Bài Luận

Đề Tài

Những vấn đề quản lý phát sinh sau khi

hợp nhất 03 Ngân hàng SCB, TNB,

FCB

PHỤ LỤC

Lời mở đầu ................................................................................................................. Page 3

CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ THUYẾT CHO VIỆC NGHIÊN CỨU ............................ Page 4

1.1.Những vấn đề cơ bản về hợp nhất ....................................................................... Page 4

1.1.1.Khái niệm .......................................................................................................... Page 4

1.1.2.Các phương thức thực hiện hợp nhất ................................................................ Page 5

1.1.3.Xu hướng hợp nhất trên thế giới ....................................................................... Page 8

1.1.4.Chủ trương - Đề án tái cơ cấu hệ thống ngân hàng Việt Nam ......................... Page 9

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG HỢP NHẤT BA NGÂN HÀNG ĐẦU TIÊN TẠI VIỆT

NAM ........................................................................................................................ Page 13

2.1. Giới thiệu 3 NH hợp nhất ................................................................................. Page 13

2.1.1.Ngân hàng TMCP Sài Gòn (SCB) .................................................................. Page 13

2.1.2.Ngân hàng TMCP Việt Nam Tín Nghĩa ......................................................... Page 14

2.1.3.Ngân hàng TMCP Đệ nhất (Ficombank) ........................................................ Page 15

2.1.4.Một số chỉ tiêu tài sản/ nguồn vốn của 3 Ngân hàng hợp nhất ....................... Page 16

2.2.Nguyên nhân hợp nhất ....................................................................................... Page 17

2.3.Giới thiệu Ngân hàng hợp nhất: Ngân hàng TMCP Sài Gòn (SCB) ................. Page 18

CHƯƠNG 3: NHỮNG VẤN ĐỀ QUẢN LÝ PHÁT SINH SAU KHI HỢP NHẤT

NGÂN HÀNG ......................................................................................................... Page 21

3.1. Văn hóa doanh nghiệp, thương hiệu và thị trường ........................................... Page 21

3.2. Vấn đề Người sở hữu và Người đại diện quản lý ............................................. Page 21

3.3. Hệ thống quản lý rủi ro ..................................................................................... Page 23

3.3.1Quản lý rủi ro tín dụng ..................................................................................... Page 24

3.3.2Quản lý rủi ro vận hành ................................................................................... Page 25

3.4.Hệ thống công nghệ thông tin ............................................................................ Page 29

3.5.Nhân lực ............................................................................................................. Page 29

CHƯƠNG 4: KIẾN NGHỊ GIẢI PHÁP GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ QUẢN LÝ SAU

HỢP NHẤT ............................................................................................................. Page 32

4.1.Giải pháp vĩ mô .................................................................................................. Page 32

4.2.Giải pháp vi mô .................................................................................................. Page 32

4.2.1.Giải pháp xử lý nợ tồn đọng ........................................................................... Page 33

4.2.2. Phát triển các nguồn lực cho ngân hàng (nhân lực, công nghệ - thông tin, mạng

lưới phân phối) ......................................................................................................... Page 34

4.2.3.Giảm thiểu khả năng đổ vỡ của hệ thống bằng cách tăng cường năng lực quản lý

điều hành tập trung, thống nhất toàn hệ thống ......................................................... Page 35

LỜI MỞ ĐẦU

Trong bối cảnh nền kinh tế thế giới đang có nhiều bất ổn đặc biệt đang xảy ra tại

khu vực đồng tiền chung Châu Âu, nền kinh tế Việt Nam cũng không tránh khỏi việc

bị ảnh hưởng ít nhiều. Năm 2011 đã đánh dấu như một kết quả tất yếu của một thời

gian dài hệ thống Tài chính Ngân hàng Việt Nam tăng trưởng nóng. Với mức tăng

trưởng tín dụng bình quân khoảng 20%/năm của hệ thống Ngân hàng, sự gia tăng số

lượng nhanh chóng của các Ngân hàng trong và ngoài nước, các phòng giao dịch của

các ngân hàng giống như sự bùng nổ đến chóng mặt, tiếp theo đó là lãi suất tăng

nhanh, lạm phát duy trì ở hai con số, tất cả những điều đó đã đưa đến một hệ quả tất

yếu là việc hoạt động không hiệu quả của một số Ngân hàng mà dấu hiệu cho thấy đó

là sự thiếu hụt khả năng thanh khoản của một số Ngân hàng nhỏ. Đây là những nguy

cơ tiềm ẩn ảnh hưởng đến cả một hệ thống tài chính của Việt Nam.

Đứng trước nguy cơ đó, Đảng và Chính phủ ta đã có những hành động đầu tiên là

đã đưa vào nội dung cần thực hiện trong năm 2012 và những năm tiếp theo đó là tái

cấu trúc nền kinh tế mà cụ thể là tái cấu trúc lại hệ thống Ngân hàng Thương Mại ở

Việt Nam.

Trên cơ sở nắm bắt được tình hình thực tế cũng như thực hiện chủ trương lãnh đạo

của Đảng và Chính Phủ, dưới sự dẫn dắt của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam

(BIDV), ba Ngân hàng gồm có: Ngân hàng TMCP Đệ Nhất; Ngân hàng Việt Nam Tín

Nghĩa; Ngân hàng TMCP Sài Gòn (SCB) đã tiến hành hợp nhất để vận dụng những thế

mạnh sẵn có cùng nhau vượt qua thời điểm được coi là khó khăn như hiện nay đối với

hệ thống Ngân hàng.

Việc hợp nhất của 03 Ngân hàng này là bước mở màn và sẽ rất có ý nghĩa đối với

việc tái cấu trúc toàn bộ hệ thống Ngân hàng Việt Nam trong tương lai.

CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ THUYẾT CHO VIỆC NGHIÊN CỨU

1.1. Những vấn đề cơ bản về hợp nhất

1.1.1. Khái niệm

Trong quản trị công ty có hai điểm mấu chốt nhất là quyền sở hữu và người quản

lý thì quyền sở hữu vẫn mang ý nghĩa trọng tâm hơn cả. Mặc dù xu hướng quản trị

hiện đại tách biệt quyền sở hữu và quản lý, nhưng thực chất quyền sở hữu có ý nghĩa

quyết định trong việc bầu Hội đồng quản trị và qua đó lựa chọn người quản lý, đồng

thời quyết định chiến lược phát triển, phương án phân chia lợi nhuận và xử lý tài sản

của công ty. Các khái niệm hợp nhất (merger hoặc consolidation) hay sáp nhập

(acquisition) đều xoay quanh mối tương quan này.

Hợp nhất công ty là hai hoặc một số công ty cùng thỏa thuận chia sẻ tài sản, thị

phần, thương hiệu với nhau để hình thành một công ty hoàn toàn mới, với tên gọi mới

(có thể gộp tên của hai công ty cũ) trong khi đó chấm dứt sự tồn tại của các công ty cũ.

Ngày 11/02/2011 NHNN đã ban hành Thông tư số 04/2010/TT-NHNN quy định việc

sáp nhập, hợp nhất và mua lại tổ chức tín dụng như sau: “Hợp nhất tổ chức tín

dụng là hình thức hai hoặc một số tổ chức tín dụng (sau đây gọi là tổ chức tín dụng bị

hợp nhất) hợp nhất thành một tổ chức tín dụng mới (sau đây gọi là tổ chức tín dụng

hợp nhất) bằng cách chuyển toàn bộ tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp sang

tổ chức tín dụng hợp nhất, đồng thời chấm dứt sự tồn tại của các tổ chức tín dụng bị

hợp nhất”.

Cần phân biệt hợp nhất khác với sáp nhập: Sáp nhập là một công ty tìm cách nắm

giữ quyền kiểm soát đối với một công ty khác thông qua thâu tóm toàn bộ hoặc một tỷ

lệ số lượng cổ phần hoặc tài sản của công ty mục tiêu đủ để có thể khống chế toàn bộ

các quyết định của công ty đó. Tỷ lệ này có thể khác nhau theo quy định cụ thể trong

Luật Công ty của từng nước. Ví dụ ở Việt Nam tỷ lệ này là 75%, trong trường hợp

Điều lệ công ty mục tiêu quy định mức thấp hơn (tối thiểu là 65%) thì áp dụng mức đó.

Sau khi kết thúc chuyển nhượng, công ty mục tiêu sẽ chấm dứt hoạt động (bị sáp nhập)

hoặc trở thành một công ty con của công ty thâu tóm. Thương hiệu của công ty mục

tiêu nếu được đánh giá là vẫn còn giá trị để duy trì thị phần sản phẩm thì có thể được

giữ lại như một thương hiệu độc lập (trường hợp BP mua Castrol), hoặc được gộp lại

thành một thương hiệu chung, như trường hợp Daimler-Chrysler, hoặc Exxon-Mobil.

Về mặt bản chất, khái niệm và hệ quả pháp lý, hợp nhất và sáp nhập là khác biệt tuy

nhiên nếu xét về tác động thực tế đối với quản trị công ty thì ranh giới phân biệt giữa

chúng nhiều khi lại rất mong manh.

Dù sáp nhập hay hợp nhất công ty, ban quản trị nào cũng phải đối mặt với câu hỏi

mấu chốt là: liệu thực thể mới sau sáp nhập hoặc hợp nhất có mạnh hơn hai thực thể cũ

đứng riêng rẽ hay không? Nếu công ty thực hiện sáp nhập (thâu tóm) bao giờ cũng chủ

động và nắm chắc được câu trả lời cho câu hỏi ở trên hơn là công ty thực hiện hợp nhất

(chỉ đảm bảo được 50%), do đó vấn đề quản lý sau hợp nhất đòi hỏi phức tạp hơn là

sáp nhập.

1.1.2. Các phương thức thực hiện hợp nhất

Việc xử lý các vấn đề xác định giá trị chuyển nhượng, phương thức thanh toán,

chia nhập cổ phiếu, tài sản, thương hiệu, cơ cấu tổ chức của công ty là các mục tiêu

hậu hợp nhất và cũng là nội dung hoàn toàn nằm trong phạm vi thỏa thuận giữa các

bên liên quan, được thể hiện trên bản hợp đồng hợp nhất công ty đó. Các thỏa thuận

này mang tính chất chuyên biệt hóa đậm nét và sẽ là căn cứ cao nhất để xử lý tất cả các

vấn đề liên quan hậu chuyển đổi, với điều kiện chỉ cần không vi phạm các quy định

pháp luật về công ty, cạnh tranh và thuế của nước được chọn áp dụng luật.

Do đó, cách thức thực hiện hợp nhất công ty cũng rất đa dạng tùy thuộc vào mục

tiêu, đặc điểm quản trị, cấu trúc sở hữu và ưu thế so sánh của các công ty liên quan

trong từng trường hợp cụ thể. Có thể tổng hợp một số cách thức phổ biến thường được

sử dụng sau: (i) chào thầu; (ii) lôi kéo cổ đông bất mãn; (iii) thương lượng tự nguyện

với Hội đồng quản trị và ban điều hành; (iv) thu gom cổ phiếu trên thị trường chứng

khoán; (v) mua tài sản công ty...

Động cơ nào thúc đẩy các công ty tham gia M&A? Lợi ích họ thu được rất phong

phú, cũng như sự đa dạng trong loại hình và cách thức thực hiện M&A đã được đề cập

ở trên. Có thể liệt kê một số nhóm lợi ích chủ yếu sau đây. Tuy nhiên, trước hết phải

kể đến một động cơ mang tính chất trung tính, đó là nhu cầu M&A để tồn tại trong môi

trường cạnh tranh khốc liệt. Trong cuộc phỏng vấn của Tạp chí Entrepreneur, Tiến sỹ

Jacalyn Sherrinton, nhà tư vấn hàng đầu về quản lý công ty, đã nói: “Dưới sức ép cạnh

tranh của môi trường kinh doanh toàn cầu hôm nay, các công ty buộc phải phát triển để

tồn tại, và một trong những cách tốt nhất để tồn tại là hợp nhất hoặc thâu tóm các công

ty khác”. Cạnh tranh thúc đẩy M&A, và M&A càng khiến cuộc cạnh tranh gay gắt

hơn. Để công ty của mình không bị đối thủ cạnh tranh thâu tóm sáp nhập và địa vị của

bản thân không bị đe dọa, ban quản trị và điều hành các công ty luôn phải chủ động

tìm cơ hội thực hiện M&A để giành lợi thế cạnh tranh trước thị trường. Các nhóm lợi

ích phổ biến:

(i) Hợp lực thay cạnh tranh: Chắc chắn số lượng “người chơi” sẽ giảm đi khi có

một vụ sáp nhập hoặc hợp nhất giữa các công ty vốn là đối thủ của nhau trên thương

trường; cũng có nghĩa là sức nóng cạnh tranh không những giữa các bên liên quan mà

cả thị trường nói chung sẽ được hạ nhiệt. Hơn nữa, tư duy cùng thắng (win - win) đang

ngày càng chiếm ưu thế đối với tư duy cũ thắng - thua (win - lose). Các công ty hiện

đại không còn theo mô hình công ty của một chủ sở hữu - gia đình sáng lập, mang tính

chất “đóng” như trước, mà các cổ đông bên ngoài ngày càng có vị thế lớn hơn do công

ty luôn thiếu vốn (quá trình đi lên của Yahoo, Amazon.com là những ví dụ điển hình).

Chủ sở hữu chiến lược của các công ty đều có thể dễ dàng thay đổi, và việc nắm sở

hữu chéo của nhau đã trở nên phổ biến. Thực chất, đứng đằng sau các tập đoàn hùng

mạnh về sản xuất công nghiệp hay dịch vụ đều là các tổ chức tài chính khổng lồ. Do

đó, xét về bản chất các công ty đều có chung một chủ sở hữu. Họ đã tạo nên một mạng

lưới công ty, mà trong đó không có xung lực cạnh tranh nào đối lập hẳn với nhau, mà

ngược lại tất cả chỉ cùng chung một mục tiêu phục vụ tốt hơn khách hàng và giảm chi

phí để tạo lợi nhuận cao và bền vững hơn.

(ii) Nâng cao hiệu quả: Thông qua M&A các công ty có thể tăng cường hiệu quả

kinh tế nhờ quy mô khi nhân đôi thị phần, giảm chi phí cố định (trụ sở, nhà xưởng), chi

phí nhân công, hậu cần, phân phối. Các công ty còn có thể bổ sung cho nhau về nguồn

lực (đầu vào) và các thế mạnh khác của nhau như thương hiệu, thông tin, bí quyết, dây

chuyền công nghệ, cơ sở khách hàng, hay tận dụng những tài sản mà mỗi công ty chưa

sử dụng hết giá trị (chẳng hạn một công ty chứng khoán sáp nhập với một ngân hàng,

công ty điện thoại và công ty cung cấp Internet...). Ngoài ra, còn có trường hợp công ty

thực hiện M&A với một công ty đang thua lỗ nhằm mục đích trốn thuế cho phần lợi

nhuận của bản thân. Có trường hợp các công ty thực hiện M&A để đạt được thị phần

khống chế nhằm áp đặt giá cho thị trường.

(iii) Tham vọng bành trướng tổ chức và tập trung quyền lực thị trường: Các công

ty đã thành công thường nuôi tham vọng rất lớn trong việc phát triển tổ chức của mình

ngày một lớn mạnh và thống trị không những trong phân khúc và dòng sản phẩm hiện

tại mà còn lan sang cảnhững lĩnh vực khác. Những tập đoàn như GE của Mỹ, Chungho

Holdings của tỷ phủ Li Ka Shing của Hongkong, hay trường hợp Công ty FPT, Công

ty Trung Nguyên của Việt Nam là những ví dụ điển hình. Từ một công ty thành danh

trong lĩnh vực công nghệ tin học, FPT hiện đã mở rộng sang các lĩnh vực mạng điện

thoại cố định, di động, truyền hình trực tuyến, đào tạo đại học, chứng khoán và sắp tới

cả bất động sản, giáo dục phổ thông... Ngoài ý đồ muốn xây dựng “đế chế” của riêng

ban lãnh đạo, cũng phải xét đến yếu tố động cơ xuất phát từ nội tại. Đó là sức ép thăng

tiến từ các quan chức trong nội bộ công ty. Những lý do này gộp lại nhiều khi khiến

một tổ chức cứ phình to mãi bất chấp tính hiệu quả. Sự sụp đổ của tập đoàn Deawoo

cũng có phần bắt nguồn từ một quá trình tương tự.

(iv) Giảm chi phí gia nhập thị trường: ở những thị trường có sự điều tiết mạnh

của chính phủ, việc gia nhập thị trường đòi hỏi doanh nghiệp phải đáp ứng nhiều điều

kiện khắt khe, hoặc chỉ thuận lợi trong một giai đoạn nhất định, thì những công ty đến

sau chỉ có thể gia nhập thị trường đó thông qua thâu tóm những công ty đã hoạt động

trên thị trường. Điều này rất phổbiến đối với ĐTNN ở Việt Nam, đặc biệt là ngành

ngân hàng, tài chính, bảo hiểm. Theo cam kết của Việt Nam với WTO, nước ngoài chỉ

được lập ngân hàng con 100% từ tháng 4/2007, lập chi nhánh nhưng không được lập

chi nhánh phụ, không được huy động tiền gửi bằng đồng Việt Nam từ người Việt Nam

trong 5 năm. Công ty chứng khoán 100% nước ngoài chỉđược thành lập sau 5 năm

(2012). Như vậy, rõ ràng nếu các ngân hàng, công ty chứng khoán nước ngoài không

muốn chậm chân trong việc cung cấp đầy đủ các dịch vụ và giành thị phần trong giai

đoạn phát triển rất mạnh của thị trường ngân hàng tài chính Việt Nam, thì họ buộc phải

mua lại cổ phần của các doanh nghiệp trong nước (tuy cũng bị hạn chế 30%).

Hơn nữa, không những tránh được các rào cản về thủ tục để đăng ký thành lập

(vốn pháp định, giấy phép), bên mua lại còn giảm được cho mình chi phí và rủi ro

trong quá trình xây dựng cơ sở vật chất và cơ sở khách hàng ban đầu. Nếu sáp nhập

một công ty đang ở thế yếu trên thị trường, những lợi ích này còn lớn hơn giá trị vụ

chuyển nhượng, và chứng minh quyết định gia nhập thị trường the o cách này của

người “đến sau” là một quyết định đúng đắn. Trong một số trường hợp, mục đích

chính của người thực hiện M&A không chỉ là gia nhập thị trường mà còn nhằm mua

lại một ý tưởng kinh doanh có nhiều triển vọng (như Phở 24, comhop.com14).

(v) Thực hiện chiến lược đa dạng hóa và dịch chuyển trong chuỗi giá trị: Nhiều

công ty chủ động thực hiện M&A để hiện thực hóa chiến lược đa dạng hóa sản phẩm

hoặc mở rộng thị trường của mình. Khi thực hiện chiến lược này, công ty sẽ xây dựng

được cho mình một danh mục đầu tư cân bằng hơn nhằm tránh rủi ro phi hệ thống.

Ngoài ra, một số công ty còn thực hiện chiến lược tiến hay lùi trong chuỗi giá trị

(forward/backward integration) thông qua M&A. Lợi ích từ những vụ sáp nhập này đã

được nêu ở phần trên, trong hai loại hình sáp nhập dọc và sáp nhập tổ hợp

1.1.3. Xu hướng hợp nhất trên thế giới

Trên thế giới, các hoạt động M&A đã trải qua nhiều thăng trầm. Hơn 100 năm

qua, Hoa Kỳ đã chứng kiến 5 chu kỳ đỉnh cao của hoạt động sáp nhập công ty: đó là

các năm 1895-1905, 1925-1929, 1965-1970, 1980-1985 và 1998-2000. Làn sóng

M&A diễn ra mạnh mẽ và song hành với những giai đoạn kinh tế tăng trưởng nóng.

Đó là thời điểm ban quản trị của các công ty liên tục hoạt động dưới sức ép cạnh tranh

rất lớn từ thị trường. Khái niệm tăng trưởng lợi nhuận và mở rộng hoạt động thông qua

M&A đồng nghĩa với sự tồn tại của công ty nói chung, cũng như địa vị của chính họ ở

các công ty này nói riêng.

Bước vào thế kỷ XXI, nền kinh tế thế giới tiếp tục chứng kiến một làn sóng M&A

mới, dưới những hình thức đa dạng và quy mô lớn chưa từng có. Đợt sóng này không

chỉ bó hẹp trong phạm vi các nền kinh tế phát triển mà còn lan tỏa sáng các nền kinh tế

mới nổi và đang phát triển như Hàn Quốc, Singapore, Nga, Ấn Độ, Trung Quốc, Trung

Đông... Năm 2006, tổng giá trị M&A toàn cầu đạt mức cao kỷ lục, 3460 tỷ đô la Mỹ

(USD). Còn trong 5 tháng đầu năm nay, thị trường mua bán sáp nhập công ty trên thế

giới đã đạt trị giá 2000 tỷ USD (trung bình 93 tỷ/tuần), tăng 60% so với cùng kỳ năm

ngoái. Có một số thương vụ sáp nhập lớn nhất trong ngành tài chính ngân hàng như:

Vụ sáp nhập lớn chưa từng thấy trong lịch sử ngành ngân hàng châu Âu nói riêng và

trong ngành công nghiệp tài chính toàn cầu nói chung của hai ngân hàng ABN AMRO

của Hà Lan và Barclays PLC của Anh, hình thành nên tập đoàn ngân hàng hàng đầu

thế giới tính theo số vốn thị trường; vụ sáp nhập của Bank of America với Merrill

Lynch, giúp Bank of America đạt tham vọng đứng đầu ngành ngân hàng nội địa của

Mỹ xét theo tiêu chí tiền gửi và lượng vốn hóa thị trường; vụ sáp nhập của Wells Fargo

với Wachovia giúp Wells Fargo nâng tầm, đứng ngang hàng với các đối thủ tên tuổi

khác tại Mỹ như JP Morgan Chase và Bank of America; vụ sáp nhập của UFJ Holding

với Mitsubishi Tokyo Financial Group để hình thành Mitsubishi UFJ Financial Gropup

hùng mạnh nhất thế giới, vượt qua Citigroup về giá trị tài sản. (Nguồn: NHNN)

Như vậy, sáp nhập, hợp nhất ngân hàng hàng là xu hướng tất yếu khách quan hiện

nay để nâng cao khả năng cạnh tranh. Sáp nhập, hợp nhất ngân hàng đem lại giá trị gia

tăng lớn hơn so với khi các ngân hàng đứng riêng rẽ nhờ đạt được lợi ích kinh tế theo

quy mô lớn hơn, tăng uy tín, thương hiệu, giảm chi phí, khai thác tối đa lợi thế kinh

doanh của các bên tham gia, phát triển cơ sở khách hàng, màng lưới phân phối. Do đó,

xu hướng sáp nhập, hợp nhất ngân hàng có thể xảy giữa các ngân hàng lớn với nhau,

giữa ngân hàng lớn và ngân hàng nhỏ, giữa các ngân hàng nhỏ với nhau.

1.1.4. Chủ trương - Đề án tái cơ cấu hệ thống ngân hàng Việt Nam.

Trong bối cảnh nền kinh tế Việt Nam hội nhập ngày càng sâu rộng với khu vực

và thế giới. Xu hướng này diễn ra trong hầu hết các lĩnh vực của đời sống kinh tế xã

hội trong đó có lĩnh vực tài chính - ngân hàng. Tính chất 2 mặt của quá trình hội nhập

nền kinh tế, bên cạnh những thành công và tác động tích cực đối với hoạt động của nền

kinh tế, sự phát triển mạnh mẽ của dịch vụ tài chính trong bối cảnh hội nhập cũng đặt

ra những thách thức không nhỏ trong việc đảm bảo sự phát triển lành mạnh và ổn định

của hệ thống ngân hàng nói riêng và nền kinh tế nói chung. Điều này đòi hỏi phải hoàn

thiện, đổi mới và xây dựng hệ thống ngân hàng đủ mạnh, tương xứng với sự phát triển

của thế giới cũng như để có thể nâng cao khả năng cạnh tranh trên trường quốc tế.

Trước những biến động phức tạp thời gian gần đây của nền kinh tế thế giới, để ổn

định và phát triển nền kinh tế hiệu quả và bền vững, Đảng và Nhà nước ta đã ra Nghị

quyết tái cấu trúc nền kinh tế, trong đó tái cấu trúc ngân hàng, tái cấu trúc đầu tư công

và tái cấu trúc doanh nghiệp Nhà nước là 3 trụ cột trong tiến trình tái cấu trúc nền kinh

tế ở Việt Nam.

Nằm trong chương trình tái cấu trúc nền kinh tế, Chính phủ Việt Nam đã chỉ đạo

việc xây dựng đề án cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng giai đoạn 2011-2015.

Mục tiêu của tái cơ cấu hệ thống ngân hàng là hiệu quả, lành mạnh, đáp ứng yêu cầu

của nền kinh tế, yêu cầu phát triển của đất nước. Tái cơ cấu để có một hệ thống hợp lý,

phù hợp, đáp ứng cho cả doanh nghiệp vừa và nhỏ, hộ sản xuất kinh doanh, có nhiều

dịch vụ tiện ích để không còn tình trạng tiềm ẩn nguy cơ rủi ro và đổ vỡ hệ thống.

Trong đề án tái cấu trúc ngân hàng trình lên Chính Phủ, Ngân hàng Nhà Nước

Việt Nam đã xây dựng lộ trình cơ bản trong khoảng thời gian 5 năm, với các phương

án tái cơ cấu đối với từng nhóm ngân hàng. Phương châm của quá trình tái cơ cấu là

không để ngân hàng nào đổ vỡ, đảm bảo quyền lợi của người gửi tiền và khách hàng

của ngân hàng. Đây cũng là nguyên tắc được Chính phủ đảm bảo trong quá trình tái cơ

cấu các ngân hàng.

Dự kiến sau 5 năm tái cấu trúc, hệ thống ngân hàng Việt Nam sẽ có khoảng 2

ngân hàng có đủ sức cạnh tranh với các ngân hàng trong khu vực, có khoảng 10-15

ngân hàng đủ lớn làm trụ cột cho các ngân hàng trong nước, khoảng 8 ngân hàng nhỏ

hoạt động lành mạnh với quy mô phù hợp. Để tái cấu trúc, NHNN sẽ phân loại các

ngân hàng thành 3 nhóm:

(cid:153) Nhóm thứ 1, gồm các ngân hàng có tình hình tài chính lành mạnh có năng

lực và quy mô đủ lớn để tiếp tục phát triển thành những ngân hàng trụ cột, đủ sức cạnh

tranh với khu vực và quốc tế. Dự kiến sẽ có khoảng 15 ngân hàng loại này chiếm

khoảng 80% thị phần hoạt động của cả hệ thống ngân hàng.

(cid:153) Nhóm thứ 2, là nhóm các ngân hàng có tình hình tài chính lành mạnh nhưng

có quy mô nhỏ, không có nhu cầu hoặc không có điều kiện phát triển quy mô cao hơn

nữa. Sẽ có quy định đảm bảo giám sát chặt chẽ cũng như phân khúc thị trường để đảm

bảo cho các ngân hàng này hoạt động hiệu quả.

(cid:153) Nhóm thứ 3, là nhóm ngân hàng đang có tình hình tài chính khó khăn cần

phải cầu trúc lại. NHNN sẽ tham gia giám sát chặt chẽ, yêu cầu các ngân hàng lớn sẽ

tham gia mua cổ phần, tham gia vào quản trị điều hành và cơ cấu lại các khoản mục

đầu tư; mua lại hoặc hợp nhất, sáp nhập nếu cần.

Cụ thể, trong năm 2012, sẽ dứt điểm việc xử lý tất cả ngân hàng yếu kém, nhưng

theo phương châm chung là không để bất kể tổ chức tín dụng nào đổ vỡ và đảm bảo

quyền lợi của người dân. Ngân hàng Nhà nước cũng khoanh vùng, giải quyết các vấn

đề thanh khoản đảm bảo an toàn hệ thống và đảm bảo sẽ có chuyển biến lớn trong năm

2012.

Sang năm 2013 sẽ tiếp tục quá trình hợp nhất, sáp nhập các ngân hàng trên cơ sở

các ngân hàng tự nguyện sáp nhập lại với nhau để tăng quy mô và tăng khả năng cạnh

tranh. Đến khoảng năm 2015, mục tiêu đặt ra sẽ hình thành ít nhất 1-2 ngân hàng tầm

cỡ khu vực.

Việc tái cơ cấu gắn với tăng cường quản trị ngân hàng sẽ phải nâng cao chất

lượng tín dụng. Chính doanh nghiệp cũng phải tự nâng cao trình độ, hiệu quả quản trị

doanh nghiệp, có phương án thật sự khả thi mới vay được vốn. Từ những phân tích

trên, có thể thấy rằng, tái cơ cấu chỉ một lĩnh vực tài chính, nhưng thực chất thay đổi

cả động lực cho nền kinh tế, buộc doanh nghiệp dù là loại hình nào cũng phải thực

hiện tái cấu trúc. Nhà nước tạo điều kiện về cơ chế còn mỗi ngân hàng phải tự tái cơ

cấu về mô hình, quản trị, vốn...

Cuối tháng 10/2011, Ngân hàng Nhà nước phát đi thông điệp khuyến khích các tổ

chức tín dụng tự nguyện tìm hiểu lẫn nhau để mua lại, sáp nhập, hợp nhất. Trước đó,

Thông tư 04/2010/TT-NHNN ngày 11/02/2010 quy định việc sáp nhập, hợp nhất, mua

lại tổ chức tín dụng được Ngân hàng Nhà nước ban hành. Khởi đầu cho quá trình tái

cấu trúc lại hệ thống ngân hàng, Ngân hàng Nhà nước đã làm mạnh tay với việc sát

nhập ba ngân hàng nhỏ ở TP HCM, với sự trợ lực của ngân hàng BIDV. Bên cạnh đó,

nhằm hoàn thiện và đưa vào thực hiện các tiêu chuẩn quản trị mới theo hướng tiếp cận

nhanh thông lệ quốc tế; tăng cường vai trò giám sát của ngân hàng nhà nước trong việc

thực hiện các tiêu chuẩn về công khai và minh bạch thông tin trong quá trình tái cấu

trúc ngân hàng, ngày 11/11/2011, Ngân hàng Nhà nước đã ban hành Thông tư số

35/2011/TT-NHNN quy định cụ thể việc công bố và cung cấp thông tin.

Một định hướng lớn khác trong quá trình tái cơ cấu hệ thống ngân hàng là thực

hiện cổ phần hoá ngân hàng thương mại nhà nước. Cụ thể, Thủ tướng Chính phủ Việt

Nam đã phê duyệt phương án cổ phần hóa BIDV. Theo đó, Chính phủ sẽ giảm tỷ lệ sở

hữu tại BIDV từ 100% xuống còn 78% và sẽ tiếp tục giảm xuống mức 65% đến năm

2015. BIDV sẽ bán 15% cổ phần cho nhà đầu tư chiến lược nước ngoài trong năm

2012. Mức nắm giữ tối đa của các cổ đông chiến lược nước ngoài là 20%.

Như vậy, xuất phát từ nhu cầu nội tại của nền kinh tế, những động thái tái cơ cấu

ngân hàng thời gian qua đã được tiến hành khá bài bản và đồng bộ, góp phần nâng cao

uy tín của hệ thống ngân hàng Việt Nam và củng cố niềm tin của nhà đầu tư nước

ngoài.

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG HỢP NHẤT BA NGÂN HÀNG ĐẦU TIÊN TẠI

VIỆT NAM

Từ những cơ sở lý thuyết đã trình bày trong Chương 1, Chương 2 tập trung

nghiên cứu về thực trạng hợp nhất ba ngân hàng đầu tiên tại Việt Nam, mà chủ yếu là

nghiên cứu thông qua nguyên nhân hợp nhất và diễn biến đã xảy ra trong khoảng thời

gian là những tháng cuối năm 2011 và đầu năm 2012. Tiếp theo nhóm nghiên cứu

dành cho việc giới thiệu về ngân hàng hợp nhất từ đó tìm ra các vấn đề quản lý phát

sinh sau hợp nhất và những kiến nghị cũng như giải pháp để giải quyết những vấn đề

đó.

2.1. Giới thiệu 3 NH hợp nhất

2.1.1. Ngân hàng TMCP Sài Gòn (SCB)

Tên TCTD Ngân hàng Thương Mại Cổ Phần Sài Gòn

Giấy phép thành lập 308/GP-UB do UBND TP. HCM cấp ngày 26/06/1992

Tên viết tắt SCB

Cống Quỳnh, Phường Phạm Ngũ Lão, Quận 1, TP.

Trụ sở chính HCM

Vốn điều lệ 4.184 tỷ đồng

Mạng lưới kinh doanh 118

Đội ngũ nhân sự 2.096

Giá trị sổ sách (30/9/11) 10.962 đồng/cp

Tổng tài sản 77.581 tỷ VND

Tiền thân là Ngân hàng TMCP Quế Đô được thành lập năm 1992 và đến ngày

08/04/2003, chính thức đổi tên thành Ngân hàng TMCP Sài Gòn (SCB).

Với các chính sách linh hoạt và các sản phẩm dịch vụ toàn diện, đáp ứng được

yêu cầu đa dạng của khách hàng là cơ sở vững chắc để SCB đạt được kết quả và hiệu

quả kinh doanh ngày càng cao và luôn là người bạn đồng hành đáng tin cậy của các

khách hàng, theo đúng phương châm “Hoàn thiện vì khách hàng”

Tầm nhìn SCB: Trở thành một trong năm ngân hàng thương mại cổ phần hàng

đầu Việt Nam.

Sứ mạng hoạt động: Hài hòa lợi ích Xã hội - Khách hàng - Người lao động,

đảm bảo giá trị Cổ đông.

Mọi hoạt động của SCB đều hướng đến việc phát triển một cách hài hoà giữa bền

vững, thịnh vượng chung của cộng đồng và nâng cao giá trị cho cổ đông, khách hàng,

cũng như mọi cán bộ nhân viên của SCB đều được tạo điều kiện để họ phát huy tối đa

năng lực, sáng tạo hơn để từ đó đạt được năng suất cao hơn từ các nguồn lực sẵn có.

Slogan: “Hoàn thiện vì khách hàng”

2.1.2. Ngân hàng TMCP Việt Nam Tín Nghĩa:

Ngân hàng Thương Mại Cổ Phần Việt Nam Tín

Tên TCTD Nghĩa

Số 577/GP-UB do UBND TP. HCM cấp ngày

Giấy phép thành lập 09/10/1992

Tên viết tắt TNB

50-52 Phạm Hồng Thái, P. Bến Thành, Q.1,

Trụ sở chính TP.HCM

Vốn điều lệ 3.399 tỷ đồng

Mạng lưới kinh doanh 82

Đội ngũ nhân sự 1.146

Giá trị sổ sách (30/9/1 11.827 đồng/cp

Tổng tài sản 58.939 tỷ VND

Tiền thân là Ngân hàng TMCP Tân Việt. Ngày 18/01/2006, Ngân hàng TMCP

Tân Việt được đổi tên thành Ngân hàng TMCP Thái Bình Dương theo Quyết định số

75/QĐ-NHNN. Sau cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu từ năm 2008, một lần nữa

vào tháng 01/2009 Ngân hàng TMCP Thái Bình Dương đã được đổi tên thành Ngân

hàng TMCP Việt Nam Tín Nghĩa (TNB) theo Quyết định số 162/QĐ-NHNN nhằm cơ

cấu lại tổ chức và phát triển theo kịp xu thế mới. Trong suốt quá trình hình thành và

phát triển, TNB đã gặp không ít những khó khăn. Tuy nhiên với sự quan tâm giúp đỡ

của các cấp lãnh đạo, của các ngân hàng thương mại, Hội đồng Quản trị, Ban Kiểm

soát, Ban Điều hành đã nỗ lực không ngừng và cùng toàn thể cán bộ nhân viên chung

sức đoàn kết khắc phục những khó khăn và từng bước đưa Ngân hàng phát triển một

cách mạnh mẽ về lượng và chất trong những năm gần đây.

Tầm nhìn: TNB phấn đấu trở thành một trong những ngân hàng hiện đại có năng

lực tài chính mạnh và tốc độ phát triển bền vững, an toàn, hiệu quả.

Sứ mạng hoạt động: TNB không ngừng nâng cao chất lượng phục vụ khách hàng

thông qua việc tìm hiểu nhu cầu, kỳ vọng của mỗi đối tượng khách hàng để đưa ra các

giải pháp chăm sóc hữu hiệu, thỏa mãn cao nhất các nhu cầu hợp lý của khách hàng.

TNB luôn nỗ lực xây dựng và phát triển các nguồn lực về con người, tài chính, công

nghệ,… nhằm gia tăng giá trị cho cổ đông, mang lại sự thịnh vượng cho người lao

động và đóng góp vào sự phát triển chung của xã hội.

Slogan: Niềm tin của mọi nhà.

2.1.3. Ngân hàng TMCP Đệ nhất (Ficombank)

Tên TCTD Ngân hàng Thương Mại Cổ Phần Đệ Nhất

Số 534/GP-UB do UBND TP. HCM cấp ngày

Giấy phép thành lập 13/05/1993

Tên viết tắt FCB

927 Trần Hưng Đạo, Phường 1, Quận 5, TP.HCM Trụ sở chính

Vốn điều lệ 3.000 tỷ đồng

Mạng lưới kinh doanh 27

Đội ngũ nhân sự 519

Giá trị sổ sách (30/9/11) 10.648 đồng/cp

Tổng tài sản 17.105 tỷ VND

Ngân hàng TMCP Đệ Nhất với tên thương mại là Ficombank thành lập ngày

13/05/1993 với số vốn điều lệ ban đầu 20 tỷ đồng, đến năm 2011 Ficombank đã đạt

được vốn điều lệ 3.000 tỷ đồng.

Trong hoạt động kinh doanh, tôn chỉ hoạt động của Ficombank là sẽ trở thành

một Ngân hàng bán lẻ đa năng phát triển bền vững, với việc mở rộng hoạt động một

cách an toàn, minh bạch, vững chắc về tài chính, áp dụng công nghệ thông tin hiện đại,

cung cấp các dịch vụ và tiện ích thuận lợi, đa dạng nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh

và thích ứng nhanh chóng với quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.

Tầm nhìn: là ngân hàng bán lẻ đa năng, đứng trong top 10 ngân hàng TMCP hàng

đầu tại Việt Nam; phấn đấu đến năm 2015 sẽ trở thành một tập đoàn tài chính để cung

cấp sản phẩm dịch vụ đa dạng các thị trường có chọn lựa, ngân hàng hoạt động vững

mạnh và an toàn, phát triển bền vững đáp ứng các yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế.

Sứ mạng hoạt động:

- Đối với khách hàng: Cung cấp các giải pháp tài chính trọn gói sáng tạo nhằm thỏa

mãn tối đa nhu cầu phát triển kinh tế, xã hội và người dân.

- Đối với cổ đông: Đảm bảo và luôn gia tăng các giá trị doanh nghiệp hấp dẫn và

bền vững.

- Đối với nhân viên: Xây dựng môi trường làm việc tích cực, năng động, sáng tạo;

tạo cơ hội phát triển công bằng cho tất cả nhân viên.

- Đối với cộng đồng: Đóng góp tích cực vào các hoạt động hướng về cộng đồng,

thể hiện tinh thần tương thân tương ái và trách nhiệm công dân đối với đất nước.

Slogan: Vì bạn phục vụ

2.1.4. Một số chỉ tiêu tài sản/ nguồn vốn của 3 Ngân hàng hợp nhất

Chỉ tiêu SCB TNB FCB

Tiền mặt, vàng bạc, đá quý 1,115,471 3,502,415 288,988

Tiền gửi tại NHNN 447,916 650,020 343,683

Tiền, vàng gửi tại và cho vay các TCTD khác 5,188,061 3,270,815 2,192,332

Chứng khoán Kinh doanh & Đầu tư 7,905,750 2,621,398 1,322,935

Các công cụ tài chính phái sinh và cácTSTC

khác 386,676 - 47,522

Cho vay khách hàng 42,171,285 24,676,970 3,256,043

Dự phòng rủi ro 1,504,536 323,345 26,464

Góp vốn, đầu tư dài hạn 519,463 25,210 3,434

Tài sản cố định 1,427,276 298,187 331,978

Tài sản có khác 19,924,244 24,217,775 9,344,416

Tổng cộng tài sản 77,581,606 58,939,446 17,104,867

Các khoản nợ Chính phủ và NHNN 2,156,809 - 39,495

Tiền gửi và vay các TCTD khác 17,734,742 10,151,743 4,858,974

Tiền gửi của khách hàng 40,901,201 35,029,541 8,550,683

Vốn tài trợ, ủy thác đầu tư 10,203 - -

Phát hành giấy tờ có giá 10,372,002 8,145,782 248,393

Tài sản nợ khác 1,819,259 1,592,275 213,042

Vốn chủ sở hữu 4,587,390 4,020,106 3,194,280

Vốn điều lệ 4,184,795 3,399,006 3,000,000

Tổng cộng nguồn vốn 77,581,606 58,939,446 17,104,867

(Số liệu ngày 30.09.2011)

2.2. Nguyên nhân hợp nhất

Đây là 3 NHTMCP trong thời gian hoạt động vừa qua đã lâm vào tình trạng mất

thanh khoản tạm thời. Nguyên nhân chủ yếu là đã sử dụng phần lớn nguồn vốn ngắn

hạn cho vay trung, dài hạn. Khi thị trường có biến động, đặc biệt nguồn vốn không còn

dồi dào như trước nữa khiến 3 ngân hàng này lâm vào tình trạng mất thanh khoản tạm

thời. Sự tự nguyện hợp nhất với sự hỗ trợ thanh khoản của BIDV đã khiến điều lo ngại

nhất không xảy ra, đó là khách hàng hoang mang, rút tiền hàng loạt gây bất ổn không

chỉ với chính các ngân hàng đó, mà còn có thể 'lây lan' cho toàn hệ thống ngân hàng.

Từ đó đã tạo niềm tin cho dân chúng vào hệ thống ngân hàng nói chung và 3 ngân

hàng này nói riêng.

Xảy ra tình trạng trên có thể thấy được nguyên nhân là do sự yếu kém trong hoạt

động quản lý, huy động và sử dụng nguồn vốn. Trước tình hình này hội đồng quản trị

của 3 ngân hàng này đã họp và thống nhất với nhau là tự nguyện hợp nhất với tỷ lệ

chuyển đổi cổ phiếu là 1: 1 để phát huy thế mạnh của nhau, hỗ trợ cho nhau, đồng thời

tiết giảm chi phí hoạt động nhằm tạo ra một ngân hàng mới vững mạnh hơn về năng

lực quản trị, tài chính và mạng lưới hoạt động rộng hơn. Quá trình hợp nhất này diễn ra

nhanh chóng là vì các nhóm cổ đông lớn của SCB, TNB và FCB đều có mối quan hệ

với nhau. Đánh giá của NHNN về việc tự nguyện hợp nhất 3 ngân hàng này là rất tích

cực.

Mạng lưới giao dịch của cả 3 ngân hàng chưa phủ khắp hay nói khác là còn rải

rác, chưa tiếp cận với người dân nhiều nên việc hợp nhất sẽ giúp mạng lưới phát triển

mạnh hơn, người dân sẽ biết đến ngân hàng sau khi hợp nhất nhiều hơn.

Hợp nhất ngân hàng đem lại giá trị gia tăng lớn hơn so với khi các ngân hàng

đứng riêng rẽ nhờ đạt được lợi ích kinh tế theo quy mô lớn hơn, tăng uy tín, thương

hiệu, giảm chi phí, khai thác tối đa lợi thế kinh doanh của các bên tham gia, phát triển

cơ sở khách hàng, màng lưới phân phối…

Có thể nói việc hợp nhất 3 ngân hàng này là hoàn toàn đúng đắn vì nằm trong chủ

trương tái cơ cấu toàn diện hệ thống ngân hàng. Bước đầu đáng mừng của việc hợp

nhất là cổ phiếu 3 ngân hàng hợp nhất “nhúc nhích” tăng giá , trên sàn OTC sáng nay

7/12, giá cổ phiếu của Ngân hàng TMCP Sài Gòn (SCB) được giao dịch với giá

4.930 đồng/cổ phiếu. Điểm đáng nói là cổ phiếu ngân hàng này từ ngày 6/12 trở về

trước (khoảng thời gian 1/9/2011) không có giao dịch. Cổ phiếu FCB giá giao dịch

trên OTC ngày 7/12 là 9.300 đồng/cổ phiếu. Trong tuần từ ngày 01 – 06/12, cổ phiếu

của Ngân hàng Đệ Nhất dao động quanh giá từ 9.000 đồng/cổ phiếu. Đây là một tín

hiệu tốt để những ngân hàng này khởi sắc hơn trong thời gian tới. Việc hợp nhất này

không làm mất đi quyền lợi của khách hàng mà còn tăng giá trị cho khách hàng khi

đến giao dịch cũng như đem lại sự an tâm và niềm tin cho những nhân viên đang làm

việc tại 3 ngân hàng trên

2.3. Giới thiệu Ngân hàng hợp nhất: Ngân hàng TMCP Sài Gòn (SCB)

Tên sau hợp nhất Ngân hàng TMCP Sài Gòn

Tên bằng tiếng Anh Sai Gon Joint Stock Commercial Bank

Tên giao dịch tiếng Việt Ngân hàng Sài Gòn

Tên giao dịch tiếng Anh Sai Gon Commercial Bank

Tên viết tắt SCB

Trụ sở chính 927 Trần Hưng Đạo, Phường 1, Quận 5, Tp. Hồ Chí Minh

Vốn điều lệ 10.583.801.040.000đ

Tổng số cổ phần lưu hành 1.058.380.104 cổ phần

Mạng lưới kinh doanh 227 (trong đó có 1 công ty con)

Tổng tài sản 153,626 tỷ đồng (tính đến ngày 30.09.2011)

Đội ngũ nhân sự 3.983

Kế thừa và thực hiện tất cả những hoạt động kinh doanh hiện

tại của SCB, TNB và FCB - những hoạt động mà một NHTM Lĩnh vực kinh doanh được phép thực hiện theo các quy định của Luật các TCTD

hiện hành

Dự kiến Ngân hàng sẽ khai trương hoạt động vào ngày 01/01/2012.

Theo kết quả của Đại hội diễn ra vào ngày 23/12/2011, Hội đồng quản trị

(HĐQT) của ngân hàng hợp nhất (đã chính thức lấy theo tên cũ của Ngân hàng TMCP

Sài Gòn - SCB) nhiệm kỳ 2011 - 2017 gồm 8 thành viên và 1 thành viên HĐQT độc

lập: Bà Nguyễn Thị Thu Sương (Chủ tịch Ficombank), ông Đinh Văn Thành (Phó Chủ

tịch Ficombank), ông Trần Thuận Hòa (thành viên HĐQT Ficombank), ông Uông Văn

Ngọc Ẩn (Phó Chủ tịch Ficombank), ông Võ Thành Hùng (Chủ tịch HĐQT của CTCP

An Phú), ông Vũ Văn Thành (Chủ tịch TinNghiaBank), ông Trầm Thích Tồn (thành

viên HĐQT SCB), ông Phan Vĩ Dân (thành viên HĐQT SCB). Trong đó, Bà Nguyễn

Thị Thu Sương được bầu làm Chủ tịch HĐQT, ông Uông Văn Ngọc Ẩn được bổ

nhiệm làm Tổng Giám đốc của SCB "mới".

Để đảm bảo yêu cầu thanh khoản, khi có nhu cầu SCB "mới" có thể đề nghị Ngân

hàng Nhà nước và BIDV cho vay khoản vay đặc biệt theo quy định của pháp luật.

Về hoạt động, sau khi hợp nhất, theo đề án, ngân hàng mới sẽ áp dụng hệ thống

kiểm tra, kiểm soát và kiểm toán nội bộ của SCB cho SCB “mới”; hợp nhất hệ thống

thông tin quản lý và hệ thống truyền dữ liệu SmartBank tiến tới sang hệ thống

Corebanking T24 hoặc Flexcube tùy tình hình thực tế. Ngay sau thời điểm việc hợp

nhất có hiệu lực, toàn bộ các lao động có ký hợp đồng lao động với ba ngân hàng trước

đó sẽ trở thành lao động của SCB “mới”.

Về kế hoạch kinh doanh, SCB “mới” dự kiến lợi nhuận sau thuế trong năm 2012

là 667 tỷ đồng (đến 30/9/2011 là 723 tỷ đồng), năm 2013 là 1.185 tỷ đồng và năm

2014 là 1.865 tỷ đồng. Đáng chú ý là mục tiêu của SCB “mới” là đến 2014 sẽ có vốn

điều lệ xấp xỉ 16.000 tỷ đồng, nằm trong Top 5 ngân hàng thương mại cổ phần có vốn

điều lệ lớn nhất Việt Nam.

CHƯƠNG 3: NHỮNG VẤN ĐỀ QUẢN LÝ PHÁT SINH SAU KHI HỢP NHẤT

NGÂN HÀNG

Các vấn đề quản lý như xử lý nợ, lợi ích cổ đông thiểu số, người lao động, cơ cấu

tổ chức, ban điều hành, văn hóa doanh nghiệp, thương hiệu và thị trường là những vấn

đề quan trọng cần được quan tâm giải quyết sau khi hợp nhất ba ngân hàng lại với

nhau.

3.1. Văn hóa doanh nghiệp, thương hiệu và thị trường

Một điểm đáng chú ý là hầu hết các vụ hợp nhất đều thất bại trong việc hòa nhập

văn hóa của các bên tham gia hợp nhất. Văn hóa doanh nghiệp là một thực thể trừu

tượng và vô hình, gắn chặt với lịch sử phát triển, tài sản nhân lực và chính sách của

từng doanh nghiệp, và đúng ra phải được tính vào tài sản chung của doanh nghiệp đó.

Do đó, chúng không dễ tìm được tiếng nói chung và thỏa hiệp, ngay kể cả khi ban lãnh

đạo của hai doanh nghiệp đồng lòng thực hiện hợp nhất. Nhìn chung, văn hóa doanh

nghiệp là một trong những nguyên nhân hàng đầu khiến nhiều vụ hợp nhất không vận

hành và đạt được kết quả như mong muốn ban đầu. Lãnh đạo các công ty thường mắc

sai lầm cố hữu khi cho rằng hợp nhất chỉ đơn thuần liên quan đến hoạt động tài chính

và đánh giá thấp những xung đột văn hóa thường xảy đến trong tương lai. Thông

thường, các nhân viên từ cấp thấp - trung có khuynh hướng đối phó với vụ hợp nhất,

vốn được quyết định ở những tầng nấc quản lý cao hơn. Chính vì vậy, để có thể tránh

được những xung đột văn hóa tiềm tàng, ban điều hành của ngân hàng mới cần thực

hiện những hoạt động tuyên truyền định hướng về các chính sách, chế độ liên quan

một cách sâu rộng cho các nhân viên ở mọi cấp của các ngân hàng tham gia hợp nhất,

đồng thời xây dựng cho ngân hàng mới một chiến lược hòa nhập văn hóa doanh nghiệp

với tầm nhìn mới để có thể lôi cuốn toàn bộ nguồn nhân lực ngân hàng vào những sứ

mệnh lớn lao hơn những lợi ích và văn hóa cục bộ trước đây của mình.

Về thị trường và thương hiệu, hiện nay SCB cũ đang sở hữu mạng lưới phân phối

lớn nhất nên việc giữ nguyên thương hiệu SCB không những không mất thị phần mà

còn tận dụng hiệu quả hệ thống phân phối rộng khắp này, giảm chi phí tuyên truyền

quảng cáo sau hợp nhất có thể cạnh tranh với các đối thủ khác.

3.2. Vấn đề Người sở hữu và Người đại diện quản lý

Vấn đề mấu chốt như đã đề cập ở chương 1 là quyền sở hữu và người quản lý thì

quyền sở hữu vẫn mang ý nghĩa trọng tâm hơn cả. Do đó giải quyết được vấn đề này

coi như việc hợp nhất thành công.

(cid:153) Sự tham gia của Ngân hàng Nhà nước vào quá trình hợp nhất:

Theo chỉ đạo của Ngân hàng Nhà nước, trước và sau khi 3 ngân hàng hợp nhất,

BIDV đã có hỗ trợ về vốn. Tổng số vốn hỗ trợ liên ngân hàng cho 3 ngân hàng hiện đã

lên 2.400 tỷ đồng (trên tổng số tài sản được 3 ngân hàng đem ra đảm bảo là 30.000 tỷ

đồng). Sau khi hợp nhất, BIDV sẽ tiếp tục hỗ trợ toàn diện cả về vốn, quản trị...

Bên cạnh việc tự nguyện của 3 ngân hàng thì để đảm bảo cho hợp nhất có thể tạo

ra một ngân hàng lớn mạnh hơn, đòi hỏi phải có một tiềm lực lớn mạnh khác hỗ trợ,

củng cố để phát triển. Theo đó, Thủ tướng, Ngân hàng Nhà nước đã chỉ định BIDV

tham gia ngay từ đầu về việc quản trị điều hành, quản lý kinh doanh, kể cả việc hỗ trợ

về nguồn vốn trong điều kiện 3 ngân hàng này thiếu thanh khoản tạm thời.

Tuy nhiên, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước cũng tuyên bố trong quá trình cơ cấu

lại các tổ chức tín dụng (TCTD), Chính phủ và NHNN không bao cấp cho bất kỳ tổ

chức nào. Chủ sở hữu TCTD phải chịu trách nhiệm đầu tiên và cuối cùng về những tổn

thất xảy ra.

Để bảo đảm an toàn, ổn định của hệ thống, một số TCTD có mức độ rủi ro, nguy

cơ mất an toàn cao sẽ được áp dụng các biện pháp xử lý đặc biệt theo quy định của

pháp luật.

Các TCTD yếu kém, tiềm ẩn nguy cơ gây mất an toàn hệ thống, được ưu tiên tái

cơ cấu để trở lại thị trường hoạt động theo các chuẩn mực, quy định của pháp luật. Nếu

không thể phục hồi được, thì kiên quyết đưa ra khỏi thị trường một cách có trật tự.

TCTD tạm thời thiếu thanh khoản sẽ được NHNN hỗ trợ để phục hồi, đồng thời phải

chấn chỉnh, củng cố để hoạt động lành mạnh, an toàn hơn.

Trong quá trình cơ cấu lại hệ thống các TCTD, đặc biệt là xử lý những TCTD yếu

kém, các ngân hàng thương mại nhà nước và các ngân hàng thương mại cổ phần lành

mạnh sẽ là lực lượng chủ lực tham gia tích cực với sự hỗ trợ thích hợp của Chính phủ

và NHNN về cơ chế, chính sách và nguồn lực để thực hiện. Tuy nhiên, điều đó không

đồng nghĩa Chính phủ và NHNN bao cấp toàn bộ cho việc cơ cấu lại TCTD. Tổn thất

và chi phí trong quá trình xử lý yếu kém của hệ thống các TCTD cần phải được chia sẻ

hợp lý giữa các bên có liên quan theo quy định của pháp luật (Nhà nước, chủ sở hữu,

nhà đầu tư và người gửi tiền). Trong đó, chủ sở hữu TCTD phải chịu trách nhiệm đầu

tiên và cuối cùng về những tổn thất xảy ra.

Các hoạt động kinh doanh chính của TCTD sẽ được củng cố và phát triển, đồng

thời giảm các lĩnh vực kinh doanh nhiều rủi ro, kém hiệu quả. Tập trung tín dụng vào

phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn, xuất khẩu, công nghiệp phụ trợ, sản xuất –

chế biến, doanh nghiệp nhỏ và vừa. Từng bước chuyển dịch mô hình kinh doanh của

các NHTM theo hướng giảm bớt sự phụ thuộc vào hoạt động tín dụng và tăng nguồn

thu nhập từ hoạt động dịch vụ phi tín dụng. Đa dạng hóa và nâng cao chất lượng dịch

vụ ngân hàng.

Song, cùng với sự phát triển nhanh về quy mô, các TCTD hiện nay đang tiềm ẩn

những yếu kém, rủi ro. Hệ thống các TCTD tiềm ẩn rủi ro tín dụng và rủi ro thanh

khoản khá cao, tính ổn định, hiệu quả hoạt động và khả năng cạnh tranh chưa cao.

Nguyên nhân của những yếu kém này xuất phát từ những yếu tố khách quan (kinh tế vĩ

mô trong nước, ngoài nước kém ổn định, hệ thống doanh nghiệp nhiều yếu kém, khuôn

khổ thể chế còn bất cập,…) và yếu tố chủ quan (năng lực quản trị, điều hành, tài chính,

trình độ cán bộ và công nghệ nhiều hạn chế,…).

Như vậy, với sự tham gia toàn diện trên mọi hoạt động ngân hàng hợp nhất của

BIDV dưới sự chỉ đạo của Ngân hàng Nhà nước, SCB* đứng trước cơ hội có một

nguồn lực mạnh mẽ với bề dày kinh nghiệm trong lĩnh vực tài chính – ngân hàng hỗ

trợ Ngân hàng hoạt động hiệu quả hơn. Tuy nhiên, cũng với sự kiểm soát chặt chẽ của

Ngân hàng Nhà nước, thách thức đặt ra ở đây là Ban Lãnh đạo SCB* phải điều hành

hoạt động ngân hàng theo mục tiêu hài hòa lợi ích giữa các bên: thực hiện mục tiêu tái

cơ cấu, an toàn hệ thống ngân hàng của Ngân hàng Nhà nước; đảm bảo lợi ích của

người gửi tiền; hỗ trợ hiệu quả cho các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh phát triển

kinh tế; đảm bảo quyền lợi của CBNV và lợi ích của các cổ đông. Có như vậy mới

đảm bảo Ngân hàng hợp nhất có thể phát triển lâu dài và bền vững trong tương lai.

3.3. Hệ thống quản lý rủi ro: rủi ro chính yếu của SCB* sau khi hợp nhất là rủi ro tín

dụng và rủi ro vận hành.

3.3.1. Quản lý rủi ro tín dụng:

Rủi ro tín dụng là các tổn thất phát sinh từ việc khách hàng không trả được đầy

đủ, đúng hạn các khoản nợ hoặc khách hàng không thực hiện đầy đủ, đúng hạn các

nghĩa vụ mà ngân hàng đã bảo lãnh và ngân hàng phải thực hiện thay các nghĩa vụ này.

(Đvt: tỷ đồng)

Ngân hàng SCB* EIB STB ACB

70.104 69.524 80.998 100.334 Cho vay khách hàng

1.854 622 879 1.007 Dự phòng rủi ro

0,89% 1,09% 1,00% Tỷ lệ DPRR/CVKH 2,64%

Theo Báo cáo tài chính sau hợp nhất của SCB* đến ngày 30/09/2011, chỉ tiêu cho

vay khách hàng là 70.104 tỷ đồng, dự phòng rủi ro là 1.854 tỷ đồng, tỷ lệ

DPRR/CVKH là 2,64%. So với các Ngân hàng TMCP khác có quy mô tương đương

như EIB, STB, ACB thì chi phí trích lập DPRRTD và tỷ lệ DPRR/CVKH của SCB* là

cao nhất. Điều này chứng tỏ SCB* tiếp tục phải đối mặt với rủi ro tín dụng cao và vấn

đề xử lý nợ xấu sẽ là trọng tâm hàng đầu trong năm hoạt động đầu tiên 2012 của Ngân

hàng hợp nhất.

Rủi ro tín dụng có mối quan hệ mật thiết với rủi ro thanh khoản của Ngân hàng.

Một trong những nguyên nhân chính của việc hợp nhất SCB, TNB, Ficombank là các

ngân hàng này đang phải đối mặt với rủi ro thanh khoản. Sở dĩ 3 ngân hàng này thiếu

hụt thanh khoản tạm thời là do mất cân đối kỳ hạn giữa nguồn vốn huy động và cho

vay. Với dư nợ cho vay vào lĩnh vực bất động sản cao, các dự án của 3 ngân hàng này

nhìn chung có hiệu quả, nhưng nguồn vốn cho vay chủ yếu trung và dài hạn, trong khi

nguồn vốn huy động lại chủ yếu ngắn hạn.

Vì vậy, quản lý rủi ro tín dụng đối với Ngân hàng hợp nhất là phải cơ cấu lại danh

mục cho vay theo hướng:

- Giảm cả về số tuyệt đối và tỷ lệ cấp tín dụng trung dài hạn, tăng cường cho vay

ngắn hạn.

- Đa dạng hóa ngành nghề cho vay trên cơ sở nghiên cứu chính sách kinh tế của

nhà nước đối với các ngành nghề kinh doanh, xu hướng phát triển của ngành nghề,

mức độ rủi ro của các ngành nghề, lĩnh vực mà doanh nghiệp hoạt động... để giảm

thiểu rủi ro tín dụng do việc cho vay tập trung vào một số ngành nghề kinh tế nhất

định. Tăng cường kiểm soát tiến độ thực hiện các dự án đã giải ngân, quản lý nguồn

thu của khách hàng để đảm bảo thu hồi nợ, hạn chế cho vay vào lĩnh vực bất động

sản, chỉ cho vay mới các dự án có tính khả thi cao, nằm trong quy hoạch của Nhà

nước.

- Đa dạng hóa loại hình tổ chức và cá nhân cho vay: hạn chế cho vay tập trung

vào các nhóm khách hàng với dư nợ lớn, mở rộng hơn nữa mảng bán lẻ với khách

hàng mục tiêu là doanh nghiệp vừa và nhỏ và khách hàng cá nhân. Điều này sẽ giúp

đảm bảo các tỷ lệ an toàn trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng đồng thời thúc

đẩy việc mở rộng mạng lưới kênh phân phối hiện đại, nâng cao chất lượng dịch vụ.

- Đa dạng hóa sản phẩm tín dụng: căn cứ vào tình hình kinh tế thị trường, chiến

lược kinh doanh, SCB* cần phải xây dựng danh mục tín dụng theo hướng đa dạng hóa

các sản phẩm tín dụng như: tiêu dùng, mua nhà ở xây nhà ở, hỗ trợ học tập, du lịch,

khám chữa bệnh..., kinh doanh chứng khoán, chiết khấu, bao thanh toán... Điều này sẽ

giúp Ngân hàng phân tán rủi ro, nâng cao năng lực cạnh tranh và mở rộng thị phần.

Để thực hiện cơ cấu danh mục tín dụng, SCB* cần phải xây dựng một chính sách

tín dụng nhất quán nhằm làm định hướng cho hoạt động tín dụng trong toàn hàng. Trên

cơ sở chính sách tín dụng đã ban hành, SCB* xây dựng kế hoạch hoạt động tín dụng

cho toàn hàng và cho từng đơn vị (Sở Giao dịch, các Chi nhánh, Phòng Giao dịch...).

Cơ chế thanh tra, kiểm soát nội bộ của các Phòng/ban chức năng của Hội sở càng phải

được chú trọng để đảm bảo các đơn vị thực hiện theo đúng kế hoạch tín dụng đã đề ra.

3.3.2. Quản lý rủi ro vận hành:

Rủi ro vận hành là những rủi ro phát sinh do yếu tố con người (cẩu thả, gian

lận...) hoặc do sự không hoàn chỉnh trong các quy trình vận hành, sự yếu kém trong hệ

thống thông tin, hệ thống kiểm soát nội bộ; hoặc do những thay đổi của các yếu tố

khách quan (cơ chế, chính sách của nhà nước, sự thay đổi của môi trường tự nhiên:

thiên tai, địch họa...).

Các loại rủi ro vận hành mà Ngân hàng có thể gặp phải:

- Rủi ro do CBNV và quá trình xử lý công việc của CBNV: thực hiện các

nghiệp vụ, nhiệm vụ không được ủy quyền hoặc vượt quá thẩm quyền cho phép

và/hoặc không đúng chức năng nhiệm vụ; không tuân thủ đúng quy định, quy trình

nghiệp vụ của SCB, các quy định của NHNN và các văn bản pháp luật hiện hành; vi

phạm nội quy cơ quan, hợp đồng lao động hoặc vi phạm các quy định pháp luật đối với

đối với người lao động tại nơi làm việc gây thiệt hại cho SCB*; năng lực, trình độ

nghiệp vụ không đáp ứng được yêu cầu công việc; phong cách giao tiếp, ứng xử với

khách hàng thiếu văn minh, lịch sự; phối hợp công tác với các Phòng/ban khác chưa

tốt; vi phạm đạo đức nghề nghiệp, có hành vi lừa đảo, gian lận, biển thủ trục lợi cá

nhân và/hoặc hành động phạm tội gây thiệt hại cho SCB*.

Với tổng số nhân sự của Ngân hàng hợp nhất dự kiến là 3.983 CBNV, cơ hội của

SCB* là có một đội ngũ nhân sự dồi dào với trình độ chuyên môn cao. Tuy nhiên

thách thức đối với Ban Lãnh đạo của SCB* là trong một môi trường lớn hơn nhiều về

quy mô nhân sự, tiềm ẩn rủi ro vận hành do CBNV sẽ gây ra những thiệt hại đáng kể

cho Ngân hàng về cả mặt tài chính và uy tín. Đáng lưu ý nhất là các thiệt hại do CBNV

vi phạm đạo đức nghề nghiệp, tư lợi cá nhân...

- Rủi ro do quy định, quy trình nghiệp vụ: văn bản quy chế, quy định, quy trình,

hướng dẫn tác nghiệp của SCB* có điểm bất cập, chưa hoàn chỉnh, có kẽ hở tạo điều

kiện cho việc lợi dụng, gây thiệt hại cho SCB*. Văn bản chưa phù hợp thực tế gây khó

khăn cho cán bộ trong quá trình tác nghiệp; hoặc chưa rõ ràng, khó hiểu, dễ gây nhầm

lẫn trong quá trình tác nghiệp.

Rủi ro từ hệ thống công nghệ thông tin và các hệ thống hỗ trợ khác: phương án

hợp nhất hoạt động về công nghệ thông tin là hợp nhất hệ thống thông tin quản lý và

hệ thống truyền dữ liệu Smartbank tiến tới sang hệ thống Corebanking T24 hoặc

Plexcube tùy tình hình thực tế. Đầu tiên, SCB* phải tiến hành tích hợp dữ liệu công

nghệ thông tin hiện tại tại 3 ngân hàng SCB, TNB, Ficombank thành một hệ thống.

Điều này có ý nghĩa rất quan trọng trong việc quản trị ngân hàng hợp nhất. Hiện nay,

hệ thống công nghệ thông tin tại SCB* vẫn lạc hậu, đi sau các ngân hàng khác. Vì vậy,

hiện đại hóa công nghệ thông tin đối với ngân hàng hợp nhất là vấn đề sống còn, đòi

hỏi quyết tâm cao của Ban Lãnh đạo để đảm bảo ngân hàng có thể phát triển bền vững

trong tương lai.

Để hạn chế các rủi ro vận hành, Ngân hàng có thể sử dụng các biện pháp sau:

- Xây dựng quy trình, quy chế, quy định... chặt chẽ, đầy đủ, tuân thủ Pháp luật.

Hiện nay, tại các Ngân hàng, các Phòng/ban Hội sở đảm nhiệm chức năng xây dựng

các văn bản liên quan đến hoạt động ngân hàng. Vì vậy, nhiệm vụ của Ban Điều hành

là củng cố bộ máy các Phòng/ban Hội sở, tuyển dụng nhân sự Hội sở phải có kinh

nghiệm, chuyên môn phù hợp. Có thể xem việc xây dựng mỗi một quy trình, quy định,

huớng dẫn... là một sản phẩm của Ngân hàng và có chế độ ưu đãi lương/thưởng đối với

các cán bộ trực tiếp xây dựng các văn bản này.

Công tác quản lý rủi ro vận hành tại ngân hàng cần phải được triển khai thực hiện

qua các cấp như sau:

(cid:57) Hội đồng Quản trị: phê duyệt chính sách, chiến lược về quản lý rủi ro vận

hành và giám sát hoạt động này của hệ thống SCB*.

(cid:57) Ban Điều hành: đề xuất chính sách, chiến lược về quản lý rủi ro vận hành

trình Hội đồng Quản trị xem xét và chịu trách nhiệm trước Hội đồng Quản trị về đảm

bảo an toàn, ngăn ngừa, giảm thiểu rủi ro trong quá trình vận hành của SCB; triển khai

thực hiện trong toàn hệ thống SCB* chính sách quản lý rủi ro vận hành; giám sát việc

triển khai thực hiện quản lý rủi ro vận hành trong toàn hệ thống và báo cáo Hội đồng

Quản trị.

(cid:57) Ban Kiểm soát: giám sát và đánh giá việc thực hiện các chiến lược, chính

sách, quy định, quy trình quản lý rủi ro vận hành tuân thủ theo các quy định của pháp

luật và của SCB*, hiệu quả của hệ thống quản lý rủi ro vận hành, đảm bảo phù hợp

chiến lược kinh doanh của SCB*.

(cid:57) Phòng Quản lý rủi ro vận hành – Hội sở: xây dựng và triển khai chính

sách, quy trình hoạt động quản lý rủi ro vận hành; đôn đốc các Phòng/ban Hội sở thực

hiện công tác rà soát để bổ sung, tu chỉnh các quy định nội bộ bất cập, chồng chéo,

vướng mắc trong tác nghiệp và hoạt động; phối hợp chặt chẽ với các Phòng/ban liên

quan để kịp thời phát hiện ra các rủi ro có thể có trong quá trình vận hành; đề xuất và

hỗ trợ Ban Điều hành phân bổ nhân sự, quản lý hoạt động của các bộ phận Quản lý rủi

ro khu vực.

- Chú trọng việc đào tạo, triển khai, cập nhật các sản phẩm, quy trình, quy định...

đến từng CBCNV. Bên cạnh đó, việc đào tạo các kĩ năng mềm (kĩ năng lãnh đạo, làm

việc nhóm, quản lý thời gian, giao tiếp...) cho CBCNV cũng cần phải ngày càng được

quan tâm. Hiện nay, SCB* đã có Trung tâm đào tạo, vì vậy vấn đề đặt ra lúc này đối

với Ban Lãnh đạo ngân hàng là đầu tư hơn nữa về cả vật chất lẫn nhân sự cho Trung

tâm.

- Hiện đại hóa công nghệ thông tin: khẩn trương lựa chọn một giải pháp chung

thích hợp phục vụ hoạt động; trước mắt tìm kiếm, đề nghị ngân hàng trong nước có

kinh nghiệm trong hoạt động công nghệ hỗ trợ giúp như tư vấn kĩ thuật, chia sẻ tài

nguyên... trên nguyên tắc các bên cùng có lợi; về trung hạn, tập trung xây dựng đề án

hiện đại hóa công nghệ triển khai ngay từ 2013-2014. Việc ký Hợp đồng hợp tác toàn

diện với BIDV cũng tạo ra cơ hội để SCB* phát triển hệ thống công nghệ thông tin.

(cid:153) Cơ cấu lại mô hình tổ chức: việc cơ cấu lại mô hình tổ chức sẽ được triển khai

dựa trên nguyên tắc phân định rõ các khối kinh doanh, quản lý rủi ro và hỗ trợ từ Hội

sở xuống đến các đơn vị (Sở Giao dịch, các Chi nhánh, Phòng Giao dịch...) về chức

năng nhiệm vụ và thể hiện đầy đủ trong các quy trình, quy chế nghiệp vụ.

- Có thể thấy khi hợp nhất 3 ngân hàng với nhau tất yếu sẽ tinh giản các hoạt

động phòng, ban hay sự trùng lắp về tổ chức giữa các ngân hàng, trong đó tất yếu có

sự cân nhắc bỏ ai, giữ ai trong bộ khung Hội đồng Quản trị, Ban Điều hành… Vấn đề

đặt ra là liệu trong quá trình hợp nhất có xuất hiện sự xung đột lợi ích, quyền lợi lẫn

nhau?

- Nhiều ý kiến cho rằng việc hợp nhất trên tinh thần tự nguyện và thực tế có một

cổ đông lớn đang nắm cổ phần chi phối cả 3 ngân hàng hợp nhất trên nên sẽ không xảy

ra xung đột lợi ích. Tuy nhiên, theo một chuyên gia ngân hàng, hoạt động ngân hàng

khá phức tạp, có nhiều quyền lợi đan xen trong nội bộ, chưa kể cách điều hành, văn

hóa của mỗi ngân hàng khác nhau.

- Do vậy, để việc hợp nhất thành công đòi hỏi phải có lộ trình, thời gian thực hiện

để tạo tiếng nói chung.

3.4. Hệ thống công nghệ thông tin

Hợp nhất hệ thống thông tin quản lý và hệ thống truyền dữ liệu Smartbank tiến

tới sang hệ thống Corebanking T24 hoặc Flexcube tùy tình hình thực tế. Khẩn trương

lựa chọn 1 giải pháp chung thích hợp phục vụ hoạt động, trong khi đó, tạm thời trước

mắt sẽ hạch toán thông qua thu chi hộ giữa 3 Ngân hàng thông qua Trung tâm thanh

toán của Hội sở. Tuy nhiên biện pháp này sẽ phát sinh những vấn đề sau:

+ Việc thu, chi các sổ tiết kiệm giữa 3 Ngân hàng trong khi hệ thống chưa liên kết

được 3 hệ thống sẽ dẫn đến nhiều rủi ro (vd: việc nhận diện sổ tiết kiệm, khách hàng,

cách tính sản phẩm, hạch toán kế toán trong ngày,..).

+ Tâm lý ngại và không muốn làm của lao động mỗi Ngân hàng vì qui trình thu

chi hộ nhiều rủi ro và mất thời gian chờ làm giấy xác nhận, fax chứng từ, gọi điện hỏi

thông tin, cuối ngày làm cân đối, chuyển điện,…

+ Các giao dịch liên quan đến tiền gửi thanh toán của khách hàng như tra cứu số

dư, rút tiền, nộp tiền không có hệ thống chung phải qua thu chi hộ sẽ khó đáp ứng

được yêu cầu giao dịch nhanh chóng của Khách hàng.

SCB* trước mắt tìm kiếm, đề nghị NH trong nước có kinh nghiệm trong hoạt

động công nghệ hỗ trợ giúp như tư vấn kỹ thuật, chia sẻ tài nguyên trên nguyên tắc các

bên cùng có lợi. Về trung hạn, tập trung xây dựng đề án hiện đại hóa công nghệ dự

kiến triển khai từ 2013 – 2014.

3.5. Nhân lực:

Vấn đề quản trị nhân lực cũng không kém phần quan trọng sau khi hợp nhất.

Đứng trên góc độ của các nhân viên để nhìn nhận ta thấy chỉ cần một sự xáo trộn nhỏ

trong ban lãnh đạo cũng đã gây ra nhiều hoang mang trong đội ngũ nhân viên, cũng đã

làm cho không khí làm việc của họ trở nên ngột ngạt, khó khăn hơn. Do đó, việc ba

ngân hàng hợp nhất lại càng làm cho họ phải lo nghĩ nhiều hơn. Rất nhiều câu hỏi

được đặt ra: hợp nhất rồi công việc hiện tại sẽ như thế nào? Liệu có xảy ra tình trạng

cắt giảm nhân sự không? Tiền lương, thưởng, phúc lợi sẽ giảm xuống, giữ nguyên hay

tăng lên? Rồi cả đường lối quản trị nhân sự của ban lãnh đạo mới sẽ như thế nào? Có

chăng đôi chút sự phân biệt đối xử giữa nhân viên của mỗi ngân hàng?… Và còn rất

nhiều rất nhiều băn khoăn khác, nhưng tựu chung có thể tóm gọn thành 3 vấn đề lớn

đó là: sự ổn định việc làm, chế độ đãi ngộ nhân viên và phong cách quản trị của ban

lãnh đạo mới. Đây cũng là 3 vấn đề quan trọng trong quản trị nhân lực mà ban lãnh

đạo của ngân hàng hợp nhất phải giải quyết.

Không thể phủ nhận tình hình có một số nhân viên cũng như lãnh đạo cấp thấp

của 3 ngân hàng đã đệ đơn xin nghỉ việc. Vậy, làm sao để trấn an tinh thần toàn thể

nhân viên, tránh tình trạng lây lan sự hoang mang trong đội ngũ nhân viên là điều

trước tiên nhà quản trị mới phải thực hiện:

- Cơ cấu nhân sự sẽ được giữ nguyên nhằm tạo tâm lý ổn định cho nhân viên

khi làm việc. Do đó, ngay sau thời điểm việc hợp nhất có hiệu lực, toàn bộ các lao

động có ký hợp đồng lao động với SCB (2,096), TNB(1,146), FCB (519) sẽ trở thành

lao động của SCB*.

- Cơ cấu nhân sự sau hợp nhất:

Cấp nhân sự Số lượng

Hội đồng quản trị 11

Ban kiểm soát 5

Ban cố vấn HĐQT 4

Ban điều hành 12

Giám đốc khối, TP ban Hội sở 48

Giám đốc SGD, CN 51

TP giao dịch, QTK, Điểm giao dịch 175

Cán bộ nhân viên 3,677

TỔNG CỘNG 3,983

- Tuy nhiên, theo tâm lý chung, hầu hết các lao động của cả 3 ngân hàng đều

xem việc hợp nhất là sự đe dọa đến công việc của họ vì những cổ đông sẽ yêu cầu Ban

điều hành cắt giảm nhân sự trước áp lực phải giảm chi phí hoạt động. Các số liệu thực

tế đã xác nhận sự lo ngại này, trong suốt quá trình hợp nhất tại hầu hết các Ngân hàng

trên thế giới số lượng lao động thực tế luôn ít hơn trước đó. Ví dụ, việc hợp nhất đã

dẫn đến kết quả tiêu cực trong vấn đề việc làm của Ngân hàng Hellenic, 3,627 việc làm

đã bị cắt giảm trong thời gian từ 1998-2003.

- Việc cắt giảm nhân sự hay theo cách gọi của Ban điều hành là tái cấu trúc

Ngân hàng chủ yếu sẽ diễn ra như sau:

+ Giảm dần lao động phổ thông bằng quyết định chuyển qua thuê ngoài các

dịch vụ như an ninh, lau dọn, bảo dưỡng, vận chuyển,…

+ Trẻ hóa lao động và tăng cường các lao động trình độ cao, chuyên viên bên

cạnh việc giảm lao động chất lượng thấp và lao động lớn tuổi thông qua các chương

trình nghỉ việc/nghỉ hưu sớm, tự nguyện. Trên thế giới chương trình này đã dẫn đến

việc giảm đáng kể số lượng người lao động trên 55 tuổi.

+ Người lao động để được giữ lại cần phải nâng cao năng lực chuyên môn, gia

tăng năng suất lao động và linh hoạt hơn trong công việc. Tuy nhiên, sự gia tăng các

đòi hỏi đối với người lao động của Ban điều hành mới không phải luôn luôn đi kèm

với các khóa đào tạo. Sự thiếu đầu tư trong công tác đào tạo, huấn luyện nhân viên khá

phổ biến trong các vụ hợp nhất, khi mà áp lực của việc cắt giảm chi phí đã dẫn tới việc

thay thế nhân sự sẽ tiết kiệm được nhiều chi phí thay vì phải bỏ tiền ra đào tạo lại lớp

nhân viên cũ.

+ Nạn nhân của quá trình tái cấu trúc này chủ yếu sẽ là các lao động có kĩ năng

thấp, lớn tuổi được thay thế bởi các lao động có trẻ, chuyên môn cao, có thể đảm

đương nhiều nhiệm vụ và chịu được áp lực cao trong công việc.

CHƯƠNG 4: KIẾN NGHỊ GIẢI PHÁP GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ QUẢN LÝ SAU

HỢP NHẤT

4.1. Giải pháp vĩ mô:

Vai trò của Nhà nước chính là tạo dựng một môi trường kinh tế vĩ mô ổn định ,

một khuôn khổ Pháp lý khuyến khích đầu tư tư nhân và cạnh tranh, thực thi chính sách

mở cửa hướng vào thương mại quốc tế. NHTW chỉ có thể can thiệp đẩy nhanh tiến

trình này bừng các văn bản Pháp luật tạo dựng cơ chế cho họ làm tốt hơn. Đơn cử,

NHTW có thể đưa ra một số quy định về kiểm soát đầu tư, theo đó, các NH sẽ thấy tốn

kém hơn, khó khăn hơn khi hoạt động trên tư cách những NH nhỏ, tiềm lực yếu. Hãy

ra những đòi hỏi cao hơn, từ đó sự thôi thúc thị trường sẽ khiến các NH thấy việc sáp

nhập là cần thiết và tự họ sẽ làm.

Hiện nay khung pháp lý về việc sáp nhập NH còn chưa rõ ràng và hính các nhà

quản trị NH cũng nắm chưa thật cặn kẽ về thủ tục này. Do đó biện pháp giúp đỡ các

NH khi muốn sáp nhập là điều cần thiết hiện nay. Bên cạnh việc sớm ban hành luật sáp

nhập NH, Nhà nước cần mở các khóa đào tạo để đào tạo những nhân viên tư vấn về

vấn đề sáp nhập: đào tạo cả thủ tục pháp lý lẫn phương pháp tư vấn cho các ngân hàng

trong việc định giá NH, tìm đối tác sáp nhập giữa các NH…

Việc đào tạo chuyên viên tư vấn cho hoạt động sáp nhập NH mà đặc biệt trong

khâu định giá là việc có vẻ như rất mới mẻ đối với nước ta trong khi ở nước ngoài họ

đã có nhiều doanh nghiệp chuyên thực hiện nghiệp vụ này. Vì vậy đối với việc này

Nhà nước có thể hợp tác với những tổ chức chuyên nghiệp của nước ngoài để mở lớp

đào tạo, để họ hỏi phương pháp định giá hiện tại chứ không thể cứ dựa mãi vào những

phương pháp cũ.

Bên cạnh đó, khâu tìm đối tác sáp nhập cũng là việc khó hiện nay. Thông tin về

các NH hiện nay cũng chưa thật rõ ràng, minh bạch. Ngoài những NH đã niêm yết trên

các sàn giao dịch thì đa phần việc tìm thông tin về những NH còn lại khó mà thực hiện

như ý muốn. Do đó, nhà nước có thể thành lập trung tâm lưu kí thông tin về các NH để

những NH có ý định tìm đối tác sáp nhập có thể đăng kí ở đây cũng như tìm hiểu thông

tin về các NH khác dễ dàng hơn

4.2. Giải pháp vi mô:

Cơ cấu lại ngân hàng bao gồm cả hoạt động ngắn hạn và dài hạn: ngắn hạn là ổn

định hóa ngân hàng về mọi mặt mà trước hết là thanh khoản hay khả năng thanh toán

và khôi phục lòng tin của người gửi tiền vào ngân hàng. Trung hạn là xử lý các vấn đề

về tài chính (tăng vốn, xử lý thất thoát...), cải thiện khả năng quản lý, cải thiện khả

năng sinh lời. Ba ngân hàng được hợp nhất nhưng đã có thêm sự hỗ trợ của Ngân hàng

Đầu tư và Phát triển VN (BIDV) đảm bảo sự tăng vốn và duy trì khả năng thanh toán

của ngân hàng ở mọi thời điểm nhất là khi người gửi tiển có thể còn hoài nghi về khả

năng thanh khoản của ngân ngân hàng mới.

Các bên ko được phân tán tài sản dưới mọi hình thức. Thể hiện được tính thống

nhất của 3 ngân hàng nghiêm túc thực hiện đề án hợp nhất 3 ngân hàng. Tài sản của 3

ngân hàng sẽ là nền tảng, là động lực cho ngân hàng hợp nhất phát triển

4.2.1. Giải pháp xử lý nợ tồn đọng

Ngân hàng HỢP NHẤT sẽ cần tập trung xử lý các khoản nợ xấu của 3 ngân hàng.

Tổ chức phân công cụ thể cho từng chi nhánh quản lý và báo cáo định kỳ hàng tháng

tình hình thu hồi các khoản nợ xấu. Một số biện pháp quản lý nợ xấu có thể áp dụng

như sau:

- Phân quyền Chi nhánh về hạn mức tín dụng được duyệt căn cứ theo tình hình

nợ xấu tại chi nhánh đó. Ví dụ: Nợ xấu cao thì thẩm quyền xét duyệt tín dụng thấp và

ngược lại.

- Thường xuyên liên hệ làm việc với Khách hàng, tìm hiểu tình hình tài chính,

nguyên nhân trả nợ trễ hạn của Khách hàng. Chi nhánh có thể ân hạn thời gian vay

cho Khách hàng nếu là khách hang tốt, gặp khó khăn do ảnh hưởng tình hình kinh tế

khó khăn chung. Ngoài ra, Ngân hang sẽ tiến hành khởi kiện phát mãi tài sản đối với

những khách hàng không có khả năng trả nợ.

- Có chính sách khen thưởng nếu đạt kết quả thu hồi nợ tốt.

- Thành lập công ty mua bán nợ tách ra khỏi ngân hàng: Hiện nay các ngân hàng

thương mại đều đã thành lập công ty khai thác tài sản thế chấp và đưa vào hoạt động.

Mặt khác, các ngân hàng thương mại cũng đã trích lập và xử lý dự phòng rủi ro. Tuy

nhiên theo nhóm viết biện pháp này là không triệt để bởi những công ty và nguồn vốn

hoạt động của các công ty này thực chất vẫn lấy từ các ngân hàng. Do đó để xử lý

những khoản nợ xấu, ngân hàng SCB mới nên thành lập ra một công ty mua bán nợ

và tổ chức hoạt động độc lập với chính nó.

- Xây dựng một hệ thống cảnh báo rủi ro để xử lý triệt để các khoản nợ còn tồn

đọng

4.2.2. Phát triển các nguồn lực cho ngân hàng (nhân lực, công nghệ - thông tin,

mạng lưới phân phối)

Thứ nhất, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.

Sau khi hợp nhất, toàn bộ nhân viên của 3 ngân hàng sát nhập sẽ trở thành nhân

viên của Ngân hàng hợp nhất. Theo nhóm việc giữ toàn bộ nhân viên trên sẽ có những

lợi ích sau:

a. Nhân viên là những người hiểu rõ tình hình kinh doanh của mỗi đơn vị đóng

địa bàn. Việc giữ lại các nhân viên giúp cho NH hợp nhất hoạt động ổn định tru trong

thời gian đầu.

b. Khách hàng đến giao dịch sẽ yên tâm hơn và từ đó có được niềm tin với Ngân

hàng hợp nhất.

c. Với quy mô NH hợp nhất lớn hơn so với NH cũ, các nhân viên sẽ có động lực

làm việc và chuyên nghiệp hơn.

Để giảm thiểu rủi ro thì một trong những yêu cầu bắt buộc là nâng cao trình độ

chuyên môn nghiệp vụ cho tất cả các cán bộ, nhân viên trong ngân hàng, không chỉ là

trình độ chuyên môn nghiệp vụ tài chính – ngân hàng, mà còn đòi hỏi nâng cao trình

độ kinh tế tổng hợp, bởi vì, có như vậy thì ngân hàng mới tư vấn cho khách hàng của

mình các định hướng đầu tư vốn hiệu quả, đồng thời qua đó mới thẩm định chính xác

các dự án đầu tư tín dụng. Cần chú trọng chiến lược phát triển nguồn nhân lực theo

hướng nâng cao chất lượng.

Một là, ngân hàng phải có chiến lược đúng đắn cho nguồn nhân lực trong tương

lai bằng cách đẩy mạnh hơn nữa chương trình liên kết, tài trợ tại các trường đại học và

trung tâm đào tạo.

Hai là, phải có chế độ đãi ngộ hợp lý đối với người lao động, tạo môi trường

thuận lợi để người lao động phát huy hết năng lực của mình, phải biết tôn trọng tài

năng của người lao động.

Ba là, phải xây dựng các dự án bồi dưỡng nghiệp vụ cho nhân viên định kỳ để

nâng cao tính chuyên nghiệp và khả năng ứng dụng công nghệ mới.

Thứ hai, tiếp tục đầu tư đổi mới công nghệ ngân hàng nhằm đảm bảo tính hiện

đại, an toàn, nhanh chóng, tiện lợi nhất trong giao dịch cung ứng dịch vụ cho khách

hàng. Ngân hàng phải tích cực hơn nữa trong việc đầu tư đổi mới công nghệ phù hợp

chiến lược hiện đại hóa đối với ngành ngân hàng trong thời gian tới, chú trọng hơn nữa

tính hiệu quả trong việc triển khai hệ thống ngân hàng lõi – Core banking. Các

Website được ví như trung tâm thông tin, các chi nhánh phân phối ở mọi lúc, mọi nơi,

khách hàng có thể truy cập để tìm hiểu, lấy thông tin về các dịch vụ cung cấp, phía

ngân hàng cũng có thể tiếp cận với khách hàng nhanh chóng và có hiệu quả.

4.2.3. Giảm thiểu khả năng đổ vỡ của hệ thống bằng cách tăng cường năng lực

quản lý điều hành tập trung, thống nhất toàn hệ thống

Tại Hội sở chính thông qua xây dựng hệ thống các định chế quản lý nội bộ theo

tiêu chuẩn quốc tế, phát triển mô hình cơ cấu tổ chức ngân hàng theo hướng hiện đại,

hướng đến khách hàng. Phát triển nền văn hóa doanh nghiệp hiện đại với một tinh thần

đạt được sự thỏa mãn cao nhất của khách hàng về các dịch vụ của ngân hàng để đảm

bảo hài hòa lợi ích Cộng đồng - Khách hàng - Ngân hàng. Xây dựng môi trường nội bộ

lành mạnh với hệ thống khuyến khích có hiệu quả. Xây dựng kế hoạch đào tạo và đào

tạo lại cán bộ, tập trung trước hết vào các lĩnh vực chính yếu của tái cơ cấu như:

nghiệp vụ quản lý chiến lược, quản lý rủi ro, kế toán, kiểm toán, quản lý tín dụng và

dịch vụ mới.