…………/………… ……/……

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

NGUYỄN THỊ TRANG TRÁCH NHIỆM CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRONG VIỆC BẢO VỆ QUYỀN CON NGƯỜI – TỪ THỰC TIỄN KIỂM SÁT GIẢI QUYẾT CÁC VỤ VIỆC DÂN SỰ TẠI VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỈNH ĐẮK LẮK

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH

1

ĐẮK LẮK, NĂM 2024

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ

……/……

…/… HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

NGUYỄN THỊ TRANG

TRÁCH NHIỆM CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRONG VIỆC BẢO VỆ QUYỀN CON NGƯỜI – TỪ THỰC TIỄN KIỂM SÁT GIẢI QUYẾT CÁC VỤ VIỆC DÂN SỰ TẠI VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỈNH ĐẮK LẮK

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH Chuyên ngành: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính Mã số: 8 38 01 02

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS NGUYỄN QUỐC SỬU

LỜI CAM ĐOAN

ĐẮK LẮK, NĂM 2024

LỜI CẢM ƠN

Trong suốt thời gian theo học, nghiên cứu và hoàn thành chương trình học và

làm luận văn tại trường, bản thân tôi đã nhận được sự quan tâm của quý thầy cô, các

phòng ban tại Học viện và phân viện Tây Nguyên. Tác giả xin trân trọng gửi lời

cảm ơn tới:

Tập thể Khoa Nhà Nước và Pháp luật – Học viện hành chính quốc gia; Các

thầy, cô giáo Học viện hành chính quốc gia và Phân viện Tây Nguyên cùng các

thầy, cô giáo đã tham gia quản lý, giảng dạy, động viên và giúp đỡ tôi trong suốt

thời gian từ năm 2021 đến 2023 học tập và nghiên cứu tại Học viện, Phân viện.

Cảm ơn thầy PGS.TS Nguyễn Quốc Sửu, người hướng dẫn quá trình làm

luận văn. Thầy đã tận tâm, tận tình và giúp đỡ tác giả trong quá trình thực hiện đề

tài.

Dù đã tận lực, cố gắng hoàn thành luận văn theo yêu cầu của thầy hướng dẫn

và của Học viện, nhưng chắc chắn luận văn tốt nghiệp vẫn còn tồn tại thiếu sót, kính

mong được quý thầy, cô góp ý và chỉ bảo thêm để quá trình bảo vệ luận văn của tác

giả đạt kết quả cao.

Xin trân trọng cảm ơn!

Tác giả luận văn

Nguyễn Thị Trang

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan luận văn là công trình nghiên cứu riêng của tôi. Các kết

quả nêu trong luận văn là trung thực, đảm bảo độ chuẩn xác. Các số liệu, thông tin,

tài liệu tham khảo trong luận văn có xuất xứ rõ ràng, được trích dẫn đầy đủ.

Tôi hoàn thành chịu trách nhiệm về công trình nghiên cứu của mình.

Tác giả luận văn

Nguyễn Thị Trang

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

BLTTDS: Bộ luật tố tụng dân sự

KSHĐTP: Kiểm sát hoạt động tư pháp

KSV: Kiểm sát viên

KTV: Kiểm tra viên

QCD: Quyền công dân

QCN: Quyền con người

QSDĐ: Quyền sử dụng đất

TTDS: Tố tụng dân sự

TAND: Tòa án nhân dân

VKSND: Viện kiểm sát nhân dân

VKS: Viện kiểm sát

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1

1. Tính cấp thiết của đề tài ...................................................................................... 1

2. Tình hình nghiên cứu .......................................................................................... 2

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ...................................................................... 7

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ...................................................................... 8

5. Phương pháp nghiên cứu .................................................................................... 9

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài ............................................................... 9

7. Bố cục đề tài ....................................................................................................... 9

CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN CON NGƯỜI VÀ

TRÁCH NHIỆM CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRONG VIỆC BẢO

VỆ QUYỀN CON NGƯỜI THÔNG QUA HOẠT ĐỘNG KIỂM SÁT GIẢI

QUYẾT CÁC VỤ VIỆC DÂN SỰ ......................................................................... 10

1.1 Khái quát về quyền con người, cơ chế bảo vệ quyền con người ............... 10

1.1.1 Khái niệm, bản chất của QCN ................................................................. 10

1.1.2 Nội dung quy định của pháp luật quốc tế về QCN .................................. 14

1.1.3 Cơ chế pháp lý về bảo vệ QCN................................................................ 18

1.2 Trách nhiệm của VKSND trong bảo vệ QCN thông qua hoạt động kiểm

sát giải quyết các vụ việc dân sự. ....................................................................... 26

1.2.1 Khái quát chung về giải quyết vụ việc dân sự, kiểm sát giải quyết vụ việc

dân sự ............................................................................................................... 26

1.2.2 Nội dung, hình thức bảo vệ QCN thông qua hoạt động kiểm sát giải

quyết các vụ việc dân sự của VKSND .............................................................. 31

1.2.1.1 Nội dung bảo vệ QCN thông qua hoạt động kiểm sát giải quyết các vụ

việc dân sự ........................................................................................................ 31

1.3. Các điều kiện đảm bảo tăng cường trách nhiệm của VKSND trong bảo

vệ QCN ................................................................................................................. 47

1.3.1. Bảo đảm các giá trị cơ bản của Nhà nước pháp quyền XHCN: ............ 47

1.3.2. Bảo đảm mục tiêu xây dựng nền tư pháp chuyên nghiệp, hiện đại, công

bằng, nghiêm minh, liêm chính, phụng sự Tổ quốc, phục vụ Nhân dân .......... 48

1.3.3. Bảo đảm thực hiện có hiệu quả chức năng, nhiệm vụ của VKSND ....... 50

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG THỰC HIỆN TRÁCH NHIỆM CỦA VIỆN

KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỈNH ĐẮK LẮK TRONG BẢO VỆ QUYỀN CON

NGƯỜI THÔNG QUA KIỂM SÁT GIẢI QUYẾT CÁC VỤ VIỆC DÂN SỰ . 54

2.1 Khái quát chung về tình hình các vụ việc dân sự và giải quyết các vụ việc

dân sự tại tỉnh Đắk Lắk ...................................................................................... 54

2.1.1 Khái quát chung về các vụ việc dân sự tại tỉnh Đắk Lắk ........................ 54

2.1.2 Khái quát chung về giải quyết các vụ việc dân sự tại tỉnh Đắk Lắk ....... 55

2.2 Tình hình thực hiện trách nhiệm của VKSND tỉnh Đắk Lắk trong bảo vệ

QCN thông qua hoạt động kiểm sát giải quyết các vụ việc dân sự ................ 56

2.2.1 Thực trạng trách nhiệm bảo vệ QCN thông qua hoạt động kiểm sát việc

trả lại đơn khởi kiện, đơn yêu cầu .................................................................... 56

2.2.2 Thực trạng trách nhiệm bảo vệ QCN thông qua hoạt động kiểm sát việc

thụ lý, giải quyết vụ việc dân sự ....................................................................... 59

2.2.3 Thực trạng trách nhiệm bảo vệ QCN thông qua hoạt động nghiên cứu hồ

sơ, yêu cầu xác minh, thu thập tài liệu, chứng cứ ............................................ 64

2.2.4 Thực trạng trách nhiệm bảo vệ QCN thông qua hoạt động tham gia

phiên tòa, phiên họp và phát biểu quan điểm của KSV về việc giải quyết các vụ

việc dân sự ........................................................................................................ 66

2.2.5 Thực trạng trách nhiệm bảo vệ QCN thông qua hoạt động kiểm sát bản

án, quyết định giải quyết vụ việc dân sự .......................................................... 69

2.2.6 Thực trạng trách nhiệm bảo vệ QCN thông qua kiến nghị, kháng nghị

bản án, quyết định của Tòa án có vi phạm pháp luật ...................................... 71

2.3 Đánh giá chung về trách nhiệm của VKSND tỉnh Đắk Lắk trong bảo vệ

QCN thông qua hoạt động kiểm sát giải quyết các vụ việc dân sự ................ 84

2.3.1 Thành tựu, ưu điểm và nguyên nhân ....................................................... 84

2.3.2 Tồn tại, hạn chế và nguyên nhân ............................................................. 90

CHƯƠNG 3: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG TRÁCH

NHIỆM CỦA VKSND TỈNH ĐẮK LẮK TRONG BẢO VỆ QUYỀN CON

NGƯỜI THÔNG QUA KIỂM SÁT GIẢI QUYẾT CÁC VỤ VIỆC DÂN SỰ . 96

3.1 Quan điểm về tăng cường đảm bảo QCN thông qua hoạt động kiểm sát

giải quyết các vụ việc dân sự .............................................................................. 96

3.2 Giải pháp đảm bảo QCN thông qua hoạt động kiểm sát giải quyết các vụ

việc dân sự của VKSND tỉnh Đắk Lắk ............................................................. 99

3.2.1 Giải pháp chung ...................................................................................... 99

3.2.2 Giải pháp riêng áp dụng đối với VKSND tỉnh Đắk Lắk ........................ 111

KẾT LUẬN ............................................................................................................ 119

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................. 120

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Giá trị QCN được phổ biến rộng rãi trong cả nhân loại, là kết quả của quá

trình đấu tranh và phát triển kéo dài của tất cả các dân tộc và nhân dân trên toàn

cầu. Quyền của con người cần phải được thừa nhận bởi pháp luật, đó là những

quyền tự nhiên, vốn có và được công nhận rộng rãi. Những quyền này được bảo vệ

theo quy định của pháp luật và các thỏa thuận quốc tế, và áp dụng cho tất cả mọi

người. Quyền con người được quan tâm từ dư luận các nước và có sự tác động

mạnh mẽ tới chính trị, xã hội của mỗi quốc gia và quốc tế. Lần đầu tiên quy định về

quyền dân sự, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân tại Chương 2 đã được Hiến

pháp năm 2013 thực hiện. Điều này không chỉ là việc kế thừa từ các hiến pháp trước

đó mà còn là sự thể hiện của chủ trương và tư duy mới của đất nước về việc phát

huy yếu tố con người, xem con người như chủ thể, nguồn lực và mục tiêu của sự

phát triển theo.

Khoản 3 Điều 107 Hiến pháp năm 2013 quy định rõ về nhiệm vụ bảo vệ

QCN của VKSND. Vai trò, nhiệm vụ và quyền hạn của VKSND đã được tăng

cường và làm rõ, không chỉ giới hạn ở công tác kiểm sát mà còn mở rộng ra kiểm

sát các hoạt động của các cơ quan tư pháp. Để bảo vệ QCN và đảm bảo tính công

bằng trong phiên họp và phiên tòa giải quyết các vụ việc dân sự, BLTTDS năm

2015 đã quy định rõ vai trò và thẩm quyền của VKSND, bao gồm việc tham gia vào

phiên họp, phiên tòa để phát biểu ý kiến, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm, giám

đốc thẩm hoặc tái thẩm, cũng như thu thập chứng cứ và xác minh thông tin. Tuy

nhiên, việc giải quyết các vụ việc dân sự vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế và vi phạm

QCN trong hoạt động tố tụng. Những vi phạm này không chỉ ảnh hưởng trực tiếp

đến chủ thể được bảo vệ mà còn làm suy yếu vai trò và năng lực bảo vệ QCN của

VKSND.

Điểm mới của Hiến pháp năm 2013 đã được quy định lần đầu tiên về nhiệm

vụ bảo vệ QCN của VKSND. Thực tế cho thấy vi phạm QCN trong hoạt động

TTDS của các cơ quan tư pháp vẫn diễn ra phổ biến. Yêu cầu và trách nhiệm bảo vệ

1

QCN của VKSND cần được nghiên cứu, đánh giá, và thực tiễn bảo vệ QCN trong

hoạt động tố tụng giải quyết các vụ việc dân sự của VKSND còn tồn tại nhiều hạn

chế, khó khăn. Vì lẽ đó, đề tài “Trách nhiệm của Viện kiểm sát nhân dân trong

việc bảo vệ QCN - Từ thực tiễn kiểm sát giải quyết các vụ việc dân sự tại VKSND

tỉnh Đắk Lắk” được chọn làm đề tài nghiên cứu luận văn thạc sĩ nhằm đáp ứng yêu

cầu cấp thiết hiện nay. Đề tài này có ý nghĩa lý luận và thực tiễn, nhằm mục tiêu

giải quyết các hạn chế, khó khăn trong bảo vệ QCN và QCN trong hoạt động

TTDS.

2. Tình hình nghiên cứu

Vấn đề thực hiện trách nhiệm, thẩm quyền của VKS trong TTDS nói chung,

đối với công tác kiểm sát việc giải quyết các tranh chấp dân sự nói riêng với mục

tiêu bảo vệ QCN đã lôi cuốn sự chú ý của đông đảo tác giả. Qua quá trình khảo sát

các công trình khoa học liên quan đến đề tài luận văn, tác giả nhận thấy thông

thường các công trình đi vào nghiên cứu một lĩnh vực tố tụng gắn với vai trò bảo vệ

hoặc bảo đảm QCN của VKSND, hoặc trong cả hoạt động tư pháp, hoặc nhấn mạnh

đến vai trò của VKSND. Sản phẩm của hoạt động nghiên cứu các công trình được

công bố dưới nhiều hình thức khác nhau như: Đề tài nghiên cứu khoa học, sách

chuyên khảo, các luận án, luận văn, các bài báo khoa học, kỷ yếu hội thảo khoa học

trong lĩnh vực ngành luật học và nhiều chuyên ngành khác nhau. Các công trình

khoa học được công bố từ trước đến nay liên quan đến đề tài luận văn chủ yếu tập

trung vào lĩnh vực tố tụng hình sự vì đây là lĩnh vực được quan tâm nhiều nhất. Vì

vậy, về cơ bản là chưa có một công trình nghiên cứu toàn diện, chuyên sâu về bảo

vệ QCN trong hoạt động tố tụng dân sự của VKSND ở nước ta hiện nay.

Trong phạm vi nghiên cứu chủ đề luận văn, tác giả chỉ lựa chọn và nêu ra

những quan điểm nghiên cứu chính của một số công trình tiêu biểu ở trong nước và

một số nước trên thế giới có liên quan trực tiếp tới các nội dung ở chuyên ngành

luận văn. Trên tinh thần đó, có thể tổng hợp một số công trình đã công bố liên quan

đến đề tài của Luận văn thành các nhóm vấn đề như sau:

2

- Nhóm công trình nghiên cứu các vấn đề lý luận về bảo vệ quyền con người

trong hoạt động tố tụng của VKSND:

+ Sách chuyên khảo, Quyền con người, của GS. TS. Võ Khánh Vinh (chủ

biên), nhà xuất bản khoa học xã hội, (2011). Trong cuốn sách chuyên khảo này, tại

phần II, Chương VIII. Bảo vệ quyền con người bằng Tòa án đã trình bày một số vấn

đề lý luận và pháp luật về bảo vệ QCN của người bị buộc tội và của người bị hại

trong TTHS. Theo tác giả, QCN trong TTHS cần được bảo vệ chủ yếu tập trung vào

2 chủ thể là người bị buộc tội và bị hại. Trong TTDS, chủ thể cần được bảo vệ là

đương sự nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.

Tác giả đã phân tích, chỉ rõ quyền của đương sự trong quan hệ pháp luật TTDS cần

được bảo vệ trên cơ sở 10 nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự.

+ Luận án tiến sỹ luật học, Bảo đảm quyền tố tụng của đương sự trong

TTDS, của Nguyễn Thị Thúy Hằng, tại trường Đại học Luật Hà Nội, 2019. Luận án

đã xây dựng được vấn đề lý luận cơ bản về bảo đảm quyền tố tụng của đương sự

trong TTDS như bản chất, cơ sở khoa học của việc xây dựng các quy định về bảo

đảm quyền tố tụng của đương sự; xác định được nội dung của biện pháp lý bảo đảm

quyền tố tụng của đương sự và các yếu tố cơ bản chi phối thực hiện việc bảo đảm

quyền tố tụng của đương sự trong TTDS. Đây có thể coi là một trong những công

trình hiếm hoi đi sâu vào lĩnh vực bảo đảm quyền tố tụng của đương sự trong

TTDS.

Trong những công trình trên, các tác giả đi sâu vào nghiên cứu việc bảo đảm,

bảo vệ QCN trong hoạt động tư pháp nói chung và hoạt động tố tụng nói riêng. Các

bài viết tập trung phân tích, làm rõ một số vấn đề lý luận về bảo đảm, bảo vệ QCN

trong hoạt động tư pháp nói chung và hoạt động tố tụng nói riêng (chủ yếu là

TTHS), như: khái niệm bảo đảm, bảo vệ QCN; đặc điểm, nội dung, các yếu tố tác

động đến việc bảo đảm, bảo vệ QCN trong hoạt động tư pháp và hoạt động tố tụng.

Một số bài viết sôi nổi về chế định VKSND trong tiến trình cải cách tư pháp

và trước bối cảnh sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 2013. Điển hình như: Lê Hữu

Thể, Một số vấn đề về mô hình tổ chức bộ máy và chức năng, nhiệm vụ của VKS

3

trong tiến trình cải cách tư pháp, kỷ yếu hội thảo về VKS trong tiến trình cải cách

tư pháp, Hải phòng 2008; Sách chuyên khảo (2012), Sửa đổi, bổ sung Hiến pháp

1992 - Những vấn đề lý luận và thực tiễn, tập 1 những vấn đề chung về Hiến pháp

và Bộ máy nhà nước, Nxb Hồng Đức, trong đó bài viết của tác giả Nguyễn Thái

Phúc, Sửa đổi, bổ sung Hiến pháp 1992 về chế định VKSND; Đề tài khoa học cấp

Bộ, Báo cáo thường niên năm 2013 về Đổi mới tổ chức và hoạt động của TAND và

VKSND trong năm 2013 theo Nghị quyết số 49/TW của Bộ Chính trị về “Chiến

lược cải cách tư pháp đến năm 2020” do tác giả Nguyễn Thị Việt Hương chịu trách

nhiệm tổ chức nghiên cứu. Các công trình tập trung nghiên cứu làm rõ vị trí, vai trò,

chức năng, nhiệm vụ của VKS trong bộ máy nhà nước, qua đó, các công trình đều

khẳng định VKSND có vị trí là cơ quan độc lập trong bộ máy nhà nước, thực hiện

chức năng THQCT và KSHĐTP.

+ Luận văn thạc sĩ luật học, “Đảm bảo pháp lý về QCN trong hoạt động tư

pháp của VKSND Việt Nam hiện nay” của Ngô Diệu Hiền, tại Học viện Chính trị

quốc gia Hồ Chí 13 Minh, năm 2013. Trong phần lý luận, luận văn làm rõ cơ sở lý

luận đảm bảo pháp lý về QCN trong hoạt động tư pháp của VKSND. Trong đó, chỉ

ra khái quát về đảm bảo pháp lý về QCN trong hoạt động tư pháp của VKSND.

Luận văn đã đưa ra khái niệm đảm bảo pháp lý về QCN trong hoạt động tư pháp

của VKSND là việc đảm bảo các điều kiện, yếu tố cần và đủ cho quá trình thực hiện

QCN trong lĩnh vực hoạt động tư pháp của VKSND, nhằm làm cho hoạt động này

có hiệu lực, hiệu quả cao nhất. Luận văn cũng chỉ rõ một số đặc trưng cơ bản của

đảm bảo pháp lý về QCN trong hoạt động tư pháp của VKSND

+ Luận văn thạc sĩ luật học, Nhiệm vụ bảo vệ QCN, QCD của VKSND - qua

thực tiễn tại VKSND huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định, của Trần Hoàng Nhung, tại

Khoa Luật - Đại học Quốc Gia Hà Nội, năm 2014. Trong phần lý luận, Luận văn đi

vào phân tích, chỉ rõ quan niệm về QCN và bảo vệ QCN của VKSND. Luận văn đã

chỉ rõ các đặc trưng cơ bản của bảo vệ QCN của VKSND và phân tích các nguyên

tắc bảo vệ QCN, QCD trong hệ thống các nguyên tắc cơ bản của Luật TTHS và

Luật TTDS, TTHC.

4

- Nhóm công trình nghiên cứu thực trạng về bảo vệ QCN trong hoạt động tố

tụng của VKSND:

+ Luận văn thạc sỹ luật học, Vai trò của VKSND tỉnh Đăk Nông trong bảo vệ

QCD, Tạ Đình Đề, chuyên ngành luật hiến pháp và luật hành chính tại Học viện

Hành chính quốc gia, năm 2016. Luận văn giới hạn phạm vi nghiên cứu chỉ dừng lại

ở việc phân tích, đánh giá những vấn đề lý luận và thực tiễn có liên quan đến vai trò

của VKSND trong việc bảo vệ QCD là người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, bị án trong

TTHS.

+ Luận văn thạc sỹ luật học, Vai trò của VKSND tỉnh trong bảo vệ QCN từ

thực tiễn tỉnh Đắk Lắk, của Huỳnh Ngọc Hoàng Hải, tại Học viện Hành chính quốc

gia, năm 2016. Luận văn giới hạn phạm vi nghiên cứu trong lĩnh vực hình sự.

Chương 2 của luận văn trình bày về thực trạng vai trò của VKSND tỉnh Đắk Lắk

trong bảo vệ QCN. Trên cơ sở đó đưa ra đánh giá chung về những thành tựu và hạn

chế, bất cập và nguyên nhân của chúng.

+ Luận văn thạc sĩ luật học, Nhiệm vụ bảo vệ QCN, QCD của VKSND - qua

thực tiễn tại VKSND huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định, của Trần Hoàng Nhung, tại

Khoa Luật - Đại học Quốc Gia Hà Nội, năm 2014. Phần thực trạng, Luận văn đã

phân tích các nhiệm vụ cụ thể qua từng khâu công tác trong chức năng THQCT và

KSHĐTP của VKSND trên địa bàn huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định. Trên cơ sở đó

đưa ra đánh giá chung về thực trạng bảo vệ QCN, QCD của VKSND huyện Vụ

Bản, tỉnh Nam Định.

Tìm hiểu về các tài liệu liên quan đến đề tài có nội dung đề cập đến thực

trạng bảo vệ QCN trong hoạt động tố tụng của VKSND ở nước ta hiện nay, chúng

tôi nhận thấy đa số các công trình tiếp cận ở phạm vi khái quát chung mang tính

đánh giá về những kết quả đạt được và những tồn tại của thực trạng này và nguyên

nhân của nó ở Việt Nam hiện nay. Phần lớn các công trình nghiên cứu chuyên sâu

về bảo vệ QCN của VKSND được nghiên cứu trong lĩnh vực TTHS.

5

- Nhóm công trình nghiên cứu về quan điểm, giải pháp bảo vệ quyền con

người, quyền công dân trong hoạt động tố tụng của Viện kiểm sát nhân dân:

+ Đề tài khoa học cấp bộ, Chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp của

VKSND trong giai đoạn mới - Nhận thức và thực tiễn, Vụ pháp chế và quản lý khoa

học, VKSND tối cao, năm 2018. Đề tài đi sâu phân tích, đánh giá quy định của hệ

thống pháp luật về chức năng KSHĐTP của VKSND, từ đó đề xuất một số giải

pháp hoàn thiện và nâng cao hiệu quả KSHĐTP trong giai đoạn mới thực hiện chức

năng này.

+ Luận án tiến sỹ luật học, Bảo đảm quyền tố tụng của đương sự trong

TTDS, của Nguyễn Thị Thúy Hằng, tại trường Đại học Luật Hà Nội, năm 2019.

Trên cơ sở, phân tích, đánh giá một cách toàn diện những hạn chế, bất cập trong

quy định của pháp luật cũng như thực tiễn thực hiện các quy định của pháp luật về

bảo vệ quyền tố tụng của đương sự. Luận án đã xây dựng được hệ thống các yêu

cầu, kiến nghị khoa học về bảo đảm quyền tố tụng của đương sự trong TTDS đáp

ứng được xu hướng hội nhập quốc tế và đường lối, chủ trương của Đảng, Nhà nước

về cải cách tư pháp bảo đảm quyền con người trong hoạt động xét xử, bao gồm các

kiến nghị hoàn thiện quy định của pháp luật TTDS về bảo đảm quyền của đương sự

trong TTDS và các kiến nghị thực hiện pháp luật. Đây là những kiến nghị, giải pháp

có giá trị tham khảo cho luận văn khi viết phần giải pháp hoàn thiện pháp luật

TTDS.

+ Luận văn thạc sĩ luật học, Đảm bảo pháp lý về QCN trong hoạt động tư

pháp của VKSND Việt Nam hiện nay, của Ngô Diệu Hiền, tại Học viện Chính trị

quốc gia Hồ Chí Minh, năm 2013. Phần giải pháp, luận văn đưa ra yêu cầu và giải

pháp đảm bảo pháp lý về QCN trong hoạt động tư pháp của VKSND. Trong phần

yêu cầu khách quan đảm bảo pháp lý về QCN trong hoạt động tư pháp của VKSND,

luận văn đã đưa ra hai yêu cầu là xuất phát từ yêu cầu xây dựng nhà nước pháp

quyền XHCN trong xu thế hội nhập quốc tế và xuất phát từ thực trạng đảm bảo

pháp lý về QCN trong hoạt động tư pháp ở nước ta hiện nay. Trên cơ sở đó, luận

6

văn đưa ra một số giải pháp đảm bảo pháp lý về QCN trong hoạt động tư pháp của

VKSND.

+ Luận văn thạc sỹ luật học, Vai trò của VKSND tỉnh Đăk Nông trong bảo vệ

QCN, Tạ Đình Đề, chuyên ngành luật hiến pháp, luật hành chính tại Học viện Hành

chính quốc gia, năm 2016. Phần giải pháp tại Chương 3, luận văn đưa ra một số giải

pháp tăng cường vai trò của VKSND tỉnh Đắk Nông trong bảo vệ QCN.

Những công trình, bài viết đã được nghiên cứu thấy rằng: Việc đi sâu vào

nghiên cứu về các nguyên tắc tổ chức quyền lực nhà nước và vấn đề về chức năng,

nhiệm vụ, quyền hạn của VKS trong TTDS dưới góc độ của Luật nhà nước đã được

thực hiện. Tuy nhiên, việc nhìn nhận hoạt động kiểm sát các hoạt động tư pháp của

VKS dưới góc độ bảo vệ QCN theo Hiến pháp năm 2013, theo Luật Tổ chức VKS

nhân dân năm 2014, BLTTDS năm 2015 là một vấn đề còn mới, đặc biệt là trong

khu vực cấp tỉnh như tỉnh Đắk Lắk. Vì thế, việc nghiên cứu về tiến hành kiểm sát

các vụ việc dân sự để bảo vệ QCN cần phải được thực hiện một cách có hệ thống từ

lý luận đến thực tiễn. Mục tiêu là tìm ra những giải pháp có ích trong bối cảnh hiện

nay và không trùng lắp với các công trình khoa học đã được công bố trước đó. Đề

tài luận văn này mang tính ứng dụng cho VKS ở cấp tỉnh và mong muốn góp phần

vào việc hoàn thiện công tác kiểm sát và bảo vệ quyền, lợi ích của người dân.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1 Mục đích

Mục đích chính của luận văn là bổ sung luận cứ khoa học nhằm làm rõ cơ sở

lý luận xác định trách nhiệm của VKSND đối với công tác bảo vệ QCN trong hoạt

động kiểm sát giải quyết các vụ việc dân sự. Trên cơ sở lý luận đã minh chứng, luận

văn phân tích thực tiễn về trách nhiệm bảo vệ QCN thông qua hoạt động kiểm sát

giải quyết các vụ việc dân sự của VKSND và thực tế VKSND tỉnh Đắk Lắk hiện

nay. Từ đó kiến nghị các biện pháp khoa học góp phần hoàn thiện thể chế và tổ

chức thực thi bảo vệ QCN thông qua hoạt động kiểm sát giải quyết các vụ việc dân

sự của VKSND hiện nay.

7

3.2 Nhiệm vụ

Từ mục đích nêu trên, luận văn có nhiệm vụ: Làm rõ những vấn đề lý luận về

QCN trong TTDS; Nêu được cơ sở pháp lý xác định chức trách, nhiệm vụ, thẩm

quyền của VKS trong hoạt động kiểm sát giải quyết các vụ việc dân sự để đảm bảo

QCN trong TTDS; Làm sáng tỏ hoạt động của VKS trong kiểm sát giải quyết vụ

việc dân sự để đảm bảo QCN trong TTDS; Nhận xét, đánh giá về hoạt động kiểm

sát giải quyết vụ việc dân sự của VKS nhân dân tỉnh Đắk Lắk, từ đó đề xuất những

định hướng, biện pháp cụ thể để góp phần bảo vệ QCN trong công tác giải quyết vụ

việc dân sự của VKS trong giai đoạn hiện nay.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1 Đối tượng

Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những vấn đề lý luận và thực tiễn về

trách nhiệm của VKSND trong việc bảo vệ QCN, từ thực tiễn kiểm sát giải quyết

các vụ việc dân sự của VKSND tỉnh Đắk Lắk hiện nay. Nghiên cứu tính khoa học

và khả thi của các giải pháp, kiến nghị nhằm nâng cao trách nhiệm của VKSND

trong bảo vệ QCN thông qua hoạt động kiểm sát giải quyết các vụ việc dân sự hiện

nay.

4.2 Phạm vi nghiên cứu

– Phạm vi nội dung: Đề tài luận văn của tác giả đi sâu nghiên cứu về trách

nhiệm của VKSND trong việc bảo vệ QCN thông qua hoạt động kiểm sát giải quyết

các vụ, việc dân sự.

– Phạm vi không gian: Đề tài luận văn thu thập tài liệu thực tế trong phạm vi

hai cấp ngành VKSND tỉnh Đắk Lắk.

– Phạm vi thời gian: Đề tài luận văn của tác giả tiến hành khảo sát và đánh

giá thực tiễn về trách nhiệm của VKSND trong việc bảo vệ QCN thông qua hoạt

động kiểm sát giải quyết các vụ, việc dân sự trong thời gian 03 năm gần đây, từ năm

2021 đến năm 2023.

8

5. Phương pháp nghiên cứu

Đề tài được nghiên cứu căn cứ trên nền tảng lý luận và phương pháp luận

của triết học Mác - Lênin, quan điểm xây dựng Nhà nước pháp quyền của Hồ Chí

Minh và chủ trương đường lối về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa

của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân đã được Đảng Cộng sản Việt Nam và Nhà

nước ta ban hành. Phương pháp được áp dụng đối với đề tài là tiếp cận hệ thống liên

ngành khoa học xã hội và nhân văn, đề cập đến luật học (đặc biệt là tiếp cận chuyên

ngành luật Hiến pháp, pháp luật về QCN, Lý luận nhà nước và pháp luật, luật

TTDS, chuyên ngành khoa học kiểm sát. ..). Vận dụng các phương pháp tiếp cận

khoa học cơ bản: phương pháp định lượng, thống kê, phân tích, tổng hợp, so sánh,

minh chứng, ...

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài

Luận văn có giá trị làm sâu sắc hơn lý luận bảo vệ QCN thông qua TTDS,

việc bảo đảm QCN trong công tác kiểm sát các vụ việc dân sự của VKSND trong

bối cảnh thực hiện Hiến pháp 2013, Luật Tổ chức VKS nhân dân năm 2014 và

BLTTDS 2015. Kết quả nghiên cứu của luận văn có ý nghĩa quan trọng về cơ sở lý

luận và thực tiễn phục vụ công tác giảng dạy, bồi dưỡng, học tập chuyên ngành

pháp luật, bồi dưỡng chính trị, pháp luật và nghiệp vụ công tác kiểm sát.

7. Bố cục đề tài

Bố cục của luận văn bao gồm phần mở đầu, kết luận, danh mục từ vựng viết

tắt cùng danh mục các tư liệu tham khảo, phần nội dung của luận văn chia làm 3

chương:

Chương 1: Những vấn đề lý luận về QCN và trách nhiệm của VKSND trong

việc bảo vệ QCN thông qua hoạt động kiểm sát giải quyết các vụ việc dân sự.

Chương 2: Thực trạng trách nhiệm của VKSND tỉnh Đắk Lắk trong bảo vệ

QCN thông qua kiểm sát giải quyết các vụ việc dân sự.

Chương 3: Quan điểm và giải pháp tăng cường trách nhiệm của VKSND tỉnh

Đắk Lắk trong bảo vệ QCN thông qua kiểm sát giải quyết các vụ việc dân sự.

9

CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN CON NGƯỜI

VÀ TRÁCH NHIỆM CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRONG VIỆC

BẢO VỆ QUYỀN CON NGƯỜI THÔNG QUA HOẠT ĐỘNG KIỂM SÁT

GIẢI QUYẾT CÁC VỤ VIỆC DÂN SỰ

1.1 Khái quát về quyền con người, cơ chế bảo vệ quyền con người

1.1.1 Khái niệm, bản chất của QCN

1.1.1.1 Khái niệm QCN:

QCN là một khái niệm vô cùng phức tạp, và được định nghĩa theo nhiều cách

khác nhau, mỗi cách tiếp cận đều mang đến một góc nhìn riêng biệt về vấn đề này.

Mỗi định nghĩa chỉ ra những thuộc tính cụ thể, tuy nhiên không có định nghĩa nào

bao quát hết tất cả các thuộc tính của QCN. Sự phù hợp của các định nghĩa hiện có

về QCN phụ thuộc vào quan điểm chủ quan của mỗi người, tuy nhiên, ở cấp quốc

tế, có một định nghĩa về QCN do Liên Hợp Quốc công bố thường được nhà nghiên

cứu trích dẫn. Theo đó, QCN là những bản quyền pháp lý toàn cầu được thiết lập để

bảo vệ cá nhân và nhóm người khỏi hành vi hoặc sự bỏ qua gây tổn thương cho

danh dự, quyền tự do cơ bản của con người. Ngoài ra, một định nghĩa khác thường

được trích dẫn là QCN là những quyền không phân biệt giới tính, tôn giáo, chủng

tộc hay vị trí xã hội. Tất cả thành viên của cộng đồng loài người sở hữu nó từ khi

sinh ra chỉ vì họ là con người. Định nghĩa này mang dấu ấn của học thuyết về các

quyền tự nhiên.

Ở Việt Nam, một số cơ quan nghiên cứu và chuyên gia cũng đã đưa ra định

nghĩa về QCN. Mặc dù có những định nghĩa khác nhau, nhưng thông thường QCN

được hiểu là những nhu cầu và lợi ích tự nhiên đã được công nhận và bảo vệ bởi

luật pháp quốc gia và các hiệp định pháp lý quốc tế. Vì vậy, ở mọi góc độ, ở mọi

cấp độ, QCN được xác định là tiêu chuẩn được cộng đồng quốc tế thừa nhận và tuân

thủ. Những tiêu chuẩn này là những giá trị chung của toàn thể nhân loại, được áp

dụng đối với con người và áp dụng cho hết thảy mọi người. Bằng cách này, nhân

phẩm của mỗi thành viên thuộc đại gia đình nhân loại sẽ được bảo vệ vì họ sẽ có thể

10

phát huy tối đa các năng lực tiềm ẩn của mình với tư cách là một con người. Cho dù

có một vài điểm dị biệt nhỏ trong cách tiếp cận nhưng có một điểm chung là QCN

là những giá trị cao đẹp phải được trân trọng và bảo vệ trong toàn nhân loại xuyên

qua từng thời kỳ lịch sử.

QCN là tập hợp các quyền lợi cơ bản và không thể xâm phạm được của con

người, được công nhận bởi pháp luật và xã hội. Đây là những quyền lợi mà con

người được sinh ra là có, không phụ thuộc vào bất kỳ tổ chức nào. Cơ chế pháp lý

về bảo vệ quyền con người đảm bảo rằng mỗi cá nhân đều được đối xử công bằng

và tôn trọng trong xã hội. Khi mỗi cá nhân được biết và nhận thức về những quyền

lợi của họ, họ có thể tự tin hơn trong việc yêu cầu và bảo vệ quyền của mình. Cơ

chế pháp lý cũng giúp ngăn chặn sự lạm dụng quyền lực và đảm bảo rằng mọi

người đều được đối xử bình đẳng trước pháp luật.

QCN trong TTDS xuất phát từ những quyền tự nhiên của con người, các

quyền đó được thừa nhận với những giá trị mang tính phổ quát nhất. Trước hết, cơ

sở lý luận về quyền con người trong tố tụng dân sự xuất phát từ hệ thống pháp lý

quốc tế. QCN trong TTDS được Tuyên ngôn Thế giới về quyền con người và các

Công ước quốc tế về quyền con người và một số Nghị quyết của Đại hội đồng Liên

Hợp Quốc ghi nhận. Đây là những nguyên tắc chung nhất để từ đó, con người có cơ

sở tự bảo vệ và yêu cầu các nhà nước thành viên bảo vệ họ. Trong TTDS, luật pháp

quốc tế thừa nhận sự tham gia của ba nhóm người, tương ứng với ba nhóm quyền

con người trong TTDS: Nhóm quyền của các bên tranh chấp (quyền của nguyên

đơn, bị đơn); nhóm quyền của người tiến hành tố tụng (điển hình là Tòa án). Thứ

hai, lý luận về QCN trong TTDS xuất phát từ hệ thống pháp lý quốc gia: Hệ thống

pháp luật quốc gia có vai trò tạo cơ sở pháp lý cho con người được hành động trong

khuôn khổ pháp lý khi tham gia các quan hệ pháp luật. Đối với TTDS, các chủ thể

tham gia quan hệ pháp luật TTDS luôn xác định Hiến pháp, BLTTDS là những

nguồn cơ bản, hữu hiệu không chỉ điều chỉnh hành vi mà còn là những đảm bảo

pháp lý về QCN trong lĩnh vực TTDS. Hệ thống pháp luật TTDS xác định các nội

dung cơ bản như: Nguyên tắc cơ bản trong quy trình TTDS; Các quyền cơ bản của

11

đương sự; Thẩm quyền và điều kiện đảm bảo việc thực hiện các quyền của người

tiến hành tố tụng, cơ quan tiến hành tố tụng cũng như trách nhiệm của người tiến

hành tố tụng trong việc đảm bảo quyền của đương sự và những người có liên quan

trong tố tụng dân sự; Các quyền cơ bản của người đại diện, người bảo vệ quyền và

lợi ích hợp pháp của đương sự, người làm chứng, người giám định, phiên dịch v.v...

1.1.1.2 Bản chất của QCN

Nhận thức phổ biến của cộng đồng quốc tế cho rằng QCN có những tính chất

cơ bản sau đây:

Tính phổ biến. Sự phổ biến của tính nhân quyền được thể hiện qua việc chúng

là quyền bất biến của mọi người và phải được đối xử công bằng với tất cả thành

viên trong gia đình nhân loại, bất kể lý do nào. Tuy nhiên, việc công bằng không có

nghĩa là tất cả mọi người đều được hưởng quyền lợi một cách như nhau, mà thay

vào đó, họ cần phải có vị trí và khả năng để hưởng thụ QCN một cách tương đương.

Tính không thể tước đoạt. Các QCN không thể bị tước bỏ hay hạn chế một

cách tùy tiện bởi bất cứ chủ thể nào. Kể cả bởi các Nhà nước. Mọi cấm đoán, hạn

chế hay tước bỏ quyền lợi của một cá nhân đều phải được pháp luật cho phép và

phải nhằm mục đích bảo đảm quyền lợi chính đáng, hợp pháp của tập thể hay của cá

nhân ấy.

Tính không thể phân chia, phụ thuộc lẫn nhau. Tất cả các quyền của con

người đều có tầm quan trọng như nhau nên việc bị tước bỏ hoặc hạn chế bất kỳ

quyền nào đều gây ra tác động tiêu cực đối với giá trị, nhân phẩm và sự phát triển

của con người, nếu vi phạm một quyền sẽ gây ra ảnh hưởng tiêu cực trực tiếp hoặc

gián tiếp đến việc bảo đảm các quyền khác và ngược lại.

Hiện nay, trong khoa học xã hội nói chung và khoa học pháp lý nói riêng tồn

tại nhiều quan điểm khác nhau xoay quanh vấn đề về đặc điểm của QCN. Dựa vào

những nét tương đồng của các quan điểm đó, có thể phân chúng thành ba quan điêm

liên đến đặc điểm cơ bản của QCN. Quan điểm thứ nhất cho rằng, QCN chỉ mang

tính phổ biến. Theo quan điểm thứ hai thì ngược lại, QCN chỉ mang tính đặc thù.

12

Trong khi đó, quan điểm thứ ba lại cho rằng, QCN vừa mang tính phổ biến lại vừa

mang tính đặc thù. Vậy, đâu là thực chất của vấn đề? Phân tích hình thức pháp lý

của QCN có thể khẳng định ngay rằng quan điểm thứ hai coi QCN chỉ có tính đặc

thù là hoàn toàn không chính xác, vì nó không chỉ được ghi nhận trong pháp luật

quốc gia mà còn được ghi nhận cả trong các điều ước quốc tế. Một khi các quốc gia

tham gia ký kết hoặc công nhận các điều ước quốc tế về QCN cũng có nghĩa là thừa

nhận tính phổ biến của nó. Quan điểm thứ nhất thừa nhận QCN chỉ có tính phổ biến

liệu có thuyết phục được mọi người về tính khoa học của nó? Câu trả lời ở đây là

không. Vấn đề là ở chỗ, tuy là giá trị chung của loài người song đối với xã hội có

phân công giai cấp đối lập, QCN có ý nghĩa sâu sắc. Mặt khác, QCN còn gắn với

quyền lợi dân tộc căn bản nằm trong phạm trù lợi ích quốc gia. Đặc biệt, QCN còn

gắn liền với lịch sử, truyền thống mà còn tuỳ thuộc vào mức độ phát triển kinh tế -

xã hội của mỗi quốc gia. Việc sao chép máy móc các tiêu chuẩn, mô hình của quốc

gia này cho quốc gia khác sớm muộn gì cũng không được chấp nhận trên thực tế.

Về điều này không thể không đồng ý với ý kiến cho rằng “việc xử lý và bảo vệ QCN

là trách nhiệm và quyền hạn của mỗi quốc gia, dân tộc, phải phù hợp với đặc thù

lịch sử, chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội,... đồng thời phải phù hợp với những mục

tiêu, chuẩn mực và nguyên tắc quốc tế đã được thừa nhận rộng rãi. Chúng tôi

không chấp nhận bên ngoài áp đặt quan điểm về QCN và lợi dụng QCN để can

thiệp vào công việc nội bộ, đặt điều kiện trong quan hệ quốc tế” [7, tr.134]. Quốc

gia nào trên thế giới cũng có chủ quyền gắn với lãnh thổ và biên giới quốc gia, cũng

có quyền độc lập trong các quan hệ quốc tế. Do vậy, sẽ là hết sức vô lý khi áp đặt

các tiêu chuẩn nhân quyền của quốc gia này lên một quốc gia khác, dù đó là sự áp

đặt “mang tính chất vô tư”. Từ những điều phân tích trên đây, tác giả chia sẻ với

quan điểm thứ ba cho rằng QCN vừa có tính phổ biến vừa có tính đặc thù. Tính đặc

thù đó thể hiện ở mỗi quốc gia, mỗi dân tộc và từng khu vực trên thế giới. Tính đặc

thù của QCN được tạo nên bởi truyền thống dân tộc, lịch sử và chủ quyền quốc gia.

Do đó, tính phổ biến của QCN không thể được sử dụng để phủ nhận tính đặc thù

của nó. Bên cạnh đó khi tiếp cận, xử lý vấn đề QCN cần kết hợp hài hòa các chuẩn

13

mực, nguyên tắc chung của luật pháp quốc tế với những điều kiện đặc thù về lịch

sử, chính trị, kinh tế - xã hội, các giá trị văn hóa, tín ngưỡng, tôn giáo, phong tục tập

quán của mỗi quốc gia, khu vực [8, tr.182]. Cũng từ những điều phân tích trên đây

có thể thấy trong xã hội có các giai cấp đối kháng, QCN thể hiện rõ nét bản chất

giai cấp của nó, sự phát triển của xã hội loài người, đặc biệt là trong điều kiện hội

nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, đã dẫn đến việc bản chất giai cấp của QCN ngày

càng “bị thu hẹp” và thay thế bằng bản chất xã hội. QCN vừa là kết quả của các

cuộc cách mạng xoá bỏ mọi áp bức bất công, là tài sản chung của loài người và là

nền tảng, động lực của dân chủ và tiến bộ xã hội.

1.1.2 Nội dung quy định của pháp luật quốc tế về QCN

1.1.2.1 Quyền dân sự, chính trị

Những quy định của pháp luật quốc tế về QCN đóng vai trò quan trọng trong

việc đảm bảo và bảo vệ quyền dân sự, chính trị của mỗi cá nhân trên toàn thế giới.

Việc xác định rõ ràng các quy định này không chỉ là vấn đề của một quốc gia mà

còn là trách nhiệm của cộng đồng quốc tế để đảm bảo tôn trọng và thực thi các

quyền này một cách công bằng và minh bạch. QCN là khái niệm rộng lớn, bao gồm

các quyền dân sự, quyền chính trị, quyền kinh tế, xã hội và văn hóa. Trong bối cảnh

hiện nay, với sự phát triển không ngừng của xã hội và sự tăng cường của việc hợp

tác quốc tế, việc thảo luận và thực thi quy định về quyền dân sự, chính trị trở nên

cấp bách hơn bao giờ hết. Các quyền này không chỉ đơn giản là những định nghĩa

trên giấy tờ mà còn là các giá trị cốt lõi của con người mà không thể phủ nhận.

Quyền dân sự, chính trị là một khía cạnh quan trọng của QCN, đảm bảo các cá nhân

được tự do, bình đẳng và công bằng trong xã hội. Pháp luật quốc tế có vai trò quan

trọng trong việc bảo vệ và thúc đẩy việc thực thi các quyền này trên toàn cầu. Các

quyền dân sự thường bao gồm quyền tự do cá nhân, như quyền tự do ngôn luận, tự

do tôn giáo, tự do di chuyển và quyền công bằng trước pháp luật. Quyền chính trị

thường liên quan đến quyền tham gia vào quyết định chính trị của một quốc gia, bao

gồm quyền bầu cử và quyền tham gia vào cuộc sống chính trị cộng đồng.

1.1.2.2 Quyền kinh tế, xã hội, văn hóa

14

Trong lĩnh vực kinh tế, QCN cũng đóng vai trò quan trọng. Việc bảo vệ quyền

lợi của người lao động, quyền được làm việc trong môi trường an toàn và quyền

biểu tình lao động là những điểm quan trọng mà pháp luật quốc tế thường quan tâm.

Ngoài ra, việc ngăn chặn sự kỳ thị và đạo đức trong lĩnh vực kinh tế cũng là một

phần quan trọng của việc bảo vệ QCN trong lĩnh vực này. Trong thời đại công nghệ

số, QCN trong lĩnh vực kinh tế cũng cần được đặc biệt chú trọng. Việc bảo vệ thông

tin cá nhân, ngăn chặn việc lạm dụng dữ liệu và đảm bảo rằng mọi người có quyền

truy cập công bằng vào các cơ hội kinh tế là những vấn đề đang trở nên ngày càng

quan trọng trong lĩnh vực này.

Quyền kinh tế của con người được bảo vệ và quy định mạnh mẽ trong các văn

bản pháp luật quốc tế. Một số điểm quan trọng về quyền kinh tế của con người bao

gồm: Quyền sở hữu tư nhân: Pháp luật quốc tế thừa nhận quyền sở hữu tư nhân là

một quyền cơ bản của con người. Điều này đảm bảo cá nhân có quyền sở hữu và

quản lý tài sản cá nhân một cách tự do; Quyền lao động: Các văn bản quốc tế bảo vệ

quyền lao động của con người bằng cách đảm bảo điều kiện làm việc công bằng,

lương thích đáng và không phân biệt đối xử; Chống kỳ thị kinh tế: Pháp luật quốc tế

cũng nghiêm cấm mọi hình thức kỳ thị kinh tế, bao gồm việc loại bỏ các rào cản

kinh tế không công bằng giữa các cá nhân hoặc nhóm người. Một số công ước quốc

tế quan trọng về quyền kinh tế của con người như: Công ước ILO: Bảo vệ quyền lao

động và thúc đẩy việc cải thiện điều kiện làm việc; Hiến Chương LHQ: Bảo vệ

quyền sở hữu tư nhân và nguyên tắc công bằng trong thương mại; Công ước về

Nhân Quyền: Bảo vệ quyền kinh tế và quyền lao động của con người.

Quyền văn hóa của con người đóng vai trò quan trọng trong việc bảo vệ và

thúc đẩy sự đa dạng văn hóa trên toàn cầu. Một số quy định của pháp luật quốc tế

về quyền văn hóa của con người bao gồm: Quyền tự do tư duy: Mọi người có quyền

tự do tư duy, tìm kiếm, nhận và truyền đạt thông tin và ý kiến một cách tự do mà

không bị can thiệp; Bảo vệ di sản văn hóa: Các văn bản quốc tế thường đề cập đến

việc bảo vệ di sản văn hóa, bao gồm việc bảo tồn các di tích lịch sử, văn hóa và

truyền thống dân tộc; Quyền tham gia vào cuộc sống văn hóa: Đảm bảo mọi người

15

có quyền tham gia vào cuộc sống văn hóa của cộng đồng một cách tích cực và

không bị phân biệt đối xử. Một số tài liệu quốc tế quan trọng về quyền văn hóa của

con người như: UNESCO 1972: Bảo vệ di sản văn hóa thế giới và khuyến khích

hợp tác quốc tế trong lĩnh vực này; Hiến Chương LHQ: Bảo vệ quyền tự do tư duy

và tự do truyền thông; UNESCO 2001: Bảo vệ và khuyến khích sự đa dạng văn hóa

trên toàn cầu.

Quyền xã hội bao gồm nhiều khía cạnh khác nhau như quyền y tế, quyền

giáo dục, quyền phát triển bền vững. Một số điểm quan trọng về quyền xã hội của

con người bao gồm: Quyền y tế cơ bản: Mọi người đều có quyền truy cập vào dịch

vụ y tế cơ bản để đảm bảo sức khỏe và chăm sóc y tế cho bản thân; Quyền giáo dục:

Pháp luật quốc tế thừa nhận quyền giáo dục là quyền cơ bản của con người và

khuyến khích việc phát triển giáo dục đại học và nghề nghiệp cho tất cả mọi người;

Phát triển bền vững: Bảo vệ môi trường sống và khuyến khích phát triển bền vững

là một khía cạnh quan trọng của quyền xã hội của con người. Một số văn bản quốc

tế quan trọng về quyền xã hội của con người: UNICEF: Bảo vệ quyền trẻ em và

đảm bảo điều kiện sống tốt cho trẻ nhỏ; Công ước về Nhân Quyền: Bảo vệ quyền y

tế cơ bản và quyền giáo dục của con người; Công ước về Môi Trường: Bảo vệ môi

trường sống và khuyến khích phát triển bền vững.

1.1.2.3 Quyền của một số nhóm người dễ bị tổn thương

Pháp luật quốc tế bảo vệ QCN bằng cách thiết lập các chuẩn mực và nguyên

tắc cơ bản đối với việc đối xử công bằng và tôn trọng đối với tất cả mọi người. Các

văn bản quốc tế, như Tuyên ngôn Nhân quyền của Liên Hợp Quốc và các công ước

quốc tế về QCN, đều cam kết bảo vệ các quyền cơ bản của con người mà không

phân biệt đối xử dựa trên bất kỳ lý do nào. Điều này bao gồm việc bảo vệ quyền của

những nhóm người dễ bị tổn thương, như trẻ em, người tàn tật, người già, người

nghèo và phụ nữ. Mặc dù chưa từng có công ước nào hay văn bản quốc tế nào đưa

ra định nghĩa về người dễ bị tổn thương, nhưng tinh thần bảo vệ quyền của nhóm

người này, được thể hiện qua những văn kiện quốc tế quan trọng về QCN cũng như

một số điều ước quốc tế đặc thù của từng nhóm người. Các văn kiện quốc tế tổng

16

quát về QCN có thể kể đến như Hiến chương Liên hợp quốc (LHQ) về QCN năm

1945; Tuyên ngôn Nhân quyền quốc tế năm 1948; Tuyên bố Viên và Chương trình

hành động năm 1993; Tuyên bố thiên niên kỷ của LHQ năm 2000… Các văn kiện

cụ thể về quyền tự do, cơ bản của con người như: Công ước quốc tế về các quyền

dân sự, chính trị năm 1966; Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa

năm 1966…

Ngoài những nhóm người trên, người dễ bị tổn thương, theo một số quan

điểm quốc tế hiện nay, còn có thể là người di tản hoặc tìm kiếm nơi lánh nạn,

người thiểu số, người sống chung với HIV- AIDS, tù binh chiến tranh, người đồng

tính hoặc người chuyển giới… Và danh sách người dễ bị tổn thương có thể được

mở rộng bởi “theo cách tiếp cận về vấn đề này, mỗi chúng ta, vào lúc này hay lúc

khác, trong hoàn cảnh này hay hoàn cảnh khác, đều có thể thuộc về một hoặc một

vài nhóm dễ bị tổn thương”. Mặc dù các quốc gia không phải có nghĩa vụ nội luật

hóa tất cả những quyền của nhóm người dễ bị tổn thương trên trong các văn kiện

pháp lý quốc tế, nhưng các văn kiện này là cơ sở quan trọng để Ủy ban Nhân

quyền LHQ cũng như các cơ quan khác đánh giá và đưa ra những khuyến nghị.

Đồng thời, phạm vi nội luật hoá trong pháp luật quốc gia cũng phụ thuộc vào cách

tiếp cận và lĩnh vực mà pháp luật quốc gia điều chỉnh. Ví dụ, tuỳ theo lĩnh vực điều

chỉnh, đó là pháp luật hình sự, pháp luật dân sự hay pháp luật lao động... mà phạm

vi người yếu thế cũng có khác nhau, không phải là toàn bộ danh sách mà pháp luật

quốc tế đề cập ở trên. Bảo vệ quyền của nhóm người dễ bị tổn thương không chỉ là

trách nhiệm pháp lý mà còn là trách nhiệm đạo đức và nhân văn của mọi cá nhân và

tổ chức. Việc thực hiện các biện pháp bảo vệ quyền của trẻ em, phụ nữ, người

khuyết tật, người già… không chỉ nâng cao chất lượng cuộc sống của họ mà còn

đóng góp vào sự phát triển toàn diện và bền vững của xã hội. Các nước cần hợp tác

chặt chẽ để thúc đẩy việc thực thi các quy định pháp luật quốc tế về quyền của

nhóm người dễ bị tổn thương. Việc tăng cường ý thức cộng đồng, đào tạo và giáo

dục về QCN là cách hiệu quả để xây dựng một xã hội công bằng và nhân văn, nơi

mà tất cả mọi người đều được đối xử công bằng và tôn trọng.

17

1.1.3 Cơ chế pháp lý về bảo vệ QCN

1.1.3.1 Khái niệm

Theo từ điển Tiếng Việt, “bảo vệ” có nghĩa là chống lại mọi sự hủy hoại, xâm

phạm để giữ gìn cho được nguyên vẹn, hoặc là bênh vực bằng lý lẽ để giữ vững ý

kiến hay quan điểm. Từ nội dung của thuật ngữ “bảo vệ” và với những tính chất, nội

dung của QCN cho thấy “bảo vệ QCN” có nội dung cơ bản là chống lại mọi sự hủy

hoại, xâm phạm để giữ gìn cho “nhân phẩm, lợi ích, nhu cầu và năng lực” của tất cả

mọi người trong xã hội được “nguyên vẹn” và tồn tại an toàn. Theo đó, ở nghĩa

chung nhất “bảo vệ QCN” là hoạt động chống lại mọi sự hủy hoại, xâm phạm lợi

ích, nhu cầu, nhân phẩm để giữ gìn cho QCN được nguyên vẹn. Trên phương diện

pháp lý, trong hoạt động bảo vệ QCN thì pháp luật có vị trí, vai trò quan trọng hàng

đầu, bởi vì pháp luật là phương tiện chính thức hóa giá trị xã hội của QCN, pháp lý

hóa giá trị xã hội của các quyền tự nhiên; là công cụ sắc bén của nhà nước trong

việc thực hiện thúc đẩy và bảo vệ QCN; pháp luật tạo cơ sở pháp lý để mọi cá nhân

đấu tranh bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Pháp luật xác lập và bảo

vệ sự bình đẳng giữa các cá nhân trong xã hội và sự độc lập tương đối của các cá

nhân với tập thể, cộng đồng, nhà nước, thông qua việc pháp điển hóa các quyền và

tự do tự nhiên, vốn có của cá nhân. Chỉ khi mang tính pháp lý, các quyền tự nhiên

mới chuyển thành những QCN có đầy đủ giá trị hiện thực bằng pháp luật. Đồng

thời, pháp luật là phương tiện bảo đảm giá trị thực tế của các QCN.

Bảo vệ QCN hiện nay được thực hiện thông qua ba cơ chế đó là cơ chế quốc

tế, cơ chế khu vực và cơ chế quốc gia. Trong đó, cơ chế quốc tế và cơ chế khu vực

có tầm ảnh hưởng rất lớn đến cơ chế quốc gia, đặc biệt đối với các quốc gia tham

gia công ước, điều ước quốc tế về bảo vệ QCN. Như vậy, nghĩa vụ bảo vệ QCN của

mỗi nhà nước được coi là một nghĩa vụ chủ động bởi để ngăn chặn sự vi phạm

QCN của bên thứ ba, các nhà nước phải chủ động đưa ra những biện pháp và xây

dựng các cơ chế phòng ngừa, xử lý những hành vi vi phạm. Theo đó, ở cấp độ quốc

tế, bảo vệ QCN được hiểu là hoạt động của mỗi nhà nước nhằm ngăn ngừa, phòng

chống, xử lý những hành vi vi phạm QCN của bất cứ chủ thể nào. Trong các cơ chế

18

bảo vệ QCN, cơ chế quốc gia có vai trò quan trọng nhất, được chứng minh bằng

lịch sử lâu đời và có hiệu quả cao trong thực tiễn. Theo đó, các quốc gia có trách

nhiệm tạo cơ sở, tiền đề để thực hiện nhiệm vụ bảo vệ QCN như pháp luật, bộ máy

nhà nước, cơ chế thực hiện vận hành bộ máy. Để thực hiện nhiệm vụ bảo vệ QCN

mỗi quốc gia cần xây dựng một hệ thống pháp luật với mục đích ngăn chặn và xử lý

những hành vi vi phạm QCN, bên cạnh đó cũng tính đến việc phục hồi, khôi phục

lại những quyền và lợi ích hợp pháp của người bị vi phạm. Việc thực hiện hoạt

động này thường được trao cho những cơ quan nhà nước có thẩm quyền tùy theo

từng lĩnh vực mà QCN bị xâm hại, hạn chế hoặc bị tước bỏ.

Trên cơ sở khái niệm về QCN và những phân tích nêu trên, bảo vệ QCN có

thể hiểu là toàn bộ các hoạt động phát hiện, ngăn ngừa và xử lý những hành vi vi

phạm QCN, nhằm khôi phục những quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân đã bị

xâm hại, hạn chế hoặc tước bỏ bởi hành vi vi phạm pháp luật về QCN, do các chủ

thể có thẩm quyền thực hiện.

TTDS là một hình thức thủ tục tố tụng tư pháp, là công cụ pháp lý quan trọng

bảo vệ QCN nhằm mục đích giải quyết các tranh chấp trong lĩnh vực dân sự. TTDS

là công cụ để sử dụng trong những trường hợp cần áp dụng khả năng tác động của

quyền lực nhà nước nhằm giải quyết thỏa đáng các tranh chấp trong lĩnh vực dân

sự. Các bên tham gia vào quan hệ pháp luật TTDS về nội dung đang bị tranh chấp

và trở thành thành chủ thể của quan hệ pháp luật dân sự được gọi là đương sự trong

TTDS, là những cá nhân hoặc tổ chức bao gồm nguyên đơn, bị đơn, người có quyền

lợi, nghĩa vụ liên quan. Bảo vệ QCN trong TTDS có thể hiểu là nhiệm vụ của nhà

nước thông qua hệ thống cơ quan tư pháp tiến hành hoạt động ngăn chặn mọi hành

vi vi phạm QCN để khôi phục lại những QCN đã bị xâm hại được thực hiện theo

thủ tục TTDS nhằm bảo đảm cho các quyền của cá nhân được tôn trọng và thực thi

trên thực tế. Do đó, pháp luật TTDS sự mang ý nghĩa hết sức quan trọng nhằm bảo

vệ QCN trong TTDS để các quyền về dân sự, kinh tế của cá nhân, công dân được

thực hiện trong thực tiễn, qua đó bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự,

người tham gia tố tụng khác.

19

1.1.3.2 Cơ chế quốc tế về bảo vệ QCN

Như đã đề cập, về cơ bản, cơ chế quốc tế về bảo vệ QCN thể hiện ở bộ máy

các cơ quan và các quy tắc, thủ tục về bảo vệ QCN trong hệ thống Liên hợp quốc.

Mặc dù có mục tiêu chung là để bảo vệ QCN, song dựa trên vị thế pháp lý và chức

năng, nhiệm vụ, các cơ quan QCN Liên hợp quốc được chia thành hai dạng: các cơ

quan được thành lập theo (hoặc dựa trên) Hiến chương và các cơ quan được thành

lập theo (hoặc dựa trên) một số điều ước quan trọng về QCN. Một số tài liệu gọi hệ

thống các cơ quan và thủ tục này là cơ chế dựa trên Hiến chương và cơ chế dựa trên

điều ước.

Cơ chế dựa trên Hiến chương: Do bảo vệ và thúc đẩy các QCN được xác định

là một trong những mục tiêu cơ bản của Liên hợp quốc nên cả 6 cơ quan chính (Đại

hội đồng - General Assembly, Hội đồng Bảo an - Security Council, Hội đồng Kinh

tế và Xã hội - Economic and Social Council - ECOSOC, Hội đồng Quản thác -

Trusteeship Council và Toà án quốc tế - International Court of Justice - ICJ), đều có

trách nhiệm trên lĩnh vực này. Một số cơ quan chính thiết lập một mạng lưới các cơ

quan giúp việc về QCN, đồng thời xây dựng một quy chế để huy động sự tham gia,

hỗ trợ của các tổ chức phi chính phủ (quốc tế, khu vực và quốc gia) vào hoạt động

thúc đẩy và bảo vệ QCN.

Cơ chế dựa trên công ước: Cơ chế này được dựa trên các ủy ban giám sát việc

thực hiện một số công ước quốc tế về QCN được thành lập theo quy định của chính

các công ước đó (ngoại trừ Uỷ ban về các quyền kinh tế, xã hội, văn hoá được thành

lập theo một nghị quyết của ECOSOC). Nếu như các cơ quan trong cơ chế dựa trên

Hiến chương có những chức năng đa dạng, bao gồm cả việc nghiên cứu, xây dựng

các dự thảo văn kiện, thẩm định, theo dõi, giám sát và điều hành các chương trình,

hoạt động về QCN... thì hệ thống uỷ ban công ước có chức năng hẹp hơn. Các uỷ

ban này được thiết lập chỉ để giám sát, thúc đẩy việc thực hiện những điều ước quốc

tế về QCN, thông qua việc nhận, xem xét và ra khuyến nghị liên quan đến các báo

cáo về việc thực hiện những công ước này của những quốc gia thành viên (và với

20

một số uỷ ban, còn thông qua thẩm quyền nhận, xem xét và xử lý các khiếu nại về

việc vi phạm các QCN được ghi nhận trong một số công ước).

1.1.3.3 Cơ chế quốc gia về bảo vệ QCN

Cơ chế quốc gia về bảo vệ QCN xuất phát từ và nhằm thực hiện những nghĩa

vụ của các nhà nước được nêu trong tất cả các văn kiện quốc tế về QCN. Nòng cốt

của cơ chế là các cơ quan quốc gia về bảo vệ và thúc đẩy nhân quyền. Các cơ quan

quốc gia về bảo vệ và thúc đẩy nhân quyền có hình thức tổ chức rất đa dạng.

Tại Việt Nam, QCN được bảo vệ chặt chẽ thông qua các cơ chế pháp lý quốc

gia. Cơ chế pháp lý về bảo vệ QCN được quy định trong Hiến pháp 2013 và các văn

bản pháp lý khác như Bộ luật Hình sự, Bộ luật Dân sự, Bộ luật Lao động, Luật Bảo

vệ quyền lợi người tiêu dùng, Luật Tư pháp và nhiều văn bản khác. Các văn bản

này tập trung vào việc bảo vệ quyền sống, quyền tự do, quyền bình đẳng và quyền

được hưởng lợi ích từ sự phát triển kinh tế xã hội của mỗi cá nhân. Ngoài ra, Việt

Nam không chỉ chú trọng vào việc bảo vệ QCN trên lãnh thổ quốc gia mà còn hợp

tác quốc tế trong lĩnh vực này bằng việc tham gia vào nhiều công ước quốc tế về

QCN như Công ước Quốc tế về Quyền Dân Sự và Chính Trị, Công ước Quốc tế về

Quyền Kinh Tế, Xã Hội và Văn Hóa. Việt Nam tham gia và thúc đẩy các hợp đồng,

hiệp định quốc tế liên quan đến QCN nhằm mục đích cùng nhau tạo ra môi trường

khung cho việc bảo vệ QCN không chỉ tại Việt Nam mà còn trên toàn thế giới.

Hiến pháp là tài liệu căn cứ quan trọng nhất để bảo vệ QCN, trong đó quy định

rõ việc tôn trọng và bảo vệ QCN là nghĩa vụ hàng đầu của Nhà nước. Ở mỗi quốc

gia, có các cơ quan chuyên trách giám sát việc bảo vệ QCN. Tại Việt Nam, Ủy ban

nhân quyền là cơ quan có trách nhiệm chủ trì, phối hợp với các cơ quan, tổ chức

trong và ngoài hệ thống chính trị, xã hội, hoạt động giám sát, theo dõi, đánh giá,

cung cấp thông tin, khuyến khích, bảo vệ và thúc đẩy QCN. Ngoài ra, hệ thống luật

pháp, hệ thống tư pháp, cơ quan quản lý nhà nước, các cơ quan chức năng như Tòa

án, Công an, VKSND cũng có vai trò quan trọng trong việc thực thi, bảo vệ và thúc

đẩy QCN. Công tác giám sát cũng được thực hiện thông qua các tổ chức xã hội dân

sự và truyền thông độc lập. Tuyên ngôn độc lập của nước Việt Nam dân chủ cộng

21

hoà được Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc vào ngày 2/9/1945, nó được xem là một văn

bản có ý nghĩa lịch sử trên bình diện thế giới đối với QCN. Từ ngày lập quốc cho

đến bây giờ, nhà nước Việt Nam luôn luôn đề cao nguyên tắc QCN, xem đó là một

trong những nguyên tắc hình thành luật pháp của nhà nước. Tuy nhiên, nguyên tắc

trên không được thể hiện một cách đầy đủ qua các bản hiến pháp năm 1946, năm

1959 và năm 1980; trong Hiến pháp 1992, lần đầu tiên trong lịch sử lập hiến tại

nước ta, nguyên tắc tôn trọng các QCN được xác định thành đạo luật căn bản của

nhà nước. Đây là một bước phát triển mới của các quyền và nghĩa vụ cơ bản của

công dân theo Hiến pháp (Điều 50). Đảng và nhà nước ta cũng thực thi nhiều chính

sách để bảo đảm QCN, tham gia hầu hết các điều ước quốc tế về QCN và đã đạt

được nhiều thành tựu to lớn. Qua đó góp phần xây dựng một đất nước giàu mạnh,

công bằng, dân chủ, văn minh, đóng góp vào cuộc đấu tranh chung của toàn nhân

loại vì mục tiêu hòa bình và tiến bộ xã hội. Những quyết định tiến triển trong Hiến

pháp mới nhất của Việt Nam đã được kế thừa và phát triển từ những quy định của

những bản Hiến pháp trước đây. Hiến pháp năm 2013 đã có sự đổi mới căn bản và

quan trọng cả về cơ cấu, sắp xếp cách viết và nội dung. Việc tiếp tục nâng cao chất

lượng chỉ đạo QCN, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân đã được thể hiện rõ

ràng trong Hiến pháp. Với việc thể hiện rõ ràng qua 35 điều luật theo các tiêu chuẩn

pháp lý quốc tế. Những quy định về bảo vệ QCN có tầm khái quát quy định trong

Hiến pháp 2013 (Điều 14) được cụ thể hóa tại các văn bản luật chuyên ngành.

Chẳng hạn, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định nhiệm vụ của mình là “góp

phần bảo vệ công lý, bảo vệ QCN, QCD.” (Điều 2). BLTTDS năm 2015 cũng ghi

nhận quyền yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp là quyền tự do dân

chủ rất quan trọng của cá nhân: Cơ quan, tổ chức, cá nhân có quyền khởi kiện, yêu

cầu giải quyết vụ, việc dân sự tại để yêu cầu tòa án bảo vệ công lý, bảo vệ QCN,

QCD, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của mình hoặc của

người khác (Điều 4).

QCN trong TTDS đã và đang được cụ thể hóa trong văn bản quy phạm pháp

luật mà điển hình là BLTTDS năm 2015, quy định cụ thể tại chương II: Những

22

nguyên tắc cơ bản và từ Điều 70 đến Điều 74 BLTTDS. Theo đó, trong TTDS,

đương sự có phạm vi quyền và nghĩa vụ rất lớn và họ bình đẳng với nhau. Trên cơ

sở nguyên tắc và tự định đoạt, các đương sự thực hiện việc bảo vệ quyền và lợi ích

hợp pháp của mình.

Một trong những đặc trưng cơ bản của TTDS là nguyên tắc tự định đoạt của

đương sự. Nguyên tắc này thể hiện vai trò tích cực chủ động của đương sự trong

việc tự bảo vệ và yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích của mình. Cùng với

nguyên tắc về quyền tự định đoạt là nguyên tắc bình đẳng giữa các bên và nguyên

tắc hòa giải. Như vậy, rõ ràng hiệu quả của thủ tục TTDS phụ thuộc vào tính tích

cực của các bên, và điều này hoàn toàn phụ thuộc vào mức độ quyền và nghĩa vụ

của họ do pháp luật TTDS quy định. Nguyên tắc chung là các bên có quyền và

nghĩa vụ ngang nhau khi tham gia tố tụng.

Các bên có các quyền sau: Cung cấp chứng cứ và chứng minh để bảo vệ quyền

và lợi ích hợp pháp của mình; Yêu cầu cá nhân, cơ quan, tổ chức đang lưu giữ, quản

lý chứng cứ cung cấp chứng cứ đó cho mình để giao nộp cho tòa án, đề nghị tòa án

xác minh, thu thập chứng cứ của vụ án mà mình không thể thực hiện được hoặc đề

nghị tòa án triệu tập người làm chứng, trưng cầu giám định, định giá, khiếu nại với

VKS về những chứng cứ mà tòa án đã xác minh, thu thập do đương sự khác yêu cầu

được biết và ghi chép, sao chụp các tài liệu, chứng cứ do các đương sự khác xuất

trình hoặc do tòa án thu thập đề nghị tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, tự

thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ án; tham gia hòa giải do tòa án tiến hành,

nhận thông báo hợp lệ để thực hiện các quyền, nghĩa vụ của mình; tự bảo vệ hoặc

nhờ người khác (như luật sư, luật gia) bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình;

tham gia phiên tòa; yêu cầu thay đổi người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng

theo quy định của BLTTDS; tranh luận tại phiên tòa; kháng cáo, khiếu nại bản án,

quyết định của tòa án; phát hiện và thông báo cho người có thẩm quyền kháng nghị

căn cứ để kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm bản án, quyết định của

tòa án đã có hiệu lực pháp luật.

23

Ngoài các quyền và nghĩa vụ chung nêu trên, BLTTDS năm 2015 còn quy

định các quyền, nghĩa vụ cho riêng nguyên đơn và bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa

vụ liên quan. Đối với nguyên đơn, có quyền sau: Rút một phần hoặc toàn bộ yêu

cầu khởi kiện, thay đổi nội dung yêu cầu khởi kiện; Đề nghị tòa án đưa người có

quyền lợi, nghĩa vụ liên quan tham gia tố tụng; Đề nghị tòa án tạm đình chỉ giải

quyết vụ án. Bị đơn có những quyền riêng sau đây: Chấp nhận một phần hoặc toàn

bộ yêu cầu của nguyên đơn; bác bỏ toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn; đưa ra yêu cầu

phản tố đối với nguyên đơn nếu có liên quan đến yêu cầu của nguyên đơn hoặc đề

nghị đối với nghĩa vụ mà nguyên đơn yêu cầu; được thông báo về việc bị khởi kiện.

Để bảo vệ quyền lợi cho các bên, BLTTDS năm 2015 còn quy định việc kế

thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng của các đương sự trong điều kiện đương sự bị chết

hoặc chấm dứt hoạt động, nếu quyền có nghĩa vụ tài sản đang bị tranh chấp của họ

được thừa kế (Điều 74). Thông thường, vụ án dân sự phát sinh là do chính nguyên

đơn khởi kiện. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp do nhiều nguyên nhân khác nhau,

theo quy định của BLTTDS năm 2015, cùng tham gia vào tố tụng còn có người đại

diện của đương sự và người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. Người

bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự là người được đương sự nhờ và

được Tòa án chấp nhận để tham gia tố tụng bảo vệ quyền và lợi ích của đương sự.

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự có thể là luật sư hoặc cũng

có thể là bất cứ công dân Việt Nam nào có năng lực hành vi dân sự đầy đủ và đáp

ứng các yêu cầu theo quy định của BLTTDS năm 2015. Vấn đề người đại diện

trong TTDS được giải quyết dựa trên cơ sở các quy định về đại diện trong Bộ luật

dân sự. Người đại diện trong TTDS bao gồm người đại diện theo pháp luật và người

đại diện theo ủy quyền. Nhằm bảo vệ một cách đầy đủ, khách quan các quyền và lợi

ích của các bên, pháp luật quy định một số trường hợp không được làm người đại

diện và những trường hợp tòa án phải chỉ định người đại diện. Ví dụ, trong khi tiến

hành TTDS, nếu có đương sự là người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự mà không

có người đại diện hoặc có người đại diện theo quy định tại khoản 1 Điều 88 Bộ luật

Tố tụng dân sự năm 2015, thì tòa án phải chỉ định người đại diện cho người đó để

24

tham gia tố tụng tại tòa án, hoặc ví dụ những người sau đây không được làm người

đại diện trong tố tụng dân sự như: cán bộ, công chức trong ngành tòa án, kiểm sát,

công an, trừ trường hợp họ tham gia tố tụng với tư cách người đại diện cho cơ quan

của họ hoặc với tư cách là người đại diện theo pháp luật.

Rõ ràng, đương sự trong TTDS là chủ phạm vi quyền rất rộng lớn và khả năng

sử dụng phương thức khởi kiện, sử dụng thủ tục TTDS để bảo vệ quyền và lợi ích

chính đáng của mình một cách hữu hiệu nhất. Ưu thế của thủ tục TTDS thể hiện ở

những nguyên tắc đặc trưng của nó là quyền tự định đoạt của các bên đương sự đảm

bảo cho các bên chủ động áp dụng các phương thức, biện pháp khác nhau với mục

tiêu cao nhất, phục hồi một cách nhanh chóng, kịp thời và đầy đủ quyền và lợi ích

của mình đã và đang bị vi phạm hoặc tranh chấp. Các bên có thể tự hòa giải với

nhau hoặc người khởi kiện có thể tự mình rút đơn khởi kiện. Nguyên tắc tự định

đoạt có hiệu lực trong suốt quá trình áp dụng thủ tục TTDS; và nguyên tắc này là cơ

sở để xác định không những chỉ có quyền và nghĩa vụ của các bên mà đối với các

chủ thể khác như tòa án và VKS, những chủ thể được coi là người tiến hành TTDS.

Đề cao nguyên tắc về quyền tự định đoạt của các bên là tâm điểm của nội

dung quá trình hoàn thiện pháp luật TTDS và cải cách tư pháp ở Việt Nam trong

thời kỳ đổi mới. Nguyên tắc này có ý nghĩa xuyên suốt tất cả các giai đoạn của quá

trình tố tụng từ khi khiếu kiện, thụ lý vụ án cho đến khi thi hành án, kết thúc vụ án,

cùng với việc áp dụng nguyên tắc hai cấp xét xử, nguyên tắc độc lập của tòa án khi

xét xử, nguyên tắc về quyền tự định đoạt của các bên cho phép xác định thẩm quyền

của các cấp tòa án cũng như vai trò và vị trí của VKS trong trong TTDS. Cùng với

việc ban hành BLTTDS, VKS không còn có thẩm quyền khởi tố vụ án dân sự như

trước đây, hoặc quy định rằng tòa án có trách nhiệm tiến hành hòa giải và tạo điều

kiện thuận lợi; để các đương sự thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ việc dân

sự, bảo đảm cho đương sự thực hiện quyền bảo vệ của họ theo quy định của pháp

luật. Việc giải quyết vụ việc dân sự được tiến hành một cách công khai, đảm bảo sự

tham gia của Hội thẩm nhân dân; xét xử tập thể. Về nguyên tắc, tiếng nói và chữ

viết trong TTDS là tiếng Việt (Điều 20, BLTTDS năm 2015). Tuy nhiên, để bảo vệ

25

lợi ích của các chủ thể thuộc các dân tộc khác nhau, BLTTDS quy định rằng người

tham gia TTDS có quyền dùng tiếng nói và chữ viết của dân tộc mình và trong

trường hợp này, tòa án phải chỉ định người phiên dịch. Bên cạnh đó, để bảo vệ

quyền tự do, dân chủ của người dân trong TTDS, pháp luật quy định quyền khiếu

nại, tố cáo của họ trong TTDS và trong trường hợp đó, cơ quan chức cá nhân có

thẩm quyền phải tiếp nhận, xem xét và giải quyết kịp thời, đúng pháp luật các khiếu

nại, tố cáo, thông báo bằng văn bản về kết quả giải quyết cho người đã khiếu nại, tố

cáo biết.

1.2 Trách nhiệm của VKSND trong bảo vệ QCN thông qua hoạt động

kiểm sát giải quyết các vụ việc dân sự.

1.2.1 Khái quát chung về giải quyết vụ việc dân sự, kiểm sát giải quyết vụ

việc dân sự

1.2.1.1 Khái niệm

Khi nói đến giải quyết vụ việc dân sự, chúng ta đề cập đến quá trình phân xử

những tranh chấp, mâu thuẫn giữa các cá nhân, tổ chức trong xã hội một cách hợp

lý và công bằng. Điều quan trọng trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự là tôn

trọng quy định pháp luật, đảm bảo nguyên tắc công bằng, minh bạch và đúng luật.

Có nhiều phương pháp giải quyết vụ việc dân sự như đàm phán, hòa giải, trọng tài,

hoặc thông qua phiên tòa án. Quá trình giải quyết vụ việc dân sự thường bắt đầu khi

một bên có khiếu nại hoặc tố cáo về việc xảy ra mâu thuẫn, tranh chấp với bên kia.

Đầu tiên, họ có thể thử giải quyết vấn đề một cách hòa bình thông qua đàm phán

hoặc hòa giải. Nếu không thể đạt được thỏa thuận, họ có thể nộp đơn kiện lên cơ

quan tư pháp để yêu cầu giải quyết vụ việc dân sự thông qua phiên tòa.

Giải quyết vụ việc dân sự chính là quá trình mà Tòa án hoặc cơ quan có thẩm

quyền khác tiến hành nhằm giải quyết các tranh chấp hoặc yêu cầu phát sinh từ các

quan hệ dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại và lao động. Quá

trình này bao gồm nhiều bước, từ việc tiếp nhận đơn khởi kiện, chuẩn bị xét xử, xét

xử sơ thẩm, phúc thẩm đến thi hành án. Các bước cơ bản trong giải quyết vụ việc

26

dân sự gồm: Tiếp nhận đơn khởi kiện: Người khởi kiện nộp đơn khởi kiện tại tòa án

có thẩm quyền; Thụ lý vụ án: Tòa án kiểm tra và thụ lý đơn khởi kiện nếu đủ điều

kiện; Chuẩn bị xét xử: Bao gồm các hoạt động thu thập chứng cứ, lấy lời khai, hòa

giải giữa các bên tranh chấp; Xét xử sơ thẩm: Tòa án tiến hành phiên tòa sơ thẩm để

xem xét và ra phán quyết; Xét xử phúc thẩm (nếu có): Nếu có kháng cáo, kháng

nghị, vụ án sẽ được xem xét lại ở phiên tòa phúc thẩm.

Trên hành lang pháp lý, việc giải quyết vụ việc dân sự đòi hỏi sự tham gia

của các cơ quan chức năng, trong đó VKS đóng vai trò quan trọng. Khái niệm kiểm

sát giải quyết vụ việc dân sự đề cập đến quá trình kiểm tra, rà soát, xác định vi

phạm pháp luật, và tiến hành các biện pháp khắc phục theo đúng quy định của pháp

luật. Với sứ mệnh bảo vệ quyền lợi hợp pháp của các bên tham gia, VKS phải thực

thi công lý một cách khách quan và công bằng, tạo ra sự minh bạch và tin cậy trong

quá trình giải quyết vụ việc dân sự. Mục đích của hoạt động này là đảm bảo việc

giải quyết vụ việc dân sự được thực hiện đúng pháp luật, bảo vệ quyền và lợi ích

hợp pháp của các bên liên quan. Các nhiệm vụ chính của VKSND trong kiểm sát

giải quyết vụ việc dân sự bao gồm: Kiểm sát việc thụ lý, giải quyết vụ án: Giám sát

việc thụ lý và các bước xử lý vụ án dân sự của tòa án để đảm bảo đúng quy trình

pháp luật; Tham gia phiên tòa: KSV có thể tham gia phiên tòa để giám sát hoạt

động xét xử, đảm bảo phán quyết của tòa án là công bằng và đúng pháp luật; Kháng

nghị bản án, quyết định của tòa án: Nếu phát hiện có vi phạm pháp luật trong quá

trình xét xử, VKS có quyền kháng nghị bản án, quyết định của tòa án; Kiểm sát việc

thi hành án: Giám sát quá trình thi hành các bản án, quyết định dân sự để đảm bảo

quyền và lợi ích hợp pháp của các bên được thực hiện đầy đủ. Mối quan hệ giữa

giải quyết và kiểm sát giải quyết vụ việc dân sự là mối quan hệ giám sát và kiểm

soát. Tòa án thực hiện chức năng giải quyết các tranh chấp dân sự, trong khi VKS

thực hiện chức năng kiểm sát để đảm bảo quá trình giải quyết đó tuân thủ đúng

pháp luật. Sự phối hợp này giúp nâng cao tính minh bạch, công bằng và hiệu quả

trong công tác tư pháp dân sự. Những khái niệm này thể hiện rõ sự phân công chức

27

năng và nhiệm vụ giữa các cơ quan trong hệ thống tư pháp nhằm đảm bảo quyền lợi

hợp pháp của công dân và tổ chức trong các quan hệ dân sự.

1.2.1.2 Thẩm quyền giải quyết vụ việc dân sự

Khi xảy ra mâu thuẫn hoặc tranh chấp trong xã hội, việc giải quyết vụ việc

dân sự cần phải thông qua các cơ quan có thẩm quyền. Thẩm quyền này được quy

định rõ trong văn bản pháp luật và được thực thi để đảm bảo sự công bằng và hiệu

quả trong quá trình xử lý vụ việc. Các vụ việc dân sự thường liên quan đến việc bảo

vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên tham gia. Quá trình giải quyết vụ việc dân

sự đòi hỏi sự nỗ lực từ phía cả hai bên để tìm ra giải pháp hòa bình và khả thi.

Trong hệ thống pháp luật Việt Nam, các vụ việc dân sự được giải quyết thông qua

các cơ quan tư pháp, chủ yếu là Tòa án, trong việc thụ lý, xét xử và ra quyết định về

các vụ việc liên quan đến tranh chấp dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh,

thương mại và lao động. Cụ thể:

Thẩm quyền của Tòa án: Tòa án là cơ quan có thẩm quyền cao nhất trong

việc giải quyết các vụ việc dân sự tại Việt Nam. Tòa án được xem là tổ chức có

thẩm quyền pháp lý chính thức để xét xử và phán quyết các tranh chấp, mâu thuẫn

giữa các bên. Tòa án có quyền ra quyết định cuối cùng và các quyết định này phải

được tất cả mọi người tuân thủ.

Thẩm quyền của các cơ quan khác:

Trọng tài thương mại: Giải quyết các tranh chấp về hợp đồng kinh doanh,

thương mại theo sự thỏa thuận của các bên liên quan khi có điều khoản trọng tài.

Hòa giải viên: Hòa giải các tranh chấp dân sự tại cơ sở trước khi các bên đưa

vụ việc ra tòa án, nhằm giảm tải cho hệ thống tòa án và thúc đẩy giải quyết tranh

chấp bằng phương thức hòa giải.

1.2.1.3 Thẩm quyền kiểm sát giải quyết vụ việc dân sự

Thẩm quyền kiểm sát giải quyết vụ việc dân sự của VKSND là chức năng,

nhiệm vụ của cơ quan này nhằm giám sát và kiểm tra tính hợp pháp của các hoạt

động tư pháp trong quá trình giải quyết các vụ việc dân sự. Mục đích của hoạt động

28

kiểm sát này là đảm bảo việc thực thi pháp luật một cách đúng đắn, bảo vệ quyền và

lợi ích hợp pháp của các bên liên quan, đồng thời nâng cao hiệu quả và uy tín của hệ

thống tư pháp. Thẩm quyền kiểm sát giải quyết vụ việc dân sự của VKSND được

quy định trong Hiến pháp, Luật tổ chức VKSND, và Bộ luật TTDS. Các quy định

này xác định rõ vai trò, chức năng, và nhiệm vụ của VKSND trong hoạt động kiểm

sát:

Cơ quan tiến hành tố tụng là tòa án, nơi thực hiện chức năng xét xử bởi những

người tiến hành tố tụng. Nếu những người này thiếu sự cẩn trọng, trách nhiệm, chủ

quan, hay thiên vị do tình cảm hoặc ảnh hưởng từ lợi ích và các mối quan hệ lệ

thuộc, vi phạm quyền tố tụng dễ xảy ra. Do đó, việc VKS thực hiện kiểm sát giải

quyết các vụ việc dân sự được coi là một trong những hoạt động giám sát để đảm

bảo quyền tố tụng của các bên được thực hiện hiệu quả. Tuy nhiên, không phải tất

cả các nước đều áp dụng cơ chế kiểm sát của VKS để bảo đảm quyền tố tụng của

các đương sự. Ví dụ, ở những quốc gia như Hoa Kỳ, Anh, Viện công tố chỉ có vai

trò trong việc buộc tội các bị cáo trong những vụ án hình sự chứ không đóng vai trò

quan trọng trong giải quyết các vụ việc dân sự. Bởi vì quan niệm của các nước này

cho rằng, trong hoạt động TTDS là giải quyết các tranh chấp về lợi ích cá nhân, do

đó Viện công tố sẽ không tham gia vào hoạt động này [9, tr.100]. Ngược lại, ở một

số nước như Nga, Trung Quốc, Pháp quy định rằng VKS có quyền tham gia vào quá

trình TTDS. Tuy nhiên, mức độ và sự can thiệp của VKS vào quá trình này ở mỗi

quốc gia là khác nhau. Ở Việt Nam, vai trò kiểm sát của VKS được coi là một trong

những “kênh” để bảo vệ quyền lợi hợp pháp của đương sự trong TTDS và được

điều chỉnh theo Điều 21 của Bộ luật TTDS năm 2015. Pháp luật TTDS nhiều nước

xã hội chủ nghĩa, đều khẳng định bảo đảm quan trọng của việc tuân thủ nguyên tắc

pháp chế xã hội chủ nghĩa là chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong

TTDS [10, tr.36]. Sự tham gia của VKS trong TTDS được coi là một phần quan

trọng trong việc đảm bảo rằng mọi cá nhân, tổ chức và cơ quan liên quan sẽ phải

tuân theo đúng và nghiêm ngặt theo luật lệ của TTDS nói chung, cũng như đảm bảo

tính hợp pháp của các quyết định và bản án từ Tòa án nói riêng [10, tr.36]. Qua việc

29

tiến hành kiểm sát các hoạt động TTDS, VKS bảo đảm rằng các hoạt động TTDS

được thực hiện theo đúng quy định pháp luật, tạo điều kiện thuận lợi để quyền lợi

hợp pháp của các đương sự được bảo vệ [11, tr.55]. Quan điểm của TS. Phạm Hữu

Nghị lại cho rằng, việc giải quyết tranh chấp dân sự giữa các bên không nên bị can

thiệp trực tiếp bởi VKSND với tư cách công quyền, trái ngược hoàn toàn với quan

điểm trước đó [12, tr.41]. TS. Nguyễn Thái Phúc cũng đã nhận định rằng việc nói

về vai trò độc lập của Tòa án là khó khăn khi hoạt động chức năng xét xử được

kiểm sát bởi VKS [13, tr.48]. Như vậy, có các quan điểm trái ngược nhau đối với

việc kiểm sát của VKS đối với quá trình giải quyết vụ việc dân sự nói chung, bảo

đảm quyền tố tụng của các đương sự nói riêng. Theo tác giả, trong việc kiểm sát các

hoạt động tố tụng thì VKS bảo đảm quá trình giải quyết vụ án diễn ra theo đúng quy

trình và thủ tục tố tụng, bảo đảm rằng các quyền tố tụng của đương sự được thi

hành trên thực tiễn. Đồng thời, từ hoạt động kiểm sát VKS có thể phát hiện kịp thời

những sai phạm pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ việc nhằm có những

kiến nghị, kháng nghị phù hợp để bảo đảm cho các quyền tố tụng của đương sự

được thi hành. Bởi vì suy đến cùng thì việc kiểm sát hoạt động xét xử của Toà án

cùng với đương sự trong tố tụng là nhằm bảo đảm Toà án giải quyết vụ án dân sự

được công minh, khách quan, vô tư, đúng pháp luật cũng như giúp đương sự chấp

hành đúng qui định của pháp luật [14, tr.20].

Trách nhiệm bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của mọi tổ chức, cá nhân khi

tham gia giải quyết các vụ việc dân sự là trách nhiệm của VKSND, quy định rõ tại

Hiến pháp năm 2013 (Điều 107) và Luật tổ chức VKSND năm 2014 (Điều 2). Vai

trò của VKSND trong lĩnh vực TTDS được tăng cường, từ đó bảo vệ tốt hơn lợi ích

của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của những yếu thế theo yêu cầu của thực

tiễn và đảm bảo tuân thủ quy định pháp luật. VKS sẽ kiểm sát việc tuân theo pháp

luật đối với cá nhân, cơ quan, tổ chức trong việc tiến hành hoặc tham gia tố tụng

giải quyết các tranh chấp dân sự, đảm bảo tuân thủ theo quy định pháp luật và thực

hiện quyền bảo vệ lợi ích hợp pháp của công dân. Do vậy, VKSND thể hiện rõ vai

trò hết sức quan trọng với tư cách là chủ thể bảo vệ QCN trong hoạt động TTDS.

30

1.2.2 Nội dung, hình thức bảo vệ QCN thông qua hoạt động kiểm sát giải

quyết các vụ việc dân sự của VKSND

1.2.1.1 Nội dung bảo vệ QCN thông qua hoạt động kiểm sát giải quyết các

vụ việc dân sự

a. Quy định quyền của chủ thể được bảo vệ trong hoạt động TTDS

Trong TTDS, chủ thể quan trọng nhất cần thiết để được bảo hộ là đương sự và

những người tham gia tố tụng khác. Đương sự có phạm vi quyền và nghĩa vụ rất lớn

và bình đẳng với nhau trong TTDS. Dựa trên nguyên lý quyền tự quyết định, việc

thực hiện bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của chủ thể được thực hiện thông qua

đương sự. Trong TTDS, có nhiều chủ thể tham gia, tuy nhiên chỉ có chủ thể mà lợi

ích của họ được bảo vệ mới được gọi là các bên đương sự trong TTDS. Để xử lý

các tranh chấp dân sự một cách chính xác, việc xác lập đúng tư cách chủ thể là các

bên đương sự có vai trò then chốt đối với sự bảo vệ quyền của các bên trong quan

hệ pháp luật TTDS.

b. Phát hiện, ngăn chặn, xử lý hành vi vi phạm, khôi phục quyền, lợi ích hợp

pháp của người bị vi phạm

Việc bảo vệ QCN của các cơ quan hành chính nhà nước nói chung, của

VKSND nói riêng được thực hiện trên nguyên tắc mọi hành động xâm phạm quyền

riêng tư của công dân phải bị ngăn chặn trừ khi có lý do chính đáng. Khoản 1 Điều

20 Hiến pháp năm 2013 quy định rằng quyền bất khả xâm phạm về thân thể của mọi

người được bảo đảm theo pháp luật. Theo đó, Luật tổ chức VKSND năm 2014 cũng

quy định mục đích của KSHĐTP, tại điểm đ khoản 2 Điều 4: “VKSND KSHĐTP

nhằm bảo đảm mọi vi phạm pháp luật trong hoạt động tư pháp phải được phát hiện

kịp thời...”. Qua đó, nguyên tắc bảo vệ quyền và lợi ích của công dân phải được

VKSND tuân thủ và thực hiện một cách nghiêm túc, để phát hiện và xử lý hành vi

xâm phạm đến quyền và lợi ích của công dân. Trách nhiệm chính của VKSND là

bảo vệ các quyền của công dân, như tự do, sức khỏe, tính mạng, danh dự, nhân

phẩm và tài sản. Trong việc thực hiện chức năng và nhiệm vụ của mình, VKSND sẽ

31

chịu trách nhiệm trong việc phát hiện mọi hành vi vi phạm quyền của công dân. Tuy

nhiên, theo quy định của pháp luật, VKS cần được đảm bảo rằng họ có trách nhiệm

phát hiện kịp thời các hành vi vi phạm trong thời gian và điều kiện mà Luật quy

định. Điều này sẽ tạo điều kiện cho việc ngăn chặn, xử lý và khôi phục quyền lợi

của người bị vi phạm một cách hiệu quả. Chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp đã

được quy định rõ ràng trong Hiến pháp năm 2013. Hoạt động kiểm sát tuân theo

pháp luật của VKS là một loại hoạt động mang tính cấp bách nhà nước, có nguồn

gốc từ quyền lực giám sát của Quốc hội; tiến hành kiểm tra và giám sát tuân theo

Hiến Pháp và luật lệ trong các hoạt động cụ thể theo sự chỉ đạo từ Quốc hội [15].

VKS thực hiện hoạt động kiểm sát cũng là thực hiện hoạt động giám sát tư pháp

theo luật định theo lệnh uỷ thác của Quốc hội. Đồng thời, VKSND cũng là cơ quan

nhà nước có chức năng thích hợp nhất được giao trọng trách bảo vệ QCN. Thông

qua việc thực hiện chức năng Kiểm sát hoạt động tư pháp, cụ thể là kiểm sát hoạt

động của Toà án để phát hiện xâm phạm QCN của cơ quan tư pháp, từ đó sẽ đảm

bảo thẩm quyền của Toà án đối với các tranh chấp dân sự. Chức năng KSHĐTP là

hoạt động có tính chất giám sát nhà nước, là một công cụ giám sát, kiểm soát quyền

lực nhà nước của cơ quan tư pháp. Tuy nhiên, khác với hoạt động giám sát nhà

nước thông thường về tư pháp, KSHĐTP là sự giám sát thông qua các hoạt động

thực tiễn của cơ quan tư pháp và các cơ quan được phân công thực hiện quyền tư

pháp trong quá trình hoạt động [16, tr.39].

Ngăn chặn hành vi vi phạm QCN

Việc ngăn chặn hành vi vi phạm QCN là một hoạt động mang tính cản trở, trì

hoãn, và dừng lại những hành vi này. Hành vi này được thực hiện trong lĩnh vực

TTDS của VKSND bằng cách áp dụng các biện pháp để cản trở, trì hoãn và ngăn

chặn hành vi vi phạm QCN thông qua các thủ tục TTDS. Hiệu quả của pháp luật đối

với công tác ngăn chặn hành vi xâm phạm QCN trong lĩnh vực TTDS được thể hiện

thông qua tính chất quyền lực nhà nước của pháp luật. Hoạt động này có vai trò

then chốt và trọng tâm, đặc biệt là khi liên quan đến chức năng của VKSND, nó rõ

ràng biểu hiện vai trò của công tác thực hiện kiểm soát hành vi xâm phạm QCN.

32

Thực tế cho thấy rằng có rất nhiều hành vi xâm phạm QCN trong các lĩnh vực dân

sự. Do tính chất đặc biệt của lĩnh vực TTDS, việc xâm phạm quyền và lợi ích chủ

yếu được tập trung vào nhóm quyền dân sự, kinh tế, văn hóa và xã hội. Người bị

xâm phạm quyền và lợi ích muốn được bảo vệ sẽ phải tiến hành khởi kiện tại Tòa

án. VKSND sẽ đảm bảo việc bảo vệ quyền lợi hợp pháp ngay từ khi Tòa án nhận

đơn khởi kiện. Đồng thời, vai trò giám sát hoạt động của Tòa án cũng được thực

hiện bởi cơ quan VKSND và có quyền yêu cầu Tòa án tuân thủ đúng theo các điều

khoản pháp luật khi quyền của các bên bị xâm phạm.

Xử lý hành vi vi phạm QCN

Trong khuôn khổ của quyền hạn và nhiệm vụ được ủy quyền bởi nhà nước,

hoạt động của VKSND thông qua THQCT và KSHĐTP có trách nhiệm xử lý các vi

phạm đến QCN một cách kịp thời và nghiêm minh (quy định tại điểm đ khoản 2

Điều 4 Luật Tổ chức VKSND năm 2014). Do đó, VKSND có trách nhiệm bảo vệ

quyền lợi của công dân khi xử lý các hành vi phạm tội hoặc các hành vi xâm hại

nghiêm trọng đến tính mạng, danh dự, uy tín... cá nhân hoặc tổ chức. Trong hoạt

động TTDS, chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tố tụng

của Tòa án để đảm bảo mọi vi phạm pháp luật trong hoạt động tố tụng phải được xử

lý nghiêm minh, kịp thời. Do đó, khi các vụ việc dân sự được giải quyết, nếu có vi

phạm của Tòa án trong xét xử và làm ảnh hưởng, xâm hại đến quyền lợi của bên

đương sự, VKSND có quyền xử lý theo quy định.

Khôi phục quyền, lợi ích hợp pháp của người bị vi phạm

Bảo vệ QCN là hành vi được xác lập theo mong muốn và yêu cầu của nhà

nước, cá nhân, chủ thể trong xã hội với mục tiêu bảo vệ các quyền, lợi ích chính

đáng của chủ thể bị xâm phạm. Việc bảo vệ QCN chỉ được thực hiện khi nó được

nhà nước đại diện hoặc mỗi cá nhân, công dân trong xã hội nhận thấy cần thiết, có

nhu cầu và yêu cầu thực hiện các hoạt động bảo vệ để đảm bảo QCN được tôn trọng

và thi hành trên thực tiễn. Trái lại, nếu chính nhà nước và chủ thể của QCN không

có nhu cầu, không yêu cầu bảo vệ QCN, thì hoạt động này sẽ không được tiến hành

trong đời sống xã hội. Qua đó có thể hiểu nhu cầu và yêu cầu bảo vệ là vô cùng cấp

33

thiết, quan trọng nhất, nó sẽ trực tiếp ảnh hưởng đến nhà nước và mỗi cá nhân, công

dân trong xã hội thực hiện hoạt động bảo vệ QCN. Nhà nước cũng như cá nhân sẽ

thực hiện hoạt động bảo vệ quyền công dân khi từng chủ thể trên đã nhận thức rõ

được hành vi có nguy cơ đe doạ gây phương hại hoặc là hành vi đã xâm hại QCN.

Khi họ nhận thức rõ hành vi này sẽ đe doạ hoặc xâm hại các quyền, lợi ích hợp

pháp của mỗi cá nhân, công dân thì nhà nước, cá nhân sẽ thực hiện những hoạt động

cần thiết để đấu tranh, ngăn chặn và hạn chế những hành vi ảnh hưởng tiêu cực đến

QCN. Khi quyền của từng cá nhân, công dân bị xâm phạm thì họ luôn có nhu cầu

được bảo vệ, đó vừa là mong muốn tự thân, cũng là trách nhiệm của nhà nước và xã

hội trong đấu tranh với các hành vi xâm hại QCN nhằm bảo đảm duy trì sự ổn định

và tiến bộ của xã hội, cũng như khôi phục lại những quyền, lợi ích chính đáng của

công dân. Trên thực tế, nhà nước sẽ chỉ thực hiện hoạt động bảo vệ QCN của cá

nhân khi cá nhân đề nghị hoặc trừ khi nhà nước cảm thấy thật sự cấp bách cũng như

thể hành vi tội phạm gây tổn hại hoặc đe doạ gây tổn hại đến lợi ích của nhà nước.

Với tư cách là cơ quan bảo vệ pháp luật, nhiệm vụ đặc biệt trong hoạt động tố tụng

được giao cho VKSND. Trong TTDS, khi đương sự yêu cầu khởi kiện, thì Tòa án

sẽ thụ lý giải quyết. Do đó, hoạt động bảo vệ QCN của VKSND là hoạt động được

thực hiện bằng quyền lực nhà nước dựa trên sự tự nguyện và chủ động của người có

nhu cầu được bảo vệ.

Quá trình khôi phục quyền không chỉ là để bảo vệ những quyền mà còn nhằm

tái thiết lại lợi ích do quyền đó mang lại đã bị mất hoặc sẽ mất do hành vi vi phạm

luật [18, tr. 45]. Hoạt động vận dụng pháp luật khôi phục QCN là việc áp dụng các

công cụ, phương thức và hành vi nhất định nhằm ép buộc các chủ thể đã xâm hại

QCN phải thi hành. Khi mỗi cá nhân, đương sự bị hành vi trái pháp luật trong quan

hệ dân sự thì họ có quyền khởi kiện, đề nghị Toà án giải quyết và họ sẽ trở thành

chủ thể của quan hệ pháp luật TTDS, họ sẽ được pháp luật bảo hộ trong việc khởi

kiện nhằm khôi phục lại, đòi lại những thứ đã bị mất, đã bị xâm phạm. Với vai trò

hiến định KSHĐTP, kiểm sát TTDS, VKSND có trách nhiệm, quyền hạn kiểm sát

việc giải quyết các vụ việc dân sự, bảo đảm mọi hành vi đều đúng theo qui định của

34

pháp luật và thực hiện quyền bảo vệ lợi ích chính đáng của công dân. Qua đó, phạm

vi, cách thức, mức độ quyền, lợi ích đối với từng chủ thể có yêu cầu khôi phục sẽ

được xác định thông qua VKSND. Đồng thời, VKSND cũng sẽ thực hiện khôi phục

khi có điều kiện nhằm bắt buộc các chủ thể khác tự nguyện khôi phục lại quyền và

lợi ích chính đáng của cá nhân khi họ không tuân theo hoặc làm tổn hại đối với

người có quyền. Mục tiêu là nhằm khôi phục lại quyền và lợi ích chính đáng của

mỗi cá nhân, quyền công dân vì lợi ích của quốc gia, dân tộc.

1.2.2.2 Hình thức bảo vệ QCN thông qua hoạt động kiểm sát giải quyết các

vụ việc dân sự

Việc bảo vệ QCN trong hoạt động tố tụng cần phải được thực hiện, VKSND

sẽ phải tiến hành việc ban hành văn bản như yêu cầu, kháng nghị, kiến nghị để

TAND khắc phục vi phạm pháp luật trong quá trình giải quyết các vụ việc dân sự.

Trong phạm vi thẩm quyền của mình, VKSND các cấp có nhiệm vụ và quyền hạn

để phát hiện mọi vi phạm pháp luật của Tòa án. Tùy thuộc vào mức độ vi phạm,

VKSND sẽ ban hành kiến nghị, kháng nghị, yêu cầu khắc phục kịp thời. Đây cũng

là cách thức bảo vệ QCN trong hoạt động tố tụng. Mục đích của điều này là đảm

bảo rằng các vụ việc dân sự được giải quyết theo đúng luật và góp phần bảo vệ hiệu

quả các QCN trong hoạt động TTDS trong thực tiễn. Theo quy định của pháp luật,

VKSND có thể áp dụng các biện pháp để hạn chế, ngăn chặn và loại bỏ vi phạm

pháp luật, từ đó bảo vệ quyền lợi hợp pháp của người tham gia vào hoạt động tố

tụng.

a. Thông qua hoạt động kiểm sát việc trả lại đơn khởi kiện, đơn yêu cầu

Quy định về quyền khởi kiện tại Tòa án nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp

pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức, đồng thời cũng có quy định về việc trả đơn khởi

kiện và đơn yêu cầu trong trường hợp không tuân theo luật định. Việc trả lại đơn

khởi kiện, đơn yêu cầu mà không tuân theo quy định sẽ gây ảnh hưởng tiêu cực tới

quyền lợi hợp pháp của người liên quan. Do đó, việc kiểm sát chặt chẽ việc trả lại

các đơn này là trách nhiệm của VKS nhằm bảo vệ quyền lợi hợp pháp của người

liên quan và để đảm bảo rằng Thẩm phán có thể xem xét và giải quyết các vụ án

35

theo đúng quy định của pháp luật. Khoản 1 Điều 192 BLTTDS năm 2015 đã bổ

sung, quy định rõ một số trường hợp trả đơn khởi kiện. Cụ thể, trong trường hợp

người khởi kiện không ghi đầy đủ, cụ thể những nội dung của đơn khởi kiện theo

quy định tại Điều 189 BLTTDS 2015 hoặc ghi không đúng tên, địa chỉ của người bị

kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan mà không sửa chữa, bổ sung theo yêu

cầu của Thẩm phán thì Tòa án sẽ trả lại đơn khởi kiện. Đặc biệt BLTTDS 2015 đã

bổ sung trường hợp trong đơn khởi kiện, người khởi kiện đã ghi đầy đủ và đúng địa

chỉ nơi cư trú của người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan nhưng họ

không có nơi cư trú ổn định, thường xuyên thay đổi nơi cư trú, trụ sở mà không

thông báo địa chỉ mới cho cơ quan, người có thẩm quyền theo quy định của pháp

luật về cư trú làm cho người khởi kiện không biết được nhằm mục đích che giấu địa

chỉ, trốn tránh nghĩa vụ đối với người khởi kiện thì Thẩm phán không trả lại đơn

khởi kiện mà xác định người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan cố tình

giấu địa chỉ và tiến hành thụ lý, giải quyết theo thủ tục chung. Khi trả lại đơn khởi

kiện, đơn yêu cầu và các tài liệu, chứng cứ kèm theo cho người khởi kiện, Tòa án

phải có văn bản ghi rõ lý do trả lại đơn khởi kiện, đơn yêu cầu đồng thời gửi cho

VKSND cùng cấp. Đương sự có quyền khởi kiện, VKS có quyền kiến nghị với Toà

án xem xét việc trả lại đơn khởi kiện, đơn yêu cầu.

Sau khi nhận được thông báo về việc trả lại đơn khởi kiện, đơn yêu cầu của

Toà án cùng cấp, Viện trưởng VKS phân công KSV, KTV xem xét, giải quyết,

kiểm sát, vào sổ kiểm sát việc trả lại đơn khởi kiện, đơn yêu cầu hợp lệ. Khi cần

thiết thì thực hiện quyền yêu cầu theo quy định tại điểm c khoản 2 Điều 20 và Điều

21 TTLT số 02/2016. Trường hợp xét thấy việc Tòa án trả lại đơn khởi kiện không

có căn cứ thì báo cáo, đề xuất Viện trưởng để thực hiện quyền kiến nghị với Tòa án

đã trả lại đơn khởi kiện theo quy định tại khoản 1 Điều 194 BLTTDS. Trường hợp

không đồng ý với quyết định trả lời khiếu nại, kiến nghị về việc trả lại đơn khởi

kiện của Thẩm phán, trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày nhận được quyết định, VKS

cùng cấp thực hiện quyền kiến nghị với Chánh án Tòa án trên một cấp trực tiếp theo

quy định tại khoản 6 Điều 194 BLTTDS. Trường hợp có căn cứ xác định quyết định

36

giải quyết khiếu nại, kiến nghị của Chánh án Tòa án trên một cấp trực tiếp có vi

phạm pháp luật thì trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày nhận được quyết định, VKS

có quyền kiến nghị với Chánh án TAND cấp cao nếu quyết định bị khiếu nại, kiến

nghị là của Chánh án TAND cấp tỉnh hoặc với Chánh án TAND tối cao nếu quyết

định bị khiếu nại, kiến nghị là của Chánh án TAND cấp cao. Quyết định của Chánh

án TAND cấp cao hoặc của Chánh án TAND tối cao là quyết định cuối cùng. Trong

những trường hợp mà thông báo về việc trả lại đơn khởi kiện, đơn yêu cầu cho VKS

hoặc về nội dung, hình thức thông báo không được gửi đầy đủ hoặc chậm trễ theo

quy định của pháp luật bởi Toà án, VKS có quyền yêu cầu và kiến nghị Tòa án sửa

chữa vi phạm.

b. Thông qua hoạt động kiểm sát việc thụ lý, giải quyết vụ việc dân sự

Khoản 2 Điều 58 BLTTDS 2015 quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của KSV

khi được Viện trưởng VKS phân công thực hiện kiểm sát việc tuân theo pháp luật

trong TTDS đó là kiểm sát việc thụ lý, giải quyết vụ việc dân sự. Quy định trên nêu

rõ VKS tiến hành kiểm sát việc tuân theo pháp luật đối với việc thụ lý giải quyết các

vụ việc dân sự. Đồng thời, thực hiện quyền yêu cầu, kiến nghị, kháng nghị theo quy

định của pháp luật ngay từ khi Toà án đã thụ lý vụ, việc dân sự. Theo quy định,

VKS có trách nhiệm kiểm sát việc Toà án thụ lý vụ, việc dân sự. Trong quá trình

thụ lý giải quyết vụ việc dân sự, VKSND kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Toà

án, của Thẩm phán, Thư ký Toà án, người được giao giải quyết các vụ việc dân sự

và những người tham gia tố tụng nhằm đảm bảo quyết định thụ lý của Toà án được

chính xác, khách quan và đúng pháp luật.

c. Thông qua hoạt động nghiên cứu hồ sơ, yêu cầu xác minh, thu thập tài

liệu, chứng cứ

Xuất phát từ chức năng KSHĐTP của VKS, BLTTDS năm 2015 quy định về

thẩm quyền xác minh, thu thập tài liệu, chứng cứ của VKS, bổ sung so với

BLTTDS năm 2004 như sau: KSV khi được Viện trưởng phân công thực hiện kiểm

sát việc tuân theo pháp luật trong TTDS có nhiệm vụ, quyền hạn “Yêu cầu Tòa án

xác minh, thu thập chứng cứ trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự theo quy định

37

của Bộ luật này; thu thập tài liệu, chứng cứ theo quy định tại khoản 6 Điều 97 của

Bộ luật này” (khoản 3 Điều 58). VKS thu thập tài liệu, chứng cứ để bảo đảm cho

việc thực hiện thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái

thẩm (khoản 6 Điều 97).

Yêu cầu là hình thức thực hiện quyền của VKSND trong hoạt động KSHĐTP

đối với những chủ thể hữu quan nhằm đảm bảo việc thực hiện chức trách, quyền

hạn của VKSND. Một số yêu cầu thường được VKSND thực hiện bao gồm: Yêu

cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân thực hiện hoạt động tư pháp theo đúng quy định của

pháp luật hoặc tự kiểm tra việc thực hiện hoạt động tư pháp theo thẩm quyền và báo

cáo kết quả về VKSND; Yêu cầu xuất trình chứng cứ, tài liệu do VKSND chứng

minh sự đúng đắn của từng hành vi, quyết định trong hoạt động tư pháp; Yêu cầu,

đề nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền phát hiện, xử lý các vi phạm pháp

luật đối với hoạt động tư pháp. Do vậy, hoạt động của VKSND thực hiện các yêu

cầu trên theo quy định của pháp luật cũng là một trong những hình thức đảm bảo

QCN đối với hoạt động TTDS của VKSND.

Sau khi nhận được hồ sơ vụ việc do Tòa án chuyển qua, cán bộ, KSV được

Lãnh đạo phân công kiểm sát giải quyết vụ việc dân sự tiến hành nghiên cứu toàn

bộ hồ sơ vụ việc. Việc nghiên cứu hồ sơ giúp KSV nắm đầy đủ nội dung vụ án (bao

gồm quan hệ pháp luật tranh chấp, thành phần tham gia và tư cách pháp lý của

đương sự, các yêu cầu của đương sự); nắm vững hệ thống tài liệu, chứng cứ và các

tình tiết của vụ án; Xác định các vi phạm pháp luật tố tụng của Thẩm phán và

những người tham gia tố tụng để xây dựng để cương hỏi và phát biểu ý kiến tại

phiên tòa; Làm cơ sở cho việc thực hiện thẩm quyền yêu cầu, kiến nghị nhằm kịp

thời khắc phục các vi phạm pháp luật, góp phần bảo đảm cho việc giải quyết vụ án

kịp thời, đúng pháp luật. Thời gian nghiên cứu hồ sơ vụ án của KSV tối đa là 15

ngày kể từ ngày nhận được hồ sơ vụ án. Khi nghiên cứu hồ sơ vụ án, kiểm sát việc

xác minh, thu thập tài liệu, chúng cứ, KSV, KTV kiểm sát về trình tự, thủ tục, về

nguồn chứng cứ, bảo đảm tài liệu, chứng cứ được thu thập hợp pháp, khách quan,

đầy đủ, làm cơ sở cho việc giải quyết vụ án đúng pháp luật.

38

d. Thông qua hoạt động tham gia phiên tòa, phiên họp và phát biểu quan

điểm của KSV về việc giải quyết các vụ việc dân sự

Điều 21 BLTTDS năm 2015 đã được quy định rõ về trường hợp VKSND

tham gia phiên tòa, phiên họp giải quyết vụ việc dân sự, đồng thời được quy định

rằng VKS tham gia phiên tòa sơ thẩm trong trường hợp Toà án không được từ chối

giải quyết vụ việc dân sự với lý do không có điều luật để giải quyết. Cụ thể: VKS

tham gia các phiên họp sơ thẩm đối với các việc dân sự; phiên tòa sơ thẩm đối với

những vụ án do Tòa án tiến hành thu thập chứng cứ hoặc đối tượng tranh chấp là tài

sản công, lợi ích công cộng, QSDĐ, nhà ở hoặc có đương sự là người chưa thành

niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự,

người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi hoặc trường hợp Tòa án không

được từ chối giải quyết vụ việc dân sự vì lý do chưa có điều luật để áp dụng theo

quy định tại khoản 2 Điều 4 BLTTDS năm 2015. Điều đáng chú ý là lần đầu tiên Bộ

luật này quy định rằng trong trường hợp VKS viên được phân công tham dự phiên

tòa, phiên họp sơ thẩm hoặc phiên tòa, phiên họp phúc thẩm mà không có mặt, Hội

đồng xét xử vẫn tiếp tục quá trình xét xử mà không hoãn phiên tòa, trừ khi VKS có

kháng nghị phúc thẩm. Quy định trên góp phần đảm bảo cho việc xét xử, giải quyết

vụ án dân sự được kịp thời, hiệu quả, tăng cường trách nhiệm của KSV và của

VKSND. Sự tham gia của VKS vào phiên tòa, cuộc họp giải quyết vụ việc dân sự là

biểu hiện của vị trí và vai trò quan trọng của VKS trong hệ thống TTDS. Qua đó,

niềm tin vào công lý của người liên quan và cộng đồng được củng cố, góp phần

quan trọng trong việc bảo vệ quyền lợi và lẽ phải trong TTDS khi có sự tham gia

của VKS.

Hoạt động phát biểu quan điểm của VKS tại phiên toà sơ thẩm: Để đảm bảo

sự thống nhất với Hiến pháp năm 2013 và Luật Tổ chức VKSND năm 2014, Luật

Tổ chức TAND năm 2014, việc bổ sung quy định về phát biểu của KSV tại phiên

toà sơ thẩm đã được thực hiện để khắc phục những hạn chế và bất cập của quy định

tại Điều 234, BLTTDS năm 2004 và Điều 262 BLTTDS năm 2015: “Sau khi những

người tham gia tố tụng phát biểu tranh luận và đối đáp xong, KSV phát biểu ý kiến

39

về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký Toà án,

người tham gia TTDS trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước

khi Hội đồng xét xử nghị án, phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án”. Dưới góc độ

khoa học pháp luật và thực tiễn xét xử các vụ việc dân sự ở nước ta hiện nay, việc

quy định cho phép VKSND được tham gia sâu hơn đối với quá trình giải quyết vụ

việc dân sự, đồng thời quy định cho phép KSV phát biểu ý kiến của VKS đối với

quá trình giải quyết vụ việc dân sự tại phiên toà, là hoàn toàn phù hợp và có tính

khả thi cao trên các khía cạnh sau đây: KSV tham gia phát biểu quan điểm của VKS

đối với quá trình giải quyết vụ án không có nghĩa là Hội đồng xét xử chỉ theo ý kiến

hay phải dựa trên ý kiến của KSV, ngược lại còn làm phong phú thêm các quan

điểm, đường lối giải quyết vụ án, đưa ra các luận cứ, tình tiết trên cơ sở nghiên cứu

vụ án để Hội đồng xét xử có thêm cơ sở phục vụ cho việc xem xét toàn diện, đưa ra

quyết định sau cùng đối với vụ việc dân sự. Do vậy, ý kiến phát biểu của KSV về

đường lối giải quyết vụ án không ảnh hưởng đến tính độc lập trong việc xét xử của

Toà án theo nguyên tắc Toà án xét xử độc lập và luôn tuân theo pháp luật. Ý kiến

này chỉ là một góp ý để Hội đồng xét xử tham khảo, cũng như ý kiến của đại diện

đương sự. Qua đó, các ý kiến này góp phần bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của

các đương sự, đảm bảo cho mọi hoạt động trước, trong và sau phiên toà, phiên họp

được thực hiện theo đúng quy định của pháp luật. Đồng thời, quyền và lợi ích chính

đáng của đương sự và những người tham gia tố tụng khác được được bảo vệ. Thực

tế xét xử cho thấy, KSV phát biểu quan điểm của VKS về đường lối giải quyết vụ

việc tại phiên toà phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm đã đem lại hiệu quả cao đối

với công tác giải quyết vụ việc dân sự; bên cạnh đó, góp phần nâng cao trách nhiệm

của VKSND khi tham gia phiên toà, phiên họp sơ thẩm giải quyết vụ việc dân sự.

Bởi vậy, bản thân từng KSV khi phát biểu ý kiến về đường lối giải quyết vụ việc

dân sự tại phiên toà, phiên họp sơ thẩm cũng đặt vấn đề “trách nhiệm” của mình

trước pháp luật và tại cơ quan, đơn vị mình.

Hoạt động phát biểu của KSV khi tham gia phiên tòa xét xử vụ án dân sự có

vai trò quan trọng trong công tác kiểm sát việc giải quyết vụ án dân sự; thể hiện trực

40

tiếp, chính thức, tập trung, phản ánh rõ ràng và đầy đủ kết quả hoạt động kiểm sát

việc giải quyết vụ án dân sự; góp phần củng cố vai trò, vị trí của VKSND trong

TTDS, thể hiện trách nhiệm của KSV VKSND đối với xã hội và nhân dân; là cơ sở

quan trọng để Tòa án xem xét ban hành bản án, quyết định giải quyết vụ án dân sự

có căn cứ và đúng pháp luật; là phương thức tuyên truyền, phổ biến pháp luật, nâng

cao nhận thức pháp luật của người tham gia tố tụng và nhân dân; là cơ sở để nhân

dân thực hiện giám sát trực tiếp đối với các hoạt động của VKSND trong quá trình

giải quyết vụ án dân sự.

e. Thông qua hoạt động kiểm sát bản án, quyết định giải quyết vụ việc dân sự

Công tác kiểm sát bản án, quyết định của Tòa án là một trong những nhiệm

vụ, quyền hạn của VKSND khi kiểm sát việc giải quyết vụ việc dân sự được quy

định tại khoản 5 Điều 27 Luật Tổ chức VKSND năm 2014. Trên cơ sở đó, VKS có

thẩm quyền kháng nghị, kiến nghị bản án, quyết định của Tòa án có vi phạm pháp

luật; kiến nghị, yêu cầu Tòa án, cơ quan, tổ chức, cá nhân thực hiện hoạt động tố

tụng (khoản 7 Điều 27 Luật Tổ chức VKSND).

Theo quy định của BLTTDS, VKS thực hiện quyền kiểm sát đối với các

quyết định sau: Quyết định chuyển vụ án dân sự cho Tòa án khác (Điều 41); Quyết

định nhập hoặc tách vụ án (Điều 42); Quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện

pháp khẩn cấp tạm thời (Điều 140); Quyết định tiếp tục giải quyết vụ án dân sự

(Điều 216); Quyết định đưa vụ án ra xét xử (Điều 220); Quyết định hoãn phiên tòa

(Điều 233)… Khi nhận được các quyết định trên, KSV, KTV được phân công phải

vào sổ thụ lý theo từng loại quyết định, lập phiếu kiểm sát để kiểm tra tính có căn

cứ và hợp pháp của quyết định như: thời hạn Tòa án gửi quyết định cho VKS, trình

tự, thủ tục, nội dung, hình thức của các quyết định theo đúng hướng dẫn tại Quy chế

công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ việc dân sự của Viện trưởng VKSND Tối

cao (gọi tắt là Quy chế 364). Trường hợp phát hiện vi phạm phải kịp thời báo cáo

Lãnh đạo Viện để xem xét thực hiện quyền yêu cầu, kiến nghị theo quy định pháp

luật.

41

Đối với việc kiểm sát các quyết định: Quyết định công nhận sự thỏa thuận

của các đương sự (Điều 212); tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự (Điều 214); đình

chỉ giải quyết vụ án dân sự (Điều 217); bản án sơ thẩm (Điều 266 đến Điều 269)

được thực hiện theo quy định tại Điều 16, 17, 18 và Điều 26 Quy chế 364. Khi nhận

được các quyết định, bản án nói trên, KSV, KTV phải lập phiếu kiểm sát, kiểm sát

chặt chẽ về thời hạn gửi, căn cứ, thẩm quyền ban hành, nội dung, hình thức của bản

án, quyết định. Nếu xét thấy cần phải nghiên cứu hồ sơ vụ việc thì yêu cầu Tòa án

chuyển hồ sơ theo quy định tại Điều 5 Thông tư liên tịch số 02/2016. Trường hợp

phát hiện vi phạm thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm để xem xét kháng nghị

hoặc kiến nghị theo thẩm quyền. Trường hợp đã hết thời hạn kháng nghị của VKS

cùng cấp thì báo cáo Lãnh đạo VKS cấp trên trực tiếp xem xét kháng nghị phúc

thẩm theo thẩm quyền. Khi xét thấy cần thiết phải thu thập tài liệu, chứng cứ để bảo

đảm cho việc kháng nghị phúc thẩm, KSV, KTV báo cáo Lãnh đạo Viện để thực

hiện quyền thu thập tài liệu, chứng cứ theo quy định tại khoản 6 Điều 97 BLTTDS.

Trường hợp bản án, quyết định sơ thẩm đã có hiệu lực pháp luật mà phát hiện vi

phạm nghiêm trọng hoặc có tình tiết mới làm thay đổi cơ bản nội dung bản án,

quyết định thì KSV, KTV đề xuất với Lãnh đạo Viện để báo cáo VKS có thẩm

quyền xem xét kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm.

Thực tế đã chứng minh rằng, việc phát hiện vi phạm khi nghiên cứu và kiểm

sát bản án, quyết định giải quyết các vụ việc dân sự trong của Tòa án chủ yếu là các

vụ, việc không được kiểm sát bởi VKS và không có sự tham gia của VKS vào phiên

tòa xét xử. Điều này đòi hỏi KSV phải có năng lực chuyên môn, nghiệp vụ vững

vàng, cũng như thường xuyên nghiên cứu và tích lũy kinh nghiệm thực tiễn vì

những vi phạm trong bản án, quyết định không phản ánh được đầy đủ các tình tiết

khách quan của vụ án nên khó phát hiện vi phạm trên thực tế. Việc thực hiện công

tác này một cách chặt chẽ sẽ đóng góp vào việc nâng cao số lượng và chất lượng

các kháng nghị, kiến nghị của VKS, từ đó đảm bảo quyền lợi hợp pháp của các

đương sự.

42

g. Thông qua kiến nghị, kháng nghị bản án, quyết định của Tòa án có vi

phạm pháp luật

Kiến nghị:

Kiến nghị là cách thức VKSND thực hiện quyền trong quá trình kiểm sát các

hoạt động tư pháp. Việc sử dụng kiến nghị được VKSND áp dụng trong những

trường hợp khi phát hiện vi phạm pháp luật trong việc giải quyết các vụ việc dân sự

mà chưa đạt đến mức cần thiết phải kháng nghị, hoặc khi phát hiện nguyên nhân và

điều kiện gây ra vi phạm pháp luật của các cơ quan, tổ chức, đơn vị liên quan cần áp

dụng biện pháp phòng ngừa. Cụ thể, hành vi, quyết định nào của cơ quan, tổ chức,

cá nhân trong hoạt động tư pháp có vi phạm ít nghiêm trọng mà không thuộc trường

hợp phải kháng nghị thì bị VKSND kiến nghị yêu cầu khắc phục và xử lý người vi

phạm. Nếu có sơ hở, thiếu sót trong hoạt động quản lý, VKSND sẽ kiến nghị cơ

quan, tổ chức liên quan để khắc phục và áp dụng biện pháp ngăn chặn việc vi phạm

pháp luật và tội phạm. Việc VKSND ban hành kiến nghị đối với các cơ quan hữu

quan được coi là một biện pháp bảo vệ QCN trong quá trình tố tụng. Thực tế cho

thấy, sự hiệu quả của việc bảo vệ QCN trong hoạt động TTDS được thể hiện thông

qua việc kiến nghị được ban hành với số lượng và chất lượng cao.

Luật Tổ chức VKS năm 2014 quy định cụ thể, rõ ràng và chặt chẽ về chế định

kiến nghị hơn so với Luật Tổ chức VKSND các năm 1960, 1981 và năm 2002. Tại

điểm c, khoản 3, Điều 4 Luật Tổ chức VKSND năm 2014 quy định: “Khi thực hiện

chức năng KSHĐTP, VKSND có nhiệm vụ, quyền hạn sau đây: Kiến nghị cơ quan,

tổ chức, cá nhân có thẩm quyền khắc phục, xử lý nghiêm minh vi phạm pháp luật

trong hoạt động tư pháp; kiến nghị cơ quan, tổ chức hữu quan áp dụng các biện

pháp phòng ngừa vi phạm pháp luật và tội phạm.” Tại khoản 2 Điều 5 Luật Tổ

chức VKSND năm 2014 quy định: “Trường hợp hành vi, quyết định của cơ quan, tổ

chức, cá nhân trong hoạt động tư pháp có vi phạm pháp luật ít nghiêm trọng không

thuộc trường hợp kháng nghị quy định tại khoản 1 Điều này thì VKSND kiến nghị

cơ quan, tổ chức, cá nhân đó khắc phục vi phạm và xử lý nghiêm minh người vi

phạm pháp luật; nếu phát hiện sơ hở, thiếu sót trong hoạt động quản lý thì kiến

43

nghị cơ quan, tổ chức hữu quan khắc phục và áp dụng các biện pháp phòng ngừa vi

phạm pháp luật và tội phạm. Cơ quan, tổ chức cá nhân có liên quan có trách nhiệm

xem xét, giải quyết, trả lời kiến nghị của VKSND theo quy định của pháp luật”. Tại

khoản 7 Điều 27 Luật Tổ chức VKSND năm 2014 quy định: “Nhiệm vụ, quyền hạn

của VKSND khi kiểm sát việc giải quyết vụ án hành chính, vụ việc dân sự, hôn nhân

và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động và những việc khác theo quy định

của pháp luật: Kháng nghị, kiến nghị bản án, quyết định của Tòa án có vi phạm

pháp luật; kiến nghị, yêu cầu Tòa án, cơ quan, tổ chức, cá nhân thực hiện hoạt

động tố tụng”.

Ngày 02/01/2020 VKSND tối cao ban hành Hướng dẫn công tác kiểm sát giải

quyết các vụ, việc dân sự, hôn nhân gia đình năm 2020 số 02/HD/VKS-TC. Trong

đó có nêu nhiệm vụ cụ thể và giải pháp thực tiễn trong công tác kiến nghị, cụ thể:

“VKS các cấp tập trung đẩy mạnh và nâng cao chất lượng công tác kiến nghị đảm

bảo đạt và vượt tỷ lệ kiến nghị được chấp nhận theo Nghị quyết của Quốc hội.

Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, VKS các cấp có trách nhiệm nghiên cứu, phát

hiện, tổng hợp những vi phạm pháp luật của Tòa án để thực hiện quyền kiến nghị

yêu cầu Tòa án khắc phục vi phạm theo đúng quy định của pháp luật. Cần chú

trọng phát hiện những vi phạm của các cơ quan, tổ chức khác, nhất là các cơ quan

quản lý nhà nước về đất đai, trong đó tập trung vào công tác lập hồ sơ và cấp giấy

chứng nhận QSDĐ; việc lưu trữ... để kiến nghị đối với các cơ quan tổ chức đó thực

hiện các biện pháp khắc phục, phòng ngừa vi phạm nhằm bảo đảm sự tuân thủ

pháp luật. Tiếp tục thực hiện tốt việc quản lý, báo cáo, đánh giá chất lượng kiến

nghị để phục vụ hoạt động giám sát của Quốc hội tại các kỳ họp”. Những quy định,

hướng dẫn trên là cơ sở cho việc thực hiện quyền kiến nghị khi thực hiện chức năng

kiểm sát trong hoạt động tư pháp trong TTDS.

Kháng nghị:

Kháng nghị phúc thẩm dân sự là quyền năng pháp lý của VKSND trong quá

trình KSHĐTP được quy định trong Luật Tổ chức VKSND năm 2014 (khoản 7,

Điều 27) và BLTTDS năm 2015 (Điều 278), nhằm “Bảo vệ pháp luật, bảo vệ QCN,

44

QCD, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi

ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, góp phần bảo đảm pháp luật được chấp hành

nghiêm chỉnh và thống nhất” (khoản 2 Điều 2 Luật Tổ chức VKSND và khoản 2

Điều 13 BLTTDS).

Kháng nghị của VKSND bao gồm: Kháng nghị các quyết định, bản án của

TAND theo trình tự thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm hoặc tái thẩm; kháng nghị

với Toà án cùng cấp và cấp dưới, yêu cầu cơ quan tổ chức, cá nhân có liên quan

khắc phục những vi phạm pháp luật đối với việc ban hành quyết định, bản án của

Toà án. Kháng nghị cũng là một biện pháp cần thiết nhằm thi hành chức trách,

quyền hạn của VKSND, kháng nghị cũng là một biện pháp bảo đảm QCN đối với

hoạt động tư pháp. Trong trường hợp xảy ra vụ việc, bản án hoặc quyết định được

thực hiện bởi cơ quan hoặc cá nhân có thẩm quyền trong việc tiến hành các hoạt

động tố tụng có hậu quả vi phạm pháp luật nghiêm trọng, gây tổn thất đến quốc gia,

lợi ích của nhà nước và quyền lợi chính đáng của cộng đồng hay cá nhân, thì

VKSND phải tiến hành kháng nghị. Cơ quan, cá nhân có thẩm quyền phải chấp

hành kháng nghị của VKSND theo qui định của pháp luật.

Với tầm quan trọng đặc biệt đó, VKSND tối cao ban hành Chỉ thị số 10/CT-

VKSTC, ngày 06/4/2016 về, “Tăng cường công tác kháng nghị phúc phẩm, giám

đốc thẩm, tái thẩm các vụ việc dân sự, vụ án hành chính”; Chỉ thị số 07/CT-

VKSTC, ngày 21/8/2021 về, “Tăng cường công tác kháng nghị phúc phẩm, giám

đốc thẩm, tái thẩm các vụ án hành chính, vụ việc dân sự” (thay thế Chỉ thị số

10/CT-VKSTC, ngày 06/4/2016) và Hướng dẫn số 33/HD-VKSTC ngày

17/10/2019 về, “Phát hiện vi phạm của bản án, quyết định sơ thẩm giải quyết các

vụ, việc dân sự, thực hiện thẩm quyền kháng nghị ngang cấp theo thủ tục phúc thẩm

nhằm giảm tỷ lệ bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm bị Tòa án cấp phúc

thẩm hủy có trách nhiệm của VKS ngang cấp; đồng thời, nâng cao tỷ lệ, chất lượng

kháng nghị phúc thẩm của VKS ngang cấp”.

Kháng nghị bản án, quyết định dân sự là hoạt động tố tụng của người tiến

hành tố tụng có thẩm quyền thể hiện quan điểm phản đối bản án, quyết định dân sự

45

mà Toà án đã tuyên trước đó, yêu cầu Toà án có thẩm quyền xét xử lại. Kháng nghị

phúc thẩm là quyền hạn mà pháp luật quy định duy nhất đối với VKSND để kháng

nghị những bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật của Toà án cùng

cấp và cấp dưới trực tiếp khi thấy có vi phạm pháp luật nghiêm trọng nhằm đề nghị

Toà án giải quyết lại theo trình tự phúc thẩm để bảo đảm yêu cầu xét xử vụ án theo

quy định của pháp luật, đảm bảo lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích chính đáng

của đương sự. Quy định của Điều 278 trong BLTTDS quy định rằng: Bản án sơ

thẩm, quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự, quyết định đình chỉ giải

quyết vụ án dân sự của Tòa án cấp sơ thẩm có thể bị kháng nghị bởi Viện trưởng

VKS cùng cấp và cấp trên trực tiếp để yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm giải quyết lại

theo thủ tục phúc thẩm. Quy định của BLTTDS về người có quyền kháng nghị theo

thủ tục phúc thẩm dân sự là đặc điểm để phân biệt với kháng nghị giám đốc thẩm và

tái thẩm dân sự. Viện trưởng VKSND có quyền kháng nghị phúc thẩm hoặc kháng

nghị giám đốc thẩm, tái thẩm. Tuy nhiên, kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm của

Viện trưởng VKSND được thực hiện đối với các bản án, quyết định đã có hiệu lực

pháp luật và bản án, quyết định đó có sai lầm, vi phạm pháp luật hoặc phát hiện có

tình tiết mới. Còn kháng nghị phúc thẩm của Viện trưởng VKSND được áp dụng

trong trường hợp bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật. Điều 282

BLTTDS ghi nhận: Bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm hoặc những phần

bản án sơ thẩm, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị thì

chưa được đưa ra thi hành, trừ trường hợp pháp luật quy định cho thi hành ngay.

Xuất phát từ nguyên tắc bảo đảm phần bản án, quyết định sơ thẩm không bị kháng

nghị có giá trị thi hành, đồng thời bảo đảm cho việc xử lý vụ việc kịp thời, nhanh

chóng theo quy định pháp luật, BLTTDS yêu cầu Toà án cấp sơ thẩm phải xem xét

lại nội dung của bản án, quyết định sơ thẩm có kháng cáo, kháng nghị nếu có ảnh

hưởng đến quá trình xem xét phần kháng cáo, kháng nghị (Điều 293 BLTTDS).

46

1.3. Các điều kiện đảm bảo tăng cường trách nhiệm của VKSND trong bảo

vệ QCN

1.3.1. Bảo đảm các giá trị cơ bản của Nhà nước pháp quyền XHCN:

Thượng tôn pháp luật, pháp luật là tối cao: Mọi tổ chức, cá nhân trong xã

hội, kể cả các cơ quan nhà nước, đều phải tuân thủ pháp luật. Pháp luật phải được

xây dựng dựa trên nguyên tắc công bằng, dân chủ và minh bạch. Mọi công dân đều

bình đẳng trước pháp luật, không có sự phân biệt đối xử dựa trên bất kỳ tiêu chí nào

như giới tính, dân tộc, tôn giáo, hay địa vị xã hội. Thượng tôn pháp luật là nguyên

tắc căn bản của hệ thống pháp luật. VKSND cần thực hiện trách nhiệm của mình

dựa trên cơ sở của pháp luật, không có sự chênh lệch, tiên lượng, hay chi phối từ bất

kỳ cá nhân hay tổ chức nào khác. Việc thực hiện công việc theo pháp luật giúp đảm

bảo quyền lợi, tự do và bình đẳng của con người.

Bảo vệ QCN và quyền công dân: Nhà nước có trách nhiệm bảo đảm các

QCN cơ bản được tôn trọng và bảo vệ, bao gồm quyền sống, quyền tự do, quyền an

toàn, quyền bình đẳng, và các quyền dân sự, chính trị, kinh tế, xã hội và văn hóa.

Các quyền và nghĩa vụ của công dân phải được quy định rõ ràng trong pháp luật và

được bảo đảm thực hiện đầy đủ, bao gồm quyền bầu cử, quyền ứng cử, quyền tự do

ngôn luận, quyền tự do hội họp, và quyền khiếu nại, tố cáo. VKSND cần đảm bảo

việc bảo vệ QCN và quyền công dân theo đúng quy định của pháp luật. VKSND

cần kiên quyết đấu tranh với các hành vi vi phạm QCN và quyền công dân, bảo vệ

và thúc đẩy sự công bằng và bình đẳng cho mọi công dân.

Phân chia quyền lực và kiểm soát lẫn nhau: Quyền lực nhà nước cần được

phân chia rõ ràng giữa các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp. Mỗi cơ quan có

chức năng và quyền hạn riêng biệt, đồng thời có cơ chế kiểm soát lẫn nhau để ngăn

chặn sự lạm quyền. Cơ chế kiểm soát và cân bằng quyền lực phải được thiết lập một

cách hiệu quả để đảm bảo rằng không có cơ quan hoặc cá nhân nào có thể lạm

quyền hoặc vi phạm pháp luật. VKSND cần được đảm bảo độc lập và không có sự

can thiệp từ bất kỳ tổ chức hay cá nhân nào khác. Tuy nhiên, việc này không có

nghĩa là VKSND được hoạt động hoàn toàn độc lập. Việc kiểm soát lẫn nhau giữa

47

các cơ quan chức năng như VKSND, Tòa án và Công an nhân dân giúp đảm bảo

quyền lực không bị lạm dụng và công lý được thực hiện đúng đắn.

Tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa: Pháp chế xã hội chủ nghĩa là cơ sở

để đảm bảo quyền lợi và lợi ích chung của người dân. Hệ thống pháp luật cần được

hoàn thiện, đồng bộ và nhất quán, đảm bảo tính minh bạch, dễ hiểu và khả thi. Các

quy định pháp luật phải phản ánh đúng các giá trị cơ bản của xã hội chủ nghĩa. Pháp

luật cần được sử dụng như một công cụ chủ yếu để quản lý và điều hành các hoạt

động của nhà nước, bảo đảm sự công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình của

các cơ quan nhà nước. VKSND cần tăng cường vai trò của mình trong việc xây

dựng, sửa đổi và thực hiện pháp chế xã hội chủ nghĩa. Việc này đòi hỏi không chỉ

khả năng sử dụng và áp dụng pháp luật mà còn cần trang bị kiến thức chuyên môn,

nắm vững tình hình xã hội và có khả năng đưa ra quyết định công bằng.

1.3.2. Bảo đảm mục tiêu xây dựng nền tư pháp chuyên nghiệp, hiện đại,

công bằng, nghiêm minh, liêm chính, phụng sự Tổ quốc, phục vụ Nhân dân

Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ tư pháp: Để đảm bảo mục tiêu xây

dựng một nền tư pháp chuyên nghiệp, việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ tư

pháp là yếu tố then chốt. Cần thiết phải có các chính sách đào tạo, bồi dưỡng nguồn

nhân lực pháp lý. Đồng thời, cần đầu tư vào việc tạo điều kiện để cán bộ tư pháp có

cơ hội tiếp cận với các khóa đào tạo, học bổng để nâng cao trình độ chuyên môn và

kiến thức pháp lý. Sự chuyên nghiệp và am hiểu sâu sắc về pháp luật sẽ giúp cán bộ

tư pháp có khả năng thực thi công bằng và nghiêm minh. Cán bộ tư pháp cần được

đào tạo bài bản, liên tục cập nhật kiến thức pháp luật mới và các kỹ năng chuyên

môn cần thiết. Đảm bảo cán bộ tư pháp có đạo đức nghề nghiệp cao, ý thức trách

nhiệm, công tâm, và luôn đặt lợi ích của Tổ quốc và Nhân dân lên hàng đầu. Quy

trình tuyển dụng, bổ nhiệm cán bộ tư pháp cần được thực hiện minh bạch, công

bằng, dựa trên năng lực và phẩm chất đạo đức.

Hiện đại hóa hệ thống tư pháp: Việc hiện đại hóa hệ thống tư pháp không

chỉ giúp nhanh chóng giải quyết các vấn đề pháp lý mà còn tạo điều kiện thuận lợi

cho người dân tiếp cận công lý. Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong

48

quản lý hồ sơ, tra cứu pháp luật, giải quyết tranh chấp, quản lý và hoạt động tư pháp

để nâng cao hiệu quả, tính minh bạch và sự tiện lợi cho người dân. Đơn giản hóa

thủ tục hành chính, giảm thiểu thời gian và chi phí cho người dân và doanh nghiệp

khi tiếp cận dịch vụ tư pháp. Thực hiện quy trình tư pháp trực tuyến sẽ giảm thiểu

tối đa thủ tục phức tạp, đồng thời tăng cường minh bạch và minh chứng số trong

hoạt động tư pháp.

Bảo đảm tính công bằng và nghiêm minh trong xét xử: Bảo đảm sự độc lập

của các tòa án trong xét xử, không chịu sự can thiệp của bất kỳ cơ quan, tổ chức hay

cá nhân nào. Mọi hành vi vi phạm pháp luật phải được xử lý nghiêm minh, không

có sự phân biệt đối xử, đảm bảo tính răn đe và giáo dục. Tăng cường công khai,

minh bạch trong các hoạt động xét xử, đảm bảo quyền được thông tin của người dân

và xã hội. Để đảm bảo tính công bằng và nghiêm minh trong quá trình xét xử,

VKSND cần tăng cường sự minh bạch trong quy trình đưa ra các quyết định truy tố,

kháng nghị. Việc xây dựng hệ thống giám sát chặt chẽ, đánh giá công bằng kết quả

xét xử cũng đóng vai trò quan trọng. Ngoài ra, việc đề cao nguyên tắc tiến hành xét

xử công bằng, minh bạch, phải kiểm soát chặt chẽ việc sử dụng thông tin, chứng cứ

để đảm bảo quá trình tư pháp diễn ra một cách công bằng, minh bạch nhất.

Phụng sự Tổ quốc và phục vụ Nhân dân: Mục tiêu cao cả nhất của nền tư

pháp là phục vụ Tổ quốc, phục vụ Nhân dân. Mọi hoạt động của ngành tư pháp phải

lấy lợi ích của Nhân dân làm trung tâm, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của

người dân được bảo vệ một cách tốt nhất. Cải thiện khả năng tiếp cận của người dân

đối với các dịch vụ tư pháp, đảm bảo mọi người đều có quyền tiếp cận công lý một

cách công bằng và thuận lợi. Để đạt được mục tiêu này, VKSND cần đa dạng hóa

các hình thức phục vụ, tạo điều kiện thuận lợi cho người dân tiếp cận công lý. Việc

tổ chức các chương trình tư vấn pháp lý, cung cấp thông tin pháp luật đến cộng

đồng sẽ giúp tăng cường nhận thức pháp lý cho người dân, đồng thời tăng cường

lòng tin và sự hỗ trợ từ phía VKSND.

Hợp tác quốc tế: Tích cực học hỏi kinh nghiệm từ các quốc gia có nền tư

pháp phát triển, áp dụng những thực tiễn tốt nhất phù hợp với điều kiện Việt Nam.

49

Việc thúc đẩy hợp tác quốc tế trong lĩnh vực tư pháp không chỉ mở rộng tầm nhìn,

nâng cao trình độ chuyên môn cho cán bộ tư pháp mà còn mang lại cơ hội tiếp cận

với những tiêu chuẩn quốc tế, giúp cải thiện hoạt động tư pháp theo hướng chuyên

nghiệp và hiện đại hơn. Qua việc học hỏi kinh nghiệm quốc tế, VKSND có thể áp

dụng những phương pháp tiên tiến, hiệu quả trong quá trình xây dựng nền tư pháp

chất lượng và phục vụ tốt nhất cho Nhân dân.

1.3.3. Bảo đảm thực hiện có hiệu quả chức năng, nhiệm vụ của VKSND

Hoàn thiện khung pháp lý: Cần hoàn thiện hệ thống pháp luật liên quan đến

QCN, đảm bảo rõ ràng, minh bạch và khả thi. Đặc biệt, cần có các quy định cụ thể

về trách nhiệm và quyền hạn của VKSND trong việc bảo vệ QCN. Việc này cần

được thúc đẩy thông qua việc đẩy mạnh việc thẩm định, kiểm tra và hoàn thiện các

văn bản điều chỉnh hoạt động của cơ quan kiểm sát. Đồng thời, cần phối hợp chặt

chẽ với các cơ quan chức năng khác để xây dựng và điều chỉnh các quy định pháp

lý liên quan đến hoạt động kiểm sát, tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho sự hoạt động

của VKSND. Đảm bảo rằng các quy định pháp luật của Việt Nam phù hợp với các

công ước quốc tế về QCN mà Việt Nam đã tham gia ký kết.

Đào tạo và nâng cao năng lực cho cán bộ của VKSND: Một yêu cầu quan

trọng khác trong việc tăng cường trách nhiệm của VKSND là đào tạo và nâng cao

năng lực cho cán bộ, công chức của VKS. Để bảo vệ QCN một cách chính xác và

hiệu quả, cán bộ, công chức cần phải có kiến thức sâu rộng về pháp luật, đặc biệt là

pháp luật về QCN cũng như các kỹ năng điều tra và xử lý các vụ việc liên quan đến

vi phạm QCN. Việc đầu tư vào đào tạo và phát triển năng lực của cán bộ sẽ giúp họ

thực hiện nhiệm vụ của mình một cách chuyên nghiệp. Tăng cường nhận thức về

tầm quan trọng của việc bảo vệ QCN trong toàn bộ hệ thống VKSND, đảm bảo cán

bộ kiểm sát có ý thức trách nhiệm cao trong thực hiện nhiệm vụ.

Tăng cường công tác kiểm sát: VKSND cần thực hiện tốt vai trò giám sát

việc tuân thủ pháp luật của các cơ quan nhà nước, tổ chức, cá nhân, đảm bảo rằng

các QCN được tôn trọng và bảo vệ đúng pháp luật. Cần chú trọng đến việc xây

dựng kế hoạch kiểm sát chi tiết, minh bạch và hiệu quả; đồng thời, thực hiện kiểm

50

tra, giám sát việc thực hiện kế hoạch một cách nghiêm ngặt, kịp thời. Đảm bảo mọi

hành vi vi phạm pháp luật đều được phát hiện, xử lý một cách nhanh chóng và công

bằng, tạo sự tin tưởng từ phía công dân và xã hội đối với cơ quan kiểm sát. Thiết lập

các cơ chế giám sát chặt chẽ để theo dõi việc thực hiện QCN trong các hoạt động

điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án. Thực hiện kiểm tra định kỳ và đột xuất để

phát hiện và khắc phục kịp thời các sai phạm, bảo đảm sự liêm chính và minh bạch

trong hoạt động của VKSND.

Tăng cường hợp tác quốc tế và học hỏi kinh nghiệm: Tăng cường hợp tác với

các tổ chức quốc tế về QCN để học hỏi kinh nghiệm, nhận hỗ trợ kỹ thuật và đào

tạo. Nghiên cứu và áp dụng các thực tiễn tốt từ các quốc gia khác vào hoạt động bảo

vệ QCN của VKSND.

Đẩy mạnh công tác truyền thông và giáo dục pháp luật: Tăng cường công

tác truyền thông, giáo dục pháp luật về QCN, cần xây dựng kế hoạch truyền thông

rõ ràng, đa dạng, kịp thời và hiệu quả, nhằm nâng cao nhận thức của công dân về

vai trò, chức năng của cơ quan kiểm sát. Đồng thời, cần tăng cường công tác giáo

dục pháp luật, giúp người dân nắm vững pháp luật, thúc đẩy ý thức tuân thủ pháp

luật và tích cực tham gia vào việc ngăn chặn, xử lý các hành vi vi phạm pháp luật.

Công khai các hoạt động của VKSND liên quan đến việc bảo vệ QCN để tạo niềm

tin và sự ủng hộ của xã hội.

Phát triển cơ sở vật chất và công nghệ: Cần đầu tư vào việc xây dựng, nâng

cấp cơ sở vật chất hiện đại đáp ứng yêu cầu công tác kiểm sát, đồng thời tăng cường

ứng dụng công nghệ thông tin vào quá trình kiểm sát và giám sát. Việc này giúp

nâng cao hiệu suất làm việc, tối ưu hóa quá trình xử lý vụ án, cũng như tăng cường

khả năng phòng, chống tội phạm hiệu quả. Xây dựng cơ sở dữ liệu và hệ thống

thông tin liên kết cho VKSND. Thông qua việc quản lý và cập nhật dữ liệu một

cách hiệu quả, Viện có thể nắm bắt tình hình, xu hướng của các vấn đề liên quan

đến bảo vệ QCN. Hệ thống thông tin liên kết cũng giúp Viện có khả năng truy cứu

thông tin nhanh chóng, từ đó đảm bảo việc thực thi pháp luật đúng mức và kịp thời.

51

Thúc đẩy sự minh bạch và truy cứu trách nhiệm của VKSND: Minh bạch và

truy cứu trách nhiệm là yếu tố then chốt trong việc tăng cường trách nhiệm của

VKSND. Viện cần công khai thông tin về các hoạt động giám sát, kết quả đánh giá,

cũng như những biện pháp xử lý các vi phạm pháp luật liên quan đến QCN. Chỉ

thông qua sự minh bạch và truy cứu trách nhiệm, Viện có thể xây dựng niềm tin từ

phía công dân và xã hội, đồng thời nâng cao uy tín và hiệu quả của mình.

Tiểu kết chương 1

Chương 1 đã trình bày khái niệm, bản chất, cơ chế, nội dung quy định của

pháp luật về bảo vệ QCN. Đồng thời, vai trò, chức năng và nhiệm vụ của VKSND

trong tư cách là người bảo vệ QCN trong hoạt động TTDS cũng được xác định rõ

ràng. Đặc biệt, đã chỉ rõ được khái niệm giải quyết và kiểm sát giải quyết các vụ

việc dân sự, ý nghĩa của lĩnh vực này trong bảo vệ QCN. Qua đó, nội dung và hình

thức bảo vệ QCN trong hoạt động TTDS của VKSND đã được xác định cụ thể như

sau: Chủ thể và quyền của chủ thể sẽ được bảo vệ; việc phát hiện, ngăn chặn, xử lý

và truy cứu hành vi vi phạm QCN, cũng như khôi phục quyền lợi ích hợp pháp của

người bị vi phạm. Hình thức bảo vệ QCN trong hoạt động tố tụng của VKSND xuất

phát từ nhiệm vụ và quyền hạn của VKSND, thông qua các biện pháp như ban hành

quyết định, kháng nghị, kiến nghị và yêu cầu. Việc đưa ra các vấn đề lý luận về lĩnh

vực TTDS trong việc bảo vệ QCN liên quan chặt chẽ đến vai trò, chức năng và

nhiệm vụ của VKSND. Điều này giúp xác định và làm rõ sự khác biệt giữa các

phương thức bảo vệ QCN trong hoạt động TTDS của VKSND. Như vậy, những vấn

đề lý luận về bảo vệ QCN trong hoạt động TTDS đã được trình bày tại chương 1

của luận văn. Những luận điểm khoa học như khái niệm, nguồn gốc, bản chất, cơ

chế bảo vệ và quy chế pháp lý về QCN đã được khái quát. Vai trò, chức năng và

nhiệm vụ của VKSND trong việc bảo vệ QCN thông qua hoạt động kiểm sát giải

quyết các vụ việc dân sự cũng đã được nêu rõ. Khái niệm, thẩm quyền kiểm sát giải

quyết các vụ việc dân sự, nội dung, hình thức và phương thức bảo vệ QCN trong

hoạt động TTDS của VKSND cũng đã được đề cập. Đây là những cơ sở lý luận

chính giúp tác giả đánh giá thực trạng bảo vệ QCN trong hoạt động TTDS của

52

VKSND tỉnh Đắk Lắk hiện nay. Trong đó, cơ sở lý luận chủ yếu để đánh giá thực

trạng bảo vệ QCN trong hoạt động TTDS của VKSND tỉnh Đắk Lắk hiện nay, đó là

đối tượng, cách thức, phương pháp bảo vệ QCN trong hoạt động TTDS của

VKSND.

53

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG THỰC HIỆN TRÁCH NHIỆM CỦA VIỆN

KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỈNH ĐẮK LẮK TRONG BẢO VỆ QUYỀN CON

NGƯỜI THÔNG QUA KIỂM SÁT GIẢI QUYẾT CÁC VỤ VIỆC DÂN SỰ

2.1 Khái quát chung về tình hình các vụ việc dân sự và giải quyết các vụ

việc dân sự tại tỉnh Đắk Lắk

2.1.1 Khái quát chung về các vụ việc dân sự tại tỉnh Đắk Lắk

Tỉnh Đắk Lắk là một tỉnh toạ lạc tại trung tâm khu vực Tây Nguyên, nơi có hệ

thống sông Sêrêpôk và sông Ba hợp lưu. Nền kinh tế chủ đạo của tỉnh Đắk Lắk là

nhờ vào sản xuất và chế biến nông, lâm nghiệp. Tỉnh có tiềm năng về du lịch sinh

thái. Tỉnh Đắk Lắk là nơi mà diện tích trồng cà phê và sản lượng xuất khẩu cà phê

lớn nhất cả nước. Ngoài ra, tỉnh cũng là nơi mà bông, cacao, cao su, điều lớn của

Việt Nam được trồng. Đồng thời, nơi đây cũng là địa điểm phát triển các loại cây ăn

trái khác như sầu riêng, bơ, chôm chôm, xoài và vải… Đắk Lắk có diện tích

13.125,37 km2. Cộng đồng dân cư Đắk Lắk gồm 47 dân tộc. Trong đó, người Kinh

chiếm hơn 70%; các dân tộc thiểu số như Ê Đê, Nùng, M'nông, Thái, Tày, ... chiếm

gần 30% dân số toàn tỉnh. Trên địa bàn tỉnh, không chỉ đồng bào dân tộc sinh sống

ở vùng sâu vùng xa, mà còn có một bộ phận đáng kể dân nhập cư ở các tỉnh phía

Bắc và miền Trung về đây tìm hiểu cơ hội sinh sống và lập nghiệp.

Trong những năm gần đây, dân số của tỉnh Đắk Lắk đã trải qua sự biến đổi do

sự gia tăng tự nhiên, chủ yếu là do di dân tự do. Điều này đã đặt ra thách thức to lớn

đối với địa phương trong việc xử lý vấn đề đất ở, nông nghiệp cùng các vấn đề môi

trường, an ninh quốc phòng và giữ gìn cảnh quan. Nền kinh tế của tỉnh Đắk Lắk

ngày một phát triển và các dự án cơ sở hạ tầng cũng ngày một hoàn thiện góp

phần thúc đẩy phát triển mạnh mẽ tỉnh Đắk Lắk nói riêng cũng như vùng Tây

Nguyên nói chung. Tuy nhiên, bên cạnh sự phát triển của nền kinh tế thì vẫn còn

tồn đọng nhiều khó khăn do có sự khác biệt giữa các vùng miền và sự phân hóa

giàu nghèo nên dẫn đến khả năng nhận thức và thực hiện pháp luật của người dân

còn nhiều hạn chế.

54

Với đặc điểm địa bàn rộng, địa hình phức tạp, cộng đồng dân cư đa dạng, tình

hình tranh chấp dân sự trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk diễn ra khá phổ biến, ngày càng

tăng và phức tạp. Đặc biệt là các quan hệ tranh chấp về hợp đồng như vay tài sản,

hợp đồng mua bán tài sản, hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ - tài sản trên đất, hợp

đồng đặt cọc, tranh chấp hợp đồng giao khoán; yêu cầu tuyên bố văn bản công

chứng vô hiệu; tranh chấp QSDĐ và yêu cầu hủy giấy chứng nhận QSDĐ; tranh

chấp lối đi, kiện đòi đất lấn chiếm; tranh chấp chia di sản thừa kế; kiện đòi tài sản,

yêu cầu bồi thường thiệt hại... Tranh chấp chia tài sản chung sau khi ly hôn, thay

đổi người nuôi con, cấp dưỡng nuôi con, chia tài sản mà nam nữ chung sống với

nhau như vợ chồng, xác định cha cho con,...

2.1.2 Khái quát chung về giải quyết các vụ việc dân sự tại tỉnh Đắk Lắk

Trong thời gian qua, số lượng các loại vụ việc mà các Tòa án phải thụ lý, giải

quyết vẫn tiếp tục tăng với tính chất, mức độ ngày càng phức tạp. Bên cạnh nhiệm

vụ phải làm tốt công tác giải quyết, xét xử các loại vụ việc, đáp ứng yêu cầu cải

cách tư pháp và các chỉ tiêu, yêu cầu theo Nghị quyết của Quốc hội; các cơ quan

Tòa án còn phải tiếp tục tập trung thực hiện tốt Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án;

tổ chức thi hành Nghị quyết của Quốc hội về phiên tòa xét xử trực tuyến...

Theo số liệu thống kê 3 năm gần đây, số vụ việc dân sự tại tỉnh Đắk Lắk đã

giải quyết là 29.639 vụ việc. Về cơ bản, đa số việc giải quyết các vụ việc dân sự

đảm bảo đúng quy định pháp luật, vượt chỉ tiêu của ngành và Quốc hội đề ra kể cả

số lượng và chất lượng đồng thời tạo niềm tin của nhân dân đối với ngành Tư pháp.

Tuy nhiên còn tồn tại một số hạn chế như: việc giải quyết án tranh chấp dân sự liên

quan đến đất đai có nhiều vụ kéo dài thời gian, nhiều vụ án phải tạm đình chỉ chờ

Ủy ban nhân dân và các cơ quan chuyên môn trả lời, cung cấp tài liệu chứng cứ; án

quá thời hạn chuẩn bị xét xử do lỗi của Thẩm phán vẫn còn; công tác phối hợp tổ

chức thẩm định, định giá tài sản, còn chưa kịp thời, việc đo đạc xác định ranh giới,

tứ cận còn có sai sót, không chính xác dẫn đến việc tuyên nội dung chưa chính xác,

không đầy đủ; vẫn còn tình trạng Thẩm phán, Thư ký tinh thần trách nhiệm chưa

cao, còn chủ quan trong việc giải quyết án, việc nắm bắt, vận dụng, áp dụng pháp

55

luật chưa chính xác, không đầy đủ, dẫn đến bản án bị hủy, bị sửa do lỗi chủ quan

chiếm tỷ lệ còn cao, thời gian giải quyết vụ việc còn kéo dài, chưa đáp ứng được

yêu cầu đặt ra.

Phòng kiểm sát giải quyết các vụ, việc dân sự (viết tắt là Phòng 9), là phòng

chuyên môn của VKSND tỉnh Đắk Lắk, có nhiệm vụ kiểm sát việc tuân theo pháp

luật đối với việc giải quyết các vụ, việc dân sự theo thẩm quyền được quy định tại

Luật tổ chức VKSND và BLTTDS. Trong những năm vừa qua Phòng 9 đã thực

hiện tốt chức năng nhiệm vụ cụ thể: Giúp Viện trưởng VKSND tỉnh Đắk Lắk tổ

chức thực hiện nhiệm vụ kiểm sát việc tuân theo pháp luật đối với việc giải quyết

các vụ, việc dân sự của Toà án cùng cấp đối với cấp dưới theo quy định của Luật tổ

chức VKSND và BLTTDS; phát hiện vi phạm và tham mưu giúp lãnh đạo VKS

tỉnh ra các quyết định kháng nghị, kiến nghị thi hành các bản án, quyết định có vi

phạm pháp luật của Toà án nhân dân cùng cấp và cấp dưới. Quản lý tình hình hoạt

động và chỉ đạo, hướng dẫn nghiệp vụ; theo dõi và đôn đốc thực hiện nhiệm vụ

chuyên môn, các chỉ tiêu kế hoạch đối với VKSND các huyện, thị xã, thành phố về

công tác kiểm sát giải quyết các vụ, việc dân sự; Kiểm tra thường xuyên hoặc định

kỳ về chuyên môn nghiệp vụ và việc thực hiện chỉ tiêu kế hoạch công tác đối với

các VKSND cấp dưới. Tập huấn nghiệp vụ, rút kinh nghiệm về công tác kiểm sát

giải quyết các vụ, việc dân sự; trả lời thỉnh thị án và giải đáp các vướng mắc về

nghiệp vụ của các đơn vị huyện, thị xã, thành phố. Xây dựng các chuyên đề nghiệp

vụ theo sự phân công của Lãnh đạo Viện tỉnh và Vụ 9 VKSND tối cao. Trả lời đơn,

thư khiếu nại liên quan đến những vụ, việc dân sự do Toà án giải quyết; kịp thời

phát hiện vi phạm của các bản án, quyết định dân sự để kiến nghị và kháng nghị

theo thẩm quyền.

2.2 Tình hình thực hiện trách nhiệm của VKSND tỉnh Đắk Lắk trong bảo

vệ QCN thông qua hoạt động kiểm sát giải quyết các vụ việc dân sự

2.2.1 Thực trạng trách nhiệm bảo vệ QCN thông qua hoạt động kiểm sát

việc trả lại đơn khởi kiện, đơn yêu cầu

56

BLTTDS 2015, có một quy định mới đối với việc phân công thẩm phán của

Toà án thực hiện việc giải quyết tranh chấp và tổ chức phiên họp về giải quyết

khiếu nại, kiến nghị liên quan đến việc hoàn trả lại đơn khởi kiện, đơn yêu cầu. Qua

đó, cho biết Nhà nước rất quan tâm đến việc bảo đảm quyền và lợi ích chính đáng

của người khởi kiện, người yêu cầu, cũng như giải quyết kiến nghị của VKSND.

Theo đó, VKS có thêm nhiệm vụ tham gia phiên họp giải quyết khiếu nại, kiến nghị

về việc trả lại đơn khởi kiện, đơn yêu cầu.

Nhằm bảo đảm việc kiểm sát chặt chẽ việc trả lại đơn khởi kiện, đơn yêu cầu

của Tòa án theo các quy định, VKSND tỉnh Đắk Lắk đã tiến hành kiểm sát 100%

công việc này, phân công KSV tham gia đầy đủ các phiên họp để đảm bảo tính

chính xác. Mọi kết quả kiểm sát được báo cáo cho VKS cấp trên trong trường hợp

cần kiến nghị Chánh án Tòa án giải quyết.

Thẩm phán trả lại đơn khởi kiện, đơn yêu cầu trong các trường hợp được quy

định tại khoản 1 Điều 192, khoản 1 Điều 364 BLTTDS. Việc Tòa án trả lại đơn

khởi kiện, đơn yêu cầu không đúng quy định pháp luật sẽ xâm phạm đến quyền

khởi kiện vụ án dân sự, yêu cầu giải quyết việc dân sự để yêu cầu Tòa án bảo vệ

quyền con người của đương sự. Những vi phạm của Tòa án trong việc trả lại đơn

khởi kiện, đơn yêu cầu thường được phát hiện qua công tác kiểm sát của VKSND

tỉnh Đắk Lắk như: Trả lại đơn khởi kiện trong trường hợp người khởi kiện có quyền

khởi kiện và có đủ điều kiện khởi kiện theo quy định của pháp luật; Vụ án thuộc

thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhưng Tòa trả lại đơn khởi kiện vì cho rằng

không thuộc thẩm quyền giải quyết; Trả lại đơn trong trường hợp trong đơn khởi

kiện, người khởi kiện đã ghi đầy đủ và đúng địa chỉ nơi cư trú của người bị kiện,

người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan nhưng họ không có nơi cư trú ổn định,

thường xuyên thay đổi nơi cư trú, trụ sở mà không thông báo địa chỉ mới cho cơ

quan, người có thẩm quyền theo quy định của pháp luật về cư trú làm cho người

khởi kiện không biết được nhằm mục đích che giấu địa chỉ, trốn tránh nghĩa vụ đối

với người khởi kiện… Vi phạm phổ biến nhất của Tòa án đó là không ghi rõ lý do

trả lại đơn khởi kiện trong văn bản thông báo trả lại đơn khởi kiện, đơn yêu cầu.

57

Như vậy sẽ gây khó khăn cho đương sự và VKSND khi nhận được thông báo trả lại

đơn khởi kiện mà không biết rõ lý do để thực hiện quyền khiếu nại, quyền kiến nghị

theo quy định của luật.

Qua thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình, VKSND khi kiểm sát việc trả

lại đơn khởi kiện, đơn yêu cầu của Tòa án phát hiện những vi phạm trên sẽ yêu cầu,

kiến nghị Tòa án sửa chữa, khắc phục kịp thời các vi phạm. Để kiểm sát chặt chẽ

công tác này, hai cấp ngành KSND tỉnh Đắk Lắk đã thực hiện các công việc cụ thể:

Lập sổ sách riêng để theo dõi việc trả lại đơn khởi kiện, đơn yêu cầu của Tòa án.

Trong đó, lập cụ thể các cột mục như ngày, tháng, năm Tòa án nhận đơn khởi kiện;

Số, ngày, tháng, năm Tòa án ra quyết định trả lại đơn khởi kiện, đơn yêu cầu; Lý do

trả lại đơn khởi kiện, đơn yêu cầu; ngày, tháng, năm Viện kiểm sát nhận được thông

báo trả lại đơn khởi kiện, đơn yêu cầu của Tòa án; Phân công Kiểm sát viên kiểm

sát việc trả lại đơn khởi kiện, đơn yêu cầu của Tòa án; khi phát hiện có vi phạm thì

kịp thời báo cáo đề xuất lãnh đạo có công văn rút hồ sơ lưu tại Tòa án để nghiên

cứu, xem xét việc kiến nghị theo thẩm quyền. Toàn bộ hoạt động này phải được lập

thành hồ sơ, đưa vào lưu trữ đúng quy định và cập nhật kết quả cụ thể vào sổ theo

dõi; Hàng tuần, hàng tháng tăng cường phối hợp với Tòa án trong việc đối chiếu sổ

sách, chốt số liệu những vụ việc Tòa án trả lại đơn khởi kiện, đơn yêu cầu; khi phát

hiện những trường hợp Tòa án đã trả lại đơn khởi kiện nhưng chưa thông báo cho

Viện kiểm sát phải yêu cầu Tòa án khắc phục kịp thời. Qua đó, quyền khởi kiện của

đương sự được bảo vệ, đảm bảo thực hiện đúng theo quy định của pháp luật.

Tuy nhiên, pháp luật quy định về kiểm sát trả đơn khởi kiện còn chưa rõ

ràng, cụ thể dẫn đến hoạt động kiểm sát việc trả đơn khởi kiện của VKS còn gặp

một số khó khăn vướng mắc và chưa thật sự có hiệu quả. Qua việc kiểm tra thực tế

về hoạt động kiểm sát, nhận thấy rằng đã có những trường hợp mà các căn cứ quy

định tại khoản 1 Điều 192 của Bộ luật TTDS đã được áp dụng bởi Tòa án để trả lại

đơn khởi kiện cho đương sự mà chưa chính xác. Đáng lẽ ra, khi trả lại đơn khởi

kiện, Tòa án nên gửi kèm theo văn bản hoặc thông báo rõ ràng lý do trả lại đơn,

nhưng có những trường hợp lại không thực hiện điều này. Sự thiếu minh bạch này

58

gây ra khó khăn cho cả đương sự và VKS trong việc xác định xem lý do trả lại đơn

có hợp lý hay không. Khoản 1 Điều 21 Thông tư liên tịch số 02/2016/TTLT-

VKSNDTC-TANDTC ngày 31/8/2016 của VKSND tối cao, TAND tối cao quy

định việc phối hợp giữa VKSND và TAND trong việc thi hành một số quy định của

BLTTDS thì quy định “Trường hợp VKS cần xem xét kiến nghị việc trả lại đơn khởi

kiện, đơn yêu cầu hoặc sau khi nhận được thông báo mở phiên họp giải quyết khiếu

nại về việc trả lại đơn khởi kiện, đơn yêu cầu thì VKS gửi văn bản yêu cầu Tòa án

cho sao chụp một số hoặc toàn bộ bản sao đơn khởi kiện, đơn yêu cầu và tài liệu,

chứng cứ”. Theo quy định trên thì chỉ trừ trường hợp cần thiết để kiểm sát hoặc giải

quyết tranh chấp thì VKS mới có quyền đề nghị Toà án sao chụp đơn khởi kiện

cùng các tài liệu chứng cứ kèm theo nhưng không phải đối với tất cả trường hợp trả

lại đơn khởi kiện của Toà án, VKS đều có quyền đề nghị sao chụp tài liệu, chứng

cứ. Quy định trên gây khó khăn, trở ngại đối với công tác kiểm sát việc trả lại đơn

khởi kiện và không phát hiện kịp thời sai phạm, khuyết điểm của Toà án cho nên

công tác kiểm sát trả lại đơn khởi kiện hiệu quả không cao. BLTTDS ở khoản 1

Điều 194 chỉ quy định thời hạn kiến nghị của VKS là 10 ngày tính từ ngày nhận

được thông báo trả lại đơn khởi kiện chứ không quy định cụ thể thời hạn bao nhiêu,

tính từ ngày có quyết định trả lại đơn khởi kiện thì Toà án mới chuyển cho VKS hồ

sơ kiểm sát việc trả lại đơn khởi kiện là chưa bảo đảm. Quy định dẫn có thể dẫn đến

việc không thụ lý hoặc thậm chí “lãng quên” VKS sẽ không kiểm sát được ảnh

hưởng đến hiệu quả công tác kiểm sát trả đơn khởi kiện.

2.2.2 Thực trạng trách nhiệm bảo vệ QCN thông qua hoạt động kiểm sát

việc thụ lý, giải quyết vụ việc dân sự

Tại VKSND tỉnh Đắk Lắk, công tác kiểm sát việc thụ lý, giải quyết vụ việc

dân sự được thực hiện một cách chặt chẽ, đảm bảo kiểm sát 100% các vụ án ngay từ

khi Tòa án thụ lý vụ án.

Bảng 2.1: Số liệu kiểm sát thụ lý, giải quyết các vụ việc dân sự:

(Nguồn: Theo số liệu thống kê Báo cáo tổng kết công tác năm 2021, năm

2022, năm 2023 của VKSND tỉnh Đắk Lắk)

59

Đơn vị: vụ, việc

Năm Số vụ việc kiểm sát thụ lý, giải quyết

Sơ thẩm Phúc thẩm

Thụ lý Giải quyết Thụ lý Giải quyết

11.879 8.937 432 337 2021

12.785 9.803 533 358 2022

12.746 9.641 769 563 2023

37.410 28.381 1.734 1.258 Tổng

Giai đoạn sơ thẩm: Sau khi vụ việc dân sự được thụ lý, Tòa án phải gửi

thông báo bằng văn bản cho VKS cùng cấp. Khi thông báo thụ lý được nhận, cán

bộ, KSV được phân công để tiến hành vào sổ thụ lý, lập phiếu kiểm sát, kiểm tra

nội dung và thời hạn ra thông báo theo quy định của Điều 196 và Điều 365 của

BLTTDS năm 2015. KSV thực hiện: Kiểm sát thời hạn ra thông báo thụ lý và nội

dung của thông báo thụ lý. Trong đó chú trọng làm rõ quan hệ pháp luật phát sinh

yêu cầu, tranh chấp. Làm rõ tính hợp pháp của việc khởi kiện, việc yêu cầu. Xác

định người khởi kiện, người yêu cầu có quyền khởi kiện, yêu cầu hay không. Cơ

quan, tổ chức khởi kiện, yêu cầu phải thông qua người đại diện theo quy định của

pháp luật. Việc ủy quyền khởi kiện hoặc ủy quyền yêu cầu phải làm thành văn bản,

trong đó nêu cụ thể nội dung ủy quyền, phạm vi ủy quyền, thời gian ủy quyền theo

quy định của pháp luật. Người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự

thực hiện quyền, nghĩa vụ của người khởi kiện hoặc yêu cầu thông qua người đại

diện theo pháp luật.

Về quan hệ pháp luật mà phát sinh yêu cầu hoặc tranh chấp của đương sự,

KSV xem xét những quan hệ pháp luật đó có thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa

án theo quy định của BLTTDS hay không. Thẩm quyền thụ lý của vụ án được xác

định bởi Tòa án. Việc xem xét vụ án đã được thụ lý, cũng như việc có thẩm quyền

giải quyết vụ án theo quy định của BLTTDS hay không, đều do KSV thực hiện.

60

Nếu sau khi thụ lý, xét thấy vụ, việc dân sự đó không thuộc thẩm quyền giải quyết

của mình thì Tòa án đã thụ lý ra quyết định chuyển hồ sơ cho Tòa án có thẩm quyền

theo quy định tại khoản 1 Điều 41 BLTTDS 2015, đồng thời cũng phải gửi ngay

quyết định chuyển hồ sơ vụ, việc cho VKS cùng cấp biết. Khi nhận được quyết định

chuyển giao hồ sơ cho Toà án có thẩm quyền hoặc quyết định tách (nhập) vụ án,

cán bộ, KSV được giao nhiệm vụ vào sổ kiểm sát theo từng quyết định, lập phiếu

kiểm sát để đánh giá tính chất có cơ sở và hợp pháp của quyết định, nếu có vi phạm

phải đánh giá mức độ của vi phạm và tham mưu lãnh đạo VKS đề nghị Toà án xử lý

theo từng quyết định hoặc tổng hợp kiến nghị chung theo thẩm quyền.

Về xác định thời hiệu khởi kiện hoặc yêu cầu: Điều 184 BLTTDS 2015 quy

định “thời hiệu khởi kiện, thời hiệu yêu cầu giải quyết việc dân sự được thực hiện

theo quy định của Bộ luật Dân sự”; bổ sung nguyên tắc áp dụng thời hiệu, đó là:

Tòa án chỉ áp dụng quy định về thời hiệu theo yêu cầu áp dụng thời hiệu của một

bên hoặc các bên với điều kiện yêu cầu này phải được đưa ra trước khi Tòa án cấp

sơ thẩm ra bản án, quyết định giải quyết vụ việc. Trường hợp pháp luật không có

quy định về thời hiệu yêu cầu thì thời hiệu yêu cầu để Tòa án giải quyết việc dân sự

là một năm, kể từ ngày phát sinh quyền yêu cầu, trừ các việc dân sự có liên quan

đến quyền dân sự về nhân thân của cá nhân thì không áp dụng thời hiệu yêu cầu.

Giai đoạn phúc thẩm, việc thông báo thụ lý vụ án được tiến hành tương tự

như ở giai đoạn sơ thẩm. Sau khi vụ án được thụ lý, thông báo bằng văn bản phải

được gửi cho VKS cùng cấp. Khi nhận được thông báo thụ lý, cán bộ, KSV sẽ được

phân công tiến hành vào sổ thụ lý, lập phiếu kiểm sát và kiểm tra nội dung theo

Điều 285 BLTTDS 2015. Thời hạn ra thông báo thụ lý cũng đặc biệt quan trọng và

KSV cần chú ý đến việc xử lý đơn kháng cáo theo quy định tại Điều 283 BLTTDS

2015, ngoài quy định tại Điều 285 BLTTDS 2015. Đối với đơn kháng cáo, Tòa án

cấp sơ thẩm phải gửi hồ sơ vụ án, đơn kháng cáo và tài liệu, chứng cứ bổ sung kèm

theo cho Tòa án cấp phúc thẩm trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày hết thời

hạn kháng cáo, người kháng cáo đã nộp cho Tòa án cấp sơ thẩm biên lai thu tiền

tạm ứng án phí phúc thẩm. Việc kiểm tra các vấn đề về nội dung thông báo thụ lý

61

cũng đã được tiến hành bởi KSV giống như ở giai đoạn sơ thẩm, bao gồm các nội

dung và quy định về đơn kháng cáo theo Điều 272 BLTTDS 2015, cũng như việc

xem xét quan hệ pháp luật phát sinh tranh chấp và thẩm quyền thụ lý của Tòa án.

Đối với thời hạn kháng cáo, Điều 273 BLTTDS 2015 quy định: Thời hạn

kháng cáo đối với bản án của Tòa án cấp sơ thẩm là 15 ngày, kể từ ngày tuyên án,

thời hạn kháng cáo đối với quyết định tạm đình chỉ, đình chỉ giải quyết vụ án của

Tòa án cấp sơ thẩm là 07 ngày, kể từ ngày đương sự, cơ quan, tổ chức, cá nhân khởi

kiện nhận được quyết định hoặc kể từ ngày quyết định được niêm yết theo quy định

của BLTTDS 2015. Bộ luật cũng bổ sung trường hợp đương sự, đại diện cơ quan, tổ

chức hoặc cá nhân khởi kiện đã tham gia phiên tòa nhưng vắng mặt khi Tòa án

tuyên án mà có lý do chính đáng thì thời hạn kháng cáo được tính từ ngày họ nhận

được bản án hoặc bản án được niêm yết, còn nếu không có lý do chính đáng thì thời

hạn kháng cáo vẫn được tính từ ngày tuyên án. Trong trường hợp phát hiện vụ án bị

sai quy định mà Tòa án tiếp tục giải quyết vụ án đó, VKS sẽ thực hiện quyền kháng

nghị yêu cầu hủy bản án phúc thẩm. Đối với công tác phối hợp, VKS cấp trên sẽ

yêu cầu VKS cấp dưới gửi ngay thông báo kháng cáo của Tòa án cùng cấp sau khi

nhận được để thông tin về việc bản án sơ thẩm có kháng cáo được chuyển đến VKS

cấp trên và theo dõi việc thụ lý và gửi thông báo thụ lý của Tòa án có kịp thời, đầy

đủ và đúng quy định.

Quá trình kiểm sát thông báo thụ lý vụ, việc dân sự của Tòa án được VKSND

hai cấp tỉnh Đắk Lắk thực hiện theo quy trình và đảm bảo tuân thủ quy định của

pháp luật, cụ thể: Sau khi tiếp nhận các thông báo thụ lý của Tòa án cùng cấp

chuyển đến, bộ phận văn thư vào sổ công văn đến, trình lãnh đạo Viện phê duyệt,

sau đó chuyển cho chuyên viên của bộ phận ghi chép vào sổ thụ lý. Sau đó, chuyển

giao cho KSV được phân công để nghiên cứu, lập hồ sơ, kiểm sát thông báo thụ lý.

Do đó, 100% thông báo thụ lý của Tòa án cùng cấp được kiểm sát theo đúng Quy

chế của Ngành. Qua đó phát hiện một số dạng vi phạm của Tòa án thường xảy ra

trong việc thụ lý, giải quyết các vụ việc dân sự như:

62

- Vi phạm trong việc xác định sai quan hệ tranh chấp: Trong vụ án tranh chấp

hợp đồng vay tài sản giữa nguyên đơn và bị đơn có xác lập hợp đồng vay tài sản

không thời hạn và không có lãi. Đây là quan hệ tranh chấp vay tài sản nhưng Tòa án

khi thụ lý giải quyết lại xác định quan hệ tranh chấp là kiện đòi tài sản là chưa chính

xác.

- Vi phạm trong việc giải quyết không hết, không đúng hoặc giải quyết ngoài

phạm vi khởi kiện của đương sự, vượt quá thẩm quyền của Tòa án: Theo quy định

tại Điều 5 BLTTDS, Tòa án chỉ thụ lý giải quyết vụ việc dân sự khi có đơn khởi

kiện, đơn yêu cầu của đương sự và chỉ giải quyết trong phạm vi đơn khởi kiện, đơn

yêu cầu đó. Có một số vụ án Tòa án thực hiện không đúng quy định này. Không thụ

lý hết yêu cầu của đương sự; giải quyết không hết, không đúng hoặc giải quyết

ngoài phạm vi khởi kiện của đương sự, vượt quá thẩm quyền của Tòa án; không

đình chỉ giải quyết yêu cầu đương sự đã rút dẫn đến việc Tòa phúc thẩm phải hủy

án sơ thẩm hoặc hủy một phần bản án, chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa sơ thẩm giải

quyết lại vụ án hoặc phải sửa bản án sơ thẩm.

- Vi phạm trong việc không đưa đầy đủ những người có quyền lợi và nghĩa vụ

liên quan vào tham gia tố tụng: BLTTDS đã quy định về người tham gia tố tụng,

trong đó quy định rõ về nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên

quan... quyền và nghĩa vụ của người tham gia tố tụng. Việc xác định đúng, đủ tư

cách tham gia tố tụng của người người tham gia tố tụng có ý nghĩa quan trọng trong

việc giải quyết đúng đắn vụ án bởi mỗi người tham gia tố tụng có một tư cách tố

tụng riêng biệt và tương ứng với đó là các quyền và nghĩa vụ mà BLTTDS đã quy

định cho họ. Trường hợp xác định sai tư cách tham gia tố tụng hoặc đưa thiếu người

tham gia tố tụng trong vụ án sẽ làm ảnh hưởng trực tiếp đến quyền, nghĩa vụ của họ,

làm họ không có điều kiện để thực hiện các quyền nghĩa vụ tụng của mình. Dẫn đến

việc làm sai lệch bản chất vụ việc, đây được coi là một vi phạm nghiêm trọng thủ

tục tố tụng, Tòa án cấp phúc thẩm phải hủy bản án.

Những vi phạm của Tòa án trong thụ lý, giải quyết các vụ việc dân sự xâm

phạm đến QCN của các đương sự tham gia vào quan hệ TTDS, cụ thể là quyền

63

quyết định và tự định đoạt của đương sự quy định tại Điều 5 BLTTDS, quyền bình

đẳng về quyền và nghĩa vụ trong TTDS… Qua công tác kiểm sát, phát hiện Tòa án

cùng cấp còn để xảy ra thiếu sót như trên, VKSND đã tập hợp để kiến nghị chung,

yêu cầu Tòa án khắc phục và không để xảy ra vi phạm tương tự, từ đó đảm bảo

được quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự.

2.2.3 Thực trạng trách nhiệm bảo vệ QCN thông qua hoạt động nghiên

cứu hồ sơ, yêu cầu xác minh, thu thập tài liệu, chứng cứ

Bảng 2.2: Số liệu kiểm sát giải quyết các vụ việc dân sự

(Nguồn: Theo số liệu thống kê Báo cáo tổng kết công tác năm 2021, năm

2022, năm 2023 của VKSND tỉnh Đắk Lắk)

Tổng giải quyết Số yêu cầu

Sơ thẩm Phúc thẩm Tòa án xác

Năm minh, thu Công nhận Xét xử và Xét xử và Đình thập tài liệu thỏa thuận Đình chỉ mở phiên mở phiên chỉ chứng cứ của đương sự họp họp

4.067 3.123 1.747 37 300 40 2021

4.508 3.515 1.780 47 311 42 2022

4.492 3.338 1.811 23 540 45 2023

13.067 9.976 5.338 107 1.151 127 Tổng

Theo số liệu thống kê bảng trên, trong 03 năm gần đây, hai cấp VKSND tỉnh

Đắk Lắk đã thực hiện nghiên cứu 6.489 hồ sơ vụ việc trước khi Tòa án xét xử.

Nghiên cứu hồ sơ vụ, việc dân sự là bước chuẩn bị có ý nghĩa quan trọng, giúp KSV

chủ động khi tham gia phiên tòa, phiên họp cũng như xác định căn cứ để kiến nghị,

kháng nghị, đảm bảo pháp luật được tuân thủ, góp phần đảm bảo QCN. Thông qua

việc nghiên cứu hồ sơ trước khi tham gia xét xử, KSV đã đề xuất quan điểm, đường

lối giải quyết các vụ án một cách khách quan, toàn diện, đúng theo quy định của

64

pháp luật, từ đó quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự được đảm bảo một

cách có hiệu quả nhất.

Sau khi ban hành Quyết định đưa vụ án ra xét xử, Tòa án chuyển hồ sơ vụ,

việc dân sự ngay cho VKS nghiên cứu. Tuy nhiên, vẫn còn xảy ra tình trạng chậm

chuyển một số hồ sơ có nội dung phức tạp hoặc khi chuyển hồ sơ thiếu tài liệu sau

đó xin bổ sung… làm ảnh hưởng đến việc nghiên cứu hồ sơ của KSV. Khi nhận

được hồ sơ vụ án do Tòa án chuyển đến, KSV báo cáo Lãnh đạo Viện phụ trách và

tiến hành nghiên cứu hồ sơ theo quy định tại Khoản 3 Điều 58 BLTTDS. Khi

nghiên cứu hồ sơ, KSV nắm rõ nội dung vụ việc, lập hồ sơ kiểm sát, trích cứu đầy

đủ, trung thực lời khai của đương sự, các tài liệu, chứng cứ khác... theo đúng hướng

dẫn tại Quy chế công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ việc dân sự và văn bản

Hướng dẫn nghiệp vụ do Viện KSND tối cao ban hành. Quá trình kiểm sát, khi phát

hiện việc Tòa án thu thập chứng cứ giải quyết vụ án chưa đảm bảo, KSV báo cáo

Lãnh đạo Viện để ban hành các yêu cầu thu thập, bổ sung chứng cứ. Việc thu thập

tài liệu, chứng cứ của Tòa án không đảm bảo đúng theo quy định pháp luật sẽ xâm

phạm đến quyền cung cấp tài liệu, chứng cứ, chứng minh để bảo vệ quyền và lợi ích

hợp pháp của đương sự; quyền đề nghị Tòa án xác minh, thu thập tài liệu, chứng cứ

của vụ việc mà tự mình không thể thực hiện được…

Trong kỳ thống kê, hai cấp VKSND tỉnh Đắk Lắk đã ban hành 127 yêu cầu

xác minh, thu thập chứng cứ được Tòa án chấp nhận, góp phần đảm bảo căn cứ để

giải quyết toàn diện nội dung vụ án, bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của đương sự.

Đa số các yêu cầu của VKS đều được Tòa án chấp nhận và thực hiện đầy đủ theo

quy định. Tuy nhiên, thời gian nghiên cứu hồ sơ của VKS thường là 15 ngày cho

nên việc thực hiện các bước tố tụng yêu cầu Toà án xác minh, thu thập chứng cứ vụ

án sẽ bị hạn chế. Khi không nắm rõ việc thu thập chứng cứ, yêu cầu cung cấp chứng

cứ, tài liệu của từng đương sự hoặc Toà án tự ý xác minh thu thập chứng cứ như

vậy mà KSV yêu cầu Toà án xác minh, thu thập thêm chứng cứ vụ án thì sẽ khó

khăn để Toà án chấp thuận thực hiện nên KSV cần tập hợp để đưa vào phương án

hỏi đương sự, người tham gia tố tụng khác hoặc phát biểu ý kiến về việc tuân theo

65

pháp luật trong việc thu thập chứng cứ, đánh giá chứng cứ của Thẩm phán tại phiên

tòa.

2.2.4 Thực trạng trách nhiệm bảo vệ QCN thông qua hoạt động tham gia

phiên tòa, phiên họp và phát biểu quan điểm của KSV về việc giải quyết các vụ

việc dân sự

VKSND tỉnh Đắk Lắk thực hiện kiểm sát 100% các phiên tòa, phiên họp mà

VKS phải tham gia theo quy định.

Bảng 2.3: Số liệu VKS tham gia phiên tòa, phiên họp:

(Nguồn: Theo số liệu thống kê Báo cáo tổng kết công tác năm 2021, năm

2022, năm 2023 của VKSND tỉnh Đắk Lắk)

Đơn vị: vụ, việc

VKS tham gia phiên tòa, phiên họp Năm Phúc thẩm Sơ thẩm

1.602 300 2021

1.695 311 2022

1.756 540 2023

5.053 1.151 Tổng

Theo số liệu thống kê 03 năm gần đây, tổng số phiên tòa có KSV tham gia

của cả hai cấp VKSND tỉnh Đắk Lắk là 6.204 phiên tòa. Tương ứng với đó là số

lượng Bản phát biểu tại phiên tòa mà KSV phải xây dựng. Nhìn chung, bản phát

biểu ý kiến của KSV tại phiên tòa cơ bản được KSV dự thảo trước khi tham gia

phiên tòa và được xây dựng theo mẫu ban hành kèm theo Quy chế của ngành. Nội

dung dự thảo phát biểu của KSV tại phiên tòa cơ bản đã tổng hợp được quá trình

hoạt động của Tòa án và đánh giá được việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán,

HĐXX, thư ký, các đương sự và những người tham gia tố tụng, từ khi Tòa án thụ lý

vụ án, thời điểm Tòa án chuyển hồ sơ cho VKS nghiên cứu. KSV đã chú trọng

66

nghiên cứu hồ sơ, theo dõi được diễn biến tại phiên tòa để bổ sung nội dung phát

biểu.

VKSND tối cao đã ban hành nhiều văn bản trong đó đã hướng dẫn các hoạt

động của KSV trước, trong và sau phiên tòa; Hướng dẫn hoạt động Phát biểu của

KSV tại phiên tòa. Các quy định được triển khai đầy đủ để vận dụng trong toàn

ngành nên nhiều bản phát biểu có chất lượng, đã phân tích được đầy đủ, cụ thể nội

dung vụ án; đánh giá chứng cứ được khách quan, toàn diện, từ đó đề nghị với Hội

đồng xét xử hướng xử lý tình huống tại phiên tòa và hướng giải quyết vụ án về nội

dung có căn cứ, đúng quy định pháp luật, đảm bảo được quyền lợi ích hợp pháp của

các đương sự. Nhiều bản phát biểu có chất lượng, thuyết phục được HĐXX chấp

nhận quan điểm đề nghị của đại diện VKS tại phiên tòa. Trong thời gian gần đây,

hoạt động này đã ngày càng được thực hiện theo quy định của pháp luật và được

xem xét một cách nghiêm túc. Những phát biểu của KSV tại phiên tòa giải quyết vụ

án dân sự đã có nhiều tiến bộ, và chất lượng của những phát biểu cũng đã được

nâng cao,… Qua đó góp phần đảm bảo các quyền của đương sự như quyền giữ

nguyên, thay đổi, bổ sung hoặc rút yêu cầu theo quy định; Tham gia phiên tòa,

phiên họp theo quy định; Đưa ra câu hỏi với người khác về vấn đề liên quan đến vụ

án hoặc đề xuất với Tòa án những vấn đề cần hỏi người khác; Tranh luận tại phiên

tòa, đưa ra lập luận về đánh giá chứng cứ và pháp luật áp dụng…

Tuy nhiên, vẫn còn không ít trường hợp phát biểu của KSV còn chung

chung, chưa đạt yêu cầu, chưa đầy đủ tình tiết, nội dung vụ án, thậm chí có trường

hợp còn áp dụng không đúng quy định của pháp luật... Mặc dù các quy định, hướng

dẫn liên quan đến hoạt động phát biểu của KSV tại phiên tòa đã được quy định cụ

thể tại Hướng dẫn số 20/HD-VKSTC-V10 ngày 21/3/2021 của VKSND tối cao về

Hoạt động Phát biểu của KSV khi tham gia phiên tòa xét xử vụ án dân sự, kinh

doanh thương mại, lao động và được Phòng 9 - VKSND tỉnh Đắk Lắk triển khai

thực hiện trong toàn ngành; tuy nhiên, qua gần 03 năm thực hiện, thấy rằng, vẫn có

nhiều KSV chưa nắm được đầy đủ tinh thần của các quy định này, hoặc nắm được

quy định nhưng thực hiện chưa tốt; Việc bổ sung nội dung bản phát biểu quan điểm

67

trước khi phát biểu tại phiên tòa sơ thẩm có lúc chưa kịp thời, dẫn đến chất lượng

nhiều Bản phát biểu của KSV tại phiên tòa chưa cao, chất lượng công tác kiểm sát

giải quyết một số vụ án có lúc, có vụ chưa đáp ứng được yêu cầu cải cách tư pháp.

Điển hình là thông qua cuộc thi "Viết bản Phát biểu của KSV tại phiên tòa xét xử

vụ án dân sự" do VKSND tỉnh Đắk Lắk tổ chức đã cho thấy những hạn chế lớn

trong việc xây dựng bản phát biểu của KSV trong toàn ngành kiểm sát nhân dân

tỉnh Đắk Lắk. Điển hình như: về hình thức, một số bản phát biểu còn chưa tuân thủ

đúng hình thức theo mẫu ban hành kèm theo quy chế của Ngành. Về nội dung: một

số bản phát biểu thể hiện chưa đầy đủ diễn biến tại phiên tòa như: Đương sự vắng

mặt nhưng KSV không nhận xét và đánh giá về việc xét xử vắng mặt của đương sự

có đúng không, tại phiên tòa có đương sự vi phạm nội quy phiên tòa, thiếu thủ tục

ủy quyền theo quy định pháp luật, việc xử lý tình huống của hội đồng xét xử đối với

những nội dung, tình tiết mới phát sinh tại phiên tòa… nhưng KSV không bổ sung

vào nội dung bản phát biểu. Phần tố tụng nêu vi phạm vì bỏ sót người tham gia tố

tụng, hoặc chưa đủ căn cứ, cần thu thập thêm tài liệu chứng cứ để giải quyết vụ án,

nhưng đến phần nội dung lại đưa ra quan điểm đề nghị hướng giải quyết nội dung

vụ án và không kiến nghị gì; Một số bản phát biểu tại phiên tòa sơ thẩm không nêu

ra được vi phạm của Tòa án như: vi phạm về thời hạn chuẩn bị xét xử, gửi chậm hồ

sơ cho VKS, vi phạm về tống đạt văn bản tố tụng…; Nhiều bản phát biểu còn dài

dòng về nội dung; có bản phát biểu thể hiện: Không tóm tắt nội dung vụ án, chỉ

trích lại toàn bộ nội dung lời trình bày của các đương sự: “Nguyên đơn trình

bày:…”, “Bị đơn trình bày:…”, “Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan trình

bày:..” và nêu luôn quan điểm về việc chấp nhận hoặc không chấp nhận yêu cầu

khởi kiện của đương sự mà không phân tích, đánh giá gì. Hoặc có bản phát biểu nêu

toàn bộ nội dung các đương sự trình bày sau đó lại tóm tắt nội dung vụ án nên nội

dung phát biểu của KSV tại phiên tòa dài dòng, không tập trung, chưa chặt chẽ, cô

đọng. Hướng đề nghị giải quyết vụ án với Hội đồng xét xử có vụ còn chung chung

không đưa ra các phân tích, lập luận, đánh giá, căn cứ pháp luật để giải quyết vụ án

hoặc nêu sơ sài, lan man nên quan điểm đề nghị chưa có sức thuyết phục với cả Hội

68

đồng xét xử và các đương sự. Có những vụ đề nghị hướng giải quyết vụ án không

đúng quy định của pháp luật như: xác định không đúng đối tượng khởi kiện dẫn đến

phải hủy án, sửa án; đánh giá chứng cứ không đúng phải hủy án, sửa án; xác định

thiếu người tham gia tố tụng; giải quyết vụ án không triệt để... Đó là một số hạn

chế, thiếu sót cơ bản, thường gặp trong xây dựng bản phát biểu của KSV tại phiên

tòa. Tuy nhiên, những thiếu sót này đã làm ảnh hưởng đến hoạt động phát biểu của

KSV tại phiên tòa, ảnh hưởng đến chất lượng công tác kiểm sát của ngành Kiểm sát

nhân dân trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk nói riêng và trong toàn ngành nói chung.

2.2.5 Thực trạng trách nhiệm bảo vệ QCN thông qua hoạt động kiểm sát

bản án, quyết định giải quyết vụ việc dân sự

Theo số liệu thống kê, trong 03 năm gần đây Phòng 9 VKSND tỉnh Đắk Lắk

đã kiểm sát 29.766 bản án, quyết định của Tòa án hai cấp chuyển đến. Qua công tác

kiểm sát bản án, quyết định, VKS hai cấp tổng hợp các vi phạm thường xảy ra như:

- Tranh chấp QSDĐ chưa được hòa giải theo thủ tục tại địa phương. Yêu cầu

giải quyết của người lao động chưa được hòa giải cơ sở (đối với trường hợp phải

qua hòa giải cơ sở). Không đưa đầy đủ người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vào

việc tham gia tố tụng.

- Việc xét xử vắng mặt của các bên liên quan cũng không tuân theo quy

trình; ví dụ như tòa án đã xét xử vắng mặt các bên trong khi triệu tập họ chưa theo

trình tự pháp luật hoặc khi thông tin về nơi ở mới của các bên đã được thông báo

nhưng tòa án vẫn gửi thông báo và các văn kiện liên quan theo điạ chỉ cũ. Bản án

tuyên không tuân theo nguyên tắc công lý, chỉ dựa vào bản sao photocoppy mà

thiếu đi tài liệu gốc; hoặc khi án phạt không phù hợp với các thông tin khách quan

của vụ án hoặc khi việc thu thập chứng cứ chưa hoàn thiện. Cuối cùng là việc chưa

giải quyết hết các yêu cầu khởi kiện, phản tố và yêu cầu của các bên liên quan.

- Việc xác minh về nguồn gốc của đất không được tiến hành, tài liệu đăng ký

kê khai đất qua các thời kỳ không được thu thập, hồ sơ cấp giấy chứng nhận quyền

69

sử dụng đất đai cũng không được kiểm tra. Điều này dẫn đến việc không xác minh

rõ ai là người sử dụng đất, không làm rõ việc thay đổi diện tích của lô đất (nếu có).

- Giải quyết vượt quá phạm vi khởi kiện ban đầu: Trong diện tích 588m2 của

thửa đất, việc tranh chấp tiền bồi thường chỉ liên quan đến phần đất bị thu hồi là

545m2, còn phần diện tích 43m2 không bị thu hồi không gây ra tranh chấp. Tuy

nhiên, quyết định của Tòa án sơ thẩm về việc giải quyết toàn bộ diện tích 588m2 đã

vượt quá phạm vi yêu cầu khởi kiện theo Điều 5 của BLTTDS năm 2015.

- Đối với những vụ án có liên quan đến tài sản tranh chấp, Tòa án không kết

hợp các vụ án để giải quyết chung và cũng không giải thích rõ cho những người liên

quan về việc yêu cầu giải quyết một cách độc lập để đảm bảo sự công bằng và thi

hành án một cách toàn diện và triệt để. Ví dụ: Ông Y bị khởi kiện tranh chấp QSDĐ

bởi ông X. Phần đất mà ông E và ông F, con ông Y sử dụng và xây nhà trên đó sau

khi ông Y qua đời đang gây tranh cãi. Tòa án sơ thẩm chấp nhận yêu cầu của ông X,

buộc những người thừa kế của ông Y phải trả lại đất cho ông X và cho phép ông X

khởi kiện các tài sản trên đất bằng vụ án khác. Tuy nhiên, để giải quyết vụ án một

cách triệt để và đảm bảo việc thi hành án, tòa án cần xem xét và giải quyết yêu cầu

của ông X và ông Y liên quan đến các tài sản hiện có trên đất. Tòa án sơ thẩm đã

không giải thích rõ ràng về quyền yêu cầu này cho các bên liên quan. Tại phiên tòa

phúc thẩm, những người thừa kế của bị đơn đã yêu cầu buộc nguyên đơn phải chịu

chi phí xây dựng các công trình trên đất. Đó yêu cầu mới và nó cần được giải quyết

trong vụ án hiện tại để có thể thi hành án một cách hiệu quả. Tuy nhiên, do phần

quyết định trong bản án không rõ ràng và không cụ thể nên không khả thi để thi

hành.

- Xác định về việc án phí không đúng. Ví dụ: cấp dưỡng nuôi con không

buộc đương sự phải chịu án phí; người cao tuổi không được xem xét miễn án phí;

phần yêu cầu không được chấp nhận không phải chịu án phí theo quy định; Pháp

luật quy định án phí, lệ phí Tòa án năm 2009 không được áp dụng. Thay vào đó,

Nghị quyết số 326/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc

70

hội được sử dụng, điều này đã gây ra sự không chính xác trong việc tính toán số tiền

án phí.

Khi nhận được các quyết định, bản án nói trên, KSV, KTV lập phiếu kiểm

sát, kiểm sát chặt chẽ về thời hạn gửi, căn cứ, thẩm quyền ban hành, nội dung, hình

thức của bản án, quyết định, yêu cầu Tòa án chuyển hồ sơ để nghiên cứu nếu thấy

cần thiết. Khi phát hiện vi phạm, bản án, quyết định sẽ được xem xét kháng nghị

hoặc kiến nghị theo thẩm quyền, tùy theo tính chất và mức độ của vi phạm. Trong

trường hợp hết thời hạn kháng nghị tại cùng cấp VKS, báo cáo sẽ được trình lãnh

đạo cấp trên để xem xét kháng nghị phúc thẩm theo thẩm quyền. Việc kiểm sát chặt

chẽ các bản án, quyết định để phát hiện những vi phạm của Tòa án, từ đó thực hiện

quyền kiến nghị, kháng nghị yêu cầu Tòa án khắc phục vi phạm góp phần đảm bảo

QCN của các đương sự được quy định trong BLTTDS.

Tình hình công tác kiểm sát bản án và quyết định giải quyết vụ việc dân sự

của Tòa án cấp sơ thẩm gần đây đã cho thấy một số thiếu sót như phiếu kiểm sát

ban hành không theo mẫu quy định của VKSND tối cao, thiếu các thông tin yêu cầu

hoặc không có phần kiểm sát của VKS cấp phúc thẩm. Chất lượng kiểm sát bản án

và quyết định còn kém, không phát hiện được vi phạm để yêu cầu kháng nghị hoặc

kiến nghị, gây ra hạn chế trong chức năng của VKSND.

2.2.6 Thực trạng trách nhiệm bảo vệ QCN thông qua kiến nghị, kháng nghị

bản án, quyết định của Tòa án có vi phạm pháp luật

Kiến nghị:

Kết quả thực hiện công tác kiến nghị khi kiểm sát các vụ, việc dân sự: từ

năm 2021 đến năm 2023, hai cấp kiểm sát ngành KSND tỉnh Đắk Lắk đã ban hành

được 84 kiến nghị đối với TAND và các cơ quan hữu quan yêu cầu khắc phục và áp

dụng các biện pháp phòng ngừa vi phạm pháp luật. Nội dung kiến nghị chủ yếu

như:

- Vi phạm thời hạn: giải quyết vụ án, chuẩn bị xét xử, hoãn phiên tòa, gửi hồ

sơ cho VKS cùng cấp chậm.

71

- Vi phạm về việc chậm gửi các văn bản: Thông báo về việc thụ lý vụ án,

Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự, Quyết định tạm đình chỉ,

đình chỉ giải quyết vụ án, Quyết định hoãn phiên tòa, Bản án cho VKS. Ngoài ra, có

một số trường hợp Tòa án không gửi cho VKS. Điển hình, VKSND tỉnh đã ban

hành kiến nghị đối với Chánh án TAND tỉnh Đắk Lắk về việc các TAND cấp

huyện, thị xã, thành phố trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk giải quyết các vụ án dân sự đã có

57 bản án, 31 quyết định vi phạm về việc Tòa án giao Quyết định công nhận thỏa

thuận, Quyết định tạm đình chỉ, Quyết định đình chỉ, Bản án cho VKS cùng cấp

không đúng quy định tại khoản 1 Điều 212, khoản 2 Điều 214, khoản 2 Điều 217,

khoản 2 Điều 269 Bộ luật dân sự.

- Vi phạm trong bản án sơ thẩm: áp dụng không đúng điều luật; không viện

dẫn điểm, khoản của điều luật; áp dụng luật đã hết hiệu lực thi hành; chưa tuyên về

nghĩa vụ nộp các chi phí tố tụng khác; Vi phạm về hình thức.

- Vi phạm về án phí: tính sai án phí; không giải quyết tạm ứng án phí; không

thỏa thuận về nghĩa vụ nộp án phí; giảm án phí không đúng, không miễn án phí;

miễn giảm không đúng, khi các đương sự thỏa thuận được với nhau về việc giải

quyết vụ án trước khi mở phiên tòa nhưng vẫn tuyên buộc chịu 100% án phí sơ

thẩm; nhiều quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự không thể hiện

đương sự đã thỏa thuận về nghĩa vụ nộp án phí; không buộc người có yêu cầu phản

tố hoặc yêu cầu độc lập phải chịu án phí sơ thẩm. Điển hình, VKSND tỉnh đã ban

hành kiến nghị đối với Chánh án TAND tỉnh Đắk Lắk về việc các TAND cấp

huyện, thị xã, thành phố trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk giải quyết các vụ án dân sự đã có

các vi phạm về án phí như:

+ Vi phạm trong việc thu tiền tạm ứng án phí: Vụ án thụ lý sau ngày

01/01/2017 nhưng thu tạm ứng án phí không đúng quy định tại Điều 7, khoản 2

Điều 47 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường

vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí

và lệ phí Tòa án.

72

+ Vi phạm trong việc hoàn trả tiền tạm ứng án phí: Có 19 quyết định, 01 bản

án Tòa án không quyết định cho đương sự được nhận lại tiền tạm ứng án phí còn

thừa hoặc hoàn trả không đầy đủ, không đúng số tiền tạm ứng án phí sau khi khấu

trừ tiền án phí đương sự tự nguyện nộp.

+ Vi phạm về án phí dân sự sơ thẩm: Có 04 bản án, 14 quyết định đã tính

không đúng, không đủ án phí đối với tài sản tranh chấp, giảm tiền án phí không

đúng quy định. Có 12 bản án, quyết định của Tòa án quyết định giảm 50% tiền án

phí cho đương sự và ghi rõ lý do: “có hoàn cảnh kinh tế khó khăn và có đơn xin

giảm án phí được chính quyền địa phương xác nhận” (theo quy định tại khoản 1

Điều 14 Pháp lệnh số 10/2009/PL-UBTVQH12 ngày 27/2/2009) là không đúng quy

định vì từ ngày 01/01/2017 việc giảm án phí phải theo đúng quy định tại khoản 1 và

điểm a khoản 2 Điều 13 Nghị quyết 326.

+ Không buộc đương sự chịu án phí cấp dưỡng nuôi con: Có 11 Quyết định

công nhận thuận tình ly hôn và sự thỏa thuận của các đương sự, Tòa án giải quyết

về cấp dưỡng nuôi con chung, nhưng không buộc đương sự phải chịu án phí cấp

dưỡng nuôi con là vi phạm điểm b khoản 6 Điều 27 Nghị quyết

326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

+ Vi phạm về việc Tòa án không miễn án phí cho đương sự theo quy định:

Tại điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326 quy định về việc miễn nộp tiền tạm

ứng án phí, án phí, tạm ứng lệ phí, lệ phí Tòa án đối với: "Trẻ em; cá nhân thuộc hộ

nghèo, cận nghèo; người cao tuổi; người khuyết tật; người có công với cách mạng;

đồng bào dân tộc thiểu số ở các xã có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn;

thân nhân liệt sĩ được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận gia

đình liệt sĩ". Tuy nhiên, có 26 bản án, 32 quyết định của Tòa án không hướng dẫn

cho đương sự thực hiện việc miễn nộp tạm ứng án phí, án phí cho các đối tượng

được quy định trên, đặc biệt là người cao tuổi, người đồng bào dân tộc thiểu số ở

các xã có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn làm ảnh hưởng đến quyền và

lợi ích hợp pháp của các đương sự.

73

- Không ghi nhận quyền khởi kiện lại trong các Quyết định đình chỉ giải

quyết vụ án dân sự. Tại biểu mẫu số 45-DS ban hành kèm theo Nghị quyết số

01/2017/NQ-HĐTP ngày 13/01/2017 của Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao có

hướng dẫn: Tùy vào từng trường hợp đình chỉ vụ án cụ thể mà ghi hậu quả của việc

đình chỉ giải quyết vụ án theo quy định tại khoản 1 Điều 218 BLTTDS. Tuy nhiên

có nhiều Quyết định đình chỉ giải quyết vụ án Tòa án không ghi hoặc ghi đúng hậu

quả của việc đình chỉ là vi phạm khoản 1 Điều 218 BLTTDS năm 2015. VKSND

tỉnh đã ban hành kiến nghị đối với Chánh án TAND tỉnh Đắk Lắk về việc các

TAND cấp huyện, thị xã, thành phố trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk giải quyết các vụ án

dân sự đã có vi phạm về việc không ghi nhận quyền khởi kiện lại hoặc ghi đúng hậu

quả của việc đình chỉ trong 132 Quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự.

- Vi phạm trong việc không giải thích, hướng dẫn cho đương sự biết về

quyền được yêu cầu trợ giúp pháp lý: Chế định trợ giúp pháp lý đã được ghi nhận là

một trong những nguyên tắc của TTDS. Tại khoản 3 Điều 9 BLTTDS năm 2015 ghi

nhận nguyên tắc: “Nhà nước có trách nhiệm bảo đảm trợ giúp pháp lý cho các đối

tượng theo quy định của pháp luật để họ thực hiện quyền bảo vệ quyền và lợi ích

hợp pháp trước Tòa”. Đồng thời tại khoản 6 Điều 48 BLTTDS năm 2015 quy định

nhiệm vụ, quyền hạn của Thẩm phán: “Giải thích, hướng dẫn cho đương sự biết để

họ thực hiền quyền được yêu cầu trợ giúp pháp lý theo quy định của pháp luật về

trợ giúp pháp lý”. Luật trợ giúp pháp lý có hiệu lực từ ngày 01/01/2018 và Thông

tư liên tịch số 10/2018/TTLT-BTP-BCA-BQP-BTC-TANDTC-VKSNDTC ngày

29/6/2018 đã quy định rất cụ thể về hoạt động trợ giúp pháp lý, những người thuộc

diện được trợ giúp pháp lý, quy định về phối hợp thực hiện trợ giúp pháp lý trong

hoạt động tố tụng. Theo đó Thẩm phán cần giải thích để đương sự được biết về

quyền được yêu cầu trợ giúp pháp lý, bản thân đương sự có thuộc trường hợp được

trợ giúp pháp lý hay không? Đương sự có quyền yêu cầu trợ giúp pháp lý hoặc từ

chối. Thẩm phán có trách nhiệm thông báo cho Trung tâm trợ giúp pháp lý trong

trường hợp họ có yêu cầu. Tuy nhiên thông qua công tác kiểm sát giải quyết các vụ

việc dân sự nhận thấy hiện nay nhiều Thẩm phán khi giải quyết vụ án dân sự chưa

74

giải thích về quyền được yêu cầu trợ giúp pháp lý nên không biết để thực hiện

quyền được trợ giúp pháp lý. Quyền được trợ giúp pháp lý cho các đương sự nếu

không được giải thích bởi Thẩm phán sẽ vi phạm nguyên tắc của TTDS đồng thời

ảnh hưởng đến quyền bình đẳng trước pháp luật và quyền được tiếp cận công lý của

người dân. VKSND tỉnh đã ban hành kiến nghị đối với Chánh án TAND tỉnh Đắk

Lắk về việc các TAND cấp huyện, thị xã, thành phố trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk giải

quyết các vụ án dân sự đã có vi phạm nêu trên trong 29 bản án giải quyết vụ án dân

sự.

- Kiến nghị đối với các cơ quan, tổ chức liên quan trong việc phòng ngừa vi

phạm pháp luật trong việc giải quyết các vụ, việc dân sự, hôn nhân và gia đình:

Kiến nghị đối với Chủ tịch UBND huyện về việc xử lý vi phạm và áp dụng biện

pháp phòng ngừa vi phạm pháp luật trong việc chuyển nhượng QSDĐ và cấp giấy

chứng nhận QSDĐ; phòng ngừa vi phạm trong công tác chứng thực, đăng ký kết

hôn; phòng ngừa tình trạng ly hôn trong các tranh chấp về hôn nhân và gia đình,

hạn chế tảo hôn và hôn nhân cận huyết thống trong đồng bào dân tộc thiểu số.

Điển hình: Trong công tác kiểm sát giải quyết các vụ việc dân sự sơ thẩm và

phúc thẩm đối với các vụ án tranh chấp QSDĐ. VKSND các cấp xem xét kiến nghị

khi phát hiện công tác quản lý, chấp hành pháp luật về đất đai trong các hoạt động:

đăng ký, giao đất, cấp Giấy chứng nhận QSDĐ của cơ quan có thẩm quyền còn vi

phạm, thiếu sót. Cụ thể: Thứ nhất, Cấp giấy chứng nhận QSDĐ, sơ đồ kèm theo

không đúng với diện tích được cấp. Dẫn đến người được cấp giấy chứng nhận

QSDĐ căn cứ vào sơ đồ để khởi kiện. Thứ hai, Thủ tục cấp giấy chứng nhận QSDĐ

không theo trình tự quy định của pháp luật về đất đai. Các vụ án này là tranh chấp

QSDĐ giữa bố, mẹ và các con. Uỷ ban nhân dân cấp xã chỉ căn cứ vào tờ kê khai

của con đã xác nhận để làm thủ tục chuyển lên cấp trên, không cần có ý kiến của bố,

mẹ là người đang có giấy chứng nhận QSDĐ. Ủy ban nhân dân huyện cấp giấy

chứng nhận QSDĐ đã tiến hành các thủ tục thẩm định nhưng không phát hiện thiếu

sót để khắc phục dẫn đến vi phạm. Từ những vi phạm này là nguyên nhân xảy ra

tranh chấp trong nội bộ, gây nên bất hoà trong gia đình. Thứ ba, Việc lập hồ sơ cấp

75

giấy chứng nhận, giao đất lâm nghiệp không cụ thể để xảy ra tranh chấp: Các hộ

không được giao đất cụ thể nên làm không đúng lô, thửa, diện tích theo giấy chứng

nhận. Khi lập hồ sơ, giao đất không có quyết định thu hồi các diện tích hộ khác

đang canh tác hoặc ghi đất trống đồi núi trọc nhưng lại có cây rừng trồng. Các hộ

này đã sử dụng đất ổn định nhiều năm, chỉ khi chuyển nhượng kiểm tra lại mới phát

hiện ra là đất không đúng với giấy chứng nhận. Điều này gây khó khăn cho việc thu

thập chứng cứ để giải quyết tranh chấp một cách đúng đắn. Gây nên những tranh

chấp, mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân. Ngoài ra việc các hộ dân sau khi được giao

đất rừng không sử dụng đúng mục đích trồng rừng được giao, nhưng cơ quan có

thẩm quyền không có biện pháp giải quyết xử lý. Thứ tư: Thông qua việc giải quyết

các vụ án nêu trên thấy: Việc lưu trữ hồ sơ, các quyết định cấp giấy chứng nhận

QSDĐ tại cơ quan nhà nước chưa đầy đủ. Người được cấp giấy chứng nhận QSDĐ

trình bày chỉ được nhận giấy chứng nhận còn quyết định cấp giấy chứng nhận thì

không được giao, xác minh tại UBND hai cấp thì không lưu trữ. Điều này gây khó

khăn cho việc khi Toà án tuyên huỷ các quyết định cá biệt. Thứ năm: Trong đơn

đăng ký cấp giấy chứng nhận QSDĐ yêu cầu cấp cho cá nhân. Tuy nhiên trong

Giấy chứng nhận là QSDĐ lại thể hiện cấp cho hộ gia đình, dẫn đến gây khó khăn

cho việc xác định QSDĐ là tài sản riêng hay chung của hộ gia đình. Thứ sáu: Tòa

án có công văn yêu cầu cơ quan có thẩm quyền trong việc cấp Giấy chứng nhận

QSDĐ và lưu trữ hồ sơ cung cấp tài liệu, chứng cứ để giải quyết vụ án. Tuy nhiên

có những vụ án Tòa án đã ra Quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án nhiều năm để

chờ kết quả trả lời của cơ quan có thẩm quyền, nhưng vẫn chưa nhận được công văn

phúc đáp theo yêu cầu.

Đặc biệt, VKSND tỉnh đã ban hành “Thông báo rút kinh nghiệm về việc ban

hành kiến nghị”; trong đó tổng hợp 19 văn bản kiến nghị của 15 đơn vị VKS cấp

huyện và của phòng nghiệp vụ; rút ra 28 dạng vi phạm để các đơn vị cấp huyện

nghiên cứu vận dụng trong việc ban hành văn bản kiến nghị đối với Tòa án khi phát

hiện có vi phạm.

76

Nhìn chung, ngoài những kiến nghị phát hiện kịp thời vi phạm của Tòa án thì

còn một số kiến nghị của VKS cấp huyện chưa chú ý tổng hợp vi phạm để kiến nghị

yêu cầu Tòa án khắc phục, nhất là vi phạm về thời hạn gửi bản án, quyết định,

chuyển hồ sơ cho VKS theo quy định. Chất lượng văn bản kiến nghị nói chung tuy

đã được chú ý nâng lên nhưng thực tế vẫn còn một số văn bản kiến nghị chất lượng

chưa cao, chưa thật sự thuyết phục do nội dung văn bản dài dòng, lập luận thiếu

chặt chẽ, không viện dẫn Điều luật. Tuy nhiên trong Luật Tổ chức VKSND năm

2014 lại không quy định cụ thể thời gian bao nhiêu ngày, các cơ quan, tổ chức cá

nhân có trách nhiệm xem xét, giải quyết, trả lời kiến nghị cho VKSND. Trong các

đạo luật về tư pháp, có một số đạo luật có quy định cụ thể, có đạo luật không quy

định cụ thể hoặc quy định không thống nhất về thời gian mà các cơ quan, tổ chức,

cá nhân được kiến nghị phải trả lời cho VKSND. Vì trên thực tế vẫn có trường hợp

sau khi nhận được kiến nghị các cơ quan không trả lời kiến nghị của VKS, chậm trả

lời kiến nghị nhưng luật vẫn chưa quy định biện pháp cụ thể để khắc phục tình trạng

trên, nên việc thực hiện khắc phục vi phạm chỉ mang tính chất đối phó.

Kháng nghị:

Trong những năm qua, VKSND tỉnh Đắk Lắk đã quán triệt thực hiện nghiêm

túc các văn bản, quy định của VKSND tối cao về công tác kháng nghị phúc thẩm

dân sự; hàng năm trong kế hoạch công tác luôn xác định nhiệm vụ thực hiện quyền

kháng nghị phúc thẩm dân sự là nhiệm vụ trọng tâm, đột phá; đồng thời đề ra nhiều

giải pháp cụ thể, phù hợp để nâng cao hiệu quả, hiệu lực thực hiện quyền kháng

nghị của VKSND hai cấp qua từng năm; số lượng, chất lượng kháng nghị vượt chỉ

tiêu của Ngành và Quốc hội giao. Đa số các kháng nghị đều được chấp nhận, đảm

bảo các bản án của Tòa án được ban hành đúng pháp luật, góp phần bảo vệ lợi ích

của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân và ổn định tình hình

chính trị, xã hội ở địa phương.

Thực hiện Chỉ thị công tác hàng năm của ngành kiểm sát nhân dân và các

Chỉ thị chuyên đề của Viện trưởng VKSND tối cao về tăng cường công tác kháng

nghị phúc phẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm các vụ án hành chính, vụ việc dân sự;

77

VKSND tỉnh Đắk Lắk trong kế hoạch công tác kiểm sát từ năm 2020 đến nay luôn

chọn nhiệm vụ đột phá là:“Nâng cao số lượng, chất lượng kháng nghị phúc thẩm,

tăng cường kháng nghị phúc thẩm ngang cấp”; VKS hai cấp đã thực hiện tốt chức

năng kiểm sát việc thụ lý, giải quyết của Tòa án đối với các vụ án dân sự; chú trọng

nghiên cứu, kiểm sát bản án, quyết định sơ thẩm, kịp thời phát hiện vi phạm để

kháng nghị phúc thẩm; số lượng và chất lượng kháng nghị phúc thẩm từng bước

được nâng lên, hạn chế mức thấp nhất tỷ lệ án hủy, sửa nhưng không có kháng nghị

của VKS. Lãnh đạo VKS hai cấp đã quan tâm, lãnh đạo, chỉ đạo sát sao đối với việc

thực hiện công tác kháng nghị; xác định được tầm quan trọng của công tác kháng

nghị phúc thẩm; lựa chọn khâu đột phá để tập trung lãnh đạo, chỉ đạo; bố trí, sắp

xếp cán bộ phù hợp đáp ứng được yêu cầu công tác. Chú trọng nâng cao trách

nhiệm của KSV trong việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của ngành. Xác định việc

phát hiện vi phạm để ban hành kháng nghị là một trong những chỉ tiêu quan trọng

để đánh giá kết quả công tác. Việc phối hợp giữa VKS hai cấp trong công tác kháng

nghị phúc thẩm tiếp tục được tăng cường, một số đơn vị VKS cấp huyện đã chủ

động, kịp thời báo cáo các vi phạm của Tòa án để VKS tỉnh xem xét kháng nghị,

đồng thời Phòng nghiệp vụ cũng đã hướng dẫn VKS cấp dưới để đảm bảo thực hiện

tốt chức năng, thẩm quyền.

Số lượng kháng nghị phúc thẩm: Từ 01/12/2020 đến 30/11/2023 hai cấp

VKSND tỉnh Đắk Lắk đã ban hành 164 kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm. Số vụ

VKS kháng nghị, Toà án đã giải quyết là 152 vụ, trong đó: VKS rút kháng nghị: 07

vụ do phát sinh tình tiết mới tại phiên toà hoặc Toà án cấp phúc thẩm đã thu thập bổ

sung đầy đủ chứng cứ. Tòa án xét xử: 145 vụ. Hội đồng xét xử chấp nhận kháng

nghị: 131 vụ, đạt 90,3%; không chấp nhận kháng nghị 14 vụ = 9,7%. Nội dung

kháng nghị chủ yếu là: Vi phạm trong việc nhận, giao nộp tài liệu, chứng cứ; xác

định sai tư cách người tham gia tố tụng, thiếu người tham gia tố tụng; vi phạm về

thủ tục cấp, tống đạt, thông báo văn bản tố tụng cho đương sự vắng mặt; vi phạm về

án phí dân sự sơ thẩm, tính sai án phí; xác định sai, thiếu quan hệ tranh chấp; giải

quyết vụ án không triệt để; thu thập chứng cứ chưa đầy đủ; xác định lãi suất không

78

đúng; giải quyết vượt quá phạm vi khởi kiện, không đúng phạm vi khởi kiện của

nguyên đơn; xác định nghĩa vụ chịu chi phí tố tụng không đúng; chưa giải quyết hậu

quả của hợp đồng vô hiệu; án tuyên không rõ nên không đảm bảo cho công tác thi

hành án; vi phạm về việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời…

Điển hình 1: Tại Bản án sơ thẩm số 57/2021/DSST ngày 08/12/2021 của

TAND thị xã Buôn Hồ đã có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng, giải quyết vụ án

chưa khách quan, triệt để, tuyên án không thể thi hành ảnh hưởng đến quyền và lợi

ích hợp của đương sự, cụ thể: Bị đơn có yêu cầu phản tố về việc hủy Giấy CNQSDĐ

cấp cho ông Út. Tòa án đã thụ lý yêu cầu phản tố của bị đơn theo quy định. Tuy nhiên

án sơ thẩm cho rằng ông Út là người đứng tên trên Giấy CNQSDĐ, đồng thời là

nguyên đơn yêu cầu chia thừa kế đối với thửa đất trên, di sản được phân chia sẽ biến

động, không cần thiết xem xét yêu cầu hủy Giấy CNQSDĐ là giải quyết vụ án chưa

đầy đủ, vi phạm Điều 5 BLTTDS năm 2015. Ngân hàng và ông Út bà Vân ký hợp

đồng tín dụng ngày 04/3/2021 để vay 300.000.000đ, thời hạn vay 36 tháng, lãi suất

11,5%/năm. Đến thời điểm xét xử thì khoản vay trên chưa đến hạn. Như vậy ông Út

bà Vân vay tiền chưa đến hạn, do ông Sáng có yêu cầu hủy hợp đồng thế chấp nên

Ngân hàng khởi kiện yêu cầu ông Út bà Vân trả khoản vay trên. Trong trường hợp

này Ngân hàng chưa đủ điều kiện khởi kiện vì khoản vay chưa đến hạn trả theo quy

định tại điểm b khoản 1 Điều 192 BLTTDS. Án sơ thẩm tuyên ông Hóa và ông Sáng

có nghĩa vụ hoàn trả giá trị di sản thừa kế cho những người kế thừa quyền và nghĩa vụ

tố tụng của bà Liên là chồng ông Sơn và các con là chị Liêm và chị Hồng tổng số tiền

548.034.700đ. Đồng thời phải họ phải liên đới chịu án phí số tiền 25.921.000đ, nhưng

không xác định cụ thể số tiền mỗi người được hưởng và nghĩa vụ chịu án phí của là

tuyên án không rõ, gây khó khăn cho công tác thi hành án. Ngoài ra án sơ thẩm giao

toàn bộ diện tích 313m2, thửa 109, trên đất có 03 căn nhà cho ông Sáng và ông Hóa,

nhưng không tuyên diện tích tứ cận và tài sản cụ thể mỗi người được giao là không

đảm bảo công tác thi hành án. VKSND tỉnh đã kháng nghị bản án nêu trên và được

Tòa án chấp nhận.

79

Điển hình 2: Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 45/2021/DSST ngày 26/9/2021

TAND huyện Ea Kar xác định thiếu người tham gia tố tụng, thu thập chứng cứ chưa

đầy đủ: Tại thời điểm các bên giao đất trên thực địa có nhờ ông Phùng Văn Hiếu

(nguyên là cán bộ địa chính; hiện nay là Phó chủ tịch UBND xã Ea Ô) tiến hành đo

đạc đất và làm thủ tục sang tên, cấp Giấy CNQSDĐ cho gia đình bà Mến. Năm

2009, UBND huyện Ea Kar căn cứ vào biên bản kiểm tra xác minh ranh giới, hiện

trạng và nguồn gốc sử dụng đất của UBND xã Ea Ô và kết quả thẩm tra của Văn

phòng đăng ký QSDĐ huyện Ea Kar để cấp Giấy CNQSDĐ đối với thửa đất số 504,

tờ bản đồ số 6 cho ông Nguyên bà Mến nhưng Tòa án không đưa UBND xã Ea Ô

và UBND huyện Ea Kar vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi và

nghĩa vụ liên quan; không tiến hành lấy lời khai của ông Hiếu, UBND xã Ea Ô và

UBND huyện Ea Kar để làm rõ tại thời điểm chuyển nhượng QSDĐ, ông Bình, bà

Tâm và ông Nguyên, bà Mến thỏa thuận lấy điểm mốc ở vị trí nào để đo 20m mặt

đường nhựa, kéo dài từ phần tiếp giáp ranh đất của nhà ông Tỉnh về phía Bắc thì

đến vị trí nào của thửa đất số 423; Tòa án không tiến hành thu thập tài liệu và đo

đạc để xác định cụ thể vị trí, tứ cận, độ dài các cạnh của thửa đất số 504 và thửa đất

số 423 đã được cấp Giấy CNQSDĐ có đúng với sơ đồ giải thửa ban đầu hay không;

không xác minh làm rõ phần diện tích 259,6m² mà các bên đang tranh chấp đã được

cấp Giấy CNQSDĐ cho ai, thuộc thửa đất nào là thu thập chứng cứ chưa đầy đủ.

Tại đơn khởi kiện, nguyên đơn yêu cầu Tòa án giải quyết buộc bị đơn trả lại diện

tích đất lấn chiếm 700m2 bao gồm phần đất đã được cấp Giấy CNQSDĐ; phần đất

trước và sau chưa được cấp Giấy CNQSDĐ, Tòa án đã thụ lý yêu cầu khởi kiện của

nguyên đơn tuy nhiên tại phần quyết định của bản án sơ thẩm tuyên “Đối với phần

tổng diện tích 352,5m2 thuộc đất suối, đất ủy ban quản lý, sử dụng không được cấp

Giấy CNQSDĐ, không thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án, nên không có cơ sở

xem xét, giải quyết” là không đúng quy định pháp luật, giải quyết không hết yêu cầu

khởi kiện của nguyên đơn và không tuyên án về phần không chấp nhận để tính án

phí là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng. VKSND huyện Ea Kar ban hành kháng

nghị đối với bản án trên và được Tòa án chấp nhận.

80

Điển hình 3: Bản án dân sự sơ thẩm số 22/2021/DS-ST ngày 15/7/2021 của

TAND huyện Krông Búk, vụ án:“Phân chia di sản thừa kế” giữa Nguyên đơn: bà

Nguyễn Thị Liên, chị Trần Thị Hương, chị Trần Thị Hồng với Bị đơn: bà Trần Thị

Hương đã có vi phạm về việc xác định và phân chia di sản thừa kế, cụ thể: Ông

Bông chết không để lại di chúc. Án sơ thẩm xác định và phân chia di sản thừa kế

chưa bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự. Cụ thể: Đối với Thửa

đất số 151b: tại biên bản định giá tài sản ngày 21/02/2020 hội đồng định giá đã định

giá theo giá thị trường là 2.268.000.000đ và giá trị tài sản trên đất là 356.654.443đ.

Nhưng án sơ thẩm chỉ xem xét và chia giá trị QSDĐ mà không chia tài sản trên đất

là giải quyết chưa hết yêu cầu của đương sự. Đối với Thửa đất số 43: Kết quả xác

minh đất thuộc quản lý Công ty Sản xuất kinh doanh Lâm nông nghiệp Chư Né

(Công ty) được UBND tỉnh thu hồi giao cho địa phương quản lý. Cấp sơ thẩm

không đưa UBND huyện Krông Búk và Công ty Chư Né tham gia tố tụng để làm rõ

quyền và nghĩa vụ giữa các bên liên quan đến các giao dịch từ hợp đồng giao khoán,

việc thanh lý hợp đồng là thiếu người tham gia tố tụng. Xét thấy, nguồn gốc thửa

đất, quyền và nghĩa vụ của các bên chưa được làm rõ nhưng cấp sơ thẩm đã xác

định là di sản đồng thời phân chia di sản là không có khả năng thi hành án, ảnh

hưởng đến quyền và lợi ích của UBND huyện Krông Búk và Công ty Chư Né. Đối

với các tài sản tạo lập trên đất: chưa được cấp sơ thẩm làm rõ do ai tạo lập, đầu tư,

chăm sóc và quản lý để xem xét, tính giá trị tài sản trên đất. Quá trình tố tụng người

liên quan anh Thọ trình bày các tài sản trên thửa đất do anh tạo lập chăm sóc, quản

lý nhưng cấp sơ thẩm không xác minh, thu thập mà đã xác định di sản là vi phạm

nghiêm trọng thủ tục tố tụng; ảnh hưởng đến quyền và lợi ích của đương sự. Đối với

các thửa đất số 46, 56 và 92: nằm ngoài diện tích đất hợp đồng với Công ty Chư

Né. Kết quả xác minh thể hiện đất do hộ ông Bông khai hoang năm 1999, anh Thọ

cho rằng diện tích đất anh Thọ quản lý canh tác 06ha. Tuy nhiên, trong đó chỉ có

03ha là đất do Lâm trường Cư Né cũ giao hợp đồng cho gia đình anh Thọ; còn lại là

đất do anh khai hoang gồm 02ha đất và 01 ha đất hồ và rừng, việc khai hoang vào

khoảng thời gian trước khi ông Bông chết khoảng 01 năm rưỡi. Xét thấy, tại đơn

81

khởi kiện nguyên đơn yêu cầu chia 4,5ha, quá trình tố tụng thay đổi yêu cầu từ 4,5

ha lên 6,4ha, lời khai của anh Thọ và kết quả xác minh tại UBND xã Ea Sin về

nguồn gốc đất có sự mâu thuẫn nhưng cấp sơ thẩm chưa thu thập tại chính quyền

địa phương, các hộ có đất giáp ranh về quá trình khai hoang, quản lý, sử dụng và tạo

lập tài sản trên 03 thửa đất trên mà xác định là di sản của ông Bông là chưa khách

quan. Án sơ thẩm phân chia di sản nhưng không xem xét yêu cầu của nguyên đơn

được chia bằng hiện vật mà chia giá trị bằng tiền, trong khi các thửa đất số 43, 46,

56, 92 có diện tích 6,4ha và liền kề nhau đảm bảo điều kiện về diện tích tối thiểu,

công năng sử dụng; do đó, cần ưu tiên chia bằng hiện vật. VKSND huyện Krông

Búk ban hành kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm, Hội đồng xét xử phúc thẩm đã

chấp nhận kháng nghị.

Qua số liệu nêu trên cho thấy, một số đơn vị VKSND cấp huyện đã có sự chú

trọng đúng mức đến công tác kháng nghị án dân sự ngang cấp cả về số lượng và

chất lượng. Qua thực hiện công tác kháng nghị phúc thẩm đã khắc phục sai sót của

án sơ thẩm về nhiều nội dung, qua đó đã khắc phục những vi phạm nghiêm trọng về

thủ tục TTDS; Đồng thời, thông qua việc kháng nghị phúc thẩm, các đơn vị đã thể

hiện rõ quan điểm của mình trong kiểm sát giải quyết các vụ việc dân sự; đảm bảo

cho việc áp dụng pháp luật được nghiêm chỉnh và thống nhất; đảm bảo quyền và lợi

ích hợp pháp của đương sự. Thông qua công tác kiểm sát bản án, các KSV được

phân công đã nghiên cứu kỹ bản án cả về nội dung và hình thức, sau đó đánh giá

nhận xét trên phiếu kiểm sát bản án để trình Lãnh đạo đơn vị đề xuất kháng nghị

hay không kháng nghị, nếu kháng nghị nêu rõ căn cứ pháp luật cần áp dụng. Trường

hợp quá thời hạn kháng nghị phúc thẩm của cấp mình mới phát hiện vi phạm, đã kịp

thời báo cáo qua Phòng 9 để kháng nghị theo đúng quy định của ngành. Khi phát

hiện có vi phạm đến mức phải kháng nghị đã cương quyết kháng nghị và trước khi

kháng nghị đã có sự trao đổi đối với các phòng nghiệp vụ của VKSND tỉnh nhằm

đảm bảo việc kháng nghị là cần thiết, có căn cứ và đúng pháp luật. Nhiều kháng

nghị đã phát hiện đúng, viện dẫn chính xác căn cứ pháp luật; tuân thủ đúng hướng

dẫn và mẫu của ngành; lập luận rõ ràng, chặt chẽ, do vậy những thiếu sót, hạn chế

82

về mặt hình thức, tính thiếu căn cứ trong các bản kháng nghị nên cấp trên bảo vệ

kháng nghị đạt tỷ lệ cao. So với 12 tỉnh khu vực miền Trung – Tây nguyên thì

ngành Kiểm sát nhân dân có số lượng kháng nghị nhiều nhất, chất lượng tương đối

tốt. Điều đó thể hiện, ngoài việc nghiên cứu nắm vững chứng cứ có trong hồ sơ vụ

án cũng như các quy định của pháp luật có liên quan, các đơn vị đã thể hiện đã chú

trọng đến công tác kháng nghị, đảm bảo cho pháp luật được thực hiện nghiêm chỉnh

và thống nhất; các quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự được bảo vệ, góp phần

xây dựng hình ảnh, uy tín của ngành Kiểm sát nhân dân nói chung và ngành Kiểm

sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk nói riêng. Ngoài ra, công tác phối hợp giữa các VKS cấp

huyện và Phòng nghiệp vụ; giữa Phòng nghiệp vụ với VKSND cấp cao tại Đà nẵng

được thường xuyên, chặt chẽ, kịp thời đạt hiệu quả tốt; các kháng nghị ngang cấp

của VKS cấp tỉnh được bảo vệ đạt tỷ lệ 100%, các kháng nghị ngang cấp của VKS

cấp huyện được bảo vệ đạt tỷ lệ trên 90% (vượt chỉ tiêu).

Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được thì công tác kháng nghị phúc

thẩm trong lĩnh vực dân sự giữa các đơn vị còn chưa đồng đều, về số lượng, chất

lượng kháng nghị còn hạn chế; nhiều vụ việc Toà án cấp phúc thẩm tuyên huỷ, sửa

bản án, quyết định có vi phạm của Tòa án cấp sơ thẩm nhưng VKS hai cấp không

phát hiện vi phạm để ban hành kháng nghị; chất lượng một số kháng nghị chưa cao.

Một số kháng nghị phần nội dung quá dài dòng, ngoài ghi lời khai nguyên đơn, bị

đơn, tất cả những người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan và còn ghi cả lời khai

nhân chứng, một số kháng nghị viết lặp đi lặp lại phần nội dung vụ án ở phần nhận

thấy. Kháng nghị dài dòng vừa mất thời gian vừa gây khó khăn cho KSV nghiên

cứu và bảo vệ kháng nghị, cũng như gây khó khăn cho Hội đồng xét xử khi nghiên

cứu, đánh giá và quyết định giải quyết các yêu cầu của kháng nghị.

Một trong những nguyên tắc của BLTTDS là tôn trọng quyền quyết định và

tự định đoạt của đương sự, nên khi đương sự không kháng cáo thì VKS không

kháng nghị, trừ những trường hợp vi phạm nghiêm trọng về tố tụng ảnh hưởng đến

quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự. Khi Toà án cấp sơ thẩm tuyên bản án nếu

đương sự đã thống nhất với bản án họ sẽ không kháng cáo hoặc nếu không thống

83

nhất một phần trong bản án thì họ chỉ kháng cáo phần không thống nhất đó. Tuy

nhiên một số VKS cấp huyện kháng nghị huỷ toàn bộ bản án, điều này làm ảnh

hưởng chất lượng kháng nghị, giảm uy tín của Ngành, tạo tâm lý nghi ngờ, hoang

mang cho đương sự, buộc họ phải làm đơn đề nghị kháng nghị giám đốc thẩm.

Thực tế có một số VKS cấp huyện, thị xã, thành phố đưa ra lý do kháng nghị bản

án, quyết định của Tòa án sơ thẩm là không cần thiết, dẫn đến VKS tỉnh phải rút

kháng nghị.

2.3 Đánh giá chung về trách nhiệm của VKSND tỉnh Đắk Lắk trong bảo

vệ QCN thông qua hoạt động kiểm sát giải quyết các vụ việc dân sự

2.3.1 Thành tựu, ưu điểm và nguyên nhân

2.3.1.1 Thành tựu, ưu điểm

Về công tác lãnh đạo của cấp ủy Đảng: Công tác kiểm sát giải quyết án dân sự

tại VKSND tỉnh Đắk Lắk đã được cấp ủy Đảng quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo. Trong

tổ chức và hoạt động của VKS luôn tuân thủ sự lãnh đạo của Đảng, coi đây là

nguyên tắc, là yếu tố quyết định đến chất lượng công tác kiểm sát.

Về công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành của Lãnh đạo Viện: Lãnh đạo VKS

chủ động đề ra các giải pháp đề cao trách nhiệm, tính chủ động, sáng tạo, sâu sát

trong quản lý chỉ đạo điều hành, nắm tiến độ thực hiện nhiệm vụ của đơn vị nghiệp

vụ, kịp thời chỉ đạo tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện công tác

kiểm sát. Ngay sau khi dự Hội nghị triển khai công tác hàng năm do VKSND tối

cao tổ chức, lãnh đạo VKS tỉnh đã chỉ đạo xây dựng kế hoạch, chương trình công

tác của đơn vị trên cơ sở bám sát vào Chỉ thị công tác của Viện trưởng VKSND tối

cao và tình hình chính trị địa phương. Hàng năm, Viện trưởng VKS tỉnh đều ban

hành các kế hoạch về công tác kiểm tra, thanh tra, hội nghị, hội thảo, tập huấn, sơ

kết, tổng kết các chuyên đề ngay từ đầu năm công tác. Theo đó, mỗi năm VKS tỉnh

đã chủ trì tổ chức được từ 02 đến 03 hội nghị. Thành phần tham dự là toàn thể Lãnh

đạo và cán bộ, KSV làm công tác kiểm sát giải quyết án dân sự. Tại các buổi hội

nghị, Lãnh đạo Viện đã trực tiếp triển khai các quy định mới của pháp luật về chức

84

năng, nhiệm vụ của VKS trong TTDS, các Chỉ thị của Viện trưởng VKSND tối cao

đến cán bộ, KSV. Kết quả đã triển khai được những quy định mới của pháp luật,

đánh giá lại thực tiễn công tác, những ưu điểm, hạn chế, khó khăn, vướng mắc trong

thực hiện nhiệm vụ được giao. Lãnh đạo Viện cũng tăng cường công tác kiểm tra,

theo dõi, đôn đốc việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của phòng nghiệp vụ, chỉ đạo

cán bộ, KSV tăng cường kỷ cương, kỷ luật, đề cao tinh thần trách nhiệm trong thực

hiện nhiệm vụ.

Về xây dựng, củng cố đội ngũ cán bộ, KSV về số lượng, chất lượng: Trong

những năm qua, VKSND tỉnh Đắk Lắk đã tập trung tăng cường cho Phòng Nghiệp

vụ kiểm sát các vụ án dân sự 10 biên chế, trong đó có 05 KSV trung cấp, 03 KSV

sơ cấp, 02 Chuyên viên để thực hiện nhiệm vụ, có 08/8 KSV đã qua đào tạo Lý luận

chính trị ở các bậc trung cấp, cao cấp và 08/8 KSV đã qua đào tạo, bồi dưỡng kiến

thức về QLNN. Nhìn chung, đội ngũ cán bộ, KSV đều có tư tưởng chính trị vững

vàng, phẩm chất đạo đức tốt, tận tụy với công việc sẵn sàng thực hiện và hoàn thành

tốt nhiệm vụ được giao. Lãnh đạo VKSND tỉnh Đắk Lắk thường xuyên chỉ đạo tăng

cường trách nhiệm của cán bộ, KSV trong việc kiểm sát các thông báo thụ lý, các

bản án, quyết định của Toà án để kịp thời phát hiện vi phạm, thực hiện quyền kháng

nghị, kiến nghị theo quy định pháp luật và tạo được sự chuyển biến tích cực trong

công tác nghiệp vụ; trong đó kiểm sát các bản án, quyết định của Tòa án và chuyển

bản án, quyết định sơ thẩm lên VKS cấp phúc thẩm đã được chú trọng hơn.

Lãnh đạo phòng 9-VKSND tỉnh đã phân công KSV, chuyên viên mở sổ ghi

chép theo dõi việc thụ lý của Toà án, Kiểm sát chặt chẽ về hình thức và nội dung

thông báo đối chiếu với quy định tại pháp luật tố tụng; lập phiếu kiểm sát để kiểm

sát quá trình giải quyết vụ việc, đảm bảo tất cả các vụ việc đều được kiểm sát. Các

vụ án tham gia xét xử đều lập hồ sơ kiểm sát đầy đủ. Cán bộ, KSV thường xuyên

cập nhật, nghiên cứu những văn bản pháp luật để phục vụ tốt cho công việc chuyên

môn. Hoạt động kiểm sát xét xử tại phiên tòa đã được các KSV chú trọng, thể hiện

ở khâu lập hồ sơ kiểm sát đầy đủ, sắp xếp khoa học, nghiên cứu kỹ hồ sơ và có báo

cáo đề xuất quan điểm giải quyết đối với vụ án, sau đó trình Lãnh đạo Viện. VKS

85

đáp ứng yêu cầu tham gia các phiên tòa theo TTDS và đã tham gia xét xử đạt tỉ lệ

100%. Quan điểm của VKS phần lớn thống nhất với Tòa án. Đối với các vụ án bị

cấp phúc thẩm sửa, hủy án sơ thẩm (kể cả những vụ có kháng nghị và những vụ

không có kháng nghị) đều tổng hợp thông báo rút kinh nghiệm đối với cấp huyện,

qua đó, giúp cho cán bộ, KSV các đơn vị tích lũy kinh nghiệm và kỹ năng kiểm sát

phát hiện vi phạm. Kỹ năng và trách nhiệm của KSV tại phiên tòa đã được nâng cao

đáng kể; nhận thức về vai trò và trách nhiệm của những người tham gia tố tụng

trong quá trình kiểm sát việc giải quyết các vụ, việc dân sự, hôn nhân và gia đình

cũng đã được cán bộ và KSV nhận thức rõ ràng hơn. Qua đó đã góp phần xây dựng

đội ngũ cán bộ và KSV của Ngành ngày càng trưởng thành, đáp ứng tốt hơn yêu

cầu và nhiệm vụ trong tình hình mới.

Về quan hệ phối hợp trong ngành: Trên cơ sở Quy chế nghiệp vụ của Ngành,

trong chương trình, kế hoạch công tác hàng năm, sự phối hợp của VKS các cấp

trong công tác kiểm sát việc giải quyết án dân sự được VKSND tỉnh Đắk Lắk đề

cao, điển hình trong công tác báo cáo, trả lời thỉnh trị, báo cáo kết quả xét xử, việc

gửi phiếu kiểm sát bản án và công tác hướng dẫn, chỉ đạo nghiệp vụ. Công tác phối

hợp đã được VKS các cấp thực hiện tốt. Ngoài ra, nhiều công văn trao đổi nghiệp

vụ và hướng dẫn áp dụng các quy định của Bộ luật Dân sự, BLTTDS đã được ban

hành cho VKSND cấp huyện. Năm 2018, 2019 ngành đã phối hợp với Trường đào

tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ kiểm sát tại TP. Hồ Chí Minh tổ chức 02 lớp tập huấn tại

VKSND tỉnh Đắk Lắk về: “Kỹ năng kiểm sát bản án, quyết định dân sự của Tòa

án; Kỹ năng thực hiện quyền kiến nghị, kháng nghị trong giải quyết các vụ việc dân

sự” và “Kỹ năng kiểm sát giải quyết các vụ việc dân sự” cho toàn ngành. Khi có

vướng mắc, phương tiện hỗ trợ mà đa số các cán bộ và KSV cấp huyện sử dụng là

việc gọi điện thoại hoặc gặp trực tiếp KSV quản lý huyện để thuận tiện trong việc

trao đổi. Phòng 9 đã xây dựng một số chuyên đề để tiếp tục tập huấn cho các

VKSND cấp huyện nghiên cứu vận dụng trên thực tiễn (trước khi có hướng dẫn,

quy định của VKSND tối cao);...

86

Về quan hệ phối hợp liên ngành: VKSND tỉnh Đắk Lắk giữ mối quan hệ

phối hợp tốt với Tòa án và các cơ quan chính quyền ở địa phương. Sau khi

BLTTDS năm 2015 có hiệu lực thi hành, giữa VKSND tỉnh Đắk Lắk và TAND tỉnh

Đắk Lắk đã tiến hành xây dựng quy chế phối hợp trong việc giải quyết án dân sự để

trên cơ sở nội dung của Quy chế, hai ngành sẽ phối hợp thực hiện tốt nhiệm vụ của

mình. Hiện nay, Quy chế đã được ký kết ban hành và tiến hành quán triệt, triển khai

thực hiện nghiêm túc và chủ động trong toàn ngành nhằm tiếp tục tâng cường, nâng

cao hiệu quả công tác phối hợp giữa VKSND và TAND trong công tác giải quyết

các vụ việc dân sự. Với Ủy ban nhân dân tỉnh và các cơ quan chính quyền địa

phương, VKS chưa xây dựng được quy chế phối hợp, tuy nhiên trong quá trình

công tác cũng tranh thủ sự đồng tình ủng hộ của các cơ quan này đề hoàn thành tốt

nhiệm vụ của ngành, của địa phương giao cho.

Về kết quả công tác kiểm sát: Trong lĩnh vực TTDS, chức năng kiểm sát việc

tuân theo pháp luật trong hoạt động xét xử vụ, việc dân sự của Tòa án được thực

hiện bởi VKSND các cấp. Điều này góp phần vào việc bảo vệ QCN trong TTDS

thông qua nhiệm vụ và quyền hạn của VKSND trong việc giải quyết các vụ, việc

dân sự. Nhiều vi phạm đã được phát hiện thông qua việc kiểm sát việc giải quyết

vụ, việc dân sự bởi VKS các cấp. Qua những hoạt động này, các quyền và lợi ích

hợp pháp của cá nhân, công dân đã được bảo vệ một cách quan trọng mà không bị

xâm hại. Qua hoạt động kiểm sát các bản án, quyết định dân sự, trong thời gian qua,

VKS các cấp đã phát hiện, ban hành nhiều kháng nghị phúc thẩm. Đa số những

kháng nghị này đã được chấp nhận bởi Tòa án (chiếm tỷ lệ cao), và được đưa ra xét

xử với tỷ lệ cao, thường vượt qua chỉ tiêu theo Nghị quyết của Quốc hội. Bên cạnh

đó, VKS các cấp còn phát hiện nhiều vi phạm của toà án để kịp thời ban hành kiến

nghị yêu cầu Toà án khắc phục. Các thông báo về việc rút kinh nghiệm nghiệp vụ

đã được ban hành đối với VKS cấp dưới nhằm mục đích kịp thời phát hiện và khắc

phục vi phạm. Qua quá trình thực hiện công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ, việc

dân sự, đã được nhận thấy rằng việc phát hiện các vi phạm của Tòa án chủ yếu

thông qua việc kiểm sát các bản án, quyết định, thông qua việc nghiên cứu hồ sơ vụ

87

án, và thông qua việc tham gia phiên tòa, phiên họp. Do đó, nhiều vi phạm của Tòa

án trong quá trình giải quyết các vụ, việc dân sự đã được phát hiện và từ đó đã ban

hành nhiều kháng nghị, kiến nghị để Tòa án khắc phục bởi VKS, trên cơ sở đó, các

quyền của người tham gia TTDS đã được bảo vệ. Nhiều kháng nghị phúc thẩm đã

được ban hành bởi VKSND hai cấp và đạt rất cao tỷ lệ chấp nhận từ Tòa án, các vụ

án được xét xử lại theo đúng quy định góp phần quan trọng để bảo vệ QCN.

2.3.1.2 Nguyên nhân của những kết quả đạt được:

Nguyên nhân khách quan: Những kết quả được đạt được như trên là thành tựu

của sự quan tâm đặc biệt đến công tác tư pháp từ Đảng và Nhà nước trong những

năm qua, trong đó Nghị quyết 49 – NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về

Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 là điều đáng chú ý. Để thực hiện chủ

trương của Đảng thì hệ thống văn bản pháp luật cũng được hoàn thiện hơn để đáp

ứng yêu cầu đặt ra. Nhận thức được tầm quan trọng và để thực hiện Nghị quyết nêu

trên của Đảng, VKS đã tích cực, chủ động trong việc thực hiện các chức năng,

nhiệm vụ, đổi mới cơ cấu, tổ chức, công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành cũng như

tăng cường công tác phối hợp với các chủ thể liên quan để tạo tiền đề cho việc thực

hiện tốt các nhiệm vụ chính trị mà Đảng và Nhà nước giao. Cấp ủy Đảng đã có

nhiều đổi mới trong phương thức lãnh đạo, chỉ đạo đối với công tác kiểm sát giải

quyết án dân sự. Không chỉ dừng lại ở việc lãnh đạo, chỉ đạo thông qua các Chỉ thị,

Nghị quyết mà còn tăng cường công tác kiểm tra và chỉ đạo trực tiếp đối với những

vụ án phức tạp, dư luận quan tâm.

Lãnh đạo Viện đã có sự quan tâm chỉ đạo, kịp thời triển khai các văn bản pháp

luật mới đến toàn thể cán bộ - KSV làm công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ

việc Dân sự - Hôn nhân gia đình. Tạo điều kiện cho cán bộ - KSV được tham gia

tập huấn những quy định mới của BLTTDS, triển khai, phổ biến, rút kinh nghiệm

theo chuyên đề nghiệp vụ, tổ chức phiên tòa rút kinh nghiệm nhằm nâng cao, kỹ

năng, trình độ chuyên môn nghiệp vụ của KSV. Qua đó, chất lượng công tác kiểm

sát việc giải quyết các vụ, việc dân sự ngày càng được nâng lên.

88

Về quan hệ công tác giữa VKS với Tòa án trong việc giải quyết án trên

nguyên tắc phối hợp, tôn trọng, tạo điều kiện hỗ trợ nhau thực hiện tốt nhiệm vụ

như việc gửi bản án, quyết định, chuyển và trả hồ sơ, trao đổi nghiệp vụ. Có sự sắp

xếp, bố trí cán bộ, KSV phù hợp với năng lực, trình độ chuyên môn nghiệp vụ góp

phần nâng cao hiệu quả trong quá trình làm việc.

Nguyên nhân chủ quan: Quá trình thực hiện công tác kiểm sát, đơn vị đã triển

khai, vận dụng những quy định mới của BLTTDS năm 2015, Bộ luật Dân sự năm

2015, các Nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán, Thông tư hướng dẫn và các văn

bản pháp luật có liên quan để thực hiện việc kiểm sát tất cả các vụ, việc do Tòa án

thụ lý và giải quyết, bắt đầu từ khi Tòa án có thông báo trả lại đơn khởi kiện, thụ lý,

giải quyết vụ, việc cho đến khi Tòa án ra các quyết định và bản án. Bên cạnh đó,

đơn vị cũng đã bám sát kế hoạch công tác năm và quy chế công tác kiểm sát của

ngành và thực hiện các bước kiểm sát theo đúng trình tự, thủ tục và đảm bảo theo

đúng chức năng, nhiệm vụ của ngành trong việc thực hiện kiểm sát việc tuân theo

pháp luật trong TTDS. Các trường hợp VKS phải tham gia phiên tòa, phiên họp

theo quy định tại Điều 21 BLTTDS năm 2015 đều được KSV nghiên cứu, lập hồ sơ

và tham gia phiên tòa, phiên họp theo quy định, không để vụ nào Tòa án phải hoãn

phiên tòa do lỗi của KSV. Việc xây dựng hồ sơ kiểm sát đảm bảo theo đúng quy

định của Ngành. KSV tham gia phiên tòa đã sắp xếp các tài liệu có trong hồ sơ vụ

án hợp lý, khoa học, có trích cứu và phô tô những tài liệu, chứng cứ quan trọng để

phục vụ cho việc giải quyết vụ án. KSV đã đầu tư nghiên cứu kỹ và đã chọn lọc,

đánh giá các chứng cứ dùng làm căn cứ để giải quyết vụ án, quan điểm của VKS về

đường lối giải quyết vụ án thống nhất với quan điểm giải quyết vụ án của Hội đồng

xét xử. Tại phiên tòa, KSV đã tham gia xét hỏi và làm sáng tỏ các tình tiết của vụ

án. Bản phát biểu của KSV được chuẩn bị kỹ càng, việc nhận xét về việc tuân theo

pháp luật TTDS của Thẩm phán, Hội đồng xét xử và việc chấp hành pháp luật của

những người tham gia tố tụng, kể từ khi thụ lý vụ án đến trước khi Hội đồng xét xử

nghị án. Về nội dung đã phân tích được các vi phạm pháp luật trong việc thu thập

chứng cứ, vi phạm về thời hạn tố tụng và việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ của

89

đương sự, những người tham gia tố tụng khác và đề xuất quan điểm giải quyết vụ án

rõ ràng. Qua nghiên cứu hồ sơ và tham gia phiên tòa, phiên họp đã phát hiện nhiều

vi phạm của Tòa án trong việc thụ lý và giải quyết án dân sự và thực hiện các quyền

yêu cầu, kiến nghị, kháng nghị theo quy định. Đặc biệt, đơn vị luôn chú trọng và

thực hiện có hiệu quả Chỉ thị 10/CT-VKSTC ngày 06/4/2016 của Viện trưởng

VKSND tối cao về tăng cường công tác kháng nghị phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái

thẩm dân sự, hành chính. Có được kết quả đó là nhờ đội ngũ cán bộ, KSV luôn có

tinh thần trách nhiệm, có tâm với nghề, cầu tiến trong chuyên môn để kiểm sát việc

tuân theo pháp luật đối với các chủ thể hữu quan áp dụng pháp luật đúng quy định,

góp phần bảo vệ công lý, bảo vệ lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp

của công dân, tổ chức.

2.3.2 Tồn tại, hạn chế và nguyên nhân

2.3.2.1 Tồn tại, hạn chế

Bên cạnh những kết quả đạt được, quá trình thực hiện nội dung của công tác

kiểm sát giải quyết án dân sự vẫn còn những tồn tại, hạn chế đó là:

Trong công tác lãnh đạo, quản lý, chỉ đạo, điều hành của cấp ủy Đảng và Lãnh

đạo VKS: Sự lãnh đạo của cấp ủy Đảng đôi lúc chưa thường xuyên, kịp thời. Vì

vậy, vẫn còn một số vụ án dân sự bị người dân khiếu nại gay gắt đến cấp ủy do các

cơ quan tố tụng giải quyết chậm trễ so với thời hạn pháp luật quy định. Công tác

quản lý, chỉ đạo, điều hành tuy đã được sự quan tâm của Lãnh đạo VKS nhưng chưa

sâu sát, toàn diện. Về cơ bản, công tác chỉ đạo, điều hành chủ yếu dựa trên báo cáo

của KSV, việc trực tiếp nghiên cứu hồ sơ, sổ sách thụ lý giải quyết ít được thực

hiện, công tác thanh tra, kiểm tra chưa được tiến hành thường xuyên.

Trong cơ cấu tổ chức, bộ máy: Cơ cấu tổ chức bộ máy đã được đổi mới nhưng

chưa thật sự hợp lý, chưa đảm bảo tính chuyên sâu. Phòng nghiệp vụ phụ trách công

tác kiểm sát giải quyết án dân sự nhưng hiện nay còn phải kiêm nhiệm cả công tác

kiểm sát giải quyết án Hôn nhân gia đình, kiểm sát giải quyết đơn và kiểm sát bản

án, quyết định của cấp huyện (trong khi Tòa án tương ứng là 03 phòng ban riêng

90

biệt nên thuận tiện hơn trong việc phát hiện vi phạm). Mặc dù kiểm sát nhiều lĩnh

vực khác nhau nhưng về biên chế đơn vị chỉ có 05 KSV trung cấp (kể cả Lãnh đạo

phòng) vừa nghiên cứu, phô tô hồ sơ và thực hiện các hoạt động tố tụng; 03 KSV sơ

cấp và 02 Chuyên viên chính vừa kiêm nhiệm công tác văn phòng vừa nghiên cứu,

phô tô hồ sơ (KSV sơ cấp không được thực hiện các hoạt động tố tụng đối với án

thuộc thẩm quyền của cấp tỉnh). Đối với đội ngũ cán bộ, KSV cấp huyện phải kiêm

nhiệm nhiều bộ phận công tác cả hình sự lẫn dân sự, thậm chí làm cả mảng đơn,

mảng báo cáo thống kê chứ không như cán bộ, KSV cấp tỉnh làm ở phòng nào thì

chỉ nghiên cứu án của phòng đó. Do đó, cũng gây khó khăn cho quá trình thực hiện

việc kiểm sát giải quyết các vụ án dân sự.

Năng lực của đội ngũ cán bộ, KSV: Một số cán bộ, KSV năng lực còn hạn

chế, việc thực hiện các kỹ năng nghiệp vụ cũng như công tác tham mưu cho Lãnh

đạo Viện chưa đảm bảo yêu cầu. Các vụ án có vi phạm nhưng không được phát hiện

dẫn đến bị cấp phúc thẩm tuyên sửa, hủy án đều có liên quan đến trách nhiệm của

KSV do chưa làm tốt công tác kiểm sát. Kết quả thực hiện công tác kiểm sát mặc dù

đã được nâng cao qua từng năm nhưng nhìn chung còn thấp: Công tác kháng nghị

đã được quan tâm chú trọng nhưng vẫn còn kháng nghị chưa đảm bảo chất lượng

không được cấp phúc thẩm chấp nhận; Việc thực hiện các quyền yêu cầu còn hạn

chế, KSV vẫn chưa tự thực hiện các biện pháp thu thập chứng cứ mà chỉ yêu cầu

Tòa thu thập chứng cứ. Về phía người bị kiện nhiều trường hợp không cung cấp

chứng cứ cho Tòa án để làm căn cứ giải quyết vụ án nhưng VKS không kiến nghị

dẫn đến tình trạng vụ án thiếu chứng cứ không có cơ sở để giải quyết phải để kéo

dài.

Đối với cán bộ, KSV, bên cạnh công tác kiểm sát việc giải quyết án dân sự

theo thủ tục sơ thẩm, phúc thẩm do TAND tỉnh giải quyết thì còn phải hướng dẫn

nghiệp vụ cho VKS cấp huyện và kiểm sát bản án, quyết định sơ thẩm của Tòa án

cấp huyện. Các bản án, quyết định của Tòa án cấp huyện có vi phạm, sai sót mà

không được kháng nghị phúc thẩm thì có trách nhiệm của tập thể cán bộ, KSV của

phòng. Do đó, nếu làm tốt công tác hướng dẫn nghiệp vụ và kiểm sát các bản án,

91

quyết định của cấp huyện thì chất lượng công tác kiểm sát phúc thẩm sẽ được nâng

cao. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân khác nhau mà thời gian qua việc kiểm sát

bản án, quyết định Tòa án cấp huyện còn hạn chế.

Trong quan hệ phối hợp trong công tác của các chủ thể liên quan: Công tác

phối hợp trong ngành và liên ngành trong những năm qua đã được đề cao nhưng

việc phối hợp đôi lúc còn chưa tốt làm hạn chế hiệu quả công tác kiểm sát. Chưa

xây dựng được quy chế phối hợp với Ủy ban nhân dân địa phương trong việc giải

quyết án dân sự nên chưa tạo được sự hợp tác tích cực của Ủy ban nhân dân cũng

như các cơ quan chuyên môn ở địa phương trong việc tham gia quá trình giải quyết

vụ án cũng như việc cung cấp tài liệu, chứng cứ làm căn cứ giải quyết vụ án.

2.3.2.2 Nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế:

Nguyên nhân khách quan: Trong suốt những năm qua, đã có nhiều thay đổi về

chính sách và văn bản pháp luật liên quan đến đất đai, nhà ở, hôn nhân và gia đình,

dân sự. Một số văn bản pháp luật đã gây ra mâu thuẫn và chưa được các cơ quan có

thẩm quyền hướng dẫn kịp thời, gây khó khăn cho việc tiến hành tố tụng trong việc

nhận thức và áp dụng pháp luật. Mặc dù công tác xây dựng hoàn hiện pháp luật thời

gian qua đã được quan tâm, chú trọng nhưng thực tế áp dụng các quy định pháp luật

thấy còn nhiều bất cập nhất là những quy định của BLTTDS, quy định về chức

năng, nhiệm vụ của VKS trong TTDS được mở rộng nhưng nhiều nội dung còn bất

cập, không có tính khả thi. Một mặt khác, việc hướng dẫn và giải thích pháp luật

của cơ quan có thẩm quyền chưa được thực hiện đều đặn và đồng bộ, dẫn đến sự

không nhất quán trong việc nhận thức, đánh giá và áp dụng, gây khó khăn trong

việc giải quyết nhiều vụ án. Các vụ án bị huỷ hoặc sửa đổi chủ yếu là những vụ án

có nội dung phức tạp, điều chỉnh theo nhiều quy phạm pháp luật và trải rộng ở

nhiều giai đoạn trong lĩnh vực đất đai và nhà ở. Ngoài ra, tình hình biến động về đất

đai và tăng giá trị QSDĐ diễn ra thường xuyên ở một số địa phương; công tác quản

lý và cấp giấy chứng nhận QSDĐ của một số nơi còn nhiều sai sót trong việc điều

chỉnh diện tích thực tế sử dụng. Điều này gây ra tranh chấp ngày càng gay gắt và

phức tạp về QSDĐ. Hòa giải tại cơ sở cho tranh chấp về đất đai chỉ mang tính hình

92

thức và chưa được coi trọng theo mức cần thiết. Tại một số nơi, việc hòa giải không

được tiến hành theo quy trình hoặc không có sự tham gia toàn diện của các bên liên

quan. Các cơ quan quản lý Nhà nước về đất đai không hợp tác và thiếu thông tin

cho Tòa án hoặc không tuân theo yêu cầu xác minh của Tòa án theo qui định của

pháp luật trong khi giải quyết tranh chấp về đất đai, từ dó làm cho việc thu thập và

xác minh thông tin ở cấp sơ thẩm gặp rất nhiều khó khăn. Do tính chất phức tạp, rất

khó để phát hiện các vi phạm qua kiểm tra bản án và quyết định của Tòa án. Trong

lĩnh vực dân sự, VKSND không tham gia vào việc giải quyết tranh chấp và không

xem xét lại hồ sơ từ ban đầu. Việc như công nhận sự thỏa thuận của các bên liên

quan hoặc việc quyết định công nhận sự thỏa thuận, tạm hoãn... yêu cầu có hồ sơ

vụ, việc hoặc trực tiếp tham gia kiểm tra, hoặc có khiếu nại, yêu cầu từ các bên liên

quan mới có thể nghiên cứu để phát hiện vi phạm, thiếu sót của Tòa án. Như vậy,

điều này làm hạn chế công tác kiểm sát bản án và quyết dịnh này, nhất là ở VKS

cấp phúc thẩm chỉ kiểm sát trên cơ sở bản án và phiếu kiểm sát của VKS cấp huyện

gửi lên mà không trực tiếp nghiên cứu hồ sơ hay tham gia phiên toà như ở VKS cấp

sơ thẩm.

Nguyên nhân chủ quan: Năng lực và trình độ của đội ngũ KSV không đồng

đều, chủ yếu là những KSV mới bổ nhiệm hoặc mới được luân chuyển từ khâu công

tác kiểm sát này qua khâu công tác kiểm sát khác chưa được đào tạo kĩ, do đó chưa

thể thực hiện tốt công tác kiểm sát bản án, quyết định của Toà án theo tinh thần các

Chỉ thị về nâng cao chất lượng kiểm sát giải quyết các vụ án dân sự. Hầu hết đội

ngũ cán bộ, KSV đều đang đảm nhiệm nhiều công việc khác nhau, vì vậy chủ yếu là

các KSV mới không có nhiều kinh nghiệm, không được bồi dưỡng các kiến thức

chuyên môn. Do đó, kỹ năng phát hiện vi phạm còn hạn chế, và một số vi phạm của

Tòa án vẫn chưa được phát hiện. Công tác tham mưu cho Lãnh đạo cũng không đáp

ứng yêu cầu do vẫn có trường hợp báo cáo không được Lãnh đạo Viện ký duyệt do

thiếu căn cứ... Về trình độ chuyên môn và nghiệp vụ, có những trường hợp không

đáp ứng yêu cầu của nhiệm vụ và khối lượng công việc cũng như tính dạng, tính

phức tạp của án dân sự trong điều kiện hiện tại. Tâm lý thiếu sự tự tin và coi nhẹ

93

dẫn đến việc thiếu sự chủ động và chậm tiến triển trong việc tích lũy kinh nghiệm

và kỹ năng. Họ cũng ít rèn luyện kỹ thuật ngành và ít tiếp tục học hỏi để cải thiện

trình độ. Cùng với việc ít tiếp tục theo dõi thông tin từ các người có thẩm quyền cao

hơn hay các sự thay đổi trong luật pháp đã khiến cho trình độ của họ không cao, gây

ra hiệu suất làm việc không cao. Nghiên cứu hồ sơ, kiểm sát giải quyết vụ án không

kỹ, bỏ sót hoặc không tuân thủ đầy đủ quy trình nghiệp vụ, dẫn đến không phát hiện

được vi phạm hoặc còn chủ quan khi nhận định về tính chất, mức độ của vi phạm

không chính xác nên không tham mưu thực hiện được quyền yêu cầu, kiến nghị,

kháng nghị phù hợp. Công tác kiểm sát giải quyết vụ việc dân sự chưa thật sự được

coi trọng và đầu tư các nguồn lực để bảo đảm thực hiện tốt, nhất là đối với các đơn

vị cấp huyện. Tình trạng cấp dưới không gửi, gửi chậm bản án, quyết định lên VKS

cấp trên dẫn đến không còn thời hạn để kháng nghị phúc thẩm. Công tác tổng kết,

rút kinh nghiệm chưa được thực hiện thường xuyên, việc triển khai thực hiện các

chuyên đề nghiệp vụ, thông báo rút kinh nghiệm còn mang tính hình thức, chưa

thực sự hiệu quả.

Những nguyên nhân này đã gây tác động, ảnh hưởng nhất định đến chất lượng

kiểm sát của VKSND tỉnh Đắk Lắk trong thời gian qua, đòi hỏi phải có những giải

pháp kịp thời để khắc phục những tồn tại hạn chế, phát huy những mặt thuận lợi

nhằm nâng cao chất lượng công tác kiểm sát việc tuân theo pháp luật đối với các vụ

án dân sự của VKSND tỉnh Đắk Lắk trong thời gian tới.

Tiểu kết chương 2

Qua việc nghiên cứu thực trạng pháp luật và thực tiễn thi hành bảo vệ QCN

trong hoạt động TTDS của VKSND ở Việt Nam hiện nay, chúng ta đã có được cái

nhìn tổng quan, khái quát về những quy định của pháp luật TTDS liên quan đến

việc bảo vệ QCN trong hoạt động TTDS tại VKSND tỉnh Đắk Lắk vào thời điểm

hiện tại. Trong nội dung của chương 3, đã làm nội bật được một số vấn đề sau: Thứ

nhất, khái quát được về tình hình các vụ việc dân sự và giải quyết các vụ việc dân

sự tại tỉnh Đắk Lắk. Thứ hai, phân tích tình hình thực hiện trách nhiệm của VKSND

tỉnh Đắk Lắk trong bảo vệ QCN thông qua hoạt động kiểm sát giải quyết các vụ

94

việc dân sự. Phần nội dung trên đã trình bày rõ về thực trạng trách nhiệm bảo vệ

QCN thông qua hoạt động kiểm sát kiểm sát giải quyết các vụ việc dân sự của

VKSND tỉnh Đắk Lắk. Thứ ba, đánh giá thực tiễn những ưu điểm, hạn chế, khó

khăn, vướng mắc trong thực hiện bảo vệ QCN trong hoạt động TTDS tại VKSND

tỉnh Đắk Lắk hiện nay. Trên cơ sở những quy định của pháp luật hiện hành, việc

thực thi nhiệm vụ bảo vệ QCN trong hoạt động TTDS tại VKSND tỉnh Đắk Lắk đã

thu được những thành tựu nhất định, góp phần tích cực thực hiện nhiệm vụ bảo vệ

QCN của VKSND nói riêng và của Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam nói

chung. Tuy nhiên, bên cạnh thành tựu, hoạt động này cũng tồn tại nhiều hạn chế,

vướng mắc làm ảnh hưởng tiêu cực, thậm chí xâm hại đến việc bảo vệ QCN. Trong

hoạt động TTDS của VKSND, việc bảo vệ tốt hơn QCN đòi hỏi phải tập trung làm

rõ nguyên nhân của những hạn chế, vướng mắc đã được nêu trên nhằm đề ra những

biện pháp khắc phục trong giai đoạn tiếp theo.

95

CHƯƠNG 3: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG TRÁCH

NHIỆM CỦA VKSND TỈNH ĐẮK LẮK TRONG BẢO VỆ QUYỀN CON

NGƯỜI THÔNG QUA KIỂM SÁT GIẢI QUYẾT CÁC VỤ VIỆC DÂN SỰ

3.1 Quan điểm về tăng cường đảm bảo QCN thông qua hoạt động kiểm

sát giải quyết các vụ việc dân sự

Bảo vệ QCN thông qua hoạt động kiểm sát giải quyết các vụ việc dân sự

của VKSND căn cứ trên cơ sở quan điểm, chủ trương của Đảng và pháp luật

của Nhà nước đối với QCN: Đảng ta có quan điểm nhất quán đó là bảo vệ và

phát triển QCN vừa là một nhiệm vụ lớn hiện nay vừa là lý tưởng phấn đấu của

những người Cộng sản; là bản chất của chế độ XHCN; là cốt lõi của Chủ nghĩa

Mác – Lê Nin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Trên cơ sở ấy, Hiến pháp năm 2013 đã

quy định rõ khái niệm QCN, QCD ở chương 2, thể chế hoá tư tưởng dân chủ tiến

bộ của Đảng ta. Nhà nước Việt Nam đã cụ thể hoá quan điểm trên của Đảng cộng

sản Việt Nam thành pháp luật để phân định rõ ràng quyền và nghĩa vụ của công

dân, pháp nhân cũng như trách nhiệm của Nhà nước đối với việc thực thi các quy

định của pháp luật về quyền và nghĩa vụ công dân. Pháp luật và quyền lực nhà

nước mà trực tiếp là các chủ thể được giao nắm quyền lực nhà nước là những

phương thức, công cụ quan trọng đảm bảo các nghị quyết, chủ trương về QCN

của Đảng được hiện thực hoá vào cuộc sống xã hội. Trong các công cụ và phương

thức trên thì VKS và hoạt động công tố giữ vai trò then chốt đối với việc bảo vệ

và phát triển QCN. Bảo vệ QCN thông qua hoạt động TTDS là một trong những

mục tiêu nhằm phát triển yếu tố con người được Đảng và Nhà nước ta đã đặt ra

trong đường lối phát triển kinh tế - xã hội. Vì thế, kiểm sát có mối liên hệ chặt

chẽ với các mục tiêu công tác bảo vệ QCN nói riêng và các mục tiêu khác của

nền kinh tế, xã hội, văn hoá. .. nói chung.

Bảo vệ QCN thông qua hoạt động TTDS của VKSND đáp ứng yêu cầu

xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam: Nhà nước pháp

quyền XHCN là nhà nước mà nơi đó mọi hoạt động của nhà nước phải hướng đến

sự thừa nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm QCN được thi hành nghiêm chỉnh trong

96

thực tiễn cuộc sống xã hội. Chính vì thế, trong các nghị quyết của Đảng về chủ

trương xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN đều khẳng định quan điểm: Đảm

bảo QCN là mục tiêu cao nhất của việc thực thi quyền lực nhà nước. Tôn trọng và

bảo đảm QCN, gắn QCN với quyền và lợi ích của nhân dân, đất nước và quyền

làm chủ của công dân; và yêu cầu Nhà nước tôn trọng và bảo vệ quyền QCN,

QCD; chăm sóc sức khoẻ, sự phát triển lành mạnh của từng người dân [19]. Pháp

luật được xem như là phương tiện và công cụ cơ bản, được sử dụng để đảm bảo

chủ trương và đường lối về QCN của Đảng được hiện thực vào đời sống xã hội

thông qua hệ thống các cơ quan nhà nước. VKSND, trong vai trò của mình, sử

dụng pháp luật như là công cụ chính để đảm bảo và bảo vệ QCN. Không chỉ

trừng trị những hành vi xâm hại và hủy hoại QCN, mà còn khôi phục và giữ gìn

một cách nguyên vẹn các quyền đó. Đồng thời, việc này cũng củng cố niềm tin

vào sự công bằng của pháp luật và chế độ xã hội chủ nghĩa của nhà nước ta. Để

thực hiện vai trò này, việc bảo đảm việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội

chủ nghĩa và cải cách tư pháp nói chung, đổi mới VKSND nói riêng phải được

thực hiện sao cho phù hợp với chủ trương, đường lối và chính sách của Đảng về

QCN trong hoạt động TTDS. Đồng thời, hoạt động kiểm sát tư pháp cũng phải

hiện thực hóa được chủ trương và chính sách trên vào đời sống xã hội.

Trong công tác kiểm sát giải quyết các vụ việc dân sự của VKSND, công

tác bảo vệ QCN được gắn kết với chiến lược cải cách tư pháp: Để nâng cao hiệu

lực bảo vệ QCN đối với công tác kiểm sát giải quyết các vụ việc dân sự của

VKSND và phù hợp với chiến lược cải cách tư pháp ở Việt Nam giai đoạn tiếp

theo, phải quán triệt đầy đủ quan điểm, tư tưởng, lý luận về cải cách tư pháp đã

được khẳng định tại các nghị quyết, chỉ thị của Đảng, cụ thể là Nghị quyết số 49 -

NQ/TW ngày 02-6-2005 Về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 và Nghị

quyết số 48 - NQ/TW ngày 24-5-2005 Về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ

thống tư pháp Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020. Báo cáo sơ

kết 8 năm triển khai Nghị quyết số 49 - NQ/TW và Kết luận số 92 - KL/TW ngày

12-3-2014 của Bộ Chính trị. Mục tiêu của Chiến lược cải cách tư pháp là xây

97

dựng hệ thống tư pháp trong sạch, toàn diện, công bằng, kỷ cương, bảo vệ pháp

luật, từng bước hiện đại hoá, phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc Việt Nam

XHCN. Nội dung mà chiến lược cải cách tư pháp hướng đến cũng chú ý điểm

tương đồng nhất định với vai trò và nhiệm vụ của VKS. Nhiệm vụ bảo vệ QCN

được thực hiện bởi VKS, tuân theo pháp luật và công lý, là trách nhiệm cần thiết

của xã hội. Do đó, việc nâng cao vai trò của VKS trong bảo vệ QCN phải được

liên kết chặt chẽ với việc xây dựng hệ thống VKS mạnh mẽ, dân chủ và minh

bạch, để bảo vệ công lý và cao quý nhiệm vụ phục vụ nhân dân. Điều này đặt ra

yêu cầu cao cho việc tăng cường vai trò của VKS trong bảo vệ QCN không chỉ

thông qua việc tăng cường vai trò của VKS mà còn thông qua việc tăng cường vai

trò của các cơ quan tư pháp khác trong công tác bảo vệ QCN.

Bảo vệ QCN thông qua hoạt động kiểm sát giải quyết các vụ việc dân sự

của VKSND nhằm đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế: Bảo vệ QCN của cơ quan

tư pháp nói chung và của VKSND nói riêng là một nhiệm vụ rất trọng tâm của

công cuộc cải cách tư pháp và là yêu cầu cấp thiết đối với tiến trình hội nhập

quốc tế và đất nước; nó là thước đo thực chất của Nhà nước pháp quyền xã hội

chủ nghĩa. Bảo vệ QCN của VKSND là phải gắn với công lý và sự thật của cuộc

sống cho nên nâng cao hiệu quả bảo vệ QCN thông qua hoạt động tố tụng của

VKSND cần gắn kết chặt chẽ với việc xây dựng tổ chức VKSND trong sạch,

vững mạnh, công bằng, liêm khiết, bảo vệ pháp luật và coi trọng nhiệm vụ phụng

sự nhân dân. Trong bối cảnh hội nhập quốc tế thì những hành động xâm hại, phá

hoại QCN không những chỉ bó hẹp trong khuôn khổ biên giới quốc gia mà có thể

đi quá phạm vi của một quốc gia và cần có sự phối, kết hợp giữa các quốc gia

cũng như những nỗ lực chung của cả cộng đồng quốc tế để bảo vệ QCN. Pháp

luật là một trong những nhân tố quan trọng nâng cao hiệu quả bảo vệ QCN thông

qua hoạt động tố tụng của VKSND. Theo đó, luật pháp sẽ quy định chức trách,

nhiệm vụ, thẩm quyền và quy trình thủ tục tiến hành bảo vệ QCN phải có sự phù

hợp với xu thế phát triển của Ngành công tố các quốc gia trên thế giới cũng như

yêu cầu của các công ước quốc tế về QCN. Các điều ước quốc tế về QCN do Nhà

98

nước Việt Nam tham gia hoặc ký kết và các văn bản pháp luật của Nhà nước Việt

Nam để thể chế hoá các Điều ước quốc tế là một cơ sở pháp lý cần thiết đối với

hoạt động bảo vệ QCN. Việc hội nhập pháp luật quốc gia với pháp luật quốc tế về

QCN thường tiến hành dưới ba dạng chính là tiếp tục ký kết hoặc tham gia các

điều ước quốc tế về QCN, hợp tác quốc tế về bảo vệ QCN và nội luật hoá các

điều ước quốc tế phù hợp với yêu cầu, điều kiện, thực tiễn của xã hội. Các nội

dung cơ bản của hội nhập pháp luật quốc gia với pháp luật quốc tế về QCN sẽ có

ảnh hưởng chi phối trực tiếp đối với tổ chức, nhiệm vụ và quyền hạn cùng nội

dung của bảo vệ QCN ở VKSND, vì vậy việc nâng cao chất lượng bảo vệ QCN

trong hoạt động tư pháp của VKSND phải gắn chặt chẽ với việc hội nhập pháp

luật quốc gia với pháp luật quốc tế. Việc thực hiện tốt các điều ước quốc tế mà

Nhà nước ta đã tham gia sẽ được tổ chức. Hiệp định tương trợ tư pháp sẽ tiếp tục

được ký kết với các nước khác, đặc biệt là các nước láng giềng, các nước trong

khu vực và các nước có quan hệ truyền thống.

3.2 Giải pháp đảm bảo QCN thông qua hoạt động kiểm sát giải quyết

các vụ việc dân sự của VKSND tỉnh Đắk Lắk

3.2.1 Giải pháp chung

3.2.1.1 Nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng, nhận thức và quyền làm chủ

của nhân dân

Vai trò lãnh đạo của Đảng, Nhà nước và quyền làm chủ của nhân dân đối với

bảo vệ QCN trong hoạt động TTDS của VKSND có sức tác động to lớn đối với kết

quả thực hiện nhiệm vụ của VKSND. Để nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng và

quyền làm chủ của nhân dân đối với bảo vệ QCN trong hoạt động TTDS của

VKSND cần thực hiện các biện pháp sau:

Thứ nhất, Vai trò lãnh đạo của Đảng đối với nhiệm vụ bảo vệ quyền và lợi

ích hợp pháp của công dân trong hoạt động tư pháp của VKSND cần được tập trung

thực hiện thông qua việc áp dụng một số biện pháp cụ thể. Một là, việc lãnh đạo và

chỉ đạo thực hiện chính xác các chủ trương đã được Đảng ban hành như Chỉ thị,

99

Nghị quyết, Kết luận liên quan đến nhiệm vụ bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của

công dân, cũng như hoạt động tư pháp nói chung và hoạt động TTDS nói riêng.

Trong giai đoạn mới, vai trò lãnh đạo của Đảng trong hoạt động tư pháp và hoạt

động tố tụng của VKSND đã được thể hiện rõ ràng thông qua việc Bộ Chính trị ban

hành các Nghị quyết, Kết luận. Những điều này là tiêu chuẩn mục tiêu cho công

việc cải cách tư pháp hiện nay, nhằm mục tiêu là bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp

của công dân trong hoạt động tố tụng của VKSND. Hai là, cần quán triệt quan

điểm, chủ trương, đường lối của Đảng nhằm tăng cường việc bảo vệ QCN đối với

hoạt động TTDS của VKSND. Về vai trò lãnh đạo của Đảng cần được quán triệt

quan điểm, Đảng không bao biện, làm thay, không tham gia trực tiếp vào hoạt động

tư pháp mà là lãnh đạo thông qua đường lối, chủ trương, quan điểm của Đảng, trong

công tác tổ chức cán bộ, công tác kiểm tra, giám sát trong hoạt động TTDS .. Mặt

khác, việc lãnh đạo của Đảng không làm giảm bớt sự tự giác, chủ động mà làm cho

việc thực hiện chức trách, nhiệm vụ phù hợp với chủ trương, đường lối của Đảng.

Ba là, Đảng lãnh đạo có chiến lược, toàn diện đối với việc tổ chức và hoạt động của

hệ thống cơ quan VKSND về dài hạn cũng như đối với mỗi thời kỳ cụ thể; trong

việc lãnh đạo toàn diện đối với bộ máy, tổ chức và hoạt động của VKSND; đối với

việc đào tạo, bố trí, quy hoạch, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ Kiểm sát; trong việc kiểm

tra, giám sát các hoạt động tố tụng của VKSND và đối với việc kiểm tra tư cách của

đảng viên thuộc hệ thống cơ quan VKSND.

Thứ hai, cần nâng cao ý thức và bảo đảm quyền làm chủ của người dân đối

với việc bảo vệ QCN thông qua hoạt động TTDS của VKSND, nhất là thông qua

thực hiện các quyền dân chủ trực tiếp, dân chủ hình thức, thông qua hoạt động đoàn

thể quần chúng, cơ quan truyền thông, báo chí. Nhìn trên khía cạnh bảo vệ QCN

cũng cần phải nâng cao nhận thức một cách sâu sắc, đầy đủ và đúng đắn đối với

hoạt động của VKSND giúp người dân nhận thức đúng vị trí, quyền hạn, chức năng,

trách nhiệm của VKSND, khi ấy quyền và lợi ích của người dân, QCN mới thật sự

được bảo vệ. Mặt khác, cần vận động người dân chấp hành pháp luật và coi trọng

hoạt động của VKSND trong bảo vệ QCN. Với vai trò là cơ quan bảo vệ pháp luật,

100

VKSND thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật của cơ quan trực

tiếp thực hiện hoạt động TTDS là Toà án. Việc thực hiện hiệu quả chức năng,

nhiệm vụ kiểm sát sẽ bảo vệ quyền của pháp nhân, người dân tham gia hoạt động

TTDS, hướng đến bảo đảm quyền làm chủ của người dân một cách hiệu quả. Để

thực hiện mục tiêu trên, các cơ quan báo chí và truyền thông cần tăng cường việc

tuyên truyền về vai trò của hoạt động kiểm sát đối với giao dịch dân sự, qua đó,

tuyên truyền về trách nhiệm của VKSND trong công tác bảo vệ pháp luật, bảo vệ

QCN.

Thứ ba, công tác bảo vệ QCN của VKSND có mối liên hệ chặt chẽ với trình

độ hiểu biết và ý thức pháp luật của nhân dân. Thực trạng của hoạt động của từng

ngành công tác cho thấy, một trong các nguyên nhân chủ yếu dẫn tới tình trạng xâm

phạm QCN đối với hoạt động tư pháp là do trình độ hiểu biết pháp luật của một số

tầng lớp nhân dân không đồng đều, ý thức pháp luật không cao. Do đó, cần thiết

phải đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về bảo vệ QCN

đối với đời sống nhân dân nói chung và đối với hoạt động TTDS nói riêng giúp

nhân dân hiểu biết và tự giác chấp hành pháp luật. Một trong những hình thức phổ

cập của công tác lưu động là tổ chức các phiên toà lưu động xét xử ở nơi dân cư

sinh sống nhằm tuyên tuyền pháp luật đối với vi phạm QCN.

3.2.1.2 Hoàn thiện pháp luật tố tụng bảo vệ QCN trong hoạt động TTDS

của VKSND

Để đảm bảo tính pháp lý trong hoạt động TTDS của VKSND, việc xây dựng

hệ thống các quy định pháp luật hoàn chỉnh trong lĩnh vực này là điều hết sức cần

thiết. Cụ thể, một số quy định của BLTTDS năm 2015 cần được sửa đổi, bổ sung:

Thứ nhất, về việc nguyên đơn rút đơn khởi kiện trước khi mở phiên tòa hoặc

tại phiên tòa phúc thẩm. Để đảm bảo nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự,

nhằm khuyến khích và đảm bảo quyền tự định đoạt của nguyên đơn dân sự trong

TTDS, không nên qui định việc nguyên đơn rút yêu cầu khởi kiện ở cấp sơ thẩm khi

được sự chấp thuận của bị đơn theo điểm a khoản 1 Điều 299 BLTTDS năm 2015.

Bởi nếu làm như thế sẽ vi phạm nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự bởi vì

101

đối với các vụ việc dân sự, đương sự ngoài quyền tự mình giải quyết yêu cầu hay

không yêu cầu Toà án giải quyết, thì họ cũng có quyền sửa đổi, bổ sung, rút một

phần hoặc tất cả các yêu cầu khởi kiện của đương sự tại từng giai đoạn tố tụng. Do

vậy, để phù hợp và không vi phạm nguyên tắc trên chúng ta phải sửa đổi khoản 1

Điều 299 BLTTDS năm 2015 theo hướng cho phép đương sự được tốt nhất quyền

tự định đoạt của đương sự trong TTDS. Nếu bị đơn cảm thấy dù nguyên đơn có

khởi kiện hay rút đơn khởi kiện mà gây tổn hại cho họ đối với uy tín, nhân phẩm

hoặc với tài sản thì họ có quyền yêu cầu nguyên đơn bồi thường thiệt hại. Theo đó,

nên sửa Điều 299. Nguyên đơn rút đơn khởi kiện trước khi mở phiên tòa hoặc tại

phiên tòa phúc thẩm: Trước khi mở phiên tòa hoặc tại phiên tòa phúc thẩm, nếu

nguyên đơn rút đơn khởi kiện thì Hội đồng xét xử phúc thẩm ra quyết định hủy bản

án sơ thẩm và đình chỉ giải quyết vụ án. Trong trường hợp này, các đương sự vẫn

phải chịu án phí sơ thẩm theo quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm và phải chịu một

nửa án phí phúc thẩm theo quy định của pháp luật. Nguyên đơn có nghĩa vụ bồi

thường thiệt hại cho bị đơn nếu việc khởi kiện và rút đơn khởi kiện gây tổn hại về

danh dự, uy tín hoặc tài sản của bị đơn.

Thứ hai, Về việc bảo đảm quyền của bị đơn thực hiện phản tố trước phiên

tòa, cần phải có quy định bổ sung về thời điểm mà bị đơn thực hiện phản tố trước

phiên tòa. Ngoài ra, cần phải quy định rõ ràng về quyền của nguyên đơn để thay đổi

hoặc bổ sung yêu cầu khởi kiện, cũng như quyền của bị đơn để thay đổi hoặc bổ

sung yêu cầu phản tố. Đồng thời, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan cũng cần

được phép yêu cầu điều chỉnh yêu cầu của họ trong mọi giai đoạn của tố tụng (Điều

227,243, 244). Mục tiêu của việc này là tránh trường hợp một trong hai bên lạm

dụng việc thực hiện quyền này gây khó khăn cho bên kia và gây chậm trễ trong giải

quyết việc dân sự. Do đó, việc thay đổi hoặc bổ sung yêu cầu của các bên tại phiên

tòa chỉ được chấp nhận nếu không làm trì hoãn phiên tòa.

Thứ ba, sự hiện diện của KSV cần phải được bắt buộc khi tham dự phiên họp

để xem xét và giải quyết khiếu nại, kiến nghị theo quy định tại Điều 194 BLTTDS

năm 2015. Đồng thời, cũng cần phải quy định bắt buộc sự hiện diện của KSV tại

102

các phiên họp, phiên tòa sơ thẩm, phúc thẩm mà không có kháng nghị từ VKS nhằm

đảm bảo tuân thủ pháp luật tố tụng của những người tiến hành tố tụng và người

tham gia tố tụng. Những biện pháp này được áp dụng để bảo vệ quyền lợi của người

khởi kiện trong quá trình giải quyết vụ án dân sự. Các quy định này là hoàn toàn

cần thiết và điều chỉnh khoảng trống trong việc thi hành luật. Theo Điều 21

BLTTDS năm 2015 về việc tham gia phiên tòa, phiên họp của VKS (KSV), đã có

sẵn các điều lệ. Tuy nhiên, theo khoản 1 Điều 232 BLTTDS năm 2015 lại có điều lệ

khác cho việc hiện diện của KSV: “KSV được Viện trưởng VKS cùng cấp phân công

để tham gia phiên tòa; trường hợp vắng mặt, Hội đồng xét xử vẫn tiếp tục triển khai

xét xử”. Một mặt khác, theo khoản 1 Điều 296 BLTTDS năm 2015, không có điểm

luật qui định cho việc vắng mặt KSV trong các trường hợp hoãn phiên tòa phúc

thẩm. Do đó, những qui định này gây ra những bất tiện cho KSV và không cho phép

họ kiểm tra diễn biến trong phiên tòa để có ý kiến và hiểu rõ vụ án. Bởi lẽ công việc

của KSV rất nhiều và trong một số trường hợp một KSV có thể được giao hai hoặc

nhiều vụ án vào cùng một thời điểm hoặc do yêu cầu từ các vụ án kéo dài khiến cho

KSV không kịp xuất hiện hoặc vào ngày xét xử đã được chỉ định như là ốm hoặc

gặp rủi ro khi di chuyển trên đường giao thông. Trong những trường hợp này, KSV

sẽ không có khả năng đưa ra ý kiến trong các phiên toà hay phiên họp.

Thứ tư, về thời hạn nghiên cứu hồ sơ của VKS là 15 ngày (khoản 2 Điều 220

BLTTDS). Như vậy, trên thực tế trong hạn 15 ngày dĩ nhiên trong đó có 04 ngày

nghỉ là thứ bảy và chủ nhật, chỉ có 11 ngày, nếu tính thời gian thực hiện việc nhận –

trả - thụ lý vào sổ - phân công KSV nhanh nhất thì KSV chỉ được tiếp cận, nghiên

cứu hồ sơ nhiều nhất là 10 ngày, nên không thể đủ để KSV có thể hoàn thành việc

nghiên cứu hồ sơ vụ án một cách toàn diện và thận trọng. Do đó, về thời hạn nghiên

cứu hồ sơ vụ án quy định tại Điều 220 BLTTDS năm 2015, cần sửa đổi theo hướng

thêm hai chữ:“làm việc” sau cụm từ: “trong thời hạn 15 ngày”.

Thứ năm, bổ sung, sửa đổi các quy định về việc, yêu cầu Tòa án xác minh,

thu thập chứng cứ: BLTTDS năm 2015 quy định KSV có quyền “…Nghiên cứu hồ

sơ vụ việc, yêu cầu Tòa án xác minh, thu thập chứng cứ trong quá trình giải quyết

103

vụ việc dân sự theo quy định của Bộ luật này,…”. Tuy nhiên, trong quá trình kiểm

sát khi KSV yêu cầu xác minh, thu thập chứng cứ nhưng Tòa án không thực hiện

hoặc thực hiện không đầy đủ thì phải chịu trách nhiệm như thế nào thì luật không

quy định. Tại phiên tòa phúc thẩm khi cần phải xác minh, thu thập bổ sung tài liệu

chứng cứ… Tòa án căn cứ Điều 259 BLTTDS để tạm ngưng phiên tòa, thời hạn tạm

ngưng không quá 01 tháng. Tuy nhiên khi Tòa án thu thập được tài liệu, chứng cứ

bổ sung thông thường gần đến ngày mở lại phiên tòa thì mới chuyển tài liệu, chứng

cứ thu thập bổ sung cho VKS, dẫn đến việc KSV rất bị động không có thời gian để

nghiên cứu báo cáo đề xuất lại kịp thời khi Tòa án mở lại phiên tòa xét xử. Luật

chưa có quy định thời hạn Tòa án phải chuyển tài liệu chứng cứ thu thập bổ sung

cho VKS. Đối với các chứng cứ Tòa án đã yêu cầu đương sự giao nộp nhưng không

giao nộp được vì lý do khách quan ngay tại tòa mới xuất trình thì đương sự phải

chứng minh lý do chính đáng. Việc luật quy định “lý do chính đáng” trong trường

hợp này là còn chung chung, khó áp dụng và dễ tùy tiện.

Thứ sáu, sửa đổi, bổ sung quy định tại khoản 2 Điều 192 BLTTDS hoặc liên

ngành trung ương cần sửa đổi, bổ sung về việc: khi Tòa án ra thông báo trả lại đơn

khởi kiện phải gửi kèm theo đơn khởi kiện cùng các tài liệu chứng cứ kèm theo cho

VKS. Bổ sung tại khoản 2, Điều 192 BLTTDS 2015 về thời hạn gửi văn bản thông

báo trả lại đơn khởi kiện của Tòa án cho VKS trong một thời hạn cụ thể.

3.2.1.3 Đổi mới về tổ chức và hoạt động của VKSND

Yêu cầu bức thiết về việc đổi mới tổ chức và hoạt động của VKSND hiện

nay đã được đặt ra, cụ thể:

Đổi mới về tổ chức bộ máy của VKSND các cấp

Việc nghiên cứu và sắp xếp tổ chức bộ máy, xây dựng đội ngũ cán bộ các

đơn vị trực thuộc VKSND tối cao phải được phối hợp một cách hài hòa với yêu cầu

nhiệm vụ làm nơi công tác của mọi cá nhân. Điều này giúp đảm bảo sự lãnh đạo tập

trung thống nhất của Viện trưởng VKSND tối cao. Thứ nhất, việc kiện toàn tổ chức

bộ máy VKS phải phù hợp hoàn toàn với thực tế công việc, khả năng của các cán bộ

104

và yêu cầu thực hiện nhiệm vụ đã được giao. Quá trình rà soát, quy hoạch, bổ nhiệm

và lãnh đạo VKSND các cấp phải chú trọng vào việc tìm ra các cá nhân có năng lực

và phẩm chất đạo đức tốt để bổ nhiệm vào các chức vụ lãnh đạo quản lý, điển hình

là ưu tiên cho cán bộ trẻ và cán bộ nữ. Thứ hai, xây dựng một số cơ quan chuyên

sâu trong hệ thống của VKSND, nhấn mạnh sự tập trung và chuyên nghiệp trong

việc thực hiện các nhiệm vụ kiểm sát cụ thể. Thứ ba, hệ thống cơ quan VKS từ

trung ương đến địa phương cũng cần được tạo ra và duy trì. Việc này giúp đảm bảo

rằng việc chỉ đạo, hướng dẫn nghiệp vụ cho VKSND cấp dưới diễn ra thường xuyên

và hiệu quả. Thứ tư, chúng ta cũng nên tăng cường phối hợp, trao đổi giữa các cơ

quan VKS. Điều này giúp chia sẻ kinh nghiệm và hỗ trợ lẫn nhau trong công tác

kiểm sát, qua đó nâng cao khả năng hoàn thành công việc theo pháp luật. Mục tiêu

xây dựng đội ngũ KSV “Vững về chính trị, giỏi về nghiệp vụ, tinh thông về pháp

luật, công tâm và bản lĩnh, kỷ cương và trách nhiệm” không thể thiếu vai trò của

các hoạt động này. Thứ năm, VKSND tối cao phải tiếp tục tổ chức các buổi sơ kết,

tổng kết rút kinh nghiệm để học hỏi từ thành công và thất bại của các VKS địa

phương trong việc giải quyết các vụ việc dân sự và các hoạt động khác liên quan.

Việc này giúp làm rõ những điểm mạnh và yếu để có những biện pháp khắc phục

hiệu quả. Thứ sáu, tiếp tục tổ chức tập huấn chuyên đề, phổ biến rút kinh nghiệm

những vụ án mà VKS kháng nghị có kết quả tốt, được Hội đồng xét xử chấp thuận

kháng nghị huỷ án, sửa án để các cơ quan cấp dưới tiếp tục tham khảo, học hỏi, rút

kinh nghiệm. Thứ bảy, VKSND tối cao cần tổ chức những buổi tập huấn theo từng

chủ đề, vừa có tính khoa học, vừa có tính thực tế, thích hợp với từng đối tượng. Có

thể tổ chức bằng việc mở các lớp tập huấn theo các Bộ luật, Pháp lệnh, theo Nghị

quyết của Hội đồng thẩm phán TAND Tối cao, Thông tư liên tịch hoặc các quy định

pháp luật có liên quan.

Đổi mới phương thức quản lý, điều hành trong ngành Kiểm sát nhân dân

Việc đổi mới công tác quản lý, chỉ đạo điều hành đối với ngành Kiểm sát sẽ

giúp bảo đảm việc thực thi tốt chức trách, nhiệm vụ của ngành kiểm sát đáp ứng yêu

cầu bảo vệ QCN trong hoạt động TTDS. Vì vậy, công tác quản lý, chỉ đạo, điều

105

hành của thủ trưởng VKSND cùng cấp đối với ngành kiểm sát cũng phải đổi mới,

cần thực hiện đồng bộ các giải pháp như: Thứ nhất, cần tăng cường công tác quản

lý, chỉ đạo, điều hành của Viện trưởng VKS cùng cấp, tăng cường hoạt động quản

lý giám sát, đôn đốc và gắn kết hoạt động của mình với VKS địa phương. Các đơn

vị của VKSND tối cao phải tập hợp được những sai phạm, vi phạm phổ biến, điển

hình trong quá trình giải quyết các vụ việc dân sự để thông báo cho VKS địa

phương nhận diện, rút kinh nghiệm và nâng cao kỹ năng kiểm sát các hoạt động tư

pháp, đặc biệt là hoạt động TTDS. Tăng cường công tác hướng dẫn về nghiệp vụ,

giải đáp khó khăn, vướng mắc đối với cơ sở trong việc thực hiện chức trách nhiệm

vụ được giao. Các Vụ nghiệp vụ của VKSND tối cao cần thường xuyên đến với cơ

sở, nắm bắt kịp thời tình hình để chỉ đạo công tác nghiệp vụ, tháo gỡ khó khăn,

vướng mắc đối với cơ sở. Thứ hai, thủ trưởng VKS cùng cấp phải nêu cao trách

nhiệm thực hiện quyền kiến nghị, đề xuất và trách nhiệm chỉ đạo KSV kiểm sát chặt

chẽ việc giải quyết vụ việc dân sự từ khi thụ lý và xét xử đến thời điểm chấm dứt

việc giải quyết vụ án, đảm bảo KSV tham dự 100% số cuộc xét xử của Toà án. Hơn

nữa, phải quan tâm bố trí đầy đủ KSV có trình độ để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ

công tác kiểm sát các vụ án dân sự. Tóm lại, việc thay đổi cách thức quản lí, chỉ đạo

công tác đối với ngành Kiểm sát sẽ góp phần bảo đảm việc thực hiện tốt hơn nhiệm

vụ của cơ quan kiểm sát đối với công tác bảo vệ QCN, đương sự trong công tác giải

quyết các tranh chấp dân sự có hiệu lực.

3.2.1.4 Hoàn thiện cơ chế phân công, phối hợp và kiểm soát giữa VKSND

với Tòa án và các cơ quan hữu quan

Tăng cường bảo vệ QCN thông qua hoạt động kiểm sát giải quyết các vụ

việc dân sự đòi hỏi phải hoàn thiện cơ chế phân công, phối hợp và kiểm soát giữa

VKSND, Tòa án và các cơ quan hữu quan. Điều này nhằm đảm bảo quyền lợi hợp

pháp của người dân được bảo vệ một cách toàn diện, minh bạch và công bằng.

Hoàn thiện cơ chế phân công: Cần có sự phân định rõ ràng và cụ thể về trách

nhiệm và quyền hạn giữa VKSND, Tòa án và các cơ quan hữu quan trong quá trình

giải quyết các vụ việc dân sự. Điều này giúp tránh tình trạng chồng chéo, bỏ sót

106

nhiệm vụ và nâng cao hiệu quả công việc. Hệ thống pháp luật cần quy định rõ ràng

về chức năng, nhiệm vụ của từng cơ quan trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự,

đảm bảo không có lỗ hổng pháp lý và tạo điều kiện thuận lợi cho các bên liên quan

thực hiện nhiệm vụ của mình.

Tăng cường phối hợp: Thiết lập các quy chế phối hợp giữa VKSND, Tòa án

và các cơ quan hữu quan để đảm bảo sự phối hợp nhịp nhàng và hiệu quả trong việc

giải quyết các vụ việc dân sự. Quy chế này cần bao gồm các quy định về chia sẻ

thông tin, hỗ trợ kỹ thuật và cùng tham gia vào các hoạt động điều tra, xét xử và thi

hành án. Tổ chức các hội nghị liên ngành định kỳ để trao đổi, đánh giá và rút kinh

nghiệm trong việc giải quyết các vụ việc dân sự, qua đó kịp thời giải quyết các

vướng mắc phát sinh và đề ra các giải pháp cải thiện.

Phối hợp trong việc đào tạo, bồi dưỡng: Tổ chức các chương trình đào tạo

liên ngành, bồi dưỡng chung cho cán bộ của VKSND, Tòa án và các cơ quan hữu

quan nhằm nâng cao nhận thức, kiến thức và kỹ năng về bảo vệ QCN trong quá

trình giải quyết các vụ việc dân sự. Tạo điều kiện cho cán bộ các cơ quan liên ngành

trao đổi kinh nghiệm và học hỏi các thực tiễn tốt từ nhau, qua đó nâng cao hiệu quả

công tác bảo vệ QCN.

Kiểm soát hiệu quả: Thiết lập cơ chế giám sát độc lập giữa các cơ quan để

đảm bảo việc giải quyết các vụ việc dân sự được thực hiện đúng pháp luật, minh

bạch và công bằng. Việc giám sát này cần được thực hiện bởi các cơ quan hoặc tổ

chức có thẩm quyền và độc lập với các bên liên quan. Thực hiện báo cáo và đánh

giá thường xuyên về hoạt động giải quyết các vụ việc dân sự, qua đó phát hiện và

khắc phục kịp thời các sai phạm, vi phạm pháp luật. VKSND và Tòa án cần thực

hiện kiểm tra nội bộ định kỳ để đảm bảo các quy trình, thủ tục giải quyết các vụ

việc dân sự được tuân thủ đúng pháp luật, nâng cao chất lượng và hiệu quả công

tác. Khi phát hiện các sai phạm, vi phạm pháp luật trong quá trình giải quyết các vụ

việc dân sự, cần xử lý nghiêm minh, công khai và minh bạch để đảm bảo tính răn đe

và giữ vững niềm tin của nhân dân vào hệ thống tư pháp.

107

3.2.1.5 Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát trong ngành

Kiểm sát

Việc tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra được coi là một biện pháp quan

trọng trong việc bảo vệ quyền lợi của con người trong hoạt động TTDS của

VKSND. Thông qua hoạt động thanh tra, kiểm tra, yếu kém và tồn tại trong công

tác có thể được phát hiện kịp thời để đưa ra biện pháp khắc phục. Đồng thời, trường

hợp vi phạm phẩm chất và đạo đức nghề nghiệp trong công tác sẽ được xử lý một

cách kiên quyết. VKS cấp trên cần đẩy mạnh công tác kiểm tra việc ban hành và tổ

chức thực hiện chương trình công tác của VKSND cấp dưới, kế hoạch công tác, chỉ

thị công tác của từng phòng ban và của cơ quan VKSND cấp trên phù hợp với việc

thực hiện các nhiệm vụ đã được quy định tại từng văn bản của ngành và của các địa

phương. Đây là hoạt động giám sát bên trong của cơ quan VKSND đem lại hiệu quả

cao. Bên cạnh đó, cần đẩy mạnh hoạt động giám sát ở bên ngoài của VKSND bao

gồm: Hoạt động giám sát của cơ quan dân cử: Quốc hội, các Uỷ ban của Quốc hội,

Đoàn Đại biểu Quốc hội, Văn phòng Quốc hội, Hội đồng nhân dân cùng cấp; Hoạt

động giám sát dân chủ trực tiếp của nhân dân thông qua các đoàn thể chính trị - xã

hội: Mặt trận tổ quốc Việt Nam và Hội đồng nhân dân; Hoạt động giám sát của các

cơ quan tư pháp theo cơ chế kiểm soát, chế ước tương tự như Toà án; Hoạt động

giám sát nội bộ được bảo đảm thông qua chế độ thanh tra, kiểm tra của cấp trên

trong ngành kiểm sát. Cơ chế thanh tra, kiểm tra, giám sát cần được thực hiện đồng

bộ, phù hợp là một trong những điều kiện đảm bảo cho việc thực hiện nhiệm vụ

KSHĐTP trong TTDS của VKSND có hiệu quả, đảm bảo, hạn chế được việc lạm

quyền, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền lợi của đương sự trong TTDS. Qua

hoạt động trên, khi phát hiện vi phạm pháp luật, xâm phạm quyền QCN trong hoạt

động TTDS, thì các cơ quan quản lý nhà nước, cá nhân có liên quan cần phải

nghiêm khắc xử lý các cơ quan, tổ chức trực thuộc VKSND cùng cấp có hành vi vi

phạm trên.

3.2.1.6 Nâng cao chất lượng đội ngũ KSV

108

Để bảo vệ QCN trong hoạt động TTDS của VKSND có hiệu quả, việc đổi

mới tổ chức và hệ thống VKSND cần phải được thực hiện. Công tác quản lý, điều

hành của lãnh đạo ngành kiểm sát cũng cần phải được tăng cường. Đặc biệt chú

trọng vào việc nâng cao chất lượng đội ngũ KSV. Để nâng cao chất lượng đội ngũ

KSV để thực hiện tốt nhiệm vụ bảo vệ QCN trong hoạt động TTDS, thứ nhất, việc

cần được thực hiện nhằm bảo đảm rằng ý thức, nhận thức và bản lĩnh chính trị,

phẩm chất đạo đức của KSV khi thực hiện chức năng KSHĐTP trong hoạt động

TTDS đã được nâng cao. Điều này cũng là một yêu cầu quan trọng và khách quan

trong giai đoạn hiện nay. Vì vậy, nhận thức và tuân theo đường lối, chính sách của

Đảng cần được nâng cao và áp dụng đúng quan điểm của Đảng trong việc thực hiện

chức năng, nhiệm vụ phải được quán triệt tới mỗi KSV. Trong quá trình giải quyết

các vụ án dân sự, KSV thường xuyên tiếp xúc với những mặt trái của xã hội và phải

đương diện với nhiều cám dỗ vật chất và quyền lợi từ các đối tượng khác nhau. Nếu

không được trau dồi phẩm chất đạo đức và rèn luyện ý thức chính trị, KSV rất dễ bị

ảnh hưởng tiêu cực từ những cám dỗ này nên mỗi KSV phải tự mình rèn luyện ý

thức và trách nhiệm. Thứ hai, Nâng cao trình độ, kỹ năng, nghiệp vụ, bảo đảm đủ số

lượng KSV thực hiện chức trách, nhiệm vụ nhằm bảo đảm quyền tư pháp thông qua

hoạt động kiểm sát của VKSND có hiệu quả. Đây là nội dung của công tác tổ chức

cán bộ đối với ngành KSND, do vậy, cần sự quan tâm của lãnh đạo VKSND cùng

cấp để tăng cường rà soát, kiểm tra, nắm bắt thực trạng đội ngũ KSV cơ quan, cấp

trên trực tiếp kiểm sát nhằm xác định năng lực, trình độ chuyên môn nghiệp vụ.

Trường hợp KSV nào để xảy ra tình trạng bản án phải huỷ, sửa vì thiếu tinh thần

trách nhiệm, hoặc trình độ năng lực yếu, thì lãnh đạo cần cương quyết điều động

qua thực hiện nhiệm vụ khác. Mặt khác, lãnh đạo VKSND các cấp cần quan tâm

công tác đào tạo đội ngũ cán bộ, KSV nữ có năng lực, đội ngũ cán bộ, KSV có đủ

điều kiện dự tuyển vào ngạch KSV theo luật định, nhằm bổ sung kịp thời đội ngũ

KSV có năng lực đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ đề ra. Bên cạnh đó, VKSND các cấp

cần có kế hoạch bảo đảm chất lượng KSV, chuẩn hoá KSV phù hợp với yêu cầu,

đặc điểm nhiệm vụ riêng của mỗi đơn vị. Trong đó, chú ý đào tạo đội ngũ KSV có

109

thâm niên trong công tác kiểm sát kết hợp với tiếp tục quan tâm tuyển dụng, đào tạo

đội ngũ KSV trẻ tuổi có năng lực, hướng đến xây dựng, thực hiện chuẩn hoá KSV.

Thứ ba, nâng cao chất lượng công tác tuyển dụng, bổ nhiệm, đào tạo, bồi dưỡng,

luân chuyển cán bộ, KSV đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp, bảo vệ QCN trong hoạt

động TTDS. Trước hết, cần phải triển khai có hiệu quả công tác tuyển dụng của

ngành KSND phải đảm bảo theo quy chế tuyển dụng cán bộ, công chức, viên chức

của Nhà nước và của Ngành kiểm sát, đặc biệt phải đảm bảo công bằng, minh bạch.

Cần có cơ chế xét tuyển đang được thực hiện tại một vài địa phương miền núi,

chính sách xét tuyển điểm chỉ nên áp dụng cho đối tượng là đồng bào dân tộc thiểu

số tại các địa phương vùng sâu, vùng xa. Số lượng hồ sơ dự tuyển phải có ít nhất

nhiều hơn số hồ sơ cần tuyển dụng để có sự lựa chọn. Đặc biệt chú ý tới công tác

đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ KSV cả về trình độ chuyên môn, nghiệp vụ và trình độ

học tập, rèn luyện, bồi dưỡng chính trị, đạo đức nghề nghiệp. Trong công tác đào

tạo, bồi dưỡng, bố trí đội ngũ KSV cần chú ý bố trí, sắp xếp sao cho tương xứng với

trình độ của KSV, cũng như tính chất từng lĩnh vực công tác của VKSND. Hoàn

thiện công tác đào tạo cán bộ, công tác kiểm sát hoạt động tư pháp đáp ứng yêu cầu

công tác, bảo đảm các phương tiện phục vụ chuyên môn cho cán bộ, bảo đảm điều

kiện để cán bộ công tác theo đúng chuyên ngành, lĩnh vực đào tạo; Rà soát, đào tạo,

bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ đội ngũ KSV, KTV các cấp (sơ

cấp, trung cấp, cao cấp, KSV VKSND tối cao) giải quyết án dân sự theo hướng

chuyên môn hoá, có trình độ và năng lực đối với lĩnh vực kiểm sát giải quyết vụ án

dân sự để nâng cao chất lượng công tác kiểm sát đối với lĩnh vực này. Cần chú

trọng đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn về nghiệp vụ biên tập, soạn thảo hồ sơ án,

kháng nghị đối với đội ngũ KSV, KTV, cán bộ thực hiện công tác kiểm sát giải

quyết án dân sự.

3.2.1.7 Cải thiện cơ sở vật chất, phương tiện làm việc và tăng cường chế độ

lương, phụ cấp ưu đãi cho đội ngũ cán bộ, KSV.

Nghị quyết 49 – NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về công tác tư

pháp đã nêu rõ: Xây dựng và hoàn chỉnh chế độ phân cấp kinh phí đối với từng cơ

110

quan và hoạt động tư pháp theo hướng kinh phí tư pháp được Quốc hội bố trí và

phân cấp cho từng cơ quan tư pháp trực tiếp quản lí và sử dụng, từng bước xây

dựng trụ sở làm việc hiện đại, đầy đủ tiện nghi, tăng cường ứng dụng công nghệ

thông tin phục vụ hoạt động của các cơ quan tư pháp. Vì vậy, việc tăng cường cơ sở

vật chất, trang thiết bị, phương tiện làm việc đối với ngành kiểm sát là yêu cầu rất

quan trọng và cấp thiết đối với thời điểm hiện nay. Có cơ sở vật chất tốt, trang thiết

bị và phương tiện tốt thì sẽ đảm bảo được hoạt động chuyên môn của ngành kiểm

sát. Để có đầy đủ nguồn lực thực hiện được các chức năng, nhiệm vụ của ngành

kiểm sát phải tăng cường cơ sở vật chất, phương tiện làm việc cho VKSND các cấp,

xây dựng hệ thống trụ sở làm việc của Ngành kiểm sát hiện đại. Tăng cường nguồn

kinh phí đầu tư cho trang thiết bị, phương tiện phục vụ hoạt động của ngành kiểm

sát. VKSND tối cao phải chủ trì xây dựng đề án tăng cường cơ sở vật chất, trang

thiết bị cho ngành kiểm sát trình các cơ quan có thẩm quyền phê chuẩn nhằm đảm

bảo yêu cầu cơ sở vật chất phục vụ các hoạt động hành nghề của KSV nhằm đem lại

hiệu suất làm việc cao và đảm bảo an toàn, góp phần thực hiện tốt tôn chỉ, mục đích

của chiến lược cải cách tư pháp đã đặt ra. Chính vì thế, đầu tư cơ sở vật chất, kỹ

thuật đối với VKSND là sự đầu tư cần thiết cả về nguồn lực, qui mô cũng như chất

lượng có ý nghĩa quan trọng đối với hoạt động của hệ thống các cơ quan tư pháp nói

chung và VKSND nói riêng. Đó là đầu tư vào việc xây dựng hệ thống các trụ sở làm

việc, trang cung cấp các phương tiện dụng cụ để phục vụ tốt hoạt động kiểm sát các

hoạt động tư pháp của VKSND. Việc đảm bảo cơ sở vật chất kỹ thuật đối với

VKSND cũng đòi hỏi sự bổ sung đầy đủ về trang thiết bị kỹ thuật tiên tiến để phục

vụ các hoạt động của VKSND hoà nhập với hoạt động tư pháp quốc tế, phù hợp với

sự hội nhập quốc tế của Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hoá.

3.2.2 Giải pháp riêng áp dụng đối với VKSND tỉnh Đắk Lắk

3.2.2.1. Nâng cao nhận thức của KSV về QCN và trách nhiệm bảo vệ QCN

thông qua hoạt động kiểm sát giải quyết các vụ việc dân sự

Tiếp tục quán triệt và nâng cao nhận thức cho cán bộ, KSV làm công tác

kiểm sát việc giải quyết các vụ án dân sự tại đơn vị, VKSND cấp mình về các quy

111

định của Luật tổ chức VKSND năm 2014, BLTTDS năm 2015 và các văn bản pháp

luật khác có liên quan như Chỉ thị số 04/CT- VKSTC ngày 22/3/2018 của Viện

trưởng VKSND tối cao về tăng cường các biện pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả

công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân gia đình, hành chính,

kinh doanh thương mại, lao động và những việc khác theo quy định của pháp

luật; Chỉ thị số 10/CT-VKSTC ngày 06/4/2016 của Viện trưởng VKSND tối cao

“Về tăng cường công tác kháng nghị phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm các vụ

việc dân sự, vụ án hành chính”; quán triệt, thực hiện đầy đủ: “Quy định về hướng

dẫn hoạt động của KSV tham gia phiên tòa dân sự sơ thẩm” (Ban hành kèm theo

Quyết định số 458/QĐ-VKSTC ngày 04/10/2019 của Viện trưởng VKSND tối cao);

“Quy định về hướng dẫn hoạt động của KSV tham gia phiên tòa dân sự phúc thẩm”

(Ban hành kèm theo Quyết định số 363/QĐ-VKSTC ngày 12/10/2020 của Viện

trưởng VKSND tối cao); Hướng dẫn số 33/HD-VKSTC ngày 18/10/2019; “Hướng

dẫn phát hiện vi phạm của bản án, quyết định dân sự, thực hiện thẩm quyền kháng

nghị ngang cấp theo thủ tục phúc thẩm nhằm giảm tỷ lệ bản án, quyết định của Tòa

án bị Tòa án cấp trên hủy có trách nhiệm của VKS ngang cấp, đông thời nâng cao

tỷ lệ chất lượng kháng nghị phúc thẩm của VKS ngang cấp”; các quy định của pháp

luật; các Chỉ thị, Hướng dẫn của ngành về Công tác kiểm sát giải quyết các vụ việc

dân sự... Chú trọng đến các nội dung quy định mới về việc thực hiện nhiệm vụ,

quyền hạn của VKSND, các quy định, quy chế nghiệp vụ của ngành để các cán bộ,

KSV trong đơn vị hiểu được ý nghĩa và tầm quan trọng trong việc bảo vệ QCN

thông qua công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ việc dân sự. Việc thực hiện tốt

và có hiệu quả công tác này, ngoài việc giúp cho chúng ta thực hiện tốt chức năng,

nhiệm vụ chung của ngành, sẽ còn góp phần nâng cao hình ảnh, vị thế của ngành

Kiểm sát nhân dân trong khối các cơ quan tố tụng nói riêng và trong toàn hệ thống

chính trị của Nhà nước ta nói chung, bảo vệ quyền và lợi ích của công dân.

3.2.2.2. Nâng cao năng lực thực thi pháp luật trong hoạt động kiểm sát giải

quyết các vụ việc dân sự

112

VKS hai cấp cần tiếp tục xác định nâng cao chất lượng công tác kiểm sát việc

giải quyết các vụ việc dân sự là nhiệm vụ trọng tâm, chú trọng nâng cao chất lượng

kiến nghị, kháng nghị phúc thẩm. Cần tập trung nâng cao chất lượng kiểm sát án cấp

huyện, cấp tỉnh, những vụ việc mà VKS không tham gia phiên tòa nhằm tăng cường

hơn nữa việc phát hiện vi phạm để kháng nghị, kiến nghị. Tiếp tục thực hiện nghiêm

chỉ đạo của Viện trưởng VKSND tối cao yêu cầu Viện trưởng VKS các cấp trực tiếp

chịu trách nhiệm trong lĩnh vực công tác này; trực tiếp nghe báo cáo, quyết định việc

kháng nghị, bổ sung, rút kháng nghị; tập trung hơn nữa trong công tác chỉ đạo, chủ

động đề ra các giải pháp hiệu quả nhằm nâng cao chất lượng kiểm sát việc giải quyết

các vụ việc dân sự phấn đấu đạt và vượt chỉ tiêu của Quốc hội và của Ngành giao.

Nâng cao hiệu quả phát hiện vi phạm để thực hiện quyền kháng nghị, kiến

nghị, chủ động kiểm sát các hoạt động tố tụng từ khi Tòa án ra thông báo thụ lý vụ

việc và trong suốt quá trình giải quyết vụ việc. Chủ động nghiên cứu, thực hiện các

hướng dẫn, thông báo rút kinh nghiệm, các tài liệu tập huấn của các hội nghị chuyên

đề về lĩnh vực công tác này. Quán triệt Nghị quyết liên tịch số 01-NQLT/BCS ngày

11/5/2023 của Ban cán sự đảng VKSND tối cao và TAND tối cao về công tác kháng

nghị giám đốc thẩm và Thông báo số 197/TB-VKSTC ngày 06/10/2023 về ý kiến chỉ

đạo của Viện trưởng VKSND tối cao tại Hội nghị giao ban công tác Quý IV năm

2023 của Cơ quan VKSND tối cao, theo đó cần nghiên cứu kỹ, lựa chọn kháng nghị

những bản án, quyết định vi phạm nghiêm trọng, rõ ràng, việc kháng nghị có tính

thuyết phục cao, kháng nghị cần lập luận sắc bén, qua đó góp phần nâng cao tỷ lệ

kháng nghị được Hội đồng xét xử chấp nhận.

Tăng cường công tác sơ kết, tổng kết, hướng dẫn, giải đáp vướng mắc về nghiệp

vụ và pháp luật cho VKS cấp dưới; tăng cường sự phối hợp giữa VKS cấp trên và

cấp dưới; VKSND cấp trên thực hiện tốt công tác hướng dẫn nghiệp vụ và trả lời thỉnh

thị; rút kinh nghiệm, ban hành thông báo rút kinh nghiệm đối với các vụ án có thiếu sót

vi phạm, phổ biến những cách làm hay, sáng tạo; tăng cường tập huấn, đào tạo, bồi

dưỡng, kiểm tra nghiệp vụ. Các VKS cấp huyện phải phối hợp, kịp thời trao đổi

thông tin với Phòng 9 và Lãnh đạo Viện phụ trách để thống nhất quan điểm, nội

113

dung trước khi kháng nghị ngang cấp. Nếu VKSND cấp huyện thấy không chắc

chắn hoặc đã hết thời hạn kháng nghị ngang cấp thì có văn bản báo cáo để Phòng 9

kịp thời tham mưu Lãnh đạo VKSND tỉnh có quan điểm chỉ đạo. Khi phát hiện có

vi phạm pháp luật nghiêm trọng làm ảnh hưởng đến việc giải quyết đúng, khách

quan vụ án, thì phải cương quyết kháng nghị, tránh tình trạng nể nang. Trường hợp

còn có vướng mắc hoặc có nhiều ý kiến đánh giá khác nhau, thì báo cáo ngay lên

các phòng nghiệp vụ và lãnh đạo VKSND tỉnh để xin ý kiến trước khi thực hiện

việc kháng nghị hoặc không kháng nghị. Sau kháng nghị, KSV cần tiếp tục theo dõi

việc giải quyết kháng nghị của cấp phúc thẩm. Nếu có tài liệu, chứng cứ mới phát

sinh làm ảnh hưởng đến nội dung kháng nghị thì phải báo cáo và sao gửi ngay các

tài liệu mới đó cho Phòng 9 VKSND tỉnh để làm căn cứ thay đổi, bổ sung hoặc rút

kháng nghị cho phù hợp.

Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra trong những lĩnh vực công tác còn

hạn chế; giảm việc thanh tra, kiểm tra theo kế hoạch; tăng cường công tác tự kiểm

tra, thanh tra nội bộ, đột xuất. Lãnh đạo Viện cần tăng cường công tác kiểm tra đối

với cán bộ, KSV về việc xây dựng hồ sơ kiểm sát, chất lượng nghiên cứu, báo cáo

đề xuất quan điểm giải quyết; rút kinh nghiệm kịp thời đối với những tồn tại, thiếu

sót.

Thực hiện công tác cán bộ theo tinh thần Nghị quyết số 40-NQ/BCSĐ ngày

30/3/2022 của Ban Cán sự đảng VKSND tối cao và Chỉ thị số 05/CT-VKSTC ngày

18/10/2022 của Viện trưởng VKSND tối cao, đó là: Lựa chọn, bố trí, đào tạo, tự đào

tạo đội ngũ KSV có bản lĩnh, giỏi chuyên môn, nghiệp vụ đảm nhiệm khâu công tác

này. Có kế hoạch xây dựng đội ngũ công chức bảo đảm đáp ứng được yêu cầu công

việc, ổn định, có tính kế thừa. Chỉ luân chuyển, điều động KSV giỏi của khâu công

tác này khi đã có nhân sự có năng lực tương đương thay thế; KSV giỏi có nguyện

vọng được gắn bó lâu dài với công tác này thì xem xét chưa luân chuyển, điều động.

Trường hợp điều kiện, tiêu chuẩn tương đương thì ưu tiên chọn KSV, công chức làm

công tác kiểm sát án dân sự để quy hoạch, bổ nhiệm. Từng bước xây dựng đội ngũ

114

chuyên gia giỏi trong công tác này ở VKS các cấp. VKS huyện cần bố trí KSV

chuyên trách để ổn định, có kinh nghiệm công tác này.

Nâng cao năng lực của đội ngũ cán bộ, KSV, tăng cường đào tạo, bồi dưỡng

đối với cán bộ, KSV. Cán bộ, KSV là những người được giao nhiệm vụ thay mặt

VKS thực hiện chức năng KSHĐTP. Việc xây dựng đội ngũ cán bộ, KSV trong

sạch, có phẩm chất chính trị, đạo đức, năng lực và trách nhiệm nhằm bảo đảm hiệu

lực, hiệu quả của hoạt động kiểm sát là nội dung quan trọng và cấp thiết, là yếu tố

cốt lõi để nâng cao chất lượng công tác kiểm sát. Do đó, phải xác định công tác đào

tạo, bồi dưỡng đối với cán bộ, KSV là nhiệm vụ thường xuyên, liêc tục. Để nâng

cao ý thức chính trị và phẩm chất đạo đức cho đội ngũ cán bộ, KSV thì trước hết

phải tổ chức các lớp học tập nghiên cứu chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ Chí

Minh cho cán bộ, KSV; Quán triệt nghiêm túc và sâu rộng các chủ trương, chính

sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước; Hưởng ứng và tham gia tích cực cuộc vận

động “Học tập và làm theo đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”. Bên cạnh đó, cần

chủ động phối hợp với tỉnh ủy có kế hoạch chọn và cử cán bộ, KSV đi đào tạo về

trình độ lý luận chính trị, kiến thức quản lý Nhà nước để có đầy đủ trí tuệ, năng lực

nắm bắt những quan điểm, đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước,

tự mình lý giải được những vấn đề trong công tác hàng ngày và những vấn đề thực

tiễn đặt ra, có niềm tin vững chắc và tin tưởng tuyệt đối vào đường lối của Đảng,

chấp hành đúng pháp luật của Nhà nước. Lãnh đạo Viện cũng cần chăm lo quản lý,

giáo dục, rèn luyện phẩm chất đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên, đấu tranh

mạnh mẽ với những hành vi vi phạm pháp luật như tham nhũng, lãng phí, lối sống

thực dụng... Về nâng cao trình độ năng lực chuyên môn, để tạo sự chuyển biến đột

phá trong công tác đào tạo cán bộ cần kết hợp nhiều hình thức đào tạo đa dạng,

phong phú. Ngoài việc được cử đi để đào tạo, bồi dưỡng và tập huấn theo kế hoạch

của Ngành, công tác đào tạo tại chỗ cũng được coi là vô cùng quan trọng. Lãnh đạo

Viện cần bám sát kế hoạch đào tạo của đơn vị, thực hiện đào tạo tại chỗ với với

hình thức cầm tay chỉ việc, chủ động cử KSV có kinh nghiệm để hướng dẫn cán bộ

mới tuyển dụng, KSV mới bổ nhiệm. Ngoài ra, có thể tự đào tạo tại chỗ thông qua

115

việc tăng cường trao đổi kinh nghiệm giữa các địa phương, đơn vị; giữa các KSV có

kinh nghiệm với các KSV trẻ để các KSV mới bổ nhiệm tích lũy kinh nghiệm và

rèn luyện kỹ năng nhằm nâng cao chất lượng công tác kiểm sát giải quyết án dân sự.

3.2.2.3. Tăng cường trách nhiệm của người đứng đầu trong hoạt động kiểm

sát giải quyết các vụ việc dân sự

Tăng cường hơn nữa sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng đối với hoạt động của

VKSND một cách thường xuyên và toàn diện để công tác kiểm sát việc giải quyết

án dân sự đạt hiệu quả. Cơ chế phối hợp làm việc giữa các tổ chức Đảng với các cơ

quan tư pháp cần được xây dựng và hoàn thiện theo hướng: báo cáo định kỳ và ý

kiến định hướng về công tác tư pháp được cho bởi cấp uỷ; trách nhiệm tập thể và cá

nhân cấp ủy trong lãnh đạo, chỉ đạo công tác tư pháp, đặc biệt là công tác kiểm sát

việc giải quyết án dân sự cần được xác định rõ. Việc cung cấp tài liệu, chứng cứ để

giúp quá trình thụ lý, giải quyết vụ án dân sự có thể được kịp thời, chính xác khi

được chỉ đạo phối hợp bởi các ngành chức năng liên quan.

Vai trò, trách nhiệm, hiệu quả quản lý, chỉ đạo, điều hành hoạt động nghiệp

vụ của Lãnh đạo VKS có ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng, hiệu quả công tác

kiểm sát việc giải quyết án dân sự. Việc nâng cao chất lượng quản lý, chỉ đạo, điều

hành và tăng cường trách nhiệm của Lãnh đạo đối với cán bộ, KSV trong hoạt động

kiểm sát việc giải quyết án dân sự được xem là yếu tố quan trọng nâng cao chất

lượng công tác kiểm sát giải quyết án dân sự, cụ thể: Lãnh đạo Viện phải chỉ đạo,

hướng dẫn, kiểm tra các hoạt động nghiệp vụ của KSV, nhằm đảm bảo kiểm sát

chặt chẽ việc giải quyết vụ án dân sự từ khi thụ lý đến khi kết thúc vụ án; thực hiện

đầy đủ, đảm bảo chất lượng các quyền yêu cầu, kiến nghị theo quy định của pháp

luật. Lãnh đạo các đơn vị phải chỉ đạo xử lý kịp thời các vướng mắc của KSV, thực

sự thể hiện vai trò, trách nhiệm của mình đối với công việc. Lãnh đạo cần phát huy

trí tuệ tập thể thông qua việc họp Ủy ban kiểm sát để đánh giá chứng cứ và bàn biện

pháp tháo gỡ hoặc thỉnh thị cấp trên. Khi phê duyệt đường lối xét xử, Lãnh đạo phải

yêu cầu KSV báo cáo cụ thể các căn cứ và chứng cứ chứng minh, những vướng mắc

khi xử lý vụ án; phải thận trọng, khách quan, làm đúng vai trò, trách nhiệm khi phê

116

duyệt đường lối giải quyết án. Khi xảy ra vụ án bị Tòa án cấp phúc thẩm tuyên sửa,

hủy do lỗi của Tòa sơ thẩm mà VKS cấp sơ thẩm không phát hiện vi phạm để kháng

nghị thì Lãnh đạo Viện phải họp rút kinh nghiệm nghiêm túc và bàn biện pháp khắc

phục. Thông qua công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành, Lãnh đạo VKS cũng cần

quan tâm, chỉ đạo thực hiện thường xuyên công tác tổng kết thực tiễn, rút kinh

nghiệm trong quá trình kiểm sát giải quyết án dân sự. Trên cơ sở những vi phạm,

thiếu sót trong công tác kiểm sát giải quyết án dân sự, cần tổng kết, phân tích để rút

ra những vấn đề cần khắc phục trong hoạt động nghiệp vụ và công tác quản lý, chỉ

đạo, điều hành để rút kinh nghiệm không để xảy ra các vi phạm tương tự. Xem xét

trách nhiệm của Lãnh đạo VKS cấp dưới khi để xảy ra sai sót, vi phạm nhưng VKS

không phát hiện để thực hiện các quyền yêu cầu, kiến nghị, kháng nghị; trường hợp

VKS cấp dưới xin ý kiến và VKS cấp trên cho ý kiến thì khi xảy ra sai sót phải

kiểm điểm trách nhiệm của VKS cấp trên, nhằm nâng cao trách nhiệm và chất

lượng hoạt động của VKS các cấp. Thực hiện nghiêm túc việc kiểm điểm trách

nhiệm, tránh tình trạng KSV chịu trách nhiệm nặng hơn Lãnh đạo hoặc VKS cấp

dưới bị kiểm điểm trách nhiệm trong khi VKS cấp trên hướng dẫn nghiệp vụ sai thì

không bị kiểm điểm. Bên cạnh đó, thông qua công tác thực tiễn cũng cần xem xét,

đánh giá, đề cao những kết quả tích cực đã đạt được qua công tác kiểm sát giải

quyết án Dân sự để từ đó tiếp tục phát huy. Đồng thời có chế độ khen thưởng, biểu

dương kịp thời đối với những cá nhân có thành tích để tạo động lực phấn đấu hơn

nữa của mỗi cán bộ, KSV.

Tiểu kết chương 3

Chương 3 đã tập trung vào việc phân tích và làm rõ quan điểm về việc tăng

cường đảm bảo QCN thông qua hoạt động kiểm sát để giải quyết các vụ việc dân sự

và hoàn thiện pháp luật về bảo vệ quyền và lợi ích của công dân trong hoạt động tố

tụng. Phân tích này xuất phát từ nhận thức về hạn chế và vướng mắc của hệ thống

pháp luật hiện hành cũng như nguyên nhân gây ra những hạn chế, vướng mắc đó.

Trong nội dung của giải pháp hoàn thiện pháp luật, chú trọng vào việc hoàn

thiện BLTTDS, đây được coi là cơ sở pháp lý quan trọng để tổ chức thực hiện

117

nhiệm vụ bảo vệ quyền và lợi ích của công dân trong hoạt động TTDS của VKSND.

Ngoài ra, đã được tiến hành phân tích và chỉ rõ kết quả đã đạt được cũng như các

hạn chế, bất cập, thiếu sót của VKSND tỉnh Đắk Lắk trong việc thực hiện nhiệm vụ

bảo vệ QCN trong hoạt động TTDS.

Các giải pháp để đảm bảo thực hiện việc bảo vệ quyền và lợi ích của công

dân trong hoạt động TTDS đã được nêu ra. Để đảm bảo rằng các vụ án được giải

quyết theo đúng pháp luật, vai trò của VKS cần được đẩy mạnh và nâng cao trong

công tác kiểm sát giải quyết án dân sự. VKS có vai trò then chốt trong việc duy trì

an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội và góp phần vào sự phát triển kinh tế - xã

hội, cũng như đảm bảo cho hệ thống pháp luật Xã hội chủ nghĩa được thực thi. Các

giải pháp hoàn thiện thể chế và nhóm giải pháp trên đã bám sát chủ trương của

Đảng Cộng sản Việt Nam và Nhà nước về bảo vệ QCN trong nhà nước pháp quyền

XHCN Việt Nam giai đoạn ngày nay. Nội dung cốt lõi trong nhóm giải pháp trên đã

khẳng định rõ ràng quan điểm Nhà nước thừa nhận, trân trọng, bảo vệ, thúc đẩy

QCN; đồng thời, xác định địa vị, nhiệm vụ của VKSND trong cơ quan nhà nước với

chức năng hiến định – bảo vệ QCN.

118

KẾT LUẬN

Việc bảo vệ QCN trong công tác kiểm sát giải quyết các tranh chấp dân sự

của VKNSD là một việc làm có tính chất cấp bách, và có vai trò hết sức quan trọng

đối với giai đoạn hiện nay. Thể chế hoá đường lối, chủ trương của Đảng và Pháp

luật về bảo vệ QCN đã thể hiện qua nhiều Văn kiện, Nghị quyết, Chỉ Thị. ... của

Đảng và những chính sách, pháp luật hiện hành. Vai trò của VKSND đối với bảo vệ

QCN là vô cùng to lớn, quan trọng và không có lực lượng nào có thể thay thế được.

Luận văn đã nghiên cứu sâu những vấn đề lý luận về QCN, trách nhiệm của

VKSND trong việc bảo vệ QCN thông qua hoạt động kiểm sát giải quyết các vụ

việc dân sự. Qua thực tiễn nghiên cứu, đã đánh giá được thực trạng trách nhiệm của

VKSND tỉnh Đắk Lắk trong bảo vệ QCN, từ đó đưa ra được những quan điểm và

giải pháp về tăng cường trách nhiệm của VKSND tỉnh Đắk Lắk trong bảo vệ QCN

thông qua kiểm sát giải quyết các vụ việc dân sự hiện nay. Cần tiếp tục nâng cao

trách nhiệm của VKSND đối với hoạt động TTDS nhằm phục vụ yêu cầu cải cách

tư pháp đối với công tác bảo vệ QCN. Một điểm mấu chốt của vấn đề trên là cần

nâng cao năng lực, trình độ, phẩm chất và đạo đức công tác đối với lực lượng KSV

nhằm đáp ứng với yêu cầu từ thực tế giai đoạn hiện nay. Để đáp ứng được yêu cầu

hiến định bảo vệ QCN của VKSND đối với hoạt động tư pháp, cần nghiên cứu, ban

hành chính sách pháp luật đồng bộ và xem chính sách này là kim chỉ nam đối với

mọi hoạt động của cơ quan VKSND. Từ các bước tiến này, mỗi cán bộ và KSV sẽ

nhận thức rõ hơn để đi vào hành động trong thực tiễn công tác. Ngoài ra, cần tiếp

tục nghiên cứu, hoàn thiện hệ thống pháp luật liên ngành và xuyên ngành về bảo vệ

QCN để VKSND có thể ứng xử linh hoạt hơn trước yêu cầu mới từ cải cách tư

pháp. Đồng thời, việc hoàn thiện lý luận nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam là

một ưu tiên hàng đầu trong tương lai gần.

119

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Hiến pháp năm 2013.

2. Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014.

3. Bộ luật Dân sự năm 2015.

4. Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

5. Thomas Hobbes, Leviathan (1, XIV), 1658.

6. Nguyễn Đăng Dung, Vũ Công Giao, Lã Khánh Tùng (đồng chủ biên), Giáo trình

Lý luận và pháp luật về quyền con người, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2009, tr.

43 – 45.

7. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb

Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, tr.134.

8. Đinh Ngọc Vượng “Chủ quyền quốc gia và nhân quyền”, trong sách: GS.TS Võ

Khánh Vinh (chủ biên), Quyền con người tiếp cận đa ngành và liên ngành khoa học

xã hội, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 2009, tr.182.

9. J.A. Jolowicz (2000), On Civil Procedue {Về Luật tố tụng dân sự}, Nxb

Cambridge University Press, tr.100.

10. Khuất Nga Văn (2008), Vị trí, Vai trò Viện Kiểm sát trong tố tụng dân sự theo

yêu cầu cải cách tư pháp, Nxb Tư pháp, tr.36.

11. Nguyễn Công Bình (2006), Bảo đảm quyền bảo vệ của đương sự trong tố tụng

dân sự Việt Nam, Luận án tiến sĩ luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, tr.55.

12. Phạm Hữu Nghị (2000), Về nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự trong

tố tụng dân sự, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, 12 (152), tr.41.

13. Nguyễn Thái Phúc (2005), Những chức năng cơ bản trong tố tụng dân sự, Tạp

chí Nhà nước và pháp luật, số 6, tr.48.

14. Đào Thị Tuyết, Bảo đảm quyền bình đẳng trước Tòa án của đương sự trong tố

tụng dân sự, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Hà Nội, tr.20.

120

15. Nguyễn Thái Phúc (2007), Viện kiểm sát hay Viện công tố, Tạp chí Kiểm sát, số

14.

16. Lê Hữu Thể (chủ biên) (2008), Thực hành quyền công tố và KSHĐTP trong giai

đoạn điều tra, Nxb Tư pháp, Hà Nội, tr.39.

17. Đặng Công Cường (2013), Vai trò của Tòa án trong việc bảo vệ quyền con

người ở Việt Nam hiện nay, Luận án tiến sỹ luật học, trường Đại học Luật Hà Nội,

tr.45.

18. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ

quá độ lên chủ nghĩa xã hội năm 1991, Hà Nội.

19. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ

quá độ lên chủ nghĩa xã hội năm 1991 (bổ sung, phát triển năm 2011), Hà Nội.

121