
Tâm lý học hiện
đại
Như đã trình bày, có rất nhiều lý thuyết về tâm lý học hiện
đại. Tuy nhiên, ở đây tác giả chỉ đề cập đến một số lý thuyết
tiêu biểu liên hệ đến tâm lý con người và tâm lý xã hội,
nghĩa là các thuyết được tập trung vào các vấn đề then chốt
như: tâm thức và bản ngã (hay nhân tính) trong tương quan giữa con người v
à
xã hội; và đó cũng là điểm trọng tâm của ngành tâm lý giáo dục hiện đại.
1- Lý thuyết của George Herbert Mead (1863-1931)
George H. Mead là một giáo sư triết học về tâm lý xã hội thuộc Đại học
Chicago, ông là một học giả chuyên chính có ảnh hưởng rộng lớn; tuy nhiên,
chưa bao giờ viết sách hay báo để biện minh học thuyết của mình. Những lớp
tâm lý học đầu tiên của ông được dạy từ năm 1900 tại Đại học Chicago. Về
sau, vào những năm 1927-1930, người ta đã viết lại tư tưởng của Mead và
phổ biến rộng rãi. Phần trình bày dưới đây được trích dẫn từ tác phẩm "Mind
Self and Society" và được tóm tắt trong nội dung quyển "Sociology" của
Leonard Broom, và Philip Selznick. Nội dung lý thuyết tâm lý của Mead
được trình bày qua các điểm trung tâm của: tâm thức, bản ngã, và xã hội.
Chủ thuyết của Mead, cũng như John Dewey (một triết gia thực nghiệm), cho
rằng cơ cấu tâm lý của con người là một hệ thống bao gồm: tâm thức, bản ng
ã
và xã hội. Tuy nhiên, theo Mead, tâm thức (mind) và bản ngã (self) vốn là s
ản

phẩm của xã hội. Tâm thức và bản ngã là một hệ thống xã hội, phát sinh từ
kinh nghiệm xã hội; và do đó, có thể xem bản ngã của tâm thức là một đơn vị
độc lập, nhưng không thể phát sinh ngoài kinh nghiệm xã hội.
Mead, qua ghi nhận của L. Broom và P. Selznick, lý luận rằng: "Tư tư
ởng hay
tâm linh và bản ngã, chỉ xuất hiện trong diễn tiến giao tế và giao dịch xã hội,
chứ không thể có trước xã hội. Nhưng làm thế nào giao tế và giao dịch xã hội
có thể hoạt động trước tâm linh và bản ngã ?". Mead giải thích: "Khả năng
giao dịch và giao tế là khả năng sinh lý của những sinh vật thư
ợng đẳng. Thực
vậy, giao tế bằng những phương tiện không dùng ngôn ngữ trong những hoạt
động chung là điều kiện có trước ngôn ngữ. Ngôn ngữ đã góp thêm vào sự
giao dịch và giao tế thô sơ, của loài người bằng cách làm cho xã hội hóa có
thể thực hiện được. Nhờ ngôn ngữ nên người ta có thể lĩnh hội rõ ràng thái độ
của những kẻ khác và các đoàn thể họ tham dự vào... Cuối cùng, tâm thức và
bản ngã phát sinh khi giao tế xã hội đi song song với ngôn ngữ và do ngôn
ngữ mà được hoàn thành".
Từ đó, lý thuyết tâm lý của Mead đưa ra tiến trình phát sinh và phát triển của
bản ngã từ thái độ bắt chước đến khả năng tổng quát-liên h
ệ. Có thể tóm tắt lý
luận căn bản của Mead như sau:
a) Giao tế tiền ngôn ngữ
Trong nhiều trường hợp, các giống vật giao cấu với nhau và săn sóc trẻ con
làm cho phát sinh sự tương quan giữa con này và con kia, đó là sự phát sinh
của đời sống gia đình- thô sơ trong các giống vật thấp hơn người.
Đối với con người, do đó, nếu không thể giao dịch bằng cử chỉ - (hành động

không lời) - thì không thể giao tiếp bằng ngôn ngữ. Vì lẽ các trẻ em nhỏ tuổi,
nó sẽ không hiểu được "giận" hay "đói" là gì trừ phi nó hiểu được cử chỉ giận
hờn và cho ăn của người mẹ v.v... Đây là giai đoạn đầu của ý thức về bản ngã
hay giai đoạn giao tế tiền ngôn ngữ.
b) Giai đoạn ngôn ngữ hình thành tâm thức và bản ngã
Trong trường hợp này, Mead cho rằng, nhờ có ngôn ngữ nên có tư tưởng và
nhờ có tư tưởng nên mới có sự giao tế; và nhờ có ngôn ngữ nên có thể thay
thế tư tưởng bằng hành vi, thái độ, cử chỉ... Ở đây, sau khi đứa bé hiểu được
cử chỉ "giận hờn" và học được chữ "giận hờn", người mẹ không cần dùng đến
cử chỉ nữa mà chỉ dùng lời nói để biểu thị tư tưởng. Và, vì mẹ và con cùng
hiểu những khái niệm về cử chỉ và ngôn ngữ, nên đứa bé có ý niệm về sự
"giận hờn" ... Do đó, tự nó sẽ làm theo những gì phù hợp với ý muốn của mẹ
nó (hay ý muốn của những người xung quanh nó); nghĩa là nó lấy thái độ của
người khác hay những thái độ được qui ước chung của xã hội làm khuôn mẫu
nương theo. Đây là sự hình thành nhân tính hay ý thức về tự ngã đầu tiên của
mỗi con người.
c) Bản ngã - xã hội
Như vừa đề cập, sự phát sinh thế giới ý niệm của trẻ con là do sự học tập và
hấp thụ thái độ, ngôn ngữ, quan điểm,... của kẻ khác; và bằng cách đó, xã hội
"đi vào cá nhân". Nhưng theo Mead thì chỉ có con người mới có khả năng
kiểm thảo và tự kiểm thảo; và sự tự kiểm thảo đó là kết quả của xã hội. Vì từ
đầu, nguyên tắc hướng dẫn con người vốn là kết quả của sự lĩnh hội các thái
độ và quan điểm... từ những người khác, tức từ xã hội mà không phải là từ
con người chính nó. Vì thế, ý thức về tự ngã luôn luôn mang tính xã hội, và
hiện hữu giữa tương quan của con người và xã hội.

d) Bản ngã và sở hữu tự ngã
Ở điểm này, Mead nới rộng quan niệm về tự ngã, cho rằng nó không những l
à
sản phẩm của xã hội mà còn có tính chất sáng tạo. Từ đó, ông chia bản ngã
thành hai loại: bản ngã và sở hữu tự ngã (hay cái thuộc tính cố định của bản
ngã). Nếu nói theo từ ngữ của Freud thì bản ngã không bị kiểm soát bởi sở
hữu tự ngã, mà trái lại, sở hữu tự ngã là một phần của bản ngã. Do đó, sở hữu
tự ngã có thể gọi là những tri kiến, kinh nghiệm, khát vọng ... của bản ng
ã. Và
như thế, nó không hẳn lúc nào cũng bị chi phối bởi những gì mà nó lĩnh hội,
nhưng trái lại, nó có thể hành động rất sáng tạo, ảnh hưởng đến hay thay đổi
mọi cơ cấu của tiến trình xã hội.
2- Lý thuyết của Sigmund Freud (1856-1939)
Sigmund Freud là một bác sĩ về thần kinh và tâm thần người Áo, sáng lập
ngành Phân tâm học (Psychoanalysis). Vì Freud là gốc ngư
ời Do Thái, từ năm
1938 ông sống lưu vong để tỵ nạn chế độ phát xít Đức, và mất tại Anh vào
năm 1939. Xuất phát từ một phương pháp trị bệnh rối loạn thần kinh đặc biệt
(hystérie), Freud đã đề xuất phép trị liệu phân tâm học bằng sự sử dụng liên
tưởng, mộng để phân tích những động lực mạnh (choc) gây bệnh. Về sau
phân tâm học trở thành chủ nghĩa Freud (Freudianism) và đề xuất hai bản
năng gốc là "bản năng tình dục" và "bản năng chết", xem đó là nguyên động
lực chi phối tiến trình lịch sử nhân loại. Sau đó, lại tiếp tục hình thành nên
chủ nghĩa Freud mới (Neo-Freudianism) với các đại biểu chính là E. Fromn,
K. Horney v.v...
Lý thuyết của Freud có thể được tóm tắt như sau: Freud cho rằng cấu trúc
nhân tính hay ngã tính của con người bao gồm ba phần: Bản năng (Id), ngã

tính (ego) và siêu ngã (superego), cũng gọi là "ý thức" ba ngôi.
a) Bản năng (Id):
Bản năng là cội nguồn nhân tính của con người, ở đó tích lũy các nguồn năng
lượng và cung cấp năng lực cho các hoạt động tâm lý như ý thức (ego) v
à siêu
thức (superego). Khi nguồn năng lượng gia tăng khiến cho bản năng bùng
phát mạnh tạo thành những cú sốc (choc) tâm lý khó chịu, căng thẳng, bực
tức ... Ngược lại, sự giải trừ các căng thẳng và qui giảm năng lượng trở về
trạng thái ổn định, thư giãn ... là con đường phấn khích đưa đến khoái lạc. Do
đó, bản năng được chia thành hai loại tác năng chính, đó là: "bản năng tình
dục" (libido) và "bản năng chết".
- Về bản năng tình dục (libido): nó là cội nguồn, năng lượng tình dục, năng
lực kích thích tình dục, phấn khích tình yêu ... và chi ph
ối đời sống nội tâm. Ở
điểm này libido được xem như là "nguyên tắc khoái lạc". Nó vừa là sự phát
triển tình dục của người lành mạnh và được mở rộng cho đến các hoạt động
khoa học, mỹ thuật của cá nhân, lại vừa là căn nguyên của bệnh lý. Về sau,
Freud liên hệ rộng hơn nữa về khái niệm libido cho tất cả xung năng của tình
yêu, như tình yêu giữa bố mẹ và con cái...
- Về bản năng chết (pulsion de mort) hay lực chết: nó diễn ra theo chiều
hướng ngược lại khi tùy vào mức độ tăng tốc của năng lượng trong bản năng
(Id) đi đến đỉnh cao như tức tối, giận dữ... làm tăng huyết áp, ngất xỉu, tử
vong...
Theo nhận xét của C. Jung, libido không những là xung năng (pulsion) của
tình dục, mà còn là năng lượng của tâm lý nói chung.
b) Ý thức tự ngã (ego)
Freud cho rằng, ý thức tự ngã luôn luôn bị chi phối bởi bản năng (Id) mà nội

