Liên hệ thực tế nhằm nâng cao hiệu quả dạy-học môn hoá học ở trường THCS

A. MỞ ĐẦU

1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI:

Hoá học là bộ môn khoa học tự nhiên. Như tên của nó, đôi khi chúng

ta nghĩ đây là bộ môn khô khan, khó tiếp thu đối với học sinh (HS). Có lúc HS

học lý thuyết trên sách giáo khoa, còn thực tế hiện tượng hoá học xảy ra như thế

nào thì không nhìn thấy được. Học sinh chỉ học thuộc lòng phương trình và hiện

tượng hoá học theo sách vở, điều này làm cho các em mau quên và dễ chán.

Cũng có lúc các em cảm thấy kiến thức hoá học thật trừu tượng nên không hiểu

bài trong lớp. Mà đã khó hiểu thì làm sao các em có thể yêu thích?

Môn hóa học ở trường phổ thông nếu không có những bài giảng và

phương pháp hợp lí phù hợp với thế hệ học trò dễ làm cho HS thụ động trong

việc tiếp thu, cảm nhận. Trước tình hình đó, hóa học phải đổi mới phương pháp

dạy học đã và đang thực sự là yếu tố quyết định hiệu quả giờ dạy. Một trong

những yếu tố để đạt giờ dạy có hiệu quả và tiến bộ là phát huy tính thực tế.

Có những vấn đề hóa học giúp HS giải thích những hiện tượng trong tự

nhiên, tránh việc mê tín dị đoan, thậm chí hiểu được những dụng ý khoa học hóa

học trong những câu ca dao – tục ngữ, mà thế hệ trước để lại và có thể ứng dụng

trong thực tiễn đời sống thường ngày, chỉ bằng những kiến thức rất phổ thông mà

không gây nhàm chán, xa lạ, lại có tác dụng kích thích tính chủ động, sáng tạo,

hứng thú trong môn học.

Trong việc dạy môn hoá học ở trường trung học, người giáo viên phải

có vốn kiến thức về thực tế sâu, rộng, có khả năng gắn bài giảng với thực tế, tạo

ra được những giờ học sinh động, nâng cao sự hiểu biết và kích thích sự ham mê

học tập của HS.

Với những lý do trên tôi đã tìm tòi nghiên cứu, tham khảo tư liệu và áp

dụng đề tài:“Liên hệ thực tế nhằm nâng cao hiệu quả dạy-học môn hoá học ở

trường THCS” nhằm khơi dậy hứng thú học tập cho HS. Có vậy, HS sẽ thấy môn

hoá học là môn học gần gũi, dễ hiểu; qua đó từng bước hình thành ở các em lòng

1

yêu thích bộ môn và niềm đam mê khoa học.

2. MỤC ĐÍCH CỦA ĐỀ TÀI:

Đề tài này được thực hiện với mục đích giúp HS giải thích những hiện

tượng trong tự nhiên, tránh việc mê tín dị đoan. Đồng thời, đề tài cũng sẽ làm rõ

ý nghĩa khoa học hoá học có thể ứng dụng thực tiễn trong đời sống thường ngày

qua giảng dạy môn hoá học lớp 9, nhằm phát huy tính tích cực, sáng tạo, hứng

thú trong môn học. Từ những cơ sở đó, đề tài cũng sẽ đem lại cho GV và HS

những nhận thức về PP học tập, làm việc mang tính hợp tác, thấy rõ vai trò tích

cực của HS và chủ đạo của GV làm cho hoá học không khô khan, bớt đi tính đặc

thù phức tạp.

Tóm lại, đề tài muốn góp một tiếng nói vào phong trào đổi mới PPDH,

góp phần nâng cao hiệu quả giáo dục, đào tạo trong tình hình đất nước hiện nay.

3. NHIỆM VỤ VÀ ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CÚU:

Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài này nhằm giải quyết 3 vấn đề cơ bản sau:

Một là: nghiên cứu những vấn đề lý luận về phương pháp dạy học hoá

học ở trưòng phổ thông.

Hai là: nghiên cứu tình hình thực tế qua việc dự giờ các tiết dạy của

GV cùng bộ môn để đánh giá và rút ra PP giảng dạy thích hợp, đồng thời nghiên

cứu hiệu quả học tập của HS trong suốt quá trình thực hiện giải pháp.

Ba là: trên cơ sở thống kê số liệu chỉ rõ cách thực hiện và hiệu quả của

việc áp dụng :“Liên hệ thực tế nhằm nâng cao hiệu quả dạy-học môn hoá học ở

trường THCS”

Đối tượng áp dụng đế tài là HS lớp 9 trường THCS Phú An (nay là

trường THCS Nguyễn Tuấn Việt), Cụ thể là:

39 HS lớp 9A2, 39 HS lớp 9A3 năm học: 2009 - 2010

40 HS lớp 9A4, 39 HS lớp 9A5 năm học: 2010 – 2011

36 HS lớp 9A1, 34 HS lớp 9A4 năm học: 2011 – 2012

Đây là những HS có sức học bình thường theo đặc trưng của một trường vùng ven.

4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU:

2

4.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận

Thu thập các loại sách, báo, tạp chí, tài liệu có liên quan đến đề tài.

Đọc và khái quát các tài liệu có liên quan đến vấn đề nghiên cứu: chủ yếu

là SGK và các loại sách về hóa học trong sản xuất và đời sống.

4.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn

4.2.1. Phương pháp quan sát

Phương pháp này thực hiện bằng cách theo dõi và phân loại HS (Giỏi , Khá,

Trung bình, Yếu, Kém) để đưa ra cách giải hợp lý cho từng đối tượng.

4.2.2. Phương pháp điều tra, khảo sát bằng phiếu

Sử dụng hệ thống câu hỏi, phiếu điều tra nhằm thu thập số liệu để đánh

giá thực trạng và đề xuất các giải pháp.

4.2.3. Phương pháp phỏng vấn

Phỏng vấn, trao đổi trực tiếp với tổ trưởng, tổ chuyên môn, và tham khảo ý

kiến các giáo viên dạy giỏi về các vấn đề có liên quan đến đề tài.

4.3. Phương pháp thống kê toán học

Sau khi thu thập các phiếu thăm dò ý kiến, dựa vào kết quả điều tra, tôi cho

HS kiểm tra các kiến thức đã học so sánh đối chiếu với từng năm, từ đó rút ra tỉ

lệ phần trăm, nhằm đánh giá thực trạng và định hướng nâng cao hiệu quả của của

việc dạy học hoá học ở trường THCS.

5. PHẠM VI CỦA ĐỀ TÀI:

Đề tài này được thực hiện trong phạm vi môn hoá học lớp 9 ở trường

THCS Nguyễn Tuấn Việt nói riêng và ở huyện Cai lậy nói chung. Về mặt kiến

thức kỹ năng đề tài chỉ nghiên cứu một số dạng thuộc lĩnh vực hoá học trong sản

xuất và đời sống, hoá học bảo vệ môi trường.

6. ĐÓNG GÓP CỦA ĐỀ TÀI:

Đề tài này đi vào nghiên cứu những biện pháp để nâng cao hiệu quả và

phát huy tích cực học tập của HS khi học hoá 9. Từ đó góp phần vào việc giáo

dục sức khoẻ và hạn chế tình trạng ô nhiễm môi trường hiện nay. Giúp cho HS

hiểu rõ được mối quan hệ giữa các kiến thức hóa học với thực tiễn đời sống, với

3

xu hướng phát triển của xã hội.

Về mặt khoa học các em HS khi gặp những hiện tượng xảy ra trong đời

sống hàng ngày thường có tâm lý phải giải thích nó bằng cách nào? Do đó liên hệ

thực tế nhằm nâng cao hiệu quả dạy-học môn hoá học là cách hay nhất để phát

triển tư duy và rèn luyện kỹ năng hóa học của mỗi người, phát triển tư duy

logich, sử dụng thành thạo và vận dụng tốt kiến thức đã học vào cuộc sống.

Về mặt sư phạm, đối với GV suy nghĩ liên hệ thực tế để nâng cao hiệu quả

dạy-học còn là một hướng đi có hiệu quả để tổng quát hóa hoặc đặc biệt hóa môn

học, điều này góp phần hổ trợ, phát triển cái hay và mới cho HS. Rèn luyện cho

HS đức tính chính xác, kiên nhẫn, trung thực và lòng say mê khoa học hóa học.

Các liên hệ thực tế trong đề tài còn có tác dụng rèn luyện văn hóa lao động (lao

động có tổ chức, có kế hoạch, gọn gàng, ngăn nắp, sạch sẽ …).

Do vậy sáng kiến kinh nghiệm đề cập khía cạnh:“Liên hệ thực tế nhằm

nâng cao hiệu quả dạy-học môn hoá học ở trường THCS” đã góp phần cho học

sinh dễ tiếp thu, thiết thực, gần gũi với đời sống và lôi cuốn học sinh khi học.



4

B. NỘI DUNG

Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU

1.1. Cơ sở pháp lý: Sáng kiến kinh nghiệm thực hiện chủ yếu dựa trên

sách giáo khoa (SGK) hoá học 9,10,11,12, vì vậy SGK là cơ sở pháp lý để xây

dựng đề tài. Ngoài ra còn tham khảo sách giáo viên, sách bài tập, các sách tham

khảo và các tài liệu có liên quan là cơ sở cho sáng kiến kinh nghiệm.

1.2. Cơ sở lý luận:

Môn Hoá học giữ một vai trò quan trọng trong việc hình thành và phát

triển trí tuệ của học sinh. Mục đích của môn hóa học là giúp cho HS hiểu đúng

đắn và hoàn chỉnh; nâng cao những tri thức, hiểu biết về thế giới, về con người

thông qua các bài học, các giờ thực hành...

Học hoá để hiểu, để giải thích được các vấn đề thực tiễn thông qua cơ sở

cấu tạo nguyên tử, sự chuyển hoá của các chất bằng các phương trình phản ứng

hoá học.

Học hoá để biết, là góp phần giải tỏa, xoá bỏ hiểu biết sai lệch làm

phương hại đến đời sống, tinh thần của con người...

Học hoá để làm, là khởi nguồn, là cơ sở để sáng tạo ra những ứng dụng

phục vụ trong đời sống của con người.

Để đạt được mục đích của môn hoá học, ngoài việc phải tiếp thu đầy đủ

những kiến thức từ trên lớp, từ sách giáo khoa, từ các thầy cô, HS còn tự mình

sưu tầm và tìm hiểu những hiện tượng xảy ra trong cuộc sống thường ngày. Vận

dụng những kiến thức đã học được để giải thích những hiện tượng đó, nhờ vậy

HS được củng cố kiến thức sâu sắc hơn.

Và cũng nhờ đó HS thấy học môn hóa dễ hiểu, thiết thực, gần gũi với đời

5

sống và lôi cuốn hơn.

Chương 2: THỰC TRẠNG CỦA ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU

2.1. Tình hình HS học bộ môn hóa của trường THCS Nguyễn Tuấn Việt

Đối với HS THCS các em chưa có định hướng nghề nghiệp cho tương lai

nên ý thức học tập bộ môn chưa cao, các em chỉ thích môn nào mình học có kết quả

cao hoặc thích GV nào thì thích học môn đó. Trong quá trình giảng dạy tôi đã phát

hiện ra rằng đa số HS còn lo ra, chưa hứng thú tham gia xây dựng bài. Nhiều HS

tỏ ra lúng túng, không tìm ra cách xử lí, ngay cả những vấn đề tưởng chừng hết

sức cơ bản trong cuộc sống hàng ngày. Vì thế, làm sao các em có thể yêu thích

học bộ môn?

2.2. Thực trạng

Trong quá trình học tập HS ít được hoạt động, nặng về nghe giảng, ghi chép

rồi học thuộc, ít được suy luận, động não. Thời gian dành cho HS hoạt động trong

một tiết học là quá ít, kể cả hoạt động tay chân và hoạt động tư duy. Học sinh chưa

được trở thành chủ thể hoạt động. Hình thức hoạt động của HS cũng đơn điệu, chủ

yếu là nghe thầy đọc và chép vào vở, HS ít được động não và thường ít được chủ

động tích cực. Do vậy, PP học của HS là thụ động, ít tư duy, sáng tạo và HS thường

gặp khó khăn khi giải quyết những bài tập liên quan đến thực tế.

Các hình thức hoạt động của thầy và các PP dạy mà thầy sử dụng chưa

nhằm vào yêu cầu tổ chức cho học trò hoạt động, chưa chú trọng vào việc hình

thành PP tư duy, rèn luyện cho HS năng lực sáng tạo. Các hiện tượng được giải

thích chưa đúng nhận thức khoa học bộ môn. Đối với hoá học, PP nhận thức

khoa học là GV phải tập luyện cho HS biết giải quyết vấn đề từ đơn giản đến

phức tạp trong học tập chính là chuẩn bị cho các em có khả năng sáng tạo, giải

quyết các vấn đề trong thực tiễn cuộc sống.

2.3. Đánh giá thực trạng:

Kết quả khảo sát chất lượng môn hoá học lớp 9 trường THCS Nguyễn Tuấn

Việt khi chưa thực hiện đề tài trong hai năm học gần đây, về áp dụng“Liên hệ

6

thực tế nhằm nâng cao hiệu quả dạy-học môn hoá học ở trường THCS” như sau:

Kết quả khảo sát chất lượng trước khi thực hiện đề tài

Trung

Giỏi

Khá

Yếu

Kém

Số

bình

Năm học Lớp

HS

SL %

SL %

SL %

SL %

SL

%

38

1

2.6

3

7.9

10

26.4

20

52.6

4

10.5

9A1

2007- 2008

39

2

5.1

2

5.1

11

28.2

19

48.8

5

12.8

9A2

35

1

2.9

2

5.7

8

22.9

20

57.1

4

11.4

9A2

2008- 2009

36

2

5.6

2

5.6

9

25

19

52.7

4

11.1

9A3

Nguồn khảo sát chất lượng trường THCS Nguyễn Tuấn Việt

Qua nguồn khảo sát trên ta dễ dàng nhận thấy số lượng HS đạt từ trung

bình trở lên ở năm học 2007-2008 là 37.7%, năm học 2008-2009 là 33.8%.

Trước thực trạng trên, tôi đề xuất một số biện pháp và giải pháp nhằm nâng cao

7

chất lượng giảng dạy của GV và học tập của HS.

Chương 3: BIỆN PHÁP VÀ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU ĐỂ THỰC HIỆN ĐỀ TÀI

3.1. Cơ sở đề xuất các giải pháp :

Dựa vào thực trạng và nguyên nhân của thực trạng tôi thấy rằng “Liên hệ

thực tế nhằm nâng cao hiệu quả dạy-học môn hoá học ở trường THCS” là nhằm

tạo sự hứng thú, say mê trong học tập, lòng yêu khoa học nói chung và yêu thích

học môn hoá học nói riêng.

Để đạt hiệu quả tối ưu trong việc “Liên hệ thực tế nhằm nâng cao hiệu quả

dạy-học môn hoá học ở trường THCS” GV phải kết hợp nhuần nhuyễn các

phương pháp giảng dạy để kích thích tư duy, sáng tạo và tính tò mò của HS.

3.2. Các giải pháp chủ yếu :

Nêu các hiện tượng thực tiễn xung quanh đời sống hàng ngày thay cho lời

giới thiệu vào bài giảng mới. Cách nêu vấn đề này có thể tạo cho HS bất ngờ,

nhưng tạo được sự chú ý quan tâm của HS trong quá trình học tập.

Nêu các hiện tượng thực tiễn xung quanh trong đời sống hàng ngày qua

các phương trình phản ứng hoá học cụ thể trong bài học. Cách nêu vấn đề này

làm cho học sinh hiểu và thấy được ý nghĩa thực tiễn của bài học và giải thích để

giải toả tính tò mò của HS.

Nêu các hiện tượng thực tiễn xung quanh trong đời sống hàng ngày qua

chuyện kể và có thể xen bất cứ thời gian nào trong suốt tiết học. Hướng này có

thể tạo không khí học tập thoải mái, đó cũng là cách kích thích niềm đam mê học

hoá học.

Nêu các hiện tượng thực tiễn xung quanh trong đời sống hàng ngày sau

khi kết thúc bài học. Cách nêu vấn đề này có thể tạo cho HS căn cứ vào kiến thức

đã học tìm cách giải thích hiện tượng và từ đó HS sẽ suy nghĩ, ấp ủ vì sao lại xảy

ra hiện tượng đó? tạo tiền đề thuận lợi cho học bài mới ở tiết sau.

3.3. Tổ chức triển khai thực hiện nội dung của đề tài:

3.3.1. Tổ chức triển khai thực hiện:

Để tổ chức thực hiện GV có thể dùng nhiều phương tiện, nhiều cách

8

như: bằng lời giải thích, hình ảnh đoạn phim, bài hát, câu ca dao, tục ngữ… và có

thể dùng máy chiếu.

Bằng các ví dụ minh hoạ thông qua một số hiện tượng… thực tiễn, có

thể áp dụng trong từng bài, từng chương cụ thể để nâng cao hiệu quả dạy-học môn

hoá học ở trường THCS.

3.3.2. Nội dung của đề tài:

Vấn đề số 1: “Hiện tượng mưa axit” là gì ? Tác hại như thế nào ?

Khí thải công nghiệp và khí thải của các động cơ đốt trong (ô tô, xe máy) có

chứa các khí SO2, NO, NO2,…Các khí này tác dụng với oxi O2 và hơi nước trong

không khí nhờ xúc tác oxit kim loại (có trong khói, bụi nhà máy) tạo ra axit

sunfuric H2SO4 …

2SO2 + O2 + 2H2O → 2H2SO4

Axit H2SO4 và HNO3 tan vào nước mưa tạo ra mưa axit. Vai trò chính của mưa

axit là H2SO4 còn HNO3 đóng vai trò thứ hai.

Hiện nay mưa axit là nguồn ô nhiễm chính ở một số nơi trên thế giới.

Mưa axit làm mùa màng thất thu và phá hủy các công trình xây dựng, các

tượng đài làm từ đá cẩm thạch, đá vôi, đá phiến…….

Màn khói giết người đã xảy ra ở đâu ?

Ngày 5 tháng 12 năm 1952, nước Anh (nước được mệnh danh là xứ sở của

sương mù) tại Luân Đôn đã xảy ra sự kiện “màn khói giết người” làm chấn động

thế giới. Việc giám sát môi trường cho thấy hàm lượng khí SO2 cao tới 3,8 mg/m3, gấp 6 lần và nồng độ bụi khói lên tới 4,5mg/m3 gấp 10 lần so với ngày

thường. Dân trong thành phố thấy tức ngực, khó thở và ho liên tục. Chỉ trong

vòng 4, 5 ngày đã có hơn 4000 người chết trong đó phần lớn là trẻ em và người

già, hai tháng sau lại có trên 8000 người nữa chết.

Nguyên nhân của “màn khói giết người” ở thành phố Luân Đôn là do khói

than (SO2, bụi …) của các nhà máy quyện vào với sương mù buổi sớm mùa đông

gây ra.

Áp dụng: Đây là vấn đề có liên quan đến giáo dục môi trường. Giáo viên có

9

thể đưa vào bài giảng Lưu huỳnh điôxit SO2 tiết 4 lớp 9.

Vấn đề số 2: Làm thế nào để phân kim vàng?

Phân kim vàng là phương pháp kỹ thuật giúp bạn thu hồi vàng nguyên chất

từ các loại vàng khác (hợp kim vàng).

Hướng dẫn HS Phân kim được các loại vàng thấp tuổi lấy ra được vàng y

nguyên chất bằng một loại Acid: Vàng thấp tuổi (vàng lẫn tạp chất Cu, Ag…)

cán mỏng, cắt nhỏ cho vào H2SO4 đặc, nóng (lưu ý trong thực tế người ta thường

sử dụng HNO3). Tạp chất sẽ tan trong H2SO4 đặc, nóng, ta sẽ thu được vàng:

Cu + 2H2SO4 đặc, nóng CuSO4 + SO2 + 2H2O

Áp dung: Vấn đề này liên hệ thực tế cho HS biết được để ứng dụng trong

nghề thợ bạc sau này. Giáo viên có thể xen vào trong tiết dạy “Một số axít quan

trọng” tiết 6 lớp 9.

Vấn đề số 3: Vì sao nên bôi nước vôi vào vết côn trùng đốt ? Theo kinh nghiệm dân gian truyền lại thì khi bị côn trùng đốt, nếu bôi

nước vôi vào vết đốt thì vết thương sẽ mất đi và không còn cảm giác ngứa rát nữa.

Hiện tượng này, ngày nay hoá học đã giải thích được rõ ràng: trong nọc độc

của một số côn trùng như: ong, kiến, muỗi… có chứa một lượng axit fomic gây

bỏng da và đồng thời gây rát , ngứa. Ngoài ra, trong nọc độc ong còn có cả HCl,

H3PO4, cholin… nên khi bị ong đốt, da sẽ phồng rộp lên và rất rát. Người ta vội lấy

nước vôi trong hay dung dịch xút để bôi vào vết côn trùng đốt. Khi đó xảy ra phản

ứng trung hoà làm cho vết phồng xẹp xuống và không còn cảm giác rát ngứa.

HCOOH + Ca(OH)2 → Ca(HCOO)2 +H2O

Áp dung: Điều này là hiển nhiên thấy trong đời sống, ai cũng có thể biết

được điều này, nhưng không giải thích được vì sao phải bôi nước vôi vào vết côn

trùng đốt ? do đó vấn đề này có thể đưa vào trong khi dạy bài “Một số bazơ quan

trọng” tiết 13 hoá 9.

Vấn đề số 4: Làm thế nào để phân biệt muối iod và muối thường ?

Muối iod ngoài thành phần chính là muối ăn (NaCl) còn có một lượng

nhỏ NaI (nhằm cung cấp iod cho cơ thể).

10

Để phân biệt muối thường và muối iod ta vắt nước chanh vào muối, sau

đó thêm vào một ít nước cơm. Nếu thấy màu xanh đậm xuất hiện chứng tỏ muối

đó là muối iod.

Vì sao thêm muối quá sớm thì đậu không nhừ ?

Các bà mẹ thường nhắc nhở: Khi nấu đậu chớ cho muối quá sớm, điều này

có thể giải thích một cách khoa học như sau: Trong đậu nành khô, nước rất ít. Do

đó có thể coi nó như một dung dịch đặc, và lớp vỏ là một màng bán thẫm. Khi

nấu, nước bên ngoài sẽ thẩm thấu vào trong đậu làm đậu nành nở to ra, sau một thời

gian các tế bào trong hạt đậu bị phá vỡ làm cho đậu mềm.

Nếu khi nấu đậu ta cho muối quá sớm thì nước ở bên ngoài có thể không

đi vào trong đậu, thậm chí nước trong đậu sẽ thẩm thấu ra ngoài do nồng độ

muối trong nước muối bên ngoài lớn hơn nhiều so với nồng độ muối trong đậu

nếu cho muối quá nhiều.

Thông thường khi nấu cháo đậu xanh, cháo đậu đỏ không nên thêm đường

quá sớm hoặc nấu thịt bò, thịt lợn không nên cho muối quá sớm.

Áp dung: Giáo viên cung cấp cho học sinh 1 số mẹo vặt trong đời sống

thường ngày khi giảng dạy bài “một số muối quan trọng” tiết 15 hoá 9.

Vấn đề số 5: Em có biết khi sử dụng đồ nhôm ?

Đồ nhôm hầu như đã được phổ biến trong mọi gia đình ở mọi quốc gia trên

thế giới. Người ta ưa đồ nhôm vì nó sạch sẽ, nhẹ, đẹp mắt, tiện lợi mà lại rẻ tiền.

Nhôm có hại cho cơ thể, nhất là đối với người già.

Bệnh lú lẫn và các bệnh não khác ở người già, ngoài nguyên nhân do cơ thể

bị lão hoá còn có thể do sự “đầu độc vô tình” của các đồ nấu ăn, đồ đựng bằng

nhôm. Tế bào thần kinh trong não của người già bị mắc bệnh não có chứa rất nhiều ion nhôm (Al3+) nếu cứ dùng đồ nhôm trong thời gian dài sẽ làm tăng cơ hội để ion

nhôm xâm nhập vào cơ thể, làm nguy hại tới toàn bộ hệ thống thần kinh não.

Vì thế không nên dùng đồ nhôm để đựng thức ăn, không nên ăn món ăn

đựng trong đồ nhôm để qua đêm, không nên dùng đồ nhôm để đựng rau trộn có

trộn trứng gà và giấm.

11

Truyện kể trích: Nhà viết sử cổ đại Plini Bố có kể lại một sự kiện lý thú từng

xảy ra gần hai ngàn năm về trước. Một hôm, một người lạ đến gặp hoàng đế La

Mã Tibêri. Người đó mang tặng hoàng đế một cái chén do chính mình làm ra từ

một thứ kim loại lấp lánh như bạc, nhưng lại rất nhẹ. Người thợ nói rằng, anh ta

lấy được thứ kim loại mà chưa ai biết này từ đất sét. Có lẽ Tibêri ít khi bận tâm

biết ơn ai, và ông ta cũng là một hoàng đế thiển cận. Sợ rằng, thứ kim loại mới

với những tính chất tuyệt vời của nó sẽ làm mất hết giá trị của đống vàng và bạc

đang cất giữ trong kho, nên vị hoàng đế này đã ra lệnh chém đầu người phát

minh và phá tan xưởng của anh ta để từ đấy về sau không còn ai dám sản xuất

thứ kim loại “nguy hiểm” ấy nữa.

Mãi đến thế kỷ XVI, tức là khoảng một ngàn năm trăm năm về sau, lịch sử

của Kim loại này mới được ghi thêm một trang mới. Vị y sư kiêm nhà vạn vật

học đầy tài năng người Đức là Philip Aureon Teofrat Bombat Fôn Hôhengây

(Philippus Aureolus Theophratus Bombastus Von Hohenheim) - người đã đi vào

lịch sử với biệt danh là Paratxen, đã làm được điều đó. Khi nghiên cứu các chất

và các khoáng vật khác nhau trong đó có cả các loại phèn, nhà bác học này đã

xác định được rằng, chúng là “muối của một loại đất chứa phèn nào đó” mà

thành phần của nó có chứa oxit của một kim loại chưa ai biết; thứ oxit này về sau

được gọi là đất phèn.

Áp dụng: Giáo viên có thể liên hệ trong bài giảng “Nhôm” tiết 24 hoá 9.

Nhằm mục đích cung cấp kiến thức hoá học về sức khoẻ của con người, tạo sự

hưng phấn học tập của học sinh.

Vấn đề số 6: Tại sao nước máy lại có mùi clo? Vì sao không dùng nước

máy để tưới cây cảnh?

Khi sục vào nước lượng nhỏ khí Clo thì có phương trình hóa học của

phản ứng xảy ra như sau:

Cl2 + H2O → HClO + HCl

HClO có tính oxi hóa mạnh nên có khả năng diệt khuẩn. Trong nước vẫn còn

lượng nhỏ clo nên nước máy có mùi clo.

12

Khi dùng nước máy tưới cây cảnh thì trên lá cây xuất hiện những đóm

trắng và làm rụng lá vì chất diệp lục trên lá bị oxi hóa bởi lượng HClO trong

nước máy. Do vậy không dùng nước máy để tưới cây, hoa cảnh.

Khí clo đã được dùng làm vũ khí ở đâu và khi nào ?

Đó là xế chiều ngày 24 - 4 - 1915 (thế chiến thứ nhất 1914 - 1918) giữa 2

ngôi làng có tên là Steenstraat và Poel Kappelle (nớc Bỉ) xuất hiện một đám khói

màu vàng lục xuất phát từ phòng tuyến của quân Đức bay là là cách mặt đất 1

mét theo chiều gió tiến dần đến phòng tuyến quân Pháp. Đó là khói của 150 tấn

clo chứa trong 5830 thùng điều áp vừa được các binh sĩ của trung đoàn quân tiên

phong 35 và 36 Đức thả vào không khí. Mười lăm phút sau, bộ binh Đức được

trang bị đặc biệt bám theo đám khói clo đó tấn công thẳng vào cứ điểm Pháp. Sự

tác động của khí độc thật vô cùng ghê gớm. Hàng trăm binh sĩ Pháp hỗn loạn

chạy ngược về phía sau tìm không khí để thở. Khi quân Đức tới nơi họ trông thấy

nhiều xác chết với gương mặt xanh nhợt nằm la liệt bên những người hấp hối, cơ

thể co giật dữ dội, miệng ứa ra một chất dịch màu vàng nhạt. Kết quả là tuyến

phòng thủ của quân Pháp bị phá vỡ và khí clo đã giết chết 3000 người và làm

7000 người bị thương.

Áp dụng: Vấn đề này đang được sử dụng làm sạch nước hiện nay trong

các nhà máy nước… giúp học sinh hiểu được vai trò của hoá học trong sản xuất

và đời sống. Giáo viên có thể liên hệ trong khi dạy bài Clo hoá học 9.

Vấn đề số 7: Vì sao khi cơm bị khê người ta thường cho vào nồi cơm

một mẩu than củi?

Do than củi xốp có tính hấp phụ nên hấp phụ mùi khét của cơm khê, làm

cho cơm đỡ mùi khê.

Áp dung: Giáo viên cung cấp cho học sinh 1 số mẹo vặt trong đời sống

thường ngày khi giảng dạy bài “Cacbon” tiết 33 hoá 9.

Vấn đề số 8: Khí CO2 dùng để dập tắt đám cháy nhưng không dùng để dập

tắt đám cháy của chất nào?

Không thể dập tắt đám cháy của các kim loại K, Na, Mg,… bằng khí CO2.

13

Do các kim loại trên có tính khử mạnh nên vẫn cháy được trong khí quyển CO2.

Thí dụ: 2Mg + CO2 → 2MgO + C

Làm thế nào để tạo khói màu trên sân khấu ?

Trong các buổi biểu diễn ca nhạc hay trong các đám cưới, người ta

thường tạo khói trắng bằng cách thả các viên đá băng khô (CO2 rắn) vào các ly

đựng nước nóng. CO2 rắn thăng hoa nhanh, làm giảm nhiệt độ của vùng không khí

xung quanh ly nước khiến cho hơi nước ngưng tụ tạo thành đám sương mù màu

trắng. Để tạo hiệu ứng khói màu, người ta chiếu ánh sáng màu lên màn sương này.

Áp dụng: Vấn đề này đề cập trong bài giảng “Các ôxit của cacbon” tiết 34

hoá học 9. Nhằm giúp cho HS hiểu biết thêm về việc phòng cháy chữa cháy và đây

cũng là vấn đề thiết thực có khi xảy ra trong phòng thí nghiệm (cháy nổ natri …).

Vấn đề số 9: Câu tục ngữ: “ Nước chảy đá mòn” mang ý nghĩa hóa học gì?

Thành phần chủ yếu của đá là CaCO3. Khi gặp nước mưa và khí CO2 trong

không khí, CaCO3 chuyển hoá thành Ca(HCO3)2. Theo PTHH sau:

CaCO3 + CO2 + H2O → Ca(HCO3)2

Khi nước chảy cuốn theo Ca(HCO3)2, theo nguyên lí dịch chuyển cân bằng thì

cân bằng sẽ chuyển dịch theo phía phải. Kết quả là sau một thời gian nước đã

làm cho đá bị bào mòn dần.

Em có biết “sự tạo thành thạch nhũ trong các hang động”

Trong các hang động như động Hương Tích (Chùa Hương), động Thiên

Cung, hang Đầu gỗ (Vịnh Hạ Long), động Phong Nha (Quảng Bình) và các hang

động ở nhiều địa phương khác có nhiều thạch nhũ hình dáng khác nhau, trông lạ

mắt và rất đẹp. Đó chính là kết quả lâu dài của sự chuyển hoá lẫn nhau giữa hai

muối Ca(HCO3)2 và CaCO3. Thành phần chính của núi đá vôi là CaCO3 khi gặp

nước mưa và khí CO2 trong không khí, CaCO3 chuyển hoá thành Ca(HCO3)2 tan

trong nước, chảy qua các khe đá vào trong hang động. Dần dần Ca(HCO3)2

chuyển hoá thành CaCO3 rắn, không tan. Quá trình này xảy ra liên tục, lâu dài

tạo nên thạch nhũ với những hình thù khác nhau.

Áp dụng: Hiện tượng này thường thấy ở những phiến đá có dòng nước chảy

14

qua. Do hiện tượng xảy ra chậm nên phải thật sự chú ý chúng ta mới nhận ra điều

này. Hiểu được điều này giúp học sinh biết được dụng ý khoa học của câu tục ngữ có

từ xa xưa và làm cho hóa học trở nên rất gần gũi hơn trong cuộc sống đời thường.

Giáo viên có thể liên hệ vấn đề này ở phần “Muối cacbonat ”(Tiết 39 lớp 9).

Vấn đề số 10: Vì sao có khí mê tan thoát ra từ ruộng lúa hoặc các ao (hồ)?

Trong ruộng lúa, ao (hồ) thường chứa các vật thể hữu cơ. Khi các vật thể này

thối rữa (hay quá trình phân huỷ các vật thể hữu cơ) sinh ra khí mêtan. Người ta ước

chừng 1/7 lượng khí mêtan thoát vào khí quyển hàng năm là từ các hoạt động cày

cấy. Lợi dụng hiện tượng này người ta đã làm các hầm biogas trong chăn nuôi

heo tạo khí mêtan để sử dụng đun nấu hay chạy máy…

Áp dụng: Đây là hiện tượng thường gặp và là cơ sở giải quyết các vấn đề

về môi trường ở các địa phương chăn nuôi nhỏ lẽ. Giáo viên đưa vấn đề này vào

trong phần liên hệ thực tế bài “Mêtan” tiết 47 hoá học 9.

Vấn đề số 11: Làm cách nào để quả xanh mau chín?

Từ lâu người ta đã biết xếp một số quả chín vào giữa sọt quả xanh thì toàn

bộ sọt quả xanh sẽ nhanh chóng chín đều. Tại sao vậy?

Bí mật của hiện tượng này đã được các nhà khoa học phát hiện khi nghiên

cứu quá trình chín của trái cây. Trong quá trình chín trái cây đã thoát ra một

lượng nhỏ khí êtylen. Khí này sinh ra có tác dụng xúc tác quá trình hô hấp của tế

bào trái cây và làm cho quả mau chín. Nắm được bí quyết đó người ta có thể làm

chậm quá trình chín của trái cây bằng cách làm giảm nồng độ êtilen do trái cây

sinh ra. Điều này đã được sử dụng để bảo quản trái cây không bị chín mùi khi

vận chuyển đi xa. Ngược lại khi cần cho quả mau chín, người ta thêm êtilen vào

kích thích quá trình hô hấp của tế bào trái cây.

Áp dụng: Đây là hiện tượng đã được sử dụng rất lâu nhưng không phải ai

cũng biết giải thích. Giáo viên có thể sử dụng hiện tượng trên liên hệ thực tế

trong bài giảng “Êtilen” tiết 48 hoá học 9.

Vấn đề số 12: Vì sao ném đất đèn xuống ao làm cá chết?

Đất đèn có thành phần chính là canxi cacbua CaC2, khi tác dụng với nước

15

sinh ra khí axetilen và canxi hiđroxit.

CaC2 + 2H2O  C2H2 + Ca(OH)2

Axetilen có thể tác dụng với H2O tạo ra anđehit axetic. Các chất này làm

tổn thương đến hoạt động hô hấp của cá vì vậy có thể làm cá chết.

Áp dụng: Giáo viên có thể liên hệ trong bài giảng “Axêtilen” tiết 49 hoá

học 9. Nhằm giáo dục học sinh ý thức bảo vệ môi trường, tôn trọng pháp luật...

Vấn đề số 13: Cây nào hấp thu benzen làm sạch không khí?

Benzen độc là hóa chất dùng trong nhiều loại bột giặt, hồ dán, nhựa, sơn…

Những loại cây cảnh dưới đây không chỉ làm đẹp, mà còn làm tươi mát không

khí trong phòng, nhờ tác dụng "lọc" bỏ những hơi độc benzen như: Hoa cúc, hoa

đồng tiền, nha đam, cây nhện, cây cọ cảnh, cây huệ bình (Lan Ý).

Hoa cúc Hoa đồng tiền Nha đam

Cây nhện Cây cọ cảnh Cây huệ bình

Áp dụng: Điều này đề cập trong bài giảng “Benzen” tiết 51 hoá học 9. Giúp

học sinh hiểu được vai trò của cây xanh trong việc bảo vệ môi trường.

Vấn đề số 14: Vì sao ngày nay không dùng xăng pha chì?

Xăng pha chì có nghĩa là trong xăng có pha thêm một ít Têtraêtyl chì có

tác dụng làm tăng khả năng chịu nén của nhiên liệu dẫn đến tiết kiệm khỏng 30%

lượng xăng sử dụng. Nhưng khi cháy trong động cơ thì chì ôxít sinh ra sẽ bám vào

các ống xả, thành xi lanh, do đó phải trộn váo xăng chất đibrômêtan để ôxít chì

chuyển thành muối PbBr2 dễ bay hơi thoát khỏi xilanh, ống xả thải vào không khí

16

gây ô nhiễm môi trường và ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khoẻ con người.

Áp dụng: Hiện nay nhà nước ta nghiêm cấm các doanh nghiệp kinh

doanh xăng dầu sử dụng xăng pha chì. Để hiểu được vì sao thì không ít người

hiểu được vấn đề này. Thông qua nội dung bài “Dầu mỏ và khí thiên nhiên” tiết

52 hoá học 9 giúp học sinh biết được tác hại của việc pha chế vào xăng nhằm

nâng cao ý thức bảo vệ môi trường.

Vấn đề số 15: Vì sao cồn có thể sát khuẩn?

Cồn là dung dịch ancol etylic (C2H5OH) có khả năng thẩm thấu cao, có

thể xuyên qua màng tế bào tiếp cận vào trong gây đông tụ protêin làm cho tế bào

chết (do prôtêin là cơ sở sự sống của tế bào). Thực tế thấy rằng chỉ có 75% ancol

etylic trong cồn là có khả năng sát khuẩn tốt nhất, cồn nồng độ cao hơn cũng làm

biến tính protein vi khuẩn, nhưng do độ cồn cao vô tình đã tạo ra một lớp bọc

bên ngoài bảo vệ phần bên trong của vi khuẩn khỏi tác dụng của cồn. Mặt khác,

cồn cao độ dễ bay hơi hơn nên cũng giảm phần nào hiệu quả sát trùng.

Áp dụng: Ngoài sát trùng vết thương tại gia đình, cồn có thể được sử

dụng để sát trùng dụng cụ, sát trùng da trước khi tiêm. Cần lưu ý tránh để cồn

bắn vào mắt và không được uống. Giáo viên có thể xen vào trong tiết dạy bài

“rượu êtylíc” tiết 56 hoá học 9.

Vấn đề số 16: Em có biết cách làm xà phòng?

Thông thường thí nghiệm xà phòng hoá ít thành công (chỉ thu được ván

xà phòng). Sau đây là cách làm để thu được bánh xà phòng:

Cho dầu ăn và mở bò (đây là bí quyết để TN thành công) vào chén sứ, đun

trên ngọn lửa đèn cồn.

Từ từ cho dung dịch NaOH đã pha sẵn vào dầu ăn, khuấy đều đến khi hỗn

hợp này hoà đều với nhau (như hồ tinh bột)

Đổ hỗn hợp ra khuôn ta sẽ thu được xà phòng bánh.

Áp dụng: Giáo viên thực hiện trong bài giảng “Chất béo” tiết 60 hoá học 9.

Giúp học sinh hiểu rõ bản chất của hoá học trong sản xuất và đời sống, tạo sự

hưng phấn trong học tập. Đó là một thí nghiệm tự làm được.

17

Vấn đề số 17: Tại sao khi nhai cơm kỹ sẽ thấy vị ngọt?

Cơm chứa một lượng tinh bột khi ăn cơm trong tuyến nước bọt của con

ngườicó các enzim. Khi nhai kỹ trộn đều tuyến nước bọt làm tăng cơ hội chuyển

hóa một lượng tinh bột theo phản ứng thủy phân tạo thành mantozo, glucozơ gây

ngọt theo sơ đồ sau:

Tinh bột Đetrin Mantozơ Glucozơ

Áp dụng: Vấn đề này có thể đề cập đến trong bài dạy về tinh bột ( tiết

65 hoá học 9) cung cấp cho học sinh kiến thức cơ bản của sự chuyển hóa tinh bột

khi ăn. Đó cũng là một hiện tượng trong tự nhiên điều cảm nhận được trong các

bữa cơm của chúng ta.

Vấn đề số 18: Em có biết vì sao “chảo không dính” khi chiên?

Nếu dùng chảo bằng gang, nhôm thường để chiên cá, trứng không khéo

dễ bị dính chảo. Nếu dùng chảo không dính thì thức ăn sẽ không dính chảo. Thực

ra mặt trong của chảo không dính người ta có trải một lớp hợp chất cao phân tử.

Đó là Politetra floetilen được tôn vinh là “vua chất dẽo” thường gọi là “teflon”.

Politetra floetilen chỉ chứa 2 nguyên tố C và F nên liên kết với nhau rất bền chắc.

Một điều lưu ý là không nên đốt nóng chảo không trên bếp lửa vì teflon ở nhiệt độ trên 2500C là bắt đầu phân huỷ và thoát ra chất độc. Khi rửa chảo

không nên chà xát bằng các đồ vật cứng vì có thể gây tổn hại cho lớp chống dính.

Áp dụng: “Chảo không dính” hiện nay được các bà nội trợ sử dụng khá

nhiều. Công dụng của chảo đã làm hài lòng tất cả các đầu bếp khó tính. Nhưng ít

ai hiểu được vì sao chảo không dính lại ưu việt như vậy. Giáo viên có thể liên hệ

vấn đề này khi dạy về bài “Polime” tiết 67- 68 hoá học 9.

3.4. KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM

3.4.1 Kết quả đạt được:

Sau khi áp dụng các phương pháp này vào giảng dạy tôi thấy chất lượng HS

18

nâng cao rõ rệt. Dưới đây là kết quả sau khi thực hiện đề tài.

Số

Giỏi

Khá

TB

Yếu

Kém

H

Năm học Lớp

%

SL %

SL %

SL %

SL %

SL

S

9A1

36

10

27.8

13

36.1

7

19.4

6

16.7

0

0

2009- 2010

34

9

26.5

12

35.3

8

23.5

5

14.7

0

0

9A4

9A2

39

11

28.2

14

35.9

9

23.1

5

12.8

0

0

2010-2011

39

11

28.2

14

35.9

10

25.6

4

10.3

0

0

9A3

9A4

40

13

32.5

15

37.5

9

22.5

3

7.5

0

0

2011-2012

39

12

30.8

15

38.5

9

23.0

3

7.7

0

0

9A5

Nguồn thống kê chất lượng HS trường THCS Phú An

Kết quả khảo sát chất lượng sau khi thực hiện đề tài

(Nay là trường THCS Nguyễn Tuấn Việt)

Qua khảo sát chất lượng sau khi thực hiện đề tài ta thấy HS đạt từ trung

bình trở lên ở các năm học có tăng lên rõ rệt. Cụ thể:

Năm học 2009-2010 HS từ trung bình trở lên đạt tỷ lệ 84.3%

Năm học 2010-2011 HS từ trung bình trở lên đạt tỷ lệ 88.5%

Năm học 2011-2012 HS từ trung bình trở lên đạt tỷ lệ 92.4.%

Thực hiện so sánh khảo sát chất lượng trước và sau khi thực hiện đề tài

tỷ lệ bình quân HS đạt từ trung bình trở lên tăng 52.7% và đặc biệt sau khi thực

hiện đề tài không còn HS kém bộ môn.

3.4.2. Bài học kinh nghiệm:

Qua thời gian nghiên cứu vận dụng đề tài, tôi đã rút ra một số kinh nghiệm

như sau:

Về Liên hệ thực tế trong giảng dạy hoá học, GV giúp HS tích cực tham

gia vào các hoạt động tìm kiến thức thông qua các bài tập lý thuyết và thực hành,

thì kiến thức và kĩ năng của các em sẽ được củng cố một cách vững chắc, kết quả

học tập không ngừng được nâng cao. HS đã thực sự chủ động, không còn gượng

ép, đã biết tự lĩnh hội tri thức cho mình, từ đó tạo niềm say mê và hứng thú trong

học tập môn hóa học.

19

Hoàn toàn có thể sử dụng nội dung nêu trên để giúp HS họat động tìm

kiếm kiến thức, rèn luyện kĩ năng giải thích một số hiện tượng có liên quan đến

cuộc sống hàng ngày. Yêu cầu của GV phải làm tốt các khâu chuẩn bị và khéo

léo phối hợp tốt các PP sao cho phù hợp với từng nội dung và mức độ kiến thức

đối với từng đối tượng HS.

Nội dung nêu trong đề tài có khả năng phát huy rất tốt năng lực tư duy

độc lập của HS, làm cho không khí học tập của HS hào hứng và sôi nổi hơn. Giáo

20

viên đóng một vai trò quyết định cho sự thành hay bại của chất lượng dạy học.

C. KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ

“Liên hệ thực tế nhằm nâng cao hiệu quả dạy-học môn hoá học ở trường

THCS” là một trong các yêu cầu quan trọng của GV, để kích thích HS học tập

một cách say mê và hứng thú, đồng thời vận dụng những hiểu biết của mình vào

cuộc sống. Muốn làm được điều này, đòi hỏi GV phải có trình độ chuyên môn

vững vàng , có sự hiểu biết sâu sắc bao quát hết toàn bộ nội dung chương trình

hóa học của toàn cấp học.

Những kinh nghiệm nêu trong đề tài nhằm mục đích bồi dưỡng và phát

triển kiến thức kỹ năng cho học sinh vừa bền vững, vừa sâu sắc; phát huy tối đa

sự tham gia tích cực của người học. Học sinh có khả năng tự tìm ra kiến thức, tự

mình tham gia các hoạt động để vừa làm vững chắc kiến thức, vừa rèn luyện kỹ

năng. Đề tài này còn tác động rất lớn đến việc phát triển tiềm lực trí tuệ, nâng

cao năng lực tư duy độc lập và khả năng tìm tòi sáng tạo cho HS. Tuy nhiên cần

biết vận dụng các kỹ năng một cách hợp lý và biết kết hợp các kiến thức cơ bản

cho từng học cụ thể thì mới đạt được kết quả cao.

Đề tài này có thể mở rộng và phát triển quy mô hơn, rất mong được các

cấp lãnh đạo triển khai đề tài thành diện rộng. Trên đây mới chỉ là một số vấn đề

trong muôn vàn vấn đề của hóa học liên quan đến thực tế, cuộc sống hàng ngày

của chúng ta. Nhưng vì thời gian có hạn tôi mới chỉ đưa ra một số vấn đề để giúp

cho trong mỗi bài giảng có sự lôi cuốn thu hút, tạo hứng thú cho học sinh khi học

môn hóa học. Trong khi viết đề tài này chắc chắn tôi chưa thấy hết được những

ưu điểm và tồn tại trong tiến trình áp dụng, tôi rất mong được sự góp ý của các

đồng nghiệp để đề tài ngày càng hoàn thiện hơn.

Xuất phát từ mục tiêu không ngừng nâng cao chất lượng giáo dục, tất cả vì

HS thân yêu, không ngừng nâng cao trình độ và tích lũy bề dày kinh nghiệm của

đội ngũ GV đang trực tiếp từng ngày, từng giờ đứng trên bục giảng, tôi mạnh dạn

đề đạt một số ý kiến sau:

Hội đồng xét duyệt SKKN, đặc biệt là phòng giáo dục có thể giới thiệu rộng rãi

21

các sáng kiến có tính khả thi cao trên mạng internet để đồng nghiệp cùng tham khảo.

Ngành giáo dục cần đầu tư trang thiết bị dạy và học đầy đủ, đây cũng là điều

góp phần tạo điều kiện thuận lợi cho GV phát huy tốt hiệu quả giờ dạy cũng như

nên có sự quan tâm động viên kịp thời tương xứng.

Phú An, Tháng 02 Năm 2013

Người viết đề tài

22

Nguyễn Văn Sĩ

TÀI LIỆU THAM KHẢO

- Nguyễn Cương, Phương pháp dạy học và thí nghiệm hoá học.(Chuyên đề

bồi dưỡng thường xuyên chu kì 1997 – 2000 cho giáo viên THPT). NXBGD 1999.

- Trần Quốc Đắc (chủ biên) và tập thể tác giả. Hướng dẫn kĩ thuật sử dụng

và làm đồ dùng dạy học. NXBGD 1987.

- Trần Liên Nguyễn. Đố vui về hóa học - NXB Thanh niên 1998

- Trịnh Văn Biều. Các Phương pháp dạy học hiệu quả – ĐHSP. TPHCM

- Sách giáo khoa, sách giáo viên hóa học 9 – BGD&ĐT

- Nguyễn Xuân Trường. 385 câu hỏi và đáp về hoá học và đời sống. NXBGD 1996

23

24