
Lời nói đầu
AFTA dù ít, nhiều mang ý nghĩa quan trọng đối với tương lai kinh tế Việt Nam.
Thách thức của AFTA yêu cầu phải nâng cao tính năng động và hiệu quả của cả nền
kinh tế, con đường tham gia AFTA đòi hỏi tiêu chuẩn hiệu quả phải đưa lên hàng đầu
trong các lĩnh vực quản lý, hoạch định chính sách của Nhà nuớc, trong hoạt động sản
xuất kinh doanh của chính các doanh nghiệp, buộc Việt Nam phải có nỗ lực lớn về cải
cách kinh tế và hành chính, cải cách doanh nghiệp Nhà nước theo hướng hiệu suất
hoá.
Cho dù còn rất nhiều vấn đề cần tiếp tục được làm sáng tỏ, AFTA đã thể hiện một
bước chuyển đổi chiến lược đúng đắn của sự hợp tác kinh tế ASEAN. AFTA là cơ sở
để xây dựng khu vực mở và là một đóng góp quan trọng vào tiến trình tự do hoá
thương mại toàn cầu. Bản thân AFTA là bước mở đầu để đưa Hiệp hội các quốc gia
Đông Nam á đi từ liên minh thương mại đến các liên minh về thuế quan, liên minh
tiền tệ, liên minh kinh tế.
Để đẩy nhanh tiến trình thực hiện AFTA, các doanh nghiệp trong nước cần căn cứ
theo hướng phát triển trong tình hình mới để có những quyết định kịp thời và phù hợp.
Doanh nghiệp cần xem xét, đánh giá cụ thể các yếu tố liên quan đến sản xuất, tiêu thụ
của từng mặt hàng trong tương quan các mặt hàng cùng loại từ ASEAN. Qua đó,
doanh nghiệp có thể tìm ra các sản phẩm mới, hay phát triển các sản phẩm có tiềm
năng xuất khẩu, tìm ra thị trường mới cho sản phẩm của mình, các giải pháp để có thể
làm chủ được thị trường nội địa và sau đó phải tìm kiếm khả năng xuất khẩu, định
hướng về các sản phẩm chủ lực, thị trường trọng điểm để có phương án sản xuất-kinh
doanh đáp ứng các nhu cầu xuất khẩu sang ASEAN hoặc ngoài ASEAN. Hơn nữa,
các doanh nghiệp sản xuất trong nước cần đánh giá các chọn lựa và đưa ra các giải

pháp cụ thể trước mắt và giải pháp lâu dài. Xuất phát từ những quan điểm trên, em đã
chọn nội dung của khoá luận tốt nghiệp và đề cập những giải pháp nhằm đẩy nhanh
việc thực hiện các cam kết của Việt Nam trong khuôn khổ AFTA.
Chương I : Tổng quan về khu vực mậu dịch tự do asean (AFTA)
I. MộT Số VấN Đề CHUNG Về LIÊN KếT KINH Tế KHU VựC
1.Khái niệm:
Khu vực mậu dịch tự do là một liên minh quốc tế giữa hai hoặc nhiều nước nhằm
mục đích tự do hoa hoá việc buôn bán về một hoặc một số nhóm mặt hàng nào đó.
Biện pháp sử dụng là bãi miễn các công cụ thuế quan và phi thuế quan giữa các nước
thành viên song các nước thành viên vẫn thi hành chính sách ngoại thương độc lập với
các nước ngoài liên minh.
2.Cấp độ liên kết:
Khu vực mậu dịch tự do là một liên minh quốc tế ở cấp độ thấp nhất trong các hình
thức liên kết quốc tế
3.tác động của khu vực mậu dịch tự do
Khu vực này thiết lập nên một mối quan hệ mậu dịch giữa các nước thành viên,mở
rộng quan hệ xuất khẩu với nhau và tiến tới mở rộng ra ngoài khối, điều này cho thấy
nó tác động tích cực đến buôn bán quốc tế nói chung.Việc di chuyển sản xuất từ các
nhà sản xuất có hiệu quả cao hơn ,người sản xuất và người tiêu dùng đều có lợi
II. TổNG QUAN Về AFTA:
1. Sự hình thành và phát triển của AFTA:
Tuyên bố thành lập khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) được đưa ra tại Hội nghị
thượng đỉnh ASEAN lần thứ 4 tại Singapore ngày 28 tháng 1 năm 1992 với thời hạn
dự định thực hiện 15 năm, bắt đầu từ ngày 1 tháng 1 năm 1993 và hoàn thành vào

năm 2008. “Tuyên bố chung Singapore - 1992” mở ra một thời kỳ mới trong hợp tác
ASEAN nhằm tạo cơ hội ổn định và phát triển khu vực. Trên cơ sở đó, hội nghị đã
quyết định thành lập “Khu vực mậu dịch tự do ASEAN” (AFTA). Lúc đầu, chương
trình AFTA dự định thực hiện trong vòng 15 năm kể từ ngày 1 tháng 1 năm 1993. là
phải bắt đầu từ ngày 1 tháng 1 năm 1998 Nhưng do yêu cầu đẩy nhanh tốc độ phát
triển, đầu tháng 7 năm 1994, Hội nghị Bộ trưởng kinh tế lần thứ 26 tháng 9 năm 1994
tại Chiềng Mai quyết định rút thời hạn xuống 10 năm, tức là hoàn thành vào năm
2003. Việt Nam là hội viên mới, được thực hiện chậm 5 năm, tức.
Khối ASEAN không phải là một khối có sức mạnh kinh tế lớn so với các khối khác
như NAFTA (700 tỉ USD); EU (600 tỉ USD); Nhật (3.500 tỉ USD); AFTA (400 tỉ
USD) tuy nhiên, được đánh giá là khối phát triển năng động nhất. Tốc độ tăng bình
quân 5 năm qua là 7,5% so với 3% của toàn thế giới. Tỉ trọng thương mại của
ASEAN cao hơn nhiều so với các khu vực khác, xuất khẩu trên 50% tổng sảm phẩm
quốc dân, đặc biệt Singapore là 139% (* số liệu 1994).
AFTA ra đời là phù hợp với quy luật vận động nội tại của các nền kinh tế ASEAN
trong bối cảnh khu vực hoá, toàn cầu hoá. Song với tư cách là một tổ chức hợp tác
kinh tế có thể chế, AFTA dường như là một dạng của "mô hình phát triển rút ngắn"
của kiên kết kinh tế khu vực và trên thực tế, nó không có được những điều kiện chuẩn
bị chín muồi về các bước liên kết khu vực giống như EU, NAFTA. Do đó, AFTA hình
thành trước tiên chỉ như là một hiệp định khung, có phần hơi đơn giản; còn các nội
dung và lịch trình của hiệp định lại chỉ được soạn thảo, sửa đổi và bổ sung đồng thời
với tiến trình tổ chức và thực hiện chúng.
Nền kinh tế của các nước Đông Nam á đang chuyển động theo những thay đổi lớn
trên thị trường tài chính và hàng hoá thế giới, trên khung cảnh hợp tác khu vực, trước

hết là khu vực Châu á - Thái Bình Dương, với sự hoạt động hết sức sôi động của các
công ty đa quốc gia. Sự di chuyển ồ ạt các dòng vốn đầu tư, công nghệ và tri thức
kinh doanh kéo theo sự biến động trong lợi thế so sánh của nhiều nước. Thị trường
khu vực ngày càng phát triển và thể chế hợp tác khu vực ngày càng được định hình đã
làm thay đổi nhanh chóng vị trí và chiến lược phát triển của từng nước.
Mặc dù khủng hoảng kinh tế đã diễn ra trong những năm giữa thập kỷ 80, tốc độ tăng
trưởng kinh tế của ASEAN từ năm 1981 đến 1994 là 5,4% (* thống kê của Ban thư ký
ASEAN) gần gấp hai lần tốc độ tăng trưởng trung bình của thế giới. Với tốc độ phát
triển kinh tế như vậy cùng với mục đích hợp tác toàn diện trên mọi lĩnh vực kinh tế -
chính trị - khoa học - xã hội ngay từ khi mới thành lập, lẽ ra hợp tác kinh tế của
ASEAN đã rất phát triển nhưng trên thực tế thành tựu lớn nhất mà ASEAN đạt được
trong suốt 25 năm tồn tại đầu tiên là hợp tác trong lĩnh vực chính trị quốc tế và an
ninh nội bộ của các nước thành viên. Mặc dù nhấn mạnh vào hợp tác kinh tế, nhưng
do nhiều nguyên nhân khác nhau, cho tới năm 1992, việc hợp tác này vẫn tiến triển rất
chậm chạp.
Từ năm 1976, vấn đề hợp tác kinh tế ASEAN đã được chú trọng trở lại với Kế hoạch
Hợp tác kinh tế mà lĩnh vực đầu tiên là cung ứng và sản xuất các hàng hoá cơ bản, các
xí nghiệp công nghiệp lớn, các thoả thuận thương mại ưu đãi và các quan hệ kinh tế
đối ngoại. Tuy đã có rất nhiều nỗ lực để thúc đẩy hợp tác kinh tế trong ASEAN,
nhưng kết quả của những nỗ lực đó không đạt được những mục tiêu mong đợi. Chỉ
đến năm 1992, khi các nước thành viên của ASEAN ký kết một Hiệp định về Khu vực
Mậu dịch Tự do ASEAN - AFTA thì hợp tác kinh tế các nước ASEAN mới thực sự
được đưa lên một tầm mức mới.

Trước khi AFTA ra đời, hợp tác kinh tế ASEAN đã trải qua nhiều kế hoạch hợp tác
kinh tế khác nhau. Đó là:
- Thoả thuận thương mại ưu đãi (PTA)
- Các dự án công nghiệp ASEAN (AIP)
- Kế hoạch hỗ trợ công nghiệp ASEAN (AIC) và Kế hoạch hỗ trợ sản xuất công
nghiệp cùng nhãn mác (BBC).
- Liên doanh công nghiệp ASEAN (AIJV)
Các kế hoạch hợp tác kinh tế kể trên là những nỗ lực không nhỏ của ASEAN tuy
nhiên tác động của nó đến thương mại nội bộ ASEAN rất nhỏ và không đủ khả năng
ảnh hưởng đến đầu tư trong khối. Có nhiều lý do khác nhau dẫn đến sự không thành
công này. Đó là việc vạch kế hoạch kém, vội vã liên kết mà không có các bước nghiên
cứu khả thi kỹ càng, quản lý thiếu hiệu quả, trong nhiều trường hợp, việc quyết định
đầu tư vào ngành công nghiệp nào lại do các Chính phủ chứ không phải thị trường
quyết định tức là còn dựa nhiều vào những ý tưởng chủ quan mà thiếu đi sự gắn kết
với thực tiễn. Hợp tác kinh tế ASEAN cũng bị ảnh hưởng một phần vì cơ cấu tổ chức
với một Ban thư ký có quá ít quyền hạn độc lập, không đủ khả năng để thực hiện vai
trò cơ bản trong việc đẩy nhanh và tăng cường hợp tác kinh tế khu vực. Nếu như
nguyên tắc nhất trí của ASEAN đã thúc đẩy việc thống nhất và ổn định thì chính nó
cũng làm cho các bước đi hợp tác kinh tế vị chậm lại hoặc bị điều chỉnh chỉ bởi một
nước thành viên thận trọng nào đó.
Tuy nhiên, các hoạt động hợp tác kinh tế của ASEAN đã có khuynh hướng tiến đến
hiệu quả hơn từ AIP đến AIJV. Khu vực tư nhân đã được chú trọng hơn,
quy luật thị trường dần dần được tuân thủ, các thủ tục liên quan được đơn giản hoá và
một số trường hợp các thủ tục rườm rà đã được loại bỏ, mức ưu đãi (MOP) được tăng