NGHIÊN CỨU - TRAO Đổl
12
THẦN THOẠI VÊ NGUỒN GỐC CÂY LÚA VÀ Sự PHẢN
ÁNH NÉT VĂN HOÁ NÔNG NGHIỆP LÚA NƯỚC CÃC DÂN TỘC VIỆT NAM
NGUYỄN THỊ HUẾ
chuyện thần thoại hết sức phong phú về cây lúa của họ. Chúng ta có thể thấy những thần thoại về lúa phản ánh tính chất chung của các yếu tố văn hoá, xã hội, tinh thần của cư dân nông nghiệp Việt Nam trên con đường dài phát hiện, tìm tòi và thuần hóa cây lúa, làm cho nó trỏ thành nguồn lương thực chính nuôi sông con người. Đồng thòi chúng ta cũng có thể thấy những thần thoại về lúa có những biến đổi qua tiến trình lịch sử - một tiến trình không đơn tuyến mà đa tuyến. Vổi số lượng truyện kể khá phong phú, những thần thoại về lúa có thể hệ thông thành bôn kiểu (type) truyện tiêu biểu như sau:
Type 1: Đi xin giấng lúa, giếng ngô
Type này gồm có bôn truyện kể thuộc bốn dân tộc là Pu Péo, Xơ Đăng, Mường và Chu Ru, cụ thể như sau: 1. Mẹ Lúa, Mẹ Ngô (Pu Péo - TCPP, tr. 5)(2); 2. Sự tích cây lúa (Xơ Đăng - TCDTIN, II, tr. 66 - 68; TCXĐ, tr. 15-16)<3); 3. Lịch sử làm ra ruộng lúa (Mường - TCTMN, tr. 93 - 94)(4); 4. Cơn giận của thần lúa (Chu Ru - TCCR, tr. 9 - 11)(5).
(a) Con người lên trời xin giống lúa, giôhg ngô
lệt Nam là quốc gia có truyền thông lúa nước, lương thực chính của người dân Việt Nam là gạo. Các kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học trong và ngoài nưổc đã chứng minh cây lúa Việt Nam là một cây bản địa, cách nay hàng vạn năm đã gắn bó chặt chẽ với đời sống ngưòi dân Việt Nam, nó không phải là loại cây từ nơi khác đưa tới. Nhà nghiên cứu nông học Bùi Huy Đáp trong công trình Van minh lúa nước và nghề trồng lúa Việt Nam cũng đã khẳng định “Việt Nam nằm trong cái nôi lớn sinh ra nghề trồng lúa của loài người...”(1). Có lẽ chính vì vậy mà trong kho tàng văn học dân gian các dân tộc Việt Nam đã lưu giữ và truyền tụng rất nhiều những câu chuyện thần thoại về cây lúa và trong tâm tưởng của người dân Việt Nam tự ngàn đồi, cây lúa đã được suy tôn như một bậc thần linh, được cúng tế lúc gieo trồng, khi thu hoạch, thậm chí còn được coi như đã sinh ra con người...
ở hầu hết các dân tộc Việt Nam, có thể nói là khắp từ bắc tới nam, từ miền núi đến đồng bằng, truyện kể về nguồn gốc của cây lúa rất đa dạng, mỗi một tộc người đã tạo ra cho mình những câu Các câu chuyện kể rằng, xưa khi việc đi lại giữa trời và đất còn dễ dàng, con người đã phải lên trời xin giống lúa, giống ngô. Truyện của người Pu Péo kể “Xưa, con ngưồi chưa có lúa ăn, họ phải ăn củ mài, củ nâu. Có hai vị thiên thần (hai ông Sáng, Sáng Ngày (Mặt Tròi), Sáng Đêm (Mặt Trăng)) mách cho ngưòi lên trời xin hạt giông”. Còn người Xơ Đăng và người Chu Ru thì kể “Trên tròi có bà Ngọc Huyệt giả làm bà lão ăn xin, xuống mặt đất thấy ngưòi đói khô’ đã cho hai anh em
TẠP CHÍ VHDG s ố 1/2011
13
ăn thử cơm gạo, thấy ngon” và “Nữ thần Lúa từ trên tròi thấy con người vất vả kiếm ăn nên đã giả dạng thành ngưòi phụ nữ đem đến cho con người một thứ hạt vàng óng”.
(b) Được cho giôhg, cho cách gieo
trồng
hiện thân của mốỉ quan hệ giữa con ngưồi với thần trời, có hình dạng một bà già tốt bụng đã cho con người giống lúa... Trong truyện của người Mạ khi kể về việc Đẻ đất đẻ người (IV) đã kể rằng N’Đu, vị thần tối cao của người Mạ thấy loài ngưồi nghèo khổ, phải vào rừng đào củ hái quả kiếm ăn bèn sai nữ thần Lúa hiện hình thành hai con chim phí, chim tek. Chim theo thần bay đi lấy lúa trời rồi đậu trên cành đa (jrĩ), trên dây leo Ọtlác) nhả hạt, người Mạ đem hạt gieo xuống đất và có lúa ăn từ đó.
(c) Trả ơn người cho giống lúa, giống ngô
Kết quả là con người đã được các vị thần cho giông lúa và dạy cho cách gieo trồng “Con người lên gặp người giữ kho (Dé Ling, Dé Lúa) của Tròi để xin giông lúa, giông ngô. Thiên thần lại mách cho người biết cách gieo trồng. Con người cầu cúng thần linh, từ đó có lúa, ngô ăn thay củ nâu củ mài” hoặc “Bà lão cho giống lúa và bắp, bày cách trỉa lỗ, gieo trồng. Lúa, bắp sinh sôi ngày càng nhiều, hai anh em đổi lúa cho dân làng có cái ăn” và Nữ thần cho con người hạt lúa, dạy họ cách trồng, gieo hạt và thu hoạch”.
Từ khi trần gian có lúa, người Mường nhổ ơn, hằng năm, đến mùa cơm mổi lại làm lễ cúng nàng Dặt Cái Dành và nữ thần Tiên Tiên Mái Lúa. Nhớ ơn, con người gọi mẹ Lúa, mẹ Ngô, hay khi lúa chín, người ra nương rẫy làm lễ cúng các vị thần đã cho lúa, cho ngô hay lập đền thờ nữ thần Lúa theo lòi mách bảo của con trăn. Truyện của ngưòi Chu Ru kể, vì con người bắn nhầm phải con gái thần Lúa dưối dạng một con chim nên bà đã nổi giận làm trời sập đè chết mọi người, còn sót hai đứa trẻ, nữ thần lại dạy chúng cách làm vợ chồng, cách trồng lúa, săn thú.
Type 2: Đi tìm lúa
Người Mường trong sử thi Đẻ đất đẻ nước kể có bà Rấp, bà Rú đi đào củ mài gặp chuột lông đỏ, chuột mách bà về nói với Lang Cun c ần cử nàng Dặt Cái Dành lên trời xin lúa. Nữ thần Tiên Tiên Mái Lúa cho nàng đem về trần 40 giông lúa nà, 30 giông lúa nương. Một nhân vật khác trong truyện của ngưòi Mưòng - ông Tá Bô" Lèm thấy con người đi săn bắt thú nhưng không đủ sống, ông bèn chỉ cách cho con người làm ruộng, đi mua giống lúa về cấy trồng, do đó ngưòi có lúa gạo. Trong bản kể Lên trời xin thóc giông của người Tày (type Tại sao người phải gặt lúa mang về (Sự tích hạt lúa) sẽ giới thiệu dưới đây) cũng kể con người được Pụt (Trồi) cho giông lúa xấu nên đã lên trời xin Pụt các giông lúa tốt, hạt to... để gieo trồng cho đến tận ngày nay.
Hay như ở truyện của các dân tộc Tây Nguyên, lúa được coi là một vị nữ thần, là Type này gồm có sáu truyện kể của năm dân tộc là Lô Lô, Dao, H’Mông, Khơ Mú, Xá, cụ thể như sau: 1. Sự tích cây lúa (Lô Lô - TCLL, tr. 29 - 30)®; 2 Người có lúa ăn (Dao - TCDTTS, tr. 87)(7); 3. Hạt lúa (H’Mong - TTVHDTTS, II, tr. 114)®; 4. Mẹ lúa (Khơ Mú - TCKM, tr. 21 - 224)(9); 5. Tục cúng hồn lúa (Khơ Mú - TCCDTIN, II, tr. 96 - 97)(10); 6. Thóc giống (Xá - TCDGLC, II, tr. 57 - 59)(11).
NGHIÊN CỨU - TRAO Đổl
14
(a) Tình cảnh con người trước khi có
lúa gạo người, còn dân làng lấy tên cô gái đặt cho hạt vàng ấy gọi là Lúa”.
Type 3: Lúa và cỏ
Type này gồm có bôn truyện kể của bôn dân tộc là Hrê, Kinh, Mường, Tày. Cụ thể như sau: 1. Lúa và cỏ (Hrê - TCHR, tr. 88)<12); 2. Lúa và cỏ (Kinh - VNVHTT, tr. 72 - 73)(13); 3. Chấu Vá kéo cày (Mường - TCM (HSB), tr. 308 - 309)(14); 4. Tại sao ngày nay trâu ăn cỏ (Tày - TCBk ’ III, tr. 46)(15).
(a) Lúa và cỏ
Truyện của người Lô Lô kể “Ngày xưa con người chỉ biết ăn rau rừng cỏ dại. Một năm, thời tiết khô hạn, thức ăn khan hiếm. Có hai vợ chồng đi theo một con chim rừng để tìm nguồn thức ăn”. Còn truyện của người Dao thì kể: “Bên kia bờ của một con sông Ịổn, có giông hạt nhỏ ăn được. Người sai chó bơi bảy ngày qua sông để lấy về giống hạt đó”. Hoặc theo người Khơ Mú thì “Xưa người chỉ biết bẫy thú để kiếm sông. Có một cái hang trong đó bay ra những hạt màu vàng, ăn thử thấy ngon, nhưng ngưồi không sao vào hang lấy được”...
(b) Người và các con vật đi tìm lúa
Truyện Lúa và cỏ của người Hrê kể “Lúa và cỏ vốn ỗ riêng biệt, nhưng thường tới thăm nhau luôn vào ban đêm, ban ngày theo quy định ai về nhà nấy. Do một lần cỏ ngủ quên ở nhà lúa đến sáng không thể về được nữa, nên từ đấy lúa ỏ lẫn với cỏ”.
(b) Sự nhầm lẫn tai hại của các vị thiên thần
Truyện Chấu Vá kéo cày của người Mường kể rằng: “Xưa Trời sai Thiên Thần hay Chấu Vá - một viên quan trông coi việc đời sông trần gian, mang các hạt giống xuống mặt đất, vì gieo quá nhiều hạt cỏ nên chỉ còn ít chỗ để gieo hạt lúa, do vậy cỏ mọc nhiều và khoẻ hơn lúa”.
Bằng nhiều cách ngưòi và các con vật đã cùng đi tìm lúa “Thấy chim ăn những hạt vàng, hai vợ chồng liền ăn thử thấy ngon, sau đó lấy hạt về trồng. Đó chính là những hạt lúa chúng ta ăn ngày nay”. Người còn nhờ con vật thân thiết của mình là con chó đi tìm hạt lúa “Chó bơi qua sông há miệng thở, rũ lông làm rơi hết hạt giống vào khe đá, phải nhò chuột lấy giúp. Người gieo hạt trồng thành lúa ăn ngày nay”. Việc tìm lúa khó khăn “Có con vắt xin được ăn máu người con gái trẻ, hứa sẽ vào hang mang những hật màu vàng về cho người. Cô gái nhận lời, nhờ đó dân làng có được hạt giông đem gieo trồng để làm lương thực”.
(c) Phần thưởng dành cho người và
các con vật tỉm ra lúa
Truyện của người Tày cũng kể Trời (Pụt) sai trâu mang xuống hạ giới cho người ít giông lúa, dặn cứ mười hạt lúa lại rắc thêm một hạt cỏ để người không sinh biếng nhác. Trâu nhầm lẫn nên làm ngược lại, rắc mưồi hạt cỏ mối có một hạt lúa. Một bản khác của người Tày kể “Thuỗ trời đất còn hỗn mang, trên trần gian chưa có loài cây cỏ nào ăn được, loài người cứ ngày ngày phải bắt ăn sông nuốt tươi những người bạn rừng của mình. Trên trời cao, Then (Trời) nhìn thấu cả và Phát hiện và tìm ra hạt lúa, người và vật có công đều nhận được những phần thưởng xứng đáng “Khí lúa chín, chim hay chuột ra ruộng hoặc ra nương ăn trước, chó được ăn cơm, vắt được hút máu
TẠP CHÍ VHDG SỐ 1/2011
15
lúa (Khơ Me lác đi xin
sai sứ giả Bọ hung mang túi giông gồm trăm thứ cây cỏ, trong đó có giông lúa để nuôi người và giống cỏ để nuôi súc vật. Sứ giả Bọ hung vì quên lời thần Trồi dặn, đáng lẽ phải trao cho ngưdi giống lúa trước thì lại đem trao cho giống cỏ. Vì cỏ được gieo trước lúa mà nay giông cỏ mới mọc nhiều, mọc khỏe át cả lúa ruộng của người...” .
Truyện của ngưòi H’Mông cũng có đoạn kể “Vua trời sai trâu mang giông cỏ xuôhg và dặn cứ ba bước chân gieo một nắm, trâu đãng trí, dặn người cứ một bước gieo ba nắm. Bởi thế người có lúa ăn nhưng cỏ mọc nhiều, cỏ rậm rì ăn hết đất màu của lúa...”
thần Lúa (Kinh (c) Trâu và người
- TCCL, tr. 21
thác - TTVHDGVN, I, tr. 181 - 182)(18); 3. Cá luá (Khơ Me - Kom Pơlang đi xin TTVHDGVN, I, tr. 182)<19); 4. Vì sao hạt lúa nhỏ như ngày nay (Khơ Me - TTVHDGVN, I, tr. 182 - 183)<20); 5. Tại sao ngày nay hạt lúa lại nhỏ (Tày - TCBK, H, tr. 343 - 344)(21); 6. Tại sao ngày nay hạt lúa lại nhỏ (Tày - TCBK, III, tr. 232 - 233)<22); 7. Lên trời xin thóc giống (Tày - TCBK, I, tr. 44 - 45)<23); 8.' Đám ruộng bằng cái dạng háng chân chim (Tày - TCBK, 58)<24); 9. Sự tích hạt gạo (Thái - TTVHDGTS, III, tr. 460 - 461)<26); 10. Hạt gạo (Thái - TCDGLC, tr. 30 - 31)(26); 11. Bà goá (Thái - HTMT (ĐTO), tr. 93 - 94)(27); 12. N ữ - TTVHDGVN, I, tr. 65)(28); 13. Cây lúa (Kinh - TCCDTVN, I, tr. 530)(29); 14. Kể chuyện trời đất (H’Mông - TTVHDTTS, II, tr. 1008 -1013)(3o); 15. Vì sao phải gặt lúa (Cao Lan - 23; TCCDTINVN, tr. 48 - 50; TTVHDGVN, I, tr. 104 - 105)(31); 16. TỜRal (Cây lúa) (Tà Ôi - TCTO, tr. 5 - 6)(32); 17. Lúa, bắp, cà, ớt QJLạ - TTVHDGTS, III, tr. 277 - 278)(33>; 18. Lúa và chó (Hrê - TCHR, tr. 161)(32).
(a) Đặc tính ban đầu của lúa
Thiên thần hay Chấu Vá của người Mường bị Trời phạt đày xuống mặt đất, hoá làm con trâu kéo cày cho người và phải ăn cỏ suốt đòi. Hay Trời phạt sứ giả Bọ hung hóa thành trâu và đày xuôhg hạ giói ăn cỏ, cày bừa giúp người diệt cỏ. Tương tự, truyện của người Kinh, Mường, Tày, Hrê đều kể do sự nhầm lẫn tai hại của vị thiên thần, mà ngày nay cỏ mọc nhiều và lấn át cả lúa, còn vị thiên thần nọ thì bị Tròi quỏ phạt biến thành con bọ hung hay hóa thành con trâu ăn cỏ và kéo cày.
Type 4: Tại sao người phải gặt
lúa mang về (Sự tích hạt lúa)
Type này có 18 truyện, bao gồm truyện của các dân tộc: Khơ Me 4 truyện, Tày 4 truyện, Thái 3 truyện, Kinh 2 truyện, H’Mông 1 truyện, Cao Lan 1 truyện, Tà Ôi 1 truyện, Mạ 1 truyện, Hrê 1 truyện.
Cụ thể như sau: 1. Sự tích hạt lúa (Khơ Me - VHDGST, tr. 21 - 228)(17); 2. Cá Trong các câu chuyện trên, lúa luôn được nhắc tới với đặc tính ban đầu “Hạt lúa ban đầu rất to, to như quả bí xanh hoặc to như quả bầu” (truyện của ngưòi Thái). Con ngưồi không cần gieo gặt mà cứ mùa xuân đến “Các hạt lúa tự mọc lên xanh, cuối vụ lại tự động lăn về nhà, người ta chỉ việc dọn sạch nhà để đón lúa mà thôi” (truyện của ngưòi Cao Lan) và “Lúa chín tự đi về nhà theo những sợi chỉ đỏ, chỉ trắng do người chăng để chỉ đường” hay “Lúa gặt xong lại trổ lại và
NGHIÊN CỨU - TRAO Đổl
16
chín tiếp, không sao gặt hết” (truyện của người Kinh).
truyện của người Mạ cho biết vì đứa cháu nhỏ quên lồi thần dặn mỗi lần chỉ'được nấu bảy hạt, mà lại nấu bảy bầu lúa, khiến lúa không tự nhiên nhiều lên nữa.
Hay “Ngày xưa khi lúa, ngô, cây cỏ bị loài người phạt đến đâu, nó liền mọc đến đó. Mọi người chỉ cần làm một đám ruộng bé tẹo, chỉ to bằng “cái dạng háng chân chim” là gặt mãi không hết” (truyện của người Tày). Tương tự, truyện của người Mạ cũng kể “Hạt giống lúa, bắp, cà, ớt, chỉ cần nấu bảy hạt là tự nhiên nồi cơm sẽ đầy lên” và “Lúa là những chiếc lá dài, to bằng bàn tay mọc khắp nơi. Chỉ cần hái bỏ vào nồi nấu là có cơm ăn”.
(b) Hành động bất cẩn (hay là sự vi phạm điều cấm kị) của con người
Truyện của người Khơ Me kể có cô gái đang đứng bên bồ lúa tâm sự với bạn trai thì lúa tự ý kéo nhau về gây ồn ào làm cô không nghe được tiếng nói của bạn tình, bực mình, cô gái đập mạnh vào bồ khiến hồn lúa (là nàng Pòrô Lungsồrâu vốn tính nhút nhát) giật mình sợ hãi bay đi trốn vào một khe đá hẹp tận ngoài biển sâu. Người không có lúa ăn phải nhờ cá thác lác đi tìm lúa. Hay có cô bé mồ côi (Kinh) hay thằng bé mồ côi (Tày) không gặt hết được lúa, vì cứ gặt hết lúa lại mọc và chín tiếp ỏ đằng sau, nó mệt khóc, xin tiên ông (hay các nàng tiên) bày cách lấy giấy bản (hay lấy dáy tai) nút vào đầu cọng lúa, không cho lúa mọc lại và chín tiếp nữa.
Truyện của người Mảng, người Thái kể có bầy chó chặn đưòng đi của lúa, hay hai chị em lười nhác không dọn nhà, hay người đàn bà bụng chửa đi đứng nặng nề, để lúa về bị lũ gà mổ làm cho lúa sỢ...
(c) Hậu quả tai hại
Tất cả những nguyên cớ nói trên dẫn đến hậu quả là ngày nay hạt lúa trở nên bé nhỏ, lúa không tự mọc và lăn về nhà nữa, lúa chín, người phải đi gặt lúa. Loài ngưòi không chỉ gieo hạt một lần được gặt ăn đồi đời như trước mà phải cấy cày hằng vụ hằng năm.
*
* *
Truyện của người Cao Lan, ngưdi Kinh, người Thái, người Tày, người Khơ Me đều nói về hành động bất cẩn (hay là sự vi phạm điều cấm kị) của con người đã làm thay đổi đặc tính ban đầu của lúa. Một người đàn bà lưồi biếng để nhà cửa bẩn thỉu hay mải gội đầu chải tóc, khi lúa chín kéo nhau về bà ta dùng gậy, dùng chổi đập, vụt vào lúa khiến nó vd tan thành những hạt nhỏ, miệng luôn chửi rủa rằng: “Bao giờ có vòi tre, lưdi sắt cắt cổ hãy về!” và cấm chúng không được tự ý bò về nhà”. Hay “Hạt gạo to như quả bí đỏ, ngày ngày từ trên nương rẫy bò về nhà theo ý muốn của con người. Hôm ấy,' nghe tiếng người đàn bà góa gọi, lúa bảo nhau bò về đầy bịch, nằm ở góc nhà, rồi chất đầy nhà. Vì có một mình nên mỗi bữa bà phải vất vả đập cho hạt gạo vỡ ra từng hạt nhỏ để nấu ăn. Bực mình vì gạo nằm la liệt trong nhà, đi lại vướng víu, bà góa đập vụn hạt gạo và nói từ nay hạt gạo phải nhỏ đi và không được tự ý bò về”.
Truyện của người Tà Ôi kể người em vì ham chơi không nghe lời, mồ vung nồi lúa quá sớm khiến thần lúa nổi giận, hay Là những sáng tạo tài tình của con người thời xưa về lúa, các type truyện trên ẩn chứa sâu xa nhiều ý nghĩa về sự phản ánh bước đường con người tiếp cận
TẠP CHÍ VHDG s ố 1/2011
17
lúa trời” hay “giông lúa ma”, “giông lúa nổi” mà ca dao vùng này còn ghi nhận:
“Ai ơi về miệt Tháp Mưồi Cá tôm sẵn bắt, lúa trời sẵn ăn”<36)
được kể là lúa thần có từ cổ xưa, mọc quanh năm không phải cấy trồng, và lúa cũng không có vỏ. Chỉ từ khi con người biết che đậy thân thể của mình, thì lúa cũng bắt đầu có vỏ và khi con người ham muốn có nhiều lúa thì lúa không còn mọc hoang nữa mà phải cấy trồng, chăm bón mới có lúa ăn...
cây lúa, từ việc tìm ra giống lúa (type Đi xỉn giống lúa, giống ngồ), thuần hóa cây lúa và các con vật (type Đi tìm giông lúa), chuyển đổi từ hái lượm sang trồng trọt, chăm sóc cây lúa (type Lúa và cỏ), đến việc thu hoạch lúa và vai trò người phụ nữ (type Tại sao người phải gặt lúa mang về). Tìm hiểu các type truyện, thông qua những yếu tố hiện thực đã được huyền thoại hóa, chắc chắn sẽ cho ta thấy được một quá trình dài lâu con người đi tìm và thuần hóa giông lúa, trải qua nhiều hình thái, nhiều giai đoạn khác nhau, họ đã có được một nguồn lương thực ổn định từ giống cây này và tạo nên nền nông nghiệp lúa nước Việt Nam.
Như vậy, lúa gạo có nguồn gốc thật thiêng liêng. Type truyện mang tói ý nghĩa biểu tượng sâu xa, chuyển tải thông điệp của người xưa về một phát hiện có ý nghĩa to lổn cả về mặt vật chất lẫn tinh thần, đó là việc con ngưòi tìm ra cây lúa. Ở đây có sự gặp gỡ chung giữa phương Đông và phương Tây trong sự khẳng định giá trị của loài cây được coi là “nguyên sơ và thanh khiết” này: “Không những ngưòi ta đã biết truyền thuyết về quả bầu nguyên thủy trong đó có cây lúa và cả các giống người nữa, mà cây lúa còn giống như thứ thức ăn trời cho, mọc lên và làm đầy các vựa thóc một cách tự nhiên. Tất cả các truyền thuyết Á Đông đều nói đến điều này. Việc trồng lúa công phu, khó nhọc là quan hệ giữa trời và đất bị cắt đứt... Người Nhật coi lúa gạo là biểu tượng của sự sung túc nhờ trời mà có... Ngay cả ở phương Tây, lúa gạo cũng là biểu tượng của hạnh phúc vá khả năng sinh sản dồi dào”<37).
Type truyện thứ hai Đi tỉm lúa đã cho thấy rằng việc tìm ra cây lúa không chỉ là một phát hiện vĩ đại của con người, mà nó còn tạo ra một bước chuyển biên ' mang ý nghĩa xã hội quan trọng. Đó là đưa cọn người từ nền kinh tế săn bắt hái Trước hết, ỏ type truyện thứ nhất Đi xin giống lúa, giôhg ngô, toàn bộ các câu chuyên đều có nội dung chính kể về việc con người tìm thấy lúa như thế nào. Trong kí ức xa xưa của nhiều dân tộc, họ tin rằng giông lúa (giông ngô) là do những vị thần trời ban phát cho con người. Kí ức này có ở nhiều dân tộc như trong truyện của người Pu Péo, Mường, Xơ Đăng và Chu Ru... Đôì với người Thái, người Tày là những cư dân nông nghiệp lúa nước lâu đời nhất ỏ miền núi phía bắc, họ có tên gọi “giông lúa Then”, “giống lúa Trời” trong những câu chuyện kể về lúa và cả trong những câu chuyện kể về nguồn gốc loài ngưòi và muôn vật. Người Thái trong Sự tích quả bầu đã nói tới giống lúa của mình như sau: “Xưa, Then thả xuống vùng Mường Thanh một quả bầu. Trong quả bầu có đủ các loài và muôn vật: ba trăm ba mươi giông Xá, ba trăm ba mươi giống Thái, ba trăm ba mươi giông người khác, cùng với ba trăm ba mươi giống lúa ruộng, ba trăm ba mươi giông cá dưới nước chui ra”(35). Ngưòi dân Nam Bộ cũng có tên gọi “giông
NGHIÊN CỨU - TRAO Đổl
18
có sẵn (chữ dùng của Ăng ghen) của thiên nhiên sang kinh tế sản xuất - để đảm bảo đời sống ổn định hơn. lượm hoang dại khi “chỉ biết ăn rau rừng và quả dại” hay “chỉ biết bẫy thú để kiếm sông”, chuyển sang giai đoạn đầu của kinh tế nông nghiệp trồng lúa.
Con người đã khá cực nhọc vất vả để có được lúa, “Có một cái hang trong đó bay ra những hạt màu vàng, ăn thử thấy ngon, nhưng ngưòi không sao vào hang lấy được”, hay “Người nghe chim sáo khuyên đến chỗ cùng trời cuối đất mà lấy thóc trời, nhưng khi đến nơi, họ không làm sao vượt được cửa trời, vì gió thổi ù ù mạnh quá”, ở đây, cùng với sự xuất hiện của cây lúa, còn có vai trò giúp đỡ, chỉ đường của những con vật như chim sáo, rắn, trăn, chuột, vắt và đặc biệt là con chó “người sai chó bơi bảy ngày qua sông để lấy về giông hạt đó...”. Đồng thời, truyện Tục cúng hồn lúa của người Khơ Mú còn nhắc tới hành động người con gái bằng lòng cho vắt được hút máu để giúp nó đủ sức “vào hang mang những hạt vàng về cho người, nhồ đó dân làng có được hạt giông đem gieo trồng để làm lương thực”.
Về hiện tượng này, nhà nghiên cứu Hoàng Bé trong bài “Những huyền thoại lúa nưổc và một số nét về kinh tế - xã hội truyền thông ở người Tày”, với quan điểm dân tộc học và thông qua một số truyện kể về lúa của ngưòi Tày cũng đã có những nhận xét rất xác đáng như sau: “Các huyền thoại đã cho chúng ta ý niệm về một cuộc sống hoang dã của người xưa, về quá trình tìm biết đến cây lúa và nghề trồng lúa ngay từ thòi nguyên thủy của loài người. Thời kì đó có thể có những điều kiện sinh thái của môi trường thung lũng đã thích hợp cho nhiều giông lúa hoang dại mọc. Các thung lũng, nơi có sẵn nguồn nước và các mái đá, còn là địa bàn kiếm sông của những bầy người. Chính ở đây, trong khi tập thể những người đàn ông thường bận rộn với công việc săn bắn, thì những người đàn bà, trong công việc hái lượm của mình, đã phát hiện những đám lúa mọc hoang dại tự nhiên - nguồn lương thực sẵn có, thật như là “tự lăn về nhà” vậy”(38).
Việc con người đã không quên ơn và trả công cho các con vật và ngưòi có công tìm ra lúa, bằng cách “khi lúa chín cho chuột và chim ra ruộng nương ăn trước, chó được ăn cơm, vắt được hút máu... tên cô gái được đặt tên cho hạt Lúa”, cũng hàm chứa ý nghĩa một thông điệp của ngưdi xưa. Điều này một mặt nói tới đóng góp quan trọng của người phụ nữ trong giai đoạn đầu tiên kiếm tìm giông lúa, mặt khác đây cũng chình là những tình tiết níách bảo về sự xuất hiện cùng với nông nghiệp trồng lúa là sự xuất hiện của chăn nuôi và thuần hóa các giông vật, con người đang tiến bước vào một giai đoạn mới - từ kinh tế chiếm đoạt các sản phẩm Như vậy thông qua type 1: Đi xin giống lúa, giống ngô và type 2: Đi tìm lúa, ta đã được biết từ giông lúa tròi, những giông lúa hoang dại, mọc tự nhiên nơi hang núi, thung lũng (mà loài ngưòi tin rằng do các vị thần tiên trên trời ban cho), con người đã biết đến cơm gạo và đây là nguồn thức ăn mới mẻ, quý giá bổ sung cho nguồn thực phẩm săn bắt trước đây. Nhưng rồi nguồn lúa trời, lúa hoang dại đã không còn đáp ứng đủ cho nhu cầu ăn ngày càng nhiều của con người, không phải “cứ ba ngày ăn một bữa” mà là “ngày ăn ba bữa”. Do vậy, người ta phải
TẠP CHÍ VHDG SỐ 1/2011
19
tiến tới việc gieo trồng, chăm sóc để biến lúa dần trồ thành nguồn lương thực ổn định, dồi dào.
Type truyện thứ ba Lúa và cỏ, vối nội dung nói về sự lấn át giữa cỏ và lúa, sự trừng phạt loài trâu phải kéo cày và ăn cỏ, chúng ta nhận thấy ở đây hình ảnh của quá trình gieo trồng, chăm sóc lúa và hình ảnh của việc con người biết sử dụng công cụ cày bừa và dùng sức kéo của động vật, phục vụ công cuộc thuần hóa lúa, nâng cao năng suất cấy trồng. Truyện của ngưòi H’Mông đã nói lên điều này “Được trâu giúp, công việc trồng trọt của ngưòi đỡ vất vả mà thu hoạch ngô lúa lại dồi dào”. sao ngày nay trâu ăn cỏ thuộc type Lúa và cỏ này và truyện Đám ruộng bằng cái dạng háng chăn chim thuộc type Tại sao người phải gặt lúa mang về dưới đây. Ngưòi Tày cho đến hiện nay vổi diện tích ruộng nước ít, chỉ chiếm một phần rất nhỏ nằm xen giữa thung lũng núi rừng, nhưng vẫn cho thu hoạch lúa vổi một năng suất cao hơn so với ruộng trên nương rẫy. Giải thích nguyên do vì sao mà ruộng nưổc lại ít, họ đã kể tiếp trong câu chuyện của mình về sự nhầm lẫn của vị thiên thần nọ, khi đáng lẽ phải trao cho họ “ba phần rẫy, bốn phần ruộng và một phần núi rừng” thì ồng ta lại truyền “ba phần rẫy, bốn phần rừng và một phần ruộng”.
Ổ type truyện Lúa và cỏ này đã cho thấy cây lúa xưa kia phải sống cạnh tranh cùng với những giông cỏ cây hoang dại, song dưới bàn tay chăm sóc của con ngưòi, cây lúa phát triển, sinh trưởng theo mùa vụ, theo với mong muôn cấy trồng của con ngưòi và ngày càng cho năng suất cao hơn để nuôi sống loài người. Type truyện cũng cho thấy trâu là con vật đã giúp người trong cuộc chiến chống lại cỏ để bảo vệ cây lúa.
Type truyện thứ tư Tại sao người phải gặt lúa mang về, với số lượng truyện phong phú chủ yếu nhằm nói tối quá trình biến đổi đặc tính của cây lúa dưới tác động của bàn tay con ngưồi. Một tình tiết đáng chú ý trong nhiều truyện đã kể về hạt lúa lúc ban đầu thường có hình dạng khổng lồ, to như quả bầu, như truyện của ngưồi Khơ Mú, La Hủ cho thấy “... Hạt thóc đầu tiên loài người nhờ vắt lấy to lắm, bằng quả bầu”, hay truyện của người Thái cũng kể “Ngày xưa cây lúa to cao, bông lúa nặng trĩu những hạt lớn bằng quả bầu, rủ xuống từng chuỗi như dây rừng...”
Sự xuất hiện hình ảnh con trâu đã phản ánh việc sử dụng cày, bừa và sức kéo - một bước tiến nhảy vọt trong kĩ thuật làm nông nghiệp lúa nước. Cho đến ngày nay, đối vối người nông dân Việt Nam, trâu vẫn luôn là một phần quan trọng trong các công việc cày, bừa ruộng, kéo xe, hay kéo mật làm mía... Cây lúa từ đầu được gieo trồng trên đồi cao, nương rẫy vổi kĩ thuật chọc lỗ tra hạt thô sơ dần được chuyển xuống những vùng ruộng thấp mà ta còn có thể thấy rõ ở vùng đồng bào các dân tộc miền núi, thông qua hai truyện của người Tày Tại Vậy tại sao có sự so sánh giữa hạt thóc, hạt lúa với quả bầu? Phải chăng đây là kí ức về một giai đoạn trồng lúa tiếp theo giai đoạn bầu bí có trưốc. Theo nhận định của GS. Đặng Nghiêm Vạn nêu trước đây trong chuyên luận Huyền thoại về nguồn gốc tộc người, ông cho rằng có một giai đoạn trồng củ và rau, bầu bí trước giai đoạn trồng lúa và nhận định
NGHIÊN C Ứ U-TRAO ĐỔ I
20
này của ông đã đúng với các cứ liệu được phát hiện của các nhà khóa học. Ông cho biết nhiều câu chuyện dân gian đã cho thấy quan hệ giữa bầu và lúa, như truyện của người Xrê, người Mạ có kể về việc vị thần tôì cao Nđu cho cậu bé mồ côi nghèo một hạt bầu giống. “Từ hạt giống bầu bí đó mọc lên dây bầu chỉ có một quả bầu khổng lồ và đó là hạt lúa khổng lồ sau này”<39). Ông còn cho biết thêm “...Huyền thoại Đông An Độ, tộc người Kharias ke: Thần cho người quả bầu và khuyên nên gieo trồng vào mảnh đất trên nương bằng phương pháp chặt đốt. Từ dây bầu hiện ra ba loại quả: kê, lúa cạn và lúa nưổc. Trong nhiều nghi thức ở các lễ hội nông nghiệp của các cư dân miền núi Đông Dương, người ta thường rước bầu hay bí với các cụm lúa. Trong các bịch thóc, nợi để các cụm lúa thần, nơi cư trú của hồn lúa, ít khi vắng bóng các quả bầu. Đó là vì cư dân thường quan niệm khoai sọ và bầu bí như là yếu tô' tiếp sức cho lúa và là bạn tình của lứa. Tinh linh của bầu bí tác động đến tinh linh của lúa, làm cho lúa tot tươi”(40).
Hồn lúa chính là tinh linh của lúa nói chung. Theo quan niệm của người xưa ỏ nhiều dân tộc, họ coi lúa có sinh sôi nảy nỏ, cho thu hoạch nhiều hay ít là do hồn lúa. Hồn lúa cũng thường được tượng trưng bằng cụm lúa gieo riêng trên mảnh đất thiêng trên rẫy và khi ngắt về được để ố một chỗ riêng trong bịch thóc hay trên bàn thờ. Cũng như bầu bí, khoai sọ vôn thuộc văn hóa củ trước văn hóa bầu bí, nên ở dân tộc Khơ Mú(41), ngoài việc cho hồn lúa tiếp xúc với bầu bí, người ta còn rước thêm khoai sọ về bịch trong lễ cúng hồn lúa và trên nương rẫy trồng thêm khoai sọ và sau này là sả và gừng. Một điều đáng lưu ý nữa ỗ type Tại sao người phải gặt lúa mang về là hình ảnh người đàn bà, trong đó có hình ảnh ngưòi đàn bà góa (người đàn bà không chồng, ngưòi đàn bà ở một mình...). Hình ảnh người đàn bà góa này cũng từng xuất hiện trong những thần thoại chất phác thô sơ của ngưòỉ Thái kể về thuở khai sinh vũ trụ trời đất, nhiều sự việc đã được gán do chính bàn tay người đàn bà góa tạo nên. Có truyện kể ngày xưa trồi đất còn ở gần nhau, người ta lên trời xuống đất một cách dễ dàng vì lúc đó ỏ hồ Uva (Mưòng Thanh) có dây leo mọc lên gọi là “chựa khâu cát”. Vì tròi đất gần nhau nên con người ở mặt đất “giã gạo trời vướng chày, phơi thóc mây vướng cót, quay sợi trời vướng guồng”. Có ngưòi đàn bà góa, thấy người trần khổ cực quá, nên sinh bực tức, đem dao chặt “chựa khâu cát”, th ế là từ đó trời lên cao, lên cao mãi... Một truyện khác lại kể có một hà góa giã gạo, vô ý để chày đụng phải tròi, nên trời giật mình vụt lên cao. Chỗ chày đụng phải lên cao nhất, còn xung quanh thấp dần nên trời mới có hình thù như ngày nay<42)... Hình ảnh người đàn bà góa cũng tiếp tục xuất hiện trong những trang thần thoại kể về việc kiếm tìm lương thực, trong đó có củ mài và lúa. Củ mài xưa được người Thái hình dung giông như một loại quả sống ỏ trên cao, một hôm có một bà góạ vào rừng lấy củ mài, bà không có cách nào để trèo lên lấy củ ồ trên cây cao được. Bực mình, bà ta đem dao chặt cây và còn lấy tay dúi sâu củ mài xuống đất, miệng nói “Từ rày trỗ đi chúng mày phải sông ỏ dưới đất này, nghe chưa...”. Từ đấy họ hàng nhà củ mài sợ hãi không dám ỏ trên cây nữa mà phải chui sâu xuống
TẠP CHÍ VHDG s ố 1/2011
21
đất, làm cho ngày nay người phải khó nhọc mới đào chúng lên được(43).
khẳng định, bởi khả năng lao động vượt trội, khả năng kĩ thuật và tổ chức sản xuất của họ. Hình ảnh người đàn hà lưòĩ biếng sau này, có thể giải thích theo nhận xét của nhà nghiên cứu Hoàng Bé thì “nếu như trước đây, vị trí kinh tế hái lượm đã đưa người đàn bà lên vị trí xã hội chủ đạo (mẫu hệ), thì nay kinh tế nông nghiệp dùng cày lại khẳng định vị trí xã hội thuộc về đàn ông (phụ hệ)”. Dẫu saọ thì dấu ấn bàn tay của người phụ nữ tác động vào lúa đã in đậm trong mọi câu chuyện về lúa và trải qua hàng ngàn vạn năm vẫn còn lưu giữ đến ngày nay.
Người đàn bà góa cũng hiện diện trong truyện kể về nguồn gốc của lúa ỏ người Thái và nhiều dân tộc khác như Kinh, Tày, H’Mông, Cao Lan, Khơ Me... Ngưồi đàn bà góa đã vì sự bất cẩn của mình gây nên hậu quả làm cho hạt lúa xưa vốn to như quả bí đỏ, khi chín tự bò về nhà, thì nay trở nên nhỏ bé và con ngưòi phải vất vả đi gặt lúa mang về. Bởi những nguyên nhân như bà lười biếng không dọn dẹp nhà cửa, mải gội đầu chải tóc, lấy chổi hay lấy gậy đánh đập lúa, v.v... Ngoài các bà góa, những người phụ nữ khác cũng góp phần làm cho lúa thay đổi đặc tính như ngưòi vợ lười, cô gái mải tâm sự với bạn tình, gõ đập bồ lúa làm hồn lúa hoảng sợ, hai chị em lười nhác không dọn nhà, hay người đàn bà bụng chửa đi đứng nặng nề...
Sự tôn vinh những người phụ nữ gắn vối sự tôn vinh cây lúa đến nay còn thấy rõ ở một sô' dân tộc khi phụ nữ trong vai trò mẹ Lúa, như ngưòi Khơ Mú chẳng hạn, họ quan niệm hồn lúa là mẹ Lúa và thường hay nhập vào bà chủ gia đình frong lễ cúng hồn lúa hằng năm trong mùa nương rẫy. Hay như người Xơ Đăng, họ gọi vị thần của các loại lúa là Jang Xri, thần có hình dạng một bà già rách rưới, xấu xí nhưng tốt bụng, do nguyên hình của bà là con cóc bởi cóc cũng giống như hạt thóc có vỏ xù xì, nhưng bên trong lại là hạt gạo trắng muốt nuôi sông con người. Người phụ nữ này được người Xơ Đăng hết sức coi trọng. Thần có quan hệ thân thiết vói thần Sấm sét, vậy nên mỗi khi có hạn hán, người Xơ Đăng hay lấy cóc ra, tức thần Lúa để cầu xin thần Sấm sét cho mưa, v.v...
Có thể nói trong hầu hết các truyện kể về lúa, hình ảnh những ngưồi phụ nữ xuất hiện gần như xuyên suốt. Từ những ngưòi phụ nữ đầu tiên góp phần quan trọng vào việc cho giông lúa giông ngô, phát hiện và tìm ra cây lúa trong giai đoạn sơ khai, được tôn vinh là nữ thần Lúa, cũng như họ đã tiếp tục góp phần vào công việc gieo trồng và chăm sóc lúa, đến những người đàn bà xua đuổi, đánh đập lúa... ở đây có lẽ không phải là sự hạ thấp dần về địa vị vai trò của người phụ nữ, mà dường như chính là sự thay đổi về nhân tô' con người, nhân tô' lao động trong quá trình tìm ra cây lúa và thuần hóa giống lúa đã tạo nên hình ảnh những ngưòi phụ nữ đó. Thực tê' cho thấy càng về sau, vai trò của người đàn ông trong quá trình sản xuất đã ngày càng được Ngoài hình ảnh người phụ nữ gắn vối cây lúa như trên còn phải kể tới hình ảnh vị nam thần dưới hình dạng một ông già được gọi là Thần Nông, có ở các thiên thần thoại kể về nguồn gô'c của lúa và nghề trồng lúa nước của một sô' dân tộc như Kinh, Tày, H’Mông, Cao Lan như các
NGHIÊN CỨU - TRAO Đổl
22
thì mùa màng sẽ thất bát, vì thần thờ ơ vối cồng việc.
truyện: Ông Thần Nông của người ỈTMông (H’Mông - TCM (DT), 20 - 22)(44); Công việc bỏ dở của Thần Nông (Tày - TCXL, 119 - 1210)(45), Thần Lúa (Kinh - LKVTTVN, 135 - 136)(46).
Như vậy, trong thần điện của Lúa, theo quan niệm dân gian, sứ mệnh tạo trồng, sản sinh ra giông lúa thuộc về nữ thần Lúa và những người phụ nữ, còn mang sứ mệnh bảo vệ, chăm lo nghề nông, nghề trồng lúa chính là vị Thần Nông, trong bóng dáng của ngưòi đàn ông.
Thần Nông là một nhân vật thần linh, được tròi sai xuống trần để dạy loài ngưòi ăn ỏ, khai phá đất đai cày bừa và gieo cấy giống lúa. Vì vậy, con ngưòi đời đời biết ơn và tôn thờ nhân vật này là vị thần của nông nghiệp. Từ khi con người chưa biết trồng trọt, cấy lúa, thần đã đem các hạt giống lúa và ngô đến giáo cho con người. Thần làm mưa cho nhà nông cày cấy. Thần dạy cách gieo trồng, dạy cách cất giữ lương thực lên gác bếp, cách xay giã nấu ăn. Thần dạy cho người H’Mông cách lấy sợi lanh dệt vải may quần áo mặc, cách lấy thuốc khi Ốm đau, lại dạy cách làm nhà. Từ đó người H’Mông biết tra lúa tra ngô, không phải lang thang đói rét.
Cây lúa và các câu chuyện về nguồn gốc cây lúa, một đề tài đã thu hút sự chú ý đôì với nhiều nhà nghiên cứu trên nhiều lĩnh vực khoa học khác nhau, bỏi nó liên quan đến việc tìm hiểu lịch sử văn hóa và lịch sử nông nghiệp lúa nước cổ truyền Việt Nam. Từ những nghiên cứu đi trước đó, vổi giác độ nhìn nhận các văn bản truyện kể dân gian luôn với tư cách là những liên'văn bản chứa đựng nhiều lớp nghĩa, chúng tôi ngược về quá khứ, tìm lại những điều mà người xưa muôn gửi gắm để hình dung bước đưòng ông cha ta đã phát hiện, gieo trồng và thuần hóa giông cây lương thực vô cùng quý giá này và làm nên nền văn hóa lúa nước Việt Nam .n
N.T.H
CHÚ THÍCH
(1) . Bùi H uy Đ áp (1985), Văn m inh lúa nước và nghề trồng lúa Việt N am , Nxb. Nông nghiệp, H.
(2) . TCPP: Lê T rung Vũ sưu tầm và biên soạn (1988), Truyện cổ Pu Péo, Nxb. Văn hóa dân tộc, H.
(3) . TCDTIN: Đ ặng Nghiêm Vạn, Đặng Vãn Lung, Tăng Kim N gân sưu tầm và biên soạn (1994), Truyện cổ các dân tộc ít người Việt N am , 4 tập, Nxb. V ăn học, H.
TCXĐ: Ngô V ĩnh B ình sưu tầm và biên soạn (1981), Truyện cổ Xê Đăng, Nxb. Văn hóa, H.
Người Tày kể Thần Nông đã cùng vợ tạo nên cánh đồng Thất Khê bao la bằng phẳng. Núi đồi vây lấy cánh đồng này, từng dãy nhấp nhô chạy từ phía bắc xuống phía nam là dấu tích công việc bỏ dỗ của Thần Nông. Người Cao Lan gọi Thần Nông là sằn Nông, vị thần đã gặp lúa trên đường đi săn thú và đem về gieo trồng, do giận người vợ lười đánh đập lúa khi lúa chín bò về nhà, ông mang lúa lên sông Ngân Hà cày cấy. Vào tháng năm, tháng sáu đêm nào ngỊíời trần nhìn lên trời cũng thấy dòng sông sáng rực vì đó là mùa cày cấy của ông. Người Kinh cũng gọi thần Lúa là Thần Nông, là một vị thần rất khó tính, ai không biết chiều chuộng thì thần sẽ bỏ đi. Khi nào thần xuất hiện với vẻ mệt nhọc lam lũ và thần chịu khó trông nom mùa màng thì vụ đó sẽ được bội thu, khi thần ăn mặc chỉnh tề
TẠP CHÍ VHDG SỐ 1/2011
(18) . TTVHDGVN, I: Viện Văn học (2001), Tổng tập văn học dân gian Việt N am , tập 1, Nxb. Giáo dục, H.
(4) . TCTMN: Trưòng sư phạm miền núi (1958), Truyện cổ tích m iền núi, Nxb. Văn hóa, H.
(19) . TTVHDGVN, I: Viện Văn học (2001),
sđd.
(20) . TTVHDGVN, I: Viện Vần học (2001),
sđd.
(5) . TCCR: Nguyễn Thị Ngọc Anh, Touneh Nai Chanh, P han X uân Viện SƯ U tầm và biên soạn (2006), Truyện cổ Chu R u , Nxb. Văn nghệ Thành phô" Hồ Chí Minh.
(21) . TCBK, II: Vũ Anh Tụấn, Lâm Xuân Đình, Bàn T uấn N ăng sưu tầm và biên soạn, sđd.
23
(6) . TCLL: Lò Giàng Páo, Hoàng Nam SƯU tầm và biên soạn (1983), Truyện cổ Lô Lô, Nxb. Văn hóa, H.
(22) . TCBK, III: Vũ A nh Tuấn, Lâm X uân Đình, Bàn T uấn N ăng sưu tầm và biên soạn (2000), tập 3, sđd.
(7) . TCDTTS: Nhiều tác giả (1977), Truyện cổ các dân tộc thiểu s ố Việt N a m , Nxb. Văn hóa dân tộc, H.
(23) . TCBK, I: Vũ Anh Tuấn, Lâm Xuân Đình, Bàn T uấn N ăng sưu tầm và biên soạn (2000), tập 1, sđd.
(8) . TTVHDTTS: Đ ặng Nghiêm Vạn chủ biên (2002), Tổng tập văn học các dân tộc thiểu sốV iệt N am , 4 tập, Nxb. Đà Nẵng.
(24) . TCBK, II: Vũ Anh Tuấn, Lâm Xuân Đình, Bàn T uấn N ăng sưu tầm và biên soạn (2000), tập 2, sđd.
(9) . TCKM: P h an Kiến G iang sưu tầm và biên soạn (1987), Truyện cổ Khơ M ú, Nxb. Văn hóa dân tộc, H.
(10) . TCDTIN: Đ ặng Nghiêm Vạn, Đặng Văn Lung, Tăng Kim N gân sưu tầm và biên soạn (1994), sđd.
(25) . TTVHDGTS, III: Nguyễn Thị Huê" chủ biên và biên soạn (2009), Tổng tập văn học dân gian các dân tộc thiểu s ố Việt N am (song ngữ), 'tập 3: T hần thoại, Nxb. Khoa học xã hội, H.
(11) . TCDGLC: Truyện cổ dân gian Lai
Châu, Ty Thông tin V ăn hóa Lai Châu, 1983.
(26) . TCDGLC (1983), sđd.
(27) . HTMT: Đ ặng Thị O anh sưu tầm và biên soạn (2010), H uyền thoại Mường Then, Nxb. Văn hóa dân tộc, H.
(12) . TCHR: Đ inh Xăng H iền sưu tầm và biên soạn (1984), Truyện cổH 'rê, Sồ V ăn hóa - Thông tin Nghĩa Bình.
(28) . TTVHDGVN, I: Viện Văn học (2001),
sđd.
(13) . VNVHTT: Hoàng Trọng Miên sưu tầm và biên soạn. (1959), Việt N a m văn học toàn thư, Quô"c hoa x uất bản, Sài Gòn.
(29) . TCCDTVN, I: Viện Văn học (2000), Truyện cổ các dân tộc Việt N am , Nxb. Đà Nang.
(30) . TTVHDTTS: Đ ặng Nghiêm Vạn chủ
biên, tập 2, sđd.
(14) . TCM (HSB): Bùi Thiện, Đặng Văn Tu, Nguyễn Hữu Thức,... (1987), Truyện cổ Mường H à Sơn B ình, sở Văn hóa - Thông tin Hà Sơn Bình.
(31) . TCCL: Lâm Quý, Phương Bằng sưu tầm và biên soạn (1983), Truyện cổ Cao Lan, Nxb. Văn hóa, H.
(15) . TCBK: Vũ Anh Tuấn, Lâm Xuân Đình, Bàn T uấn N ăng sưu tầm và biên soạn (2000), Truyện cổ Bắc Kạn, 3 tập, sỏ Văn hóa - Thông tin Bắc Kạn.
(32) . TCTO: Nguyễn Thị Hòa sưu tầm và biên soạn (1987), Truyện cổ Tà Ôi, Nxb. Văn hóa dân tộc, H.
(33) . TTVHDGTS, III: N guyên Thị Huê"
chủ biên và biên soạn (2009), tập 3, sđd.
(16) . Hoàng Bé (1987), “Những huyền thoại lúa nưốc và một sô" n ét về kinh tế - xã hội truyền thông ở ngưòi Tày”, Tạp chí Dân tộc học, sô" 4, tr. 94 -103.
(34) . TCHR: Đ inh Xăng Hiền sưu tầm và
biên soạn (1984), sđd.
(17) . VHDGST: Chu X uân Diên chủ biên (2002), Văn học dân gian Sóc Trăng, Nxb. Thành phô" Hồ Chí M inh.