
284 -
PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG KINH TẾ TƯ NHÂN:
CẦN TIẾP TỤC ĐỔI MỚI QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC
ThS Lê Thị Bích Thảo*
TÓM TẮT
Kể từ khi kinh tế tư nhân được thừa nhận (tháng 3/1989) đến nay, khu vực kinh tế này đã
thực sự trở thành bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế, đóng góp rất lớn vào quá
trình tăng trưởng kinh tế và tiến bộ xã hội. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được,
khu vực kinh tế tư nhân vẫn còn tồn tại những hạn chế cần có sự đổi mới quản lý của nhà
nước. Thông qua phương pháp phân tích, thống kê kinh tế các số liệu thứ cấp về tình hình
phát triển của kinh tế tư nhân giai đoạn 2005 – 2019, bài viết đánh giá những thành tựu
và hạn chế trong công tác quản lý kinh tế tư nhân; từ đó đề xuất một số giải pháp chủ yếu,
khả thi nhằm thúc đẩy kinh tế tư nhân phát triển bền vững trong thời gian tới.
Từ khoá: Phát triển bền vững kinh tế tư nhân, đổi mới quản lý nhà nước.
1. Đặt vấn đề
Trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần ở Việt Nam, kinh tế tư nhân ngày càng
đóng vai trò quan trọng vào việc thúc đẩy tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế
theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, góp phần khơi dậy tiềm năng của đất nước, tạo
ra nhiều việc làm cho người lao động, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế đối ngoại và
mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế… nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế. Tuy
nhiên, khu vực kinh tế tư nhân vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế nhất định với một trong các
nguyên nhân từ công tác quản lý của nhà nước, khiến cho khu vực kinh tế này chưa phát
triển tương xứng với tiềm năng của nó và kỳ vọng của đất nước. Do đó, tiếp tục đổi mới
công tác quản lý nhà nước đối với khu vực kinh tế tư nhân để mang lại sự phát triển bền
vững cho khu vực kinh tế này trong thời gian tới là vấn đề rất cần thiết và có ý nghĩa thực
tiễn to lớn.
2. Cơ sở lý luận về phát triển bền vững kinh tế tư nhân
Khái niệm “kinh tế tư nhân” được chính thức sử dụng từ Hội nghị lần thứ sáu Ban
Chấp hành Trung ương khoá VI (tháng 3/1989), trong đó có kinh tế cá thể, tiểu chủ và tư
bản tư nhân, các loại hình kinh tế này được coi là các hình thức của kinh tế tư nhân.
* Khoa Kinh tế – Luật, Trường Đại học Tài chính – Marketing.

- 285
Hiện nay vẫn còn nhiều cách lý giải về khu vực kinh tế tư nhân, nhưng nhìn chung có
thể hiểu khái niệm kinh tế tư nhân theo hai cấp độ như sau:
Theo cấp độ khái quát: kinh tế tư nhân là khu vực kinh tế nằm ngoài kinh tế nhà nước,
bao gồm các doanh nghiệp trong nước và nước ngoài, trong đó tư nhân nắm giữ trên 50%
vốn đầu tư.
Theo cấp độ hẹp: kinh tế tư nhân gồm có kinh tế cá thể, tiểu chủ và kinh tế tư bản
tư nhân.
Xét về mặt quan hệ sở hữu, kinh tế tư nhân là loại hình sở hữu tư nhân, khác với sở
hữu toàn dân và sở hữu tập thể. Khu vực kinh tế tư nhân là khu vực kinh tế gắn liền với loại
hình sở hữu tư nhân, trong đó các chủ thể của nó tự chủ tiến hành sản xuất kinh doanh và
tự chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình, vì lợi ích trực tiếp của cá nhân, hay tập
thể cá nhân hoạt động dưới nhiều hình thức kinh tế khác nhau, dù có thuê hay không thuê
lao động. Đây là khu vực kinh tế bao gồm nhiều trình độ và hình thức kinh tế khác nhau.
Nội hàm của kinh tế tư nhân rất rộng cả về hình thức sở hữu lẫn ngành nghề mà các
chủ thể tham gia sản xuất kinh doanh. Trong nền kinh tế thị trường, căn cứ vào các hình
thức tổ chức sản xuất kinh doanh và vai trò của các hình thức này trong việc tạo ra sản
phẩm cho xã hội, khu vực kinh tế tư nhân được chia thành các loại hình kinh tế cá thể và
các doanh nghiệp tư nhân.
Kinh tế cá thể là loại hình kinh tế hộ gia đình hay cá nhân, tiến hành sản xuất kinh
doanh dựa trên quan hệ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất và lao động của chính hộ gia
đình hay cá nhân đó.
Doanh nghiệp tư nhân là loại hình kinh tế được tổ chức theo hình thức doanh nghiệp,
công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, tập đoàn,… tiến hành sản xuất kinh doanh
dựa trên quan hệ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất và thuê mướn lao động. Doanh nghiệp
tư nhân được hình thành và phát triển khi lực lượng sản xuất và phân công lao động đã phát
triển ở trình độ cao. Quy luật chi phối hoạt động của doanh nghiệp tư nhân là các quy luật
của kinh tế thị trường: quy luật cung – cầu, quy luật giá trị, quy luật giá trị thặng dư, quy
luật cạnh tranh,… Với hình thức tổ chức này, năng suất lao động và hiệu quả sản xuất được
tăng lên đáng kể. Do đó, doanh nghiệp tư nhân là động lực chủ yếu thúc đẩy tăng trưởng
và phát triển kinh tế trong nền kinh tế thị trường.
Hội nghị lần thứ VI được coi là bước đột phá thứ nhất đối với kinh tế tư nhân nước
ta, tạo tiền đề cho những đột phá mạnh mẽ hơn sau này.
Kể từ Đại hội Đảng lần thứ VI đến lần thứ VIII (1986 – 2000), những đổi mới trong
quan điểm, chủ trương của Đảng về vị trí, vai trò của kinh tế tư nhân tiếp tục được khẳng

286 -
định và phát triển khi nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần được công nhận, kinh tế tư
nhân được coi là một thành phần kinh tế độc lập, có tiềm năng phát triển và nhìn nhận kinh
tế tư nhân có vị trí, vai trò bình đẳng với các thành phần kinh tế khác.
Để hiện thực hoá chủ trương này, Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản pháp quy như
Pháp lệnh về sở hữu công nghiệp (1989), Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế (1989), Pháp lệnh
về thừa kế (1990), Pháp lệnh về Hợp đồng dân sự (1991), Pháp lệnh về nhà ở (1991),... Hệ
thống văn bản pháp lý sơ khởi này có ý nghĩa quan trọng nhằm khẳng định quyền sở hữu
và tự do kinh doanh của cá nhân và pháp nhân. Nói cách khác, việc các thị trường và yếu tố
thị trường được xây dựng và thể chế hóa đã đồng thời tạo lập nền tảng cơ bản cho sự phát
triển của khu vực kinh tế tư nhân.
Trong các kỳ Đại hội tiếp theo từ lần thứ IX đến lần thứ XI (2001 – 2011), tầm nhìn
về kinh tế thị trường trở nên rõ nét hơn với việc cụ thể hóa định hướng phát triển kinh tế –
xã hội theo mô hình “nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”. Nghị quyết Hội
nghị Trung ương năm khoá IX (tháng 3/2002) xác định: “Kinh tế tư nhân là bộ phận cấu
thành quan trọng của nền kinh tế quốc dân. Phát triển kinh tế tư nhân là vấn đề chiến lược
lâu dài trong phát triển nền kinh tế nhiều thành phần định hướng xã hội chủ nghĩa, góp phần
quan trọng thực hiện thắng lợi nhiệm vụ trung tâm là phát triển kinh tế, công nghiệp hoá,
hiện đại hoá, nâng cao nội lực của đất nước trong hội nhập kinh tế quốc tế”. Đại hội thứ X
(năm 2006) thể hiện bước đột phá trong nhận thức lý luận về vai trò kinh tế tư nhân trong
nền kinh tế nhiều thành phần ở nước ta khi khẳng định: “Kinh tế tư nhân có vai trò quan
trọng, là một trong những động lực của nền kinh tế” và “Xoá bỏ mọi sự phân biệt đối xử
theo hình thức sở hữu”. Đại hội XI (năm 2011) của Đảng tiếp tục xác định phải hoàn thiện
cơ chế, chính sách để phát triển mạnh kinh tế tư nhân. Có thể thấy, quan điểm coi kinh tế
tư nhân là một trong những động lực của nền kinh tế qua hai kỳ Đại hội X và XI là bước
đột phá thứ hai trong tư duy của Đảng về vị trí, vai trò của kinh tế tư nhân trong nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Trong thời gian này, quá trình hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường có nhiều dấu mốc
phát triển mới, đáng chú ý là việc ban hành Luật Doanh nghiệp (2000) đã giảm mạnh chi
phí gia nhập thị trường, khơi dậy tinh thần doanh nhân, phát huy nội lực trong khu vực
kinh tế tư nhân; và quá trình gia nhập WTO đã thúc đẩy Việt Nam xây dựng và ban hành
hàng loạt đạo luật làm nền tảng cho kinh tế thị trường như Luật Doanh nghiệp (2005),
Luật Thương mại (2005), Luật Cạnh tranh (2004), Bộ luật Dân sự (2005), sự ra đời của thị
trường chứng khoán… với những chuẩn mực tiếp cận gần hơn với các thông lệ quốc tế về
kinh tế thị trường.
Đến năm 2016, Đại hội Đảng lần thứ XII thể hiện bước đột phá thứ ba khi Đảng một
lần nữa khẳng định “kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế”, “xoá

- 287
bỏ mọi rào cản, định kiến, tạo mọi điều kiện thuận lợi cho kinh tế tư nhân phát triển lành
mạnh, đúng định hướng”.
Như vậy, tổng kết tinh thần của Đảng qua các kỳ Đại hội kể từ năm 1986 đến nay,
ta thấy rõ ba bước đổi mới đột phá trong nhận thức của Đảng về kinh tế tư nhân. Ba bước
đột phá nói trên một lần nữa khẳng định sự tồn tại tất yếu và vị trí quan trọng của kinh tế
tư nhân.
Gần đây, năm 2019, Chính phủ đã phê duyệt kế hoạch phát triển bền vững doanh
nghiệp khu vực tư nhân đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2030 với các nội dung:
Xoá bỏ mọi rào cản tâm lý xã hội và môi trường kinh doanh cho doanh nghiệp khu
vực tư nhân phát triển, không hạn chế quy mô, có quyền tự do kinh doanh những ngành
nghề mà pháp luật không cấm.
Phát triển doanh nghiệp khu vực tư nhân hiệu quả, bền vững, đảm bảo kết hợp chặt
chẽ, hợp lý và hài hoà giữa hiệu quả kinh tế với trách nhiệm xã hội, bảo vệ tài nguyên và
môi trường.
Ưu tiên hỗ trợ phát triển doanh nghiệp khu vực tư nhân có quy mô nhỏ và vừa;
Khuyến khích xây dựng các thương hiệu lớn của doanh nghiệp Việt Nam trên thị trường
trong và ngoài nước.
Những luận cứ trên chính là nền tảng pháp lý vững chắc, là cơ hội cho kinh tế tư nhân
phát triển bền vững.
3. Phương pháp nghiên cứu
Phân tích này chủ yếu sử dụng các số liệu thứ cấp: số liệu có liên quan đến sự phát
triển kinh tế tư nhân từ Tổng cục thống kê; số liệu từ các báo cáo của các Bộ, ngành; các
bài báo và các công trình khoa học uy tín có liên quan. Phương pháp được sử dụng chủ yếu
trong nghiên cứu này bao gồm: phân tích và tổng hợp các số liệu thu thập được; phương
pháp phân tích thống kê kinh tế, phương pháp so sánh.
4. Thực trạng phát triển kinh tế tư nhân
Với những chủ trương, chính sách đúng đắn của Đảng và Nhà nước, kinh tế tư nhân
không ngừng lớn mạnh và gặt hái được nhiều thành tựu to lớn, góp phần giải quyết nhiều
vấn đề kinh tế – xã hội của đất nước. Đó là sự gia tăng ổn định về quy mô trong những năm
qua; sự đóng góp ổn định vào GDP của đất nước; gia tăng vốn đầu tư cho nền kinh tế; tạo
thêm nhiều việc làm cho người lao động, góp phần giải quyết nhiều vấn đề an sinh xã hội.

288 -
Bảng 1. Số doanh nghiệp đăng ký mới giai đoạn 2011 – 2019
Năm 2011 2012 2013 2014 2015 2016 2017 2018 2019
Số doanh nghiệp đăng
ký mới
61,792 69,874 76,955 74,842 94,754 110,100 128,859 131,275 138,139
Số doanh nghiệp đăng
ký luỹ kế
576,876 646,750 723,705 798,547 893,301 1,003,401 1,132,260 1,263,481 1,401,620
Số doanh nghiệp hoạt
động thực tế (luỹ kế)
324,691 346,777 373,213 402,326 442,485 477,808 561,064 628,760 677,617
Số doanh nghiệp ngưng
hoạt động hoặc giải thể
(luỹ kế)
252,185 299,973 350,495 396,221 450,816 525,593 571,196 634,721 724,003
Nguồn: Cục quản lý đăng ký kinh doanh (2020)
Số lượng doanh nghiệp đăng ký mới có tăng lên ổn định hàng năm, điều này cho thấy
quy mô của khu vực kinh tế tư nhân vẫn tăng trưởng ổn định.
Thứ hai là sự đóng góp ổn định vào GDP từ khu vực kinh tế tư nhân.
29.34 29.01 29.39 29.01 28.73 28.69 28.5 28.6 27.7 27.06
3.99 3.98 44.03 4.04 4.01 3.95 3.8 3.7 3.63
38.97 39.89 40.62 39.49 39.29 39.13 39.4 38 38.3 39.05
15.15 15.66 16.04 17.36 17.89 18.07 18.2 19.6 20.3 20.35
2010 2011 2012 2013 2014 2015 2016 2017 2018 2019
Kinh tế nhà nước Kinh tế tập thể Kinh tế tư nhân Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài
Hình 1. Đóng góp vào GDP phân theo khu vực kinh tế (đơn vị tính: %)
Nguồn: Số liệu của Tổng Cục thống kê năm 2019
Trong giai đoạn 2010 – 2019, đóng góp vào GDP từ khu vực kinh tế ngoài nhà nước
(bao gồm KTTN và kinh tế tập thể) chiếm tỷ trọng lớn nhất, khoảng 43%, tỷ trọng này
được duy trì ổn định qua các năm, cho thấy sự tăng trưởng ổn định của kinh tế tư nhân.
Thứ ba, vốn đầu tư phát triển của khu vực kinh tế ngoài nhà nước trong tổng đầu tư
toàn xã hội ngày càng tăng lên.

