Thách thức của quá trình hội tụ kế toán quốc
tế và những kinh nghiệm cho Việt Nam
Quá trình hội tụ kế toán quốc tế ngày càng được sự quan tâm của các tổ chức quốc tế về kế
toán cũng như các quốc gia trên thế giới. Nhiều quốc gia đã chủ động và tích cực tham gia
bằng việc áp dụng chuẩn mực quốc tế về lập và trình bày báo cáo tài chính (IAS/IFRS).
Thách thức của quá trình hội tụ kế toán quốc tế và những kinh nghiệm cho Việt Nam
Viễn cảnh hội tkế toán quốc tế từ chuẩn mực đến thực tiễn là một quá trình đầy thử thách bởi
thực trạng việc vận dụng chuẩn mực của các quốc gia và từng khu vực theo những phương pháp
tiếp cận khác nhau. Mặc dù viễn cảnh hội tụ kế toán quốc tế còn nhiều cản trở phải hướng tới để
đạt được mục tiêu chung nhưng phải thừa nhận rằng hội tụ kế toán quốc tế là xu thế tất yếu,
khách quan trong tiến trình phát triển. Trước tình hình đó, một quốc gia đang phát triển như Việt
Nam không thể đứng ngoàing chảy của xu hướng này. Song, Việt Nam cần phải nhận định
đúng đắn tình hình để có l trình thích hợp, đáp ứng phát triển kinh tế.
1. Tiến trình hội tụ kế toán quốc tế
Hội tụ kế toán quốc tế về cơ bản tiến triển qua các thời kỳ, cụ thể từ 1973 1989 là giai đoạn
đầu của hòa hp kế toán quốc tế khi Ủy ban chuẩn mực kế toán quốc tế (IASC) được thành lập.
Hòa hp ở giai đoạn này chủ yếu là thu hẹp sự khác biệt kế toán giữa các quốc gia bằng việc áp
dụng chuẩn mc kế toán (CMKT) cho phép nhiều sự lựa chọn nhằm thích nghi kế toán ở các
quc gia. Tuy nhiên, chính s“dễ dãi” này của IASC đã không đáp ứng được thông tin trên báo
cáo tài chính (BCTC) cho người sử dụng. Trước sức ép của nhng người sử dụng thông tin trên
BCTC cũng như tìm kiếm sự ủng hộ của các quốc gia và các tchức trên thế giới, giai đoạn
1989 – 1993, IASC đã có nhiều sự cải thiện đáng kể bằng việc gim dần sự lựa chọn các phương
pháp, nguyên tắc trong CMKT. Do gim các lựa chọn nên các CMKT của IASC đã đảm bảo hơn
tính so sánh thông tin trên BCTC. Sau đó, giai đoạn 1993 - 2001, IASC đã tái cấu trúc để hình
tnh Hi đồng chuẩn mc kế toán quc tế (IASB). Mục đích của IASB nhằm phát triển hệ
thống chuẩn mực quốc tế về lập và trình bày BCTC, hình thành k nguyên mới hướng tới hi t
kế toán toàn cầu.
Từ đó đến nay, quá trình hi tụ kế toán quốc tế ngày càng được sự quan tâm của các tổ chức
quc tế về kế toán cũng như các quốc gia trên thế giới. Ngay những năm đầu 2005, hệ thống
IAS/IFRS đã được áp dụng mt cách phổ biến với 65 quốc gia ở Châu Âu, Úc, Nam Phi, Trung
Quốc và các nước Đông Nam Á vv... đang thực thi việc áp dụng. Theo điều tra được thực hiện
bởi ng ty kiểm toán Deloitte (2010) với 173 quốc gia, kết quả cho thấy 123 quốc gia bắt buộc
yêu cầu áp dụng IAS/IFRS. Nếu so với nhng năm trước, số lượng các quốc gia áp dụng
IAS/IFRS ngày càng gia tăng đáng kể.
2. Thách thức hội tụ kế toán quốc tế từ chuẩn mực đến thực tiễn
Hội tụ kế toán quốc tế từ chuẩn mực đến thực tin đầy thử tch, vẫn còn mt khoảng cách nhất
định để đạt được mục tiêu chung nhằm xây dựng chuẩn mực quốc tế chất lượng cao. Quá trình
đó là bài toán phức tạp và nan giải bởi chúng xuất phát tnhiều nguyên nhân kc nhau vmôi
trường kinh doanh, pháp lý văn hóa trong mi quốc gia. Do đó, xu thế hội tkế toán của mt
squốc gia có thể thống nhất trong chuẩn mực nhưng chưa hoàn toàn nhất quán trong thực tế.
2.1. Liên minh châu Âu
Từ nhng năm 1995, Liên minh châu Âu (EU) đã bt đầu có chiến lược hội nhập kế toán. EU đã
áp dụng CMKT quốc tế được IASC ban hành với mục đích thiết lập chuẩn mực được chấp nhận
bởi thị trường vốn toàn cầu. Tháng 6.2000 EU đã đề nghịc công ty niêm yết lập BCTC hợp
nht theo IAS/IFRS nhưng từng IAS/IFRS phải được xác nhận và thông qua luật tổ chức EU
theo qui trình tchức riêng biệt. Ngoài ra, tháng 3.2011, Tổ chức tư vấn BCTC của EU công bố
chi tiết tiến trình hi tvới IASB về các nội dung liên quan đếnng cụ tài chính, thuê tài chính,
điều kiện ghi nhận doanh thu và hp đồng bảo him. Đến 11.2011, Tổ chứcy đang chờ thông
qua các IFRS 1, IFRS 9, IFRS 10, IFRS 11, IFRS 12, IFRS 13 và đang chờ chỉnh sửa IAS1, IAS
12, IAS 19, IAS 21, IAS 28 cũng như điều chỉnh IFRS 20.
Như vậy thể thấy, về nguyên tắc chung EU áp dụng hoàn toàn IAS/IFRS tuy nhiên việc EU
thông qua từng IAS/IFRS tạo nên hthống chưa thật sự đồng bộ so với IAS/IFRS bởi còn mt s
IAS/IFRS và các hướng dẫn chưa được thông qua. Vì vy tính thống nhất trong hệ thống chuẩn
mực chưa hoàn chỉnh. Do đó, CMKT của các quốc gia EU cũng khó được nhất quán và điều này
dẫn đến việc áp dụng các nguyên tắc, qui định kế toán vào thực tế của các công ty sẽ tạo ra
những khác biệt nhất định.
Để làm sáng t nhng nội dung trên, trong báo cáo của EC về việc thực thi IAS/IFRS của EU
được công bố tng 10.2007, EC đã sử dụng mô hình với 200 công ty niêm yết của 25 quốc gia
trong EU của năm 2005 và 2006. Theo kết quả báo cáo, mặc dù các công ty đều áp dụng
IAS/IFRS hoặc IAS/IFRS-EU (IAS/IFRS được thông qua bởi EU) nhưng các công ty của các
quc gia vẫn những khác biệt nhất định, cụ thể: BCTC của các công ty trình bày không rõ
ràng; thiếu công bố về chính sách kế toán hoặc có công b nhưng không phù hợp; những khác
biệt trong chính sách kế toán của các công ty đối với ghi nhận doanh thu; phân loại tài sản tài
chính, tài sn tài chính sẵn sàng để bán… Trên cơ sở đó, để tiếp tục đánh giá mc độ áp dụng
của các công ty trong các quốc gia EU theo thời gian, EC đã phân tích 270 BCTC các quốc gia
công bnăm 2006 và 2007 trong EU được EC công b tháng 12.2008. Kết quả cho thấy những
khác biệt cơ bản vẫn tồn tại trong thực tế trên BCTC của các công ty. Qua tổng kết hai báo cáo
của EC, nhìn chung mức độ áp dụng trong thực tế của các công ty trong EU vẫn còn những khác
biệt đáng kể. Điều đó phản ánh thực trạng rằng mặc dù áp dụng IAS/IFRS trong cùng khu vực
kinh tế EU nhưng mức độ có thể khác nhau ở cấp độ quốc gia và thực tế các công ty.
Ngoài ra, để nhìn nhận mt cách khách quan, mt nghiên cứu độc lập của Erlend Kvaal và
Christopher Nobe (2009) đã đánh giá sự khác biệt trong thực tế về chính sách kế toán của
IAS/IFRS của các quốc gia. Nghiên cứu đã sử dụng các BCTC của các công ty “blue chipcủa 5
th trường chứng khoán (TTCK) lớn nhất trong năm 2005 và 2006 với 5 quốc gia Úc, Pháp, Đức,
y Ban Nha và Anh. Kết quả nghiên cứu cho thấy, việc áp dụng IAS/IFRS trong thực tế còn
những khác biệt đối vớic quốc gia khác nhau. Nvậy, rõ ràng trong thực tế, các quốc gia
được sử dụng trong nghiên cứu đã đi ngược lại mục tiêu chung là xây dng chuẩn mực toàn cầu
chất lượng cao. Hơn nữa, Stefano Cascino (2009), đã phân tích thực nghiệm về sự khác biệt
trong thực tế kế toán của các công ty niêm yết Đức và Ý. Mô hình nghiên cứu chọn mẫu 354
công ty áp dụng IAS/IFRS của Đức và Ý từ năm 1998 đến 2008. Nghiên cứu thực nghiệm đã đi
đến kết luận rằng các công ty Đức, Ý áp dụng các nguyên tắc kế toán được chấp nhận chung
(GAAP) quc gia hơn là thực thi IAS/IFRS. Đồng thời, nghiên cứu đã minh chứng sự khác biệt
trong thực tế ở mức độ quốc gia, khu vực và ngay cđối với thực tế các công ty.
Có ththấy, các quốc gia EU vẫn bảo lưu những quan điểm riêng trong hệ thống kế toán khu vực
mặc dù EU rất tích cực tham gia quá trình xây dng IAS/IFRS. Hội tụ kế toán quốc tế còn hình
thức của EU do phương pháp tiếp cận riêng của các quốc gia trong cùng khu vực. Mặc dù trên
nguyên tắc chung EU áp dụng nguyên bản IAS/IFRS nhưng vấn đề ở chỗ EU không chấp nhận
toàn bIAS/IFRS mà phê duyệt từng chuẩn mực để áp dụng. Không những thế, thực tế các công
ty của các quốc gia trong EU vẫn nhng khác biệt đáng kể.
2.2. M
Hoạt động hướng tới hội tcủa Hội đồng chuẩn mực kế toán tài chính của Mỹ (FASB) từ nhng
năm 2002 - 2004 phải kể đến là thỏa hiệp Norwalk giữa IASB và FASB để phát triển chuẩn mực
chất lượng cao. Thỏa hiệp đã nhất trí các nội dung cơ bản là tiếp tục hợp tác trong tương lai; thực