Thực phm có formol tác hại thế nào?
Formol chất không được dùng trong chế biến thực phẩm. Sử dụng bất cứ liều
lượng nào đều vi phạm pháp luật. sự cố formol (formaldehyde), mà báo chí thời đó
gọi là “chất ướp xác” được dùng trong bánh ph, gây hoang mang trong xã hội.
Nhiều người không m ăn phở, đâu chquán phở đìu hiu, những người
làm tương đỏ, tương đen, giá sống, rau thơm, thịt bò, t, tiêu, hành,…cũng lâm
cảnh ế ẩm. Chỉ phòng thí nghim là m không hết việc (hồi đó trong nước chỉ
có vài phòng TN có khả năng định lượng formol).
Vậy thực chất thực phẩm có forrmol tác hại thế nào?
Đa s thực phẩm đềuformol
Formol là sn phẩm trong quá trình chuyển hóa sinh vật, do đó được tìm thấy tự
nhiên trong nhiều loại thực phẩm: rau củ, trái cây, nấm khô, thịt cá, và ngay c
trong nước uống. Hàm lượng formol tự nhiên trong thực phẩm có từ 3-23mg/kg,
tùy loại thực phẩm (IARC, 1982 International Agency for Research on Cancer).
Hàm lượng formol tự nhiên trong thực phẩm (mg/kg)
Formol trong thủy sản là trường hợp khá đặc biệt, vì ngư dân đánh bắt xa bờ
thường dùng formol đbảo quản cá. Sự cố formol trong cũng một thời ồn ào
Thái Lan, Bangladesh, Trung Quốc,…, nhưng không dữ dội như “chất ướp xác”
trong bánh ph ở Việt Nam.
Nguồn gốc của formol trong thủy sản thể giải thích thế này. Chất
Trimethylamine oxide (TMAO) hiện diện knhiều trong thủy sản bị phân giải
dưới tác động của enzyme để tạo thành Dimethylamine (DMA) formol với số
lượng mol bằng nhau. Người ta thể định lượng DMA để xác định độ biến tính
protein (thịt bị dai do formol) của thủy sản, đồng thời suy ra lượng formol tự
nhiên hay thêm vào cý. Việc suy diễn này chtính tương đối vì một phần
formol bkết dính vào mô, khó chiết xuất để định lượng chính xác.
ợng formol tự nhiên nhiều ít tùy thuộc chủng loại cá, và chênh lệch đáng kể,
chẳng hạn formol trong thu (King Mackerel) chứa 1,1 mg/kg, còn Bombay
Duck có tới 140 mg/kg.
Thủy sản đông lạnh chứa nhiều formol hơn thủy sản tươi, vì quá trình phân giải
TMAO vẫn tiếp tục xảy ra trong quá trình trđông. Thời gian trữ đông càng lâu,
lượng formol càng nhiều. Cá lizard chứa 17mg/kg, sau 24 tuần trữ đông formol lên
tới 42 mg/kg (Dusadee Tunhun et al, 1996).
Thực phẩm có formol tác hại thế nào?
Một bài báo của tác giả BTT bằng tiếng Việt trên mạng, trích dẫn một câu xanh
rờn thế này: “…Theo s nghiên cứu của Stanley (1992) thì con người nếu uống
formaldehyde, vào khoảng 60-90ml formalin, thì chết ngay”. Tìm trong phần tham
khảo, thì trích t sách Toxicology Chemistry của Stanley E.M. Tôi không
quyển sách này, nhưng với một quyển sách chuyên ngành như thế, nên chđoán
Stanley trích lại từ đâu đó, chứ không phải đích thân làm nghiên cứu này. Vài thắc
mắc được nêu ra:
Formol có mùi hăng, khó chịu vô cùng. Chcần mở nắp thùng là đủ chảy nước
mắt, hắt hơi. 60-90 ml formalin tương đương với 22 -33 gr formol (formaline
thương phẩm nồng độ 37%). Chán sống thì chơi thuốc rầy coi bộ còn d chịu
hơn, chứ nốc cả chén formalin thế này, thì…sc ngay.
Con người chứ phải khỉ hay chuột đâu mà mang ra thí nghiệm ngọt sớt thế
này.
Hay tác giả có cách tính toán gián tiếp nào chăng?
Dọa nhau kiểu này thì… hãi quá. Thôi quay trở lại với WHO cho chắc ăn. Tổ chức
này tập hợp những nghiên cứu độ tin cậy cao đưa ra hướng dẫn cho công
chúng.
WHO đưa ra những thí nghiệm trên động vật 3 mức: cấp tính, ngắn hạn và dài
hạn.
mức cấp tính: Liều LD50 là 800 mg cho chuột và 260 mg cho heo guinea
tính trên mỗi kg thể trọng (Smyth et al, 1941) LD 50 liu lượng formol làm
chết 50% động vật thí nghiệm, thí dụ, nếu bạn là…chuột và nặng 60 kg, và uống
800 mg x 60 = 4.600 mg formol, thì bạn có 50% cơ may lìa…đời
mức ngắn hạn: Thử nghiệm kéo dài 4 tuần trên chuột Wistar (uống hàng
ngày) cho thấy, liều 125 mg / kg thể trọng, chuột những biến đổi về mô bệnh
học bao tử. Còn liu 25mg/kg không thấy dấu hiệu bệnh tật (Til et al., 1988;
IPCS, 1989).
Ở mức dài hạn: Thử nghiệm kéo dài 2 năm trên chuột Wistar (uống hàng ngày)
cho thấy, liều 82 mg / kg thể trọng chuột có những biến đổi về bệnh học
bao tử, kém ăn,… Còn dưới 15mg/kg không thấy dấu hiệu bệnh (Til et al., 1989).
quan Nghiên cứu Ung thư của WHO đưa formol vào danh ch chất khả
năng gây ung thư cho người (carcinogenic to humans), nhưng chỉ bằng chứng
đủ mạnh để nói formol thể gây ung thư mũi thanh quản (nasopharyngeal), còn
bệnh bạch cầu và nghnghiệp thì chưa đủ chứng cớ. Nói cách khác formol chỉ
thể gây ung thư qua đường hô hấp.
WHO cũng nhấn mạnh, formol không phải chất gây ung thư qua đường tiêu
hóa (ăn uống).
quan Bảo vệ Môi trường Hoa Kỳ (EPA) xác định nước uống 1 ppm formol
không ảnh hưởng gì đến sức khỏe của người lớn. Tương tự, 10 ppm trong một
ngày hoặc 5 ppm trong suốt 10 ngày trẻ em. Cũng nên biết, mỗi ngày con người
uống khoảng 2 lít nước.
Trung tâm An toàn Thực phẩm (Hồng Công) cho rằng, ăn thực phẩm có lượng nhỏ
formol không gây hiệu ứng cấp tính, nhưng với lượng lớn, thể gây đau bụng,
nôn mửa, hôn mê, đau thận, và có thể chết. Nhưng lại không xác định lượng nhỏ là
bao nhiêu, lượng lớn là bao nhiêu.
Rút ra được điều gì?
ợng formol phát hiện trong bánh phở chỉ từ vài ppm đến 10 ppm (ppm =
mg/lít), quá nhso với các thực phẩm khác (cá, nấm,…), nhưng một thời lại gây
hoang mang qúa lớn. Hiện nay, thỉnh thoảng báo chí vẫn đưa tin, kiểm tra phát
hiện khi 30%, khi 40% bánh phở formol,… Người tiêu dùng đọc cũng
thy… nhột.
Cho thế nào đi nữa, formol là chất không được dùng trong chế biến thực phẩm.
S dụng bất cliều lượng nào đều vi phạm pháp luật. Các nước trên thế giới cũng
cấm n thế. Mỹ, m 1986, FDA mới cho phép dùng formol m chất diệt
khuẩn trong chế biến thức ăn gia súc.
Truyền thông đóng vai trò quan trọng trong việc định hướng luận. Rất nhiều
bài báo đang nói về formol trong nh phở, lại trích dẫn bên cạnh phát biểu của
các vgiáo sư, tiến sĩ, bác rằng, formol gây ung thư thanh quản, đột biến gen,…
Đặt mũi thay miệng như thế thì…ngượng chết. Lại có tờ báo “máu” lên: Tai sao
lại cho phép tự do bày bán những chất độc như thế? Phải quản lý chặt ”. Trời đất !
Formol nhập về cả 40-50 ngàn tấn/năm, hơn 90% được dùng công nghiệp keo, làm
nhựa, dệt,…, chỉ có vài phần trăm là vô ngành y tế để bảo quản xác và bệnh phẩm.
Quản chặt một nguyên liệu phbiến như thế thì mua đâu, và sphát sinh i
gì?
Còn nhiều sự cố nữa liên quan đến an toàn thực phẩm, như thủy ngân trong cá,
chất tẩy màu sulfite, hàn the, 3-MCPD trong nước tương, quinine trong phê,
phẩm màu Tartrazin trong gói,… ttừ sẽ được bóc tách một cách sòng phẳng,
đặt đúng mức độ tác hại của chúng. Dư luận phát hoảng hay không, phần lớn là do
truyền thông, phần còn lại là kiến thức và lương tâm của người phát biểu.