
TẠP CHÍ Y häc viÖt nam tẬP 489 - th¸ng 4 - sè 1 - 2020
19
Dispensaries of Kolkata, India. IOSR Journal of
Dental and Medical Sciences, 8(1):32-37.
7. Mollahaliloglu S., Alkan A., Donertas B., et al.
(2013) Prescribing Practices of Physicians at
Diffrent Health CareInstitutions. The Eurasian
Journal of Medicine, 45: 92-98.
8. Sanchez M. (2013) Medication errors in a
Spanish community pharmacy: Nature, frequency
and potential causes. Int J Clin Pharm. 2013
Apr;35(2), 185-194.
SO SÁNH HIỆU QUẢ GIẢM ĐAU SAU MỔ CỦA PHƯƠNG PHÁP
GÂY TÊ ỐNG CƠ KHÉP LIÊN TỤC VỚI PHƯƠNG PHÁP GÂY TÊ
NGOÀI MÀNG CỨNG LIÊN TỤC Ở BỆNH NHÂN PHẪU THUẬTKHỚP GỐI
Vũ Hoàng Phương1, Trịnh Duy Hưng2
TÓM TẮT6
Mục tiêu: So sánh hiệu quả giảm đau sau mổ của
phương pháp gây tê ống cơ khép liên tục so với gây tê
ngoài màng cứng liên tục ở bệnh nhân phẫu thuật
khớp gối. Kết quả: Điểm VAS trung bình khi nghỉ và
khi gấp gối 45 độ của 2 nhóm ở tất cả các thời điểm
đều 4 và không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê
(p>0,05). Lượng morphin giải cứu ở nhóm OCK thấp
hơn so với nhóm NMC nhưng khác biệt không có ý
nghĩa thống kê (23 vs 54mg, p >0,05). 96,7% bệnh
nhân có mức độ hài lòng và rất hài lòng ở nhóm OCK
so với 93,3% ở nhóm NMC.Tỉ lệ tê lệch vị trí, nôn và
buồn nôn, bí tiểu ở nhóm NMC cao hơn có ý nghĩa
thống kê (p>0,05). Kết luận: Phương pháp gây tê
OCK dưới hướng dẫn siêu âm là phương pháp giảm
đau hiệu quả tương đương với phương pháp giảm đau
NMC cũng như làm giảm một cách có ý nghĩa thống
kê một số tác dụng không mong muốn của phương
pháp NMC cho các phẫu thuật nội soi khớp gối.
Từ khóa:
Gây tê ống cơ khép liên tục, giảm đau
ngoài màng cứng liên tục, giảm đau sau mổ, hướng
dẫn của siêu âm, phẫu thuật khớp gối.
SUMMARY
THE EFFECTIVES OF POSTOPERATIVE
ANALGESIA CONTINUOUS ADDUCCTOR CANAL
BLOCK (ACB) UNDER ULTRASOUND GUIDANCE
VERSUS CONTINUOUS EPIDURAL ANALGESIA
(CEA) IN PATIENTS WITH KNEE SURGERY
Objectives: To compare the effectiveness
ofpostoperative analgesia continuous adductor canal
block (ACB) under ultrasound guidance versus
continuous epidural analgesia (CEA) in patients with
knee surgery. Results: Mean VAS scores at rest and
knee flexion at 45 degrees of both group were below
4 points during 48 hours postoperative and there was
no statistically significant difference (p> 0.05). The
amount of rescuemorphine in ACBgroup was lower
than that of CEA group but the difference was not
statistically significant (23 vs 54mg, p> 0.05). 96.7%
1Bệnh viện Đại học Y Hà Nội
2Bệnh viện Phụ sản Hà Nội
Chịu trách nhiệm chính: Vũ Hoàng Phương
Email: vuhoangphuong@hmu.edu.vn
Ngày nhận bài: 7/2/2020
Ngày phản biện khoa học: 2/3/2020
Ngày duyệt bài: 18/3/2020.
of patients in ACB group were satisfied and very
satisfied level after surgery (compared to 93.3% in
CEA group). The rate of unexpectedcatheter position,
vomiting and nausea, urinary retention in CEAgroup
was significantly higher (p> 0.05). Conclusion:
Continuous adductor canal block under the guidance
of ultrasound is an effective postoperativeanalgesic
method equivalent to continuous epidural analgesia as
well as statistically reduces undesirable effects of
continuous epidural analgesia method for knee
surgery patients.
Key words:
Continuous adductor canal block,
ultrasound guided, continuous epidural analgesia,
postoperative analgesia, knee surgery.
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Phẫu thuật khớp gối (PTKG) có mức độ đau
sau mổ từ trung bình đến nặng, đòi hỏi một
phương pháp giảm đau sau mổ hiệu quả, vừa
giúp bệnh nhân tập phục hồi chức năng sớm,
vừa hạn chế được nhiều nhất các tác dụng
không mong muốn [1]. Phương pháp gây tê
ngoài màng cứng liên tục sau mổ phẫu thuật
khớp gối được coi như là một phương pháp giảm
đau có hiệu quả tốt nhất và phổ biến. Tuy nhiên,
phương pháp này vẫn còn có một tỉ lệ không
nhỏ các tác dụng không mong muốn như là tê
lệch vị trí, buồn nôn và nôn, bí tiểu. Hiện nay,
các phương pháp gây tê thân thần kinh dưới
hướng dẫn siêu âm như gây tê thần kinh đùi
(TKĐ), và gần đây nhất là gây tê thần kinh hiển
trong ống cơ khép (OCK) đã được thực hiện để
giảm đau cho các phẫu thuật khớp gối. Kĩ thuật
gây tê thần kinh hiển trong OCK ( hay còn gọi là
phong bế ống cơ khép) không những cho phép
đảm bảo giảm đau tốt như phong bế thần kinh
đùi, mà còn khắc phục được nhược điểm phong
bế vận động cơ tứ đầu đùi do đó BN có thể tập
vận động sớm, giúp hạn chế được các biến
chứng và nhờ đó hiệu quả điều trị cao hơn và BN
có thể xuất viện sớm hơn [2], [3], [4]. Trên thế
giới, có rất nhiều các nghiên cứu so sánh giữa
gây tê NMC và gây tê TKĐ hoặc gây TKĐ với gây
tê thần kinh hiển trong OCK, nhưng lại có rất ít
nghiên cứu so sánh giữa gây tê NMC và gây tê