
90
Tạp chí Kinh tế - Luật và Ngân hàng
Năm thứ 27(11)- Tháng 10. 2025- Số 283
© Học viện Ngân hàng
ISSN 3030 - 4199
Tác động của chuyển đổi số đến kết quả tài chính của các
doanh nghiệp vừa và nhỏ: Bằng chứng thực nghiệm từ
ngành công nghiệp chế biến, chế tạo của Việt Nam
Ngày nhận: 17/07/2025 Ngày nhận bản sửa: 22/08/2025 Ngày duyệt đăng: 22/09/2025
Tóm tắt: Chuyển đổi số đã trở thành xu thế tất yếu trong sự phát triển của
thời đại, từ cấp độ quốc gia đến cấp độ tổ chức. Dù được kỳ vọng là động lực
chính thúc đẩy đổi mới và tăng trưởng, tác động của nó đến kết quả tài chính
của các doanh nghiệp vẫn còn gây nhiều tranh cãi. Dựa trên quan điểm lợi
ích- chi phí, nghiên cứu này phân tích ảnh hưởng của chuyển đổi số đến kết
quả tài chính của các SME trong ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tại Việt
Nam bằng cách sử dụng dữ liệu điều tra doanh nghiệp năm 2023 của Tổng
The impact of digital transformation on SMEs’ financial performance: Evidence from
Vietnam’s manufacturing sector
Abstract: Digital transformation has become an inevitable trend in the development of the era, from the
national level to the organizational level. Although it is expected to be the main driving force promoting
innovation and growth, its impact on the financial performance of enterprises remains controversial. Based
on a cost-benefit perspective, this study analyzes the impact of digital transformation on the financial
performance of SMEs in the manufacturing industry in Viet Nam by using the 2023 enterprise survey data
from the General Statistics Office. The empirical results from multivariate linear regression and quantile
regression indicate that digital transformation has a positive effect on financial performance measured by
ROA and ROE, with a particularly stronger impact on ROE. While firm size and asset growth rate positively
influence ROA and ROE, high capital intensity, operating cost ratio, and leverage ratio may reduce the
benefits from digital transformation. The research findings suggest that SMEs in the manufacturing
industry should prioritize the implementation of digital transformation activities, consider sustainable scale
expansion, and optimize asset utilization to leverage the benefits of digital transformation. At the same
time, they need to exercise strict control over operating costs and carefully manage financial leverage to
ensure that the advantages gained from digital transformation are not offset by increased operating costs
and debts.
Keywords: Digital transformation, Financial performance, SME, Manufacturing industry
Doi: 10.59276/JELB.2025.10.3031
Phan Huy Thanh1, Tran Thi Ngoc Phuong2
Email: phanhuythanhwork@gmail.com1, ttnphuong@ufm.edu.vn2
Organization: Ministry of Finance, Viet Nam1, University of Finance- Marketing, Viet Nam2
Phan Huy Thành1, Trần Thị Ngọc Phương2
Bộ Tài chính, Việt Nam1, Trường Đại học Tài chính- Marketing, Việt Nam2
CÔNG NGHỆ VÀ KINH TẾ SỐ

PHAN HUY THÀNH - TRẦN THỊ NGỌC PHƯƠNG
91
Năm thứ 27(11)- Tháng 10. 2025- Số 283- Tạp chí Kinh tế - Luật và Ngân hàng
cục Thống kê. Kết quả thực nghiệm từ hồi quy tuyến tính đa biến và hồi quy
phân vị chỉ ra rằng chuyển đổi số có tác động tích cực đến kết quả tài chính
của doanh nghiệp được đo bằng ROA, ROE và đặc biệt mạnh hơn với ROE.
Trong khi quy mô doanh nghiệp, tăng trưởng tổng tài sản ảnh hưởng tích cực
đến ROA và ROE thì cường độ vốn, hệ số chi phí, tỷ lệ nợ cao có thể làm giảm
lợi ích từ chuyển đổi số. Kết quả nghiên cứu gợi ý rằng các SME trong ngành
công nghiệp chế biến, chế tạo nên ưu tiên triển khai các hoạt động chuyển đổi
số, cân nhắc mở rộng quy mô một cách bền vững và tối ưu hóa tài sản để tận
dụng lợi thế từ chuyển đổi số, đồng thời cần kiểm soát chặt chẽ chi phí vận
hành và quản lý đòn bẩy tài chính cẩn thận để đảm bảo lợi ích từ chuyển đổi
số không bị triệt tiêu bởi chi phí và nợ tăng cao.
Từ khóa: Chuyển đổi số, Kết quả tài chính, SME, Ngành công nghiệp chế biến,
chế tạo
1. Giới thiệu
Trong những năm gần đây, số hóa đã cách
mạng hóa hành vi của con người. Nhân loại
đã và đang chứng kiến sự chuyển dịch trong
các tương tác xã hội sang chiều hướng kỹ
thuật số. Điều này tạo ra cả cơ hội lẫn thách
thức cho các tổ chức, buộc họ phải thực
hiện những thay đổi căn bản về cấu trúc,
quy trình và dịch vụ để không chỉ tồn tại
mà còn phát triển trong bối cảnh mới (Melo
và cộng sự, 2023). Các doanh nghiệp cũng
không nằm ngoài xu thế đó, nghiên cứu về
chuyển đổi số ở cấp độ doanh nghiệp đã thu
hút sự chú ý lớn từ giới học thuật. Chuyển
đổi số được xem như một yếu tố then chốt
giúp doanh nghiệp nâng cao năng lực
cạnh tranh (Bharadwaj và cộng sự, 2013).
Tương tự như công nghệ thông tin (CNTT),
các doanh nghiệp kỳ vọng chuyển đổi số
có thể giúp giảm chi phí và nâng cao kết
quả hoạt động (Björkdahl, 2020). Một số
nghiên cứu như Lehrer và cộng sự (2018),
Yeow và cộng sự (2018), Lee và Berente
(2012) đã chứng minh rằng chuyển đổi số
góp phần cải thiện quy trình kinh doanh
trong các lĩnh vực như dịch vụ, bán hàng
và chuỗi cung ứng. Hơn nữa, chuyển đổi
số còn thúc đẩy đổi mới trong sản phẩm,
dịch vụ, mô hình kinh doanh và thậm chí
tạo điều kiện cho sự ra đời của các doanh
nghiệp mới (Nambisan, 2013; Hanelt và
cộng sự, 2021). Do đó, nhiều doanh nghiệp
kỳ vọng sẽ gia tăng lợi nhuận thông qua
chuyển đổi số.
Theo Zareie và cộng sự (2024), hầu hết các
nghiên cứu thực nghiệm hiện nay về tác
động kinh tế của chuyển đổi số tập trung
chủ yếu tại Trung Quốc và đều chỉ ra rằng
chuyển đổi số có ảnh hưởng tích cực đến
các kết quả đầu ra khác nhau. Tuy nhiên,
không phải tất cả các nghiên cứu hiện nay
đều đồng thuận về tác động tích cực của
chuyển đổi số đối với kết quả tài chính của
doanh nghiệp. Theo khảo sát của Wipro
Digital (2017) tại Mỹ, 50% giám đốc điều
hành cấp cao thừa nhận công ty họ đã thất
bại trong quá trình chuyển đổi số.
Theo Tổng cục Thống kê (2024), ngành
công nghiệp chế biến, chế tạo là một trong
những động lực chính thúc đẩy tăng trưởng
GDP của Việt Nam trong nhiều năm liên
tục, và do đó việc tìm kiếm các giải pháp
nâng cao tốc độ tăng trưởng ngành đóng
vai trò quan trọng trong việc hiện thực hoá
mục tiêu phát triển kinh tế quốc gia. Số liệu

Tác động của chuyển đổi số đến kết quả tài chính của các doanh nghiệp vừa và nhỏ:
Bằng chứng thực nghiệm từ ngành công nghiệp chế biến, chế tạo của Việt Nam
92
CÔNG NGHỆ VÀ KINH TẾ SỐ
Tạp chí Kinh tế - Luật và Ngân hàng- Năm thứ 27(11)- Tháng 10. 2025- Số 283
tổng hợp của Tổng cục thống kê (2024) cho
biết hoạt động sản xuất công nghiệp năm
2024 đã có sự phục hồi mạnh mẽ với mức
tăng trưởng chỉ số sản xuất công nghiệp là
8,4%, mức tăng cao nhất trong 5 năm trở
lại đây. Trong đó, ngành công nghiệp chế
biến, chế tạo là ngành chủ lực chính đóng
góp 8,35% vào mức tăng chung toàn ngành
với mức tăng trưởng ấn tượng là 9,6%
và chiếm trên 74% giá trị tăng thêm toàn
ngành công nghiệp. Trên cơ sở đó, nhóm
tác giả tập trung phân tích ngành công
nghiệp chế biến, chế tạo, cụ thể là phân
tích tác động của chuyển đổi số đến kết quả
tài chính của các doanh nghiệp vừa và nhỏ
(SME) trong ngành, nhằm đánh giá lợi ích
và chi phí mà chuyển đổi số mang lại, từ
đó đề xuất các hàm ý quản trị nhằm nhằm
thúc đẩy quá trình chuyển đổi số của các
SME trong ngành, góp phần thúc đẩy tăng
trưởng kinh doanh ngành một cách hiệu
quả và bền vững. Ngoài đóng góp giá trị
thực tiễn, nghiên cứu được thực hiện trên
mẫu nghiên cứu có tính đại diện cao (gồm
34.992 SME) góp phần bổ sung nguồn tài
liệu thực nghiệm chất lượng, khách quan,
và đáng tin cậy vào lĩnh vực nghiên cứu
về chuyển đổi số tại Việt Nam, tập trung
vào đặc thù ngành công nghiệp chế biến,
chế tạo.
2. Cơ sở lý thuyết và tổng quan nghiên cứu
Theo Guo và Xu (2021), kết quả tài chính
phản ánh kết quả hoạt động cuối cùng của
các công ty và chuyển đổi số được áp dụng
chủ yếu vì mục tiêu lợi nhuận thông qua
việc mở rộng giá trị mà các công ty có thể
tạo ra. Đồng quan điểm này, nhóm tác giả
sẽ tập trung vào tác động của chuyển đổi
số đến kết quả tài chính của doanh nghiệp.
Trong thời gian gần đây, các hoạt động
chuyển đổi số đã tăng lên đáng kể (Hanelt
và cộng sự, 2021). Chuyển đổi số có ảnh
hưởng chiến lược đến nhiều ngành nghề
khác nhau, đặc biệt là trong các lĩnh vực
như sản xuất, ô tô, chăm sóc sức khỏe,
ngân hàng, viễn thông và nhiều ngành khác
(Nadeem và cộng sự, 2018). Chuyển đổi số
được xem là một tài sản chiến lược quan
trọng đối với mọi doanh nghiệp, bao gồm
dữ liệu, chức năng, tài nguyên và năng lực
(Pereira và cộng sự, 2022). Theo Sergei và
cộng sự (2023), chuyển đổi số là một quá
trình toàn diện diễn ra trên phạm vi toàn
công ty, đồng thời tác động sâu sắc đến cấu
trúc tổ chức. Trên quy mô toàn cầu, chuyển
đổi số đã trở thành một chủ đề chiến lược
trọng yếu đối với các công ty (Hess và
cộng sự, 2016).
Với tầm quan trọng như vậy, chuyển đổi
số trở thành thuật ngữ thông dụng trong cả
tài liệu học thuật và thực hành nhưng khái
niệm về chuyển đổi số vẫn chưa được quan
tâm đầy đủ, thiếu sự nhất quán do không
có quan điểm thống nhất về các thuộc tính
cơ bản của chuyển đổi số (Gong & Ribiere,
2021). Markus và Loebbecke (2013) cho
rằng chuyển đổi số dẫn đến sự thay đổi
mô hình kinh doanh và cách thức vận hành
của tổ chức. Trong khi đó, Morakanyane
và cộng sự (2017) tập trung vào khía
cạnh tạo ra giá trị mới cho quy trình vận
hành, mô hình kinh doanh và trải nghiệm
khách hàng. Reis và Melão (2023) lại chú
trọng đến sự ra đời của các mô hình kinh
doanh mới. Matarazzo và cộng sự (2021)
nhấn mạnh những thay đổi sâu sắc trong
kênh phân phối, nguồn đổi mới (sources
of innovation), hoạt động kinh doanh và
mối quan hệ giữa các bên liên quan trong
việc tạo ra giá trị. Một số định nghĩa khác
thì lại nhấn mạnh vào công nghệ số được
sử dụng, cho rằng chuyển đổi số được đặc
trưng bởi sự chuyển dịch sang sử dụng dữ
liệu lớn, nền tảng di động, trí tuệ nhân tạo,
đám mây, phân tích, phương tiện truyền
thông xã hội (Nwankpa & Roumani, 2016).

PHAN HUY THÀNH - TRẦN THỊ NGỌC PHƯƠNG
93
Năm thứ 27(11)- Tháng 10. 2025- Số 283- Tạp chí Kinh tế - Luật và Ngân hàng
Bên cạnh đó, có định nghĩa nhấn mạnh vào
quá trình chuyển đổi số, coi chuyển đổi số
là một quá trình phát triển. Theo Libert và
cộng sự (2016), chuyển đổi số là quá trình
thay đổi và chuyển dịch dựa trên nền tảng
các công nghệ số, tạo ra những biến đổi
đặc biệt trong quy trình và hoạt động kinh
doanh, đồng thời mang lại giá trị mới.
Mặc dù đã có nhiều nỗ lực nghiên cứu nhằm
làm rõ và kiểm định cơ chế ảnh hưởng của
chuyển đổi số đến kết quả tài chính doanh
nghiệp, các kết quả thực nghiệm thu được
cho đến nay vẫn chưa làm rõ được cơ chế
này và đưa ra các kết luận không nhất quán
về chiều hướng tác động của chuyển đổi
số đến kết quả tài chính của doanh nghiệp.
Cụ thể, trong khi Zareie và cộng sự (2024),
Gun và cộng sự (2024), Alrawashedh và
Shubita (2024) chỉ ra tác động tích cực của
chuyển đổi số đến kết quả tài chính của
doanh nghiệp thì Jardak và Ben Hamad
(2022) kết luận rằng sự trưởng thành kỹ
thuật số có tương quan âm với ROA và
ROE nhưng lại có tương quan dương với
Tobin’s Q. Guo và cộng sự (2023) cho thấy
chuyển đổi số có thể có tác động tiêu cực
đến ROA, ROE thông qua việc giảm vòng
quay tổng tài sản, tăng chi phí quản lý và tỷ
lệ chi phí hoạt động.
Tương tự, tại Việt Nam, trong khi nghiên
cứu của Nguyễn Thị Thảo Nhi và cộng
sự (2022) xác nhận tác động tích cực của
chuyển đổi số đến ROA, Vo và cộng sự
(2024) và Phan Thị Hằng Nga và cộng
sự (2023) lại chỉ ra mối quan hệ tiêu cực
giữa chuyển đổi số và kết quả tài chính của
các công ty niêm yết trên thị trường chứng
khoán Việt Nam. Tuy nhiên, nghiên cứu
của Vo và cộng sự (2024) lại kết luận rằng
khi tái cấu trúc doanh nghiệp được thực
hiện đồng thời với chuyển đổi số, ROA
của các công ty niêm yết tại Việt Nam sẽ
được cải thiện, cho thấy vai trò điều tiết
quan trọng của chuyển đổi số trong mối
quan hệ giữa tái cấu trúc doanh nghiệp và
ROA. Nghiên cứu của Phan Thị Hằng Nga
và cộng sự (2023) khẳng định mối quan
hệ tiêu cực giữa chuyển đổi số và ROE,
đồng thời nhấn mạnh rằng ROE của doanh
nghiệp có xu hướng được cải thiện khi quy
mô doanh nghiệp tăng lên.
Dựa trên lý thuyết lợi ích- chi phí, chuyển
đổi số là một quá trình phải cân nhắc giữa
lợi ích và chi phí. Một mặt, chuyển đổi số
giúp cải tiến quy trình vận hành nhờ kích
hoạt các công nghệ số. Việc chia sẻ dữ
liệu trong tất cả các quy trình và giữa các
phòng ban giúp loại bỏ các rào cản nội bộ,
cải thiện độ chính xác của các thuật toán và
giảm chi phí vận hành. Ngoài ra, chuyển
đổi số còn giúp nâng cao hiệu quả sử dụng
tài sản (Guo & Xu, 2021) và trải nghiệm
của khách hàng (Alrawashedh & Shubita,
2024). Mặc khác, việc đầu tư vào cơ sở
hạ tầng và nguồn nhân lực cho chuyển đổi
số làm tăng chi phí hoạt động (Guo & Xu,
2021), đặc biệt đối với các SME, do họ cần
đầu tư vào công nghệ, cơ sở hạ tầng, nhân
lực và dịch vụ kỹ thuật số. Việc tăng chi phí
tích hợp và quản lý cũng có thể ảnh hưởng
tiêu cực đến lợi nhuận của công ty. Mặc dù
chuyển đổi số đi kèm với các chi phí không
thể tránh khỏi nhưng mức độ chuyển đổi số
càng cao thì “sức mạnh tổng hợp” giữa các
doanh nghiệp thực hiện chuyển đổi số càng
lớn (Varian, 2018), từ đó làm tăng thêm
các lợi ích biên mà quá trình chuyển đổi số
mang lại (Guo & Xu, 2021). Từ những lập
luận này, lợi ích từ quá trình chuyển đổi số
có thể vượt trội hơn so với chi phí từ quá
trình này, do đó, nhóm tác giả đề xuất giả
thuyết nghiên cứu sau:
Chuyển đổi số tác động tích cực đến kết
quả tài chính của SME trong ngành chế
biến, chế tạo.
3. Phương pháp nghiên cứu

Tác động của chuyển đổi số đến kết quả tài chính của các doanh nghiệp vừa và nhỏ:
Bằng chứng thực nghiệm từ ngành công nghiệp chế biến, chế tạo của Việt Nam
94
CÔNG NGHỆ VÀ KINH TẾ SỐ
Tạp chí Kinh tế - Luật và Ngân hàng- Năm thứ 27(11)- Tháng 10. 2025- Số 283
Dữ liệu
Bài viết sử dụng dữ liệu thứ cấp từ điều tra
doanh nghiệp năm 2023 do Tổng cục Thống
kê thực hiện. Mẫu nghiên cứu gồm các SME
trong ngành công nghiệp chế biến, chế tạo,
được lựa chọn dựa trên các tiêu chí xác định
doanh nghiệp nhỏ và vừa theo quy định tại
Điều 5 Nghị định 80/2021/NĐ-CP ngày
26/8/2021 của Chính phủ quy định chi tiết
và hướng dẫn thi hành một số điều của luật
hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa. Sau khi
loại những quan sát không đáp ứng tiêu chí,
mẫu nghiên cứu còn lại gồm 34.992 quan
sát, tương ứng với 34.992 SME trên toàn
quốc. Cỡ mẫu của nghiên cứu tương đối lớn,
trên phạm vi lãnh thổ cả nước, mang tính đại
diện cho các SME ngành công nghiệp chế
biến, chế tạo. Các doanh nghiệp trong mẫu
hoạt động trong một ngành giúp nghiên cứu
có thể thực hiện phân tích sâu cho ngành,
đồng thời đưa ra những đánh giá tổng quan
về kết quả tài chính của các SME của ngành
tại Việt Nam.
Mô hình nghiên cứu thực chứng
Nghiên cứu sử dụng mô hình hồi quy tiêu
chuẩn, hồi quy tuyến tính đa biến bằng
phương pháp bình phương nhỏ nhất và hồi
quy phân vị để định lượng mối tương quan
giữa chuyển đổi số và kết quả tài chính của
các SME ngành công nghiệp chế biến, chế
tạo. Mô hình nghiên cứu đề xuất như sau:
ROAit (ROEit) = β0+ β1CDSit + β2CVsit + γt
+ εit
Trong đó: ROAit là tỷ suất lợi nhuận trên
tài sản của doanh nghiệp i tại thời điểm
t; ROEit là tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ
sở hữu của doanh nghiệp i tại thời điểm t;
CDSit là biến độc lập, biểu thị tình trạng
chuyển đổi số của doanh nghiệp i tại thời
điểm t; CVsit là tập hợp các biến kiểm soát
liên quan đến doanh nghiệp i tại thời điểm
t; γt là hệ số cố định theo năm; εit là sai số
ngẫu nhiên.
Biến số
Biến phụ thuộc
Kết quả tài chính (financial performance)
được thể hiện bằng khả năng sinh lời tổng
thể của một công ty (Guo & Xu, 2021).
Các chỉ số dựa trên khả năng sinh lời là một
lựa chọn phổ biến để đo lường kết quả tài
chính của công ty và thường được sử dụng
trong nghiên cứu về tác động của chuyển
đổi số đến kết quả hoạt động của doanh
nghiệp. Bài viết này lựa chọn tỷ suất lợi
nhuận trên tổng tài sản (ROA) và tỷ suất lợi
nhuận trên vốn chủ sở hữu (ROE) làm biến
đại diện cho kết quả tài chính.
Biến độc lập
Như đã giải thích ở trên, công nghệ số và
kết cấu hạ tầng CNTT phù hợp để triển
khai công nghệ đó sẽ là yếu tố cốt lõi để
nhóm tác giả đo lường chuyển đổi số trong
nghiên cứu này. Trong phiếu điều tra, các
câu hỏi về “Doanh nghiệp có hoạt động
về lĩnh vực số, CNTT, đổi mới công nghệ
hoặc đầu tư cơ bản trong năm không” được
nhóm tác giả đánh giá là phù hợp để đại
diện cho các yếu tố cốt lõi của chuyển đổi
số. Vậy nên, biến chuyển đổi số được lựa
chọn là biến nhị phân, nhận giá trị: 1 nếu
doanh nghiệp có ít nhất một trong bốn hoạt
động gồm: lĩnh vực số, CNTT, đổi mới
công nghệ hoặc đầu tư cơ bản; 0 nếu không
thực hiện cả bốn hoạt động trên.
Biến kiểm soát
Kết quả tài chính của doanh nghiệp bị ảnh
hưởng bởi nhiều yếu tố. Các yếu tố như
quy mô, loại hình doanh nghiệp, cường độ
vốn, tỷ lệ tăng trưởng tổng tài sản, hệ số
chi phí, năng suất lao động, tỷ lệ nợ thường
được đưa vào mô hình làm biến kiểm soát.
Mặc dù tác động của quy mô và loại hình
doanh nghiệp đến kết quả tài chính của
doanh nghiệp còn gây tranh cãi, nhưng từ

