưa chính
xác.
- Vi phạm trong việc giải quyết không hết, không đúng hoặc giải quyết ngoài
phạm vi khởi kiện của đương sự, vượt quá thẩm quyền của Tòa án: Theo quy định
tại Điều 5 BLTTDS, Tòa án chỉ thụ lý giải quyết vụ việc dân sự khi có đơn khởi
kiện, đơn yêu cầu của đương sự và chỉ giải quyết trong phạm vi đơn khởi kiện, đơn
yêu cầu đó. Có một số vụ án Tòa án thực hiện không đúng quy định này. Không thụ
lý hết yêu cầu của đương sự; giải quyết không hết, không đúng hoặc giải quyết
ngoài phạm vi khởi kiện của đương sự, vượt quá thẩm quyền của Tòa án; không
đình chỉ giải quyết yêu cầu đương sự đã rút dẫn đến việc Tòa phúc thẩm phải hủy
án sơ thẩm hoặc hủy một phần bản án, chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa sơ thẩm giải
quyết lại vụ án hoặc phải sửa bản án sơ thẩm.
- Vi phạm trong việc không đưa đầy đủ những người có quyền lợi và nghĩa vụ
liên quan vào tham gia tố tụng: BLTTDS đã quy định về người tham gia tố tụng,
trong đó quy định rõ về nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan... quyền và nghĩa vụ của người tham gia tố tụng. Việc xác định đúng, đủ tư
cách tham gia tố tụng của người người tham gia tố tụng có ý nghĩa quan trọng trong
việc giải quyết đúng đắn vụ án bởi mỗi người tham gia tố tụng có một tư cách tố
tụng riêng biệt và tương ứng với đó là các quyền và nghĩa vụ mà BLTTDS đã quy
định cho họ. Trường hợp xác định sai tư cách tham gia tố tụng hoặc đưa thiếu người
tham gia tố tụng trong vụ án sẽ làm ảnh hưởng trực tiếp đến quyền, nghĩa vụ của họ,
làm họ không có điều kiện để thực hiện các quyền nghĩa vụ tụng của mình. Dẫn đến
việc làm sai lệch bản chất vụ việc, đây được coi là một vi phạm nghiêm trọng thủ
tục tố tụng, Tòa án cấp phúc thẩm phải hủy bản án.
Những vi phạm của Tòa án trong thụ lý, giải quyết các vụ việc dân sự xâm
phạm đến QCN của các đương sự tham gia vào quan hệ TTDS, cụ thể là quyền
63
quyết định và tự định đoạt của đương sự quy định tại Điều 5 BLTTDS, quyền bình
đẳng về quyền và nghĩa vụ trong TTDS… Qua công tác kiểm sát, phát hiện Tòa án
cùng cấp còn để xảy ra thiếu sót như trên, VKSND đã tập hợp để kiến nghị chung,
yêu cầu Tòa án khắc phục và không để xảy ra vi phạm tương tự, từ đó đảm bảo
được quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự.
2.2.3 Thực trạng trách nhiệm bảo vệ QCN thông qua hoạt động nghiên
cứu hồ sơ, yêu cầu xác minh, thu thập tài liệu, chứng cứ
Bảng 2.2: Số liệu kiểm sát giải quyết các vụ việc dân sự
(Nguồn: Theo số liệu thống kê Báo cáo tổng kết công tác năm 2021, năm
2022, năm 2023 của VKSND tỉnh Đắk Lắk)
Tổng giải quyết Số yêu cầu
Sơ thẩm Phúc thẩm Tòa án xác
Năm minh, thu Công nhận Xét xử và Xét xử và Đình thập tài liệu thỏa thuận Đình chỉ mở phiên mở phiên chỉ chứng cứ của đương sự họp họp
4.067 3.123 1.747 37 300 40 2021
4.508 3.515 1.780 47 311 42 2022
4.492 3.338 1.811 23 540 45 2023
13.067 9.976 5.338 107 1.151 127 Tổng
Theo số liệu thống kê bảng trên, trong 03 năm gần đây, hai cấp VKSND tỉnh
Đắk Lắk đã thực hiện nghiên cứu 6.489 hồ sơ vụ việc trước khi Tòa án xét xử.
Nghiên cứu hồ sơ vụ, việc dân sự là bước chuẩn bị có ý nghĩa quan trọng, giúp KSV
chủ động khi tham gia phiên tòa, phiên họp cũng như xác định căn cứ để kiến nghị,
kháng nghị, đảm bảo pháp luật được tuân thủ, góp phần đảm bảo QCN. Thông qua
việc nghiên cứu hồ sơ trước khi tham gia xét xử, KSV đã đề xuất quan điểm, đường
lối giải quyết các vụ án một cách khách quan, toàn diện, đúng theo quy định của
64
pháp luật, từ đó quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự được đảm bảo một
cách có hiệu quả nhất.
Sau khi ban hành Quyết định đưa vụ án ra xét xử, Tòa án chuyển hồ sơ vụ,
việc dân sự ngay cho VKS nghiên cứu. Tuy nhiên, vẫn còn xảy ra tình trạng chậm
chuyển một số hồ sơ có nội dung phức tạp hoặc khi chuyển hồ sơ thiếu tài liệu sau
đó xin bổ sung… làm ảnh hưởng đến việc nghiên cứu hồ sơ của KSV. Khi nhận
được hồ sơ vụ án do Tòa án chuyển đến, KSV báo cáo Lãnh đạo Viện phụ trách và
tiến hành nghiên cứu hồ sơ theo quy định tại Khoản 3 Điều 58 BLTTDS. Khi
nghiên cứu hồ sơ, KSV nắm rõ nội dung vụ việc, lập hồ sơ kiểm sát, trích cứu đầy
đủ, trung thực lời khai của đương sự, các tài liệu, chứng cứ khác... theo đúng hướng
dẫn tại Quy chế công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ việc dân sự và văn bản
Hướng dẫn nghiệp vụ do Viện KSND tối cao ban hành. Quá trình kiểm sát, khi phát
hiện việc Tòa án thu thập chứng cứ giải quyết vụ án chưa đảm bảo, KSV báo cáo
Lãnh đạo Viện để ban hành các yêu cầu thu thập, bổ sung chứng cứ. Việc thu thập
tài liệu, chứng cứ của Tòa án không đảm bảo đúng theo quy định pháp luật sẽ xâm
phạm đến quyền cung cấp tài liệu, chứng cứ, chứng minh để bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của đương sự; quyền đề nghị Tòa án xác minh, thu thập tài liệu, chứng cứ
của vụ việc mà tự mình không thể thực hiện được…
Trong kỳ thống kê, hai cấp VKSND tỉnh Đắk Lắk đã ban hành 127 yêu cầu
xác minh, thu thập chứng cứ được Tòa án chấp nhận, góp phần đảm bảo căn cứ để
giải quyết toàn diện nội dung vụ án, bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của đương sự.
Đa số các yêu cầu của VKS đều được Tòa án chấp nhận và thực hiện đầy đủ theo
quy định. Tuy nhiên, thời gian nghiên cứu hồ sơ của VKS thường là 15 ngày cho
nên việc thực hiện các bước tố tụng yêu cầu Toà án xác minh, thu thập chứng cứ vụ
án sẽ bị hạn chế. Khi không nắm rõ việc thu thập chứng cứ, yêu cầu cung cấp chứng
cứ, tài liệu của từng đương sự hoặc Toà án tự ý xác minh thu thập chứng cứ như
vậy mà KSV yêu cầu Toà án xác minh, thu thập thêm chứng cứ vụ án thì sẽ khó
khăn để Toà án chấp thuận thực hiện nên KSV cần tập hợp để đưa vào phương án
hỏi đương sự, người tham gia tố tụng khác hoặc phát biểu ý kiến về việc tuân theo
65
pháp luật trong việc thu thập chứng cứ, đánh giá chứng cứ của Thẩm phán tại phiên
tòa.
2.2.4 Thực trạng trách nhiệm bảo vệ QCN thông qua hoạt động tham gia
phiên tòa, phiên họp và phát biểu quan điểm của KSV về việc giải quyết các vụ
việc dân sự
VKSND tỉnh Đắk Lắk thực hiện kiểm sát 100% các phiên tòa, phiên họp mà
VKS phải tham gia theo quy định.
Bảng 2.3: Số liệu VKS tham gia phiên tòa, phiên họp:
(Nguồn: Theo số liệu thống kê Báo cáo tổng kết công tác năm 2021, năm
2022, năm 2023 của VKSND tỉnh Đắk Lắk)
Đơn vị: vụ, việc
VKS tham gia phiên tòa, phiên họp Năm Phúc thẩm Sơ thẩm
1.602 300 2021
1.695 311 2022
1.756 540 2023
5.053 1.151 Tổng
Theo số liệu thống kê 03 năm gần đây, tổng số phiên tòa có KSV tham gia
của cả hai cấp VKSND tỉnh Đắk Lắk là 6.204 phiên tòa. Tương ứng với đó là số
lượng Bản phát biểu tại phiên tòa mà KSV phải xây dựng. Nhìn chung, bản phát
biểu ý kiến của KSV tại phiên tòa cơ bản được KSV dự thảo trước khi tham gia
phiên tòa và được xây dựng theo mẫu ban hành kèm theo Quy chế của ngành. Nội
dung dự thảo phát biểu của KSV tại phiên tòa cơ bản đã tổng hợp được quá trình
hoạt động của Tòa án và đánh giá được việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán,
HĐXX, thư ký, các đương sự và những người tham gia tố tụng, từ khi Tòa án thụ lý
vụ án, thời điểm Tòa án chuyển hồ sơ cho VKS nghiên cứu. KSV đã chú trọng
66
nghiên cứu hồ sơ, theo dõi được diễn biến tại phiên tòa để bổ sung nội dung phát
biểu.
VKSND tối cao đã ban hành nhiều văn bản trong đó đã hướng dẫn các hoạt
động của KSV trước, trong và sau phiên tòa; Hướng dẫn hoạt động Phát biểu của
KSV tại phiên tòa. Các quy định được triển khai đầy đủ để vận dụng trong toàn
ngành nên nhiều bản phát biểu có chất lượng, đã phân tích được đầy đủ, cụ thể nội
dung vụ án; đánh giá chứng cứ được khách quan, toàn diện, từ đó đề nghị với Hội
đồng xét xử hướng xử lý tình huống tại phiên tòa và hướng giải quyết vụ án về nội
dung có căn cứ, đúng quy định pháp luật, đảm bảo được quyền lợi ích hợp pháp của
các đương sự. Nhiều bản phát biểu có chất lượng, thuyết phục được HĐXX chấp
nhận quan điểm đề nghị của đại diện VKS tại phiên tòa. Trong thời gian gần đây,
hoạt động này đã ngày càng được thực hiện theo quy định của pháp luật và được
xem xét một cách nghiêm túc. Những phát biểu của KSV tại phiên tòa giải quyết vụ
án dân sự đã có nhiều tiến bộ, và chất lượng của những phát biểu cũng đã được
nâng cao,… Qua đó góp phần đảm bảo các quyền của đương sự như quyền giữ
nguyên, thay đổi, bổ sung hoặc rút yêu cầu theo quy định; Tham gia phiên tòa,
phiên họp theo quy định; Đưa ra câu hỏi với người khác về vấn đề liên quan đến vụ
án hoặc đề xuất với Tòa án những vấn đề cần hỏi người khác; Tranh luận tại phiên
tòa, đưa ra lập luận về đánh giá chứng cứ và pháp luật áp dụng…
Tuy nhiên, vẫn còn không ít trường hợp phát biểu của KSV còn chung
chung, chưa đạt yêu cầu, chưa đầy đủ tình tiết, nội dung vụ án, thậm chí có trường
hợp còn áp dụng không đúng quy định của pháp luật... Mặc dù các quy định, hướng
dẫn liên quan đến hoạt động phát biểu của KSV tại phiên tòa đã được quy định cụ
thể tại Hướng dẫn số 20/HD-VKSTC-V10 ngày 21/3/2021 của VKSND tối cao về
Hoạt động Phát biểu của KSV khi tham gia phiên tòa xét xử vụ án dân sự, kinh
doanh thương mại, lao động và được Phòng 9 - VKSND tỉnh Đắk Lắk triển khai
thực hiện trong toàn ngành; tuy nhiên, qua gần 03 năm thực hiện, thấy rằng, vẫn có
nhiều KSV chưa nắm được đầy đủ tinh thần của các quy định này, hoặc nắm được
quy định nhưng thực hiện chưa tốt; Việc bổ sung nội dung bản phát biểu quan điểm
67
trước khi phát biểu tại phiên tòa sơ thẩm có lúc chưa kịp thời, dẫn đến chất lượng
nhiều Bản phát biểu của KSV tại phiên tòa chưa cao, chất lượng công tác kiểm sát
giải quyết một số vụ án có lúc, có vụ chưa đáp ứng được yêu cầu cải cách tư pháp.
Điển hình là thông qua cuộc thi "Viết bản Phát biểu của KSV tại phiên tòa xét xử
vụ án dân sự" do VKSND tỉnh Đắk Lắk tổ chức đã cho thấy những hạn chế lớn
trong việc xây dựng bản phát biểu của KSV trong toàn ngành kiểm sát nhân dân
tỉnh Đắk Lắk. Điển hình như: về hình thức, một số bản phát biểu còn chưa tuân thủ
đúng hình thức theo mẫu ban hành kèm theo quy chế của Ngành. Về nội dung: một
số bản phát biểu thể hiện chưa đầy đủ diễn biến tại phiên tòa như: Đương sự vắng
mặt nhưng KSV không nhận xét và đánh giá về việc xét xử vắng mặt của đương sự
có đúng không, tại phiên tòa có đương sự vi phạm nội quy phiên tòa, thiếu thủ tục
ủy quyền theo quy định pháp luật, việc xử lý tình huống của hội đồng xét xử đối với
những nội dung, tình tiết mới phát sinh tại phiên tòa… nhưng KSV không bổ sung
vào nội dung bản phát biểu. Phần tố tụng nêu vi phạm vì bỏ sót người tham gia tố
tụng, hoặc chưa đủ căn cứ, cần thu thập thêm tài liệu chứng cứ để giải quyết vụ án,
nhưng đến phần nội dung lại đưa ra quan điểm đề nghị hướng giải quyết nội dung
vụ án và không kiến nghị gì; Một số bản phát biểu tại phiên tòa sơ thẩm không nêu
ra được vi phạm của Tòa án như: vi phạm về thời hạn chuẩn bị xét xử, gửi chậm hồ
sơ cho VKS, vi phạm về tống đạt văn bản tố tụng…; Nhiều bản phát biểu còn dài
dòng về nội dung; có bản phát biểu thể hiện: Không tóm tắt nội dung vụ án, chỉ
trích lại toàn bộ nội dung lời trình bày của các đương sự: “Nguyên đơn trình
bày:…”, “Bị đơn trình bày:…”, “Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan trình
bày:..” và nêu luôn quan điểm về việc chấp nhận hoặc không chấp nhận yêu cầu
khởi kiện của đương sự mà không phân tích, đánh giá gì. Hoặc có bản phát biểu nêu
toàn bộ nội dung các đương sự trình bày sau đó lại tóm tắt nội dung vụ án nên nội
dung phát biểu của KSV tại phiên tòa dài dòng, không tập trung, chưa chặt chẽ, cô
đọng. Hướng đề nghị giải quyết vụ án với Hội đồng xét xử có vụ còn chung chung
không đưa ra các phân tích, lập luận, đánh giá, căn cứ pháp luật để giải quyết vụ án
hoặc nêu sơ sài, lan man nên quan điểm đề nghị chưa có sức thuyết phục với cả Hội
68
đồng xét xử và các đương sự. Có những vụ đề nghị hướng giải quyết vụ án không
đúng quy định của pháp luật như: xác định không đúng đối tượng khởi kiện dẫn đến
phải hủy án, sửa án; đánh giá chứng cứ không đúng phải hủy án, sửa án; xác định
thiếu người tham gia tố tụng; giải quyết vụ án không triệt để... Đó là một số hạn
chế, thiếu sót cơ bản, thường gặp trong xây dựng bản phát biểu của KSV tại phiên
tòa. Tuy nhiên, những thiếu sót này đã làm ảnh hưởng đến hoạt động phát biểu của
KSV tại phiên tòa, ảnh hưởng đến chất lượng công tác kiểm sát của ngành Kiểm sát
nhân dân trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk nói riêng và trong toàn ngành nói chung.
2.2.5 Thực trạng trách nhiệm bảo vệ QCN thông qua hoạt động kiểm sát
bản án, quyết định giải quyết vụ việc dân sự
Theo số liệu thống kê, trong 03 năm gần đây Phòng 9 VKSND tỉnh Đắk Lắk
đã kiểm sát 29.766 bản án, quyết định của Tòa án hai cấp chuyển đến. Qua công tác
kiểm sát bản án, quyết định, VKS hai cấp tổng hợp các vi phạm thường xảy ra như:
- Tranh chấp QSDĐ chưa được hòa giải theo thủ tục tại địa phương. Yêu cầu
giải quyết của người lao động chưa được hòa giải cơ sở (đối với trường hợp phải
qua hòa giải cơ sở). Không đưa đầy đủ người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vào
việc tham gia tố tụng.
- Việc xét xử vắng mặt của các bên liên quan cũng không tuân theo quy
trình; ví dụ như tòa án đã xét xử vắng mặt các bên trong khi triệu tập họ chưa theo
trình tự pháp luật hoặc khi thông tin về nơi ở mới của các bên đã được thông báo
nhưng tòa án vẫn gửi thông báo và các văn kiện liên quan theo điạ chỉ cũ. Bản án
tuyên không tuân theo nguyên tắc công lý, chỉ dựa vào bản sao photocoppy mà
thiếu đi tài liệu gốc; hoặc khi án phạt không phù hợp với các thông tin khách quan
của vụ án hoặc khi việc thu thập chứng cứ chưa hoàn thiện. Cuối cùng là việc chưa
giải quyết hết các yêu cầu khởi kiện, phản tố và yêu cầu của các bên liên quan.
- Việc xác minh về nguồn gốc của đất không được tiến hành, tài liệu đăng ký
kê khai đất qua các thời kỳ không được thu thập, hồ sơ cấp giấy chứng nhận quyền
69
sử dụng đất đai cũng không được kiểm tra. Điều này dẫn đến việc không xác minh
rõ ai là người sử dụng đất, không làm rõ việc thay đổi diện tích của lô đất (nếu có).
- Giải quyết vượt quá phạm vi khởi kiện ban đầu: Trong diện tích 588m2 của
thửa đất, việc tranh chấp tiền bồi thường chỉ liên quan đến phần đất bị thu hồi là
545m2, còn phần diện tích 43m2 không bị thu hồi không gây ra tranh chấp. Tuy
nhiên, quyết định của Tòa án sơ thẩm về việc giải quyết toàn bộ diện tích 588m2 đã
vượt quá phạm vi yêu cầu khởi kiện theo Điều 5 của BLTTDS năm 2015.
- Đối với những vụ án có liên quan đến tài sản tranh chấp, Tòa án không kết
hợp các vụ án để giải quyết chung và cũng không giải thích rõ cho những người liên
quan về việc yêu cầu giải quyết một cách độc lập để đảm bảo sự công bằng và thi
hành án một cách toàn diện và triệt để. Ví dụ: Ông Y bị khởi kiện tranh chấp QSDĐ
bởi ông X. Phần đất mà ông E và ông F, con ông Y sử dụng và xây nhà trên đó sau
khi ông Y qua đời đang gây tranh cãi. Tòa án sơ thẩm chấp nhận yêu cầu của ông X,
buộc những người thừa kế của ông Y phải trả lại đất cho ông X và cho phép ông X
khởi kiện các tài sản trên đất bằng vụ án khác. Tuy nhiên, để giải quyết vụ án một
cách triệt để và đảm bảo việc thi hành án, tòa án cần xem xét và giải quyết yêu cầu
của ông X và ông Y liên quan đến các tài sản hiện có trên đất. Tòa án sơ thẩm đã
không giải thích rõ ràng về quyền yêu cầu này cho các bên liên quan. Tại phiên tòa
phúc thẩm, những người thừa kế của bị đơn đã yêu cầu buộc nguyên đơn phải chịu
chi phí xây dựng các công trình trên đất. Đó yêu cầu mới và nó cần được giải quyết
trong vụ án hiện tại để có thể thi hành án một cách hiệu quả. Tuy nhiên, do phần
quyết định trong bản án không rõ ràng và không cụ thể nên không khả thi để thi
hành.
- Xác định về việc án phí không đúng. Ví dụ: cấp dưỡng nuôi con không
buộc đương sự phải chịu án phí; người cao tuổi không được xem xét miễn án phí;
phần yêu cầu không được chấp nhận không phải chịu án phí theo quy định; Pháp
luật quy định án phí, lệ phí Tòa án năm 2009 không được áp dụng. Thay vào đó,
Nghị quyết số 326/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc
70
hội được sử dụng, điều này đã gây ra sự không chính xác trong việc tính toán số tiền
án phí.
Khi nhận được các quyết định, bản án nói trên, KSV, KTV lập phiếu kiểm
sát, kiểm sát chặt chẽ về thời hạn gửi, căn cứ, thẩm quyền ban hành, nội dung, hình
thức của bản án, quyết định, yêu cầu Tòa án chuyển hồ sơ để nghiên cứu nếu thấy
cần thiết. Khi phát hiện vi phạm, bản án, quyết định sẽ được xem xét kháng nghị
hoặc kiến nghị theo thẩm quyền, tùy theo tính chất và mức độ của vi phạm. Trong
trường hợp hết thời hạn kháng nghị tại cùng cấp VKS, báo cáo sẽ được trình lãnh
đạo cấp trên để xem xét kháng nghị phúc thẩm theo thẩm quyền. Việc kiểm sát chặt
chẽ các bản án, quyết định để phát hiện những vi phạm của Tòa án, từ đó thực hiện
quyền kiến nghị, kháng nghị yêu cầu Tòa án khắc phục vi phạm góp phần đảm bảo
QCN của các đương sự được quy định trong BLTTDS.
Tình hình công tác kiểm sát bản án và quyết định giải quyết vụ việc dân sự
của Tòa án cấp sơ thẩm gần đây đã cho thấy một số thiếu sót như phiếu kiểm sát
ban hành không theo mẫu quy định của VKSND tối cao, thiếu các thông tin yêu cầu
hoặc không có phần kiểm sát của VKS cấp phúc thẩm. Chất lượng kiểm sát bản án
và quyết định còn kém, không phát hiện được vi phạm để yêu cầu kháng nghị hoặc
kiến nghị, gây ra hạn chế trong chức năng của VKSND.
2.2.6 Thực trạng trách nhiệm bảo vệ QCN thông qua kiến nghị, kháng nghị
bản án, quyết định của Tòa án có vi phạm pháp luật
Kiến nghị:
Kết quả thực hiện công tác kiến nghị khi kiểm sát các vụ, việc dân sự: từ
năm 2021 đến năm 2023, hai cấp kiểm sát ngành KSND tỉnh Đắk Lắk đã ban hành
được 84 kiến nghị đối với TAND và các cơ quan hữu quan yêu cầu khắc phục và áp
dụng các biện pháp phòng ngừa vi phạm pháp luật. Nội dung kiến nghị chủ yếu
như:
- Vi phạm thời hạn: giải quyết vụ án, chuẩn bị xét xử, hoãn phiên tòa, gửi hồ
sơ cho VKS cùng cấp chậm.
71
- Vi phạm về việc chậm gửi các văn bản: Thông báo về việc thụ lý vụ án,
Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự, Quyết định tạm đình chỉ,
đình chỉ giải quyết vụ án, Quyết định hoãn phiên tòa, Bản án cho VKS. Ngoài ra, có
một số trường hợp Tòa án không gửi cho VKS. Điển hình, VKSND tỉnh đã ban
hành kiến nghị đối với Chánh án TAND tỉnh Đắk Lắk về việc các TAND cấp
huyện, thị xã, thành phố trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk giải quyết các vụ án dân sự đã có
57 bản án, 31 quyết định vi phạm về việc Tòa án giao Quyết định công nhận thỏa
thuận, Quyết định tạm đình chỉ, Quyết định đình chỉ, Bản án cho VKS cùng cấp
không đúng quy định tại khoản 1 Điều 212, khoản 2 Điều 214, khoản 2 Điều 217,
khoản 2 Điều 269 Bộ luật dân sự.
- Vi phạm trong bản án sơ thẩm: áp dụng không đúng điều luật; không viện
dẫn điểm, khoản của điều luật; áp dụng luật đã hết hiệu lực thi hành; chưa tuyên về
nghĩa vụ nộp các chi phí tố tụng khác; Vi phạm về hình thức.
- Vi phạm về án phí: tính sai án phí; không giải quyết tạm ứng án phí; không
thỏa thuận về nghĩa vụ nộp án phí; giảm án phí không đúng, không miễn án phí;
miễn giảm không đúng, khi các đương sự thỏa thuận được với nhau về việc giải
quyết vụ án trước khi mở phiên tòa nhưng vẫn tuyên buộc chịu 100% án phí sơ
thẩm; nhiều quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự không thể hiện
đương sự đã thỏa thuận về nghĩa vụ nộp án phí; không buộc người có yêu cầu phản
tố hoặc yêu cầu độc lập phải chịu án phí sơ thẩm. Điển hình, VKSND tỉnh đã ban
hành kiến nghị đối với Chánh án TAND tỉnh Đắk Lắk về việc các TAND cấp
huyện, thị xã, thành phố trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk giải quyết các vụ án dân sự đã có
các vi phạm về án phí như:
+ Vi phạm trong việc thu tiền tạm ứng án phí: Vụ án thụ lý sau ngày
01/01/2017 nhưng thu tạm ứng án phí không đúng quy định tại Điều 7, khoản 2
Điều 47 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường
vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí
và lệ phí Tòa án.
72
+ Vi phạm trong việc hoàn trả tiền tạm ứng án phí: Có 19 quyết định, 01 bản
án Tòa án không quyết định cho đương sự được nhận lại tiền tạm ứng án phí còn
thừa hoặc hoàn trả không đầy đủ, không đúng số tiền tạm ứng án phí sau khi khấu
trừ tiền án phí đương sự tự nguyện nộp.
+ Vi phạm về án phí dân sự sơ thẩm: Có 04 bản án, 14 quyết định đã tính
không đúng, không đủ án phí đối với tài sản tranh chấp, giảm tiền án phí không
đúng quy định. Có 12 bản án, quyết định của Tòa án quyết định giảm 50% tiền án
phí cho đương sự và ghi rõ lý do: “có hoàn cảnh kinh tế khó khăn và có đơn xin
giảm án phí được chính quyền địa phương xác nhận” (theo quy định tại khoản 1
Điều 14 Pháp lệnh số 10/2009/PL-UBTVQH12 ngày 27/2/2009) là không đúng quy
định vì từ ngày 01/01/2017 việc giảm án phí phải theo đúng quy định tại khoản 1 và
điểm a khoản 2 Điều 13 Nghị quyết 326.
+ Không buộc đương sự chịu án phí cấp dưỡng nuôi con: Có 11 Quyết định
công nhận thuận tình ly hôn và sự thỏa thuận của các đương sự, Tòa án giải quyết
về cấp dưỡng nuôi con chung, nhưng không buộc đương sự phải chịu án phí cấp
dưỡng nuôi con là vi phạm điểm b khoản 6 Điều 27 Nghị quyết
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.
+ Vi phạm về việc Tòa án không miễn án phí cho đương sự theo quy định:
Tại điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326 quy định về việc miễn nộp tiền tạm
ứng án phí, án phí, tạm ứng lệ phí, lệ phí Tòa án đối với: "Trẻ em; cá nhân thuộc hộ
nghèo, cận nghèo; người cao tuổi; người khuyết tật; người có công với cách mạng;
đồng bào dân tộc thiểu số ở các xã có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn;
thân nhân liệt sĩ được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận gia
đình liệt sĩ". Tuy nhiên, có 26 bản án, 32 quyết định của Tòa án không hướng dẫn
cho đương sự thực hiện việc miễn nộp tạm ứng án phí, án phí cho các đối tượng
được quy định trên, đặc biệt là người cao tuổi, người đồng bào dân tộc thiểu số ở
các xã có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn làm ảnh hưởng đến quyền và
lợi ích hợp pháp của các đương sự.
73
- Không ghi nhận quyền khởi kiện lại trong các Quyết định đình chỉ giải
quyết vụ án dân sự. Tại biểu mẫu số 45-DS ban hành kèm theo Nghị quyết số
01/2017/NQ-HĐTP ngày 13/01/2017 của Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao có
hướng dẫn: Tùy vào từng trường hợp đình chỉ vụ án cụ thể mà ghi hậu quả của việc
đình chỉ giải quyết vụ án theo quy định tại khoản 1 Điều 218 BLTTDS. Tuy nhiên
có nhiều Quyết định đình chỉ giải quyết vụ án Tòa án không ghi hoặc ghi đúng hậu
quả của việc đình chỉ là vi phạm khoản 1 Điều 218 BLTTDS năm 2015. VKSND
tỉnh đã ban hành kiến nghị đối với Chánh án TAND tỉnh Đắk Lắk về việc các
TAND cấp huyện, thị xã, thành phố trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk giải quyết các vụ án
dân sự đã có vi phạm về việc không ghi nhận quyền khởi kiện lại hoặc ghi đúng hậu
quả của việc đình chỉ trong 132 Quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự.
- Vi phạm trong việc không giải thích, hướng dẫn cho đương sự biết về
quyền được yêu cầu trợ giúp pháp lý: Chế định trợ giúp pháp lý đã được ghi nhận là
một trong những nguyên tắc của TTDS. Tại khoản 3 Điều 9 BLTTDS năm 2015 ghi
nhận nguyên tắc: “Nhà nước có trách nhiệm bảo đảm trợ giúp pháp lý cho các đối
tượng theo quy định của pháp luật để họ thực hiện quyền bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp trước Tòa”. Đồng thời tại khoản 6 Điều 48 BLTTDS năm 2015 quy định
nhiệm vụ, quyền hạn của Thẩm phán: “Giải thích, hướng dẫn cho đương sự biết để
họ thực hiền quyền được yêu cầu trợ giúp pháp lý theo quy định của pháp luật về
trợ giúp pháp lý”. Luật trợ giúp pháp lý có hiệu lực từ ngày 01/01/2018 và Thông
tư liên tịch số 10/2018/TTLT-BTP-BCA-BQP-BTC-TANDTC-VKSNDTC ngày
29/6/2018 đã quy định rất cụ thể về hoạt động trợ giúp pháp lý, những người thuộc
diện được trợ giúp pháp lý, quy định về phối hợp thực hiện trợ giúp pháp lý trong
hoạt động tố tụng. Theo đó Thẩm phán cần giải thích để đương sự được biết về
quyền được yêu cầu trợ giúp pháp lý, bản thân đương sự có thuộc trường hợp được
trợ giúp pháp lý hay không? Đương sự có quyền yêu cầu trợ giúp pháp lý hoặc từ
chối. Thẩm phán có trách nhiệm thông báo cho Trung tâm trợ giúp pháp lý trong
trường hợp họ có yêu cầu. Tuy nhiên thông qua công tác kiểm sát giải quyết các vụ
việc dân sự nhận thấy hiện nay nhiều Thẩm phán khi giải quyết vụ án dân sự chưa
74
giải thích về quyền được yêu cầu trợ giúp pháp lý nên không biết để thực hiện
quyền được trợ giúp pháp lý. Quyền được trợ giúp pháp lý cho các đương sự nếu
không được giải thích bởi Thẩm phán sẽ vi phạm nguyên tắc của TTDS đồng thời
ảnh hưởng đến quyền bình đẳng trước pháp luật và quyền được tiếp cận công lý của
người dân. VKSND tỉnh đã ban hành kiến nghị đối với Chánh án TAND tỉnh Đắk
Lắk về việc các TAND cấp huyện, thị xã, thành phố trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk giải
quyết các vụ án dân sự đã có vi phạm nêu trên trong 29 bản án giải quyết vụ án dân
sự.
- Kiến nghị đối với các cơ quan, tổ chức liên quan trong việc phòng ngừa vi
phạm pháp luật trong việc giải quyết các vụ, việc dân sự, hôn nhân và gia đình:
Kiến nghị đối với Chủ tịch UBND huyện về việc xử lý vi phạm và áp dụng biện
pháp phòng ngừa vi phạm pháp luật trong việc chuyển nhượng QSDĐ và cấp giấy
chứng nhận QSDĐ; phòng ngừa vi phạm trong công tác chứng thực, đăng ký kết
hôn; phòng ngừa tình trạng ly hôn trong các tranh chấp về hôn nhân và gia đình,
hạn chế tảo hôn và hôn nhân cận huyết thống trong đồng bào dân tộc thiểu số.
Điển hình: Trong công tác kiểm sát giải quyết các vụ việc dân sự sơ thẩm và
phúc thẩm đối với các vụ án tranh chấp QSDĐ. VKSND các cấp xem xét kiến nghị
khi phát hiện công tác quản lý, chấp hành pháp luật về đất đai trong các hoạt động:
đăng ký, giao đất, cấp Giấy chứng nhận QSDĐ của cơ quan có thẩm quyền còn vi
phạm, thiếu sót. Cụ thể: Thứ nhất, Cấp giấy chứng nhận QSDĐ, sơ đồ kèm theo
không đúng với diện tích được cấp. Dẫn đến người được cấp giấy chứng nhận
QSDĐ căn cứ vào sơ đồ để khởi kiện. Thứ hai, Thủ tục cấp giấy chứng nhận QSDĐ
không theo trình tự quy định của pháp luật về đất đai. Các vụ án này là tranh chấp
QSDĐ giữa bố, mẹ và các con. Uỷ ban nhân dân cấp xã chỉ căn cứ vào tờ kê khai
của con đã xác nhận để làm thủ tục chuyển lên cấp trên, không cần có ý kiến của bố,
mẹ là người đang có giấy chứng nhận QSDĐ. Ủy ban nhân dân huyện cấp giấy
chứng nhận QSDĐ đã tiến hành các thủ tục thẩm định nhưng không phát hiện thiếu
sót để khắc phục dẫn đến vi phạm. Từ những vi phạm này là nguyên nhân xảy ra
tranh chấp trong nội bộ, gây nên bất hoà trong gia đình. Thứ ba, Việc lập hồ sơ cấp
75
giấy chứng nhận, giao đất lâm nghiệp không cụ thể để xảy ra tranh chấp: Các hộ
không được giao đất cụ thể nên làm không đúng lô, thửa, diện tích theo giấy chứng
nhận. Khi lập hồ sơ, giao đất không có quyết định thu hồi các diện tích hộ khác
đang canh tác hoặc ghi đất trống đồi núi trọc nhưng lại có cây rừng trồng. Các hộ
này đã sử dụng đất ổn định nhiều năm, chỉ khi chuyển nhượng kiểm tra lại mới phát
hiện ra là đất không đúng với giấy chứng nhận. Điều này gây khó khăn cho việc thu
thập chứng cứ để giải quyết tranh chấp một cách đúng đắn. Gây nên những tranh
chấp, mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân. Ngoài ra việc các hộ dân sau khi được giao
đất rừng không sử dụng đúng mục đích trồng rừng được giao, nhưng cơ quan có
thẩm quyền không có biện pháp giải quyết xử lý. Thứ tư: Thông qua việc giải quyết
các vụ án nêu trên thấy: Việc lưu trữ hồ sơ, các quyết định cấp giấy chứng nhận
QSDĐ tại cơ quan nhà nước chưa đầy đủ. Người được cấp giấy chứng nhận QSDĐ
trình bày chỉ được nhận giấy chứng nhận còn quyết định cấp giấy chứng nhận thì
không được giao, xác minh tại UBND hai cấp thì không lưu trữ. Điều này gây khó
khăn cho việc khi Toà án tuyên huỷ các quyết định cá biệt. Thứ năm: Trong đơn
đăng ký cấp giấy chứng nhận QSDĐ yêu cầu cấp cho cá nhân. Tuy nhiên trong
Giấy chứng nhận là QSDĐ lại thể hiện cấp cho hộ gia đình, dẫn đến gây khó khăn
cho việc xác định QSDĐ là tài sản riêng hay chung của hộ gia đình. Thứ sáu: Tòa
án có công văn yêu cầu cơ quan có thẩm quyền trong việc cấp Giấy chứng nhận
QSDĐ và lưu trữ hồ sơ cung cấp tài liệu, chứng cứ để giải quyết vụ án. Tuy nhiên
có những vụ án Tòa án đã ra Quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án nhiều năm để
chờ kết quả trả lời của cơ quan có thẩm quyền, nhưng vẫn chưa nhận được công văn
phúc đáp theo yêu cầu.
Đặc biệt, VKSND tỉnh đã ban hành “Thông báo rút kinh nghiệm về việc ban
hành kiến nghị”; trong đó tổng hợp 19 văn bản kiến nghị của 15 đơn vị VKS cấp
huyện và của phòng nghiệp vụ; rút ra 28 dạng vi phạm để các đơn vị cấp huyện
nghiên cứu vận dụng trong việc ban hành văn bản kiến nghị đối với Tòa án khi phát
hiện có vi phạm.
76
Nhìn chung, ngoài những kiến nghị phát hiện kịp thời vi phạm của Tòa án thì
còn một số kiến nghị của VKS cấp huyện chưa chú ý tổng hợp vi phạm để kiến nghị
yêu cầu Tòa án khắc phục, nhất là vi phạm về thời hạn gửi bản án, quyết định,
chuyển hồ sơ cho VKS theo quy định. Chất lượng văn bản kiến nghị nói chung tuy
đã được chú ý nâng lên nhưng thực tế vẫn còn một số văn bản kiến nghị chất lượng
chưa cao, chưa thật sự thuyết phục do nội dung văn bản dài dòng, lập luận thiếu
chặt chẽ, không viện dẫn Điều luật. Tuy nhiên trong Luật Tổ chức VKSND năm
2014 lại không quy định cụ thể thời gian bao nhiêu ngày, các cơ quan, tổ chức cá
nhân có trách nhiệm xem xét, giải quyết, trả lời kiến nghị cho VKSND. Trong các
đạo luật về tư pháp, có một số đạo luật có quy định cụ thể, có đạo luật không quy
định cụ thể hoặc quy định không thống nhất về thời gian mà các cơ quan, tổ chức,
cá nhân được kiến nghị phải trả lời cho VKSND. Vì trên thực tế vẫn có trường hợp
sau khi nhận được kiến nghị các cơ quan không trả lời kiến nghị của VKS, chậm trả
lời kiến nghị nhưng luật vẫn chưa quy định biện pháp cụ thể để khắc phục tình trạng
trên, nên việc thực hiện khắc phục vi phạm chỉ mang tính chất đối phó.
Kháng nghị:
Trong những năm qua, VKSND tỉnh Đắk Lắk đã quán triệt thực hiện nghiêm
túc các văn bản, quy định của VKSND tối cao về công tác kháng nghị phúc thẩm
dân sự; hàng năm trong kế hoạch công tác luôn xác định nhiệm vụ thực hiện quyền
kháng nghị phúc thẩm dân sự là nhiệm vụ trọng tâm, đột phá; đồng thời đề ra nhiều
giải pháp cụ thể, phù hợp để nâng cao hiệu quả, hiệu lực thực hiện quyền kháng
nghị của VKSND hai cấp qua từng năm; số lượng, chất lượng kháng nghị vượt chỉ
tiêu của Ngành và Quốc hội giao. Đa số các kháng nghị đều được chấp nhận, đảm
bảo các bản án của Tòa án được ban hành đúng pháp luật, góp phần bảo vệ lợi ích
của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân và ổn định tình hình
chính trị, xã hội ở địa phương.
Thực hiện Chỉ thị công tác hàng năm của ngành kiểm sát nhân dân và các
Chỉ thị chuyên đề của Viện trưởng VKSND tối cao về tăng cường công tác kháng
nghị phúc phẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm các vụ án hành chính, vụ việc dân sự;
77
VKSND tỉnh Đắk Lắk trong kế hoạch công tác kiểm sát từ năm 2020 đến nay luôn
chọn nhiệm vụ đột phá là:“Nâng cao số lượng, chất lượng kháng nghị phúc thẩm,
tăng cường kháng nghị phúc thẩm ngang cấp”; VKS hai cấp đã thực hiện tốt chức
năng kiểm sát việc thụ lý, giải quyết của Tòa án đối với các vụ án dân sự; chú trọng
nghiên cứu, kiểm sát bản án, quyết định sơ thẩm, kịp thời phát hiện vi phạm để
kháng nghị phúc thẩm; số lượng và chất lượng kháng nghị phúc thẩm từng bước
được nâng lên, hạn chế mức thấp nhất tỷ lệ án hủy, sửa nhưng không có kháng nghị
của VKS. Lãnh đạo VKS hai cấp đã quan tâm, lãnh đạo, chỉ đạo sát sao đối với việc
thực hiện công tác kháng nghị; xác định được tầm quan trọng của công tác kháng
nghị phúc thẩm; lựa chọn khâu đột phá để tập trung lãnh đạo, chỉ đạo; bố trí, sắp
xếp cán bộ phù hợp đáp ứng được yêu cầu công tác. Chú trọng nâng cao trách
nhiệm của KSV trong việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của ngành. Xác định việc
phát hiện vi phạm để ban hành kháng nghị là một trong những chỉ tiêu quan trọng
để đánh giá kết quả công tác. Việc phối hợp giữa VKS hai cấp trong công tác kháng
nghị phúc thẩm tiếp tục được tăng cường, một số đơn vị VKS cấp huyện đã chủ
động, kịp thời báo cáo các vi phạm của Tòa án để VKS tỉnh xem xét kháng nghị,
đồng thời Phòng nghiệp vụ cũng đã hướng dẫn VKS cấp dưới để đảm bảo thực hiện
tốt chức năng, thẩm quyền.
Số lượng kháng nghị phúc thẩm: Từ 01/12/2020 đến 30/11/2023 hai cấp
VKSND tỉnh Đắk Lắk đã ban hành 164 kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm. Số vụ
VKS kháng nghị, Toà án đã giải quyết là 152 vụ, trong đó: VKS rút kháng nghị: 07
vụ do phát sinh tình tiết mới tại phiên toà hoặc Toà án cấp phúc thẩm đã thu thập bổ
sung đầy đủ chứng cứ. Tòa án xét xử: 145 vụ. Hội đồng xét xử chấp nhận kháng
nghị: 131 vụ, đạt 90,3%; không chấp nhận kháng nghị 14 vụ = 9,7%. Nội dung
kháng nghị chủ yếu là: Vi phạm trong việc nhận, giao nộp tài liệu, chứng cứ; xác
định sai tư cách người tham gia tố tụng, thiếu người tham gia tố tụng; vi phạm về
thủ tục cấp, tống đạt, thông báo văn bản tố tụng cho đương sự vắng mặt; vi phạm về
án phí dân sự sơ thẩm, tính sai án phí; xác định sai, thiếu quan hệ tranh chấp; giải
quyết vụ án không triệt để; thu thập chứng cứ chưa đầy đủ; xác định lãi suất không
78
đúng; giải quyết vượt quá phạm vi khởi kiện, không đúng phạm vi khởi kiện của
nguyên đơn; xác định nghĩa vụ chịu chi phí tố tụng không đúng; chưa giải quyết hậu
quả của hợp đồng vô hiệu; án tuyên không rõ nên không đảm bảo cho công tác thi
hành án; vi phạm về việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời…
Điển hình 1: Tại Bản án sơ thẩm số 57/2021/DSST ngày 08/12/2021 của
TAND thị xã Buôn Hồ đã có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng, giải quyết vụ án
chưa khách quan, triệt để, tuyên án không thể thi hành ảnh hưởng đến quyền và lợi
ích hợp của đương sự, cụ thể: Bị đơn có yêu cầu phản tố về việc hủy Giấy CNQSDĐ
cấp cho ông Út. Tòa án đã thụ lý yêu cầu phản tố của bị đơn theo quy định. Tuy nhiên
án sơ thẩm cho rằng ông Út là người đứng tên trên Giấy CNQSDĐ, đồng thời là
nguyên đơn yêu cầu chia thừa kế đối với thửa đất trên, di sản được phân chia sẽ biến
động, không cần thiết xem xét yêu cầu hủy Giấy CNQSDĐ là giải quyết vụ án chưa
đầy đủ, vi phạm Điều 5 BLTTDS năm 2015. Ngân hàng và ông Út bà Vân ký hợp
đồng tín dụng ngày 04/3/2021 để vay 300.000.000đ, thời hạn vay 36 tháng, lãi suất
11,5%/năm. Đến thời điểm xét xử thì khoản vay trên chưa đến hạn. Như vậy ông Út
bà Vân vay tiền chưa đến hạn, do ông Sáng có yêu cầu hủy hợp đồng thế chấp nên
Ngân hàng khởi kiện yêu cầu ông Út bà Vân trả khoản vay trên. Trong trường hợp
này Ngân hàng chưa đủ điều kiện khởi kiện vì khoản vay chưa đến hạn trả theo quy
định tại điểm b khoản 1 Điều 192 BLTTDS. Án sơ thẩm tuyên ông Hóa và ông Sáng
có nghĩa vụ hoàn trả giá trị di sản thừa kế cho những người kế thừa quyền và nghĩa vụ
tố tụng của bà Liên là chồng ông Sơn và các con là chị Liêm và chị Hồng tổng số tiền
548.034.700đ. Đồng thời phải họ phải liên đới chịu án phí số tiền 25.921.000đ, nhưng
không xác định cụ thể số tiền mỗi người được hưởng và nghĩa vụ chịu án phí của là
tuyên án không rõ, gây khó khăn cho công tác thi hành án. Ngoài ra án sơ thẩm giao
toàn bộ diện tích 313m2, thửa 109, trên đất có 03 căn nhà cho ông Sáng và ông Hóa,
nhưng không tuyên diện tích tứ cận và tài sản cụ thể mỗi người được giao là không
đảm bảo công tác thi hành án. VKSND tỉnh đã kháng nghị bản án nêu trên và được
Tòa án chấp nhận.
79
Điển hình 2: Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 45/2021/DSST ngày 26/9/2021
TAND huyện Ea Kar xác định thiếu người tham gia tố tụng, thu thập chứng cứ chưa
đầy đủ: Tại thời điểm các bên giao đất trên thực địa có nhờ ông Phùng Văn Hiếu
(nguyên là cán bộ địa chính; hiện nay là Phó chủ tịch UBND xã Ea Ô) tiến hành đo
đạc đất và làm thủ tục sang tên, cấp Giấy CNQSDĐ cho gia đình bà Mến. Năm
2009, UBND huyện Ea Kar căn cứ vào biên bản kiểm tra xác minh ranh giới, hiện
trạng và nguồn gốc sử dụng đất của UBND xã Ea Ô và kết quả thẩm tra của Văn
phòng đăng ký QSDĐ huyện Ea Kar để cấp Giấy CNQSDĐ đối với thửa đất số 504,
tờ bản đồ số 6 cho ông Nguyên bà Mến nhưng Tòa án không đưa UBND xã Ea Ô
và UBND huyện Ea Kar vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi và
nghĩa vụ liên quan; không tiến hành lấy lời khai của ông Hiếu, UBND xã Ea Ô và
UBND huyện Ea Kar để làm rõ tại thời điểm chuyển nhượng QSDĐ, ông Bình, bà
Tâm và ông Nguyên, bà Mến thỏa thuận lấy điểm mốc ở vị trí nào để đo 20m mặt
đường nhựa, kéo dài từ phần tiếp giáp ranh đất của nhà ông Tỉnh về phía Bắc thì
đến vị trí nào của thửa đất số 423; Tòa án không tiến hành thu thập tài liệu và đo
đạc để xác định cụ thể vị trí, tứ cận, độ dài các cạnh của thửa đất số 504 và thửa đất
số 423 đã được cấp Giấy CNQSDĐ có đúng với sơ đồ giải thửa ban đầu hay không;
không xác minh làm rõ phần diện tích 259,6m² mà các bên đang tranh chấp đã được
cấp Giấy CNQSDĐ cho ai, thuộc thửa đất nào là thu thập chứng cứ chưa đầy đủ.
Tại đơn khởi kiện, nguyên đơn yêu cầu Tòa án giải quyết buộc bị đơn trả lại diện
tích đất lấn chiếm 700m2 bao gồm phần đất đã được cấp Giấy CNQSDĐ; phần đất
trước và sau chưa được cấp Giấy CNQSDĐ, Tòa án đã thụ lý yêu cầu khởi kiện của
nguyên đơn tuy nhiên tại phần quyết định của bản án sơ thẩm tuyên “Đối với phần
tổng diện tích 352,5m2 thuộc đất suối, đất ủy ban quản lý, sử dụng không được cấp
Giấy CNQSDĐ, không thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án, nên không có cơ sở
xem xét, giải quyết” là không đúng quy định pháp luật, giải quyết không hết yêu cầu
khởi kiện của nguyên đơn và không tuyên án về phần không chấp nhận để tính án
phí là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng. VKSND huyện Ea Kar ban hành kháng
nghị đối với bản án trên và được Tòa án chấp nhận.
80
Điển hình 3: Bản án dân sự sơ thẩm số 22/2021/DS-ST ngày 15/7/2021 của
TAND huyện Krông Búk, vụ án:“Phân chia di sản thừa kế” giữa Nguyên đơn: bà
Nguyễn Thị Liên, chị Trần Thị Hương, chị Trần Thị Hồng với Bị đơn: bà Trần Thị
Hương đã có vi phạm về việc xác định và phân chia di sản thừa kế, cụ thể: Ông
Bông chết không để lại di chúc. Án sơ thẩm xác định và phân chia di sản thừa kế
chưa bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự. Cụ thể: Đối với Thửa
đất số 151b: tại biên bản định giá tài sản ngày 21/02/2020 hội đồng định giá đã định
giá theo giá thị trường là 2.268.000.000đ và giá trị tài sản trên đất là 356.654.443đ.
Nhưng án sơ thẩm chỉ xem xét và chia giá trị QSDĐ mà không chia tài sản trên đất
là giải quyết chưa hết yêu cầu của đương sự. Đối với Thửa đất số 43: Kết quả xác
minh đất thuộc quản lý Công ty Sản xuất kinh doanh Lâm nông nghiệp Chư Né
(Công ty) được UBND tỉnh thu hồi giao cho địa phương quản lý. Cấp sơ thẩm
không đưa UBND huyện Krông Búk và Công ty Chư Né tham gia tố tụng để làm rõ
quyền và nghĩa vụ giữa các bên liên quan đến các giao dịch từ hợp đồng giao khoán,
việc thanh lý hợp đồng là thiếu người tham gia tố tụng. Xét thấy, nguồn gốc thửa
đất, quyền và nghĩa vụ của các bên chưa được làm rõ nhưng cấp sơ thẩm đã xác
định là di sản đồng thời phân chia di sản là không có khả năng thi hành án, ảnh
hưởng đến quyền và lợi ích của UBND huyện Krông Búk và Công ty Chư Né. Đối
với các tài sản tạo lập trên đất: chưa được cấp sơ thẩm làm rõ do ai tạo lập, đầu tư,
chăm sóc và quản lý để xem xét, tính giá trị tài sản trên đất. Quá trình tố tụng người
liên quan anh Thọ trình bày các tài sản trên thửa đất do anh tạo lập chăm sóc, quản
lý nhưng cấp sơ thẩm không xác minh, thu thập mà đã xác định di sản là vi phạm
nghiêm trọng thủ tục tố tụng; ảnh hưởng đến quyền và lợi ích của đương sự. Đối với
các thửa đất số 46, 56 và 92: nằm ngoài diện tích đất hợp đồng với Công ty Chư
Né. Kết quả xác minh thể hiện đất do hộ ông Bông khai hoang năm 1999, anh Thọ
cho rằng diện tích đất anh Thọ quản lý canh tác 06ha. Tuy nhiên, trong đó chỉ có
03ha là đất do Lâm trường Cư Né cũ giao hợp đồng cho gia đình anh Thọ; còn lại là
đất do anh khai hoang gồm 02ha đất và 01 ha đất hồ và rừng, việc khai hoang vào
khoảng thời gian trước khi ông Bông chết khoảng 01 năm rưỡi. Xét thấy, tại đơn
81
khởi kiện nguyên đơn yêu cầu chia 4,5ha, quá trình tố tụng thay đổi yêu cầu từ 4,5
ha lên 6,4ha, lời khai của anh Thọ và kết quả xác minh tại UBND xã Ea Sin về
nguồn gốc đất có sự mâu thuẫn nhưng cấp sơ thẩm chưa thu thập tại chính quyền
địa phương, các hộ có đất giáp ranh về quá trình khai hoang, quản lý, sử dụng và tạo
lập tài sản trên 03 thửa đất trên mà xác định là di sản của ông Bông là chưa khách
quan. Án sơ thẩm phân chia di sản nhưng không xem xét yêu cầu của nguyên đơn
được chia bằng hiện vật mà chia giá trị bằng tiền, trong khi các thửa đất số 43, 46,
56, 92 có diện tích 6,4ha và liền kề nhau đảm bảo điều kiện về diện tích tối thiểu,
công năng sử dụng; do đó, cần ưu tiên chia bằng hiện vật. VKSND huyện Krông
Búk ban hành kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm, Hội đồng xét xử phúc thẩm đã
chấp nhận kháng nghị.
Qua số liệu nêu trên cho thấy, một số đơn vị VKSND cấp huyện đã có sự chú
trọng đúng mức đến công tác kháng nghị án dân sự ngang cấp cả về số lượng và
chất lượng. Qua thực hiện công tác kháng nghị phúc thẩm đã khắc phục sai sót của
án sơ thẩm về nhiều nội dung, qua đó đã khắc phục những vi phạm nghiêm trọng về
thủ tục TTDS; Đồng thời, thông qua việc kháng nghị phúc thẩm, các đơn vị đã thể
hiện rõ quan điểm của mình trong kiểm sát giải quyết các vụ việc dân sự; đảm bảo
cho việc áp dụng pháp luật được nghiêm chỉnh và thống nhất; đảm bảo quyền và lợi
ích hợp pháp của đương sự. Thông qua công tác kiểm sát bản án, các KSV được
phân công đã nghiên cứu kỹ bản án cả về nội dung và hình thức, sau đó đánh giá
nhận xét trên phiếu kiểm sát bản án để trình Lãnh đạo đơn vị đề xuất kháng nghị
hay không kháng nghị, nếu kháng nghị nêu rõ căn cứ pháp luật cần áp dụng. Trường
hợp quá thời hạn kháng nghị phúc thẩm của cấp mình mới phát hiện vi phạm, đã kịp
thời báo cáo qua Phòng 9 để kháng nghị theo đúng quy định của ngành. Khi phát
hiện có vi phạm đến mức phải kháng nghị đã cương quyết kháng nghị và trước khi
kháng nghị đã có sự trao đổi đối với các phòng nghiệp vụ của VKSND tỉnh nhằm
đảm bảo việc kháng nghị là cần thiết, có căn cứ và đúng pháp luật. Nhiều kháng
nghị đã phát hiện đúng, viện dẫn chính xác căn cứ pháp luật; tuân thủ đúng hướng
dẫn và mẫu của ngành; lập luận rõ ràng, chặt chẽ, do vậy những thiếu sót, hạn chế
82
về mặt hình thức, tính thiếu căn cứ trong các bản kháng nghị nên cấp trên bảo vệ
kháng nghị đạt tỷ lệ cao. So với 12 tỉnh khu vực miền Trung – Tây nguyên thì
ngành Kiểm sát nhân dân có số lượng kháng nghị nhiều nhất, chất lượng tương đối
tốt. Điều đó thể hiện, ngoài việc nghiên cứu nắm vững chứng cứ có trong hồ sơ vụ
án cũng như các quy định của pháp luật có liên quan, các đơn vị đã thể hiện đã chú
trọng đến công tác kháng nghị, đảm bảo cho pháp luật được thực hiện nghiêm chỉnh
và thống nhất; các quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự được bảo vệ, góp phần
xây dựng hình ảnh, uy tín của ngành Kiểm sát nhân dân nói chung và ngành Kiểm
sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk nói riêng. Ngoài ra, công tác phối hợp giữa các VKS cấp
huyện và Phòng nghiệp vụ; giữa Phòng nghiệp vụ với VKSND cấp cao tại Đà nẵng
được thường xuyên, chặt chẽ, kịp thời đạt hiệu quả tốt; các kháng nghị ngang cấp
của VKS cấp tỉnh được bảo vệ đạt tỷ lệ 100%, các kháng nghị ngang cấp của VKS
cấp huyện được bảo vệ đạt tỷ lệ trên 90% (vượt chỉ tiêu).
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được thì công tác kháng nghị phúc
thẩm trong lĩnh vực dân sự giữa các đơn vị còn chưa đồng đều, về số lượng, chất
lượng kháng nghị còn hạn chế; nhiều vụ việc Toà án cấp phúc thẩm tuyên huỷ, sửa
bản án, quyết định có vi phạm của Tòa án cấp sơ thẩm nhưng VKS hai cấp không
phát hiện vi phạm để ban hành kháng nghị; chất lượng một số kháng nghị chưa cao.
Một số kháng nghị phần nội dung quá dài dòng, ngoài ghi lời khai nguyên đơn, bị
đơn, tất cả những người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan và còn ghi cả lời khai
nhân chứng, một số kháng nghị viết lặp đi lặp lại phần nội dung vụ án ở phần nhận
thấy. Kháng nghị dài dòng vừa mất thời gian vừa gây khó khăn cho KSV nghiên
cứu và bảo vệ kháng nghị, cũng như gây khó khăn cho Hội đồng xét xử khi nghiên
cứu, đánh giá và quyết định giải quyết các yêu cầu của kháng nghị.
Một trong những nguyên tắc của BLTTDS là tôn trọng quyền quyết định và
tự định đoạt của đương sự, nên khi đương sự không kháng cáo thì VKS không
kháng nghị, trừ những trường hợp vi phạm nghiêm trọng về tố tụng ảnh hưởng đến
quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự. Khi Toà án cấp sơ thẩm tuyên bản án nếu
đương sự đã thống nhất với bản án họ sẽ không kháng cáo hoặc nếu không thống
83
nhất một phần trong bản án thì họ chỉ kháng cáo phần không thống nhất đó. Tuy
nhiên một số VKS cấp huyện kháng nghị huỷ toàn bộ bản án, điều này làm ảnh
hưởng chất lượng kháng nghị, giảm uy tín của Ngành, tạo tâm lý nghi ngờ, hoang
mang cho đương sự, buộc họ phải làm đơn đề nghị kháng nghị giám đốc thẩm.
Thực tế có một số VKS cấp huyện, thị xã, thành phố đưa ra lý do kháng nghị bản
án, quyết định của Tòa án sơ thẩm là không cần thiết, dẫn đến VKS tỉnh phải rút
kháng nghị.
2.3 Đánh giá chung về trách nhiệm của VKSND tỉnh Đắk Lắk trong bảo
vệ QCN thông qua hoạt động kiểm sát giải quyết các vụ việc dân sự
2.3.1 Thành tựu, ưu điểm và nguyên nhân
2.3.1.1 Thành tựu, ưu điểm
Về công tác lãnh đạo của cấp ủy Đảng: Công tác kiểm sát giải quyết án dân sự
tại VKSND tỉnh Đắk Lắk đã được cấp ủy Đảng quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo. Trong
tổ chức và hoạt động của VKS luôn tuân thủ sự lãnh đạo của Đảng, coi đây là
nguyên tắc, là yếu tố quyết định đến chất lượng công tác kiểm sát.
Về công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành của Lãnh đạo Viện: Lãnh đạo VKS
chủ động đề ra các giải pháp đề cao trách nhiệm, tính chủ động, sáng tạo, sâu sát
trong quản lý chỉ đạo điều hành, nắm tiến độ thực hiện nhiệm vụ của đơn vị nghiệp
vụ, kịp thời chỉ đạo tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện công tác
kiểm sát. Ngay sau khi dự Hội nghị triển khai công tác hàng năm do VKSND tối
cao tổ chức, lãnh đạo VKS tỉnh đã chỉ đạo xây dựng kế hoạch, chương trình công
tác của đơn vị trên cơ sở bám sát vào Chỉ thị công tác của Viện trưởng VKSND tối
cao và tình hình chính trị địa phương. Hàng năm, Viện trưởng VKS tỉnh đều ban
hành các kế hoạch về công tác kiểm tra, thanh tra, hội nghị, hội thảo, tập huấn, sơ
kết, tổng kết các chuyên đề ngay từ đầu năm công tác. Theo đó, mỗi năm VKS tỉnh
đã chủ trì tổ chức được từ 02 đến 03 hội nghị. Thành phần tham dự là toàn thể Lãnh
đạo và cán bộ, KSV làm công tác kiểm sát giải quyết án dân sự. Tại các buổi hội
nghị, Lãnh đạo Viện đã trực tiếp triển khai các quy định mới của pháp luật về chức
84
năng, nhiệm vụ của VKS trong TTDS, các Chỉ thị của Viện trưởng VKSND tối cao
đến cán bộ, KSV. Kết quả đã triển khai được những quy định mới của pháp luật,
đánh giá lại thực tiễn công tác, những ưu điểm, hạn chế, khó khăn, vướng mắc trong
thực hiện nhiệm vụ được giao. Lãnh đạo Viện cũng tăng cường công tác kiểm tra,
theo dõi, đôn đốc việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của phòng nghiệp vụ, chỉ đạo
cán bộ, KSV tăng cường kỷ cương, kỷ luật, đề cao tinh thần trách nhiệm trong thực
hiện nhiệm vụ.
Về xây dựng, củng cố đội ngũ cán bộ, KSV về số lượng, chất lượng: Trong
những năm qua, VKSND tỉnh Đắk Lắk đã tập trung tăng cường cho Phòng Nghiệp
vụ kiểm sát các vụ án dân sự 10 biên chế, trong đó có 05 KSV trung cấp, 03 KSV
sơ cấp, 02 Chuyên viên để thực hiện nhiệm vụ, có 08/8 KSV đã qua đào tạo Lý luận
chính trị ở các bậc trung cấp, cao cấp và 08/8 KSV đã qua đào tạo, bồi dưỡng kiến
thức về QLNN. Nhìn chung, đội ngũ cán bộ, KSV đều có tư tưởng chính trị vững
vàng, phẩm chất đạo đức tốt, tận tụy với công việc sẵn sàng thực hiện và hoàn thành
tốt nhiệm vụ được giao. Lãnh đạo VKSND tỉnh Đắk Lắk thường xuyên chỉ đạo tăng
cường trách nhiệm của cán bộ, KSV trong việc kiểm sát các thông báo thụ lý, các
bản án, quyết định của Toà án để kịp thời phát hiện vi phạm, thực hiện quyền kháng
nghị, kiến nghị theo quy định pháp luật và tạo được sự chuyển biến tích cực trong
công tác nghiệp vụ; trong đó kiểm sát các bản án, quyết định của Tòa án và chuyển
bản án, quyết định sơ thẩm lên VKS cấp phúc thẩm đã được chú trọng hơn.
Lãnh đạo phòng 9-VKSND tỉnh đã phân công KSV, chuyên viên mở sổ ghi
chép theo dõi việc thụ lý của Toà án, Kiểm sát chặt chẽ về hình thức và nội dung
thông báo đối chiếu với quy định tại pháp luật tố tụng; lập phiếu kiểm sát để kiểm
sát quá trình giải quyết vụ việc, đảm bảo tất cả các vụ việc đều được kiểm sát. Các
vụ án tham gia xét xử đều lập hồ sơ kiểm sát đầy đủ. Cán bộ, KSV thường xuyên
cập nhật, nghiên cứu những văn bản pháp luật để phục vụ tốt cho công việc chuyên
môn. Hoạt động kiểm sát xét xử tại phiên tòa đã được các KSV chú trọng, thể hiện
ở khâu lập hồ sơ kiểm sát đầy đủ, sắp xếp khoa học, nghiên cứu kỹ hồ sơ và có báo
cáo đề xuất quan điểm giải quyết đối với vụ án, sau đó trình Lãnh đạo Viện. VKS
85
đáp ứng yêu cầu tham gia các phiên tòa theo TTDS và đã tham gia xét xử đạt tỉ lệ
100%. Quan điểm của VKS phần lớn thống nhất với Tòa án. Đối với các vụ án bị
cấp phúc thẩm sửa, hủy án sơ thẩm (kể cả những vụ có kháng nghị và những vụ
không có kháng nghị) đều tổng hợp thông báo rút kinh nghiệm đối với cấp huyện,
qua đó, giúp cho cán bộ, KSV các đơn vị tích lũy kinh nghiệm và kỹ năng kiểm sát
phát hiện vi phạm. Kỹ năng và trách nhiệm của KSV tại phiên tòa đã được nâng cao
đáng kể; nhận thức về vai trò và trách nhiệm của những người tham gia tố tụng
trong quá trình kiểm sát việc giải quyết các vụ, việc dân sự, hôn nhân và gia đình
cũng đã được cán bộ và KSV nhận thức rõ ràng hơn. Qua đó đã góp phần xây dựng
đội ngũ cán bộ và KSV của Ngành ngày càng trưởng thành, đáp ứng tốt hơn yêu
cầu và nhiệm vụ trong tình hình mới.
Về quan hệ phối hợp trong ngành: Trên cơ sở Quy chế nghiệp vụ của Ngành,
trong chương trình, kế hoạch công tác hàng năm, sự phối hợp của VKS các cấp
trong công tác kiểm sát việc giải quyết án dân sự được VKSND tỉnh Đắk Lắk đề
cao, điển hình trong công tác báo cáo, trả lời thỉnh trị, báo cáo kết quả xét xử, việc
gửi phiếu kiểm sát bản án và công tác hướng dẫn, chỉ đạo nghiệp vụ. Công tác phối
hợp đã được VKS các cấp thực hiện tốt. Ngoài ra, nhiều công văn trao đổi nghiệp
vụ và hướng dẫn áp dụng các quy định của Bộ luật Dân sự, BLTTDS đã được ban
hành cho VKSND cấp huyện. Năm 2018, 2019 ngành đã phối hợp với Trường đào
tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ kiểm sát tại TP. Hồ Chí Minh tổ chức 02 lớp tập huấn tại
VKSND tỉnh Đắk Lắk về: “Kỹ năng kiểm sát bản án, quyết định dân sự của Tòa
án; Kỹ năng thực hiện quyền kiến nghị, kháng nghị trong giải quyết các vụ việc dân
sự” và “Kỹ năng kiểm sát giải quyết các vụ việc dân sự” cho toàn ngành. Khi có
vướng mắc, phương tiện hỗ trợ mà đa số các cán bộ và KSV cấp huyện sử dụng là
việc gọi điện thoại hoặc gặp trực tiếp KSV quản lý huyện để thuận tiện trong việc
trao đổi. Phòng 9 đã xây dựng một số chuyên đề để tiếp tục tập huấn cho các
VKSND cấp huyện nghiên cứu vận dụng trên thực tiễn (trước khi có hướng dẫn,
quy định của VKSND tối cao);...
86
Về quan hệ phối hợp liên ngành: VKSND tỉnh Đắk Lắk giữ mối quan hệ
phối hợp tốt với Tòa án và các cơ quan chính quyền ở địa phương. Sau khi
BLTTDS năm 2015 có hiệu lực thi hành, giữa VKSND tỉnh Đắk Lắk và TAND tỉnh
Đắk Lắk đã tiến hành xây dựng quy chế phối hợp trong việc giải quyết án dân sự để
trên cơ sở nội dung của Quy chế, hai ngành sẽ phối hợp thực hiện tốt nhiệm vụ của
mình. Hiện nay, Quy chế đã được ký kết ban hành và tiến hành quán triệt, triển khai
thực hiện nghiêm túc và chủ động trong toàn ngành nhằm tiếp tục tâng cường, nâng
cao hiệu quả công tác phối hợp giữa VKSND và TAND trong công tác giải quyết
các vụ việc dân sự. Với Ủy ban nhân dân tỉnh và các cơ quan chính quyền địa
phương, VKS chưa xây dựng được quy chế phối hợp, tuy nhiên trong quá trình
công tác cũng tranh thủ sự đồng tình ủng hộ của các cơ quan này đề hoàn thành tốt
nhiệm vụ của ngành, của địa phương giao cho.
Về kết quả công tác kiểm sát: Trong lĩnh vực TTDS, chức năng kiểm sát việc
tuân theo pháp luật trong hoạt động xét xử vụ, việc dân sự của Tòa án được thực
hiện bởi VKSND các cấp. Điều này góp phần vào việc bảo vệ QCN trong TTDS
thông qua nhiệm vụ và quyền hạn của VKSND trong việc giải quyết các vụ, việc
dân sự. Nhiều vi phạm đã được phát hiện thông qua việc kiểm sát việc giải quyết
vụ, việc dân sự bởi VKS các cấp. Qua những hoạt động này, các quyền và lợi ích
hợp pháp của cá nhân, công dân đã được bảo vệ một cách quan trọng mà không bị
xâm hại. Qua hoạt động kiểm sát các bản án, quyết định dân sự, trong thời gian qua,
VKS các cấp đã phát hiện, ban hành nhiều kháng nghị phúc thẩm. Đa số những
kháng nghị này đã được chấp nhận bởi Tòa án (chiếm tỷ lệ cao), và được đưa ra xét
xử với tỷ lệ cao, thường vượt qua chỉ tiêu theo Nghị quyết của Quốc hội. Bên cạnh
đó, VKS các cấp còn phát hiện nhiều vi phạm của toà án để kịp thời ban hành kiến
nghị yêu cầu Toà án khắc phục. Các thông báo về việc rút kinh nghiệm nghiệp vụ
đã được ban hành đối với VKS cấp dưới nhằm mục đích kịp thời phát hiện và khắc
phục vi phạm. Qua quá trình thực hiện công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ, việc
dân sự, đã được nhận thấy rằng việc phát hiện các vi phạm của Tòa án chủ yếu
thông qua việc kiểm sát các bản án, quyết định, thông qua việc nghiên cứu hồ sơ vụ
87
án, và thông qua việc tham gia phiên tòa, phiên họp. Do đó, nhiều vi phạm của Tòa
án trong quá trình giải quyết các vụ, việc dân sự đã được phát hiện và từ đó đã ban
hành nhiều kháng nghị, kiến nghị để Tòa án khắc phục bởi VKS, trên cơ sở đó, các
quyền của người tham gia TTDS đã được bảo vệ. Nhiều kháng nghị phúc thẩm đã
được ban hành bởi VKSND hai cấp và đạt rất cao tỷ lệ chấp nhận từ Tòa án, các vụ
án được xét xử lại theo đúng quy định góp phần quan trọng để bảo vệ QCN.
2.3.1.2 Nguyên nhân của những kết quả đạt được:
Nguyên nhân khách quan: Những kết quả được đạt được như trên là thành tựu
của sự quan tâm đặc biệt đến công tác tư pháp từ Đảng và Nhà nước trong những
năm qua, trong đó Nghị quyết 49 – NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về
Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 là điều đáng chú ý. Để thực hiện chủ
trương của Đảng thì hệ thống văn bản pháp luật cũng được hoàn thiện hơn để đáp
ứng yêu cầu đặt ra. Nhận thức được tầm quan trọng và để thực hiện Nghị quyết nêu
trên của Đảng, VKS đã tích cực, chủ động trong việc thực hiện các chức năng,
nhiệm vụ, đổi mới cơ cấu, tổ chức, công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành cũng như
tăng cường công tác phối hợp với các chủ thể liên quan để tạo tiền đề cho việc thực
hiện tốt các nhiệm vụ chính trị mà Đảng và Nhà nước giao. Cấp ủy Đảng đã có
nhiều đổi mới trong phương thức lãnh đạo, chỉ đạo đối với công tác kiểm sát giải
quyết án dân sự. Không chỉ dừng lại ở việc lãnh đạo, chỉ đạo thông qua các Chỉ thị,
Nghị quyết mà còn tăng cường công tác kiểm tra và chỉ đạo trực tiếp đối với những
vụ án phức tạp, dư luận quan tâm.
Lãnh đạo Viện đã có sự quan tâm chỉ đạo, kịp thời triển khai các văn bản pháp
luật mới đến toàn thể cán bộ - KSV làm công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ
việc Dân sự - Hôn nhân gia đình. Tạo điều kiện cho cán bộ - KSV được tham gia
tập huấn những quy định mới của BLTTDS, triển khai, phổ biến, rút kinh nghiệm
theo chuyên đề nghiệp vụ, tổ chức phiên tòa rút kinh nghiệm nhằm nâng cao, kỹ
năng, trình độ chuyên môn nghiệp vụ của KSV. Qua đó, chất lượng công tác kiểm
sát việc giải quyết các vụ, việc dân sự ngày càng được nâng lên.
88
Về quan hệ công tác giữa VKS với Tòa án trong việc giải quyết án trên
nguyên tắc phối hợp, tôn trọng, tạo điều kiện hỗ trợ nhau thực hiện tốt nhiệm vụ
như việc gửi bản án, quyết định, chuyển và trả hồ sơ, trao đổi nghiệp vụ. Có sự sắp
xếp, bố trí cán bộ, KSV phù hợp với năng lực, trình độ chuyên môn nghiệp vụ góp
phần nâng cao hiệu quả trong quá trình làm việc.
Nguyên nhân chủ quan: Quá trình thực hiện công tác kiểm sát, đơn vị đã triển
khai, vận dụng những quy định mới của BLTTDS năm 2015, Bộ luật Dân sự năm
2015, các Nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán, Thông tư hướng dẫn và các văn
bản pháp luật có liên quan để thực hiện việc kiểm sát tất cả các vụ, việc do Tòa án
thụ lý và giải quyết, bắt đầu từ khi Tòa án có thông báo trả lại đơn khởi kiện, thụ lý,
giải quyết vụ, việc cho đến khi Tòa án ra các quyết định và bản án. Bên cạnh đó,
đơn vị cũng đã bám sát kế hoạch công tác năm và quy chế công tác kiểm sát của
ngành và thực hiện các bước kiểm sát theo đúng trình tự, thủ tục và đảm bảo theo
đúng chức năng, nhiệm vụ của ngành trong việc thực hiện kiểm sát việc tuân theo
pháp luật trong TTDS. Các trường hợp VKS phải tham gia phiên tòa, phiên họp
theo quy định tại Điều 21 BLTTDS năm 2015 đều được KSV nghiên cứu, lập hồ sơ
và tham gia phiên tòa, phiên họp theo quy định, không để vụ nào Tòa án phải hoãn
phiên tòa do lỗi của KSV. Việc xây dựng hồ sơ kiểm sát đảm bảo theo đúng quy
định của Ngành. KSV tham gia phiên tòa đã sắp xếp các tài liệu có trong hồ sơ vụ
án hợp lý, khoa học, có trích cứu và phô tô những tài liệu, chứng cứ quan trọng để
phục vụ cho việc giải quyết vụ án. KSV đã đầu tư nghiên cứu kỹ và đã chọn lọc,
đánh giá các chứng cứ dùng làm căn cứ để giải quyết vụ án, quan điểm của VKS về
đường lối giải quyết vụ án thống nhất với quan điểm giải quyết vụ án của Hội đồng
xét xử. Tại phiên tòa, KSV đã tham gia xét hỏi và làm sáng tỏ các tình tiết của vụ
án. Bản phát biểu của KSV được chuẩn bị kỹ càng, việc nhận xét về việc tuân theo
pháp luật TTDS của Thẩm phán, Hội đồng xét xử và việc chấp hành pháp luật của
những người tham gia tố tụng, kể từ khi thụ lý vụ án đến trước khi Hội đồng xét xử
nghị án. Về nội dung đã phân tích được các vi phạm pháp luật trong việc thu thập
chứng cứ, vi phạm về thời hạn tố tụng và việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ của
89
đương sự, những người tham gia tố tụng khác và đề xuất quan điểm giải quyết vụ án
rõ ràng. Qua nghiên cứu hồ sơ và tham gia phiên tòa, phiên họp đã phát hiện nhiều
vi phạm của Tòa án trong việc thụ lý và giải quyết án dân sự và thực hiện các quyền
yêu cầu, kiến nghị, kháng nghị theo quy định. Đặc biệt, đơn vị luôn chú trọng và
thực hiện có hiệu quả Chỉ thị 10/CT-VKSTC ngày 06/4/2016 của Viện trưởng
VKSND tối cao về tăng cường công tác kháng nghị phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái
thẩm dân sự, hành chính. Có được kết quả đó là nhờ đội ngũ cán bộ, KSV luôn có
tinh thần trách nhiệm, có tâm với nghề, cầu tiến trong chuyên môn để kiểm sát việc
tuân theo pháp luật đối với các chủ thể hữu quan áp dụng pháp luật đúng quy định,
góp phần bảo vệ công lý, bảo vệ lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp
của công dân, tổ chức.
2.3.2 Tồn tại, hạn chế và nguyên nhân
2.3.2.1 Tồn tại, hạn chế
Bên cạnh những kết quả đạt được, quá trình thực hiện nội dung của công tác
kiểm sát giải quyết án dân sự vẫn còn những tồn tại, hạn chế đó là:
Trong công tác lãnh đạo, quản lý, chỉ đạo, điều hành của cấp ủy Đảng và Lãnh
đạo VKS: Sự lãnh đạo của cấp ủy Đảng đôi lúc chưa thường xuyên, kịp thời. Vì
vậy, vẫn còn một số vụ án dân sự bị người dân khiếu nại gay gắt đến cấp ủy do các
cơ quan tố tụng giải quyết chậm trễ so với thời hạn pháp luật quy định. Công tác
quản lý, chỉ đạo, điều hành tuy đã được sự quan tâm của Lãnh đạo VKS nhưng chưa
sâu sát, toàn diện. Về cơ bản, công tác chỉ đạo, điều hành chủ yếu dựa trên báo cáo
của KSV, việc trực tiếp nghiên cứu hồ sơ, sổ sách thụ lý giải quyết ít được thực
hiện, công tác thanh tra, kiểm tra chưa được tiến hành thường xuyên.
Trong cơ cấu tổ chức, bộ máy: Cơ cấu tổ chức bộ máy đã được đổi mới nhưng
chưa thật sự hợp lý, chưa đảm bảo tính chuyên sâu. Phòng nghiệp vụ phụ trách công
tác kiểm sát giải quyết án dân sự nhưng hiện nay còn phải kiêm nhiệm cả công tác
kiểm sát giải quyết án Hôn nhân gia đình, kiểm sát giải quyết đơn và kiểm sát bản
án, quyết định của cấp huyện (trong khi Tòa án tương ứng là 03 phòng ban riêng
90
biệt nên thuận tiện hơn trong việc phát hiện vi phạm). Mặc dù kiểm sát nhiều lĩnh
vực khác nhau nhưng về biên chế đơn vị chỉ có 05 KSV trung cấp (kể cả Lãnh đạo
phòng) vừa nghiên cứu, phô tô hồ sơ và thực hiện các hoạt động tố tụng; 03 KSV sơ
cấp và 02 Chuyên viên chính vừa kiêm nhiệm công tác văn phòng vừa nghiên cứu,
phô tô hồ sơ (KSV sơ cấp không được thực hiện các hoạt động tố tụng đối với án
thuộc thẩm quyền của cấp tỉnh). Đối với đội ngũ cán bộ, KSV cấp huyện phải kiêm
nhiệm nhiều bộ phận công tác cả hình sự lẫn dân sự, thậm chí làm cả mảng đơn,
mảng báo cáo thống kê chứ không như cán bộ, KSV cấp tỉnh làm ở phòng nào thì
chỉ nghiên cứu án của phòng đó. Do đó, cũng gây khó khăn cho quá trình thực hiện
việc kiểm sát giải quyết các vụ án dân sự.
Năng lực của đội ngũ cán bộ, KSV: Một số cán bộ, KSV năng lực còn hạn
chế, việc thực hiện các kỹ năng nghiệp vụ cũng như công tác tham mưu cho Lãnh
đạo Viện chưa đảm bảo yêu cầu. Các vụ án có vi phạm nhưng không được phát hiện
dẫn đến bị cấp phúc thẩm tuyên sửa, hủy án đều có liên quan đến trách nhiệm của
KSV do chưa làm tốt công tác kiểm sát. Kết quả thực hiện công tác kiểm sát mặc dù
đã được nâng cao qua từng năm nhưng nhìn chung còn thấp: Công tác kháng nghị
đã được quan tâm chú trọng nhưng vẫn còn kháng nghị chưa đảm bảo chất lượng
không được cấp phúc thẩm chấp nhận; Việc thực hiện các quyền yêu cầu còn hạn
chế, KSV vẫn chưa tự thực hiện các biện pháp thu thập chứng cứ mà chỉ yêu cầu
Tòa thu thập chứng cứ. Về phía người bị kiện nhiều trường hợp không cung cấp
chứng cứ cho Tòa án để làm căn cứ giải quyết vụ án nhưng VKS không kiến nghị
dẫn đến tình trạng vụ án thiếu chứng cứ không có cơ sở để giải quyết phải để kéo
dài.
Đối với cán bộ, KSV, bên cạnh công tác kiểm sát việc giải quyết án dân sự
theo thủ tục sơ thẩm, phúc thẩm do TAND tỉnh giải quyết thì còn phải hướng dẫn
nghiệp vụ cho VKS cấp huyện và kiểm sát bản án, quyết định sơ thẩm của Tòa án
cấp huyện. Các bản án, quyết định của Tòa án cấp huyện có vi phạm, sai sót mà
không được kháng nghị phúc thẩm thì có trách nhiệm của tập thể cán bộ, KSV của
phòng. Do đó, nếu làm tốt công tác hướng dẫn nghiệp vụ và kiểm sát các bản án,
91
quyết định của cấp huyện thì chất lượng công tác kiểm sát phúc thẩm sẽ được nâng
cao. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân khác nhau mà thời gian qua việc kiểm sát
bản án, quyết định Tòa án cấp huyện còn hạn chế.
Trong quan hệ phối hợp trong công tác của các chủ thể liên quan: Công tác
phối hợp trong ngành và liên ngành trong những năm qua đã được đề cao nhưng
việc phối hợp đôi lúc còn chưa tốt làm hạn chế hiệu quả công tác kiểm sát. Chưa
xây dựng được quy chế phối hợp với Ủy ban nhân dân địa phương trong việc giải
quyết án dân sự nên chưa tạo được sự hợp tác tích cực của Ủy ban nhân dân cũng
như các cơ quan chuyên môn ở địa phương trong việc tham gia quá trình giải quyết
vụ án cũng như việc cung cấp tài liệu, chứng cứ làm căn cứ giải quyết vụ án.
2.3.2.2 Nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế:
Nguyên nhân khách quan: Trong suốt những năm qua, đã có nhiều thay đổi về
chính sách và văn bản pháp luật liên quan đến đất đai, nhà ở, hôn nhân và gia đình,
dân sự. Một số văn bản pháp luật đã gây ra mâu thuẫn và chưa được các cơ quan có
thẩm quyền hướng dẫn kịp thời, gây khó khăn cho việc tiến hành tố tụng trong việc
nhận thức và áp dụng pháp luật. Mặc dù công tác xây dựng hoàn hiện pháp luật thời
gian qua đã được quan tâm, chú trọng nhưng thực tế áp dụng các quy định pháp luật
thấy còn nhiều bất cập nhất là những quy định của BLTTDS, quy định về chức
năng, nhiệm vụ của VKS trong TTDS được mở rộng nhưng nhiều nội dung còn bất
cập, không có tính khả thi. Một mặt khác, việc hướng dẫn và giải thích pháp luật
của cơ quan có thẩm quyền chưa được thực hiện đều đặn và đồng bộ, dẫn đến sự
không nhất quán trong việc nhận thức, đánh giá và áp dụng, gây khó khăn trong
việc giải quyết nhiều vụ án. Các vụ án bị huỷ hoặc sửa đổi chủ yếu là những vụ án
có nội dung phức tạp, điều chỉnh theo nhiều quy phạm pháp luật và trải rộng ở
nhiều giai đoạn trong lĩnh vực đất đai và nhà ở. Ngoài ra, tình hình biến động về đất
đai và tăng giá trị QSDĐ diễn ra thường xuyên ở một số địa phương; công tác quản
lý và cấp giấy chứng nhận QSDĐ của một số nơi còn nhiều sai sót trong việc điều
chỉnh diện tích thực tế sử dụng. Điều này gây ra tranh chấp ngày càng gay gắt và
phức tạp về QSDĐ. Hòa giải tại cơ sở cho tranh chấp về đất đai chỉ mang tính hình
92
thức và chưa được coi trọng theo mức cần thiết. Tại một số nơi, việc hòa giải không
được tiến hành theo quy trình hoặc không có sự tham gia toàn diện của các bên liên
quan. Các cơ quan quản lý Nhà nước về đất đai không hợp tác và thiếu thông tin
cho Tòa án hoặc không tuân theo yêu cầu xác minh của Tòa án theo qui định của
pháp luật trong khi giải quyết tranh chấp về đất đai, từ dó làm cho việc thu thập và
xác minh thông tin ở cấp sơ thẩm gặp rất nhiều khó khăn. Do tính chất phức tạp, rất
khó để phát hiện các vi phạm qua kiểm tra bản án và quyết định của Tòa án. Trong
lĩnh vực dân sự, VKSND không tham gia vào việc giải quyết tranh chấp và không
xem xét lại hồ sơ từ ban đầu. Việc như công nhận sự thỏa thuận của các bên liên
quan hoặc việc quyết định công nhận sự thỏa thuận, tạm hoãn... yêu cầu có hồ sơ
vụ, việc hoặc trực tiếp tham gia kiểm tra, hoặc có khiếu nại, yêu cầu từ các bên liên
quan mới có thể nghiên cứu để phát hiện vi phạm, thiếu sót của Tòa án. Như vậy,
điều này làm hạn chế công tác kiểm sát bản án và quyết dịnh này, nhất là ở VKS
cấp phúc thẩm chỉ kiểm sát trên cơ sở bản án và phiếu kiểm sát của VKS cấp huyện
gửi lên mà không trực tiếp nghiên cứu hồ sơ hay tham gia phiên toà như ở VKS cấp
sơ thẩm.
Nguyên nhân chủ quan: Năng lực và trình độ của đội ngũ KSV không đồng
đều, chủ yếu là những KSV mới bổ nhiệm hoặc mới được luân chuyển từ khâu công
tác kiểm sát này qua khâu công tác kiểm sát khác chưa được đào tạo kĩ, do đó chưa
thể thực hiện tốt công tác kiểm sát bản án, quyết định của Toà án theo tinh thần các
Chỉ thị về nâng cao chất lượng kiểm sát giải quyết các vụ án dân sự. Hầu hết đội
ngũ cán bộ, KSV đều đang đảm nhiệm nhiều công việc khác nhau, vì vậy chủ yếu là
các KSV mới không có nhiều kinh nghiệm, không được bồi dưỡng các kiến thức
chuyên môn. Do đó, kỹ năng phát hiện vi phạm còn hạn chế, và một số vi phạm của
Tòa án vẫn chưa được phát hiện. Công tác tham mưu cho Lãnh đạo cũng không đáp
ứng yêu cầu do vẫn có trường hợp báo cáo không được Lãnh đạo Viện ký duyệt do
thiếu căn cứ... Về trình độ chuyên môn và nghiệp vụ, có những trường hợp không
đáp ứng yêu cầu của nhiệm vụ và khối lượng công việc cũng như tính dạng, tính
phức tạp của án dân sự trong điều kiện hiện tại. Tâm lý thiếu sự tự tin và coi nhẹ
93
dẫn đến việc thiếu sự chủ động và chậm tiến triển trong việc tích lũy kinh nghiệm
và kỹ năng. Họ cũng ít rèn luyện kỹ thuật ngành và ít tiếp tục học hỏi để cải thiện
trình độ. Cùng với việc ít tiếp tục theo dõi thông tin từ các người có thẩm quyền cao
hơn hay các sự thay đổi trong luật pháp đã khiến cho trình độ của họ không cao, gây
ra hiệu suất làm việc không cao. Nghiên cứu hồ sơ, kiểm sát giải quyết vụ án không
kỹ, bỏ sót hoặc không tuân thủ đầy đủ quy trình nghiệp vụ, dẫn đến không phát hiện
được vi phạm hoặc còn chủ quan khi nhận định về tính chất, mức độ của vi phạm
không chính xác nên không tham mưu thực hiện được quyền yêu cầu, kiến nghị,
kháng nghị phù hợp. Công tác kiểm sát giải quyết vụ việc dân sự chưa thật sự được
coi trọng và đầu tư các nguồn lực để bảo đảm thực hiện tốt, nhất là đối với các đơn
vị cấp huyện. Tình trạng cấp dưới không gửi, gửi chậm bản án, quyết định lên VKS
cấp trên dẫn đến không còn thời hạn để kháng nghị phúc thẩm. Công tác tổng kết,
rút kinh nghiệm chưa được thực hiện thường xuyên, việc triển khai thực hiện các
chuyên đề nghiệp vụ, thông báo rút kinh nghiệm còn mang tính hình thức, chưa
thực sự hiệu quả.
Những nguyên nhân này đã gây tác động, ảnh hưởng nhất định đến chất lượng
kiểm sát của VKSND tỉnh Đắk Lắk trong thời gian qua, đòi hỏi phải có những giải
pháp kịp thời để khắc phục những tồn tại hạn chế, phát huy những mặt thuận lợi
nhằm nâng cao chất lượng công tác kiểm sát việc tuân theo pháp luật đối với các vụ
án dân sự của VKSND tỉnh Đắk Lắk trong thời gian tới.
Tiểu kết chương 2
Qua việc nghiên cứu thực trạng pháp luật và thực tiễn thi hành bảo vệ QCN
trong hoạt động TTDS của VKSND ở Việt Nam hiện nay, chúng ta đã có được cái
nhìn tổng quan, khái quát về những quy định của pháp luật TTDS liên quan đến
việc bảo vệ QCN trong hoạt động TTDS tại VKSND tỉnh Đắk Lắk vào thời điểm
hiện tại. Trong nội dung của chương 3, đã làm nội bật được một số vấn đề sau: Thứ
nhất, khái quát được về tình hình các vụ việc dân sự và giải quyết các vụ việc dân
sự tại tỉnh Đắk Lắk. Thứ hai, phân tích tình hình thực hiện trách nhiệm của VKSND
tỉnh Đắk Lắk trong bảo vệ QCN thông qua hoạt động kiểm sát giải quyết các vụ
94
việc dân sự. Phần nội dung trên đã trình bày rõ về thực trạng trách nhiệm bảo vệ
QCN thông qua hoạt động kiểm sát kiểm sát giải quyết các vụ việc dân sự của
VKSND tỉnh Đắk Lắk. Thứ ba, đánh giá thực tiễn những ưu điểm, hạn chế, khó
khăn, vướng mắc trong thực hiện bảo vệ QCN trong hoạt động TTDS tại VKSND
tỉnh Đắk Lắk hiện nay. Trên cơ sở những quy định của pháp luật hiện hành, việc
thực thi nhiệm vụ bảo vệ QCN trong hoạt động TTDS tại VKSND tỉnh Đắk Lắk đã
thu được những thành tựu nhất định, góp phần tích cực thực hiện nhiệm vụ bảo vệ
QCN của VKSND nói riêng và của Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam nói
chung. Tuy nhiên, bên cạnh thành tựu, hoạt động này cũng tồn tại nhiều hạn chế,
vướng mắc làm ảnh hưởng tiêu cực, thậm chí xâm hại đến việc bảo vệ QCN. Trong
hoạt động TTDS của VKSND, việc bảo vệ tốt hơn QCN đòi hỏi phải tập trung làm
rõ nguyên nhân của những hạn chế, vướng mắc đã được nêu trên nhằm đề ra những
biện pháp khắc phục trong giai đoạn tiếp theo.
95
CHƯƠNG 3: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG TRÁCH
NHIỆM CỦA VKSND TỈNH ĐẮK LẮK TRONG BẢO VỆ QUYỀN CON
NGƯỜI THÔNG QUA KIỂM SÁT GIẢI QUYẾT CÁC VỤ VIỆC DÂN SỰ
3.1 Quan điểm về tăng cường đảm bảo QCN thông qua hoạt động kiểm
sát giải quyết các vụ việc dân sự
Bảo vệ QCN thông qua hoạt động kiểm sát giải quyết các vụ việc dân sự
của VKSND căn cứ trên cơ sở quan điểm, chủ trương của Đảng và pháp luật
của Nhà nước đối với QCN: Đảng ta có quan điểm nhất quán đó là bảo vệ và
phát triển QCN vừa là một nhiệm vụ lớn hiện nay vừa là lý tưởng phấn đấu của
những người Cộng sản; là bản chất của chế độ XHCN; là cốt lõi của Chủ nghĩa
Mác – Lê Nin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Trên cơ sở ấy, Hiến pháp năm 2013 đã
quy định rõ khái niệm QCN, QCD ở chương 2, thể chế hoá tư tưởng dân chủ tiến
bộ của Đảng ta. Nhà nước Việt Nam đã cụ thể hoá quan điểm trên của Đảng cộng
sản Việt Nam thành pháp luật để phân định rõ ràng quyền và nghĩa vụ của công
dân, pháp nhân cũng như trách nhiệm của Nhà nước đối với việc thực thi các quy
định của pháp luật về quyền và nghĩa vụ công dân. Pháp luật và quyền lực nhà
nước mà trực tiếp là các chủ thể được giao nắm quyền lực nhà nước là những
phương thức, công cụ quan trọng đảm bảo các nghị quyết, chủ trương về QCN
của Đảng được hiện thực hoá vào cuộc sống xã hội. Trong các công cụ và phương
thức trên thì VKS và hoạt động công tố giữ vai trò then chốt đối với việc bảo vệ
và phát triển QCN. Bảo vệ QCN thông qua hoạt động TTDS là một trong những
mục tiêu nhằm phát triển yếu tố con người được Đảng và Nhà nước ta đã đặt ra
trong đường lối phát triển kinh tế - xã hội. Vì thế, kiểm sát có mối liên hệ chặt
chẽ với các mục tiêu công tác bảo vệ QCN nói riêng và các mục tiêu khác của
nền kinh tế, xã hội, văn hoá. .. nói chung.
Bảo vệ QCN thông qua hoạt động TTDS của VKSND đáp ứng yêu cầu
xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam: Nhà nước pháp
quyền XHCN là nhà nước mà nơi đó mọi hoạt động của nhà nước phải hướng đến
sự thừa nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm QCN được thi hành nghiêm chỉnh trong
96
thực tiễn cuộc sống xã hội. Chính vì thế, trong các nghị quyết của Đảng về chủ
trương xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN đều khẳng định quan điểm: Đảm
bảo QCN là mục tiêu cao nhất của việc thực thi quyền lực nhà nước. Tôn trọng và
bảo đảm QCN, gắn QCN với quyền và lợi ích của nhân dân, đất nước và quyền
làm chủ của công dân; và yêu cầu Nhà nước tôn trọng và bảo vệ quyền QCN,
QCD; chăm sóc sức khoẻ, sự phát triển lành mạnh của từng người dân [19]. Pháp
luật được xem như là phương tiện và công cụ cơ bản, được sử dụng để đảm bảo
chủ trương và đường lối về QCN của Đảng được hiện thực vào đời sống xã hội
thông qua hệ thống các cơ quan nhà nước. VKSND, trong vai trò của mình, sử
dụng pháp luật như là công cụ chính để đảm bảo và bảo vệ QCN. Không chỉ
trừng trị những hành vi xâm hại và hủy hoại QCN, mà còn khôi phục và giữ gìn
một cách nguyên vẹn các quyền đó. Đồng thời, việc này cũng củng cố niềm tin
vào sự công bằng của pháp luật và chế độ xã hội chủ nghĩa của nhà nước ta. Để
thực hiện vai trò này, việc bảo đảm việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa và cải cách tư pháp nói chung, đổi mới VKSND nói riêng phải được
thực hiện sao cho phù hợp với chủ trương, đường lối và chính sách của Đảng về
QCN trong hoạt động TTDS. Đồng thời, hoạt động kiểm sát tư pháp cũng phải
hiện thực hóa được chủ trương và chính sách trên vào đời sống xã hội.
Trong công tác kiểm sát giải quyết các vụ việc dân sự của VKSND, công
tác bảo vệ QCN được gắn kết với chiến lược cải cách tư pháp: Để nâng cao hiệu
lực bảo vệ QCN đối với công tác kiểm sát giải quyết các vụ việc dân sự của
VKSND và phù hợp với chiến lược cải cách tư pháp ở Việt Nam giai đoạn tiếp
theo, phải quán triệt đầy đủ quan điểm, tư tưởng, lý luận về cải cách tư pháp đã
được khẳng định tại các nghị quyết, chỉ thị của Đảng, cụ thể là Nghị quyết số 49 -
NQ/TW ngày 02-6-2005 Về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 và Nghị
quyết số 48 - NQ/TW ngày 24-5-2005 Về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ
thống tư pháp Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020. Báo cáo sơ
kết 8 năm triển khai Nghị quyết số 49 - NQ/TW và Kết luận số 92 - KL/TW ngày
12-3-2014 của Bộ Chính trị. Mục tiêu của Chiến lược cải cách tư pháp là xây
97
dựng hệ thống tư pháp trong sạch, toàn diện, công bằng, kỷ cương, bảo vệ pháp
luật, từng bước hiện đại hoá, phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc Việt Nam
XHCN. Nội dung mà chiến lược cải cách tư pháp hướng đến cũng chú ý điểm
tương đồng nhất định với vai trò và nhiệm vụ của VKS. Nhiệm vụ bảo vệ QCN
được thực hiện bởi VKS, tuân theo pháp luật và công lý, là trách nhiệm cần thiết
của xã hội. Do đó, việc nâng cao vai trò của VKS trong bảo vệ QCN phải được
liên kết chặt chẽ với việc xây dựng hệ thống VKS mạnh mẽ, dân chủ và minh
bạch, để bảo vệ công lý và cao quý nhiệm vụ phục vụ nhân dân. Điều này đặt ra
yêu cầu cao cho việc tăng cường vai trò của VKS trong bảo vệ QCN không chỉ
thông qua việc tăng cường vai trò của VKS mà còn thông qua việc tăng cường vai
trò của các cơ quan tư pháp khác trong công tác bảo vệ QCN.
Bảo vệ QCN thông qua hoạt động kiểm sát giải quyết các vụ việc dân sự
của VKSND nhằm đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế: Bảo vệ QCN của cơ quan
tư pháp nói chung và của VKSND nói riêng là một nhiệm vụ rất trọng tâm của
công cuộc cải cách tư pháp và là yêu cầu cấp thiết đối với tiến trình hội nhập
quốc tế và đất nước; nó là thước đo thực chất của Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa. Bảo vệ QCN của VKSND là phải gắn với công lý và sự thật của cuộc
sống cho nên nâng cao hiệu quả bảo vệ QCN thông qua hoạt động tố tụng của
VKSND cần gắn kết chặt chẽ với việc xây dựng tổ chức VKSND trong sạch,
vững mạnh, công bằng, liêm khiết, bảo vệ pháp luật và coi trọng nhiệm vụ phụng
sự nhân dân. Trong bối cảnh hội nhập quốc tế thì những hành động xâm hại, phá
hoại QCN không những chỉ bó hẹp trong khuôn khổ biên giới quốc gia mà có thể
đi quá phạm vi của một quốc gia và cần có sự phối, kết hợp giữa các quốc gia
cũng như những nỗ lực chung của cả cộng đồng quốc tế để bảo vệ QCN. Pháp
luật là một trong những nhân tố quan trọng nâng cao hiệu quả bảo vệ QCN thông
qua hoạt động tố tụng của VKSND. Theo đó, luật pháp sẽ quy định chức trách,
nhiệm vụ, thẩm quyền và quy trình thủ tục tiến hành bảo vệ QCN phải có sự phù
hợp với xu thế phát triển của Ngành công tố các quốc gia trên thế giới cũng như
yêu cầu của các công ước quốc tế về QCN. Các điều ước quốc tế về QCN do Nhà
98
nước Việt Nam tham gia hoặc ký kết và các văn bản pháp luật của Nhà nước Việt
Nam để thể chế hoá các Điều ước quốc tế là một cơ sở pháp lý cần thiết đối với
hoạt động bảo vệ QCN. Việc hội nhập pháp luật quốc gia với pháp luật quốc tế về
QCN thường tiến hành dưới ba dạng chính là tiếp tục ký kết hoặc tham gia các
điều ước quốc tế về QCN, hợp tác quốc tế về bảo vệ QCN và nội luật hoá các
điều ước quốc tế phù hợp với yêu cầu, điều kiện, thực tiễn của xã hội. Các nội
dung cơ bản của hội nhập pháp luật quốc gia với pháp luật quốc tế về QCN sẽ có
ảnh hưởng chi phối trực tiếp đối với tổ chức, nhiệm vụ và quyền hạn cùng nội
dung của bảo vệ QCN ở VKSND, vì vậy việc nâng cao chất lượng bảo vệ QCN
trong hoạt động tư pháp của VKSND phải gắn chặt chẽ với việc hội nhập pháp
luật quốc gia với pháp luật quốc tế. Việc thực hiện tốt các điều ước quốc tế mà
Nhà nước ta đã tham gia sẽ được tổ chức. Hiệp định tương trợ tư pháp sẽ tiếp tục
được ký kết với các nước khác, đặc biệt là các nước láng giềng, các nước trong
khu vực và các nước có quan hệ truyền thống.
3.2 Giải pháp đảm bảo QCN thông qua hoạt động kiểm sát giải quyết
các vụ việc dân sự của VKSND tỉnh Đắk Lắk
3.2.1 Giải pháp chung
3.2.1.1 Nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng, nhận thức và quyền làm chủ
của nhân dân
Vai trò lãnh đạo của Đảng, Nhà nước và quyền làm chủ của nhân dân đối với
bảo vệ QCN trong hoạt động TTDS của VKSND có sức tác động to lớn đối với kết
quả thực hiện nhiệm vụ của VKSND. Để nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng và
quyền làm chủ của nhân dân đối với bảo vệ QCN trong hoạt động TTDS của
VKSND cần thực hiện các biện pháp sau:
Thứ nhất, Vai trò lãnh đạo của Đảng đối với nhiệm vụ bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của công dân trong hoạt động tư pháp của VKSND cần được tập trung
thực hiện thông qua việc áp dụng một số biện pháp cụ thể. Một là, việc lãnh đạo và
chỉ đạo thực hiện chính xác các chủ trương đã được Đảng ban hành như Chỉ thị,
99
Nghị quyết, Kết luận liên quan đến nhiệm vụ bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
công dân, cũng như hoạt động tư pháp nói chung và hoạt động TTDS nói riêng.
Trong giai đoạn mới, vai trò lãnh đạo của Đảng trong hoạt động tư pháp và hoạt
động tố tụng của VKSND đã được thể hiện rõ ràng thông qua việc Bộ Chính trị ban
hành các Nghị quyết, Kết luận. Những điều này là tiêu chuẩn mục tiêu cho công
việc cải cách tư pháp hiện nay, nhằm mục tiêu là bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của công dân trong hoạt động tố tụng của VKSND. Hai là, cần quán triệt quan
điểm, chủ trương, đường lối của Đảng nhằm tăng cường việc bảo vệ QCN đối với
hoạt động TTDS của VKSND. Về vai trò lãnh đạo của Đảng cần được quán triệt
quan điểm, Đảng không bao biện, làm thay, không tham gia trực tiếp vào hoạt động
tư pháp mà là lãnh đạo thông qua đường lối, chủ trương, quan điểm của Đảng, trong
công tác tổ chức cán bộ, công tác kiểm tra, giám sát trong hoạt động TTDS .. Mặt
khác, việc lãnh đạo của Đảng không làm giảm bớt sự tự giác, chủ động mà làm cho
việc thực hiện chức trách, nhiệm vụ phù hợp với chủ trương, đường lối của Đảng.
Ba là, Đảng lãnh đạo có chiến lược, toàn diện đối với việc tổ chức và hoạt động của
hệ thống cơ quan VKSND về dài hạn cũng như đối với mỗi thời kỳ cụ thể; trong
việc lãnh đạo toàn diện đối với bộ máy, tổ chức và hoạt động của VKSND; đối với
việc đào tạo, bố trí, quy hoạch, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ Kiểm sát; trong việc kiểm
tra, giám sát các hoạt động tố tụng của VKSND và đối với việc kiểm tra tư cách của
đảng viên thuộc hệ thống cơ quan VKSND.
Thứ hai, cần nâng cao ý thức và bảo đảm quyền làm chủ của người dân đối
với việc bảo vệ QCN thông qua hoạt động TTDS của VKSND, nhất là thông qua
thực hiện các quyền dân chủ trực tiếp, dân chủ hình thức, thông qua hoạt động đoàn
thể quần chúng, cơ quan truyền thông, báo chí. Nhìn trên khía cạnh bảo vệ QCN
cũng cần phải nâng cao nhận thức một cách sâu sắc, đầy đủ và đúng đắn đối với
hoạt động của VKSND giúp người dân nhận thức đúng vị trí, quyền hạn, chức năng,
trách nhiệm của VKSND, khi ấy quyền và lợi ích của người dân, QCN mới thật sự
được bảo vệ. Mặt khác, cần vận động người dân chấp hành pháp luật và coi trọng
hoạt động của VKSND trong bảo vệ QCN. Với vai trò là cơ quan bảo vệ pháp luật,
100
VKSND thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật của cơ quan trực
tiếp thực hiện hoạt động TTDS là Toà án. Việc thực hiện hiệu quả chức năng,
nhiệm vụ kiểm sát sẽ bảo vệ quyền của pháp nhân, người dân tham gia hoạt động
TTDS, hướng đến bảo đảm quyền làm chủ của người dân một cách hiệu quả. Để
thực hiện mục tiêu trên, các cơ quan báo chí và truyền thông cần tăng cường việc
tuyên truyền về vai trò của hoạt động kiểm sát đối với giao dịch dân sự, qua đó,
tuyên truyền về trách nhiệm của VKSND trong công tác bảo vệ pháp luật, bảo vệ
QCN.
Thứ ba, công tác bảo vệ QCN của VKSND có mối liên hệ chặt chẽ với trình
độ hiểu biết và ý thức pháp luật của nhân dân. Thực trạng của hoạt động của từng
ngành công tác cho thấy, một trong các nguyên nhân chủ yếu dẫn tới tình trạng xâm
phạm QCN đối với hoạt động tư pháp là do trình độ hiểu biết pháp luật của một số
tầng lớp nhân dân không đồng đều, ý thức pháp luật không cao. Do đó, cần thiết
phải đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về bảo vệ QCN
đối với đời sống nhân dân nói chung và đối với hoạt động TTDS nói riêng giúp
nhân dân hiểu biết và tự giác chấp hành pháp luật. Một trong những hình thức phổ
cập của công tác lưu động là tổ chức các phiên toà lưu động xét xử ở nơi dân cư
sinh sống nhằm tuyên tuyền pháp luật đối với vi phạm QCN.
3.2.1.2 Hoàn thiện pháp luật tố tụng bảo vệ QCN trong hoạt động TTDS
của VKSND
Để đảm bảo tính pháp lý trong hoạt động TTDS của VKSND, việc xây dựng
hệ thống các quy định pháp luật hoàn chỉnh trong lĩnh vực này là điều hết sức cần
thiết. Cụ thể, một số quy định của BLTTDS năm 2015 cần được sửa đổi, bổ sung:
Thứ nhất, về việc nguyên đơn rút đơn khởi kiện trước khi mở phiên tòa hoặc
tại phiên tòa phúc thẩm. Để đảm bảo nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự,
nhằm khuyến khích và đảm bảo quyền tự định đoạt của nguyên đơn dân sự trong
TTDS, không nên qui định việc nguyên đơn rút yêu cầu khởi kiện ở cấp sơ thẩm khi
được sự chấp thuận của bị đơn theo điểm a khoản 1 Điều 299 BLTTDS năm 2015.
Bởi nếu làm như thế sẽ vi phạm nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự bởi vì
101
đối với các vụ việc dân sự, đương sự ngoài quyền tự mình giải quyết yêu cầu hay
không yêu cầu Toà án giải quyết, thì họ cũng có quyền sửa đổi, bổ sung, rút một
phần hoặc tất cả các yêu cầu khởi kiện của đương sự tại từng giai đoạn tố tụng. Do
vậy, để phù hợp và không vi phạm nguyên tắc trên chúng ta phải sửa đổi khoản 1
Điều 299 BLTTDS năm 2015 theo hướng cho phép đương sự được tốt nhất quyền
tự định đoạt của đương sự trong TTDS. Nếu bị đơn cảm thấy dù nguyên đơn có
khởi kiện hay rút đơn khởi kiện mà gây tổn hại cho họ đối với uy tín, nhân phẩm
hoặc với tài sản thì họ có quyền yêu cầu nguyên đơn bồi thường thiệt hại. Theo đó,
nên sửa Điều 299. Nguyên đơn rút đơn khởi kiện trước khi mở phiên tòa hoặc tại
phiên tòa phúc thẩm: Trước khi mở phiên tòa hoặc tại phiên tòa phúc thẩm, nếu
nguyên đơn rút đơn khởi kiện thì Hội đồng xét xử phúc thẩm ra quyết định hủy bản
án sơ thẩm và đình chỉ giải quyết vụ án. Trong trường hợp này, các đương sự vẫn
phải chịu án phí sơ thẩm theo quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm và phải chịu một
nửa án phí phúc thẩm theo quy định của pháp luật. Nguyên đơn có nghĩa vụ bồi
thường thiệt hại cho bị đơn nếu việc khởi kiện và rút đơn khởi kiện gây tổn hại về
danh dự, uy tín hoặc tài sản của bị đơn.
Thứ hai, Về việc bảo đảm quyền của bị đơn thực hiện phản tố trước phiên
tòa, cần phải có quy định bổ sung về thời điểm mà bị đơn thực hiện phản tố trước
phiên tòa. Ngoài ra, cần phải quy định rõ ràng về quyền của nguyên đơn để thay đổi
hoặc bổ sung yêu cầu khởi kiện, cũng như quyền của bị đơn để thay đổi hoặc bổ
sung yêu cầu phản tố. Đồng thời, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan cũng cần
được phép yêu cầu điều chỉnh yêu cầu của họ trong mọi giai đoạn của tố tụng (Điều
227,243, 244). Mục tiêu của việc này là tránh trường hợp một trong hai bên lạm
dụng việc thực hiện quyền này gây khó khăn cho bên kia và gây chậm trễ trong giải
quyết việc dân sự. Do đó, việc thay đổi hoặc bổ sung yêu cầu của các bên tại phiên
tòa chỉ được chấp nhận nếu không làm trì hoãn phiên tòa.
Thứ ba, sự hiện diện của KSV cần phải được bắt buộc khi tham dự phiên họp
để xem xét và giải quyết khiếu nại, kiến nghị theo quy định tại Điều 194 BLTTDS
năm 2015. Đồng thời, cũng cần phải quy định bắt buộc sự hiện diện của KSV tại
102
các phiên họp, phiên tòa sơ thẩm, phúc thẩm mà không có kháng nghị từ VKS nhằm
đảm bảo tuân thủ pháp luật tố tụng của những người tiến hành tố tụng và người
tham gia tố tụng. Những biện pháp này được áp dụng để bảo vệ quyền lợi của người
khởi kiện trong quá trình giải quyết vụ án dân sự. Các quy định này là hoàn toàn
cần thiết và điều chỉnh khoảng trống trong việc thi hành luật. Theo Điều 21
BLTTDS năm 2015 về việc tham gia phiên tòa, phiên họp của VKS (KSV), đã có
sẵn các điều lệ. Tuy nhiên, theo khoản 1 Điều 232 BLTTDS năm 2015 lại có điều lệ
khác cho việc hiện diện của KSV: “KSV được Viện trưởng VKS cùng cấp phân công
để tham gia phiên tòa; trường hợp vắng mặt, Hội đồng xét xử vẫn tiếp tục triển khai
xét xử”. Một mặt khác, theo khoản 1 Điều 296 BLTTDS năm 2015, không có điểm
luật qui định cho việc vắng mặt KSV trong các trường hợp hoãn phiên tòa phúc
thẩm. Do đó, những qui định này gây ra những bất tiện cho KSV và không cho phép
họ kiểm tra diễn biến trong phiên tòa để có ý kiến và hiểu rõ vụ án. Bởi lẽ công việc
của KSV rất nhiều và trong một số trường hợp một KSV có thể được giao hai hoặc
nhiều vụ án vào cùng một thời điểm hoặc do yêu cầu từ các vụ án kéo dài khiến cho
KSV không kịp xuất hiện hoặc vào ngày xét xử đã được chỉ định như là ốm hoặc
gặp rủi ro khi di chuyển trên đường giao thông. Trong những trường hợp này, KSV
sẽ không có khả năng đưa ra ý kiến trong các phiên toà hay phiên họp.
Thứ tư, về thời hạn nghiên cứu hồ sơ của VKS là 15 ngày (khoản 2 Điều 220
BLTTDS). Như vậy, trên thực tế trong hạn 15 ngày dĩ nhiên trong đó có 04 ngày
nghỉ là thứ bảy và chủ nhật, chỉ có 11 ngày, nếu tính thời gian thực hiện việc nhận –
trả - thụ lý vào sổ - phân công KSV nhanh nhất thì KSV chỉ được tiếp cận, nghiên
cứu hồ sơ nhiều nhất là 10 ngày, nên không thể đủ để KSV có thể hoàn thành việc
nghiên cứu hồ sơ vụ án một cách toàn diện và thận trọng. Do đó, về thời hạn nghiên
cứu hồ sơ vụ án quy định tại Điều 220 BLTTDS năm 2015, cần sửa đổi theo hướng
thêm hai chữ:“làm việc” sau cụm từ: “trong thời hạn 15 ngày”.
Thứ năm, bổ sung, sửa đổi các quy định về việc, yêu cầu Tòa án xác minh,
thu thập chứng cứ: BLTTDS năm 2015 quy định KSV có quyền “…Nghiên cứu hồ
sơ vụ việc, yêu cầu Tòa án xác minh, thu thập chứng cứ trong quá trình giải quyết
103
vụ việc dân sự theo quy định của Bộ luật này,…”. Tuy nhiên, trong quá trình kiểm
sát khi KSV yêu cầu xác minh, thu thập chứng cứ nhưng Tòa án không thực hiện
hoặc thực hiện không đầy đủ thì phải chịu trách nhiệm như thế nào thì luật không
quy định. Tại phiên tòa phúc thẩm khi cần phải xác minh, thu thập bổ sung tài liệu
chứng cứ… Tòa án căn cứ Điều 259 BLTTDS để tạm ngưng phiên tòa, thời hạn tạm
ngưng không quá 01 tháng. Tuy nhiên khi Tòa án thu thập được tài liệu, chứng cứ
bổ sung thông thường gần đến ngày mở lại phiên tòa thì mới chuyển tài liệu, chứng
cứ thu thập bổ sung cho VKS, dẫn đến việc KSV rất bị động không có thời gian để
nghiên cứu báo cáo đề xuất lại kịp thời khi Tòa án mở lại phiên tòa xét xử. Luật
chưa có quy định thời hạn Tòa án phải chuyển tài liệu chứng cứ thu thập bổ sung
cho VKS. Đối với các chứng cứ Tòa án đã yêu cầu đương sự giao nộp nhưng không
giao nộp được vì lý do khách quan ngay tại tòa mới xuất trình thì đương sự phải
chứng minh lý do chính đáng. Việc luật quy định “lý do chính đáng” trong trường
hợp này là còn chung chung, khó áp dụng và dễ tùy tiện.
Thứ sáu, sửa đổi, bổ sung quy định tại khoản 2 Điều 192 BLTTDS hoặc liên
ngành trung ương cần sửa đổi, bổ sung về việc: khi Tòa án ra thông báo trả lại đơn
khởi kiện phải gửi kèm theo đơn khởi kiện cùng các tài liệu chứng cứ kèm theo cho
VKS. Bổ sung tại khoản 2, Điều 192 BLTTDS 2015 về thời hạn gửi văn bản thông
báo trả lại đơn khởi kiện của Tòa án cho VKS trong một thời hạn cụ thể.
3.2.1.3 Đổi mới về tổ chức và hoạt động của VKSND
Yêu cầu bức thiết về việc đổi mới tổ chức và hoạt động của VKSND hiện
nay đã được đặt ra, cụ thể:
Đổi mới về tổ chức bộ máy của VKSND các cấp
Việc nghiên cứu và sắp xếp tổ chức bộ máy, xây dựng đội ngũ cán bộ các
đơn vị trực thuộc VKSND tối cao phải được phối hợp một cách hài hòa với yêu cầu
nhiệm vụ làm nơi công tác của mọi cá nhân. Điều này giúp đảm bảo sự lãnh đạo tập
trung thống nhất của Viện trưởng VKSND tối cao. Thứ nhất, việc kiện toàn tổ chức
bộ máy VKS phải phù hợp hoàn toàn với thực tế công việc, khả năng của các cán bộ
104
và yêu cầu thực hiện nhiệm vụ đã được giao. Quá trình rà soát, quy hoạch, bổ nhiệm
và lãnh đạo VKSND các cấp phải chú trọng vào việc tìm ra các cá nhân có năng lực
và phẩm chất đạo đức tốt để bổ nhiệm vào các chức vụ lãnh đạo quản lý, điển hình
là ưu tiên cho cán bộ trẻ và cán bộ nữ. Thứ hai, xây dựng một số cơ quan chuyên
sâu trong hệ thống của VKSND, nhấn mạnh sự tập trung và chuyên nghiệp trong
việc thực hiện các nhiệm vụ kiểm sát cụ thể. Thứ ba, hệ thống cơ quan VKS từ
trung ương đến địa phương cũng cần được tạo ra và duy trì. Việc này giúp đảm bảo
rằng việc chỉ đạo, hướng dẫn nghiệp vụ cho VKSND cấp dưới diễn ra thường xuyên
và hiệu quả. Thứ tư, chúng ta cũng nên tăng cường phối hợp, trao đổi giữa các cơ
quan VKS. Điều này giúp chia sẻ kinh nghiệm và hỗ trợ lẫn nhau trong công tác
kiểm sát, qua đó nâng cao khả năng hoàn thành công việc theo pháp luật. Mục tiêu
xây dựng đội ngũ KSV “Vững về chính trị, giỏi về nghiệp vụ, tinh thông về pháp
luật, công tâm và bản lĩnh, kỷ cương và trách nhiệm” không thể thiếu vai trò của
các hoạt động này. Thứ năm, VKSND tối cao phải tiếp tục tổ chức các buổi sơ kết,
tổng kết rút kinh nghiệm để học hỏi từ thành công và thất bại của các VKS địa
phương trong việc giải quyết các vụ việc dân sự và các hoạt động khác liên quan.
Việc này giúp làm rõ những điểm mạnh và yếu để có những biện pháp khắc phục
hiệu quả. Thứ sáu, tiếp tục tổ chức tập huấn chuyên đề, phổ biến rút kinh nghiệm
những vụ án mà VKS kháng nghị có kết quả tốt, được Hội đồng xét xử chấp thuận
kháng nghị huỷ án, sửa án để các cơ quan cấp dưới tiếp tục tham khảo, học hỏi, rút
kinh nghiệm. Thứ bảy, VKSND tối cao cần tổ chức những buổi tập huấn theo từng
chủ đề, vừa có tính khoa học, vừa có tính thực tế, thích hợp với từng đối tượng. Có
thể tổ chức bằng việc mở các lớp tập huấn theo các Bộ luật, Pháp lệnh, theo Nghị
quyết của Hội đồng thẩm phán TAND Tối cao, Thông tư liên tịch hoặc các quy định
pháp luật có liên quan.
Đổi mới phương thức quản lý, điều hành trong ngành Kiểm sát nhân dân
Việc đổi mới công tác quản lý, chỉ đạo điều hành đối với ngành Kiểm sát sẽ
giúp bảo đảm việc thực thi tốt chức trách, nhiệm vụ của ngành kiểm sát đáp ứng yêu
cầu bảo vệ QCN trong hoạt động TTDS. Vì vậy, công tác quản lý, chỉ đạo, điều
105
hành của thủ trưởng VKSND cùng cấp đối với ngành kiểm sát cũng phải đổi mới,
cần thực hiện đồng bộ các giải pháp như: Thứ nhất, cần tăng cường công tác quản
lý, chỉ đạo, điều hành của Viện trưởng VKS cùng cấp, tăng cường hoạt động quản
lý giám sát, đôn đốc và gắn kết hoạt động của mình với VKS địa phương. Các đơn
vị của VKSND tối cao phải tập hợp được những sai phạm, vi phạm phổ biến, điển
hình trong quá trình giải quyết các vụ việc dân sự để thông báo cho VKS địa
phương nhận diện, rút kinh nghiệm và nâng cao kỹ năng kiểm sát các hoạt động tư
pháp, đặc biệt là hoạt động TTDS. Tăng cường công tác hướng dẫn về nghiệp vụ,
giải đáp khó khăn, vướng mắc đối với cơ sở trong việc thực hiện chức trách nhiệm
vụ được giao. Các Vụ nghiệp vụ của VKSND tối cao cần thường xuyên đến với cơ
sở, nắm bắt kịp thời tình hình để chỉ đạo công tác nghiệp vụ, tháo gỡ khó khăn,
vướng mắc đối với cơ sở. Thứ hai, thủ trưởng VKS cùng cấp phải nêu cao trách
nhiệm thực hiện quyền kiến nghị, đề xuất và trách nhiệm chỉ đạo KSV kiểm sát chặt
chẽ việc giải quyết vụ việc dân sự từ khi thụ lý và xét xử đến thời điểm chấm dứt
việc giải quyết vụ án, đảm bảo KSV tham dự 100% số cuộc xét xử của Toà án. Hơn
nữa, phải quan tâm bố trí đầy đủ KSV có trình độ để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ
công tác kiểm sát các vụ án dân sự. Tóm lại, việc thay đổi cách thức quản lí, chỉ đạo
công tác đối với ngành Kiểm sát sẽ góp phần bảo đảm việc thực hiện tốt hơn nhiệm
vụ của cơ quan kiểm sát đối với công tác bảo vệ QCN, đương sự trong công tác giải
quyết các tranh chấp dân sự có hiệu lực.
3.2.1.4 Hoàn thiện cơ chế phân công, phối hợp và kiểm soát giữa VKSND
với Tòa án và các cơ quan hữu quan
Tăng cường bảo vệ QCN thông qua hoạt động kiểm sát giải quyết các vụ
việc dân sự đòi hỏi phải hoàn thiện cơ chế phân công, phối hợp và kiểm soát giữa
VKSND, Tòa án và các cơ quan hữu quan. Điều này nhằm đảm bảo quyền lợi hợp
pháp của người dân được bảo vệ một cách toàn diện, minh bạch và công bằng.
Hoàn thiện cơ chế phân công: Cần có sự phân định rõ ràng và cụ thể về trách
nhiệm và quyền hạn giữa VKSND, Tòa án và các cơ quan hữu quan trong quá trình
giải quyết các vụ việc dân sự. Điều này giúp tránh tình trạng chồng chéo, bỏ sót
106
nhiệm vụ và nâng cao hiệu quả công việc. Hệ thống pháp luật cần quy định rõ ràng
về chức năng, nhiệm vụ của từng cơ quan trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự,
đảm bảo không có lỗ hổng pháp lý và tạo điều kiện thuận lợi cho các bên liên quan
thực hiện nhiệm vụ của mình.
Tăng cường phối hợp: Thiết lập các quy chế phối hợp giữa VKSND, Tòa án
và các cơ quan hữu quan để đảm bảo sự phối hợp nhịp nhàng và hiệu quả trong việc
giải quyết các vụ việc dân sự. Quy chế này cần bao gồm các quy định về chia sẻ
thông tin, hỗ trợ kỹ thuật và cùng tham gia vào các hoạt động điều tra, xét xử và thi
hành án. Tổ chức các hội nghị liên ngành định kỳ để trao đổi, đánh giá và rút kinh
nghiệm trong việc giải quyết các vụ việc dân sự, qua đó kịp thời giải quyết các
vướng mắc phát sinh và đề ra các giải pháp cải thiện.
Phối hợp trong việc đào tạo, bồi dưỡng: Tổ chức các chương trình đào tạo
liên ngành, bồi dưỡng chung cho cán bộ của VKSND, Tòa án và các cơ quan hữu
quan nhằm nâng cao nhận thức, kiến thức và kỹ năng về bảo vệ QCN trong quá
trình giải quyết các vụ việc dân sự. Tạo điều kiện cho cán bộ các cơ quan liên ngành
trao đổi kinh nghiệm và học hỏi các thực tiễn tốt từ nhau, qua đó nâng cao hiệu quả
công tác bảo vệ QCN.
Kiểm soát hiệu quả: Thiết lập cơ chế giám sát độc lập giữa các cơ quan để
đảm bảo việc giải quyết các vụ việc dân sự được thực hiện đúng pháp luật, minh
bạch và công bằng. Việc giám sát này cần được thực hiện bởi các cơ quan hoặc tổ
chức có thẩm quyền và độc lập với các bên liên quan. Thực hiện báo cáo và đánh
giá thường xuyên về hoạt động giải quyết các vụ việc dân sự, qua đó phát hiện và
khắc phục kịp thời các sai phạm, vi phạm pháp luật. VKSND và Tòa án cần thực
hiện kiểm tra nội bộ định kỳ để đảm bảo các quy trình, thủ tục giải quyết các vụ
việc dân sự được tuân thủ đúng pháp luật, nâng cao chất lượng và hiệu quả công
tác. Khi phát hiện các sai phạm, vi phạm pháp luật trong quá trình giải quyết các vụ
việc dân sự, cần xử lý nghiêm minh, công khai và minh bạch để đảm bảo tính răn đe
và giữ vững niềm tin của nhân dân vào hệ thống tư pháp.
107
3.2.1.5 Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát trong ngành
Kiểm sát
Việc tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra được coi là một biện pháp quan
trọng trong việc bảo vệ quyền lợi của con người trong hoạt động TTDS của
VKSND. Thông qua hoạt động thanh tra, kiểm tra, yếu kém và tồn tại trong công
tác có thể được phát hiện kịp thời để đưa ra biện pháp khắc phục. Đồng thời, trường
hợp vi phạm phẩm chất và đạo đức nghề nghiệp trong công tác sẽ được xử lý một
cách kiên quyết. VKS cấp trên cần đẩy mạnh công tác kiểm tra việc ban hành và tổ
chức thực hiện chương trình công tác của VKSND cấp dưới, kế hoạch công tác, chỉ
thị công tác của từng phòng ban và của cơ quan VKSND cấp trên phù hợp với việc
thực hiện các nhiệm vụ đã được quy định tại từng văn bản của ngành và của các địa
phương. Đây là hoạt động giám sát bên trong của cơ quan VKSND đem lại hiệu quả
cao. Bên cạnh đó, cần đẩy mạnh hoạt động giám sát ở bên ngoài của VKSND bao
gồm: Hoạt động giám sát của cơ quan dân cử: Quốc hội, các Uỷ ban của Quốc hội,
Đoàn Đại biểu Quốc hội, Văn phòng Quốc hội, Hội đồng nhân dân cùng cấp; Hoạt
động giám sát dân chủ trực tiếp của nhân dân thông qua các đoàn thể chính trị - xã
hội: Mặt trận tổ quốc Việt Nam và Hội đồng nhân dân; Hoạt động giám sát của các
cơ quan tư pháp theo cơ chế kiểm soát, chế ước tương tự như Toà án; Hoạt động
giám sát nội bộ được bảo đảm thông qua chế độ thanh tra, kiểm tra của cấp trên
trong ngành kiểm sát. Cơ chế thanh tra, kiểm tra, giám sát cần được thực hiện đồng
bộ, phù hợp là một trong những điều kiện đảm bảo cho việc thực hiện nhiệm vụ
KSHĐTP trong TTDS của VKSND có hiệu quả, đảm bảo, hạn chế được việc lạm
quyền, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền lợi của đương sự trong TTDS. Qua
hoạt động trên, khi phát hiện vi phạm pháp luật, xâm phạm quyền QCN trong hoạt
động TTDS, thì các cơ quan quản lý nhà nước, cá nhân có liên quan cần phải
nghiêm khắc xử lý các cơ quan, tổ chức trực thuộc VKSND cùng cấp có hành vi vi
phạm trên.
3.2.1.6 Nâng cao chất lượng đội ngũ KSV
108
Để bảo vệ QCN trong hoạt động TTDS của VKSND có hiệu quả, việc đổi
mới tổ chức và hệ thống VKSND cần phải được thực hiện. Công tác quản lý, điều
hành của lãnh đạo ngành kiểm sát cũng cần phải được tăng cường. Đặc biệt chú
trọng vào việc nâng cao chất lượng đội ngũ KSV. Để nâng cao chất lượng đội ngũ
KSV để thực hiện tốt nhiệm vụ bảo vệ QCN trong hoạt động TTDS, thứ nhất, việc
cần được thực hiện nhằm bảo đảm rằng ý thức, nhận thức và bản lĩnh chính trị,
phẩm chất đạo đức của KSV khi thực hiện chức năng KSHĐTP trong hoạt động
TTDS đã được nâng cao. Điều này cũng là một yêu cầu quan trọng và khách quan
trong giai đoạn hiện nay. Vì vậy, nhận thức và tuân theo đường lối, chính sách của
Đảng cần được nâng cao và áp dụng đúng quan điểm của Đảng trong việc thực hiện
chức năng, nhiệm vụ phải được quán triệt tới mỗi KSV. Trong quá trình giải quyết
các vụ án dân sự, KSV thường xuyên tiếp xúc với những mặt trái của xã hội và phải
đương diện với nhiều cám dỗ vật chất và quyền lợi từ các đối tượng khác nhau. Nếu
không được trau dồi phẩm chất đạo đức và rèn luyện ý thức chính trị, KSV rất dễ bị
ảnh hưởng tiêu cực từ những cám dỗ này nên mỗi KSV phải tự mình rèn luyện ý
thức và trách nhiệm. Thứ hai, Nâng cao trình độ, kỹ năng, nghiệp vụ, bảo đảm đủ số
lượng KSV thực hiện chức trách, nhiệm vụ nhằm bảo đảm quyền tư pháp thông qua
hoạt động kiểm sát của VKSND có hiệu quả. Đây là nội dung của công tác tổ chức
cán bộ đối với ngành KSND, do vậy, cần sự quan tâm của lãnh đạo VKSND cùng
cấp để tăng cường rà soát, kiểm tra, nắm bắt thực trạng đội ngũ KSV cơ quan, cấp
trên trực tiếp kiểm sát nhằm xác định năng lực, trình độ chuyên môn nghiệp vụ.
Trường hợp KSV nào để xảy ra tình trạng bản án phải huỷ, sửa vì thiếu tinh thần
trách nhiệm, hoặc trình độ năng lực yếu, thì lãnh đạo cần cương quyết điều động
qua thực hiện nhiệm vụ khác. Mặt khác, lãnh đạo VKSND các cấp cần quan tâm
công tác đào tạo đội ngũ cán bộ, KSV nữ có năng lực, đội ngũ cán bộ, KSV có đủ
điều kiện dự tuyển vào ngạch KSV theo luật định, nhằm bổ sung kịp thời đội ngũ
KSV có năng lực đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ đề ra. Bên cạnh đó, VKSND các cấp
cần có kế hoạch bảo đảm chất lượng KSV, chuẩn hoá KSV phù hợp với yêu cầu,
đặc điểm nhiệm vụ riêng của mỗi đơn vị. Trong đó, chú ý đào tạo đội ngũ KSV có
109
thâm niên trong công tác kiểm sát kết hợp với tiếp tục quan tâm tuyển dụng, đào tạo
đội ngũ KSV trẻ tuổi có năng lực, hướng đến xây dựng, thực hiện chuẩn hoá KSV.
Thứ ba, nâng cao chất lượng công tác tuyển dụng, bổ nhiệm, đào tạo, bồi dưỡng,
luân chuyển cán bộ, KSV đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp, bảo vệ QCN trong hoạt
động TTDS. Trước hết, cần phải triển khai có hiệu quả công tác tuyển dụng của
ngành KSND phải đảm bảo theo quy chế tuyển dụng cán bộ, công chức, viên chức
của Nhà nước và của Ngành kiểm sát, đặc biệt phải đảm bảo công bằng, minh bạch.
Cần có cơ chế xét tuyển đang được thực hiện tại một vài địa phương miền núi,
chính sách xét tuyển điểm chỉ nên áp dụng cho đối tượng là đồng bào dân tộc thiểu
số tại các địa phương vùng sâu, vùng xa. Số lượng hồ sơ dự tuyển phải có ít nhất
nhiều hơn số hồ sơ cần tuyển dụng để có sự lựa chọn. Đặc biệt chú ý tới công tác
đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ KSV cả về trình độ chuyên môn, nghiệp vụ và trình độ
học tập, rèn luyện, bồi dưỡng chính trị, đạo đức nghề nghiệp. Trong công tác đào
tạo, bồi dưỡng, bố trí đội ngũ KSV cần chú ý bố trí, sắp xếp sao cho tương xứng với
trình độ của KSV, cũng như tính chất từng lĩnh vực công tác của VKSND. Hoàn
thiện công tác đào tạo cán bộ, công tác kiểm sát hoạt động tư pháp đáp ứng yêu cầu
công tác, bảo đảm các phương tiện phục vụ chuyên môn cho cán bộ, bảo đảm điều
kiện để cán bộ công tác theo đúng chuyên ngành, lĩnh vực đào tạo; Rà soát, đào tạo,
bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ đội ngũ KSV, KTV các cấp (sơ
cấp, trung cấp, cao cấp, KSV VKSND tối cao) giải quyết án dân sự theo hướng
chuyên môn hoá, có trình độ và năng lực đối với lĩnh vực kiểm sát giải quyết vụ án
dân sự để nâng cao chất lượng công tác kiểm sát đối với lĩnh vực này. Cần chú
trọng đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn về nghiệp vụ biên tập, soạn thảo hồ sơ án,
kháng nghị đối với đội ngũ KSV, KTV, cán bộ thực hiện công tác kiểm sát giải
quyết án dân sự.
3.2.1.7 Cải thiện cơ sở vật chất, phương tiện làm việc và tăng cường chế độ
lương, phụ cấp ưu đãi cho đội ngũ cán bộ, KSV.
Nghị quyết 49 – NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về công tác tư
pháp đã nêu rõ: Xây dựng và hoàn chỉnh chế độ phân cấp kinh phí đối với từng cơ
110
quan và hoạt động tư pháp theo hướng kinh phí tư pháp được Quốc hội bố trí và
phân cấp cho từng cơ quan tư pháp trực tiếp quản lí và sử dụng, từng bước xây
dựng trụ sở làm việc hiện đại, đầy đủ tiện nghi, tăng cường ứng dụng công nghệ
thông tin phục vụ hoạt động của các cơ quan tư pháp. Vì vậy, việc tăng cường cơ sở
vật chất, trang thiết bị, phương tiện làm việc đối với ngành kiểm sát là yêu cầu rất
quan trọng và cấp thiết đối với thời điểm hiện nay. Có cơ sở vật chất tốt, trang thiết
bị và phương tiện tốt thì sẽ đảm bảo được hoạt động chuyên môn của ngành kiểm
sát. Để có đầy đủ nguồn lực thực hiện được các chức năng, nhiệm vụ của ngành
kiểm sát phải tăng cường cơ sở vật chất, phương tiện làm việc cho VKSND các cấp,
xây dựng hệ thống trụ sở làm việc của Ngành kiểm sát hiện đại. Tăng cường nguồn
kinh phí đầu tư cho trang thiết bị, phương tiện phục vụ hoạt động của ngành kiểm
sát. VKSND tối cao phải chủ trì xây dựng đề án tăng cường cơ sở vật chất, trang
thiết bị cho ngành kiểm sát trình các cơ quan có thẩm quyền phê chuẩn nhằm đảm
bảo yêu cầu cơ sở vật chất phục vụ các hoạt động hành nghề của KSV nhằm đem lại
hiệu suất làm việc cao và đảm bảo an toàn, góp phần thực hiện tốt tôn chỉ, mục đích
của chiến lược cải cách tư pháp đã đặt ra. Chính vì thế, đầu tư cơ sở vật chất, kỹ
thuật đối với VKSND là sự đầu tư cần thiết cả về nguồn lực, qui mô cũng như chất
lượng có ý nghĩa quan trọng đối với hoạt động của hệ thống các cơ quan tư pháp nói
chung và VKSND nói riêng. Đó là đầu tư vào việc xây dựng hệ thống các trụ sở làm
việc, trang cung cấp các phương tiện dụng cụ để phục vụ tốt hoạt động kiểm sát các
hoạt động tư pháp của VKSND. Việc đảm bảo cơ sở vật chất kỹ thuật đối với
VKSND cũng đòi hỏi sự bổ sung đầy đủ về trang thiết bị kỹ thuật tiên tiến để phục
vụ các hoạt động của VKSND hoà nhập với hoạt động tư pháp quốc tế, phù hợp với
sự hội nhập quốc tế của Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hoá.
3.2.2 Giải pháp riêng áp dụng đối với VKSND tỉnh Đắk Lắk
3.2.2.1. Nâng cao nhận thức của KSV về QCN và trách nhiệm bảo vệ QCN
thông qua hoạt động kiểm sát giải quyết các vụ việc dân sự
Tiếp tục quán triệt và nâng cao nhận thức cho cán bộ, KSV làm công tác
kiểm sát việc giải quyết các vụ án dân sự tại đơn vị, VKSND cấp mình về các quy
111
định của Luật tổ chức VKSND năm 2014, BLTTDS năm 2015 và các văn bản pháp
luật khác có liên quan như Chỉ thị số 04/CT- VKSTC ngày 22/3/2018 của Viện
trưởng VKSND tối cao về tăng cường các biện pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả
công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân gia đình, hành chính,
kinh doanh thương mại, lao động và những việc khác theo quy định của pháp
luật; Chỉ thị số 10/CT-VKSTC ngày 06/4/2016 của Viện trưởng VKSND tối cao
“Về tăng cường công tác kháng nghị phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm các vụ
việc dân sự, vụ án hành chính”; quán triệt, thực hiện đầy đủ: “Quy định về hướng
dẫn hoạt động của KSV tham gia phiên tòa dân sự sơ thẩm” (Ban hành kèm theo
Quyết định số 458/QĐ-VKSTC ngày 04/10/2019 của Viện trưởng VKSND tối cao);
“Quy định về hướng dẫn hoạt động của KSV tham gia phiên tòa dân sự phúc thẩm”
(Ban hành kèm theo Quyết định số 363/QĐ-VKSTC ngày 12/10/2020 của Viện
trưởng VKSND tối cao); Hướng dẫn số 33/HD-VKSTC ngày 18/10/2019; “Hướng
dẫn phát hiện vi phạm của bản án, quyết định dân sự, thực hiện thẩm quyền kháng
nghị ngang cấp theo thủ tục phúc thẩm nhằm giảm tỷ lệ bản án, quyết định của Tòa
án bị Tòa án cấp trên hủy có trách nhiệm của VKS ngang cấp, đông thời nâng cao
tỷ lệ chất lượng kháng nghị phúc thẩm của VKS ngang cấp”; các quy định của pháp
luật; các Chỉ thị, Hướng dẫn của ngành về Công tác kiểm sát giải quyết các vụ việc
dân sự... Chú trọng đến các nội dung quy định mới về việc thực hiện nhiệm vụ,
quyền hạn của VKSND, các quy định, quy chế nghiệp vụ của ngành để các cán bộ,
KSV trong đơn vị hiểu được ý nghĩa và tầm quan trọng trong việc bảo vệ QCN
thông qua công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ việc dân sự. Việc thực hiện tốt
và có hiệu quả công tác này, ngoài việc giúp cho chúng ta thực hiện tốt chức năng,
nhiệm vụ chung của ngành, sẽ còn góp phần nâng cao hình ảnh, vị thế của ngành
Kiểm sát nhân dân trong khối các cơ quan tố tụng nói riêng và trong toàn hệ thống
chính trị của Nhà nước ta nói chung, bảo vệ quyền và lợi ích của công dân.
3.2.2.2. Nâng cao năng lực thực thi pháp luật trong hoạt động kiểm sát giải
quyết các vụ việc dân sự
112
VKS hai cấp cần tiếp tục xác định nâng cao chất lượng công tác kiểm sát việc
giải quyết các vụ việc dân sự là nhiệm vụ trọng tâm, chú trọng nâng cao chất lượng
kiến nghị, kháng nghị phúc thẩm. Cần tập trung nâng cao chất lượng kiểm sát án cấp
huyện, cấp tỉnh, những vụ việc mà VKS không tham gia phiên tòa nhằm tăng cường
hơn nữa việc phát hiện vi phạm để kháng nghị, kiến nghị. Tiếp tục thực hiện nghiêm
chỉ đạo của Viện trưởng VKSND tối cao yêu cầu Viện trưởng VKS các cấp trực tiếp
chịu trách nhiệm trong lĩnh vực công tác này; trực tiếp nghe báo cáo, quyết định việc
kháng nghị, bổ sung, rút kháng nghị; tập trung hơn nữa trong công tác chỉ đạo, chủ
động đề ra các giải pháp hiệu quả nhằm nâng cao chất lượng kiểm sát việc giải quyết
các vụ việc dân sự phấn đấu đạt và vượt chỉ tiêu của Quốc hội và của Ngành giao.
Nâng cao hiệu quả phát hiện vi phạm để thực hiện quyền kháng nghị, kiến
nghị, chủ động kiểm sát các hoạt động tố tụng từ khi Tòa án ra thông báo thụ lý vụ
việc và trong suốt quá trình giải quyết vụ việc. Chủ động nghiên cứu, thực hiện các
hướng dẫn, thông báo rút kinh nghiệm, các tài liệu tập huấn của các hội nghị chuyên
đề về lĩnh vực công tác này. Quán triệt Nghị quyết liên tịch số 01-NQLT/BCS ngày
11/5/2023 của Ban cán sự đảng VKSND tối cao và TAND tối cao về công tác kháng
nghị giám đốc thẩm và Thông báo số 197/TB-VKSTC ngày 06/10/2023 về ý kiến chỉ
đạo của Viện trưởng VKSND tối cao tại Hội nghị giao ban công tác Quý IV năm
2023 của Cơ quan VKSND tối cao, theo đó cần nghiên cứu kỹ, lựa chọn kháng nghị
những bản án, quyết định vi phạm nghiêm trọng, rõ ràng, việc kháng nghị có tính
thuyết phục cao, kháng nghị cần lập luận sắc bén, qua đó góp phần nâng cao tỷ lệ
kháng nghị được Hội đồng xét xử chấp nhận.
Tăng cường công tác sơ kết, tổng kết, hướng dẫn, giải đáp vướng mắc về nghiệp
vụ và pháp luật cho VKS cấp dưới; tăng cường sự phối hợp giữa VKS cấp trên và
cấp dưới; VKSND cấp trên thực hiện tốt công tác hướng dẫn nghiệp vụ và trả lời thỉnh
thị; rút kinh nghiệm, ban hành thông báo rút kinh nghiệm đối với các vụ án có thiếu sót
vi phạm, phổ biến những cách làm hay, sáng tạo; tăng cường tập huấn, đào tạo, bồi
dưỡng, kiểm tra nghiệp vụ. Các VKS cấp huyện phải phối hợp, kịp thời trao đổi
thông tin với Phòng 9 và Lãnh đạo Viện phụ trách để thống nhất quan điểm, nội
113
dung trước khi kháng nghị ngang cấp. Nếu VKSND cấp huyện thấy không chắc
chắn hoặc đã hết thời hạn kháng nghị ngang cấp thì có văn bản báo cáo để Phòng 9
kịp thời tham mưu Lãnh đạo VKSND tỉnh có quan điểm chỉ đạo. Khi phát hiện có
vi phạm pháp luật nghiêm trọng làm ảnh hưởng đến việc giải quyết đúng, khách
quan vụ án, thì phải cương quyết kháng nghị, tránh tình trạng nể nang. Trường hợp
còn có vướng mắc hoặc có nhiều ý kiến đánh giá khác nhau, thì báo cáo ngay lên
các phòng nghiệp vụ và lãnh đạo VKSND tỉnh để xin ý kiến trước khi thực hiện
việc kháng nghị hoặc không kháng nghị. Sau kháng nghị, KSV cần tiếp tục theo dõi
việc giải quyết kháng nghị của cấp phúc thẩm. Nếu có tài liệu, chứng cứ mới phát
sinh làm ảnh hưởng đến nội dung kháng nghị thì phải báo cáo và sao gửi ngay các
tài liệu mới đó cho Phòng 9 VKSND tỉnh để làm căn cứ thay đổi, bổ sung hoặc rút
kháng nghị cho phù hợp.
Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra trong những lĩnh vực công tác còn
hạn chế; giảm việc thanh tra, kiểm tra theo kế hoạch; tăng cường công tác tự kiểm
tra, thanh tra nội bộ, đột xuất. Lãnh đạo Viện cần tăng cường công tác kiểm tra đối
với cán bộ, KSV về việc xây dựng hồ sơ kiểm sát, chất lượng nghiên cứu, báo cáo
đề xuất quan điểm giải quyết; rút kinh nghiệm kịp thời đối với những tồn tại, thiếu
sót.
Thực hiện công tác cán bộ theo tinh thần Nghị quyết số 40-NQ/BCSĐ ngày
30/3/2022 của Ban Cán sự đảng VKSND tối cao và Chỉ thị số 05/CT-VKSTC ngày
18/10/2022 của Viện trưởng VKSND tối cao, đó là: Lựa chọn, bố trí, đào tạo, tự đào
tạo đội ngũ KSV có bản lĩnh, giỏi chuyên môn, nghiệp vụ đảm nhiệm khâu công tác
này. Có kế hoạch xây dựng đội ngũ công chức bảo đảm đáp ứng được yêu cầu công
việc, ổn định, có tính kế thừa. Chỉ luân chuyển, điều động KSV giỏi của khâu công
tác này khi đã có nhân sự có năng lực tương đương thay thế; KSV giỏi có nguyện
vọng được gắn bó lâu dài với công tác này thì xem xét chưa luân chuyển, điều động.
Trường hợp điều kiện, tiêu chuẩn tương đương thì ưu tiên chọn KSV, công chức làm
công tác kiểm sát án dân sự để quy hoạch, bổ nhiệm. Từng bước xây dựng đội ngũ
114
chuyên gia giỏi trong công tác này ở VKS các cấp. VKS huyện cần bố trí KSV
chuyên trách để ổn định, có kinh nghiệm công tác này.
Nâng cao năng lực của đội ngũ cán bộ, KSV, tăng cường đào tạo, bồi dưỡng
đối với cán bộ, KSV. Cán bộ, KSV là những người được giao nhiệm vụ thay mặt
VKS thực hiện chức năng KSHĐTP. Việc xây dựng đội ngũ cán bộ, KSV trong
sạch, có phẩm chất chính trị, đạo đức, năng lực và trách nhiệm nhằm bảo đảm hiệu
lực, hiệu quả của hoạt động kiểm sát là nội dung quan trọng và cấp thiết, là yếu tố
cốt lõi để nâng cao chất lượng công tác kiểm sát. Do đó, phải xác định công tác đào
tạo, bồi dưỡng đối với cán bộ, KSV là nhiệm vụ thường xuyên, liêc tục. Để nâng
cao ý thức chính trị và phẩm chất đạo đức cho đội ngũ cán bộ, KSV thì trước hết
phải tổ chức các lớp học tập nghiên cứu chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ Chí
Minh cho cán bộ, KSV; Quán triệt nghiêm túc và sâu rộng các chủ trương, chính
sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước; Hưởng ứng và tham gia tích cực cuộc vận
động “Học tập và làm theo đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”. Bên cạnh đó, cần
chủ động phối hợp với tỉnh ủy có kế hoạch chọn và cử cán bộ, KSV đi đào tạo về
trình độ lý luận chính trị, kiến thức quản lý Nhà nước để có đầy đủ trí tuệ, năng lực
nắm bắt những quan điểm, đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước,
tự mình lý giải được những vấn đề trong công tác hàng ngày và những vấn đề thực
tiễn đặt ra, có niềm tin vững chắc và tin tưởng tuyệt đối vào đường lối của Đảng,
chấp hành đúng pháp luật của Nhà nước. Lãnh đạo Viện cũng cần chăm lo quản lý,
giáo dục, rèn luyện phẩm chất đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên, đấu tranh
mạnh mẽ với những hành vi vi phạm pháp luật như tham nhũng, lãng phí, lối sống
thực dụng... Về nâng cao trình độ năng lực chuyên môn, để tạo sự chuyển biến đột
phá trong công tác đào tạo cán bộ cần kết hợp nhiều hình thức đào tạo đa dạng,
phong phú. Ngoài việc được cử đi để đào tạo, bồi dưỡng và tập huấn theo kế hoạch
của Ngành, công tác đào tạo tại chỗ cũng được coi là vô cùng quan trọng. Lãnh đạo
Viện cần bám sát kế hoạch đào tạo của đơn vị, thực hiện đào tạo tại chỗ với với
hình thức cầm tay chỉ việc, chủ động cử KSV có kinh nghiệm để hướng dẫn cán bộ
mới tuyển dụng, KSV mới bổ nhiệm. Ngoài ra, có thể tự đào tạo tại chỗ thông qua
115
việc tăng cường trao đổi kinh nghiệm giữa các địa phương, đơn vị; giữa các KSV có
kinh nghiệm với các KSV trẻ để các KSV mới bổ nhiệm tích lũy kinh nghiệm và
rèn luyện kỹ năng nhằm nâng cao chất lượng công tác kiểm sát giải quyết án dân sự.
3.2.2.3. Tăng cường trách nhiệm của người đứng đầu trong hoạt động kiểm
sát giải quyết các vụ việc dân sự
Tăng cường hơn nữa sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng đối với hoạt động của
VKSND một cách thường xuyên và toàn diện để công tác kiểm sát việc giải quyết
án dân sự đạt hiệu quả. Cơ chế phối hợp làm việc giữa các tổ chức Đảng với các cơ
quan tư pháp cần được xây dựng và hoàn thiện theo hướng: báo cáo định kỳ và ý
kiến định hướng về công tác tư pháp được cho bởi cấp uỷ; trách nhiệm tập thể và cá
nhân cấp ủy trong lãnh đạo, chỉ đạo công tác tư pháp, đặc biệt là công tác kiểm sát
việc giải quyết án dân sự cần được xác định rõ. Việc cung cấp tài liệu, chứng cứ để
giúp quá trình thụ lý, giải quyết vụ án dân sự có thể được kịp thời, chính xác khi
được chỉ đạo phối hợp bởi các ngành chức năng liên quan.
Vai trò, trách nhiệm, hiệu quả quản lý, chỉ đạo, điều hành hoạt động nghiệp
vụ của Lãnh đạo VKS có ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng, hiệu quả công tác
kiểm sát việc giải quyết án dân sự. Việc nâng cao chất lượng quản lý, chỉ đạo, điều
hành và tăng cường trách nhiệm của Lãnh đạo đối với cán bộ, KSV trong hoạt động
kiểm sát việc giải quyết án dân sự được xem là yếu tố quan trọng nâng cao chất
lượng công tác kiểm sát giải quyết án dân sự, cụ thể: Lãnh đạo Viện phải chỉ đạo,
hướng dẫn, kiểm tra các hoạt động nghiệp vụ của KSV, nhằm đảm bảo kiểm sát
chặt chẽ việc giải quyết vụ án dân sự từ khi thụ lý đến khi kết thúc vụ án; thực hiện
đầy đủ, đảm bảo chất lượng các quyền yêu cầu, kiến nghị theo quy định của pháp
luật. Lãnh đạo các đơn vị phải chỉ đạo xử lý kịp thời các vướng mắc của KSV, thực
sự thể hiện vai trò, trách nhiệm của mình đối với công việc. Lãnh đạo cần phát huy
trí tuệ tập thể thông qua việc họp Ủy ban kiểm sát để đánh giá chứng cứ và bàn biện
pháp tháo gỡ hoặc thỉnh thị cấp trên. Khi phê duyệt đường lối xét xử, Lãnh đạo phải
yêu cầu KSV báo cáo cụ thể các căn cứ và chứng cứ chứng minh, những vướng mắc
khi xử lý vụ án; phải thận trọng, khách quan, làm đúng vai trò, trách nhiệm khi phê
116
duyệt đường lối giải quyết án. Khi xảy ra vụ án bị Tòa án cấp phúc thẩm tuyên sửa,
hủy do lỗi của Tòa sơ thẩm mà VKS cấp sơ thẩm không phát hiện vi phạm để kháng
nghị thì Lãnh đạo Viện phải họp rút kinh nghiệm nghiêm túc và bàn biện pháp khắc
phục. Thông qua công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành, Lãnh đạo VKS cũng cần
quan tâm, chỉ đạo thực hiện thường xuyên công tác tổng kết thực tiễn, rút kinh
nghiệm trong quá trình kiểm sát giải quyết án dân sự. Trên cơ sở những vi phạm,
thiếu sót trong công tác kiểm sát giải quyết án dân sự, cần tổng kết, phân tích để rút
ra những vấn đề cần khắc phục trong hoạt động nghiệp vụ và công tác quản lý, chỉ
đạo, điều hành để rút kinh nghiệm không để xảy ra các vi phạm tương tự. Xem xét
trách nhiệm của Lãnh đạo VKS cấp dưới khi để xảy ra sai sót, vi phạm nhưng VKS
không phát hiện để thực hiện các quyền yêu cầu, kiến nghị, kháng nghị; trường hợp
VKS cấp dưới xin ý kiến và VKS cấp trên cho ý kiến thì khi xảy ra sai sót phải
kiểm điểm trách nhiệm của VKS cấp trên, nhằm nâng cao trách nhiệm và chất
lượng hoạt động của VKS các cấp. Thực hiện nghiêm túc việc kiểm điểm trách
nhiệm, tránh tình trạng KSV chịu trách nhiệm nặng hơn Lãnh đạo hoặc VKS cấp
dưới bị kiểm điểm trách nhiệm trong khi VKS cấp trên hướng dẫn nghiệp vụ sai thì
không bị kiểm điểm. Bên cạnh đó, thông qua công tác thực tiễn cũng cần xem xét,
đánh giá, đề cao những kết quả tích cực đã đạt được qua công tác kiểm sát giải
quyết án Dân sự để từ đó tiếp tục phát huy. Đồng thời có chế độ khen thưởng, biểu
dương kịp thời đối với những cá nhân có thành tích để tạo động lực phấn đấu hơn
nữa của mỗi cán bộ, KSV.
Tiểu kết chương 3
Chương 3 đã tập trung vào việc phân tích và làm rõ quan điểm về việc tăng
cường đảm bảo QCN thông qua hoạt động kiểm sát để giải quyết các vụ việc dân sự
và hoàn thiện pháp luật về bảo vệ quyền và lợi ích của công dân trong hoạt động tố
tụng. Phân tích này xuất phát từ nhận thức về hạn chế và vướng mắc của hệ thống
pháp luật hiện hành cũng như nguyên nhân gây ra những hạn chế, vướng mắc đó.
Trong nội dung của giải pháp hoàn thiện pháp luật, chú trọng vào việc hoàn
thiện BLTTDS, đây được coi là cơ sở pháp lý quan trọng để tổ chức thực hiện
117
nhiệm vụ bảo vệ quyền và lợi ích của công dân trong hoạt động TTDS của VKSND.
Ngoài ra, đã được tiến hành phân tích và chỉ rõ kết quả đã đạt được cũng như các
hạn chế, bất cập, thiếu sót của VKSND tỉnh Đắk Lắk trong việc thực hiện nhiệm vụ
bảo vệ QCN trong hoạt động TTDS.
Các giải pháp để đảm bảo thực hiện việc bảo vệ quyền và lợi ích của công
dân trong hoạt động TTDS đã được nêu ra. Để đảm bảo rằng các vụ án được giải
quyết theo đúng pháp luật, vai trò của VKS cần được đẩy mạnh và nâng cao trong
công tác kiểm sát giải quyết án dân sự. VKS có vai trò then chốt trong việc duy trì
an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội và góp phần vào sự phát triển kinh tế - xã
hội, cũng như đảm bảo cho hệ thống pháp luật Xã hội chủ nghĩa được thực thi. Các
giải pháp hoàn thiện thể chế và nhóm giải pháp trên đã bám sát chủ trương của
Đảng Cộng sản Việt Nam và Nhà nước về bảo vệ QCN trong nhà nước pháp quyền
XHCN Việt Nam giai đoạn ngày nay. Nội dung cốt lõi trong nhóm giải pháp trên đã
khẳng định rõ ràng quan điểm Nhà nước thừa nhận, trân trọng, bảo vệ, thúc đẩy
QCN; đồng thời, xác định địa vị, nhiệm vụ của VKSND trong cơ quan nhà nước với
chức năng hiến định – bảo vệ QCN.
118
KẾT LUẬN
Việc bảo vệ QCN trong công tác kiểm sát giải quyết các tranh chấp dân sự
của VKNSD là một việc làm có tính chất cấp bách, và có vai trò hết sức quan trọng
đối với giai đoạn hiện nay. Thể chế hoá đường lối, chủ trương của Đảng và Pháp
luật về bảo vệ QCN đã thể hiện qua nhiều Văn kiện, Nghị quyết, Chỉ Thị. ... của
Đảng và những chính sách, pháp luật hiện hành. Vai trò của VKSND đối với bảo vệ
QCN là vô cùng to lớn, quan trọng và không có lực lượng nào có thể thay thế được.
Luận văn đã nghiên cứu sâu những vấn đề lý luận về QCN, trách nhiệm của
VKSND trong việc bảo vệ QCN thông qua hoạt động kiểm sát giải quyết các vụ
việc dân sự. Qua thực tiễn nghiên cứu, đã đánh giá được thực trạng trách nhiệm của
VKSND tỉnh Đắk Lắk trong bảo vệ QCN, từ đó đưa ra được những quan điểm và
giải pháp về tăng cường trách nhiệm của VKSND tỉnh Đắk Lắk trong bảo vệ QCN
thông qua kiểm sát giải quyết các vụ việc dân sự hiện nay. Cần tiếp tục nâng cao
trách nhiệm của VKSND đối với hoạt động TTDS nhằm phục vụ yêu cầu cải cách
tư pháp đối với công tác bảo vệ QCN. Một điểm mấu chốt của vấn đề trên là cần
nâng cao năng lực, trình độ, phẩm chất và đạo đức công tác đối với lực lượng KSV
nhằm đáp ứng với yêu cầu từ thực tế giai đoạn hiện nay. Để đáp ứng được yêu cầu
hiến định bảo vệ QCN của VKSND đối với hoạt động tư pháp, cần nghiên cứu, ban
hành chính sách pháp luật đồng bộ và xem chính sách này là kim chỉ nam đối với
mọi hoạt động của cơ quan VKSND. Từ các bước tiến này, mỗi cán bộ và KSV sẽ
nhận thức rõ hơn để đi vào hành động trong thực tiễn công tác. Ngoài ra, cần tiếp
tục nghiên cứu, hoàn thiện hệ thống pháp luật liên ngành và xuyên ngành về bảo vệ
QCN để VKSND có thể ứng xử linh hoạt hơn trước yêu cầu mới từ cải cách tư
pháp. Đồng thời, việc hoàn thiện lý luận nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam là
một ưu tiên hàng đầu trong tương lai gần.
119
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hiến pháp năm 2013.
2. Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014.
3. Bộ luật Dân sự năm 2015.
4. Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.
5. Thomas Hobbes, Leviathan (1, XIV), 1658.
6. Nguyễn Đăng Dung, Vũ Công Giao, Lã Khánh Tùng (đồng chủ biên), Giáo trình
Lý luận và pháp luật về quyền con người, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2009, tr.
43 – 45.
7. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, tr.134.
8. Đinh Ngọc Vượng “Chủ quyền quốc gia và nhân quyền”, trong sách: GS.TS Võ
Khánh Vinh (chủ biên), Quyền con người tiếp cận đa ngành và liên ngành khoa học
xã hội, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 2009, tr.182.
9. J.A. Jolowicz (2000), On Civil Procedue {Về Luật tố tụng dân sự}, Nxb
Cambridge University Press, tr.100.
10. Khuất Nga Văn (2008), Vị trí, Vai trò Viện Kiểm sát trong tố tụng dân sự theo
yêu cầu cải cách tư pháp, Nxb Tư pháp, tr.36.
11. Nguyễn Công Bình (2006), Bảo đảm quyền bảo vệ của đương sự trong tố tụng
dân sự Việt Nam, Luận án tiến sĩ luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, tr.55.
12. Phạm Hữu Nghị (2000), Về nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự trong
tố tụng dân sự, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, 12 (152), tr.41.
13. Nguyễn Thái Phúc (2005), Những chức năng cơ bản trong tố tụng dân sự, Tạp
chí Nhà nước và pháp luật, số 6, tr.48.
14. Đào Thị Tuyết, Bảo đảm quyền bình đẳng trước Tòa án của đương sự trong tố
tụng dân sự, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Hà Nội, tr.20.
120
15. Nguyễn Thái Phúc (2007), Viện kiểm sát hay Viện công tố, Tạp chí Kiểm sát, số
14.
16. Lê Hữu Thể (chủ biên) (2008), Thực hành quyền công tố và KSHĐTP trong giai
đoạn điều tra, Nxb Tư pháp, Hà Nội, tr.39.
17. Đặng Công Cường (2013), Vai trò của Tòa án trong việc bảo vệ quyền con
người ở Việt Nam hiện nay, Luận án tiến sỹ luật học, trường Đại học Luật Hà Nội,
tr.45.
18. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội năm 1991, Hà Nội.
19. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội năm 1991 (bổ sung, phát triển năm 2011), Hà Nội.

