Mã số: …………….
TÁC ĐỘNG TÀI KHÓA CỦA CHÍNH SÁCH
CỔ PHẦN HÓA LÊN NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC:
MINH CHỨNG Ở VIỆT NAM
Công trình nghiên cứu:
TÁC ĐỘNG TÀI KHÓA CỦA CHÍNH SÁCH CỔ PHẦN HÓA LÊN
NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC: MINH CHỨNG Ở VIỆT NAM
Tóm lược
Bài nghiên cứu này kiểm định mối tương quan giữa chính sách cổ phần hóa của chính
phủ và ngân sách nhà nước mà đặc biệt là doanh thu thuế ở Việt Nam. Đây là công trình
nghiên cứu đầu tiên được thực hiện ở Việt Nam, tập trung vào nghiên cứu tác động tài
khóa của cổ phần hóa đến ngân sách nhà nước, ảnh hưởng của chúng đến tổng doanh thu
thuế ở Việt Nam. Vậy giữa chúng sẽ tồn tại mối quan hệ như thế nào, tăng trưởng hay
suy giảm ngân sách nhà nước liệu có phải là kết quả của cổ phần hóa? Sử dụng mô hình
ARCH/GARCH và VECM, đồng thời tiến hành phân tích định lượng chuỗi số liệu từ quý
4 năm 1995 đến quý 4 năm 2013, chúng tôi kết luận tồn tại một mối tương quan âm
không đáng kể giữa cổ phần hóa và ngân sách nhà nước mà đặc biệt là doanh thu thuế ở
Việt Nam. Điều này được giải thích bởi phần lớn là chính sách miễn giảm và ưu đãi thuế
của Chính phủ Việt Nam áp dụng đối với các doanh nghiệp được cổ phần hóa.
Từ khóa: cổ phần hóa, doanh nghiệp nhà nước, ngân sách nhà nước, tổng doanh thu thuế.
MỤC LỤC
1. TỔNG QUAN NỘI DUNG NGHIÊN CỨU .................................................... 1
1.1. Nội dung nghiên cứu ............................................................................................. 1
1.2. Câu hỏi nghiên cứu ................................................................................................ 2
1.3. Cấu trúc bài nghiên cứu ......................................................................................... 3
2. NỘI DUNG CÁC NGHIÊN CỨU TRƯỚC ĐÂY .......................................... 4
2.1. Lý thuyết nền tảng về cổ phần hóa ......................................................................... 4
2.1.1. Khái niệm cổ phần hóa .................................................................................... 4
2.1.2. Vài nét về cổ phần hóa ở Việt Nam. ................................................................ 5
2.1.3. Các hình thức cổ phần hoá............................................................................... 8
2.1.4. Mục tiêu cổ phần hóa ...................................................................................... 9
2.1.5. Tác động của cổ phần hóa ở các quốc gia có nền kinh tế đang phát triển ....... 11
2.1.5.1. Tác động tài khóa ................................................................................ 11
2.1.5.2. Tác động đến các biến số vĩ mô ........................................................... 13
2.2. Những vấn đề lý luận về thuế .............................................................................. 17
2.2.1. Khái niệm và chức năng ................................................................................ 17
2.2.2. Chính sách thuế ở các nền kinh tế đang phát triển ......................................... 19
2.2.3. Vai trò của doanh thu thuế trong nền kinh tế đang phát triển ......................... 21
2.3. Mối quan hệ giữa cổ phần hóa và doanh thu thuế ở các quốc gia đang phát triển . 24
3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ..................................................................30
3.1. Các mô hình nghiên cứu: ..................................................................................... 30
3.2. Lý thuyết mô hình ARCH/GARCH ..................................................................... 31
3.3. Lý thuyết mô hình VECM: .................................................................................. 32
3.4. Dữ liệu nghiên cứu và phân tích các biến............................................................. 34
3.4.1. Phân tích các biến ảnh hưởng trong mô hình ................................................. 34
3.4.2. Phân tích biến chính ...................................................................................... 37
4. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU .............................................................................41
4.1. Mô hình ARCH/GARCH..................................................................................... 41
4.1.1. Kiểm định tính dừng ...................................................................................... 41
4.1.2. Tiến trình ước lượng mô hình ARCH/GARCH.............................................. 42
4.2. Mô hình VECM: .................................................................................................. 45
4.2.1. Lựa chọn độ trễ tối ưu cho mô hình VECM: .................................................. 45
4.2.2. Ước lượng mô hình VECM cho 10 biến ........................................................ 46
4.2.3. Mô hình VECM cho hai biến thuế và cổ phần hóa: ........................................ 47
4.3. Giải thích kết quả mô hình thực nghiệm tại Việt Nam: ........................................ 48
5. KẾT LUẬN .....................................................................................................52
PHỤ LỤC HÌNH .................................................................................................54
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................61
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
SOE : State Owner Enterprise (Doanh nghiệp nhà nước)
SIP : Share issue privatization (Phát hành cổ phiếu cổ phần hóa)
OECD : Oganization for Economic Co-operation and Development (Tổ chức hợp tác
& phát triển kinh tế)
ARCH : Autoregressive Conditional Heterokadasticity (Mô hình phương sai có điều
kiện thay đổi tự hồi quy)
GARCH : Generalised Autoregressive Conditional Heteroskedasticity (mô hình
phương sai có điều kiện thay đổi tự hồi quy tổng quát).
VAR : Vector autoregression (Mô hình tự hồi quy vector var)
VECM : Vector error correction model (Mô hình Vector hiệu chỉnh sai số VECM)
IMF : International Monetary Fund (Quỹ tiền tệ quốc tế)
GDP : Gross Domestic Product (Tổng sản phẩm nội địa)
WTO : World Trade Organization (Tổ chức Thương Mại Thế Giới)
DANH MỤC BẢNG
Bảng 2.1: Tóm tắt các nghiên cứu thực nghiệm gần đây về tác động tài khóa và vĩ mô của
cổ phần hóa. .................................................................................................................. 14
Bảng 2.2: Đánh giá cải cách chính sách thuế ở những quốc gia đang phát triển ............. 21
Bảng 2.3: Ngân sách nhà nước qua các năm .................................................................. 23
Bảng 3.1: Nguồn dữ liệu thu thập số liệu ....................................................................... 36
Bảng 4.1: Kết quả kiểm định tính dừng.......................................................................... 41
Bảng 4.2: Kết quả kiểm định hiệu ứng ARCH ............................................................... 43
Bảng 4.3: Kết quả hệ số mô hình GARCH ..................................................................... 44
DANH MỤC BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 2.1: Doanh thu thuế khu vực khai thác mỏ ở Zambia ........................................ 26
Biểu đồ 2.2: Số tiền thu được từ cổ phần hóa giai đoạn 1995-2013 ................................ 37
Biểu đồ 2.3: Doanh thu thuế Việt Nam giai đoạn 1995-2013 ......................................... 39
Biểu đồ 2.4: Số lượng doanh nghiệp cổ phần hóa 1990 - 2013 ....................................... 49
Biểu đồ 2.5: Phần trăm doanh thu thuế so với GDP giai đoạn 1995-2013 ...................... 49
Trang 1
1. TỔNG QUAN NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
1.1. Nội dung nghiên cứu
Trong hai năm cuối cùng của nhiệm kỳ khóa 13, Chính phủ dốc sức cho cuộc chạy
đua có tính lịch sử, mang tên “cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước” với mục tiêu đề ra
trong hai năm 2014 và 2015, bình quân mỗi năm cổ phần hóa 216 doanh nghiệp. Từ năm
2001, khi nền kinh tế đất nước đi vào chiều sâu của công cuộc đổi mới, vấn đề cổ phần
hóa doanh nghiệp nhà nước luôn được Đảng và Nhà nước quan tâm, tại Đại hội đại biểu
Đảng toàn quốc lần thứ X năm 2006 đã khẳng định: “Đẩy mạnh việc sắp xếp, đổi mới và
nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước, trọng tâm là cổ phần hóa”. Theo số liệu tại
Hội nghị, đến hết năm 2007 tổng số doanh nghiệp cổ phần hóa là 3.756 doanh nghiệp.Có
thể thấy, cổ phần hóa hay nói cách khác là tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước đang được
các bộ, ngành, địa phương và doanh nghiệp ráo riết thực hiện nhằm tạo ra những chuyển
biến mạnh mẽ và hiệu quả cho nền kinh tế.
Gần hai thập kỷ qua, cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước đã gần như quét qua
toàn thế giới, hàng ngàn doanh nghiệp nhà nước từ Châu Phi, Châu Á, Châu Mỹ latinh
cùng Đông Âu và Tâu Âu đều tiến hành cổ phần hóa .Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà
nước có thể hiểu như là một biện pháp chuyển đổi hình thức sở hữu trong doanh nghiệp
từ sở hữu nhà nước sang sở hữu của các cổ đông (trong đó nhà nước có thể tham gia với
tư cách cổ đông hoặc không tham gia). Về bản chất, đây là phương thức xã hội hóa đồng
vốn thuộc sở hữu nhà nước, chuyển từ doanh nghiệp một chủ sở hữu sang đa sở hữu, tạo
nên mô hình doanh nghiệp hoạt động phù hợp với nền kinh tế thị trường. Sự phát triển
mạnh mẽ của lực lượng sản xuất và trình độ xã hội hóa sản xuất dẫn đến sự tập trung lớn
về vốn xã hội mà không một cá nhân nào có thể đáp ứng được. Chính vì vậy, cổ phần hóa
doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam hiện nay vừa là đòi hỏi khách quan, vừa là điều kiện
quan trọng để thúc đẩy phát triển kinh tế đất nước. Tầm quan trọng của cổ phần hóa đã
được phân tích bởi nhiều nhà kinh tế học khác nhau. Các quốc gia như Trung Quốc hay
Việt Nam, bằng việc áp dụng mô hình kinh tế theo các nước Liên Xô cũ và Đông Âu
Trang 2
khiến quy mô doanh nghiệp nhà nước luôn chiếm đến 80-90% tổng tài sản quốc gia. Kinh
nghiệm từ quá trình cổ phần hóa ở Việt Nam đã chứng minh rằng việc chuyển doanh
nghiệp 100% vốn nhà nước sang hình thức công ty cổ phần không những giúp nhà nước
bảo tồn nguồn vốn của mình mà còn tăng đáng kể tỷ suất lợi nhuận trên nguồn vốn trước
đây. Nhờ đó hoạt động của doanh nghiệp sau khi thực hiện cổ phần hóa nhạy bén, năng
động và tự chủ hơn trước khiến các khoản đóng góp vào ngân sách nhà nước cũng tăng
lên.
Cổ phần hóa tác động rất nhiều đến nền kinh tế của các quốc gia, đặc biệt là các
quốc gia đang phát triển như tác động ổn định tài chính (thâm hụt ngân sách, nợ công,
doanh thu thuế,…) và gián tiếp ảnh hưởng lên các biến số vĩ mô như tăng trưởng kinh tế,
tỷ lệ thất nghiệp. Trong đó vai trò quan trọng nhất của cổ phần hóa là tác động tài khóa
của chúng đến ngân sách quốc gia mà đặc biệt là doanh thu thuế của chính phủ. Vậy giữa
cổ phần hóa và doanh thu thuế - ngân sách quốc gia tồn tại mối quan hệ như thế nào?
Chúng tôi quyết định thực hiện công trình nghiên cứu với đề tài “Tác động tài
khóa của chính sách cổ phần hóa lên ngân sách nhà nước: Minh chứng ở Việt Nam”. Có
rất nhiều bài nghiên cứu về vấn đề cổ phần hóa ở các quốc gia. Nhìn chung, bài nghiên
cứu của chúng tôi sẽ theo cách tiếp cận của Ernesto Crivelli (2013), sử dụng các biến vĩ
mô để ước lượng mức độ và tầm ảnh hưởng của cổ phần hóa vào ngân sách quốc gia mà
đặc biệt là doanh thu thuế. Chúng tôi sử dụng số liệu theo quý từ giai đoạn năm 1995 đến
năm 2013 để đi sâu vào phân tích tác động tài khóa của cổ phần hóa thông qua việc sử
dụng mô hình ARCH/GARCH và VECM để ước lượng mức độ ảnh hưởng tại Việt Nam.
1.2. Câu hỏi nghiên cứu
Bài nghiên cứu của chúng tôi tập trung vào một câu hỏi nghiên cứu duy nhất: “Có
mối quan hệ tồn tại giữa cổ phần hóa và ngân sách nhà nước mà đặc biệt là doanh thu
thuế trong nền kinh tế Việt Nam hay không?”
Trang 3
1.3. Cấu trúc bài nghiên cứu
Bài nghiên cứu của chúng tôi gồm có 5 phần. Phần tiếp theo, chúng tôi sẽ khái
quát thuyết cổ phần hóa, một số vấn đề lý luận về thuế và kết quả một số nghiên cứu mối
tương quan giữa cổ phần hóa và doanh thu thuế tại các quốc gia đang phát triển. Phần 3
của bài, nhóm nghiên cứu sẽ đi sâu hơn về phương pháp, mô hình và cách lựa chọn số
liệu nghiên cứu. Phần 4 trình bày kết quả nghiên cứu và những nhận định thực tiễn tại thị
trường Việt nam. Cuối cùng là phần kết luận.
Trang 4
2. NỘI DUNG CÁC NGHIÊN CỨU TRƯỚC ĐÂY
2.1. Lý thuyết nền tảng về cổ phần hóa
2.1.1. Khái niệm cổ phần hóa
Thuật ngữ cổ phần hóa xuất hiện ở Việt Nam cuối những năm 1980 đầu những
năm 1990, gắn với công cuộc cải cách doanh nghiệp nhà nước. Cho đến nay, dường như
mọi người mặc nhiên sử dụng thuật ngữ cổ phần hóa, mà chưa quan tâm nhiều tới việc
định nghĩa hay đưa ra một khái niệm đầy đủ cho thuật ngữ này. Đa số mọi người thường
nhầm lẫn thuật ngữ cổ phần hóa và tư hữu hóa, về bản chất hai thuật ngữ này hoàn toàn
khác nhau.
Theo định nghĩa của Liên hợp quốc về tư hữu hóa: “Tư hữu hoá là quá trình biến
đổi mối tương quan giữa Nhà nước và thị trường trong đời sống kinh tế của một nước
theo hướng ưu tiên thị trường". Theo đó, toàn bộ chính sách, luật lệ và thể chế nhằm
khuyến khích mở rộng và phát triển khu vực kinh tế tư nhân, giảm bớt sự can thiệp trực
tiếp của Nhà nước vào hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp, giành cho thị trường
vai trò điều tiết ngày càng lớn.
Trong khi đó ở Việt Nam, việc cổ phần hóa chỉ mang tính chất là một phương
thức cơ cấu lại các doanh nghiệp nhà nước thiếu hiệu quả, làm các doanh nghiệp nhà
nước này có nhiều chủ sở hữu, tăng tiềm lực tài chính, vốn và tài sản của nhà nước được
sử dụng hiệu quả hơn và thu hút thêm vốn của xã hội vào phát triển sản xuất, kinh doanh,
tạo thêm động lực và cơ chế quản lý mới, nâng cao hiệu quả hoạt động doanh nghiệp.
Chủ trương của cổ phần hóa một số doanh nghiệp nhà nước là xuất phát từ đường lối
kinh tế và đặc điểm kinh tế - xã hội trong giai đoạn chuyển từ cơ chế kế hoạch hóa tập
trung sang phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường
có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Trang 5
2.1.2. Vài nét về cổ phần hóa ở Việt Nam.
Năm 1992, Việt Nam bắt đầu thực hiện thí điểm cổ phần hóa. Có thể nói cổ phần
hóa đã và đang là một trong những vấn đề chính trong tranh luận về chính sách ở Việt
Nam trong thập kỷ vừa qua, nhưng dường như thái độ của chính phủ về vấn đề này vẫn
còn mâu thuẫn. Một mặt, cổ phần hóa được nhấn mạnh trong báo chí và các báo cáo về
chính sách. Mặc khác, tiến độ cổ phần hóa ở Việt Nam vẫn còn tương đối khiếm tốn và
cho tới thời điểm này doanh nghiệp nhà nước vẫn tiếp tục chiếm lĩnh vị trí trọng yếu
trong nền kinh tế Việt Nam.
Theo tác giả Fredrik Sjoholm (2006), cổ phần hóa ở Việt Nam được nhận thấy chủ
yếu nhằm vào các doanh nghiệp nhỏ nhưng không hướng đến các doanh nghiệp lớn, và
nó không giải quyết vấn đề về hiệu quả hoạt động ở các doanh nghiệp nhà nước bởi vì
nhà nước vẫn gần như kiểm soát một một phần lớn cổ phần ở các doanh nghiệp đã được
cổ phần hóa. Thực tế đã cho thấy sau 22 năm tiến hành cổ phần hóa, các doanh nghiệp
nhà nước được cổ phần chủ yếu là các doanh nghiệp nhỏ và việc huy động vốn ngoài xã
hội trong quá trình cổ phần hoá còn gặp nhiều hạn chế do chưa khuyến khích việc bán cổ
phần ra bên ngoài. Chưa có doanh nghiệp nào tính giá trị quyền sử dụng đất vào giá trị
doanh nghiệp khi cổ phần hoá. Thời gian thực hiện cổ phần hoá một doanh nghiệp còn
dài, tiến độ cổ phần hoá chậm, đặc biệt là trong giai đoạn năm 2011 - 2012, số doanh
nghiệp cổ phần hóa chỉ ở con số 60 và 13. Bên cạnh đó số lượng doanh nghiệp thực hiện
sắp xếp cổ phần hóa không thuộc diện nhà nước cần chi phối có tỷ lệ nắm giữ cổ phần
của Nhà nước tại các doanh nghiệp trên 51% vốn điều lệ còn rất nhiều, đặc biệt là tại các
tập đoàn, tổng công ty hoạt động theo mô hình công ty mẹ, công ty con. Nhiều ngành
nghề Việt Nam cho là nhạy cảm, như các ngành như dệt may, xi măng, mặc dù trên thế
giới lại không được coi là những ngành chiến lược nhạy cảm, không có nắm giữ bí mật
về khoa học công nghệ, an ninh quốc phòng thì việc Nhà nước nắm giữ 51% vốn điều lệ
trở lên là không cần thiết.
Do đó, không ngạc nhiên khi thấy rằng cổ phiếu các doanh nghiệp nhà nước được
cổ phần hóa thuộc lĩnh vực công nghiệp vẫn còn nhỏ và thị phần của khu vực nhà nước
Trang 6
trong nền kinh tế vẫn tiếp tục duy trì ổn định trong suốt những năm qua. Điều này có vẻ
như không gây tổn hại nghiêm trọng đến sự tăng trưởng nền kinh tế của Việt nam trong
ngắn hạn. Trong những năm qua, Việt Nam đã thể hiện một mức tăng trưởng kinh tế rất
cao mặc dù theo đuổi một chính sách kinh tế không chính thống (Van Arkadie và Mallon,
2003). Trong dài hạn, chính sách kinh tế chủ trương doanh nghiệp nhà nước chiếm đa số
có thể sẽ không mang lại một mức tăng trưởng kinh tế đều đặn được. Không một quốc
gia nào trở nên giàu có bằng cách chỉ dựa vào các doanh nghiệp nhà nước.
So với các nền kinh tế đang phát triển khác, chương trình cổ phần hóa ở Việt Nam
được đặc trưng bởi sự “cẩn trọng”. Điều này một phần là do chính phủ Việt Nam chần
chừ trong việc cổ phần hóa. Chính xác hơn, chương trình cổ phần hóa ở Việt Nam mang
đầy tính mâu thuẫn và thiếu tính cam kết, dứt khoát. Hơn nữa, chiến lược phát triển
dường như thiếu sự gắn kết: Một mặt nhà nước cho rằng doanh nghiệp tư nhân là một
động lực để tăng trưởng và phát triển nhưng mặt khác lại cho rằng doanh nghiệp nhà
nước sẽ tiếp tục đóng vai trò chủ đạo trong nền kinh tế (CPV, 2000).
Tuy nhiên, theo đuổi một lượng cổ phần hóa nhỏ có thể tạo cơ hội cho Việt Nam
tiếp cận một phương pháp cổ phần hóa các doanh nghiệp SOEs tương đối an toàn và
hiệu quả. Bởi vì:
Đầu tiên, điều kiện kinh tế và ổn định tăng trưởng tốt tại Việt Nam cung cấp cho
chính phủ cơ hội để thực hiện việc cổ phần hóa từ từ chứ không cần phải theo đuổi một
chiến lược cổ phần hóa bùng nổ.
Thứ hai, Việt Nam cũng có lợi khi là một trong những nền kinh tế tham gia cổ
phần hóa trễ, nên có thể học tập và rút kinh nghiệp từ những quốc gia đi trước. Cổ phần
hóa trước đó đã được phổ biến rộng rãi ở nhiều quốc gia trên thế giới, nên sẽ có nhiều
điều để Việt Nam có thể học hỏi được. Đặc biệt, cổ phần hóa rất phổ biến trong các nền
kinh tế đang phát triển với thu nhập thấp. Cụ thể ở những quốc gia này, thị phần của các
doanh nghiệp nhà nước đã giảm dần từ 15% vào cuối 1980 đến dưới 5% cho đến thời
điểm này (Megginson và Netter, 2001).
Cuối cùng, Việt Nam có thể học hỏi từ những nỗ lực “cổ phần hóa từng bước” của
riêng mình trong các cải cách doanh nghiệp nhà nước và cổ phần hóa: Việt Nam đã bắt
Trang 7
đầu chương trình cổ phần hóa vào năm 1992, và các chương trình cổ phần hóa mới đã
được đưa ra trong những năm gầy đây. Hơn nữa, với những phương pháp cổ phần hóa
khác đã được thử nghiệm gần đây ở Việt Nam, điều đó có nghĩa là Việt Nam có thể so
sánh kết quả của các chiến lược cổ phần hóa khác nhau mang lại. Do đó thay vì cố tìm
những phương pháp cổ phần hóa mới, Việt Nam có thể sử dụng các chiến lược đã được
chứng minh là hữu ích trong quá khứ của mình cũng như ở các quốc gia khác.
Vậy liệu có cần thiết phải tiến hành cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước?
Cần phải nói rằng, vấn đề doanh nghiệp nhà nước luôn là vấn đề “nóng”. Những
năm gần đây, nhiều doanh nghiệp Nhà nước hiệu quả đầu tư thấp, sản phẩm đầu tư có
khả năng cạnh tranh không cao, chưa đáp ứng được yêu cầu của thị trường. Các doanh
nghiệp nhà nước ở lĩnh vực dệt, may, giấy, đường, …phải sử dụng vốn vay ngắn hạn với
lãi suất cao, trang thiết bị lạc hậu, trình độ năng lực quản lý hạn chế, dẫn đến kinh doanh
thua lỗ không trả được nợ, mất vốn. Nhiều lĩnh vực quan trọng do doanh nghiệp nhà
nước giữ thị phần lớn nhưng chưa đáp ứng được yêu cầu của nền kinh tế như thiếu điện,
tham gia điều tiết thị trường chưa hiệu quả. Tính chung tỉ suất lợi nhuận trên vốn của các
tập đoàn, tổng công ty Nhà nước năm 2010 chỉ đạt 16,5%, tương đương chi phí vay vốn
trung bình của các ngân hàng trong cùng thời kỳ. Nhưng trong số lợi nhuận đó có đến
80% tập trung ở một số ít tập đoàn như: Dầu khí Quốc gia, Viễn thông Quân đội, Than
Khoáng sản, Bưu chính Viễn thông, Công nghiệp Cao su; còn đại bộ phận doanh nghiệp
nhà nước khác đều bị thua lỗ.
Theo báo cáo của các Bộ, ngành, địa phương về kết quả hoạt động của 850 doanh
nghiệp được cổ phần hoá đã hoạt động trên một năm cho thấy: vốn điều lệ bình quân tăng
44%; doanh thu bình quân tăng 23,6%; lợi nhuận thực hiện bình quân tăng 139,76%; trên
90% số doanh nghiệp sau cổ phần hoạt động kinh doanh có lãi; nộp ngân sách bình quân
tăng 24,9%; thu nhập của người lao động bình quân tăng 12%.
Theo căn cứ trên, có thể thấy cổ phần hoá là giải pháp quan trọng trong cơ cấu lại
doanh nghiệp nhà nước và làm cho các doanh nghiệp nhà nước có nhiều chủ sở hữu, vốn
và tài sản của nhà nước được sử dụng có hiệu quả hơn. Bên cạnh đó, cổ phần hoá tạo cơ
Trang 8
sở thúc đẩy hình thành và phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam. Doanh nghiệp nhà
nước cổ phần hoá hoạt động theo cơ chế thị trường, tự chủ, tự chịu trách nhiệm trước
pháp luật và trước cổ đông về hoạt động và kết quả kinh doanh. Đặc biệt, cổ phần hoá tạo
điều kiện pháp lý và vật chất để người lao động nâng cao vai trò làm chủ trong doanh
nghiệp. Vì vậy có thể nói, cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước đang là một giải pháp
cấp bách hiện nay
2.1.3. Các hình thức cổ phần hoá
Như ta đã biết, đặc điểm cơ bản của công ty cổ phần là vốn chủ sở hữu do nhiều
cổ đông nắm giữ, đồng sở hữu thông qua việc sở hữu các cổ phiếu của doanh nghiệp. Do
vậy, quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước nhất thiết phải chào bán cổ phiếu
chứng nhận quyền sở hữu doanh nghiệp cho các cổ đông.
Chính phủ Việt Nam phân lọai tất cả các doanh nghiệp nhà nước (SOEs) ra thành
3 nhóm dựa vào mức độ quan trọng riêng của mỗi doanh nghiệp. Nhóm 1 bao gồm các
SOEs quan trọng chiến lược và do đó các doanh nghiệp này được đặt hoàn toàn dưới
quyền kiểm soát và sở hữu của nhà nước. Nhóm 2 bao gồm các SOEs mà chính phủ
muốn giữ quyền biểu quyết, kiểm soát nếu chúng được cổ phần hóa. Và nhóm 3 bao gồm
các SOE còn lại, các SOE này có thể bị cổ phần hóa theo một trong bốn phương pháp
như sau:
Phương án 1: Giữ nguyên giá trị thuộc vốn Nhà nước hiện có tại Doanh nghiệp,
phát hành cổ phiếu thu hút thêm vốn để phát triển doanh nghiệp.
Phương án 2: Bán 1 phần giá trị thuộc vốn nhà nước hiện có tại doanh nghiệp
Phương án 3: Tách và sau đó cổ phần hóa các phần của một doanh nghiệp nhà
nước (chủ yếu là áp dụng cho các tổng công ty nhà nước).
Phương án 4: Bán toàn bộ các cổ phần nhà nước cho người lao động và các cổ
đông tư nhân (chủ yếu là áp dụng cho doanh nghiệp nhà nước làm ăn thua lỗ).
Trang 9
2.1.4. Mục tiêu cổ phần hóa
Có thể nói cổ phần hóa làm tăng tính hiệu quả kinh tế bởi vì các doanh nghiệp cổ
phần, doanh nghiệp tư nhân thì tối thiểu hóa chi phí hiệu quả hơn và tối đa hóa lợi nhuận
tốt hơn, trong khi các doanh nghiệp sở hữu công thường phải đối mặt với những hạn chế
do việc thắt chặt ngân sách yếu kém và họ chỉ chú trọng vào các mục tiêu khác hơn là cắt
giảm chi phí, chẳng hạn như đảm bảo các mục tiêu về thực hiện các chính sách an sinh xã
hội của một doanh nghiệp Nhà nước.
Một số chính phủ cố gắng cải thiện tình hình tài khóa bằng cổ phần hóa. Điều này
phổ biến ở những quốc gia mà chính phủ của họ không muốn hoặc không có khả năng tự
trợ cấp cho các thâm hụt gây ra bởi các doanh nghiệp Nhà nước (Davis và các cộng sự
2000). Khi tiến hành cổ phần hóa, nghĩa là chính phủ đã quyết định rút ra khỏi sự tham
gia điều hành trực tiếp trong hoạt động kinh doanh và do đó gạt bỏ hầu hết quyền lợi,
nghĩa vụ của mình cho các doanh nghiệp Nhà nước này có hoạt động thua lỗ hay mang
lại lợi nhuận. Lúc này các doanh nghiệp Nhà nước sẽ sẵn sàng tiếp nhận dòng vốn góp từ
các nhà đầu tư trong và ngoài nước, và đồng thời phải đối mặt với việc các nhà đầu tư
này có thể áp dụng các biện pháp tước bỏ hoặc thanh lý khi cần thiết. Điều này tạo áp lực
cho các doanh nghiệp này hoạt động hiệu quả hơn, đồng thời giúp cải thiện ngân sách
trong các tổ chức công, phân phối lại thu nhập, nâng cao hiệu quả kinh tế, phát triển thị
trường chứng khoáng và đạt được các ảnh hưởng về mặt chính trị.
Kết quả nghiên cứu của Perihan và Ozlem (2007) cho thấy những mục tiêu chính
thường theo đuổi các chương trình cổ phần hóa thường là:
Đạt được lợi nhuận trong hiệu quả kinh tế, do doanh nghiệp Nhà nước thường tụt
hậu phía sau về hiệu suất kinh tế, trong khi những nỗ lực để cải cách của các
doanh nghiệp như vậy thường đạt được thành công hạn chế. Khi được sở hữu bởi
nhiều chủ sở hữu, họ có xu hướng hoạt động để tạo ra lợi nhuận là chủ yếu và cố
gắng để cải thiện hiệu suất.
Tài trợ thâm hụt ngân sách với số tiền thu được từ cổ phần hóa trong trường hợp
chính phủ phải đối mặt với khó khăn thanh khoản nghiêm trọng.
Trang 10
Giảm bớt gánh nặng của các doanh nghiệp Nhà nước vào ngân sách của chính
phủ. Mở rộng vai trò của khu vực tư nhân trong nền kinh tế, cho phép Chính phủ
tập trung nguồn lực đóng góp bởi quần chúng vào vai trò chính của Nhà nước đó
là cung cấp các dịch vụ công cơ bản, bao gồm y tế, giáo dục và cơ sở hạ tầng xã
hội.
Thúc đẩy thị trường vốn phát triển. Vì khi cổ phiếu của các doanh nghiệp Nhà
nước được cổ phần hóa phát hành trên thị trường nói chung, thị trường vốn trở nên
sôi động hơn do tăng số lượng cổ phiếu trên thị trường chứng khoán đồng thời
khuyến khích sự tham gia rộng rãi của người dân vào việc sở hữu và quản lý
doanh nghiệp.
Cổ phần hóa cũng hướng đến các cải cách thông qua thương mại hóa hoặc tái cơ
cấu hiệu suất của hầu hết các doanh nghiệp khu vực công, đảm bảo tính thanh
khoản của tất cả các doanh nghiệp Nhà nước không có khả năng chi trả sớm nhất
có thể.
Trong chừng mực phù hợp với các mục tiêu chính, cổ phần hóa phải đáp ứng các mục
tiêu thứ cấp sau đây:
Tạo ra một nền kinh tế định hướng thị trường
Nâng cao mức độ tiếp cận thị trường vốn nước ngoài và công nghệ. Ngược lại có
thể thúc đẩy sự phát triển của thị trường vốn và duy trì được tính độc lập.
Tuy nhiên, tiến trình thương mại hóa và tái cấu trúc được thiết kết sao cho đảm
bảo rằng các doanh nghiệp Nhà nước còn lại trong khu vực công đáp ứng được thị
trường, chi phí hợp lý và có xu hướng sinh lợi. Hành động như những thực thế
kinh doanh khác mà không cần phải thực hiện các hoạt động phi thương mại trừ
khi nhận được bồi thường rõ ràng từ chính phủ. Không can thiệp vào chính trị
trong hoạt động của mình bao gồm cả các ngân hàng; nhận được sự hướng dẫn của
các cơ quan giám sát để có thể phù hợp tối thiểu với việc đuổi lợi ích của người
tiêu dùng. Có hội đồng và ban giám đốc độc lập và có trách nhiệm; và có hệ thống
giám sát hoạt động hiệu quả.
Trang 11
2.1.5. Tác động của cổ phần hóa ở các quốc gia có nền kinh tế đang phát triển
2.1.5.1. Tác động tài khóa
Có rất nhiều bài nghiên cứu về tác động của cổ phần hóa ở các quốc gia đang phát
triển, nhìn chung bài nghiên cứu của chúng tôi sẽ theo cách tiếp cận của Yannis
Katsoulakos và Elissavet Likoyanni (2002). Tác giả cho rằng tác động về mặt tài chính
của cổ phần hóa được phản ánh không chỉ là số lượng tiền thu được từ cổ phần hóa và
việc sử dụng số tiền đó như thế nào mà còn là tác động của chúng đến dòng tài chính
trong ngân sách nhà nước, đặc biệt là doanh thu thuế. Lợi ích ròng mà chính phủ nhận
được từ cổ phần hóa là một quá trình đầu tư lâu dài. Nếu khu vực tư nhân dự kiến sẽ điều
hành doanh nghiệp hiệu quả hơn so với nhà nước thì lợi ích ròng của chính phủ nhận
được từ cổ phần hóa sẽ tăng lên, dẫn đến chính phủ sẽ sẵn lòng tiến hành cổ phần hóa và
có thể thu thuế hiệu quả hơn. Trong trường hợp này, cổ phần hóa sẽ mang đến một tác
động tích cực lâu dài về mặt tài chính công. Tuy nhiên, cũng không thể không xét đến
trường hợp chính phủ phải đối mặt với khó khăn về mặt thanh khoản nên có thể họ sẽ sẵn
lòng bán tài sản của mình ở một mức giá thấp hơn giá trị kinh tế của tài sản để tài trợ cho
chi tiêu của mình, lúc này cổ phần hóa chưa chắc sẽ mang lại một tác động tích cực lâu
dài về mặt tài chính mặc dù trước mắt chúng giúp chính phủ giải quyết được vấn đề thanh
khoản của mình.
Yannis và Ellisavet (2002) cho rằng số tiền thu được từ cổ phần hóa phản ánh tác
động của chúng lên các biến số vĩ mô cũng như lên lợi ích ròng của chính phủ. Mức độ
tác động tài chính được tài trợ bởi số tiền thu được từ cổ phần hóa phụ thuộc phần lớn
vào nguồn gốc của số tiền thu được (trong hay ngoài nước), mức độ lưu chuyển vốn và
cơ chế quản lý tỷ giá. Đặc biệt, nếu số tiền thu được từ cổ phần hóa có nguồn gốc trong
nước thì sẽ dẫn đến một sự gia tăng trong cầu tiền cho khu vực tư nhân để mua các tài sản
được cổ phần hóa, cũng như khi số tiền thu được đến từ nước ngoài chứng tỏ thị trường
tài chính trong nước hoạt động hiệu quả, tác động của chúng giống như việc chính phủ
vay nợ nước ngoài dẫn đến áp lực tăng giá thực của đồng tiền.
Trang 12
Một sự gia tăng trong thâm hụt ngân sách hoặc do chính phủ chi tiêu nhiều hơn
hoặc do chính phủ đánh thuế thấp hơn. Nếu thâm hụt này được bù đắp bởi số tiền cổ phần
hóa thu được thì sẽ có kết quả giống như chính sách tài chính mở rộng được tài trợ bởi sự
gia tăng nợ công (McKenzie, 1998), dẫn đến sự gia tăng cầu trong nước, ngoài ra còn ảnh
hưởng đến các biến số vĩ mô khác như lạm phát, tài khoản vãng lai bên ngoài. Những ảnh
hưởng này còn phụ thuộc vào tình trạng ban đầu của các biến số kinh tế vĩ mô cũng như
việc chính phủ gia tăng chi tiêu như thế nào trong nhập khẩu và hàng hóa dịch vụ trong
nước. Một số bài nghiên cứu được biên soạn dưới danh nghĩa của IMF (2000) để kiểm tra
xem liệu có phải số tiền thu được từ cổ phần hóa sau khi chuyển giao cho ngân sách nhà
nước sẽ được sử dụng để tài trợ cho các thâm hụt lớn hay được dùng để tài trợ cho các
nguồn tài chính khác. Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng số tiền thu được từ cổ phần hóa
không được sử dụng để tài trợ cho các thâm hụt lớn, bên cạnh đó nó cũng chỉ ra rằng tình
hình tài chính có xu hướng tốt hơn nếu cổ phần hóa xảy ra.
Các tài khoản tài chính có thể bị ảnh hưởng bởi cổ phần hóa theo nhiều cách: trực
tiếp, thông qua các ảnh hưởng của cổ phần hóa lên dòng tài chính ra vào của các doanh
nghiệp được cổ phần hóa và gián tiếp, thông qua các quyết định về việc sử dụng số tiền
từ cổ phần hóa như thế nào. Nếu các yếu tố khác không đổi, thuế thu được từ các doanh
nghiệp được cổ phần hóa phản ánh những thay đổi trong hiệu quả hoạt động. Ở cấp độ vĩ
mô, có bằng chứng cho thấy các doanh nghiệp sau khi được cổ phần hóa sẽ trả thuế nhiều
hơn so với các thời kỳ trước khi cổ phần hóa. Ở nhiều quốc gia, tổng ngân sách nhà nước
phân bổ cho khu vực các doanh nghiệp nhà nước có xu hướng giảm xuống sau khi cổ
phần hóa được tiến hành, trong khi đó số tiền thu được từ cổ phần hóa cũng được tìm
thấy là được sử dụng để giảm nợ.
Một trong những nghiên cứu được công bố đầu tiên kiểm tra tác động tài chính
của cổ phần hóa là Jeronimo, Pagan và Soydemir (2000). Tác giả sử dụng dữ liệu bảng số
tiền thu được từ cổ phần hóa qua các quốc gia và thâm hụt ngân sách ở các nước OECD
từ 1990-1997 để phân tích những vấn đề về thâm hụt ngân sách ở Tây Ban Nha, Bồ Đào
Nha, Ý, Hy Lạp trong những năm 1990 và những thay đổi khi cổ phần hóa đóng vai trò
như một công cụ tái cơ cấu kinh tế so với việc cổ phần hóa đóng vai trò như một công cụ
Trang 13
quy tụ tiền tệ Châu Âu. Tác giả đã dẫn chứng một mối quan hệ nghịch chiều giữa các số
tiền thu từ cổ phần hóa và thâm hụt trong bốn quốc gia này, nhưng điều này lại không
đúng cho các thành viên còn lại của EU. Đối với các nước miền Nam Châu Âu, cổ phần
hóa dường như được hưởng ứng nhiều hơn như một phương tiện để đáp ứng các tiêu
chuẩn quy tụ Maastricht hơn là một công cụ để chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
2.1.5.2. Tác động đến các biến số vĩ mô
Các tài liệu nghiên cứu vĩ mô ủng hộ mạnh mẽ rằng các doanh nghiệp tư nhân thì
hoạt động hiệu quả hơn các doanh nghiệp được điều hành bởi nhà nước. Kết quả này
cũng được hỗ trợ bởi một số nghiên cứu khác về thành quả hoạt động của các doanh
nghiệp ở các quốc gia phát triển và đang phát triển (Davis, 2000) cũng như trong các nền
kinh tế chuyển đổi (Havrylyshyn và McGettigan, 1999).
Aziz và Westcott (1997) và Salai-Martin (1997) nhận thấy rằng tốc độ tăng trưởng
kinh tế có xu hướng nhanh hơn trong các nền kinh tế có phần đóng góp của khu vực tư
nhân trong GDP cao hơn. Theo các bằng chứng thực nghiệm của Davis (2000), có một
mối quan hệ tích cực rõ ràng giữa cổ phần hóa và tốc độ tăng trưởng, điều này rõ nhất ở
các quốc gia có nền kinh tế đang phát triển. Một số nghiên cứu thực nghiệm cho rằng cổ
phần hóa không liên quan đến thất nghiệp ở quy mô lớn nhưng theo Davis (2000) cổ
phần hóa lại có ảnh hưởng đến tỷ lệ thất nghiệp hiện thời và trước đó. Bởi theo tác giả
các kết quả như thế này xuất phát từ kết hợp của nhiều chính sách khuyến khích tăng
trưởng và giảm thất nghiệp.
Trang 14
Bảng 2.1: Tóm tắt các nghiên cứu thực nghiệm gần đây về tác động tài khóa và
vĩ mô của cổ phần hóa.
Mô tả mẫu, thời gian Tóm tắt kết quả thực Nghiên cứu của tác giả nghiên cứu, và phương nghiệm và kết luận. pháp nghiên cứu
Đầu tiên kiểm tra tác động Kết quả chỉ ra rằng có một
tài chính của cổ phần hóa là mối quan hệ nghịch chiều
Jeronimo, Pagan và giữa các số tiền thu từ cổ
Soydemir (2000). Tác giả phần hóa và thâm hụt trong
sử dụng dữ liệu bảng số tiền bốn quốc gia này, nhưng
thu được từ cổ phần hóa qua điều này lại không đúng
các quốc gia và thâm hụt cho các thành viên còn lại
ngân sách ở các nước của EU. Đối với các nước
OECD từ 1990-1997 để miền Nam Châu Âu, cổ Jeronimo, Pagan, và phân tích những vấn đề về phần hóa dường như được Soydemir (2000). thâm hụt ngân sách ở Tây hưởng ứng nhiều hơn như
Ban Nha, Bồ Đào Nha, Ý, một phương tiện để đáp
Hy Lạp trong những năm ứng các tiêu chuẩn quy tụ
1990 và những thay đổi khi Maastricht hơn là một công
cổ phần hóa đóng vai trò cụ để chuyển dịch cơ cấu
như một công cụ tái cơ cấu kinh tế
kinh tế so với việc cổ phần
hóa đóng vai trò như một
công cụ quy tụ tiền tệ Châu
Âu.
Nghiên cứu tác động tài Kết luận rằng số tiền thu Macedo (2000) chính của các chương trình được từ chương trình cổ
cổ phần hóa ở Brazil. Các phần hóa cơ bản đã bị lãng
Trang 15
chương trình này đã huy phí. Các khoản thu được
động được hơn 71 tỷ USD bù đắp cho việc thắt chặt
thông qua việc bán 115 ngân sách lỏng lẻo và góp
doanh nghiệp từ 1991 đến phần làm chậm lại( nhưng
1998. Ông đặc biệt hướng không ngăn chặn) giảm giá
đến việc liệu số tiền thu thực tế. Thay vì sự sử dụng
được đã được sử dụng hợp số tiền thu được này để trả
lý chưa để cải thiện tình nợ, số tiền này chỉ kéo theo
hình tài chính các khoản nợ nợ công càng lúc càng
của chính phủ Brazil, hay nhiều và mở rộng hơn và
được dùng để giảm việc bất cuối cùng chính phủ đành
bình đẳng trong thu thập phải kết thúc chương trình
của người dân Brazil trong sự vỡ nợ, bất bình
đẳng gia tăng, bởi vì thực
tế chỉ có những người dân
với thu nhập ở mức cao
hoặc ở mức trung bình mới
mua được cổ phần của các
doanh nghiệp thoái vốn
Xem xét các tác động của Ghi nhận rằng số tiền thu
cổ phần hóa các SOE ở các được trên trung bình tương
nước đang phát triển. Họ đương với 1.75% GDP Davis, Ossowski, cũng xác định làm cách nào (2% đối với các quốc gia Richardson, và Barnett việc phát hành cổ phần hóa chuyển đổi) cho toàn bộ 18 (2000) được hoạch toán vào tài quốc gia trong giai đoạn cổ
khoản thu nhập quốc gia phần hóa được tiến hành.
cũng như đánh giá xem Họ cũng chứng minh được
trong thực tế số tiền thu rằng số tiền thuần thu được
Trang 16
được từ cổ phần hóa được đạt trên trung bình ít hơn
sử dụng như thế nào ở 8 nền một nữa số tiền thu được
kinh tế chuyển đổi và 10 từ phát hành cổ phần. Các
nền kinh tế không chuyển bằng chứng kinh tế chỉ ra
đổi từ đó đưa ra các trình cổ rằng doanh thu từ cổ phần
phần hóa khá lớn từ 1987- hóa đã được tiết kiệm chứ
1998. Đặc biệt, các tác giả không phải dùng cho chi
cũng đặt câu hỏi liệu số tiền tiêu, và cũng chỉ ra được
cổ phần hóa thu được có rằng tình hình tài chính của
được “tiết kiệm” (sử dụng các nước nghiên cứu có xu
để trả nợ hoặc giảm các hướng được cải thiện khi
khoản vay mới) hay “chi nhấn mạnh đến sự cần thiết
tiêu” cho các chương trình phải minh bạch công khai
mới hoặc duy trì các trong quá trình cổ phần hóa
chương trình cổ phần hiện và đề nghị nên xem xét số
có ở các cấp độ không bền tiền thu được từ cổ phần
khác nhau hóa như một mục trong tài
khoản tài chính của quốc
gia chứ không đơn thuần là
doanh thu nói chung.
Nghiên cứu tác động của cổ Ghi nhận có mối quan hệ
phần hóa lên thâm hụt ngân nghịch chiều đáng kể giữa
sách, nợ công, thất nghiệp số tiền cổ phần hóa thu
Katsoulakos and Likoyanni và tăng trưởng bằng cách được và nợ công cho toàn
(2002) tiến hành phân tích bằng thể các nước OECD,
kinh tế lượng dữ liệu cấp nhưng điều này lại không
quốc gia của 23 quốc gia ở đúng đối với các quốc gia
OECD giai đoạn 1990- có số công nợ quá cao (Bỉ,
Trang 17
2000. Và họ cũng tiến hành Hy Lạp, Ý). Số tiền cổ
xem xét lại ở mẫu 4 quốc phần hóa thu được không
gia Tây Ban Nha, Bồ Đào tương quan đáng kể với
Nha, Ý, Hy Lạp để có thể thâm hụt ngân sách đối với
xác nhận hay bác bỏ các toàn bộ các quốc gia
bằng chứng mà Jeronimo, OECD và cho cả bốn quốc
Pagan, và Sovdemir (2000) gia phía Nam Châu Âu. Họ
đã đưa ra.. cũng tìm thấy rằng doanh
thu từ cổ phần hóa hiện
hành có mối quan hệ
nghịch biến với tỷ lệ thất
nghiệp hiện tại nhưng lại
có một mối quan hệ đồng
biến với tỷ lệ thất nghiệp
trước đó.
2.2. Những vấn đề lý luận về thuế
2.2.1. Khái niệm và chức năng
2.2.1.1. Khái niệm
Thuế ra đời và tồn tại cùng với sự xuất hiện và tồn tại của Nhà nước, vì Nhà nước
và do Nhà nước. Thuế là một công cụ quan trọng mà bất kỳ Nhà nước nào cũng sử dụng
để hoàn thành chức năng của mình. Tuy nhiên, cho đến nay có nhiều cách nhìn nhận khác
nhau và người ta vẫn chưa có quan điểm thống nhất về khái niệm thuế cũng như nhìn
chung chưa phản ánh đầy đủ bản chất chung của phạm trù thuế. Chẳng hạn theo các nhà
kinh điển thì thuế được quan niệm rất đơn giản : “Để duy trì quyền lực công cộng, cần
phải có những sự đóng góp của những người công dân của Nhà nước đó là thuế khóa…”
(Mác - Ăng ghen).
Trang 18
Càng về sau, khái niệm về thuế ngày càng được bổ sung và hoàn thiện hơn. Hai
nhà kinh tế Mỹ Makkhell và Bruy –M.(1993) lại đưa ra khái niệm mới rằng “Thuế là một
khoản chuyển giao bắt buộc bằng tiền (hoặc chuyển giao bằng hàng hóa, dịch vụ)”.
Ở Việt Nam, đến nay cũng chưa có một khái niệm thống nhất về thuế mà tùy theo
cách nhìn nhận ở các góc độ khác nhau, người ta có thể hiểu khác nhau về thuế. Nhưng
hiện nay các nhà kinh tế đều nhất trí kết luận rằng: Thuế là một khoản đóng góp bắt buộc
đối với các thể nhân và pháp nhân, được nhà nước quy định thông qua hệ thống pháp
luật. Sự ra đời của thuế gắn liền với sự phân chia xã hội thành các giai cấp đối kháng và
sự xuất hiện của Nhà nước.
2.2.1.2. Chức năng
Theo TS. Nguyễn Ngọc Thanh, thuế có hai chức năng: Chức năng phân phối và
phân phối lại và Chức năng điều tiết kinh tế.
Chức năng phân phối và phân phối lại là chức năng đặc thù nhất của thuế. Nhà
nước sử dụng tiền thu từ thuế để tái đấu tư và phân phối thu nhập trong toàn xã
hội. Mặc dù nhà nước có nhiều phương pháp mở rộng hay thu hẹp quy mô ngân
sách nhưng việc sử dụng công cụ thuế luôn có ưu thế hơn hẳn. Điều này được
phản ánh bằng tỷ trọng thu từ thuế trong tổng thu ngân sách của nhà nước luôn ở
mức cao nhất, nhiều nước vượt cả 90%.
Chức năng điều tiết kinh tế của thuế: Thuế thực hiện chức năng điều chỉnh thông
qua việc quy định các hình thức thu thuế khác nhau, xác định đúng đắn đối tượng
chịu thuế và nộp thuế, xây dựng chính xác các mức thuế phải nộp có tính đến khả
năng của người nộp thuế.
Hai chức năng của thuế tồn tại trong mối quan hệ chặt chẽ. Chức năng phân phối
và phân phối lại là nguyên nhân ảnh hưởng đến sự vận động và phát triển của chức năng
điều tiết kinh tế, nhưng chức năng điều tiết kinh tế của thuế cũng có tác động ngược lại
đến chức năng phân phối và phân phối lại thu nhập (Theo ThS. Châu Thành Nghĩa)
Trang 19
2.2.2. Chính sách thuế ở các nền kinh tế đang phát triển
Trong thời đại ngày nay, toàn cầu hóa kinh tế đang trở thành xu thế khách quan,
lôi cuốn các nước, bao trùm hầu hết các khu vực vừa thúc đẩy hợp tác vừa tăng sức ép
cạnh tranh giữa các nền kinh tế. Trong điều kiện như vậy, một quốc gia có chính sách
thuế thích hợp sẽ nâng cao được hiệu quả sản xuất kinh doanh, đảm bảo nguồn thu cho
Ngân sách Nhà nước và đảm bảo độ an toàn trong quá trình hội nhập.
Theo tài liệu nghiên cứu của Martinez – Vazquez và McNab (2000), các quốc gia
mới nổi và đang phát triển, đặc biệt là các quốc gia hướng đến việc liên kết với nền kinh
tế quốc tế, chính sách thuế vô cùng nhạy cảm. Các quốc gia đang phát triển thường được
đặc trưng bởi sản phẩm nông nghiệp - chiếm phần lớn tổng thu nhập đầu vào của đất
nước, rất nhiều doanh nghiệp nhỏ - đa số là các khu vực hoạt động kinh tế không chính
thức, tiền lương tương đối thấp trên tổng thu nhập quốc gia,...Tất cả những đặc trưng này
làm giảm đảng kể khả năng thu thuế của Nhà nước như thuế thu nhập cá nhân đến một
mức thấp hơn nhiều là thuế giá trị gia tăng, như vậy cũng làm giảm khả năng nâng cao
mức đánh thuế. Chính vì vậy, ở các quốc gia này, hệ thống thuế nên: (1) nâng cao doanh
thu thuế đủ để đáp ứng các nhu cầu tiêu dùng thiết yếu mà không cần trông cậy quá mức
vào việc vay mượn khu vực công, (2) nâng cao doanh thu theo nhiều cách – công bằng,
tối thiểu hóa các tác động tiêu cực lên hoạt động kinh tế và bằng các cách không làm đi
chệch đáng kể các định mức kinh tế sẵn có.
Với cấu trúc nền kinh tế đang phát triển đi cùng nền dân trí và nguồn lực con
người thấp, đội ngũ quản lý thuế học vấn không cao và được đào tạo tốt, nguồn lực để chi
trả tiền công và mua các thiết bị thiết yếu không sẵn có, thật khó khăn để tạo nên một hệ
thống quản lý thuế tốt và hiệu quả (Vito Tanzi và Howell H. Zee, 2000). Chính vì những
lý do này, các quốc gia thường phát triển hệ thống thuế mà cho phép họ khai thác các
nguồn lực sẵn có hơn là phát triển hệ thống thuế hiện đại như ở các quốc gia phát triển.
Hậu quả là các quốc gia đang phát triển có rất nhiều nguồn thuế nhỏ, phụ thuộc khá nhiều
vào thuế ngoại thương và tận dụng không đáng kể nguồn thuế thu nhập cá nhân.
Trang 20
Một tài liệu nghiên cứu có giá trị khác về hệ thống thuế ở các quốc gia đang phát
triển là của George Tsibouris và Vivo Tanzi (2000), ở những nền kinh tế đang phát triển,
phần lớn doanh thu thuế được thu thập từ ba nguồn lực chính: thuế doanh thu, thuế đánh
trên thu nhập doanh nghiệp và thuế lương bổng. Các quốc gia luôn cố gắng nỗ lực sửa
đổi thể chế cũ để tạo ra một thể chế mới tốt đẹp và hoàn thiện hơn nhưng trở ngại lớn
nhất mà các quốc gia này gặp phải chính là đội ngũ quản lý thuế – những người được
giáo dục và đào tạo theo các phương pháp cũ gặp rất nhiều khó khăn trong việc thay đổi
tư duy và những người có liên quan, chịu trách nhiệm về những thể chế này thường
không đủ kiến thức và kinh nghiệm để hiểu hệ thống quản lý thuế vận hành như thế nào
trong nền kinh tế thị trường. Chính vì vậy, đội ngũ quản lý thuế cảm thấy thoải mái hơn
khi vẫn tiếp tục duy trì hệ thống cũ. Rất nhiều chính phủ cảm thấy khó khăn và khó chấp
nhận rằng, trong nền kinh tế thị trường, hệ thống thuế nên là công cụ với mục tiêu tăng
cường doanh thu thuế một cách hiệu quả và công bằng. Thay vì vậy, hệ thống thuế lại
được xem như công cụ làm giảm số lượng doanh nghiệp trong nền kinh tế, đồng thời duy
trì việc làm khi cho phép các doanh nghiệp làm ăn thua lỗ trả lương thay vì đóng thuế
cùng các hoạt động kích thích nền kinh tế khác. Bằng những cách như vậy, hệ thống thuế
đã dần thay thế cho các công cụ trong nền kinh tế cũng như những chính sách an sinh xã
hội khác. Cuối cùng có thể thấy rằng, ở những quốc gia này, chính phủ luôn dành nhiều
thời gian giải quyết các vấn đề của cá nhân nộp thuế hơn là tiến hành cải cách lại hệ
thống thuế quốc gia (Tanzi, 1998). Điều này có thể làm tăng gánh nặng thuế lên nền kinh
tế hơn là thu lợi từ những lợi ích của chúng.
Tuy vậy, quy trình cải cách thuế cũng rất đa dạng ở những nền kinh tế đang phát
triển. Bảng dưới đây là nghiên cứu được tiến hành bởi đội ngũ IMF được hướng dẫn bởi
Ebril và Havrylyshyn (1999), đưa ra sự đánh giá cho quy trình cải cách hệ thống thuế ở
các quốc gia Baltics, Russia và các quốc gia khác trong Liên bang Xô-viết (Soviet Union
(BRO)) từ năm 1992 đến giữa năm 1998. Chỉ số xếp hạng các quốc gia BRO từ 1 (thấp)
đến 5 (cao). Chỉ số xếp hạng này không tránh khỏi những đánh giá chủ quan, tuy nhiên,
vẫn phản ánh được những điểm cơ bản nhất của việc cải cách chính sách thuế. Tanzi
Trang 21
(2000) kỳ vọng rằng có mối tương quan giữa cải cách chính sách thuế và thành quả
doanh thu. Tuy nhiên, cần chú ý rằng việc cải cách thuế diễn ra tương đối khá nhiều trong
các giai đoạn đó, nhưng vẫn chưa thật sự hiệu quả, việc cải cách (như loại trừ thuế xuất
khẩu và thuế trên tiền công dư thừa) đã làm giảm doanh thu trong ngắn hạn. Hơn nữa,
nhiều cải cách chính sách thuế gặp khó khăn bởi đội ngũ quản lý thuế.
Bảng 2.2: Đánh giá cải cách chính sách thuế ở những quốc gia đang phát triển
giai đoạn 1992 đến giữa năm 1998
Nguồn: Đội ngũ IMF, hướng dẫn bởi L.Ebrill và O.Havrylyshyn (1999)
2.2.3. Vai trò của doanh thu thuế trong nền kinh tế đang phát triển
Quan điểm về thời kỳ chuyển đổi đến nền kinh tế thị trường hiện nay rất khác
nhau. Sau sự sụp đổ của nhà nước một đảng, hầu hết các nền kinh tế Đông Âu và các
nước Liên bang Xô-Viết dường như đã có thời kỳ chuyển đổi nhanh chóng.
Daniel Berkowitz và Wei Li (2000) tiến hành nghiên cứu tác động của doanh thu
thuế đến nền kinh tế ở hai quốc gia có nền kinh tế chuyển đổi vào thời điểm đó là Trung
Quốc và Nga. Tác giả nhận thấy rằng số lượng cơ quan thuế độc lập ở Trung Quốc ngày
càng giảm và doanh thu thuế đã trở nên rõ ràng hơn, trong khi đó lại có bằng chứng cho
thấy số lượng cơ quan thuế độc lập ở Nga (bao gồm các cấp độ khác nhau của chính phủ)
tăng lên nhưng lợi ích thu được từ thuế lại kém rõ ràng hơn hẳn.
Trang 22
Trường hợp ở Trung Quốc, giai đoạn từ năm 1978 đến năm 1993, doanh thu thuế
chính phủ ở Trung Quốc tăng hơn 40%, đây là kết quả từ việc mở rộng nhanh chóng các
cơ sở thuế cùng tốc độ tăng trưởng kinh tế mạnh mẽ. Từ đây, chính phủ Trung Quốc ở
các cấp khác nhau có điều kiện tăng cường chi tiêu vào hàng hóa công và cơ sở hạ tầng
như giáo dục, sức khỏe, giao thông vận tải và thông tin liên lạc. Tuy nhiên đến giai đoạn
nhà nước đặt mục tiêu thúc đẩy đầu tư từ các doanh nghiệp trong và ngoài nước, chính
phủ ra quyết định tiến hành cắt giảm thuế. Hoãn thuế, miễn, giảm thuế được liên tục áp
dụng cho các doanh nghiệp từ địa phương - xã, phường, thị trấn cho đến cả các công ty
nước ngoài. Kết quả là, các doanh nghiệp này tăng trưởng rất nhanh. Từ giữa năm 1990
đến năm 1998, khu vực phi chính phủ của Trung Quốc, bao gồm các doanh nghiệp tập
thể, tư nhân và đầu tư nước ngoài, tăng trưởng với tốc độ trung bình hằng năm là 26%,
tăng hơn hẳn so với giai đoạn trước đó. Cổ phần của khu vực phi chính phủ trên tổng sản
lượng đầu ra ngành công nghiệp cũng tăng đáng kể từ 24% năm 1990 đến 68% năm
1998. Có bằng chứng còn cho thấy rằng các doanh nghiệp nhà nước thậm chí đã cắt giảm
một phần gánh nặng thuế, căn cứ trên bảng khảo sát 769 doanh nghiệp nhà nước (Li
(1997)), doanh thu thuế giảm từ 48% năm 1990 đến 33% năm 1998. Tuy nhiên, chính
quyền địa phương vẫn chỉ khuyến khích cắt giảm thuế cho doanh nghiệp trong phạm vi
cho phép. Gordon và W.Li (1991) tranh luận rằng, khi chính quyền địa phương khai nộp
thuế thu với chính quyền trung ương, có thể họ sẽ không báo cáo chính xác, thậm chí lấy
đi một phần doanh thu thuế của các doanh nghiệp họ kiểm soát. Qua hai sự kiện trên ở
Trung Quốc, chúng tôi có thể kết luận rằng, doanh thu thuế đóng một vai trò vô cùng to
lớn trong việc điều hành chính sách ở mỗi quốc gia.
Đối với trường hợp ở Nga, việc đóng thuế ở các doanh nghiệp thật sự là một gánh
nặng. Các nhà quản lý doanh nghiệp than phiền rất nhiều về gánh nặng thuế cũng như
những vấn đề phức tạp liên quan đến việc chi trả thuế cho chính phủ. Có bằng chứng ủng
hộ cho giả thiết của tác giả rằng việc đóng thuế quá mức ở Nga đã buộc nhiều doanh
nghiệp không muốn hoạt động công khai (Johnson, Kaufman và Shleifer (1997)). Cũng
có bằng chứng (theo Shleifer và Treisman (1999)) cho rằng việc đăng ký thành lập doanh
Trang 23
nghiệp của các doanh nghiệp nhỏ - động lực tăng trưởng của Trung Quốc cũng như ở các
nền kinh tế mới nổi khác – đã bị trì trệ ở Nga. Các doanh nghiệp nhỏ thường xuyên báo
cáo về việc thất thu ngân sách cũng như tình trạng kinh tế tồi tệ nhiều hơn các doanh
nghiệp trung bình và lớn. Dựa trên bảng khảo sát được tiến hành năm 1998, Shleifer và
Treisman (1999) đưa đến kết luận rằng các doanh nhân trong giao dịch thương mại bán lẻ
cho rằng việc đóng thuế cao được xem là gánh nặng lớn nhất của họ so với các yếu tố
khác (81% câu trả lời) để giải thích cho việc phát triển bị giới hạn ở các doanh nghiệp
nhỏ. Từ đây, có thể kết luận rằng thuế tác động rất lớn đến chiến lược phát triển kinh tế,
tăng trưởng hay sụt giảm số lượng doanh nghiệp lớn nhỏ tùy thuộc rất nhiều vào chính
sách thuế ở mỗi quốc gia, đặc biệt là các quốc gia đang phát triển.
Việt Nam là quốc gia có nền kinh tế đang phát triển đáng chú ý. Trong những năm
gần đây, nhiều tổ chức quốc tế đã giới thiệu các nền kinh tế đang nổi và sắp xếp theo
nhóm, Việt Nam là quốc gia được đưa vào một số nhóm nước đang nổi rất đáng chú ý do
sức phát triển khá nhanh. Chính vì vậy, để tận dụng cơ hội và giảm thiểu những thách
thức, Nhà nước phải sử dụng có hiệu quả những công cụ quản lý kinh tế vĩ mô, trong đó
thuế là một công cụ hết sức quan trọng.
Thuế là nguồn thu chủ yếu và quan trọng nhất của Ngân sách nhà nước: Nhà nước
có thể thu ngân sách từ nhiều nguồn khác nhau nhưng không có nguồn thu nào ổn
định và bền vững bằng thuế. Hàng năm, thuế luôn đóng góp khoảng trên 90% vào
tổng thu ngân sách nhà nước
Bảng 2.3: Ngân sách nhà nước qua các năm
Đơn vị: tỷ đồng
Nguồn: www.mof.goc.vn
Trang 24
Với việc đóng góp một tỷ trọng cao và ngày càng tăng lên trong tổng thu ngân
sách nhà nước, thuế đang ngày càng chứng tỏ vai trò chủ đạo của mình trong việc
huy động tài chính công phục vụ chi tiêu cho cả quốc gia
Thuế là công cụ điều tiết kinh tế vĩ mô nền kinh tế của Chính phủ: Thông qua
pháp lệnh về thuế, Nhà nước chủ động tác động đến cung – cầu của nền kinh tế
góp phần phân bổ lại nguồn lực. Bên cạnh đó, thuế còn là công cụ điều chỉnh giá
cả thị trường và kiềm chế lạm phát.
Thuế góp phần điều hòa thu nhập và thực hiện bình đẳng, công bằng xã hội: Nhà
nước sử dụng công cụ thuế để đảm bảo công bằng trong phân phối thu nhập giữa
những người có thu nhập cao và thấp hay tạo điều kiện cho các doanh nghiệp kinh
doanh hiệu quả thông qua các chính sách miễn giảm thuế cho các doanh nghiệp
mới thành lập.
Thuế là công cụ kiểm tra, kiểm soát các hoạt động sản xuất kinh doanh
2.3. Mối quan hệ giữa cổ phần hóa và doanh thu thuế ở các quốc gia đang
phát triển
Một thực tế không thể phủ nhận là cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước có tác
động đến mục tiêu tăng trưởng kinh tế, phân tích của các nhà kinh tế cho thấy tốc độ tăng
trưởng kinh tế và tốc độ cổ phần hóa tỷ lệ thuận với nhau. Có rất ít quan điểm nghi ngờ
việc tiến hành cổ phần hóa ở các doanh nghiệp nhà nước sẽ tạo ra tác động chủ yếu lên vị
thế tài chính của chính phủ (David cùng các cộng sự (2000) và Barnett (2000)). Các quốc
gia thực sự quan tâm đến tác động tiềm năng của cổ phần hóa lên cân đối ngân sách và
sâu hơn là sự ổn định kinh tế vĩ mô nước nhà.
Cơ sở lí luận của đa số các nghiên cứu này là công trình nghiên cứu của Helena
Beddari (2011) cùng phân tích thực nghiệm tại Zambia, kết quả nghiên cứu của Helena
cho thấy rằng có rất nhiều nguyên nhân cho việc tiến hành cổ phần hóa ở các doanh
nghiệp nhà nước nhưng đối với Zambia, mục tiêu được đặt ra là nâng cao hiệu quả kinh
tế, thúc đẩy khu vực tư nhân phát triển và đẩy mạnh tăng trưởng kinh tế (Zambian
Authorities et al 1999). Để hiểu được tác động tài khóa của việc cổ phần hóa, ông đi phân
Trang 25
tích tác động lên dòng chảy thu nhập vào và giá trị tài sản của chính phủ. Mối quan hệ tài
chính giữa chính phủ và các doanh nghiệp nhà nước bao gồm thuế và cổ tức và các giao
dịch khác có cả trợ cấp. Sau khi cổ phần hóa, thay đổi trong giá trị tài sản chính phủ sẽ
cân bằng với tổng lợi nhuận thu được từ cổ phần hóa và giá trị ròng của thuế thu được từ
các doanh nghiệp cổ phần hóa, trừ đi giá trị ròng các khoản trợ cấp cho các doanh nghiệp
thuộc sở hữu nhà nước và giá trị ròng các khoản thuế mất đi từ các doanh nghiệp này.
Nếu khu vực tư nhân điều hành công ty hiệu quả hơn nhà nước, giá trị tài sản ròng của
chính phủ được kỳ vọng sẽ còn tăng cao hơn. Điều này hoàn toàn có thể xảy ra nếu chính
phủ có thể cổ phần hóa và thu thuế hiệu quả, cổ phần hóa sẽ đem đến các tác động tích
cực đến khu vực tài chính công (Davis cùng các cộng sự, 2000). Vậy thì liệu tiền thuế
phải trả của các doanh nghiệp cổ phần hóa sẽ thay đổi như thế nào? Doanh thu thuế hay
nói cách khác là ngân sách quốc gia có được thu lợi từ lợi nhuận doanh nghiệp? Galal
cùng cộng sự (1994) đã đưa ra bằng chứng cho thấy các doanh nghiệp cổ phần hóa sẽ trả
nhiều thuế hơn hẳn trước khi cổ phần hóa. Kết quả thu thập từ Zambia, doanh thu thuế
của chính phủ tăng đáng kể từ sau khi cổ phần hóa khu vực quặng mỏ. Trước khi cổ phần
hóa, chính phủ phải thực hiện chính sách trợ cấp rất lớn để duy trì hoạt động khu vực
khai thác quặng này, nhưng ngày hôm nay, công ty khai thác quặng Kansanshi Mining
PLC trở thành đối tượng đóng thuế lớn nhất Zambia. Năm 2010, doanh thu nội địa của
Zambia đạt 1,8%, chính là nhờ phần lớn thu nhập thuế từ các công ty khai thác quặng khu
vực tư nhân hóa (Theo IMF 2011).
Trang 26
Biểu đồ 2.1: Doanh thu thuế khu vực khai thác mỏ ở Zambia
Nguồn: ZRA2011
Ngoài ra trong các bài nghiên cứu khác, các tác giả đều đưa ra những nhận định
riêng của mình về tác động tài khóa của cổ phần hóa cũng như cung cấp các bằng chứng
ủng hộ quan điểm như cho rằng cổ phần hóa dẫn đến sự thay đổi trong cấu trúc GDP, các
khu vực được cổ phần hóa trả thuế nhiều hơn, bên cạnh đó tác giả còn thấy rằng quy trình
cổ phần hóa đi cùng với sự cải thiện chính sách quản lý vĩ mô, bao gồm chính sách thuế
và quản trị của chính phủ. Một bằng chứng thuyết phục hỗ trợ quan điểm của tác giả là
kết quả nghiên cứu từ các dữ liệu thu thập qua các năm khi cổ phần hóa tăng 1% trên
GDP thì doanh thu thuế tăng vào khoảng ¼% trên GDP
Tuy vậy, một câu hỏi được đặt ra là liệu giữa cổ phần hóa và doanh thu thuế có
tồn tại mối tương quan nào khác?
Tác giả Ernesto Crivelli (2013) lại có quan điểm đi ngược với các nghiên cứu
trước đây, tác giả nhận định rằng cổ phần hóa có liên quan đến sự suy giảm trong ngân
sách nhà nước, mà đặc biệt là doanh thu thuế ở các quốc gia có nền kinh tế đang phát
triển. Tác giả thu thập số liệu và thực hiện công trình nghiên cứu ở 29 quốc gia ở Đông
Âu và Liên Bang Xô Viết, kết quả cho thấy dấu hiệu về một tác động tiêu cực mạnh mẽ
của việc cổ phần hóa đến các nguồn thu thuế khi số tiền thu được từ doanh thu thuế có
thể xấu đi đáng kể bởi cơ sở căn cứ tính thuế có thể bị thu hẹp và các phương pháp tính
Trang 27
thuế đặc biệt cho một số khu vực kinh tế thường được áp dụng có sự thay đổi. Mặc dù
trong hai thập kỷ qua, các cải cách trong hệ thống thuế liên tục được thực hiện, bao gồm
cả việc áp dụng thuế giá trị gia tăng thì số tiền thu được từ doanh thu thuế vẫn mờ nhạt ở
các quốc gia đang phát triển sau sự sụt giảm đáng kể trong doanh thu thuế trong những
năm đầu 1990. Một ngoại lệ nổi bật nhất có lẽ là kinh nghiệm trải qua của một số nước
Đông Âu khi thực hiện cải cách thuế và thành công rất sớm trong tiến trình quá độ và tiến
tới hiện đại hóa nền kinh tế - ở một chừng mực nào đó việc quản lý doanh thu thuế có sự
cải thiện rõ rệt. Tác giả nhận thấy rằng doanh thu thuế đặc biệt bị ảnh hưởng ở các nền
kinh tế đang phát triển trong giai đoạn đầu của quá trình thực hiện tự do hóa, cổ phần hóa
và các cải cách ổn định (Ebrill và Havrylyshyn (1990), Martinez – Vazquez và McNab
(2000)). Trước khi chuyển đổi, các nguồn doanh thu thuế chính chủ yếu gần như đến từ
thuế thu từ các doanh nghiệp nhà nước, thuế đánh trên lợi nhuận (tax on profits) và thuế
đánh trên doanh số (the turnover tax) là nguồn doanh thu thuế lớn và quan trọng nhất.
Thuế đánh trên lợi nhuận được thu chủ yếu dựa vào cơ sở thương lượng giữa các doanh
nghiệp với các quan chức chính phủ, với mức thuế suất được điều chỉnh thường xuyên và
gánh nặng thuế thông thường khác nhau tùy thuộc vào từng ngành công nghiệp (Buiter,
1997). Thuế đánh vào doanh số được đánh chủ yếu trên hàng hóa, thu từ các đại lý bán
buôn hoặc bán lẻ và thường được sử dụng như một cơ chế để điều tiết giá cả và hỗ trợ
cho việc phân bổ các nguồn lực trong kế hoạch. Cơ sở tính thuế thường là chênh lệch
giữa giá bán lẻ (được cố định bởi chính phủ) và chi phí sản xuất.
Bài nghiên cứu của Ernesto Crivelli (2013) cho rằng với việc đóng vai trò như một
kết quả của cấu trúc hệ thống thuế trong giai đoạn nền kinh tế đang phát triển, cổ phần
hóa dẫn đến một sự sụt giảm đáng kể trong số tiền doanh thu thuế thu được, điều này có
thể là do ba nguyên nhân chính sau:
Sự suy giảm trong các căn cứ tính thuế truyền thống
Suy giảm năng lực quản lý thuế
Việc áp dụng rộng rãi các chính sách miễn giảm thuế và ưu đãi thuế khác để thu
hút đầu tư.
Trang 28
Cụ thể, cổ phần hóa gây ra một tác động tiêu cực đáng kể lên các căn cứ tính thuế
đáng tin cậy trước đó, như là một sự sụt giảm trong sản xuất, lợi nhuận trong các doanh
nghiệp nhà nước và tiền lương thực tế. Năng lực quản lý thuế đã bị suy yếu trầm trọng vì
các lý do khác nhau (Tanzi và Tsibouris, 2000). Cổ phần hóa bỏ qua hầu hết các thông tin
về số lượng sản xuất và giá cả mà tại đó sản lượng được bán, số lượng người nộp thuế
tăng lên đáng kể và những hạn chế trước đây về các phương pháp thanh toán giữa các
người nộp thuế với nhau, bằng cách này các khoản thanh toán thuế được chuyển giao cho
chính phủ đã được gỡ bỏ. Cổ phần hóa cũng có thể tác động đến doanh thu thuế trên
phạm vi mà các chính phủ nhằm mục đích thu hút các nhà đầu tư nên đã cung cấp một số
ưu đãi về thuế như giảm thuế suất, một số trường hợp miễn thuế, thành lập các khu kinh
tế đặc biệt và miễn giảm các loại thuế khác (Cass, 2007). Một điều rõ ràng là tác động lên
các nguồn thu thuế khác nhau có thể khác nhau, chẳng hạn như căn cứ tính thuế của họ
thu hẹp ở những mức độ khác nhau. Ví dụ, thuế đánh trên thương mại quốc tế không phải
là nguồn thu chính của doanh thu thuế và ở một số nước thậm chí còn mở rộng việc bảo
hộ cho các ngành công nghiệp quốc gia thông qua việc áp dụng các mức thuế cao hơn
trong giai đoạn nền kinh tế đang phát triển. Tác động của việc thu thuế trong giai đoạn
nền kinh tế chuyển đổi vẫn còn là một vấn đề có liên quan mật thiết. Trong khi một số
nền kinh tế đã tiến xa trong quá trình cổ phần hóa với tiến trình tích lũy cổ phần hóa
chiếm trên 30% GDP, đối với những nền kinh tế khác, đặc biệt là ở nhóm các nước Liên
Xô cũ, cổ phần hóa vẫn đang trong giai đoạn mới bắt đầu. Điều quan trọng nhất là phần
lớn các nước trong giai đoạn nền kinh tế chuyển đổi vẫn còn phải đối mặt với những thử
thách trong việc áp dụng các cải chính sách thuế có căn cứ và hợp lý, tăng cường việc
quản lý doanh thu thuế, đến một mức độ lớn hơn là liên quan đến cấu trúc của hệ thống
thuế.
Vậy một câu hỏi được đặt ra là làm cách nào cổ phần hóa có ảnh hưởng đến cân
đối ngân sách ở các quốc gia đang phát triển và mức độ mà doanh thu thuế đóng góp vào
ngân sách nhà nước (và doanh thu thuế nào có đóng góp nhiều nhất). Davis cùng các
cộng sự (2000) đã tìm thấy một số bằng chứng thực nghiệm chứng minh rằng cổ phần
hóa cải thiện cân đối ngân sách và doanh thu thuế. Ngược lại, các tài liệu nghiên cứu mô
Trang 29
tả có giá trị tham khảo như Martinez – Vazquez và McNab (2000), Tazbi và Tsibouris
(2000) về các hệ thống thuế của các quốc gia có nền kinh tế đang phát triển đã nhận ra tác
động tiêu cực của cổ phần hóa lên doanh thu thuế. Tuy nhiên một trong những lý do mà
các nghiên cứu thực nghiệm về lĩnh vực này vẫn còn rất hạn chế liên quan đến việc thiếu
các dữ liệu đáng tin cậy về doanh thu thuế, chiều dài chuỗi dữ liệu và thường thì chúng
quá ngắn để đưa ra các kết quả đáng tin cậy trong giai đoạn nền kinh tế chuyển đổi cũng
như thiếu các chỉ dẫn tin cậy cho việc cổ phần hóa. Để khắc phục trở ngại này, bài nghiên
cứu của chúng tôi sử dụng những dữ liệu được cho là thực sự đáng tin cậy phân tích mối
quan hệ giữa cổ phần hóa và doanh thu thuế ở Việt Nam trong suốt giai đoạn từ năm
1995 đến năm 2013. Bản chất của phương pháp thực nghiệm này là để kiểm tra xem bằng
cách nào ngân sách nhà nước mà đặc biệt là doanh thu thuế bị tác động bởi chính sách cổ
phần hóa của chính phủ.
Trang 30
3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1. Các mô hình nghiên cứu:
Trong phần mở rộng ở Việt Nam, do hạn chế về mặt số liệu đối với hai biến chính
là doanh thu thuế và cổ phần hóa đối với các quốc gia liên quan, nên chúng tôi chỉ tiến
hành hồi quy chỉ riêng cho Việt Nam và dùng các mô hình ARCH/GARCH, VECM và
các kiểm định có liên quan để ước lượng phù hợp với số liệu mà chúng tôi thu thập được.
Khác với mô hình trong bài nghiên cứu gốc là sử dụng dữ liệu bảng và mô hình GMM để
tiến hành xem xét tương quan giữa các biến độc lập và các biến phụ thuộc.
Lý do chọn mô hình ARCH/GARCH
Trong mô hình hồi quy ban đầu chúng tôi hồi quy thuế với các biến cổ phần hóa,
chúng tôi phát hiện hiện tượng phương sai thay đổi trong mô hình OLS ban đầu, do đó để
khắc phục hiện tượng phương sai thay đổi, chúng tôi dùng mô hình ARCH/GARCH để
khắc phục hiện tượng đó, bên cạnh đó mô hình ARCH/GARCH cũng thể hiện được sự
tác động các cú sốc trong quá khứ sẽ tác động đến rủi ro trong hiện tại. Vì vậy, mô hình
ARCH/GARCH là cần thiết trong ước lượng mối tương quan thuế và cổ phần hóa.
Lý do chọn mô hình VECM
Bên cạnh sự phát hiện hiện tượng phương sai thay đổi. Chúng tôi cũng phát hiện
từ các chuỗi dừng ban đầu có hiện tương đồng liên kết. Một mặc chúng tôi lấy sai phân
để ước lượng mô hình, ngoài ra chúng tôi vẫn dùng mô hình VECM để tiến hành xem xét
mối quan hệ cân bằng dài hạn giữa các biến thuế và cổ phần hóa. Mặt khác, chúng tôi
cũng dùng mô hình VECM để xem xét sự tương quan của thuế với cổ phần hóa có giống
với mô hình ARCH/GARCH hay không, hay nói cách khác mô hình VECM có thể gia
tăng độ tin cậy cho kết quả hồi quy trong mô hình của chúng tôi.
Trang 31
3.2. Lý thuyết mô hình ARCH/GARCH
ARCH là viết tắt của Autoregressive Conditional Heterokadasticity
Mô hình ARCH (q) sẽ mô hình hóa đồng thời giá trị trung bình và phương sai có
(3.1)
gt = α1gt-1 + β1xt +t
σt
t-q
(3.2)
2 = 0 +∑ αq
i=1 iε2
εt ̴ N(0, σ2)
điều kiện của một chuỗi thời gian theo các cách xác định sau;
Với 0 >0 và i >0 và phải thõa mãn một số điều kiện nhất định sao cho phương sai
không điều kiện là hữu hạn, εt tuân theo quy luật phân phối chuẩn
Phương trình (3.1) là phương trình ước lượng giá trị trung bình và phương trình (3.2) là
phương trình ước lượng phương sai có điều kiện thay đổi.
Quy trình xây dựng mô hình:
Gồm 5 bước:
Bước 1: Ước lượng giá trị trung bình của chuỗi dữ liệu.
Bước 2: Kiểm định hiệu ứng ARCH.
Nếu phần dư của mô hình trung bình có hiệu ứng ARCH thực hiện tiếp bước 3, nếu
không có hiệu ứng ARCH thì dừng lại.
Bước 3: Ước lượng mô hình ARCH(q)
Bước 4: Kiểm định tính phù hợp của mô hình và lựa chọn mô hình tối ưu.
Bước 5: Ứng dụng dự báo
GARCH - General Autoregressive Conditional Heterokadasticity – mô hình phương sai
có điều kiện thay đổi tự hồi quy tổng quát
gt = 2gt-2 + 2Xt + εt
Trang 32
I.3
εt ̴ N(0, σ2) σ2 = ω + ∑ 𝛅𝐩
t-i+ ∑ 𝛄𝐪
t-j
𝐢=𝟏 iσ2
𝐣=𝟏 jε2
p: bậc của mô hình GARCH
q: bậc của mô hình ARCH
Phương trình (I.3) cho thấy phương sai có điều kiện σ2bây giờ phụ thuộc vào:
- Giá trị quá khứ của những cú sốc, đại diện bởi các biến trễ của hạng nhiễu bình
phương ε2
t-j
- Các giá trị quá khứ của chính bản thân nó, đại diện bởi các biến trễ σ2
t-iGARCH
(0, q) chính là ARCH(q)
Quy trình thực hiện mô hình:
GARCH(p,q) hoàn toàn tương tự mô hình ARCH(q), chỉ khác ở bước 3 : ước lượng,
lúc này chúng ta sẽ ước lượng phương sai có điều kiện thay đổi theo (I.3);
σ2 = ω + ∑ 𝛅𝐩
t-i+ ∑ 𝛄𝐪
t-j
𝐢=𝟏 i σ2
𝐣=𝟏 jε2
Hầu hết các nhà nghiên cứu đề nghị dùng GARCH(1,1) để ước lượng mô hình vì
GARCH(1,1) phù hợp và tốt nhất đối với chuỗi thời gian tài chính
3.3. Lý thuyết mô hình VECM:
Khi xem xét một chuỗi các biến không dừng chúng ta cần thận trọng khi mô tả
mối quan hệ giữa các biến này.Vì nếu hai biến không dừng kết hợp với nhau thì có thể sẽ
tạo thành một biến dừng. Khái niệm đồng tích hợp (Cointegration) được đưa ra để mô tả
cho mối quan hệ này. Về mặt kinh tế lượng, hai hoặc nhiều biến quan sát có mối quan hệ
đồng tích hợp với nhau có nghĩa là các biến này có cùng bậc tích hợp (đều là các chuỗi
I(p)) và tồn tại một tổ hợp tuyến tính của các biến này là một chuỗi dừng( I(0)).
Trang 33
Hai chuỗi {y1,t} và {y2,t} là đồng liên kết nếu:
{y1,t} và {y2,t} đều là chuỗi đồng liên kết bậc p: I(p)
Tồn tại một bộ số (a1,a2) không đồng thời bằng 0 sao cho: a1.y1,t +a2.y2, t là một chuỗi
dừng: I(0).
Mô hình VECM là một trong những mô hình được đưa ra để quan sát mối quan hệ đồng
liên kết giữa các chuỗi thời gian. Giả sử hai chuỗi y1,t và y2,t là 2 chuỗi tích hợp bậc 1, ta
sử dụng mô hình VAR để mô tả mối quan hệ giữa 2 biến này. Hay còn gọi là mô mình
VECM với hệ phuong trình cơ bản là
y1,t –y1,t-1= a1,0+ α1.(y1.t-1+β.y2,t-1) +ɛ1,t
y2,t-y2,t-1 = a2,0 +α2.(y1,t-1+β.y2,t-1) +ɛ2,t
Ý nghĩa mô hình: Hệ số β trong ngoặc đơn biểu hiện mối quan hệ dài hạn giữa 2 biến
y1,t và y2,t, hệ số α1, α2 thể hiện cho cơ chế điều chỉnh trong ngắn hạn.
Quy trình Jonhansen trong ước lượng mô hình VECM:
Bước 1: kiểm định tính đồng liên kết, nếu không có đồng liên kết thì không sử dụng mô
hình này.
Bước 2: ước lượng mô hình VECM không ràng buộc với số véc tơ đồng tích hợp xác
định ở bước trên để thu được các véc tơ đồng tích hợp.
Bước 3: ước lượng mô hình VECM có ràng buộc, trong đó các ràng buộc dựa trên hệ số
ước lượng được từ véc tơ đồng tích hợp ở bước trên. Sử dụng các kiểm định để chọn ra
mô hình phù hợp nhất.
Trang 34
3.4. Dữ liệu nghiên cứu và phân tích các biến
3.4.1. Phân tích các biến ảnh hưởng trong mô hình
Nghiên cứu thực nghiệm ở Việt Nam, chúng tôi tham khảo việc sử dụng biến và
mô hình nghiên cứu GMM của tác giả Ernesto Crivelli (2013) - nghiên cứu về tác động
tài khóa đến doanh thu thuế qua 29 nền kinh tế đang phát triển, giai đoạn 1991-2010.
Theo Ebrill và Havrylyshyn (1999), Martinez-Vazquez và McNab (2000), doanh
thu thuế đặc biệt bị ảnh hưởng bởi các nền kinh tế đang phát triển trong giai đoạn đầu của
quá trình thực hiện chương trình cổ phần hóa, tự do hóa và cải cách ổn định. Điều này
hoàn toàn giống với tình trạng hiện tại của Việt Nam.
Dựa theo nghiên cứu của các tác giả Baunsgard và Keen (2010), Davis và các
cộng sự (2000), Rodrik (1998) hay Tanzi (1987), đề xuất các nhân tố ảnh hưởng đến cân
đối ngân sách và doanh thu thế với các biến kiểm soát bao gồm:
GDP trên đầu người (PCGDP) ảnh hưởng đến “cầu” chi tiêu công của chính phủ
và vì thế đòi hỏi phải có một doanh thu chính phủ cao hơn.
Độ mở cửa kinh tế (OPEN) được đo lường bằng tổng thị phần xuất nhập khẩu
chiếm trong GDP, độ mở kinh tế được tìm thấy có mối quan hệ cùng chiều với
doanh thu của chính phủ.
Lạm phát (INF) được xem là rất quan trọng trong năm đầu tiên thời kỳ quá độ ở
Việt Nam vì các tác động của nó đến thu nhập.
Thị phần của nông nghiệp trong GDP (AGR) được tìm thấy là có mối liên hệ cùng
chiều với quy mô doanh thu thuế, nông nghiệp được xem là một khu vực rất khó
khăn đối với thuế.
Dân số 65 tuổi (POP65) - “một tỷ số phụ thuộc từng quốc gia”, phản ánh các ảnh
hưởng tiềm năng đến chính sách tài khóa từ cả hai hướng : doanh thu và chi tiêu.
Trang 35
Đối với việc kiểm tra độ bền, trong nghiên cứu của tác giả Ernecto Crivelli (2013),
tác giả bổ sung hai biến giả VAT và EU run-up để giải thích cho những phân tích sâu hơn.
Biến giả đầu tiên thể hiện cho việc chấp nhận thuế VAT hay không, nếu quốc gia
đó chấp nhận hệ thống thuế VAT tại thời điểm t thì nhận giá trị là 1 và ngược lại
nhận giá trị là 0.
Biến thứ hai là EU run-up đại diện cho thời gian gia nhập Liên Minh Châu Âu,
nhận giá trị là 1 nếu trong vòng 4 năm quốc gia đó nỗ lực để gia nhập Liên Minh
Châu Âu và ngược lại nhận giá trị 0.
Những biến này được sử dụng để phản ánh những thay đổi có thể xảy ra trong
tương lai của chính sách tài khóa, cụ thể là các cải cách về chính sách thuế (đối với biến
EU run-up là nỗ lực thay đổi tỷ lệ thuế tối thiểu hoặc cải cách thuế được yêu cầu để gia
nhập EU), điều này có thể tác động đến doanh thu thuế. Tuy nghiên, nhóm nghiên cứu
xét thấy, khi ứng dụng vào nền kinh tế Việt Nam, hai biến này xét không cần thiết, vì
nước ta đã chấp nhận áp dụng thuế VAT trong mẫu thời gian quan sát mà nhóm nghiên
cứu sử dụng. Để đảm bảo độ tin cậy cho kết quả, chúng tôi so sánh hai kết quả thu được
từ mô hình ARCH/GARCH và VECM.
Hai biến chính của mô hình là TAX ( Tax revenues) thể hiện cho doanh thu thuế
và biến PP (Privatization proceeds) thể hiện cho số tiền thu được từ cổ phần hóa. Cụ thể,
dưới đây chúng tôi sẽ trình bày bản tóm tắt số liệu thống kê và giới thiệu đôi nét về hai
biến chính là doanh thu thuế (tax revenues) và doanh thu cổ phần hóa (privatization
proceeds). Chi tiết toàn bộ dữ liệu và tóm tắt thống kê được cung cấp trong bảng 3.1 và
phần trình bày dưới đây:
Trang 36
Bảng 3.1: Nguồn dữ liệu thu thập số liệu
Ký Kỳ vọng Đơn Biến Cách tính Nguồn Hiệu dấu vị
Tổng doanh thu thuế trên Tổng cục thống Tổng doanh thu Tax % tổng GDP kê thuế
Global Tổng doanh thu từ các Privatization % công ty đã cổ phần hóa Pp + Doanh thu cổ Database trong năm trên tổng GDP phần hóa (GPD)
Tổng GDP trên tổng dân Ngân hàng phát GDP trên đầu USD Ca + số Việt Nam triển Châu Á người
RGDP Ngân hàng phát Tốc độ phát + % triển Châu Á triển GDP thực
Tổng cục thống Inf - % Lạm phát kê
Tổng xuất khẩu và nhập Ngân hàng phát Độ mở của nền Open + % khẩu trên cho tổng GDP triển Châu Á kinh tế
Thị phần nông nghiệp Ngân hàng phát Agr + % Nông nghiệp trên tổng GDP triển Châu Á
Tổng dân số trên 65 tuổi Tỷ lệ dân số trên Pop - World Bank % trên tổng dân số 65 tuổi
Ngân hàng phát Tổng cung tiền M1 trên M1 + % Cung tiền M1 triển Châu Á tổng GDP
Ngân hàng phát Tổng cung tiền M2 trên + M2 % Cung tiền M2 triển Châu Á tổng GDP
Trang 37
3.4.2. Phân tích biến chính
Biến doanh thu cổ phần hóa (PP- privatization proceeds)
Doanh thu cổ phần hóa bao gồm tất cả các khoản tiền mà chính phủ nhận được từ
các giao dịch liên quan đến các giao dịch bán hoặc cho thuê một phần vốn hay toàn bộ
vốn của nhà nước. Theo đó, chỉ có những giao dịch tạo ra doanh thu cho chính phủ từ cổ
phần hóa hoặc sự gia tham gia của khu vực tư nhân vào các doanh nghiệp nhà nước hiện
hành ( hoặc bao gồm các tài sản thuộc sở hữu của nhà nước ). Trích dẫn theo phương
pháp đo lường cổ phần hóa của của World Bank: “Các dữ liệu về số tiền thu được được
lấy trực tiếp từ các nguồn dữ liệu khác nhau qua các khoản thời gian khác nhau”. Cần lưu
ý rằng các nguồn dữ liệu khác nhau có thể cung cấp các số liệu về số tiền cổ phần hóa
được tính toán theo những cách khác nhau ( cụ thể là theo giá trị thị trường hay theo
mệnh giá). Do đó có thể có một số khác biệt về các cơ sỡ dữ liệu khác nhau. Hơn nữa, số
tiền cổ phần hóa thu được được ghi nhận dựa trên cơ sở “ dồn tích” nhiều hơn là dựa trên
số tiền cổ phần nhận được, nó có thể trả trong nhiều năm. Dưới đây là hình thống kê thể
hiện số tiền thu được từ cổ phần ở Việt Nam giai đoạn (1995-2013).
Biểu đồ 2.2: Số tiền thu được từ cổ phần hóa giai đoạn 1995-2013
Privatization proceeds ( tỷ VND)
80000
70000
60000
50000
40000
30000
20000
10000
0
1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013
Nguồn: Global Privatization Database (GPD)
Trang 38
Nhìn vào sơ đồ thể hiện số tiền cổ phần hóa thu được giai đoạn 1995-2013, ta có
thể thấy mặc dù giai đoạn năm 2003-2005 được xem là giai đoạn tiến hành cổ phần hóa
được nhiều doanh nghiệp nhất, cụ thể năm 2003 cổ phần hóa được 622 doanh nghiệp,
2005 được 813 doanh nghiệp và đỉnh cao nhất là 2004 là 813 doanh nghiệp nhưng dường
như số tiền thu được từ cổ phần hóa trong những năm này (2003-2004) không có mấy
khởi sắc. Trong khi đó, giai đoạn 2007-2010 cả nước chỉ cổ phần hóa được 118 doanh
nghiệp vào năm 2007 và xấp xĩ mức trung bình 19 doanh nghiệp cho các năm 2008-2010.
Nhưng nhìn vào sơ đồ trên ta có thể nhận thấy một sự tăng vọt đáng kể số tiền cổ phần
hóa thu được trong giai đoạn này. Lý do xảy ra nghịch lý này là do, mặc dù 2003-2005
nhà nước ta tiến hành cổ phần hóa nhiều doanh nghiệp nhưng đa số chỉ dừng lại ở các
doanh nghiệp nhà nước nhỏ. Giai đoạn 2007-2010, tuy số lượng các DNNN được
CPH giảm mạnh nhưng qui mô của các DNNN lại lớn hơn thậm chí là rất lớn, cụ thể
trong giai đoạn này tập trung đến 70% các DNNN lớn với giá trị vốn hóa thị trường khá
cao. Tiêu biểu như vào 2008, nước ta đã tiến hành cổ phần hóa công ty bia Sài Gòn và
tổng công ty bia rượu và nước giải khát SABECO với tổng doanh thu từ cổ phần hóa là
341 triệu USD và ngân hàng Công Nghiệp & Thương Mại Việt Nam với số tiền cổ phần
hóa thu được xấp xĩ 64 triệu USD. Riêng năm 2007 cả nước cổ phần hóa được 118 doanh
nghiệp nhà nước, trong đó bao gồm công ty thủy điện Thác Mơ, với số tiền cổ phần hóa
thu được gần 59 triệu USD.
Trang 39
Biến tổng doanh thu thuế (tax revenues)
Biểu đồ 2.3: Doanh thu thuế Việt Nam giai đoạn 1995-2013
Tax revenues ( tỷ VND)
800000
700000
600000
500000
400000
300000
200000
100000
0
6 9 9 1
7 0 0 2
3 1 0 2
5 9 9 1
7 9 9 1
8 9 9 1
9 9 9 1
0 0 0 2
1 0 0 2
2 0 0 2
3 0 0 2
4 0 0 2
5 0 0 2
6 0 0 2
8 0 0 2
9 0 0 2
0 1 0 2
1 1 0 2
2 1 0 2
Nguồn: Tổng cục thống kê
Việt Nam đã trải qua ba giai đoạn cải cách thuế quan trọng và đều rất thành công.
Các cải cách thuế được thực hiện góp phần quan trọng vào sự phát triển của nền kinh tế-
xã hội. Cải cách đầu tiên được thực hiện vào trước 1990 với việc giới thiệu một hệ thống
thuế thống nhất, gồm 9 loại thuế quan trọng thay thế cho các loại thuế khác nhau áp dụng
cho khu vực nhà nước, công nghiệp và thương mại thuộc sở hữu tư nhân và lĩnh vực
nông nghiệp chiếm hơn 70% tổng dân số lúc bấy giờ. Cải cách thứ hai được thực hiện
vào cuối những năm 1990 trong bối cảnh Việt Nam đang ký hiệp định Tự do thương mại
ASEAN (AFTA) và chuẩn bị đàm phán để gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới
(WTO) với việc giới thiệu các loại thuế hiện đại, tiêu biểu là thuế giá trị gia tăng và thuế
thu nhập doanh nghiệp. Giai đoạn cải cách này thể hiện một nỗ lực rất lớn của Chính phủ
Việt Nam trong chỉ đạo cải cách, phản ánh sự chuyển hướng từ nền kinh tế tập trung bao
cấp sang nền kinh tế định hướng thị trường. Nhờ các cải cách này mà tổng doanh thu từ
thuế đã gia tăng đáng kể:
Trang 40
Doanh thu thuế giai đoạn 1996-2000 tăng 2,3 lần trong so với doanh thu thu được
trong giai đoạn 1991-1995
Doanh thu thuế trong giai đoạn 2001-2005 tăng 2,0 lần trong so với doanh thu
thuế trong giai đoạn 1996-2000
Doanh thu thuế trong giai đoạn 2010-2013 tăng 2,03 lần trong so với doanh thu
thuế trong giai đoạn 2008-2009
Trong phần mở rộng ở Việt Nam, chúng tôi xem xét mối quan hệ giữa biến phụ
thuộc tổng doanh thu thuế và các biến độc lập: cổ phần hóa, GDP trên đầu người, tốc độ
phát triển GDP thực, lạm phát, độ mở của nền kinh tế, nông nghiệp, tỷ lệ dân số trên 65
tuổi, cung tiền M1 và M2.
Do hạn chế về dữ liệu thống kê, nên hầu hết các dữ liệu được thu thập theo năm từ
1995 đến 2013, và dùng phương pháp nội suy tuyến tính (Linear-match last) để chuyển
dữ liệu sang quý để tiến hành ước lượng mối quan hệ giữa các biến trong mô hình.
Trang 41
4. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
4.1. Mô hình ARCH/GARCH
4.1.1. Kiểm định tính dừng
Trong tất cả các biến, hầu hết các biến đều được xử lý dưới dạng phần trăm chỉ
duy nhất biến GDP bình quân trên đầu người là đơn vị USD và mức biến động của chuỗi
này tương đối lớn, nên chúng tôi tiến hành lấy logarith tư nhiên để giảm mức biến động
của chuỗi đồng thời đồng hóa đơn vị với các biến khác trong mô hình.
Trước tiên, chúng tôi tiến hành kiểm định tính dừng ở chuỗi gốc của tất cả các
biến. Kết quả kiểm định nghiệm đơn vị (Unit Root test) phương pháp ADF được thống kê
ở bảng dưới:
Bảng 4.1: Kết quả kiểm định tính dừng
P-value Mức ý nghĩa Kết quả Biến
0.4164 5% Không dừng LTax
0.2904 5% Không dừng LPP
0.9982 5% Không dừng LCa
0.0141 5% Không dừng LRGDP
0.5950 5% Không dừng LInf
0.3038 5% Không dừng LOpen
0.4039 5% Không dừng LAgr
0.5053 5% Không dừng LPop
0.2516 5% Không dừng LM1
Ghi chú: Biến phụ thuộc LTax (tổng doanh thu thuế), các biến độc lập LPP (doanh thu cổ phần
hóa), LCa (GDP trên đầu người), LRGDP (tốc độ phát triển GDP thực), Linf (lạm phát), Lopen (độ mở
nền kinh tế), LAgr (nông nghiệp), LPop (tỷ lệ dân số trên 65 tuổi), LM1 (cung tiền M1), Lm1 (cung tiền
M2).
0.2625 5% Không dừng LM2
Trang 42
Kết quả kiểm định phần lớn các chuỗi đều không dừng ở chuỗi gốc. Chúng tôi tiếp
tục tiến hành lấy sai phân các chuỗi không dừng, kết quả cho thấy các chuỗi đều dừng ở
sai phân bậc 1, do vậy chúng tôi sẽ tiến hành ước lượng mô hình với chuỗi đã lấy sai
phân.
4.1.2. Tiến trình ước lượng mô hình ARCH/GARCH
Trước tiên, chúng tôi dùng ước lượng OLS để xem xét sự biến động đơn biến giữa
biến phụ thuộc và các biến độc lập. Phương trình ban đầu là:
Ghi chú: Biến phụ thuộc LTax (tổng doanh thu thuế), các biến độc lập LPP (doanh thu cổ phần hóa),
LCa (GDP trên đầu người), LRGDP (tốc độ phát triển GDP thực), Linf (lạm phát), Lopen (độ mở nền
kinh tế), LAgr (nông nghiệp), LPop (tỷ lệ dân số trên 65 tuổi), LM1 (cung tiền M1), Lm1 (cung tiền M2).
Taxt = c+ α1ppt+ α2cat+ α3rgdpt + α4inft + α5opent + α6agrt + α7popt + α8M1t + α9M2t + εt
Nhưng trong quá trình ước lượng chúng tôi thấy rằng nếu dùng mô hình OLS để
hồi qui thì mặc dù các biến có ý nghĩa thống kê ở mức 5%. Tuy nhiên để mô hình đáng
tin cậy, thì cần phải vượt qua kiểm định tự tương quan và phương sai thay đổi. Chúng tôi
nhận thấy rằng: mô hình không tồn tại sự tự tương quan (dựa trên sự ước lượng Breusch-
Godfrey Serial Correlation LM Test) 1. Tuy nhiên, kết quả cho thấy mô hình có phương
sai thay đổi thông qua kiểm định hiệu ứng ARCH, do đó chúng tôi tiến hành ước lượng
mô hình ARCH/GARCH thay vì mô hình OLS ban đầu.2
Tuy nhiên sau khi ước lượng mô hình với các biến phù hợp trong mô hình, chúng
tôi nhận thấy mô hình trên có hiệu ứng ARCH. Chúng tôi tiếp tục phát triển mô hình
ARCH bằng kiểm định liệu là mô hình ban đầu phù hợp với ARCH bậc mấy? Nếu mô
1 Kết quả kiểm định tự tương quan có p-value = 0.4290, không có ý nghĩa thống kê, xem hình 4.1: kết quả kiểm định tự quan ở phần phụ lục. 2 Kết quả kiểm định hiệu ứng ARCH có p-value = 0.0001*, xem hình 4.2 : kết quả kiểm định hiệu ứng ARCH ở phần phụ lục. Ý nghĩa thống kê 1% *
hình phù hợp với ARCH bậc cao thì chúng tôi tiếp tục phát triển thành GARCH(1,1) để
Trang 43
xem xét các cú sốc trong quá khứ ảnh hưởng như thế nào đến mối tương quan các biến
hiện tại.
Bảng 4.1: Kết quả kiểm định hiệu ứng ARCH
ARCH(1) ARCH(2) ARCH(3) ARCH(4) ARCH(5) ARCH(6) Bậc
Ý nghĩa thống kê 1% *
p-value 0.0000* 0.0000* 0.0000* 0.0000* 0.0000* 0.1766
Từ kết quả kiểm định hiệu ứng ARCH. Chúng tôi nhận thấy rằng mô hình của
chúng tôi phù hợp với ARCH bậc 5 (phát triển từ phương trình (3.1) và (3.2) với phương
gt = α1gt-1 + β1xt +t
εt ̴ N(0, σ2)
t-5
σt
2 = 0 +1ε2
t-1+2ε2
t-2 +3ε2
t-3 +4ε2
trình:
Tuy nhiên vì bậc của ARCH là khá cao nên thay vì dùng phương trình này để dự
báo các cú sốc chúng tôi dùng GARCH(1,1) để ước lượng, sẽ có ít các hệ số cần ước
lượng hơn và vì thế sẽ giúp hạn chế khả năng mất đi một số bậc tự do trong mô hình. Bên
cạnh đó, việc sử dụng GARCH(1,1) cũng cho thấy phương sai sẽ phụ thuộc vào giá trị
quá khứ của các cú sốc, đại diện bởi các biến trễ và các giá trị trong quá khứ của chính
bản thân nó. Bên cạnh GARCH(1,1) thì chúng em cũng tiến hành kiểm định với
GARCH(2,1) và GARCH(2,2), tuy nhiên các kết quả đều cho thấy GARCH(1,1) phù hợp
hơn hẳn.
gt = α2gt-2 + β1xt + εt
εt ̴ N(0, σ2)
E(ε2
tǁgt-1, xt-1) = σ2
t = ω + γσ2
t-1 + δε2
t-1
Phương trình dùng trong ước lượng GARCH(1,1) là:
Trang 44
Tiếp đến T-GARCH(1,1) thì chúng tôi sẽ phân biệt tác động của các cú sốc âm và
các cú sốc dương đối với biến động của thuế vì theo nhiều lý thuyết kinh tế cho rằng:
“các cú sốc âm thường có tác động lớn hơn các cú sốc dương” chúng ta sẽ thêm biến giả
vào phương trình, nếu phần dư ở kỳ trước đó dương thì biến giả sẽ là 0, ngược lại nếu
gt = α2gt-2 + β1xt + εt
εt ̴ N(0, σ2)
t-1dt-1Với dt= 1 (εt< 0) hoặc dt =0 (εt>= 0)
σ2 = ω + δ1σ2
t-1 + γ1ε2
t-1+ v1ε2
phần dư là âm thì biến giả sẽ là 1.
Chúng tôi nhận thấy kết quả ước lượng cho T-GARCH có p-value = 0.3834 > 5%,
do đó mô hình T-GARCH không phù hợp để ước lượng 3. Cuối cùng để xem xét tác động
giữa biến thuế và các biến độc lập như cổ phần hóa, lạm phát… thì mô hình GARCH(1,1)
là mô hình phù hợp nhất.
Bảng 4.1: Kết quả hệ số mô hình GARCH
DLPP DCA DLRGDP DLINF DLOPEN
-0.000913 0.15179 0.139559 -0.00234 0.346246
(0.0000)* (0.0000)* (0.0000)* (0.0004)* (0.0000)*
DLAGR DLPOP DLM1 DML2
0.8312 -2.3575 0.1925 0.23528
Ghi chú: các biến độc lập LPP (doanh thu cổ phần hóa), LCa (GDP trên đầu người), LRGDP (tốc độ
phát triển GDP thực), Linf (lạm phát), Lopen (độ mở nền kinh tế), LAgr (nông nghiệp), LPop (tỷ lệ dân số
trên 65 tuổi), LM1 (cung tiền M1), Lm1 (cung tiền M2). Ký hiệu * và **lần lượt tương ứng với kết quả có
ý nghĩa thống kê ở mức 1% và 5%. Xem hình 4.4 về kết quả hồi quy mô hình GARCH trong phần phụ lục.
(0.0000)* (0.0000)* (0.000)* (0.0000)*
Hệ số ARCH = 1.4557 với p-value = 0.0003 và GARCH = 0.1854 với p-value =
0.0533.Với các p-value có được từ mô hình ước lượng, các hệ số ước lượng có ý nghĩa
thống kê ở mức 1%, 5%, nên mô hình đáng tin cậy để ước lượng. Trong ngắn hạn, mức
3 Xem hình 4.3 ở phần phụ lục A về kết quả hồi quy mô hình T-GARCH.
Trang 45
tác động của cổ phần hóa dường như rất thấp, khi cổ phần hóa tăng 1% thì tổng thu thuế
sẽ giảm 0.0009%, mức tương quan này dường như không có tác động ngay lập tức mà
phải cần một độ trễ chính sách nhất đinh. Đối với các biến còn lại trong mô hình,giống
như kỳ vọng dấu ban đầu của chúng tôi, độ mở cửa nền kinh tế ảnh hưởng lớn đến doanh
thu thuế trong nền kinh tế. Cụ thể từ kết quả trong mô hình GARCH, khi độ mở cửa nền
kinh tế tăng 1% thì doanh thu thuế tăng 0.34%, ảnh hưởng tương đối lớn trong mô hình.
Biến tốc độ phát triển GDP thực có tương quan dương, cụ thể là khi thuế GDP thực tăng
1% thì doanh thu thuế tăng 0.14%. Phần này sẽ được chúng tôi phân tích sâu hơn trong
phần thực tiễn Việt Nam.
Chúng tôi tiếp tục xem xét mô hình VECM để giải thích mối quan hệ trong nhiều
độ trễ và mối quan hệ hai chiều giữa biến thuế và cổ phần hóa
4.2. Mô hình VECM:
Đối với các chuỗi không dừng ở chuỗi gốc chúng tôi tiến hành kiểm định đồng
liên kết bằng phương pháp Johansen để xem xét mối quan hệ dài hạn giữa các biến. Nếu
trường hợp các biến có mối liên hệ đồng liên kết thì chúng tôi sẽ không tiến hành lấy sai
phân, mà sẽ ước lượng trên chuỗi gốc mô hình điều chỉnh sai số VECM.
Chúng tôi thấy rằng từ sự kiểm đinh đồng liên kết bằng phương pháp Johansen,
4, chúng tôi tìm thấy ba mối liên hệ đồng liên kết. Từ dữ liệu ban đầu tồn tại mối liên hệ
nếu giá trị “Trace statistic” > “Critical Value” sẽ bác bỏ giả thuyết Ho. Từ kết quả hồi qui
đồng liên kết giữa các biến, chúng tôi sẽ tiến hành dùng mô hình VECM để tiến hành ước
lượng mối liên hệ trong dài hạn lẫn ngắn hạn giữa hai biến chính là thuế và cổ phần hóa
trong mô hình của chúng tôi.
4.2.1. Lựa chọn độ trễ tối ưu cho mô hình VECM:
Từ kết quả hồi qui 5, chúng tôi thấy rằng các chỉ số quan trọng như AIC, SC đều
gợi ý cho độ trễ tối ưu là 5 trong mô hình. Tuy nhiên, để phù hợp với số liệu hiện có,
4 Xem hình 4.5 trong phần phụ lục về kết quả kiểm định đồng liên kết. 5 Xem hình 4.6 trong phần phụ lục về kết quả hồi quy độ trễ.
Trang 46
chúng tôi chỉ chọn độ trễ là 4 và mức độ trễ này cũng tương đối phù hợp với mục tiêu
phân tích mối quan hệ cân bằng trong dài hạn của chúng tôi.
4.2.2. Ước lượng mô hình VECM cho 10 biến
Dựa vào kết quả hồi qui mô hình VECM 10 Biến6, hệ số ECM thể hiện mối quan
hệ tác động của các biến cổ phần hóa, dân số, độ mở nền kinh tế, tốc độ phát triển GDP
thực… đến thuế. Nếu hệ số này có ý nghĩa thống kê thì sẽ tồn tại mối quan hệ tác động
giữa các biến độc lập đến biến thuế. Đối với mối quan hệ cân bằng ngắn hạn, chúng tôi sẽ
kiểm định các hệ số D(LPP(-1)), D(LPP(-2)), D(LPP(-3)), D(LPP(-4)), nếu các hệ số này
có ý nghĩa thống kê thì có nghĩa là sẽ tồn tại mối quan hệ tác động của cổ phần hóa đến
thuế trong ngắn hạn. Đối với hàm cổ phần hóa cũng vậy, chúng tôi cũng lần lượt kiểm
định hệ số CointEq1 và hệ số của D(LTAX(-1)), D(LTAX(-2)), D(LTAX(-3)),
D(LTAX(-4)) đế xem xét mối quan hệ tác động của thuế đến cổ phần hóa.
Để mô hình ước lượng trên đáng tin cậy thì chúng tôi cũng tiếp tục kiểm định tính
dừng cho phần dư từng mô hình. Kết quả đều cho thấy các phần dư của các phương trình
dừng ở mức 1% 7, nên mô hình đáng tin cậy để ước lượng
Đối với các hệ số ECM thể hiện mối quan hệ cân bằng trong dài hạn, thì chỉ có hệ
số của hàm thuế (p-value = 0.0317) là có ý nghĩa thống kê, ngược lại hệ số của hàm cổ
phần hóa (p-value = 0.4804) thì không có ý nghĩa thống kê 8. Do đó, trong mối quan hệ
dài hạn cố phần hóa sẽ tác động đến mức thu thuế của chính phủ, và ngược lại thuể không
ảnh hưởng đến mục tiêu cổ phần hóa của chính phủ.
Tiếp theo chúng tôi tiếp tục kiểm định các hệ số để xem xét mối quan hệ tương
quan ngắn hạn giữa biến thuế và biến cổ phần hóa. Kết quả cho thấy rằng hệ số p-value
đề lớn hoen 10%, không có ý nghĩa thống kê 9, nghĩa là trong ngắn hạn thì cả hai biến
7 Xem hình 4.8 trong phần phục về kiểm định tính dừng phần dư cho mô hình VECM.
8 Xem hình 4.9 ở phần phụ lục về kiểm định tương quan dài hạn mô hình VECM ban đầu.
9 Xem hình 4.10 ở phần phụ lục về kiểm định tương quan ngắn hạn mô hình VECM ban đầu
này không có tương quan với nhau, đều này phù hợp với chính sách thực tế ở VN. 6 Xem hình 4.7 trong phần phụ lục về kết quả hồi quy mô hình VECM 10 biến.
Trang 47
4.2.3. Mô hình VECM cho hai biến thuế và cổ phần hóa:
Ở phần trên chúng tôi đã thiết lập phương trình cho cả 10 biến chính trong mô hình
và các kết quả đạt được như mong đợi của chúng tôi. Để kiểm định độ bền cho mối quan
hệ cân bằng giữa thuế và cổ phần hóa thì chúng tôi tiến hành lập phương trình chỉ cho hai
biến thuế và cổ phần hóa, lượt bỏ các biến còn lại ra khỏi phương trình.
Trước tiên chúng tôi kiểm định mối quan hệ nhân quả hai chiều cho hai biến này.
Kết quả 10 kiểm định nhân quả cho thấy rằng, cổ phần hóa là nguyên nhân ảnh hưởng đến
biến thuế (p-value = 0.0353 bác bỏ giả thuyế Ho), ngược lại p-value = 0.1791 chấp nhận
giả thuyết H0: biến thuế không là nguyên nhân ảnh hưởng đến biến cổ phần hóa. Kết quả
này bước đầu phù hợp với những kết quả đạt được ở phần VECM 10 biến.
Tương tự với mô hình VECM 10 biến, chúng tôi tiến hành kiểm định mối quan hệ
đồng liên kết. Kết quả cho thấy tồn tại mối liên hệ đồng liên kết giữa biến thuế và cổ
phần hóa 11. Với những giả thuyết đạt được, chúng tôi đủ cơ sở đê xây dụng mô hình
VECM cho hai biến thuế và cổ phần hóa.
Kết quả thu được từ mô hình VECM hai biến 12, mức tương quan giống như mô
hình GARCH chúng tôi ước lượng ở phần đầu. Biến thuế và biến tư nhân hóa có mức
tương quan âm với nhau, cụ thể khi tư nhân hóa tăng 1% thì doanh thu thuế giảm 0.06%.
Các hệ số t-statistic tương đối lớn càng khẳng định thêm ý nghĩa cho mô hình ước lượng.
Hệ số điều chỉnh mối quan hệ cân bằng trong dài hạn của cổ phần hóa đến thuế: ECM = -
0.0552 có p-value = 0.0000. Tuy nhiên, mối quan hệ giữa cổ phần hóa đến thuế có hệ số
ECM = 0.1413 , p-value= 0.7908 không có ý nghĩa thống kê.
Kết quả này hoàn toàn giống với kết quả mô hình VECM ban đầu. Trong dài hạn,
cổ phần hóa sẽ tác động đến doanh thu thuế của chính phủ nhưng ở mức tương quan
11 Xem hình 4.12: Mối liên hệ đồng liên kết giữa thuế và cổ phần hóa
12 Xem hình 4.14: Kết quả hồi quy mô hình VECM 2 biến.
tương đối thấp, ngược lại cổ phần hóa không tác động đến doanh thu thuế. Ngược lại, từ 10 Xem hình 4.11ở phần phụ lục về kiểm định mối quan hệ nhân quả Granger:
Trang 48
kết quả kiểm đinh Wald-test, khi xét mối quan hệ hai chiều trong ngắn hạn thì cả hai biến
này đều không có mối quan hệ tương quan lẫn nhau.13
4.3. Giải thích kết quả mô hình thực nghiệm tại Việt Nam:
Như vậy có thể khẳng định có một số nguyên nhân nào đó gây ra mối tương quan
âm giữa việc cổ phần hóa và ngân sách Nhà nước Việt Nam, mà đặc biệt là doanh thu
thuế trong giai đoạn 1995-2013. Theo chúng tôi đó có thể là:
Chính sách miễn và ưu đãi thuế cho các doanh nghiệp hoàn thành cổ phần
hóa
Đây có thể được xem là yếu tố quan trọng nhất ảnh hưởng đến mối quan hệ giữa
cổ phần hóa và doanh thu thuế, được cụ thể hóa tại Điểm 1, Điều 26 Nghị định số
64/2002/NĐ-CP ngày 19/6/2002 của Chính phủ về việc chuyển doanh nghiệp nhà nước
thành công ty cổ phần quy định các doanh nghiệp nhà nước thực hiện cổ phần hóa:
“Được hưởng ưu đãi về thuế theo quy định của Luật Khuyến khích đầu tư trong nước như
đối với doanh nghiệp thành lập mới mà không cần phải làm thủ tục cấp chứng nhận ưu
đãi đầu tư”.
Chính vì lẽ đó mà sau gần 20 năm triển khai, đến hết năm 2013, cả nước đã cổ
phần hóa gần 3900 doanh nghiệp nhà nước (chiếm 70% số doanh nghiệp nhà nước tái cơ
cấu) góp phần cơ bản vào việc xắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước và thông qua cổ phần
hóa, các doanh nghiệp có xu hướng hoạt động hiệu quả hơn, 90% doanh nghiệp nhà nước
sau khi cổ phần có kết quả tốt trong họat động sản xuất kinh doanh nhưng doanh thu thuế
của tổng ngân sách nhà nướcđối với các doanh nghiệp cổ phần hóa vẫn không có dấu
13 Xem hình 4.13 ở phụ lục về kiểm định mối quan hệ trong ngắn hạn bằng kiểm định Wald-test
hiệu khả quan. Điều này được thể hiện rõ qua hai biểu đồ dưới đây:
Trang 49
Biểu đồ 2.4: Số lượng doanh nghiệp cổ phần hóa 1990 - 2013
Số lượng doanh nghiệp cổ phần hóa bình quân giai đoạn 1990-2013
856
813
622
250
359
118
253
212
5
7
18.7 60
13
6
3
100
900 800 700 600 500 400 300 200 100 0
Biểu đồ 2.5: Phần trăm doanh thu thuế so với GDP giai đoạn 1995-2013
Tax revenues (% GDP)
25
20
15
10
5
0
Quan sát hai biểu đồ thể hiện số lượng doanh nghiệp cổ phần hóa bình quân qua
các năm và tổng doanh thu thuế trong tổng thu Ngân sách Việt Nam, chúng tôi quan sát
thấy rằng vào năm 2004 số lượng doanh nghiệp cổ phần hóa đạt đỉnh điểm là 856 doanh
nghiệp, tới thời điểm này có thể xem đây là giai đoạn “hưng thịnh” nhất của chiến lược
Trang 50
cổ phần hóa ở nước ta. Tuy nhiên tổng doanh thu thuế thu được trong năm này chỉ đạt
khoảng dưới 20% trên tổng GDP thấp hơn so với năm 2003. Một trường hợp khác là giai
đoạn 2008-2010, số lượng doanh nghiệp cổ phần hóa trung bình chỉ khoảng 18.7 doanh
nghiệp, nhưng lại có sự cải thiện đáng kể trong tổng doanh thu thuế đạt mức xấp xĩ 23%
trên GDP. Điều này chứng tỏ rằng giữa cổ phần hóa và doanh thu thuế tồn tại mối tương
quan âm không đáng kể. Mặc dù sau khi cổ phần hóa, các doanh nghiệp có xu hướng
hoạt động hiệu quả hơn, tạo ra nhiều lợi nhuận dẫn đến kỳ vọng một sự gia tăng trong
doanh thu thuế, tuy nhiên kết quả lại đi ngược với những gì kỳ vọng bởi để khuyến khích
các doanh nghiệp cổ phần hóa, giai đoạn 2004-2008, Nhà nước có chính sách miễn 100%
thuế thu nhập doanh nghiệp trong 2 năm đầu cổ phần hóa và giảm 50%trong 3 năm tiếp
theo. Kết quả này phù hợp với nghiên cứu của tác giả Ernesto Crivelli (2013).
Năng lực quản lý thuế
Hiện nay hệ thống thuế ở nước ta còn nhiều bất cập, chưa đồng bộ. Đối với các
quốc gia trên thế giới yếu tố ổn định luôn được đặt lên hàng đầu khi xây dựng một sắc
thuế . Bởi, điều đó sẽ tạo điều kiện cho người nộp thuế có kế hoạch và chiến lược phát
triển phù hợp.
Việc cổ phần hóa ở Việt Nam vẫn chưa minh bạch về thông tin như số lượng cổ
phần hóa được phát hành, mức giá rao bán cổ phần cũng như số tiền thu được từ cổ phần
hóa được sử dụng ra sao. Cứ sau mỗi đợt cổ phần hóa được tiến hành, số lượng người
nộp thuế cũng theo đó mà gia tăng đáng kể. Chính vì thế những hạn chế về phương pháp,
quy trình tính và nộp thuế trước đây dường như cũng trở nên lạc hậu phần nào và cần
phải có sự đổi mới thích ứng với tình hình hiện tại hơn. Bên cạnh đó, có thể thấy, năng
lực quản lý thuế ở nước còn yếu kém cùng với công tác kiểm tra thiếu chặt chẽ, thủ tục
pháp lý còn phức tạp. Có thể nói rằng công tác quản lý thuế ở Việt nam vẫn còn bỡ ngỡ
và chưa sẵn sàng hoàn toàn để đối phó với một môi trường mới với những chương trình
cổ phần hóa được xúc tiến trong dài hạn, vì thế triển vọng xảy ra hiện tượng trốn thuế,
tránh thuế, thiếu số tiền thuế phải nộp hoặc tăng số tiền thuế được miễn giảm, làm thất
thu thuế, gây thiệt hại nặng nề cho ngân sách nhà nước là rất cao.
Trang 51
Tuy nhiên, tổng hợp hai nguyên nhân trên chúng tôi nghĩ vẫn chưa thật sự đủ để
giải thích cho mối tương quan âm giữa cổ phần hóa và doanh thu thuế tại Việt Nam.
Chần chừ cổ phần hóa
Hiện nay, ở Việt Nam, có rất nhiều doanh nghiệp nhà nước chần chừ trong việc
triển khai thực hiện cổ phần hóa bởi họ e ngại những quy định, chính sách mới sẽ được
áp dụng trong doanh nghiệp. Bên cạnh đó, thủ tục chuyển đổi quyền sở hữu khó khăn,
phức tạp cộng thị trường ảm đạm của bối cảnh kinh tế hiện nay khiến doanh nghiệp lo
ngại liệu có bán được cổ phần của doanh nghiệp hay không. Điều này được thể hiện khá
rõ qua Biểu đồ 2.4, quan sát số lượng các doanh nghiệp cổ phần hóa trong những năm
gần đây, chúng tôi nhận thấy rằng số lượng này có xu hướng giảm mạnh qua các năm, từ
60 doanh nghiệp thực hiện cổ phần hóa năm 2011 đến năm 2012 con số sụt giảm một
cách nghiêm trọng xuống còn 13 doanh nghiệp và năm 2013 vừa qua, con số này chỉ vỏn
vẹn nằm ở mức 3 doanh nghiệp.
Tuy nhiên, chính phủ đã coi đây là nhiệm vụ chính trị trọng tâm trong cả nhiệm kỳ
của chính phủ, thực hiện tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước, trọng tâm là cổ phần hóa mà
tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước là trọng tâm của tái cơ cấu tổng thể nền kinh tế. Chính
vì vậy trong hiện tại việc cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước có thể gặp khó khăn nhưng
trong tương lai, chắc chắn sẽ thu được kết quả khả quan hơn
Cổ phần hóa không hiệu quả
Từ trước đến nay, cổ phần hóa ở Việt Nam khá khó khăn. Trước đây, khi chính
phủ công bố đã cổ phần hóa một con số rất lớn là hơn 3000 doanh nghiệp nhà nước trong
6-7 năm, nhưng thực chất đây đều là những đơn vị rất nhỏ, có thể là một cửa hàng mậu
dịch quốc doanh đang hoạt động yếu hoặc thực tế là đã chết. Khi Việt Nam chuẩn bị gia
nhập WTO, sau Đại hội Đảng năm 2006, người đứng đầu cổ phần tuyên bố sẽ cổ phần
hóa 500 doanh nghiệp, nhưng cuối cùng chỉ đạt không tới một nửa, chỉ làm trong 2 năm
2006-2007, sau đó chững lại.
Bên cạnh đó, một câu hỏi được đặt ra nữa là nguồn quỹ từ cổ phần hóa đang ở đâu
và đã được sử dụng như thế nào trong những năm qua, ngay cả đến Quốc hội – cơ quan
đại diện cho toàn dân cũng còn bỏ ngõ trước câu hỏi này.
Trang 52
5. KẾT LUẬN
Bài nghiên cứu này của chúng tôi nghiên cứu tác động tài khóa của cổ phần hóa
đến doanh thu thuế ở Việt Nam giai đoạn từ quý 4 năm 1995 đến quý 4 năm 2013 bằng
việc sử mô hình ARCH/ GARCH, VECM. Mặc dù trước đây có rất nhiều bài nghiên cứu
về tác động của cổ phần hóa ở các quốc gia khác nhưng đây là bài nghiên cứu đầu tiên về
mối quan hệ giữa cổ phần hóa và ngân sách nhà nước đặc biệt là doanh thu thuế ở nền
kinh tế Việt Nam. Chúng tôi đã phân tích được tác động của cổ phần hóa đến doanh thu
thu thuế trong cùng thời điểm, đồng thời đo lường được tác động cân bằng dài hạn giữa
hai biến này.
Đầu tiên, chúng tôi tập trung vào thiết lập nền tảng bằng cách phân tích tác động
của cổ phần hóa đến các biến số vĩ mô và ổn định tài chính với mục đích chính là mối
quan hệ giữa cổ phần hóa và doanh thu thuế. Từ kết quả ước lượng mô hình kết hợp cùng
các bằng chứng thuyết phục, chúng tôi có thể khẳng định rằng tồn tại mối tương quan âm
giữa cổ phần hóa và doanh thu thuế, điều này phản ánh gần như chính xác thực trạng cổ
phần hóa hiện nay ở Việt Nam. Cụ thể, chần chừ tiến hành cổ phần hóa vì những bất cập
và không đồng bộ trong bộ máy nhà nước, cổ phần hóa không thật sự hiệu quả, năng lực
quản lý thuế yếu kém gây thất thoát nguồn thu thuế nghiêm trọng nhưng quan trọng nhất
có thể kể đến là chính sách miễn, giảm thuế của nhà nước đối với các doanh nghiệp cổ
phần hóa trong những năm gần đây. Chính sách này đã làm giảm đáng kể tác động của cổ
phần hóa đến ngân sách nhà nước mà đặc biệt là doanh thu thuế.
Bài nghiên cứu của chúng tôi có thể được xem xét bởi các nhà điều hành chính
sách tại Việt Nam. Kết quả nghiên cứu đã chỉ ra rằng tác động tài khóa của cổ phần hóa
theo thời gian có thể tác động tiêu cực đến ngân sách nhà nước nếu cải cách thuế không
được thông qua một cách kịp thời, đồng thời quản lý doanh thu thuế không có những
bước cải tiến nhất định để bắt kịp những thay đổi mới trong nền kinh tế định hướng thị
trường. Đã có rất nhiều các quốc gia trên thế giới thành công trong chính sách cổ phần
hóa doanh nghiệp nhà nước khi áp dụng cải cách thuế hay tăng cường lợi nhuận thuế
Trang 53
bằng cách hợp lý hóa nhượng quyền ưu đãi thuế. Đây có thể được xem là kinh nghiệm
đáng quý cho Việt Nam.
Vẫn còn nhiều khiếm khuyết chưa thể giải quyết được trong bài nghiên cứu của
chúng tôi khi thực hiện tại Việt Nam. Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi nhận thấy
rằng chính sách cổ phần hóa thật sự là một hướng đi đúng đắn tiếp theo mà Việt Nam cần
theo đuổi. Nếu cổ phần hóa đi kèm với các cải cách thuế kịp thời và phù hợp, chúng tôi
kỳ vọng trong tương lai mối quan hệ giữa cổ phần hóa và ngân sách nhà nước đặc biệt là
doanh thu thuế sẽ có những bước tiến khả quan hơn. Đây có thể được xem là một hướng
nghiên cứu đầy tiềm năng cho các công trình tiếp theo.
Trang 54
PHỤ LỤC HÌNH
Hình 4.1: Kết quả kiểm định tự tương quan
Hình 4.2: Kết quả kiểm định hiệu ứng ARCH
Trang 55
Hình 4.3: Kết quả hồi quy mô hình T-GARCH
Hình 4.4: Kết quả hồi quy mô hình GARCH
Trang 56
Hình 4.5:Kiểm định đồng liên kết
Hình 4.6: Kết quả hồi quy độ trễ
Trang 57
Hình 4.7: Kết quả hồi quy mô hình VECM 10 biến
Trang 58
Hình 4.8: Kiểm định tính dừng phần dư mô hình VECM
Hình 4.9: Kiểm định tương quan dài hạn mô hình VECM ban đầu
Hình 4.10: Kiểm định tương quan ngắn hạn mô hình VECM ban đầu
Hình 4.11: Kiểm định mối quan hệ nhân quả Granger
Trang 59
Hình 4.12: Mối liên hệ đồng liên kết giữa thuế và cổ phần hóa
Hình 4.13: Kiểm định mối quan hệ trong ngắn hạn bằng kiểm định Wald-test
Trang 60
Hình 4.14: Kết quả hồi quy mô hình VECM 2 biến
Trang 61
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Antonio Fat´ as and Ilian Mihov (2004). The Macroeconomic Effects Of Fiscal Rules In
The U.S. States.
Jorge Martinez-Vazquez and Robert McNab (2000). The Tax Reform Experiment in
Transitional Countries.
World Development Report (2002). Building Institution for Markets.
Albuquerque, R., 2003. The composition of international capital flows: risk sharing
through foreign direct investment. Journal of International Economics 61, 353 –383
Bekaert, G., Harvey, C.R., Lundblad, C., 2005. Does financial liberalization spur growth?
Journal of Financial Economics 77, 3–55.
Bortolotti, B., de Jong, F., Nicodano, G., Schindele, I., 2007. Privatization and stock
market liquidity. Journal of Banking and Finance 31, 297–316
Bortolotti, B., Fantini, M., Siniscalco, D., 2003. Privatization around the world: evidence
from panel data. Journal of Public Economics 88, 305–332
Julie Roin (2011). Privatization and the Sale of Tax Revenues.
Helena Beddari (2011). Fiscal and Macroeconomic Impacts of Privatization.
Fabian Gouret (2007). Privatization and output behavior during the transition: Methods
matter. Journal of Comparative Economics 35, 3–34.
Athar Hussain and Nicholas Stem (1993). The Role of the State, Ownership and Taxation
in Transitional Economies*. Economics of Transition, Volume (I), 61-87.
Jukka Pirttilä (1999). Tax Evasion and Economies in Transition: Lessons from Tax
Theory. BOFIT, Discussion Papers
Trang 62
Daniel Berkowitz and Wei Li (1999). Tax Rights in Transition Economies: A Tragedy of
the Commons?.
Rosa Capolupo and Giuseppe Celi (1989). Openness and growth in alternative trading
regimes. Evidence from EEC and CMEA’s customs unions.
TS. Phan Hiển Minh; TS. Nguyễn Ngọc Thanh; ThS. Châu Thành Nghĩa (2001). Giáo
trình Thuế thực hành.
PriceWaterHouse Corporation (2013). Sổ tay thuế Việt Nam
Vito Tanzi and Howell H.Zee (2000). Tax Policy for Emerging Markets: Developing
Countries. IMF Working Paper WP/00/35.
Vito Tanzi and George Tsibouris (2000). Fiscal Reform Over Ten Years of Transition.
IMF Working Paper WP/00/113.
John Nellis (2005). Privatization In Developing Countries: A Summary Assessment.
Distinguished Lecture Series 24.
Rui Sousa Monteiro (2010. Fundamentals of Public-Private Partnerships and
Privatization.
Vietnam Development Report (2012). Market Economy For A Middle-Income Vietnam.
William L. Megginson (2009). Privatization Trends and Major Deals.
Adnan Filipovic, Furman University (2005). Impact of Privatization on Economic
Growth. Issues in Political Economy, Vol. 14
Anh T.T Vu (2006). Competition and Privatization in Vietnam: Substitutes or
Complements?.
Yannis Katsoulakos and Elissavet Likoyanni (2002). Fiscal and Other Macroeconomic
Effects of Privatization.
Trang 63
Fredrik Sjöholm (2006). State Owned Enterprises And Equitization In Vietnam. Working
Paper 228.
Steven Barnett (2000). Evidence on the Fiscal and Macroeconomic Impact of
Privatization.
Nancy Brune, Geoffrey Garrett and Bruce Kogut (2003). The International Monetary
Fund And The Global Spread Of Privatization.
Thomas Baunsgaard and Michael Keen (2005). Tax Revenue and (or?) Trade
Liberalization.
Saul Estrin, London School of Economics and Political Science (2007). The Impact of
Privatization in Transition Economies.
Boubakri, N., Cosset, J.-C., Smaoui, H., 2009. Does privatization foster changes in the
quality of legal institutions? Journal of Financial ReseARCH 32, 169–197.
Boycko, M., Shleifer, A., Vishny, R., 1996. A theory of privatization. Economic Journal
106, 309–319.
Daude, C., Fratzscher, M., 2008. The pecking-order of cross-border investment. Journal
of International Economics 74, 94–119.
Dyck, A., 2001. Privatization and corporate governance: principles, evidence and future
challenges. The World Bank ReseARCH Observer 16, 59–84.
Globerman, S., Shapiro, D., 2003. Governance infrastructure and US foreign direct
investment. Journal of International Business Studies 34, 19–39.
Henisz, W.J., 2000. The institutional environment for economic growth. Economics and
Politics 12, 1–31.
Trang 64
Kaufmann, D., Siegelbaum, P., 1997. Privatization and corruption in transition
economies. Journal of International Affairs 50, 419–458.
Megginson, W.L., Nash, R., Netter, J.N., Poulsen, A.B., 2004. The choice of private
versus public capital markets: evidence from privatizations. Journal of Finance 59, 2835–
2870.
Perotti, E., van Oijen, P., 2001. Privatization, market development, and political risk in
emerging economies. Journal of International Money and Finance 20, 43–69.
Portes, R., Rey, H., 2005. The determinants of cross-border equity flows. Journal of
International Economics 65, 269–296.
World Bank, Global Development Finance, 2008. The Role of International Banking.