
SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ
HỘI CHỦ NGHĨA
1 - Đảng cầm quyền và sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước
Từ khi ra đời năm 1930 cho đến nay, Đảng ta, trên thực tế, đã trở thành lực
lượng độc tôn lãnh đạo cách mạng nước ta. Mọi thắng lợi của cách mạng nước ta
hơn 74 năm qua đều gắn liền với vai trò lãnh đạo của Đảng. Nhân dân ta suy tôn
Đảng là người lãnh đạo của mình. Đảng ta! Đảng của chúng ta! Bởi nhân dân
thấy rõ chỉ có Đảng mới có khả năng lãnh đạo nhân dân xây dựng cuộc sống ấm
no, tự do, hạnh phúc; Đảng không có lợi ích nào khác ngoài lợi ích của nhân dân
và mục đích, lý tưởng phấn đấu của Đảng cũng là mục đích, nguyện vọng của
nhân dân.
Tuy nhiên, phải từ sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945 trở đi, Đảng ta mới trở
thành Đảng cầm quyền tức Đảng nắm quyền, chấp chính. Và chỉ có sau khi
cuộc kháng chiến thắng lợi chống đế quốc Mỹ xâm lược, đất nước thống nhất,
Đảng mới trở thành Đảng cầm quyền trên quy mô cả nước, đưa đất nước đi lên
chủ nghĩa xã hội. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: "Đảng ta là một đảng cầm
quyền".
"Đảng cầm quyền" đánh dấu sự chuyển biến giai đoạn cách mạng ở nước ta và
cũng đặt ra hàng loạt vấn đề mới, yêu cầu mới đối với Đảng xét về quy mô, tầm
vóc, chiều sâu, tính phức tạp của vấn đề. "Đảng cầm quyền" đánh dấu sự thay
đổi về chất trong vị trí, vai trò của Đảng, nhất là trong phương thức lãnh đạo của
Đảng và trọng trách của Đảng trước vận mệnh của dân tộc, của nhân dân, trước
toàn xã hội. "Đảng cầm quyền" tức là chính quyền thuộc về nhân dân và chính
quyền chịu sự lãnh đạo của Đảng - Nhân dân lao động do Đảng làm đại biểu đã
có một công cụ quyền lực mạnh mẽ là Nhà nước để trấn áp kẻ thù và tổ chức xây
dựng xã hội mới. Thông qua sự cầm quyền, Đảng thực hiện sự lãnh đạo của

mình đối với toàn xã hội và trên quy mô toàn xã hội, chịu trách nhiệm trước toàn
xã hội. Điều đó có nghĩa là mọi thành công hay thất bại, ưu điểm hay khuyết
điểm trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đều gắn với trách nhiệm của
Đảng.
"Đảng cầm quyền" cũng có nghĩa nội dung, phương thức lãnh đạo của Đảng
phải thay đổi căn bản so với khi chưa giành được chính quyền. Đảng phải thực
sự coi trọng và tôn trọng chính quyền nhà nước. Đảng không được bao biện, làm
thay chính quyền. Đảng phải hoạt động trong khuôn khổ của Hiến pháp và pháp
luật. Mọi đảng viên và tổ chức đảng phải tuân thủ pháp luật - pháp luật là thể
hiện ý chí của Đảng, song, sau khi ra đời, pháp luật ràng buộc trở lại hoạt động
của đảng viên và tổ chức đảng, không cho phép chấp hành một cách tùy tiện.
Khi trở thành Đảng cầm quyền, vấn đề dân chủ và công khai nổi lên và có ý
nghĩa quan trọng trong hoạt động của Đảng, đòi hỏi Đảng phải không ngừng mở
rộng và phát huy dân chủ trong nội bộ Đảng và trong toàn xã hội, tăng cường
tính công khai, minh bạch trong sự lãnh đạo của mình.
Để lãnh đạo được xã hội và Nhà nước, Đảng phải có đủ năng lực, trí tuệ và
phẩm chất, bản lĩnh để hoạch định đường lối đúng cho toàn xã hội, có khả năng
thể chế hóa đường lối và tổ chức thực hiện đường lối đó. Khi cầm quyền, Đảng
phải thường xuyên và tích cực chống nguy cơ quan liêu, xa rời quần chúng,
thoái hóa biến chất, rơi vào đặc quyền đặc lợi, cắt đứt mối liên hệ máu thịt giữa
Đảng với nhân dân - nguồn sức mạnh của Đảng.
Khái niệm "Đảng cầm quyền" không loại trừ khái niệm "Đảng lãnh đạo chính
quyền" mà trái lại, còn bao hàm nó. Không lãnh đạo chính quyền thì Đảng
không cầm quyền được. Nhờ có cầm quyền, nên ý nguyện, đường lối, chủ
trương của Đảng mới được thể chế hóa thành pháp luật và qua đó, chúng mang
tính pháp lý đối với mọi công dân trong xã hội. Mặt khác, như Điều 4 Hiến pháp

(sửa đổi năm 1992) của nước ta khẳng định: Đảng Cộng sản Việt Nam là "lực
lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội". Như vậy, bản thân sự lãnh đạo của Đảng
đối với Nhà nước và xã hội cũng mang tính pháp lý, trở thành nguyên tắc Hiến
định. Và do đó, nếu ai phủ nhận sự lãnh đạo của Đảng cũng có nghĩa là đã vi
phạm Hiến pháp và pháp luật.
Là một tổ chức chính trị nằm trong hệ thống chính trị, hơn nữa lại là "hạt nhân"
lãnh đạo của hệ thống chính trị, nên Đảng cũng có quyền lực chính trị, nhưng
Đảng không có quyền lực Nhà nước. Đảng không phải là cơ quan quyền lực nhà
nước. Do đó, nhất thiết không được lẫn lộn giữa Đảng và Nhà nước, giữa quyền
lực của Đảng và quyền lực Nhà nước. Sự khác nhau giữa quyền lực của Đảng và
quyền lực Nhà nước trước hết và chủ yếu bắt nguồn từ sự khác nhau về bản chất
và chức năng của Đảng và Nhà nước. Đảng là lực lượng lãnh đạo xã hội, Nhà
nước là bộ máy thống trị, quản lý xã hội. Do đó, quyền lực của Đảng chủ yếu
dựa trên quyền uy do uy tín mang lại, còn quyền lực của Nhà nước chủ yếu dựa
trên pháp luật, bộ máy cưỡng chế chuyên biệt, bộ máy hành chính công quyền.
Trong điều kiện Đảng cầm quyền, làm sao cho Đảng không rơi vào tình trạng
lạm quyền, lấn át Nhà nước, bao biện làm thay các công việc Nhà nước, trái lại
phát huy được vai trò quản lý, hiệu lực, hiệu quả của Nhà nước. Mặt khác, làm
sao không hạ thấp, buông lỏng vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước. Đây
là những vấn đề còn khó khăn và phức tạp mà kinh nghiệm của chủ nghĩa xã hội
trên thế giới vừa qua chưa đủ để giải quyết, cần phải tiếp tục nghiên cứu sâu hơn
về lý luận và thực tiễn về đổi mới hệ thống chính trị, về xây dựng Đảng và xây
dựng, hoàn thiện Nhà nước xã hội chủ nghĩa; trong đó, xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân là một phương hướng rất cơ bản.
2 - Nguyên tắc Đảng lãnh đạo và nguyên tắc Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa

Trong lịch sử nhân loại, tư tưởng về nhà nước pháp quyền đã có từ rất lâu, ra đời
sớm trong các học thuyết triết học, pháp luật của các nhà tư tưởng cổ đại Hy
Lạp, La Mã như Pla-tôn, A-ri-xtốt. Nhưng phải đến thời kỳ cách mạng tư sản thế
kỷ XVII - XIX ở Tây Âu, vấn đề Nhà nước pháp quyền mới được đi sâu nghiên
cứu trong các học thuyết triết học, pháp luật, nhà nước của các nhà tư tưởng tư
sản như G. Lốc-cơ, S.L. Mông-te-xki-ơ, J.J. Rút-xô, E. Can-tơ, G.V. Ph. Hê-
ghen... nhằm phục vụ cho việc hình thành, xây dựng nhà nước pháp quyền tư
sản. Từ đó đến nay, lý luận về nhà nước pháp quyền đã được quan tâm nghiên
cứu, ngày càng phát triển cùng với sự phát triển tiến bộ xã hội, nó là thành quả
của văn minh nhân loại.
Ở các nước xã hội chủ nghĩa, vấn đề xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa mới được chính thức đặt ra trong thời kỳ cải tổ, cải cách, đổi mới. Trước
đó, sở dĩ không đặt ra vì một mặt do đem đồng nhất nhà nước pháp quyền nói
chung với nhà nước tư sản, cho rằng nhà nước pháp quyền chính là nhà nước
pháp quyền tư sản; mặt khác, do đem đối lập sự lãnh đạo của Đảng với nhà nước
pháp quyền (trong đó có một nguyên tắc, một đặc trưng của nhà nước pháp
quyền là vai trò tối thượng của pháp luật).
Ở nước ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề cập rất sớm tư tưởng về "phải có thần
linh pháp quyền" trong bài "Việt Nam yêu cầu ca" (1). Tuy nhiên, trong các Văn
kiện của Đảng từ khi giành được chính quyền đến Đại hội VII (1991), vấn đề
xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa chưa được chính thức đặt ra.
Sở dĩ như vậy, bởi vì thời kỳ đó chúng ta chưa quan tâm và chưa đi sâu nghiên
cứu vấn đề nhà nước pháp quyền, mặt khác do chịu ảnh hưởng quan điểm sai
lầm về Nhà nước pháp quyền của các nước xã hội chủ nghĩa anh em thời bấy
giờ. Phải đến Hội nghị đại biểu giữa nhiệm kỳ khóa VII của Đảng ta, lần đầu
tiên khái niệm Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân
mới chính thức đặt ra và đưa vào Văn kiện. Tuy nhiên, sau đó, trong Nghị quyết

Trung ương 8, khóa VII về xây dựng Nhà nước, cũng như trong Văn kiện Đại
hội VIII, vấn đề xây dựng Nhà nước pháp quyền, được đề cập không nhiều (2).
Phải đến Đại hội IX của Đảng, vấn đề xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân mới được khẳng định dứt khoát trong Văn
kiện và trở thành một quan điểm chỉ đạo xây dựng Nhà nước ta (3) và sau đó
được đưa vào Hiến pháp 1992 (sửa đổi).
Sở dĩ có tình hình trên đây, bởi vì trong nhận thức của cán bộ, đảng viên còn
chưa rõ, chưa thống nhất về bản chất, đặc trưng, nguyên tắc của Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa, về quan hệ giữa vai trò lãnh đạo của Đảng với yêu cầu
của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Từ đó, đã đem đối lập vai trò lãnh
đạo của Đảng với Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và cho rằng, nếu chủ
trương xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, vô hình trung sẽ hạ
thấp vai trò lãnh đạo của Đảng, đặt Đảng dưới pháp luật (!).
Theo chúng tôi, nhận thức đó không đúng. Một đặc trưng, một nguyên tắc của
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là nhà nước và công dân đều phải thừa
nhận tính tối cao của pháp luật (chủ yếu là Hiến pháp và các đạo luật). Đảng và
cán bộ, đảng viên phải hoạt động trong khuôn khổ của Hiến pháp và pháp luật.
Song, pháp luật ở nước ta, như chúng ta biết, là thể hiện ý chí của giai cấp thống
trị, là thể chế hóa đường lối, chủ trương của Đảng cầm quyền, là phản ánh ý
nguyện của nhân dân. Vì vậy, đề cao pháp luật cũng tức là đề cao đường lối,
quan điểm, chủ trương của Đảng. Ở đây không có sự đối lập giữa pháp luật với
sự lãnh đạo của Đảng (trong thực tế trên một số trường hợp cụ thể, có thể nảy
sinh vấn đề cần phải giải quyết khi pháp luật không thay đổi kịp theo quan điểm
của Đảng). Mặt khác, chính bản thân Đảng cũng yêu cầu Đảng và cán bộ, đảng
viên phải hoạt động trong khuôn khổ của Hiến pháp và pháp luật, sau khi Hiến
pháp và pháp luật ra đời, đảng viên phải nghiêm chỉnh chấp hành, phải tôn trọng
Hiến pháp và pháp luật, chấp hành pháp luật cũng tức là chấp hành đường lối