
Tuyển tập Hội nghị Khoa học thường niên năm 2024. ISBN: 978-604-82-8175-5
458
PHÁT TRIỂN KINH TẾ TUẦN HOÀN Ở VIỆT NAM:
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP
Hoàng Thị Thu Hiền
Trường Đại học Thuỷ lợi, email: hoangthithuhien@tlu.edu.vn
1. GIỚI THIỆU CHUNG
1.1. Đặt vấn đề
Thực hiện kinh tế tuần hoàn là giải pháp
trọng tâm để đổi mới mô hình tăng trưởng,
nâng cao chất lượng, hiệu quả, năng lực cạnh
tranh, cải thiện năng suất lao động, tạo ra
các chuỗi giá trị gia tăng mới, hiệu quả cao,
hài hoà mối quan hệ giữa kinh tế với bảo vệ
môi trường, góp phần thực hiện các cam kết
về bảo tồn thiên nhiên, đa dạng sinh học,
trung hoà carbon và phát thải ròng bằng 0
vào năm 2050... Tuy nhiên phát triển Kinh tế
tuần hoàn tại Việt Nam cũng đang đặt ra
nhiều vấn đề khó khăn, hạn chế, cần có giải
pháp để khắc phục.
1.2. Cơ sở lý thuyết
- Khái niệm: KTTH là một hệ thống có tính
tái tạo và khôi phục thông qua các kế hoạch
và thiết kế chủ động. Nó thay thế khái niệm
“kết thúc vòng đời” của vật liệu bằng khái
niệm khôi phục, chuyển dịch theo hướng sử
dụng năng lượng tái tạo, không dùng các hóa
chất độc hại gây tổn hại tới việc tái sử dụng và
hướng tới giảm thiểu chất thải thông qua việc
thiết kế vật liệu, sản phẩm, hệ thống kỹ thuật
và cả các mô hình kinh doanh trong phạm vi
của nó (Ellen MacArthur Foundation, 2013).
- Nguyên tắc của kinh tế tuần hoàn:
Kinh tế tuần hoàn là một hệ thống kinh tế
được phục hồi và tái tạo theo thiết kế, dựa
trên ba nguyên tắc chính: Bảo tồn và tăng
cường vốn tự nhiên, tối ưu hoá năng suất tài
nguyên và thúc đẩy hiệu quả của hệ thống.
- Mô hình kinh tế tuần hoàn:
Quỹ Ellen MacArthur đưa ra mô hình đơn
giản, dễ áp dụng và có phạm vi ứng dụng bao
trùm nhất nên có thể sử dụng làm chỉ dẫn cho
việc xây dựng các mô hình kinh doanh KTTH
đối với từng trường hợp cụ thể. Mô hình này
được tóm tắt bằng sơ đồ trong hình 1.
Hình 1. Mô hình kinh doanh theo KTTH
Nguồn: Quỹ Ellen MacArthur (2015)
Hiện nay đã có nhiều nghiên cứu liên quan
đến kinh tế tuần hoàn cả về cơ sở lý luận và
thực tiễn tuy nhiên chưa có nghiên cứu đánh
giá tổng quan về kết quả đạt được khi áp
dụng mô hình KTTH tại Việt Nam trong thời
gian qua.
2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Bài viết sử dụng phương pháp nghiên cứu
định tính. Tác giả tiến hành thu thập dữ liệu
thứ cấp từ các bài báo chuyên ngành, các tạp
chí khoa học uy tín của Việt Nam: Tạp chí
Tài chính, Tạp chí Nông thôn và Phát triển từ
2020-5/2024. Các kết quả nghiên cứu đáng
tin cậy này được sử dụng làm cơ sở định
hướng cho việc phân tích, giải thích và đề
xuất các giải pháp trong bài viết.

Tuyển tập Hội nghị Khoa học thường niên năm 2024. ISBN: 978-604-82-8175-5
459
3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
3.1. Kết quả ban đầu
Thực tế cho thấy, KTTH và mô hình kinh tế
tuần hoàn đã xuất hiện ở Việt Nam, trước hết
là ở trong nông nghiệp hoặc trong nông - công
nghiệp kết hợp, nhưng chưa có sự thống nhất
về nhận thức, còn thiếu những cơ chế chính
sách cần thiết và việc vận dụng kinh nghiệm
của các nước một cách linh hoạt, sáng tạo để
thiết lập mô hình kinh tế tuần hoàn vào điều
kiện cụ thể và thể chế đặc thù của Việt Nam.
Trong lĩnh vực nông nghiệp ở Việt Nam,
việc sử dụng các mô hình có liên quan đến
kinh tế tuần hoàn, tận dụng phế phẩm, phụ
phẩm đã được thực hiện khá phổ biến. Điển
hình là mô hình “vườn - ao - chuồng” (VAC)
hay “vườn - rừng - ao - chuồng” (VRAC) đã
được áp dụng từ những năm 1970 - 1980, sau
đó phát triển phổ biến với nhiều vật nuôi, cây
trồng khác nhau, kết hợp trồng trọt, chăn nuôi
theo chuỗi thức ăn và xử lý chất thải bằng
Biogas. Trong công nghiệp, tiểu thủ công
nghiệp, liên quan đến mô hình kinh tế tuần
hoàn cũng đã được ứng dụng ở nhiều lĩnh
vực, nhiều doanh nghiệp. 1) Mô hình tận
dụng phế phẩm, phụ phẩm trong sản xuất
được áp dụng ở nhiều doanh nghiệp như phế
phẩm ngành sản xuất mía đường để làm rượu
hoặc phát điện, tro xỉ nhà máy nhiệt điện làm
vật liệu xây dựng; 2) Trong tiêu dùng, nhiều
mô hình tiêu dùng xanh đã ra đời theo hướng
sử dụng sản phẩm có khả năng tái tạo, tiết
kiệm năng lượng; 3) Hiện nay, các mô hình
sản xuất sạch hơn đã được đẩy mạnh triển
khai áp dụng rộng rãi (Bùi Văn Huyền,
Nguyễn Ngọc Toàn, 2020).
Qua 12 năm triển khai Chiến lược sản xuất
sạch hơn trong công nghiệp, đến nay đã có
68,5% doanh nghiệp nhận thức được lợi ích
của việc áp dụng sản xuất sạch hơn, tăng
20,5% so với năm 2010. 46,9% cơ sở sản
xuất áp dụng sản xuất sạch hơn, tăng. 35,9%
so với năm 2010, 12% trong số đó đã đạt
mức tiết kiệm 8% trở lên trong giảm năng
lượng, nguyên liệu trên một đơn vị sản phẩm.
Ngoài ra, đã có 21% doanh nghiệp vừa và lớn
có bộ phận chuyên trách về hoạt động sản
xuất sạch hơn (Mai Anh, 2021). Ví dụ như
Công ty Heineken Việt Nam đã áp dụng mô
hình KTTH và đã có được kết quả khả quan
ban đầu.
Hình 2. Mô hình KTTH của Heineken
(Bùi Văn Huyền, Nguyễn Ngọc Toàn, 2020)
Hình 3. Kết quả áp dụng mô hình KTTH
của Heineken (Trọng Văn, 2020)
3.2. Một số khó khăn, thách thức đặt ra
Bên cạnh kết quả ban đầu, thì việc phát
triển và triển và triển khai KTTH tại Việt
Nam cũng gặp phải không ít khó khăn, thách
thức, như:
Một là, việc áp dụng mô hình KTTH là chi
phí thu hồi giá trị từ chất thải. KTTH là mô
hình khép kín khi sử dụng chất thải của chu
kỳ này cho đầu vào của chu kỳ mới.
Hai là, phát triển KTTH phải đi liền với
đổi mới và áp dụng công nghệ hiện đại, cũng
như đòi hỏi đầu tư lớn vào kết cấu hạ tầng
thu gom, phân loại và tái chế rác thải.

Tuyển tập Hội nghị Khoa học thường niên năm 2024. ISBN: 978-604-82-8175-5
460
Ba là, chưa có bộ tiêu chí để nhận diện,
đánh gía, tổng kết và phân loại chính xác
mức độ phát triển KTTH. Đây là thách thức
lớn để biết được sự phát triển kinh tế hiện
nay đã tiếp cận tới phát triển KTTH trong các
ngành, lĩnh vực và địa phương ở mức độ nào.
Bốn là, kết cấu hạ tầng, quy hoạch khu
công nghiệp theo hướng KTTH và khả năng
liên kết còn nhiều hạn chế. Nhiều quy hoạch
riêng rẽ do tư duy phát triển kinh tế tuyến
tính, thiếu liên kết; quy hoạch không gắn với
khả năng cân đối nguồn lực và sử dụng
nguồn lực không hiệu quả.
Năm là, thói quen trong sản xuất và tiêu
dùng đối với sản phẩm bằng nhựa, nilon
dùng một lần của người dân rất lớn, khó thay
đổi trong thời gian ngắn.
4. ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP
Nhằm phát triển KTTH ở Việt Nam hiện
nay, theo tác giả, cần thực hiện một số giải
pháp sau:
Thứ nhất, Nhà nước cần tiếp tục hoàn
thiện hệ thống chính sách, pháp luật ban hành
các quy định, tiêu chuẩn phát triển KTTH
phù hợp với xu thế mới trong khu vực và trên
thế giới. Sử dụng các tiêu chuẩn kỹ thuật,
môi trường, công cụ thể... nhằm hạn chế việc
sử dụng quá mức tài nguyên, hạn chế rác thải
trong quá trình sản xuất.
Thứ hai, khuyến khích doanh nghiệp tham
gia hoạch định chiến lược sản xuất, kinh
odanh một cách bền vững, ứng dụng các mô
hình KTTH, sản xuất, kinh doanh gắn liền
với bảo vệ môi trường. Quy định chặt chẽ về
trách. nhiệm của doanh nghiệp với chất thải
do doanh nghiệp tạo ra.
Thứ ba, tăng cường trao đổi, học hỏi kinh
nghiệm quốc tế, nhất là các quốc gia đã và
đang thực hiện thành công KTTH, từ đó
chuyển giao và áp dụng vào hoàn cảnh cụ thể
của Việt Nam.
Thứ tư, thực hiện phát triển KTTH cần có
lộ trình và ưu tiên trong phát triển dựa trên
nhu cầu thị trường và đòi hỏi của xã hội. Vấn
đề cần phải giải quyết ngay đối với Việt Nam
là phân loại rác tại nguồn và rác sau khi phân
loại phải được thu gom, làm sạch, vận
chuyển đưa vào tái sử dụng, tái chế. Phân
loại rác tại nguồn trở thành yêu cầu bắt buộc,
tiêu chí đánh giá văn hoá đối với người dân.
Thứ năm, tuyên truyền, nâng cao nhận thức
về KTTH nhằm thay đổi lối mòn tư duy cũ
của người dân và doanh nghiệp. Nâng cao ý
thức phân loại rác thải tại nguồn, nhằm giảm
chi phí trong việc sử dụng và tái chế rác thải.
Tuyên truyền để người dân thay đổi tư
duy về tiêu dùng theo hướng các sản phẩm
hàng hoá thân thiện với môi trường, các sản
phẩm dán nhãn CE (European Conformity -
Chứng nhận được xem như hộ chiếu kỹ
thuật thương mại, giấy thông hành của sản
phẩm trên thị trường EU cũng như nhiều
quốc gia trên thế giới).
5. KẾT LUẬN
Trong thời gian qua việc phát triển KTTH
ở Việt Nam đã đạt được một số kết quả, tuy
nhiên việc phát triển KTTH đồng bộ còn một
số vướng mắc cần giải quyết trong thời gian
tới, với một số giải pháp được đề xuất: hoàn
thiện hệ thống chính sách, pháp luật, khuyến
khích các doanh nghiệp tham gia hoạch định
chiến lược sản xuất bền vững, thay đổi tư duy
người dân, áp dụng kinh nghiệp của các nước
khác và thực hiện cần có lộ trình.
6. TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Bùi Văn Huyền, Nguyễn Ngọc Toàn
(2020), Phát triển kinh tế tuần hoàn ở Việt
Nam hiện nay, Tạp chí Tài chính Kỳ 2 -
Tháng 11/2020.
[2] Mai Anh (2021), Kinh tế tuần hoàn tại các
thị trường mới nổi: Khai mở tiềm năng Phục
hồi xanh tại khu vực Châu Á, truy cập từ
https://moit.gov.vn/bao-ve-moi-truong/kinh-
te-tuan-hoan-tai-cac-thi-truong-moi-noi-khai-
mo-tiem-na2.html.
[3] Trọng Văn (2020), Heineken Việt Nam đặt
mục tiêu dùng 100% năng lượng tái tạo,
không chất thải chôn lấp, truy cập từ
https://nguoidothi.net.vn/heineken-viet-nam-
dat-muc-tieu-dung-100-nang-luong-tai-tao-
khong-chat-thai-chon-lap-23995.html.