TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG KHOA KINH TẾ QUỐC TẾ ------****------
BÀI GIỮA KỲ MÔN KINH TẾ HỌC QUỐC TẾ 2
TÁC ĐỘNG CỦA CÁC BIỆN PHÁP PHI THUẾ QUAN ĐẾN HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU THỦY SẢN CỦA VIỆT NAM SANG THỊ TRƯỜNG EU GIAI ĐOẠN 2010-2022
: Nhóm 05 : Kinh tế học quốc tế 2 : KTE316.1 : TS. Chu Thị Mai Phương
Tên nhóm Môn học Mã lớp Giáo viên hướng dẫn TS. Từ Thúy Anh
Nhóm sinh viên thực hiện:
STT 3 16 38 42 47 60
Họ và tên Nguyễn Thị Lan Anh Nguyễn Thị Mỹ Duyên Nguyễn Thu Huyền Lê Mai Hương Cao Ngọc Khoa Phạm Chơng My
MSV 2214410012 2214410034 2211410075 2214410077 2215420087 2211410118
Hà Nội, tháng 02 năm 2024
TÁC ĐỘNG CỦA CÁC BIỆN PHÁP PHI THUẾ QUAN ĐẾN HOẠT
ĐỘNG XUẤT KHẨU THUỶ SẢN CỦA VIỆT NAM SANG THỊ
TRƯỜNG EU GIAI ĐOẠN 2010-2022
Nguyễn Thị Lan Anh1, Nguyễn Thị Mỹ Duyên, Nguyễn Thu Huyền,
Lê Mai Hương, Cao Ngọc Khoa, Phạm Chơng My
Sinh viên K61 Kinh tế quốc tế - Khoa Kinh tế quốc tế
Trường Đại học Ngoại thương, Hà Nội, Việt Nam
PGS.TS Từ Thuý Anh, TS Chu Thị Mai Phương
Giảng viên Khoa Kinh tế quốc tế
Trường Đại học Ngoại Thương, Hà Nội, Việt Nam
Tóm tắt
Các rào cản phi thuế quan (NTMs) là một trong những vấn đề lớn và phức tạp nhất
ảnh hưởng đến sự cạnh tranh và tiềm năng phát triển của các doanh nghiệp và ngành công
nghiệp hiện nay. Nắm bắt được sự quan trọng của NTMs, bài nghiên cứu này được thực
hiện với mục đích nghiên cứu và phaan tích ảnh hưởng của các hàng rào phi thuế đến hoạt
động xuất khẩu thủy sản của Việt Nam sang thị trường liên minh Châu Âu (EU). Dựa vào
các lý thuyết, chính sách có sẵn, cùng với đó là phân tích các tình huống thực tiễn, nhóm
tác giả đã đánh giá tác động của các biện pháp phi thuế đến xuất khẩu thủy hải sản của
Việt Nam sang thị trường EU. Kết quả thu được rằng các rào cản phi thuế mang lại thách
thức cho ngành thủy sản Việt Nam, đặc biệt là hoạt động xuất khẩu. Dựa vào quá trình
nghiên cứu và kết quả cuối cùng, nhóm đã đưa ra một số đề xuất nhằm hỗ trợ ngư dân và
chính phủ Việt nam vượt qua các rào cản này, từ đó nâng cao năng lực xuất khẩu thủy sản
sang Liên minh Châu Âu (EU).
Từ khóa: rào cản phi thuế quan, xuất khẩu thủy sản, Việt Nam, Liên minh châu Âu (EU) 1 Email liên hệ: K61.2214410012@ftu.edu.vn
IMPACTS OF NON-TARIFF MEASURES TO SEAFOOD EXPORTS - A CASE
STUDY OF VIETNAM'S EXPORTS TO THE EUROPEAN UNION
(2010-2022)
Abstract:
Non-tariff measures (NTMs) are one of the largest and most complex issues
affecting the competition and development potential of businesses and industries today.
Grasping the importance of NTMs, this research article was created with the purpose of
researching and analyzing the impact of non-tariff barriers on Vietnam's seafood exports
to the European Union market (EU). Based on available theories and policies, along with
practical analysis methods and situations, the authors have evaluated the impact of non-
tariff barriers on Vietnam's seafood exports to the EU market. The findings indicate that
non-tariff barriers provide challenges for the seafood business in Vietnam, particularly
with regard to exporting. Based on the research process and final results, the group has
proposed a number of solutions to help fishermen and the Vietnamese gove rnment
overcome these barriers, thereby improving capacity to export seafood to the European
Union.
Keywords: non-tariff barriers, seafood exports, Vietnam, European Union (EU)
1. Tổng quan nghiên cứu và cơ sở lý luận
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Quỳnh & Hằng (2022) đã chỉ ra các biện pháp phi thuế quan (Non-tariff measure -
NTMs) có tác động đồng thời đến cả kim ngạch xuất khẩu và khả năng xuất khẩu của
hàng thủy sản Việt Nam thông qua mô hình trọng lực thương mại. Trong đó, các tác giả
đã đi đến kết luận rằng mặc dù TBT có tác động nhỏ hơn thuế nhập khẩu trên thị trường
toàn cầu nhưng các biện pháp SPS lại có ảnh hưởng cao hơn thuế quan.
Peter Walkenhorst & Barbara Fliess (2008) nghiên cứu dựa trên bản kiểm kê các
khiếu nại của doanh nghiệp xuất khẩu vào thị trường châu Âu đã chỉ ra NTMs có ảnh
hưởng mạnh mẽ nhất đến các doanh nghiệp hoạt động trong các ngành dựa vào tài nguyên
thiên nhiên như nông nghiệp, thực phẩm, khai khoáng và dệt may. Những khiếu nại của
doanh nghiệp về thực tiễn quản trị trong nước, chẳng hạn như những trở ngại liên quan
đến mua sắm của chính phủ, hạn chế đầu tư hoặc bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ không đầy
đủ chiếm gần một phần ba tổng số quan sát của NTMs và trong hầu hết các trường hợp
không mang tính chất cụ thể theo ngành mà có tính chất chung. Những khiếu nại này
thường gắn liền với các hành vi phân biệt đối xử hoặc các quy định không phù hợp, trong
khi sự chậm trễ, cản trở liên tục được nhắc đến liên quan đến thủ tục hải quan, chứng
nhận và quy định kỹ thuật.
Theo nghiên cứu được thực hiện vào năm 2019 của Phương và cộng sự, xu hướng
toàn cầu về việc sử dụng các hàng rào phi thuế quan đang có tác động đến hàng hóa xuất
khẩu của Việt Nam. Ngày càng có nhiều biện pháp phi thuế quan đóng vai trò hạn chế
thuế quan, đặc biệt là do đại dịch COVID-19 đang buộc các quốc gia phải thắt chặt các
quy trình kiểm tra, nghiêm ngặt hơn về vấn đề vệ sinh, an toàn thực vật, động vật nhằm
đảm bảo an ninh, an toàn quốc gia. Một số chiến lược xúc tiến thương mại nhất định liên
quan đến việc sử dụng các mặt hàng y tế và cần thiết. Trong khi đó, các hạn chế thương
mại được áp dụng đối với phần lớn các sản phẩm khác nhằm đảm bảo nguồn cung và an
ninh lương thực quốc gia. Các biện pháp tạo thuận lợi thương mại có thể kể đến như
miễn, giảm thuế; quy định về điều khoản thanh toán cho hàng nhập khẩu; cấp phép để bảo
vệ sức khỏe cộng đồng;…. Các biện pháp hạn chế thương mại bao gồm cấm xuất khẩu;
cấm vì lý do SPS (vệ sinh và kiểm dịch động thực vật); cấm để bảo vệ sức khỏe cộng
đồng;….
1.2. Cơ sở lý luận
1.2.1. Một số lý luận cơ bản về hàng rào phi thuế quan
Khái niệm chung về hàng rào phi thuế quan
Các rào cản phi thuế quan, theo định nghĩa của Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh
tế (OECD), là các hạn chế biên giới nằm ngoài phạm vi ảnh hưởng của thuế quan và các
quốc gia có thể sử dụng, thường có chọn lọc, để hạn chế chế độ nhập khẩu. (Nguyễn,
H.K, 2005)
Dựa trên cơ sở thuế và và các định nghĩa có sẵn, Tổ chức Thương mại Thế giới -
WTO đã đưa ra định nghĩa như sau: “Hàng rào phi thuế quan là những biện pháp phi thuế
quan mang tính cản trở đối với thương mại mà không dựa trên cơ sở pháp lý, khoa học
hoặc bình đẳng” (Nguyễn, H.K, 2005).
Phân loại các hàng rào phi thuế quan
Hội nghị Liên Hợp Quốc về Thương mại và Phát triển (2019) đã phân loại các
hàng rào phi thuế quan như sau:
- Các biện pháp vệ sinh và kiểm dịch động thực vật (Sanitary and phytosanitary
measures): Nhắc đến các khâu vệ sinh và kiểm dịch thực vật. Rào cản này mô tả các bước
như hạn chế các chất, đảm bảo an toàn thực phẩm và ngăn chặn sự lây lan của sâu bệnh
hoặc bệnh tật. Tất cả các quy trình đánh giá sự phù hợp liên quan đến an toàn thực phẩm,
bao gồm chứng nhận, thử nghiệm, thanh tra và kiểm dịch cũng được đưa vào đây.
- Các biện pháp kỹ thuật (Technical barriers to trade): Mô tả các quy trình và quy
trình sản xuất cần thiết, các đặc tính của sản phẩm như thông số kỹ thuật và yêu cầu chất
lượng cũng như việc đóng gói và dán nhãn liên quan đến an ninh quốc gia, an toàn của
người tiêu dùng và bảo vệ môi trường. Tất cả các quy trình đánh giá sự phù hợp liên quan
đến yêu cầu kỹ thuật, bao gồm thử nghiệm, chứng nhận và kiểm tra đều được đề cập đến.
- Kiểm tra trước khi vận chuyển và các thủ tục khác (Pre-shipment inspection and
other formalities): Phân loại các hoạt động liên quan đến quy trình hải quan và kiểm tra
trước khi giao hàng.
- Các biện pháp bảo hộ thương mại dự phòng (Contingent trade measures): Các
hành động như giải quyết các hoạt động thương mại nước ngoài không công bằng, nhằm
giảm thiểu tác động tiêu cực của hàng hóa nhập khẩu trên thị trường nước nhập khẩu. Các
biện pháp này bao gồm các luật tự vệ, chống bán phá giá và chống trợ cấp.
- Hạn ngạch nhập khẩu: Loại rào cản thương mại phi thuế quan quan trọng nhất là
hạn ngạch nhập khẩu (Import quota), quy định số lượng tối đa của một mặt hàng có thể
được nhập khẩu thông qua cấp phép trong một khoảng thời gian cụ thể qua cả hai hình
thức nhập khẩu và xuất khẩu.
Hình 1: Tác động của hạn ngạch nhập khẩu
Đối với nước nhập khẩu, khi có hạn ngạch, với mức giá cả nội địa cao hơn và
lượng cầu thấp hơn, người tiêu dùng nội địa đã mất đi một phần thặng dư, được biểu diễn
bởi phần diện tích a+b+c+d; đồng thời các nhà sản xuất nội địa thu được phần thặng dư
tăng thêm, tương ứng với phần diện tích a trên đồ thị. Diện tích b+d biểu diễn một khoảng
mất trắng của nước áp dụng hạn ngạch. Đây là một phần mất đi trong thặng dư của người
tiêu dùng trong nước không được chuyển thành lợi ích của bất kỳ ai khác.
Còn lại diện tích hình chữ nhật c, đối tượng được hưởng lợi từ khoản này tùy thuộc
vào việc Giấy phép hạn ngạch nhập khẩu được phân bổ như thế nào. Có một số cách phân
Phân bổ dựa trên sự thiên vị: Giấy phép được phân bổ tùy ý theo sự thiên vị
bổ Giấy phép nhập khẩu như sau:
của chính phủ dành cho các công ty (hoặc cá nhân) nào đó mà không có bất kỳ sự cạnh
tranh nào giữa các nhà nhập khẩu. Trong trường hợp này, những nhà nhập khẩu được ưu
Phân bổ thông qua đấu giá: Chính phủ có thể tổ chức bán đấu giá giấy phép
ái phân bổ giấy phép sẽ thu được lợi ích ứng với phần diện tích c.
nhập khẩu cho những ai trả giá cao nhất. Khi đó, lợi ích được biểu diễn bởi diện tích c sẽ
Quy trình thủ tục tiêu tốn nguồn lực: Chính phủ có thể quy định rằng các
được chia cho cả chính phủ và người mua được giấy phép nhập khẩu.
công ty (hoặc cá nhân) phải cạnh tranh theo cách nào đó nếu muốn nhận được giấy phép
nhập khẩu. Với cách phân bổ này, một phần hay toàn bộ giá trị được biểu diễn bởi diện
tích c sẽ trở thành tổn thất của xã hội do lãng phí nguồn lực sản xuất.
- Trợ cấp xuất khẩu (Export Subsidies): là những khoản thanh toán trực tiếp, những
khoản miễn giảm thuế hoặc những khoản vay trợ cấp dành cho các nhà xuất khẩu của
quốc gia hoặc những nhà xuất khẩu tiềm năng, hoặc những khoản vay lãi suất thấp dành
cho đối tác nhập khẩu của quốc gia nhằm thúc đẩy việc nhập khẩu của đối tác đó.
Hình 2: Tác động của trợ cấp xuất khẩu
Đối với nước xuất khẩu, trợ cấp xuất khẩu làm tăng giá từ Pw lên Ps, làm giảm
thặng dư người tiêu dùng một phần bằng a+b và tăng thặng dư cho nhà sản xuất một phần
bằng (a+b+c). Đồng thời, nguồn thu của chính phủ giảm xuống do phải trả một khoản x.
Xs* cho trợ cấp xuất khẩu, tương ứng với phần diện tích (b+c+d+e+f+g).
Đối với nước nhập khẩu, trợ cấp xuất khẩu làm giảm giá mua hàng từ Pw xuống
Ps*. Phần tổn thất mà nước xuất khẩu mất đi cũng chính bằng phần thặng dư mà nước
nhập khẩu thu được.
Ngoài ra, trợ cấp xuất khẩu còn làm giảm giá xuất khẩu trên thị trường thế giới và
thiệt hại phúc lợi quốc gia.
- Kiểm soát giá bao gồm các loại thuế và phí bổ sung (Price-controls measures,
including additional taxes and charges): Kiểm soát giá nhập khẩu của các loại hàng hóa.
- Các biện pháp tài chính (Finance measures): Hạn chế thanh toán hàng nhập khẩu,
bao gồm việc áp đặt các hạn chế về điều khoản thanh toán.
- Các biện pháp ảnh hưởng đến cạnh tranh (Measures affecting competition): Cung
cấp cho một hoặc nhiều nhóm chủ thể kinh tế được lựa chọn những ưu đãi hoặc lợi thế.
Phần lớn trong số này là các chính sách độc quyền như thương mại nhà nước, đại lý nhập
khẩu độc quyền và vận tải hoặc bảo hiểm quốc gia bắt buộc.
- Hạn chế phân phối sản phẩm nhập khẩu (Distribution restrictions): Hạn chế liên
quan đến phân phối nội bộ sản phẩm nhập khẩu.
- Các hạn chế đối với dịch vụ sau bán hàng (Restrictions on post-sales services): Ví
dụ như hạn chế về việc cung cấp các dịch vụ phụ kiện, ….
- Chính sách mua sắm của chính phủ (Government procurement policies): Hạn chế
mà nhà thầu có thể gặp trong quá trình nỗ lực bán sản phẩm của mình cho chính phủ nước
ngoài.
- Sở hữu trí tuệ (Intellectual property): Hạn chế liên quan đến các biện pháp và
quyền sở hữu trí tuệ.
- Quy tắc xuất xứ (Rules of origin): Xác định nơi xuất xứ của sản phẩm hoặc đầu
vào của chúng.
1.2.2. Khái quát về các rào cản phi thuế quan trong EU đối với ngành xuất khẩu thủy sản
Việt Nam
1.2.2.1. Tổng quan về EU
Liên minh Châu Âu (EU) là mối quan hệ đối tác kinh tế, chính trị và xã hội giữa 27
quốc gia châu Âu. Nó được thành lập lần đầu tiên vào năm 1958 với tên gọi Cộng đồng
kinh tế châu Âu (EEC) bởi Bỉ, Đức, Pháp, Ý, Luxembourg và Hà Lan. Sau đó, Liên minh
Châu Âu đã kết nạp thêm các thành viên mới, mở rộng phạm vi hoạt động nhằm tăng
cường sức mạnh của liên minh trong nhiều lĩnh vực khác nhau: ngoại giao, tài chính, môi
trường và thương mại.
EU là một trong những thị trường lớn nhất thế giới, với tổng GDP lên tới 16,75
(WHO-2022) và dân số 741 triệu người tính đến đầu năm 2024 (theo https://danso.org/).
Hiệp định Thương mại tự do EU - Việt Nam (EVFTA) được ký kết năm 2019 và sẽ có
hiệu lực vào năm 2020. Điều này sẽ mở ra cơ hội cho hai nước giao thương, mua bán
hàng hóa chất lượng cao; trên thực tế, Việt Nam sẽ trở thành đối tác thương mại lớn nhất
của EU trong khu vực ASEAN.
EU tiếp tục đóng một vai trò quan trọng trong chính trị và kinh tế toàn cầu, bất
chấp một số khó khăn mà khối này gặp phải gần đây, bao gồm Brexit, lạm phát gia tăng,
chênh lệch kinh tế giữa các quốc gia thành viên và sự nổi lên nhanh chóng của các lực
lượng dân chủ cấp tiến.
1.2.2.2. Các rào cản phi thuế quan trong EU đối với ngành xuất khẩu thủy sản Việt Nam
Theo Trung tâm WTO (2021), các biện pháp phi thuế quan được EU áp dụng đối
với sản phẩm nhập khẩu từ Việt Nam là:
1.2.2.2.1. Các quy định SPS
Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) kết hợp các quy định SPS (Sanitary and
Phytosanitary Measures) vào các biện pháp pháp lý khác nhau, bao gồm luật, quy định,
tiêu chuẩn kỹ thuật, thủ tục kiểm tra và chứng nhận. Trong thương mại quốc tế, chất
lượng gắn liền với an toàn thực phẩm, sức khỏe động thực vật và bảo vệ môi trường.
Bằng cách đảm bảo an toàn thực phẩm và đảm bảo rằng các sản phẩm được sản xuất và
tiêu thụ không gây hại cho sức khỏe con người, động vật hoặc thực vật cũng như không
tác động tiêu cực đến môi trường hoặc ngăn chặn sự xâm nhập của các bệnh có nguồn gốc
động vật hoặc thực vật, các quy định này được thực hiện để bảo vệ sống và sức khỏe của
con người, vật nuôi, động vật và thực vật.
Theo Hiệp định EVFTA quy định một số tiêu chuẩn SPS cụ thể mà Việt Nam cần
tuân thủ khi xuất khẩu thủy sản sang EU bao gồm:
- Các sản phẩm thủy sản phải tuân theo các tiêu chuẩn an toàn thực phẩm nghiêm
ngặt của EU. Để nhập khẩu vào EU, yêu cầu bắt buộc là sản phẩm phải được kèm theo
giấy chứng nhận vệ sinh an toàn thực phẩm. Điều này áp dụng cho mọi loại sản phẩm
thủy sản. Sức khỏe và vệ sinh là vấn đề quan trọng đối với người tiêu dùng, do đó không
được phép có bất kỳ chất gây ô nhiễm nào trong sản phẩm. Thủy sản dành cho thị trường
EU sẽ được kiểm tra trước khi vận chuyển, thông qua các phòng thí nghiệm của người
Quy định (EC) số 470/2009 về MRLs đối với dư lượng các hoạt chất dược lý
mua hoặc các cơ sở thí nghiệm được công nhận.
Quy định (EC) số 396/2005 về MRL của EU đối với thuốc trừ sâu
Quy định (EC) số 1881/2006 về MRLs đối với các chất gây ô nhiễm môi
(thuốc kháng sinh) trong thực phẩm có nguồn gốc động vật.
trường như kim loại nặng, thuỷ ngân…
- Không cho phép xử lý cá tra với carbon dioxide cho thị trường EU và phải kiểm
soát hàm lượng chlorate trong sản phẩm.
Xử lý oxit cacbon được sử dụng để cải thiện bề ngoài của sản phẩm cá tra và
giữ cho máu cá tra có màu đỏ và thịt trắng. EU cho rằng việc xử lý bằng oxit cacbon có
thể che dấu sự hư hỏng của sản phẩm và do đó điều này không được phép.
Việc thực phẩm chứa hàm lượng chlorate cao có thể mang lại nguy hại cho sức
khỏe người tiêu dùng. Chlorate là một loại hợp chất phụ của clo, thường xuất hiện khi xử
lý nước uống hoặc được sử dụng như chất khử trùng trong quá trình chế biến thực phẩm.
Do đó, sản phẩm thủy hải sản đông lạnh có khả năng chứa hàm lượng chlorate cao hơn
nhiều.
- Thông tin rõ ràng về lượng nước thêm vào sản phẩm là một yêu cầu bắt buộc
quan trọng khác khi xuất khẩu cá sang EU. Việc thêm nước vào sản phẩm là hợp pháp,
nhưng việc cung cấp thông tin không rõ ràng về trọng lượng sản phẩm cá và lượng nước
được sử dụng trong hoặc xung quanh sản phẩm được xem như là hành vi gian lận, gây
hiểu lầm cho người tiêu dùng. Theo quy định của EU 1169/2011, các nhà xuất khẩu phải
đề cập rõ ràng đến trọng lượng tịnh của sản phẩm cá tra trên bao bì dưới dạng thông tin
thực phẩm "xác định mua hàng".
- Các chứng nhận an toàn thực phẩm được yêu cầu phổ biến nhất cho các sản phẩm
thuỷ sản: IFS (Tiêu chuẩn Đặc trưng Quốc tế), BRC (Hiệp hội Bán lẻ Anh)
1.2.2.2.2. Các quy định TBT
Các quy định về Biện pháp Kỹ thuật Không Thương mại (TBT - Technical
Barriers to Trade) đóng một vai trò quan trọng trong việc xuất khẩu sản phẩm hải sản từ
Việt Nam sang EU. Những quy định này áp dụng cho các sản phẩm hải sản để đảm bảo
rằng chúng tuân thủ các tiêu chuẩn kỹ thuật và chất lượng quốc tế, đồng thời giảm thiểu
các rủi ro về sức khỏe công cộng và an toàn thực phẩm. Theo các quy định của Hiệp định
EVFTA, Việt Nam phải tuân thủ một số tiêu chuẩn cụ thể về TBT khi xuất khẩu hải sản
sang EU. Điều này bao gồm:
a. Quy định đối với sức khỏe và an toàn vệ sinh thực phẩm
- Quy định về dư lượng: động vật sống và các sản phẩm của động vật được quy
định nghiêm ngặt trong việc giám sát hóa chất và dư lượng. Đặc biệt, các chất kháng sinh
bị áp dụng chính sách “dư lượng = 0” để từ đó hướng đến mục tiêu cấm hoàn toàn.
- Quy định về bao gói, ghi nhãn sản phẩm: bao bì được sản xuất ở mức giới hạn tối
thiểu và được thiết kế, sản xuất để có thể tái sử dụng, hạn chế tối đa sử dụng các nguyên
liệu và chất độc hại do sự phát xạ, tàn tro khi đốt cháy. Khâu đóng gói phải phù hợp với
việc vận chuyển và môi trường. Cụ thể, Ủy ban châu Âu đã có danh sách các loại nhựa
“chấp nhận được” để yêu cầu nhà xuất khẩu luôn quan tâm đến môi trường và cập nhật
thông tin về rác thải.
- Hệ thống phân tích mối nguy hiểm và điểm kiểm soát giới hạn (HACCP): được
áp dụng với các công ty chế biến, xử lý, đóng gói, vận chuyển, phân phối hoặc kinh
doanh thực phẩm. Xác định và phác thảo các rủi ro độc hại và các điểm kiểm soát quan
trọng trong quá trình sản xuất, thiết lập các biện pháp phòng ngừa có hạn chế trong các
giai đoạn kiểm soát, lập lịch trình giám sát các điểm kiểm soát, ban hành quy trình thẩm
định và ghi lại các phương pháp, quy trình và kết quả thử nghiệm là một số ví dụ về hệ
thống này.
- Biện pháp bảo vệ người tiêu dùng: 3 tổ chức kiểm định gồm: CEN, CENELEC,
ETSI đảm bảo kiểm tra sản phẩm ngay từ nơi sản xuất và đồng thời bãi bỏ kiểm tra ở biên
giới
b. Tiêu chuẩn về quản lý chất lượng
- Tiêu chuẩn về chất lượng sản phẩm ISO 9000.
- Quy định về kiểm tra chứng nhận: các sản phẩm thủy sản phải được chứng nhận
rằng điều kiện vệ sinh khi mua bán, sản xuất, chế biến, đóng gói là đủ điều kiện.
c. Quy định về bảo vệ môi trường và nguồn lợi
- Hệ thống tiêu chuẩn quốc tế về quản lý môi trường – ISO 14000: là tập hợp các
hướng dẫn quản lý môi trường dựa trên các thỏa thuận quốc tế và bao gồm các thông số
kỹ thuật cho các thành phần cơ bản có thể thay đổi để tạo ra một hệ thống quản lý môi
trường hiệu quả. Thực hiện cải tiến liên tục cho môi trường xung quanh cơ sở vật chất.
- Kiểm tra quản lý sinh thái (EMAS): đẩy mạnh sự cải thiện, tiếp tục thực hiện tiêu
chuẩn môi trường của các tổ chức châu Âu, cung cấp thông tin cho cộng đồng và các đối
tác quan tâm.
- Kiểm soát để phòng ngừa, ngăn chặn và xóa bỏ các hoạt động khai thác thủy sản
bất hợp pháp, không báo cáo và không theo quy định (IUU): Mỗi lô hàng tôm, cá da trơn
xuất khẩu sang EU đều phải có giấy chứng nhận khai thác (nếu toàn bộ sản lượng đánh
bắt được chuyển thành hàng hóa) hoặc cam kết từ cơ sở chế biến về nguồn gốc sản phẩm.
hàng hóa trong lô hàng xuất khẩu) hoặc bản sao giấy chứng nhận bắt giữ.
- Quy định về trách nhiệm xã hội: đình chỉ hoạt động những doanh nghiệp sử dụng
lao động là trẻ em, tù nhân… đã được xác định trong Hiệp ước Genevo ngày 25/9/1926
và 07/09/1956 và các Hiệp ước quốc tế về lao động khác.
1.2.2.2.3 Các biện pháp hạn chế định lượng
Những chính sách này, bao gồm cấm nhập khẩu, hạn ngạch và cấp phép nhập khẩu
không tự động, nhằm hạn chế đáng kể số lượng hoặc giá trị hàng hóa được nhập khẩu vào
một quốc gia. Do đó, các biện pháp phòng ngừa mang tính bảo vệ khá cao.
1.2.2.2.4. Các biện pháp quản lý về giá
Các biện pháp quản lý giá nhập khẩu hay giá bán tại thị trường EU bằng cách thiết
lập quy định giá tối đa, giá tính thuế, các khoản phí và phụ thu có thể có ảnh hưởng trực
tiếp hay gián tiếp tới xuất khẩu thủy sản của Việt Nam vào EU.
1.2.2.2.5. Các biện pháp bảo vệ thương mại tạm thời
Đây là các biện pháp chống bán phá giá, chống trợ cấp và tự vệ. Những chính sách
này thường xuyên được EU áp dụng trong những năm gần đây để hạn chế nhập khẩu thủy
sản vào thị trường EU..
1.2.2.2.6. Các biện pháp quản lý hành chính:
Các biện pháp quản lý hành chính bao gồm những quy định về thanh toán, đặt cọc,
kích cỡ hàng hóa, quảng cáo, vị trí thông quan.
2. Đánh giá ảnh hưởng của các rào cản phi thuế quan tới xuất khẩu thủy sản Việt
Nam
2.1. Tình hình xuất khẩu thủy sản Việt Nam sang EU
Về giá trị và kim ngạch xuất khẩu, năm 2010, với giá trị đạt 1,203 tỷ USD, chiếm
23,91% tỷ trọng, EU đã trở thành thị trường đứng đầu về kim ngạch xuất khẩu thủy sản
của Việt Nam. Tuy nhiên, vị thế này được giữ vững không lâu, cho đến năm 2020, EU
xuống xếp hạng thứ 4 với 11,4% (sau Hoa Kỳ, Nhật Bản, Trung Quốc). Sang đến năm
2022, kim ngạch xuất khẩu thủy sản của Việt Nam sang EU tăng lên hơn 12%. Nhìn
chung, tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu thủy sản của Việt Nam sang thị trường EU giai
đoạn 2010-2022 có nhiều biến động. (Hình 3)
Hình 3: Kim ngạch xuất khẩu thủy sản Việt Nam sang thị trường EU so với tổng kim
ngạch xuất khẩu thủy sản Việt Nam giai đoạn 2010-2022
Về thị trường xuất khẩu, Việt Nam xuất khẩu thuỷ sản sang tất cả các thành viên
thuộc khối EU, với kim ngạch xuất khẩu được duy trì ổn định ở mức hơn 100 triệu USD
trong giai đoạn 2010-2022 tập trung chủ yếu ở các nước Hà Lan, Đức, Bỉ, Ý. Bên cạnh
đó, Pháp, Tây Ban Nha cũng là những thị trường nhập khẩu lớn nhưng lại có dấu hiệu sụt
giảm trong những năm gần đây.
Về cơ cấu mặt hàng xuất khẩu, thủy sản khai thác và nuôi trồng nhìn chung đều có
sự tăng trưởng về giá trị xuất khẩu qua các năm. Trong đó, thủy sản nuôi trồng (điển hình
là cá tra và tôm) chiếm tỷ trọng khoảng 70% và có tốc độ tăng trưởng cao hơn. Còn các
loại thủy sản khai thác như cá ngừ, mực, bạch tuộc chỉ chiếm khoảng 30% tổng giá trị
xuất khẩu (World Bank, 2021).
Qua những dữ liệu trên, có thể thấy kim ngạch xuất khẩu thủy sản sang EU có
nhiều thuận lợi như tăng trưởng nhanh chóng, cơ cấu sản phẩm và thị trường xuất khẩu đa
dạng, có các đối tác xuất khẩu tiềm năng, bền vững. Mặc dù được hưởng lợi về thuế quan
nhờ Hiệp định EVFTA, song xuất khẩu thủy sản Việt Nam cũng phải chịu rất nhiều biến
động cũng như thách thức từ các biện pháp phi thuế quan và các đối tác khác trên thế
giới.Điều này đòi hỏi các sản phẩm thủy sản Việt Nam cần phải tuân thủ nghiêm ngặt các
quy định về khả năng truy xuất nguồn gốc, đảm bảo chất lượng, an toàn thực phẩm hay
các quy định kỹ thuật như TBT và SPS để có thể nâng cao khả năng cạnh tranh và tận
dụng tối đa các cơ hội trên thị trường quốc tế.
2.2. Ảnh hưởng của các biện pháp phi thuế quan đến xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam
sang EU
2.2.1. Ảnh hưởng tích cực
Việt Nam hiện có nhiều lựa chọn hơn để xuất khẩu thủy sản sang EU, thị trường
tiêu dùng lớn thứ hai thế giới với tầng lớp trung lưu khá lớn và nhu cầu đáng kể nhờ ký
kết hiệp định EVFTA. Việt Nam đã tận dụng điều này bằng cách kiên trì khuyến khích
xuất khẩu sang Liên minh châu Âu. Xuất khẩu thủy sản Việt Nam sang thị trường EU nửa
đầu năm 2021 đạt khoảng 485,3 triệu USD, tăng 20% so với cùng kỳ năm 2020 và đây là
bằng chứng. Mức tăng này cao hơn đáng kể so với mức tăng 14,4% của xuất khẩu thủy
sản cả nước. Theo thống kê, với mức tăng 31,6% lên 73,3 triệu USD trong nửa đầu năm
2021, cá ngừ là mặt hàng có giá trị xuất khẩu lớn thứ hai sang EU. Tổng kim ngạch xuất
khẩu cá ngừ của Việt Nam là 21% từ thị trường EU, chỉ đứng sau thị trường Mỹ. Việt
Nam đã ký kết các FTA thế hệ mới hơn như CPTPP và gần đây hơn là UKVFTA, sẽ tiếp
tục là “đòn bẩy” đáng kể trong thời gian tới để hỗ trợ hoạt động xuất khẩu của ngành thủy
sản.
Mặt khác, các biện pháp phi thuế quan tạo điều kiện giúp tối ưu hóa ngành sản
xuất, chất lượng hàng thủy sản không ngừng được nâng cao. Để có thể thành công nắm
bắt các cơ hội từ rào cản phi thuế quan, các doanh nghiệp Việt Nam đã tìm hiểu và quy
hoạch sản xuất nhằm đáp ứng tốt các yêu cầu, tiêu chuẩn kỹ thuật của nước xuất khẩu.
Hơn nữa, vệ sinh thực phẩm đang trở thành một vấn đề lớn hơn đối với ngành thủy sản và
ngành thủy sản do các luật nghiêm ngặt về kiểm tra chất lượng sản phẩm cũng như các
biện pháp bảo vệ môi trường và sức khỏe cộng đồng bao gồm các thủ tục SPS và TBT.
trách nhiệm xã hội, bảo vệ môi trường và an toàn thực phẩm. Phần lớn các cơ sở chế biến
đều sử dụng HACCP và ngày càng nhiều vùng nông nghiệp, cơ sở chế biến đạt được các
chứng chỉ bền vững như ASC, GLOBAL GAP, MSC, VietGAP,... Ngoài ra, Internet vạn
vật (IoT), công nghệ cảm biến, robot tự động hóa và các yếu tố khác đều góp phần giúp
người tiêu dùng và doanh nghiệp tiếp cận thông tin đáng tin cậy. Năng suất, chất lượng,
hiệu quả kinh tế và thu nhập cá nhân đều tăng lên, các công ty xuất khẩu cũng vậy. Nhờ
đó, thủy sản Việt Nam đã tạo dựng được uy tín vững chắc và nhận được sự tôn trọng của
khách hàng cả trong nước và quốc tế.
Không những thế, sự gia tăng về số lượng các rào cản phi thuế quan đã và đang
thúc đẩy các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam nỗ lực nâng cao khả năng cạnh tranh.
Doanh thu trung bình hàng năm từ xuất khẩu thủy sản trong 10 năm qua là 1 tỷ USD. Một
trong 4 mặt hàng xuất khẩu hàng đầu là thủy sản. Tuy nhiên, có những trở ngại đáng kể
đối với khả năng cạnh tranh của các công ty xuất khẩu thủy sản, cần có nhiều điều chỉnh
để thúc đẩy phát triển bền vững. Do đó, chính phủ đã và đang giúp đỡ các doanh nghiệp
xuất khẩu giải quyết các vấn đề tài chính của họ. Đặc biệt, ngân hàng tăng lãi suất cho
vay qua từng năm, từ 14% lên trên 20%. Bên cạnh đó, các thủ tục thuế và hải quan cũng
được đơn giản hóa. Bộ Công Thương đã chủ động xây dựng kế hoạch xử lý và trao đổi
kịp thời với các doanh nghiệp để cung cấp thông tin, kiến thức cũng như cập nhật tình
hình về các vụ kiện thương mại.
2.2.2 Tác động tiêu cực
Trong khi hàng rào thuế quan được gỡ bỏ dần thì các nước nhập khẩu lại gia tăng
hàng rào phi thuế quan, điều này khiến cho xuất khẩu các mặt hàng của Việt Nam bị hạn
chế, đặc biệt là đối với ngành thủy sản. Theo thống kê, Việt Nam thiệt hại hơn 14 triệu
USD mỗi năm do hàng xuất khẩu bị trả lại (Nguyễn Bích Thủy, 2020). Hơn nữa, EU là thị
trường khá lớn với lượng tiêu thụ hải sản trung bình hàng năm lên tới 24,35kg/người. Việt
Nam chắc chắn sẽ là một trong nhiều quốc gia tiếp thị xuất khẩu thủy sản sang EU xét về
quy mô thị trường và mức độ tiêu thụ. Nhưng đến thời điểm hiện tại, ngành thủy sản Việt
Nam vẫn sản xuất ở quy mô nhỏ, thiếu sự phối hợp, thiếu quy hoạch, sản xuất cá đơn
điệu, giá trị thấp. Bên cạnh những tiêu chí ngày càng khắt khe từ thị trường và nhà nhập
khẩu (chất lượng, môi trường, lao động, sản xuất bền vững, trách nhiệm xã hội…), công
nghệ thấp khiến công tác kiểm soát môi trường không được đảm bảo.
Hình 4: Kim ngạch xuất khẩu thủy sản sang thị trường EU giai đoạn T1-T5/2021-2022
Ngoài ra, xuất khẩu thủy sản của Việt Nam gặp khó khăn trong việc tuân thủ và
thực thi các hạn chế của Hiệp định EVFTA. Mối quan tâm đầu tiên là các rào cản thương
mại kỹ thuật và quy định về xuất xứ sản phẩm. Các nước thành viên EU tuân thủ nghiêm
ngặt các quy định về hàng rào công nghệ (TBT) và quy tắc xuất xứ (C/O). Hàng hóa xuất
khẩu vào EU phải tuân thủ đầy đủ quy định của pháp luật mới được hưởng ưu đãi xóa bỏ
99,2% số dòng thuế từ EVFTA. Xuất khẩu của Việt Nam có thể gặp thách thức do phải
thường xuyên nhập khẩu nguyên liệu từ Trung Quốc và ASEAN. Hàng hóa sẽ chỉ được
hưởng lợi từ thuế suất quốc gia tối ưu (MFN) chứ không phải thuế suất ưu đãi 0% như
trong EVFTA nếu không tuân thủ quy tắc xuất xứ và kỹ thuật.
Bảo vệ môi trường là một cam kết và nghĩa vụ nghiêm ngặt trong EVFTA. Mặc dù
các nhà sản xuất Việt Nam đã cố gắng tuân thủ quy định trong các Hiệp định về rào cản
kỹ thuật trong thương mại (TBT) và về vệ sinh an toàn thực phẩm và kiểm dịch động thực
vật (SPS) của WTO, nhưng vẫn có nhiều trường hợp hàng hóa từ Việt Nam bị từ chối khi
xuất khẩu sang EU. Khoảng 80 lô hàng thủy sản Việt Nam sang EU và thị trường nhập
khẩu đã bị trả lại trong năm 2018 sau khi được cảnh báo về chất lượng thấp. Năm 2017,
số lượng sản phẩm bị trả lại tăng hơn gấp đôi.
Trước đó, do hạn chế về tiềm năng khai thác ngư trường, tổ chức quản lý, và việc
khai báo sản phẩm không đúng yêu cầu, Việt Nam đã gặp phải các vi phạm trong hoạt
động đánh bắt hải sản. Ngày 23/10/2017, Liên minh châu u (EU) đã chính thức áp đặt
biện pháp cảnh báo "thẻ vàng IUU" đối với Việt Nam. "Thẻ vàng" này đồng nghĩa với
việc kiểm soát 100% các lô hàng hải sản của Việt Nam xuất khẩu sang EU, trong khi
trước đó kiểm soát chỉ diễn ra theo một tỷ lệ nhất định. 27 nước thành viên EU sẽ ngừng
nhập khẩu cá từ Việt Nam nếu vi phạm ngày càng trầm trọng và thẻ vàng được nâng lên
thẻ đỏ. Hiệp hội Thủy sản Việt Nam (VASEP) cho rằng xuất khẩu thủy sản sang EU đã
sụt giảm đáng kể trong 2 năm kể từ khi EC đưa ra cảnh báo “thẻ vàng” đối với hoạt động
khai thác hải sản của Việt Nam.
Cuối cùng, chi phí xuất khẩu của doanh nghiệp tăng lên khi họ tham gia giải quyết
vụ việc bảo hộ thương mại. Theo báo cáo phòng vệ thương mại (PVTM) của Bộ Công
Thương (2021), năm 2020 có 39 vụ điều tra phòng vệ thương mại đối với hàng hóa xuất
khẩu của Việt Nam, gấp 2,5 lần so với 16 vụ việc năm 2019 và chiếm gần 20% tổng số vụ
việc từ 1995 đến nay.
2.3. Hiệu quả của các hiệp định thương mại đến xuất khẩu thuỷ sản sang EU
2.3.1. EVFTA (ký kết ngày: 30/6/2019, có liệu lực ngày: 1/8/2020)
Việc tạo lập thương mại và chuyển hướng thương mại lần lượt chiếm 69% và 31%
tổng tác động của EVFTA.
Hiệp định EVFTA được đánh giá là cú hích đối với việc xuất khẩu các mặt hàng
thuỷ sản Việt Nam: gần 50% số dòng thuế đang có thuế suất cơ sở 0-22%, trong đó hầu
hết thuế cao từ 6-22% sẽ được giảm về 0%. Khoảng 50% số dòng thuế còn lại có thuế
suất cơ sở 5,5-26% sẽ được về 0% sau từ 3-7 năm.
Sau 2 năm thực thi, mặc dù mức tăng trưởng xuất khẩu thuỷ sản sang EU chưa đạt
được như kỳ vọng nhưng đã có được những kết quả đáng ghi nhận.
Thứ nhất, nhờ các cam kết giảm thuế của EVFTA, Việt Nam đã có cơ hội đẩy
mạnh hoạt động xuất khẩu thuỷ sản sang thị trường EU. Cụ thể, sau khi hiệp định EVFTA
được triển khai, số lượng DN tham gia xuất khẩu thủy sản sang các nước thành viên EU
đã tăng lên mức trên 200 DN/tháng, nâng tổng số DN xuất khẩu thủy sản sang EU lên 409
DN trong năm 2020. Kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam sang EU cũng tăng một
cách đáng kể. Những mặt hàng đã hưởng lợi rõ nhất từ các ưu đãi từ thuế của EVFTA là
các loại mặt hàng tôm, nghêu, cá ngừ và mực. Hơn nữa, so với các nước xuất khẩu khác
chưa có hiệp định thương mại với EU như Thái Lan, Trung Quốc, Philippines … thì đây
sẽ là một cơ hội giúp Việt Nam có lợi thế cạnh tranh hơn trong việc xuất khẩu các loại
mặt hàng thuỷ sản.
Thứ hai, các quy định về SPS và TBT được quy định trong Hiệp định EVFTA đã
tạo cơ hội cho các doanh nghiệp Việt Nam nâng cao năng lực đáp ứng các tiêu chuẩn của
các tổ chức quốc tế như Codex, IPPC và OIE. Từ những tiêu chuẩn trong Hiệp định, các
doanh nghiệp đã biết được rằng các mặt hàng của họ cần phải đáp ứng những yêu cầu gì
và từ đó tiến hành phân tích, nghiên cứu, cải thiện, loại bỏ những yếu kém và điều chỉnh
để có thể có được đường lối phát triển đúng đắn, đạt được các tiêu chuẩn EU đặt ra. Và
cũng nhờ có những tiêu chuẩn đảm bảo chất lượng đó đã tạo lập được sự tin tưởng đối với
người dùng ở các nước EU, điều này cũng góp phần đáng kể vào việc thúc đẩy xuất khẩu
thuỷ sản của Việt Nam.
Thứ ba, việc xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam sang EU có cơ hội giảm thiểu chi
phí, thời gian kiểm tra theo các quy định SPS và TBT nhờ có các cam kết thừa nhận lẫn
nhau kết quả đánh giá sự phù hợp theo Hiệp định và cũng một phần là do Việt Nam đã
biết được những tiêu chuẩn cần thiết nên không còn bị quá phụ thuộc vào những quy trình
kiểm tra của EU mà hoàn toàn có thể kiểm tra và đánh giá trước khi đem hàng hoá xuất
khẩu. Đây cũng là một nhân tố giúp thu hút đầu tư vốn vào nuôi trồng, khai thác và chế
biến thuỷ sản.
Cuối cùng, những lợi ích từ sự quan tâm của chính sách nhà nước và các hoạt động
tích cực của các cơ quan quản lý nhà nước liên quan đến các kiểm định SPS và TBT đã
giúp tạo lập sự tin tưởng giữa đôi bên, từ đó thúc đẩy thương mại giữa Việt Nam - EU,
một đối tác lớn của Việt Nam.
2.3.2. UKVFTA (kí kết ngày 30/06/2019, có hiệu lực ngày 31/12/2020)
Hiệp định UKVFTA kế thừa các cam kết đã có trong Hiệp định EVFTA, có những
điều chỉnh phù hợp với quan hệ thương mại song phương giữa hai nước.
Theo đánh giá của Cục Xuất Nhập khẩu, ký kết Hiệp định UKVFTA đã “mở
đường” cho thủy sản Việt Nam đến với thị trường Anh khi đem lại mức thuế suất vô cùng
ưu đãi, tạo ưu thế cạnh tranh lớn đặc biệt là về giá so với các thị phần nhập khẩu khác trên
thị trường chưa ký kết Hiệp định như: Trung Quốc, Thái Lan, Malaysia, Inodesia, Ấn Độ,
Brazil, ... Đặc biệt, trong thời kỳ đại dịch COVID-19 hoành hành và các biện pháp cách lý
xã hội được áp dụng, mặc dù hiện tại đại dịch đã đi qua nhưng đã hình thành nên xu
hướng tiêu dùng những sản phẩm thủy sản dễ tiêu thụ ở nhà, dễ bảo quản, dễ chế biến và
có mức giá trung bình thấp tại Anh. Cá tra đông lạnh của Việt Nam đang là mặt hàng
hưởng lợi lớn từ xu hướng này khi có mức giá phù hợp và quy trình chế biến của nhiều
doanh nghiệp Việt Nam được EU và Anh chấp nhận.
3. Giải pháp giúp vượt qua các rào cản phi thuế nhằm thúc đẩy xuất khẩu thủy sản
3.1 Về phía doanh nghiệp
Thứ nhất, doanh nghiệp cần có tư duy chiến lược dài hạn, sẵn sàng hướng tới sản
phẩm ở phân khúc cao trên thị trường, tích cực phát triển thương hiệu sản phẩm. Hiện
nay, các sản phẩm thịnh hành trong thị trường châu Âu là sản phẩm theo giá trị gia tăng
và được dán nhãn cân bằng Carbon. Để đáp ứng các yêu cầu này, mỗi doanh nghiệp, căn
cứ vào thực lực của mình, đầu tư vào cải tiến công nghệ sản xuất, kiểm soát chất lượng
sản phẩm ngay từ khâu nuôi trồng, thu hoạch đến chế biến và bảo quản. Ngoài ra, việc
không ngừng cập nhật thị hiếu khách hàng, đón đầu xu hướng tiêu dùng của người dân ở
thị trường xuất khẩu và tuân thủ tốt các quy tắc vệ sinh và quy định quốc tế cũng rất cần
thiết.
Cụ thể, trong giai đoạn 2018-2022, ngành thủy sản Việt Nam đã chứng kiến sự
phát triển của các công nghệ sản xuất tiên tiến như Hệ thống nuôi tuần hoàn (RAS), công
nghệ Biofloc, và các công nghệ khai thác hiện đại như lưới vây cơ giới và công nghệ bảo
quản cá ngừ bằng công nghệ nano. Các công nghệ này đã góp phần nâng cao năng suất
khai thác, giảm chi phí sản xuất và tăng bình quân 30% so với phương thức bảo quản
truyền thống. Các doanh nghiệp xuất khẩu cũng đã chú trọng vấn đề dán nhãn thương
hiệu và thiết kế bao bì nhãn mác bắt mắt hơn, tiện dụng hơn, kiểu dáng thiết kế mới lạ,
độc đáo.
Thứ hai, doanh nghiệp cần phối hợp tốt với những nhà nuôi trồng, đánh bắt thủy
hải sản trong việc tuân thủ quy tắc xuất xứ hàng hóa, coi đây là “chìa khóa” để nâng cao
kim ngạch xuất khẩu. Để đến được khâu chế biến, nguồn nguyên liệu đầu vào cần đặc biệt
được chú trọng. Doanh nghiệp cần liên kết chặt chẽ, kí kết các hợp đồng bao tiêu đảm bảo
đầu ra cho các trại nuôi trồng. Trong quá trình nuôi trồng thủy sản, doanh nghiệp cũng
cần đồng hành cùng người dân trong việc phổ biến các yêu cầu về chất lượng sản phẩm,
hỗ trợ các vấn đề liên quan như kỹ thuật nuôi trồng, lựa chọn giống, thức ăn chăn nuôi,
thuốc thú y, phòng chống dịch bệnh và đặc biệt là kỹ thuật bảo quản nguyên liệu sau thu
hoạch, đảm bảo độ tươi ngon của thủy sản trước khi đưa vào chế biến.
3.2. Về phía Chính phủ và các hiệp hội thủy sản Việt Nam
Trước hết, để hỗ trợ xuất khẩu thủy sản Việt Nam, thẻ vàng IUU phải nhanh chóng
được gỡ bỏ. Thủy sản Việt Nam có nguy cơ bị cấm xuất khẩu sau khi nhận thẻ vàng vì
đánh bắt trái phép, không báo cáo và không theo quy định (IUU). Với thủy sản Việt Nam,
việc gỡ thẻ vàng là mục tiêu quan trọng nhất trước mắt.
Theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, Việt Nam đang nỗ lực thực hiện 4
nhóm khuyến nghị của EC nhằm gỡ bỏ “thẻ vàng” IUU. Các nhóm này bao gồm: “Hoàn
thiện khuôn khổ pháp lý; theo dõi, thanh tra, kiểm soát hoạt động của tàu cá và quản lý
đội tàu; chứng nhận đầu ra và truy xuất nguồn gốc thủy sản khai thác; thực thi pháp luật”.
Công việc này được tiến hành từ tháng 11/2022. Dù cách tiếp cận xóa “thẻ vàng” của Việt
Nam đang đi đúng hướng nhưng vẫn còn tồn tại những vấn đề sau hơn 5 năm cảnh báo.
Đoàn kiểm tra Châu Âu công tác vào 10/2023 đã đánh giá tổng quan và chỉ ra các vấn đề
còn tồn đọng về thực thi pháp luật chưa thực sự hiệu quả, các vụ vi phạm vẫn xảy ra với
số lượng không nhỏ; đáng buồn hơn là vẫn có trường hợp thủy sản xuất khẩu được cấp
chứng nhận an toàn thực phẩm của Việt Nam chưa đủ để đáp ứng các tiêu chuẩn của hàng
rào kỹ thuật của EC và bị trả về. Trong thời gian tới, Việt Nam cần nghiên cứu để thay
đổi, cải tiến các tiêu chuẩn kĩ thuật; tăng cường tuần tra, kiểm soát và xử phạt các trường
hợp vi phạm, phát triển lực lượng kiểm ngư với trang thiết bị đầy đủ giúp cho việc thực
thi pháp luật trở nên dễ dàng hơn.
Thứ hai, cần tăng cường phổ biến thông tin và hỗ trợ các doanh nghiệp về kiến
thức luật pháp, chính sách thương mại của thị trường xuất khẩu EU. Hỗ trợ doanh nghiệp
là rất quan trọng vì các công ty Việt Nam chủ yếu có quy mô nhỏ và chưa có đủ kiến thức
về cách vượt qua những trở ngại này.
Nhận thấy tầm quan trọng này, Đề án Tăng cường quản lý nhà nước nhằm chống
lẩn tránh biện pháp phòng vệ thương mại, gian lận xuất xứ và Dự án xây dựng và vận
hành hệ thống cảnh báo sớm về phòng vệ thương mại (Đề án 316) đã được Bộ Công
Thương xúc tiến (Đề án 824). Bên cạnh đó, Bộ Công Thương đã và đang theo dõi biến
động và đưa ra danh sách cảnh báo về các vụ kiện thương mại cho 18 mặt hàng xuất khẩu
trong đó có thủy sản.
Thứ ba, Chính phủ phải phân bổ vốn để hiện đại hóa cơ sở hạ tầng; đẩy mạnh đầu
tư vào lĩnh vực nuôi trồng, chế biến thủy sản theo hướng ứng dụng khoa học công nghệ
tiên tiến; thực hiện chính sách chỉ đạo, khuyến khích doanh nghiệp triển khai công nghệ
phù hợp với thị trường đầu ra, trong đó có EU; Chi tiền nghiên cứu quy hoạch không gian
để ngành thủy sản tăng trưởng bền vững, chú trọng các ngành công nghiệp, dịch vụ liên
quan như chế biến, thức ăn chăn nuôi, sản xuất giống bên cạnh đánh bắt cá. hàng hoá sinh
học.
Vấn đề về cơ sở hạ tầng không phải vấn đề mới trong các ngành đặc biệt là ngành
thủy sản, trong vòng 10 năm trở về trước Chính phủ đã ban hành các Nghị định và Thông
tư về việc đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng ngành thủy sản. Nghị định 67/2014/NĐ-CP và
Thông tư 117/2014/TT-BTC đã đề cập đến đầu tư nguồn vốn phát triển ngành thủy sản.
Hướng dẫn nêu rõ các dự án do các Bộ, ngành Trung ương giám sát đối với các hạng mục
cơ sở hạ tầng tại các vùng nuôi trồng thủy sản ưu tiên sẽ được nhận 100% vốn ngân sách
trung ương. Chương trình Nuôi trồng Thủy sản giai đoạn 2021-2030 được Chính phủ phê
duyệt gần đây nhất vào ngày 16 tháng 8 năm 2022. Chương trình có hai hợp phần chính:
phát triển hệ thống sản xuất, cung ứng nguyên liệu và công nghiệp hỗ trợ nuôi trồng thủy
sản (khuyến khích phát triển thức ăn chăn nuôi bằng nguồn nguyên liệu trong nước). phát
triển sản phẩm xử lý môi trường thủy sản); đầu tư nâng cấp cơ sở hạ tầng nuôi trồng thủy
sản.. Tổng nguồn vốn thực hiện Chương trình dự kiến là 7000 tỷ đồng trong đó có đến
6000 tỷ đồng dành cho các Dự án đầu tư, nâng cấp, phát triển cơ sở hạ tầng.
Thứ tư, để hỗ trợ tài chính cho thủy sản, đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ,
Chính phủ nên mở rộng hỗ trợ tài chính cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu. Phần lớn
các doanh nghiệp vừa và nhỏ gặp nhiều thách thức khi cố gắng thực hiện các quy tắc và
hướng dẫn về an toàn và chất lượng thực phẩm vì họ không có đủ nguồn lực vật chất,
chẳng hạn như cơ sở hạ tầng và trang thiết bị không đầy đủ. sản xuất hiện đại,…. do
nguồn lực tài chính bị hạn chế. Trước những khó khăn chồng chất, các doanh nghiệp xuất
nhập khẩu rất cần giải quyết bài toán về vốn và cân đối các chi phí tài chính. Điều này đòi
hỏi Nhà nước có những chính sách tài chính để hỗ trợ các doanh nghiệp tiếp cận đến các
nguồn vốn vay và các dự án tài chính.
Chính phủ đã ban hành Nghị định số 75/2011/ND-CP ngày 30/8/2011 về tín dụng
xuất khẩu và tín dụng đầu tư của Nhà nước nhằm giải quyết các vấn đề kinh doanh nêu
trên. Theo đó, khi đáp ứng đủ tiêu chí, doanh nghiệp sẽ được vay vốn lên tới 85% giá trị
hợp đồng xuất khẩu. Doanh nghiệp có hợp đồng xuất khẩu còn có thể vay vốn từ ngân
hàng và cũng có thể nhờ đến sự hỗ trợ của đội ngũ tư vấn. Các ngân hàng cũng mở ra rất
nhiều chương trình ưu đãi, chương trình tín dụng được “may đo” riêng cho các doanh
nghiệp này. Năm 2023 vừa qua, trước tình hình đi xuống của ngành thủy sản so với cùng
kỳ, Thủ tướng Chính phủ đã lập tức phê duyệt đề án và yêu cầu các ngân hàng nghiên cứu
triển khai gói tín dụng 10.000 tỷ đồng cho ngành lâm-thủy sản. Mục tiêu của chương trình
hướng đến cung cấp vốn tín dụng; giảm mặt bằng lãi suất vay để hỗ trợ nông dân và
doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp xuất khẩu.
4. Kết luận
Thị trường Châu Âu (EU) với hơn 500 triệu người tiêu dùng là một thị trường vô
cùng tiềm năng cho xuất khẩu Việt Nam, đặc biệt là sau khi chúng ta ký hiệp định
EVFTA. Hiệp định đã mở đường cho việc giảm thiểu thuế quan, tạo điều kiện tích cực
cho ngành xuất khẩu thủy sản của Việt Nam phát triển và tăng cường khả năng cạnh tranh
trên thị trường quốc tế. Tuy nhiên, thách thức dành cho Việt Nam vẫn đáng kể khi các rào
cản phi thuế quan tăng lên liên tục trong những năm gần đây, nhất là đối với các thị
trường lớn mạnh như EU. Điều này gây ra nhiều khó khăn cho các doanh nghiệp và nông
dân trong công tác nuôi trồng và xuất khẩu thủy sản. Trong ngắn hạn, các rào cản phi thuế
quan có thể cản trở phần nào quá trình xuất khẩu thủy sản với các quy định nghiêm ngặt
dẫn đến tăng chi phí sản xuất thậm chí xảy ra các vụ kiện về giá không đáng có cho doanh
nghiệp Việt Nam. Tuy nhiên trong dài hạn, việc nâng cao chất lượng thủy sản đáp ứng
các tiêu chuẩn của EU ngoài giúp kim ngạch xuất khẩu thủy sản gia tăng còn giúp phát
triển thương hiệu sản phẩm, tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Để giải
quyết vấn đề này, nhóm nghiên cứu đã đề xuất một số giải pháp nhằm giúp nước ta đối
phó với các biện pháp phi thuế quan, phát triển và gia tăng kim ngạch xuất khẩu các mặt
hàng nói chung và thủy sản nói riêng. Các doanh nghiệp Việt Nam cũng có thể hợp tác
với các doanh nghiệp Châu Âu nghiên cứu cải tiến, chuyển giao công nghệ để đáp ứng
các tiêu chuẩn và quy định từ đó phát triển sản phẩm của mình. Để giải quyết vấn đề này,
nhóm nghiên cứu đã đề xuất một số giải pháp nhằm giúp nước ta đối phó với các biện
pháp phi thuế quan, phát triển và gia tăng kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng nói chung và
thủy sản nói riêng.
Mục lục tham khảo
An, Q. (2023, 01 11). Đầu Tư Tài Chính. Retrieved from dttc.sggp.org.vn:
https://dttc.sggp.org.vn/gia-thuc-an-chan-nuoi-thuy-san-luon-tang-nong-dan-tim-cach-
vuot-kho-post101203.html
ĐCSVN. (2010, 04 08). Báo điện tử Đảng Cộng Sản Việt Nam. Retrieved from
dangcongsan.vn: https://dangcongsan.vn/kinh-te/xuat-khau-thuy-san-cua-viet-nam-sang-
eu-con-nhieu-tiem-nang-31884.html
Hà, T. (2020, 07 21). Công an nhân dân. Retrieved from cand.com.vn:
https://cand.com.vn/Kinh-te/Thao-go-rao-can-de-thuy-san-tiep-can-sau-thi-truong-EU-
i573479/
Hà, T. (2022, 11 25). Tạp chí Công Thương. Retrieved from tapchicongthuong.vn:
https://tapchicongthuong.vn/magazine/e-magazine-hieu-ro-thi-truong-eu-de-tan-dung-
hieu-qua-hiep-dinh-evfta-101694.htm
Khôi, C. (2022, 12 17). VnEconomy. Được truy lục từ vneconomy.vn:
https://vneconomy.vn/nganh-hang-ca-tra-vuot-dinh-lap-ky-luc-xuat-khau.htm
Khuê, V. (2023, 11 02). VnEconomy. Được truy lục từ vneconomy.vn:
https://vneconomy.vn/eu-se-xem-xet-go-bo-the-vang-iuu-neu-viet-nam-co-trien-vong-tot-
trong-danh-bat-thuc-te.htm
NAM, V. -H. (2022). Tổng quan ngành thủy sản Việt Nam.
Nga, L. T., & Liễu, T. T. (2022, 04 24). Tạp Chí Tài Chính. Được truy lục từ
tapchitaichinh.vn: https://tapchitaichinh.vn/chinh-sach-xuat-khau-thuy-san-sang-thi-
truong-eu-cua-viet-nam-trong-boi-canh-thuc-thi-hiep-dinh-evfta.html
Nguyễn Minh Phương, L. T. (2022). CÁC BIỆN PHÁP PHI THUẾ QUAN MỚI
TRONG BỐI CẢNH ĐẠI DỊCH COVID-19 VÀ NHỮNG ẢNH HƯỞNG ĐẾN XUẤT
KHẨU CỦA VIỆT NAM. Tạp chí Công Thương.
Nguyễn Tiến Hoàng, P. V. (2020). TÁC ĐỘNG CỦA HIỆP ĐỊNH EVFTA ĐẾN
XUẤT KHẨU MẶT HÀNG THỦY SẢN CỦA VIỆT NAM SANG THỊ TRƯỜNG EU.
Tạp chí Quản lý và Kinh tế quốc tế.
Như, T. (2023, 03 17). Dân tộc và Phát triển. Được truy lục từ baodantoc.vn:
https://baodantoc.vn/nganh-thuy-san-se-cat-canh-neu-chon-huong-phat-trien-ben-vung-
1678957878208.htm
P.V. (2022, 12 30). Dân Việt. Được truy lục từ danviet.vn: https://danviet.vn/viet-
nam-tro-thanh-quoc-gia-xuat-khau-thuy-san-lon-thu-ba-the-gioi-chi-sau-nuoc-nao-
2022122923185619.htm
P.V. (2022, 12 30). Dân Việt. Được truy lục từ danviet.vn: https://danviet.vn/viet-
nam-tro-thanh-quoc-gia-xuat-khau-thuy-san-lon-thu-ba-the-gioi-chi-sau-nuoc-nao-
2022122923185619.htm
Peter Walkenhorst, B. A. (2008). Non-Tariff Measures Affecting EU-Exports:
Evidence from a Complaints-Inventory. OECD Working Paper.
Phạm Hương Quỳnh, N. T. (2022). TÁC ĐỘNG CỦA CÁC BIỆN PHÁP PHI
THUẾ QUAN ĐỐI VỚI XUẤT KHẨU THỦY SẢN VIỆT NAM. Tạp chí Quản lý và
Kinh tế quốc tế, 70-84.
Tài Chính Khuyến Nông. (2015, 06 26). Retrieved from tapchitaichinh.vn:
https://tapchitaichinh.vn/vuot-rao-can-phi-thue-quan-nhu-the-nao.html
Vũ Thành Toàn, N. A. (2024, 02 26). Tạp chí Công Thương. Retrieved from
tapchicongthuong.vn: https://tapchicongthuong.vn/bai-viet/mot-so-giai-phap-nham-day-
manh-xuat-khau-thuy-san-cua-viet-nam-sang-thi-truong-lien-minh-chau-au-trong-boi-
canh-binh-thuong-moi-86099.htm
Sổ tay hướng dẫn thực thi, hỏi đáp các quy định về SPS trong xuất khẩu Nông -
Lâm - Thủy sản vào thị trường EU
EU-Các biện pháp phi thuế quan (2021), Trung tâm WTO:
https://trungtamwto.vn/chuyen-de/17244-eu--bien-phap-phi-thue-quan
VASEP (2019). Report on Vietnam’s Seafood Exports to the EU Market in the
Period 2015-2019.
VASEP (2020). Vietnam’s Seafood Export Report in 2020.
VASEP (2021). Vietnam’s Seafood Export Report in 2021.