14
NGUYEN VIỆT HÙNG



TRUYỆN KẾ DÂN GIAN Ở MỘT DI TÍCH THỜ ĐỀ THÍCH
- NGUYÊN VIỆT HÙNG?


rong thần điện Việt Nam, Đế Thích là
một nhân vật đặc biệt. Phật giáo coi Ngài là một Thần Vương cai quản tầng trời thứ 33; Bàlamôn sùng bái và thờ Đế Thích như là vị thần của lưỡi tầm sét (hoá thân của Indra); Đế Thích cũng gần với phong cách các vị tiên Đạo giáo khi Ngài được coi là Ông Tiên thích đánh cờ... Có thể nói, Đế Thích là một nhân vật kết hợp nhiều loại hình tôn giáo, tín ngưỡng khác nhau, hoá thân vào nhiều hình tượng khác nhau của các tôn giáo và tín ngưỡng dân gian. Ỏ miền Bắc, có một số nơi thờ Đế Thích nổi tiếng như Thịnh Yên - Đống Đa - Hà Nội, Liêu Hạ - Mi Hào —- Hưng Yên và đền Xá huyện Ấn Thi - Hưng Yên. Mỗi nơi thờ Đế Thích đều có những truyện kể dân gian về nhân vật này và chúng không hoàn toàn giống nhau. Trong bài viết này, chúng tôi đề cập những truyện kể được ghi chép lại trong các thư tịch cổ và thần tích lưu truyền ở đền Xá - Ấn Thi - Hưng Yên.
1. Truyện kể được ghi chép trong các thư tịch cổ _
Truyện kể về Đế Thích ở đền Xá, Ân Thi - Hưng Yên khác biệt với truyện kể về Đế Thích ở các địa phương khác. Truyện kể về Đế Thích ở Mĩ Hào (Hưng Yên) cũng như ở đền thờ ở Hà Nội đã được ghi chép trong Lĩnh Nam chích quới (chúng ta quen
'' Th§. Khoa Ngữ văn, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội.
thuộc hơn với bản kể “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” của Nguyễn Đổng Chi trong Kho tùng truyện cổ tích Việt Nam). Trong truyện, Đế Thích được biết đến như một vị Tiên thánh, có tài đánh cờ siêu phàm. Ngài đã giáng trần, thi cờ và kết bạn với Trương Ba, sau này g1úp họ Trương thay xác đổi hồn. Nhân vật Đế Thích ở trong trường hợp này mang màu sắc Đạo giáo rõ nét.
Trái lại, những câu chuyện dân gian lưu truyền ở đến Xá thì lại có diện mạo khác hắn, ở cả cấp độ chi tiết và tác phẩm.
Hiện nay, chúng ta không biết được truyện về Đế Thích (ở đền Xá) xuất hiện ở thời điểm nào. Nhưng có thể khẳng định, đây là một truyện được ghi lại từ rất sớm, đã được các nhà sưu tầm, nghiên cứu thời trước quan tâm. Công trình sớm nhất (còn lưu giữ được) có chép bản kể truyện Đế Thích là nh Nam chích quái (tương truyền xuất hiện thời Trần, bản còn giữ được của Vũ Quỳnh thế kỉ XV). Truyện nhan đề là “Đế Thích kf.
Trong Công dư tiệp bí của Vũ Phương Đề (hoàn thành năm 1755, ghi lại các truyền thuyết và giai thoại lưu hành đầu thế kỉ 18) có chép truyện về Đế Thích, với nhiều chi tiết phong phú: “Xã La Chàng, Thiên Thị có quán thờ Đế Thích, thường rất linh ứng. Dân trong vùng đều tôn sùng, thờ phụng.
Bấy giờ, xã Liêu Cầu bên cạnh có hai chị em. Thuở bé gặp loạn, lưu lạc sang Ai Lao. Đến lúc trưởng thành, hai em nhớ nhà, muốn về mới khấn thầm với Đế Thích rằng, xin giúp cho được sống trở về sẽ suốt đởi phụng sự ngài. _
Bông một hôm, hai chị em từ Ai Lao trỏ về, đi bộ mà nhanh tựa bay, dường như có người dân đường, chưa đầy một ngày đã về tới quê nhà. Hai người bèn đến quán thờ Đế Thích ở La Chàng để lạy tạ. Họ vừa cúi NGHIÊN CỨU TRAO ĐỔI
1D
——ẽẼẽẼẽỀẼỀ-...... TT TẽẽẽẽẼẽẽẽỒỒỒ
đầu xuống thì biến mất, chỉ còn lại chỏm tóc trên đầu. Người làng cho họ là thần, bèn cất tóc đi và lập đền thờ, gọi là đền thờ Đế Phi. Từ đó, gặp hạn, dân làng rước tượng Đế Thích đến đền thờ Đế Phi cầu cúng thì trời mưa. Đến nay vẫn còn hương khói thờ cúng” [5/311]. Phần sau, tác giả chép truyện dạng “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” được kể ở vùng Mĩ Hào.
Trong truyền thuyết này, Đế Phi thực chất là hai nhân vật, hai vị nữ thần của địa phương đã được móc nối với nhân vật Đế Thích bằng những sự kiện, chi tiết trong tác phẩm. Đó là việc Đế Thích cứu giúp hai cô gái, rồi hai cô tình nguyện làm vợ Ngài. Đây là một hình thức thể hiện quá trình vận động của truyện về Đế Thích trong không gian và qua thời gian. Đi đến địa phương này, truyền thuyết đó đã được địa phương hoá qua việc gắn kết các nhân vật với nhau băng một mối quan hệ hết sức mật thiết — quan hệ vợ chồng.
Một chi tiết đáng chú ý là hai cô gái hoá thân chỉ để lại chỏm tóc. Theo quan niệm của một số dân tộc thì “tóc được xem là giữ quan hệ mật thiết với thân thể. Tóc tượng trưng cho những phẩm chất của một sinh linh, thể hiện tập trung sức mạnh tỉnh thần của những phẩm chất ấy. Từ đấy có phong tục thờ thánh tích và vật được thờ là mái tóc của vị thánh” [2/931]. Hay ở Trung Quốc thì “cắt cụt mái tóc mình đi như cắt cây trên núi là làm cho trời hết mưa” [2/932]. Qua đó, có thể đoán định rằng, hai cô gái là hiện thân của hai vị thần địa phương, đại diện cho lực lượng thiên nhiên (mưa), và nghi thức cắt tóc là hiện thân của nghi lễ cầu cho mưa thuận gió hoà. Bởi vì, một thực tế là nhân dân vùng đất này luôn phải đối diện với thiên tai, lũ lụt, vỡ đê. Năm 1938, trong “Bài kí làm chùa Thiên Đế”, Trinh Xuân Nham (Cử nhân Hán học khoa Bính Ngọ, tri phủ Ấn Thị) đã viết: Địa
thế phủ Ấn Thi nằm giữa cánh đồng, không tiện đường buôn bán chỉ chuyên nghề làm ruộng, mà trong khoảng mười năm nào là binh hoá, vỡ đê, nào là sâu cắn, tai họa...”. Như vậy, có thể thấy, đến gần thời đại ngày nay, việc đắp đê phòng chống lũ lụt, cầu mong mưa thuận gió hoà vân là một nhu câu thiết yếu của nhân dân nơi đây.
Về sau, nhà nghiên cứu, biên khảo lịch sử - địa lí - văn hoá Phan Huy Chú (1782 - 1840) cũng nhắc đến di tích thờ và sự tích về Đế Thích trong Hoàng Việt địa dư chí. Khi viết về phủ Khoái Châu, tác giả dành sự quan tâm đặc biệt đến miếu Đế Thích tại xã La Đăng huyện Thiên Thi (nay là Ân Thì - NVH chú). Tác gia nhận định đây là nơi nổi tiếng linh thiêng. Theo sự ghi chép của ông, hai nhân vật nữ có tên rõ ràng là Lân — Xã [3/57]. Ngoài ra, truyện này côn được ghi chép ở các tác phẩm Hưng Yên nhất thống chí (A963, 23a), Bắc thành dư địa chí, Đại Việt địa chí, Đại Nam nhất thống chí [1/242].
Thực chất thì nhân vật Đế Thích chính là sự hình tượng hoá lực lượng tự nhiên — thân Sấm. Bởi vì bản thân Đế Thích trong tín ngưỡng Bàlamôn là một dạng hoá thân của Thần Indra. Trong Công dư tiệp bí, tác giả cũng ghi lại việc thờ cúng ở nơi đây: “Từ đó, gặp hạn, dân làng rước tượng Đế Thích đến đền thờ Đế Phi cầu cúng thì trời mưa”. Hiện nay, di tích đền Xá cũng cho thấy dấu ấn của tục cầu nước, cầu mưa. Trước khu đền chính, phía bên ngoài có hai giếng nước nhỏ, nhân dân vẫn gọi là mốt rồng. Một bên luôn có nước, một bên cạn. Theo sự quan sát của nhân dân: nếu cả hai bên cùng có nước thì năm ấy có lũ lụt, nếu cả hai bên cạn nước thì khi đó sẽ có hạn hán, mưa gió điều hoà là khi một bên có nước, một bên cạn. Nhân dân sẽ quan sát hiện tượng đó, tùy theo tình hình mà tiến hành cầu mưa hay cầu tạnh. Trong đền thờ, vân 16
NGUYÊN VIỆT HÙNG
————=ễễ.Ầ.ẲV.ẮẳẲ.... . ẨẳẨ_
còn đôi long mã (mình ngựa đầu rồng), sơn mầu đỏ, có bánh xe, dùng để rước nước trong những ngày lễ hội.
Với ý nghĩa như vậy, hình tượng Đế Thích phù hợp với nguyện vọng của nhân đân địa phương cho nên nhân vật này đã bị (được) thu hút vào hệ thống truyền thuyết địa phương, trở thành một vị thần quan trọng trong thần điện, trong tín ngưỡng dân gian nơi đây.
2. Truyện kể trong thần tích lưu giữ tại Đền
Bản thần tích [tl5] mà chúng tôi sao chụp tại di tích đền Xá không thấy đề rõ năm, nhưng trong đó có ghi: “Chép theo bản chính của Quốc Triều (Lê), phần đầu bộ Thiên Vương, Thượng đăng thần”. Đây là bản sao thân tích của Nguyễn Bính (soạn năm 1572), cho biết về việc thờ cúng hai vị Thánh Vương: Đế Thích Thiên Vương và Tạo Vương (tức Hùng vương họ Việt thường), cùng ba vị tôn thần của đất này. Thần tích ghi chép lại như sau (chúng tôi lược dịch):
Hùng Vương khai quốc, truyền nhau 18 đời. Từ Kinh Dương Vương truyền đến Chiêu Vương, đóng đô ở Việt Trì, Bạch Hạc, quốc hiệu Văn Lang, quốc đô Phong Thành (Phong Châu), Chiêu Vương sùng Phật, kính quỷ thần, đức độ khoan hoà, đất nước thanh bình.
Một hôm, con đích của Thượng đế xuống chơi hạ giới. Lúc đó, ở trai Trì La, trang La Trừng, huyện Thiên Thi, phủ Khoái Châu, trấn Sơn Nam bỗng nhiên một ngày trời tối sầm, gió mưa tơi bời, mọi người đều kinh sợ, không dám ra ngoài. Một lúc sau trời quang mây tạnh, mọi người chợt thấy có một cây, không biết từ đâu bay tới, đứng ở chỗ đất có thế đất đầu rồng (Long đầu), hương thơm ngào ngạt rất là kì lạ. Nhân dân thấy thế bèn bẩm lên
Chiêu Vương. Nghe tấu, Chiêu Vương liền xa giá rời cung đến xem, hiểu ngay đó là cây bạch đàn thiêng, thầm nghĩ đến điểm quốc gia hưng thịnh, liền sai nhân dân lập đền lộ thiên quanh năm hương hoả, cúng Hoàng thiên, từ đó mỗi khi cầu đảo đều linh ứng.
Đến đời Hùng Vương thứ mười, hiệu là Tạo Vương, cây lạ vân còn. Một ngày kia, trời đất lại tối sầm, mưa gió tơi bời, chỗ cây phát ra hào quang rực rỡ. Khi trời quang mây tạnh, nhân dân địa phương ra xem thì thấy có dấu vết ba bàn chân lớn In vào thân cây... Dân địa phương kinh sợ lại bẩm về triều. Tạo Vương nghe tấu, lập tức xa giá đến nơi xem xét, biết là điểm lành của đất nước, báo sẽ có thánh nhân xuất hiện để phù trì xã tắc, bèn lệnh cho xây một ngôi chùa quanh năm hương hoả, cầu cúng đều có lình ứng.
Lại nói, Tạo Vương có một người cô ruột là công chúa Minh Hoa (con gái của Hi Vương) xinh đẹp tuyệt trần, tính tình kiều mỊị, từ nhỏ đã ăn chay, thính vị hương hoa, không màng thói tục, lên chín tuổi bèn xin xuất gia tu Phật. Vua cha không biết làm sao, phải cho xây dựng chùa trong cung để công chúa tu hành. Năm 17 tuổi, nghe tiếng cây lạ, công chúa đến nơi xem. Công chúa đang xem thì bỗng thấy một dải cầu vồng từ trên trời hạ xuống, quấn quanh mình ba vòng. Công chúa sợ hãi, mơ màng như mộng, thấy như có mặt trời, mặt trăng rơi vào miệng, công chúa nuốt lấy, tỉnh lai rồi về cung. Trăm ngày sau công chúa tự nhiên rung động mà có thai. Còn ở trên cây lạ, những vết chân cũng như hoài thai, ngày càng lớn lên, có mây ngũ sắc như lọng che ở trên.
Vương biết công chúa có thai, bắt tội bỏ ngục, sau giảm tội cho đi đầy ở đất Ô L¡ (). Được ít tháng, cây lạ đất Trì La xuất hiện những chuyện kinh dị. Vương phải trai NGHIÊN CỨU TRAO ĐỔI
17
— 7c. —EEE£ễ£££K— ễễễ————— TT
giới, lập đàn cầu cúng. Sau ba tháng cầu đảo, một hôm Vương mộng thấy mình được triệu lên Thiên đình. Thượng đế báo cho Vương biết: trong tương lai, dưới trần gian sẽ xảy ra tai ương hoä hoạn, cho nên Thượng đế sai Nam Mô Thần Châu Đế Thích (phàm trần gọi là Thiên Vương) đầu thai vào cây bạch đàn, lại sai Đông Quang chủ bộ và Tây Quang chủ bộ đầu thai vào Minh Hoa công chúa để phò tá Đế Thích thiên vương, trước là cứu độ nhân thế, sau là trị vì tầng trời thứ 33. Vua tỉnh dậy vội vàng đưa công chúa về triều, chờ ngày sinh nở.
Lúc ấy, Vương sai Thủy Tào phán quan và Diêm La bộ soái đến Trì La trông col việc hương hoả ở chùa có cây lạ đó. (Đến đây, thần tích lại chép chuyện về Diễm La bộ soái như sau: Ông cũng là hậu duệ của Hùng Vương, con cháu của Lạc Long Quân. Diêm La vốn thuộc một trong 5O chị thứ - của 50 người con lên rừng theo Âu Cơ - bộ thứ 28. Cha tên là Hùng Thiết, làm Đế Trí chủ bộ, mẹ là Vũ Thị Doan, nằm mộng thấy giao long mà có thai, đến năm Quý TỊ sinh ra Diêm La. Diêm La văn vũ kiêm toàn, anh hùng cái thế, được Vương dùng làm tướng, đánh thắng cuộc nổi loạn của Diêm La nên đặt tên là Diêm La bộ soái, sau được cử đi trấn thủ cửa biển, làm Thủy Đạo bộ chủ).
Một năm sau, thiên tai địch hoạ bắt đầu nối lên, triều đình bất lực... Đến năm Giáp Tí, ngày mồng Chín tháng Giêng, trời đất hỗn kinh, hội lại tại trại Trì La, mây lành ngũ sắc, hào quang sáng chói, rồng phượng chầu lại... Đột nhiên có tiếng sét, cây lạ vỡ tan, trong bụng cây xuất hiện một cái bọc lạ, nước chảy ra đều hoá thành cam lộ, chỉ còn lại ba bốn đoạn cứng như sắt đá. Diêm La bộ soái bèn tấu chuyện lạ về triều. Vương xa giá đến nghênh đón Thiên Vương. Ngày Rằm tháng Giêng đưa bọc
thai về triều, đặt trên một lầu cao, canh giữ cần thận... Bỗng thấy bọc thiêng bị võ ra, mọi người thấy Đế Thích cưỡi trên đầu rồng, quấn mây ngũ sắc, đầu đội nón bình thiên, khoác áo long bào, mặc áo giáp ngọc, tay cầm kim bài.
Cùng lúc đó, công chúa sinh ra hai VỊ thân, diện mạo kì khôi, tướng ngũ nhạc triều thiên” (năm mũi chầu về trời), tam đình (trán, má, cằm) bằng phẳng, mặt đỏ như mặt trời phong thái đường đường, khác xa người thường, đầu đội mũ bình thiên, hào quang sáng chói, mặc áo giấp phượng, áo bào ráng mây, khăn ngọc chói lọi, tay cầm long đao đứng hai bên Đế Thích. Minh Hoa công chúa tự nhiên biến mất, chỉ thấy hai cái đầu và hai mái tóc chia hai bên tả hữu nằm dưới đất.
Đế Thích thiên vương bảo tả hữu rằng: nay giáng binh xuống đây để phò giúp đương quân (vua đương thơi), trừ hoa, Thiên đình định giáng Nam man để phụ giúp đương quân, phải gấp điều binh khiến tướng, theo mật lệnh của ta.
Vua bèn triệu ĐDiêm La bộ soái lãnh 1000 quân theo sau Đế Thích và hai vị bộ chủ. Hai vị đồng thanh lên tiếng, hai cái đầu và hai mái tóc tự dưng biến hoá: một biến thành đầu ngựa lửa (ông Tả cưỡi), một đầu tóc biến thành con lân ngọc (ông Hữu cưỡi). Tất cả nhất loạt lên đường đi đánh siặc quỷ. Ngựa lửa phun lửa, lân ngọc phun nước, Diêm La bộ soái đánh lên quỹ binh kinh hoàng, tan tác. Trừ hết tai hoa, Đế Thích và hai vi bộ chủ thăng thiên biến mất, hoá sinh bất diệt.
Diêm La bộ soái về triều bẩm tấu Tạo Vương. Tạo Vương bèn lập một điện thở ngoài cung cúng tế. Cùng lúc đó, Diêm La bộ soái xuống thuyền đi chơi Tam Giang (ngã ba Bạch Hạc) rồi biến thành con rắn lớn, lặn xuống sông. Vua bèn cho lập ngôi I8
NGUYÊN VIỆT HÙNG


đền ở Tam Kì cúng bái, cho tô tượng Đế Thích và hai bộ chủ, đặt tượng Điêm La bộ soái làm thần hộ vệ ngoài điện, lại truyền lập một ngôi từ ở Trì La ngõ hầu ghi nhó chuyện giáng sinh cũ. Đồng thời, cho xây một số linh từ khác. Truy tặng: Tam Thiên giới nội Để Thích đế phàm đại Thiên Vương bệ hạ Nhật quang: Thiên tử thánh tiến Nguyệt quang: Thiên tử thánh tiến Diêm La bộ soái: Môn tiền Tôn thần Ngoài ra, trong miếu còn thờ cúng hai vị tướng họ Phạm, hai vị Tôn Thần trong miếu. Tương truyền ở phủ Thuận Thiên thuộc châu Ái (Thanh Hoá ngày nay), huyện Lôi Dương (Hoằng Hoá ngày nay), sách Biện Sơn có nhà họ Phạm, huý là Đạt, đương giữ chức Điển Binh sự vụ ở trấn Sơn Nam, bèn lấy một người thiếp ở trại Trì La, con gái nhà họ Đình, tên là Duyên Nương (làm nhà ở bản trại) vốn ăn ở phúc đức, hoà thuận hay làm điều nhân. Đạt công ngoài năm mươi tuổi mà vẫn chưa có con, rất lấy làm buồn phiền, bèn bàn với vợ chọn ngày tốt lên chùa Đế Thích thiên vương để cầu tự. Đêm hôm đó, Đạt công nằm mơ gặp một vị thần nhân báo cho biết sẽ có hai thần nhân thác sinh. Sau đó, Duyên thị có mang, đến năm Ki Mùi, ngày 9 tháng 3 sinh ra hai ngươi con trai khôi ngô tuấn tú khác thường đặt tên là Dũng Công và Thạc Công. Hai người lớn lên văn vũ kiêm toàn, tài năng xuất chúng. Một năm nọ (ngày 19 tháng 7) cha mẹ hai ông đột nhiên cùng tịch. Trong làng có một gia đình quyền thế (Vũ gia) muốn dưa hai ông về nuôi dưỡng và ga con gái cho. Hai ông từ chối, nhà họ Vũ oán giận tính kế hãm hại. Hai ông phải tìm cách trốn ra khỏi làng, trở về quê ngoại là làng Trì La, huyện Thiên Thi trấn Sơn Nam. Dân ở đây được báo mộng là có hai vị
quý nhân đến nơi này, bèn rước hai ông phụng dưỡng.
Lúc đó, có loạn giặc Man nổi lên chiếm siữ nhiều vùng đất, triều đình bất lực, bèn truyền lệnh kêu gọi người tài giúp nước. Hai ông lên đường về kinh trổ tài, nhà vua rất trọng thị phong cho một ông làm Bình man đô nguyên soái, một ông làm “Thiên quan đại tướng quân, cấp cho bình lương đánh giặc. Hai ông thắng trận và hồi hương bái lễ tổ tiên, sai tu sửa nơi thờ Thiên Đế (Đế Thích). Sau đó hai ông hồi triều, xin đất Trì La làm đất thang mộc, vua chuẩn cho lại phong một ông là Thái Bảo quốc đái, một ông là Thiên quan bảo điện tướng quân. Đất Trì La nhờ đó cũng được thơm lây, đền Đế Thích hương hoảä quanh năm, luôn hiển ứng như việc Đế Thích với Trương Ba.
Bãy giờ (hơn 10 năm sau), Triệu Đà khởi bình đánh Thục An Dương Vương. Nhờ hai ông, Thục luôn thắng. Triệu Đà bày kế cầu thân. Hai ông ra sức can ngăn nhưng Thục Phán không nghe. Hai ông bèn lui về quê nhà, vào đền Thiên Đế bái lễ sau đó cùng hoá. Đó là ngày 25 tháng 12. Nhân dân lập đến thờ hai ông, vua tiếc thương, phong hai ông là Vạn cổ phúc thần.
+ Một ông được phong là Hiển Thánh Linh Thông Đại Vương
+ Một ông được phong là Thiên Quan Bao Điện Đại Vương
Sau này, Triệu Đà chiếm được nước Việt, căm hai ông bèn ra lệnh phá chùa, nhân dân lưu tân. Đến đời Hán, thái thú Tô Định đô hộ, hai Bà Trưng nối lên đều đến đây cầu đảo và có linh ứng. Trưng vương lên ngôi cho sửa sang lại từ miếu. Sau lại được hai cây gỗ quý để tạc tượng hai ông. Bên Đông phò giá Nhật Quang thiên tử, bên Tây phò giá Nguyệt Quang thiên tử. Trang La Trừng và trai Trì La NGHIÊN CỨU TRAO ĐỐI
19
—“ ::: ——ễẼẼẼẼẼẽ 555555
cũng dược nhập làm một. Sau đó Trưng Vương lại gia phong các ông làm thượng đắng thần”.
Hồng Đức năm thứ nhất, ngày 10 tháng 1
Hàn học quan Nguyên Bính phụng soạn. Hoàng Triều Phúc Hựu năm thứ bảy, ngày lành đầu tháng ba. Quản giám bách thần chi điện thiếu khanh Nguyễn Thưởng phụng theo nguyên bản “hữu” (phả!]) triều trước sao lại. Lễ bộ thư lại họ Nguyễn vâng sao chép lại. Năm Duy Tân thứ 4, ngày lành tháng 2, vâng chép theo bản chính. Hiện nay, khu dì tích còn giữ được 9 bản sắc phong. Tờ sắc cổ nhất còn giữ được từ thời Tự Đức” (năm Tự Đức thứ 3ð —- 1861) như sau:
Sắc cho: Thôn Câm La, xã La Chàng, huyện Ấn Thi (tỉnh Hưng Yên) [về việc] thờ phụng trưóc đây, trong sáng màu nhiệm sây được đức tín vào phúc lành, khoan hoà sâu xa.
lâm Đông các đại
Đã ban cấp cho việc định ngày lễ tiết cho Đế Thích thượng đắng phúc thần (và) chuẩn cho việc thờ phụng này theo đúng ngày đại khánh tiết, nhân địp vua tròn 5O tuổi (năm Tự Đức thứ 31 — 1878, ngày 12 tháng 6). Nay ban chiếu ngọc, gia ơn sâu rộng cho được xác định phẩm trật. Đặc biệt chuẩn cho cứ y việc thờ phụng cũ, đúng ngày Quốc khánh như trên ghì nhó mà làm cho đúng với “tự điển” (quy định về việc thờ cúng). Tự Đức năm thứ 33 (1881) ngày 14 tháng 11.
ở. Nhận xét
Những chuyện ghi chép trong thần tích đã tạo thành một nhóm truyện độc đáo. Nhóm truyện này gồm ba truyện về các nhân vật khác nhau nhưng có liên quan đến nhau:
I1. Truyện về Đế Thích
2. Truyện về Diêm La. 3. Truyện về hai tướng quân họ Phạm.
Qua đó, chúng tôi rút ra một số nhận xét như sau:
a. Thể loại
Nếu như truyện “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” (những sự tích ở các đền thờ Đế Thích ở Hà Nội, Mi Hào) có xu hướng cổ tích hoá - Nguyễn Đổng Chi xếp chúng vào truyện cổ tích - thì truyện Đế Thích ở đền Xá có tính chất của truyền thuyết. Truyện ở đền Xá có tên nhân vật, tên làng xã cụ thể. Các nhân vật trong truyện được gắn với lịch sử, tạo ra một nguồn gốc trần thế và tham gia vào các sự kiện mang tính trọng đại của lịch sử dân tộc. Nếu như ở những truyện khác, Đế Thích được biết đến như một vị Tiên Thánh có tài phép (thay xác đổi hồn, đi mây về gió...) thì ở đây, Đế Thích trở thành một nhân vật anh hùng, có công lao to lớn giúp vua Hùng diệt trừ tai hoạ. Kết thúc truyện là sự hoá thân của nhân vật (hai chị em) và giai thích tục thơ cúng Đế Thích (cũng như Đế Phì) ở nơi đây. Hơn nữa, xu hướng địa phương hoá cũng thể hiện rõ nét ở truyện này thông qua chi tiết Đế Thích ban ơn và có sự gắn bó với người dân nơi đây (cứu giúp hai cô gái và thu nhận họ làm Đế Phi). Việc sáng tạo ra nhân vật hai chị em là cái lí của nhân dân để giải thích cho việc thờ cúng Đế Thích ở địa phương mình.
b. Kết cấu
Những truyền thuyết trên có dạng kết cấu thông thường, nằm trong hệ thống đặc điểm kết cấu chung của truyền thuyết. Kết cấu của các truyện trên đều gồm ba phần:
+ Nguồn gốc xuất thân, sự ra đời của nhân vật.
+ Hành trạng, chiến công của nhân vật. 20
NGUYÊN VIỆT HÙNG


+ Những chiến công, sự hoá thân của nhân vật.
Qua tìm hiểu, chúng tôi thấy nhóm truyện này xuất hiện một số môtíp quen thuộc như sau:
* Môtíp: Sự ra đời kì lạ của nhân vật.
Trong nhóm truyện này, môtíÍíp sự ra đời kì lạ của nhân vật cũng có nhiều biến thể:
+ Nhân uật sinh ra từ cây
+ Nhân uật sinh ra do người mẹ bết hợp UỚI một con uật ỉa.
+ Nhân uật ra đời do thần linh đầu tha.
Đây là những môtíp quen thuộc, có nguồn gốc từ những môtíp thần thoại. Cây si sinh ra các mưởờng và con người (dân tộc Mường), tre Alê sinh ra dân tộc đê, cây Cau sinh ra người Chăm... Cây lạ từ trên trời bay xuống, được nhân dân lập đền thờ. Cây đó cũng chính là nơi hoài thai Đế Thích thiên vương. Nếu như ở thần thoại, môtíp dạng này phản ánh quan niệm của người xưa về nguồn gốc của con người, cho thấy những dấu hiệu tín ngưỡng vật tổ... thì ở thể loại truyền thuyết, môtíp này thể hiện những ý nghĩa nghệ thuật rõ rệt. Đó là việc môtíp này mang tính chất dự báo về cuộc đời của nhân vật, báo hiệu những chiến công, kì tích, hành trạng khác thường của nhân vật.
* Môtíp sự hoá thân của nhân vật.
Các nhân vật trong nhóm truyền thuyết này đều có sự hoá thân mang tính chất phổ biến trong các tryền thuyết, thần tích: Diêm La hóa Rắn bơi xuống sông; Đế Thích và hai vị bộ chủ thăng thiên biến mất, hoá sinh bất diệt, hai vị tướng quân họ Phạm vào đến Đế Thích cùng hoá... Môtíp này thể hiện quan niệm của nhân
dân muốn tôn vinh những nhân vật anh hùng, những người có công với làng xóm trỏ thành bất tử.
c. Nhán uát
Nhân vật trong nhóm truyển thuyết này cũng khá đa dạng và truyện về mỗi nhân vật tạo thành một nhóm truyền thuyết vừa mang tính độc lập vừa có sự liên quan với nhau. Có thể khắng định, hai nhân vật anh em họ Phạm là những ngươi anh hùng địa phương, những vị thần được thờ, được xem như thành hoàng làng. Kiểu truyện này cũng khá phổ biến trong truyền thuyết dân gian Việt Nam. Khi tìm hiểu truyện “người anh hùng làng Dóng”, Cao Huy Đỉnh đã sưu tầm, hệ thống hoá một loạt các truyện dạng như vậy. Hai nhân vật đó sinh ra trên đất Trì La (quê mẹ) và có công giúp vua Hùng dẹp giặc. Về sau, hai người hoá ở trong đền thờ Đế Thích (cũng là hình thức trở về cộng đồng mẹ). Chỉ tiết này là cách dân gian móc nối các sự kiện, các hiện tượng tín ngưỡng lại với nhau. Nhân dân đã giải thích hiện tượng mình cùng thơ cúng các nhân vật tại một nơi là đo các sự kiện có sự liên quan đến nhau: Nhân vật Đế Thích có công lao với nhân dân làng Trì La, các vị tướng quân họ Phạm hoá thân trong đền Đế Thích.
Diêm La là nhân vật bán thần. Ông là hậu duệ của vua Hùng, nhưng có nguồn gốc thần linh. Đó là nhân vật trong lốt rắn, sau ông hoá rắn lặn xuống sông, được lập đền thờ. Có thể nói rằng đó thực chất là vi thần Sông đã được lịch sử hoá, gán cho eó nguồn gốc dân gian, trở thành những anh hùng lịch sử.
d. Tín ngưỡng 0ò lê hồi
Nhiều năm nay, nhân dân làng Cẩm La không có điều kiện đề tố chức lễ hội. Những hình thức nghi lễ cố xưa dần dần NGHIÊN CỨU TRAO ĐỔI
cà]


mai một. Chúng tôi đang trong quá trình sưu tầm với mong muốn khôi phục lại lễ hội quan trọng này (và sẽ công bố trong một dịp khác). Dấu vết của những hình thức lê hội, phong tục vân còn trong nếp cam, nếp nghĩ, trong đời sống sinh hoạt của nhân dân: quan niệm về hai mắt rồng ở hai bên để cầu mưa, ngày mồng 9 tháng Giêng mở cửa đền cho nhân dân vào cúng bái, nhân dân kể cho nhau nghe về nghi thức cúng tế, rước nước ngày xưa mỗi khi xem lại những đồ tế tự...
Về mặt tín ngưỡng, nơi đây có sự tổng hoà của nhiều loại hình tín ngưỡng, tôn siáo khác nhau. Nhưng các hình thức thơ cúng không có sự xung đột mâu thuần mà luôn thể hiện sự hoà hợp với nhau.
+ Lớp tôn giáo nổi bật lên dễ dàng nhân thấy là Phật giáo. Ban thờ Phật nằm ở trung tâm, chính điện; tên của di tích được gọi là “chùa”. (Chùa Đền Xá!); trong tâm thức nhân dân chủ yếu là đến với mục đích kính Phật, tu tâm; thờ Đế Thích - vị thân Hộ Pháp Phật giáo.
+ Lớp tôn giáo thứ hai là những biểu hiện của Đạo giáo: Đế Thích được thờ cùng Thiên đế, Ngọc Hoàng.
- Những lớp tín ngưỡng dân gian ẩn chìm dưới các hình thức tôn giáo trên:
+ Thờ các nhân vật anh hùng: Diêm La, Đế Thích giúp vua Hùng dẹp loạn, hai vị tướng quân họ Phạm, giúp Án Dương Vương đánh giặc, được lập đền thờ và sắc phong. Diêm La và hai tướng quân họ Phạm được phong là Thành hoàng làng.
+ Tín ngưỡng thờ Mâu, Tam toà Thánh Mẫu được thờ ở bên phải; thờ Đế Phi, hai người con gái địa phương.
+ Thờ các lực lượng thiên nhiên: Thần Rắn (Thuỷ thần Diêm La), thần Sấm (Đế Thích), thần Mưa (Đế Phì).
Các hiện tượng tín ngưỡng, tôn giáo đó luôn biến đối và có sự đan xen vào nhau. Chúng ta chỉ có thể bóc tách và xem xét các hiện tượng một cách tương đối để từ dó nhận diện về hình thức tín ngưỡng nơi đây.
Tóm lại, cùng với những truyện được phì chép trong các thư tịch cô, những truyện được lưu giữ trong thần tích đền Xá đã tạo thành hệ thống truyện kể về Đế Thích có diện mạo riêng biệt. Sự khác biệt về nội dung cốt truyện giữa các nơi thờ Đế Thích đã thể hiện quá trình vận động của hình tượng Đế Thích trong tín ngưỡng dân gian. Với nhiều sự hoá thân khác nhau, Đế Thích dễ dàng được sáp nhập với các hình tượng, các nhân vật của nhiều địa phương để đáp ứng nhu cầu, nguyện vọng của nhân dân: muốn lôi kéo các vị thần linh lại gần để đem lại lợi ích cho cuộc sống của họ.
N.V.H
CHÚ THÍCH
(1) Tự Đức sinh năm 1828, lên ngôi năm 1847, mất năm 18835
THƯ MỤC THAM KHẢO
1. Nhiều tác giả, Từ điển di tích uăn hoá Việt Nam, Nxb Văn hoá, 2008.
2._ Nhiều tác giả, Từ điển biểu tượng uăn hoá thế giới, Trường viết văn Nguyễn Du, Nxb Đà Năng, 1997.
3._ Phan Huy Chú, Hoàng Việt địa dư chí (Phan Đăng dịch), Nxb Thuận Hoá, 1997.
4. Lĩnh Nam chích quới, Vũ Quỳnh, Kiều Phú ( Đinh Gia Khánh, Nguyễn Ngọc San biên dịch), Nxb Văn học, Hà Nội, 2001.
5. Nguyễn Đăng Na, Văn xuôi tự sự Việt Nam (Tập 1, in lần ID, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 1999.
6. Thần tích và sắc phong ở đền Xá (chúng
tôi chụp lại tại di tích, Nguyễn Thanh Tùng lược dịch).