Thuyết Minh Cuộc đời nhà thơ

Nguyễn Trãi - Bài làm 3

Nguyễn Trãi, hiệu Ức Trai, sinh năm 1380 tại Thăng Long, ở nhà ông ngoại là

cụ Trần Nguyên Đán. Cha ông là Nguyễn Phi Khanh nhà nghèo, phải đi dạy học để

sinh sống. Sau khi được mời vào dạy học ở nhà cụ Trần Nguyên Đán, Nguyễn Phi

Khanh lấy con gái cụ Trần Nguyên Đán mà sinh ra Nguyễn Trãi và Nguyễn Phi

Hùng.

Từ bé, Nguyễn Trãi đã rất thông minh và chăm học. Năm 1400, nhà Hồ cướp

ngôi nhà trần rồi sau đó lại mở khoa thi để chọn nhân tài. Nguyễn Trãi đi thi, đậu tiến

sĩ và cùng cha, ra làm quan với nhà Hồ... Ông nguyện đem hết tài năng ra để giúp dân,

giúp nước.

Quân Minh mượn cớ là giúp nhà Trần, diệt nhà Hồ, để sang xâm lược nước

Nam. Hồ Quý Ly cố sức chống cự lại, nhưng vì lòng dân không phục, nên đã bị thua.

Quân nhà Minh bắt được toàn thể vua tôi nhà Hồ - trong đó có cả Nguyễn Phi Khanh -

đem nhốt hết vào cũi, rồi đặt lên xe, giải về Tàu.

Nguyễn Trãi trốn thoát. Khi nghe tin cha bị bắt, ông liền cùng em là Nguyễn

Phi Hùng lẽo đẽo theo sau đoàn xe giải tù, đi lên tận ải Nam quan. Hai anh em cùng

khóc, người nào cũng muốn được đi theo để săn sóc cha già, ở nơi đất khách, quê

người.

Trước khi vượt qua cửa ải Nam Quan, quân Minh cho đoàn xe tù tạm nghỉ.

Thừa dịp quân canh đi uống rượu, Nguyễn Trãi và em lẻn đến gần cũi nhốt cha. Hai

anh em cùng xin phép cho cho được đi theo cha, tới tận Kim Lăng (nước Tàu).

Nguyễn Phi Khanh ứa nước mắt, nói khẽ: "Các con là người có học, có tài, nên

tìm cách rửa nhục cho nước, trả thù cho cha. Như thế mới là có trung, có hiếu. Không

nên cứ lẽo đẽo theo cha mà khóc lóc như thế này! Nếu cần thì cho Phi Hùng đi theo là

đủ rồi!"

Biết rõ ý cha đã quyết, Nguyễn Trãi đành gạt nước mắt, để cho em là Nguyễn

Phi Hùng đi theo cha. Ông còn căn dặn em là, sau này khi cha chết, phải cố mà tìm

cách đem nắm xương tàn của cha về nước. Đến đây, Nguyễn Phi Khanh lại giục: "kìa

quân canh đã trở lại rồi, con về đi!"

Nguyễn Trãi buồn rầu lùi ra xa, rồi đứng yên một chỗ, trông theo đoàn xe tù

dần dần qua ải Nam Quan. Tới khi không còn nhìn thấy gì nữa, Nguyễn Trãi mới quay

gót trở về Đông Quan. Chân bước trên đường mà lòng đau như cắt, vì từ nay ông đành

vĩnh biệt cha già!

Vừa về tới Đông Quan là Nguyễn Trãi đã bị quân Minh kéo tới bắt. Chúng biết

ông đã từng làm quan với nhà Hồ. Nhìn thấy vẻ mặt thông minh của Nguyễn Trãi,

Trương Phụ sai lính đem chém đầu ngay để trừ mầm mống nổi loạn, chống đối sau

này.

Thấy thế Hoàng Phúc vội ngăn lại và ghé tai nói thầm với Trương Phụ rằng:

"Người này có tài, ta nên dụ dỗ hắn thì sẽ có lợi cho việc cai trị và bình định dân

Nam." Trương Phụ ngẫm nghĩ một lát rồi ra lịnh tha cho Nguyễn Trãi được trở về nhà

riêng.11) Sau đó, bọn tướng nhà Minh lại cho người đem vàng lụa tới khuyên dụ

Nguyễn Trãi nên ra làm quan với chúng. Nguyễn Trãi lựa lời tìm cách từ chối nên

chúng cho người rình rập, dò xét mọi hành động của ông. Để làm cho chúng khỏi nghi

ngờ, ông mở trường dạy học.

Tuy bị giam lỏng, không được tự do đi lại, nhưng Nguyễn Trãi vẫn biết rõ tình

hình của giặc, nhờ các học trò của ông ở khắp nơi, tới trường kể lại. Ông theo dõi và

suy nghĩ rất kỹ để tìm ra một kế hoạch đánh đuổi giặc Minh. Rồi theo đó mà soạn

thành một sách lược "Bình Ngô".

Ít lâu sau, có người bán dầu tìm tới gặp ông. Khi người này vào nhà, bỏ nón ra,

đặt gánh dầu xuống, thì Nguyễn Trãi vội kêu lên: "Trời ơi! Anh Trần Nguyên Hãn!"

Thì ra đó chính là Trần Nguyên Hãn, đã ăn mặc giả làm người bán dầu, để tìm đến

gặp Nguyễn Trãi.

Trần Nguyên Hãn, cháu nội của cụ Trần Nguyên Đán, vốn là anh em con cô,

con cậu với Nguyễn Trãi. Nay Trần Nguyên Hãn tới rủ Nguyễn Trãi cùng vào Lam

Sơn tìm gặp Lê Lợi, để lo việc cứu nước. Ông hẹn sẽ đợi Nguyễn Trãi vào sáng mai, ở

ngoài thành Đông Quan.

Đêm hôm ấy, Nguyễn Trãi thu xếp lại mọi công việc và đồ dùng để chỉ mang

theo một cuốn sách lược "Bình Ngô". Sáng hôm sau, nhân gặp ngày rằm, thiên hạ nô

nức kéo nhau đi lễ chùa rất đông, Nguyễn Trãi liền đi lẫn vào đám người đi lễ, để trốn

ra khỏi thành.

Rồi hai anh em, sau khi gặp nhau, liền đêm đi, ngày nghỉ, cốt để tránh sự kiểm

soát ở dọc đường của quân lính nhà Minh. Tới Lam Sơn, hai người được nghĩa quân

đưa vào gặp chủ tướng Lê Lợi. Nguyễn Trãi dâng kế hoạch đánh đuổi giặc Minh được

ghi trong sách lược "Bình Ngô".

Lê Lợi liền cho họp các gia tướng lại để nghe Nguyễn Trãi và Trần Nguyên

Hãn trình bày thêm về tình hình giặc ở thành Đông Quan. Sau đó Nguyễn Trãi lại

nhấn mạnh vào việc muốn thắng giặc, cần phải được lòng dân chúng trước đã. Có như

thế mới không như Hồ Quý Ly trước đây, vì những cải cách quá táo bạo, mới mẻ, mà

đã làm mất lòng dân, nên mới bị thua.

Mọi người rất vui mừng. Lê Lợi giữ Nguyễn Trãi ở lại làm sư quân và giao cho

Trần Nguyên Hãn việc huấn luyện binh sĩ. Nguyễn Trãi liền soạn thảo những tờ hịch

kể tội ác của giặc Minh, rồi cho đem đi dán ở khắp mọi nơi để kích thích lòng yêu

nước của dân chúng.

Trong suốt mười năm gian khổ chống lại giặc Minh, Nguyễn Trãi luôn luôn ở

liền bên cạnh Bình Định Vương Lê Lợi. Ông đưa ra những ý kiến và đường lối để thu

phục lòng người. Chính tay ông đã soạn thảo ra những văn thư và mệnh lệnh gửi cho

nghĩa quân.

Khi nghĩa quân phải rút về Chí Linh lần thứ ba, lương thực cạn, tướng sĩ mỏi

mệt, Nguyễn Trãi đã khuyên Bình Định Vương nên tạm hòa với giặc. Rồi ông viết thư

cho Trần Trí và Sơn Thọ, trình bày rõ mọi lẽ lợi hại, hơn thiệt để hai bên cùng ngưng

chiến, nghỉ ngơi.

Khi Phương Chính, tên đô đốc giặc, gửi thư kể tội, mắng nhiếc Lê Lợi và nghĩa

quân, Nguyễn Trãi đã viết thư trả lời mắng lại. Lời thư thật là đanh thép, hùng hồn.

Ngoài việc nêu cao chính nghĩa vì dân, vì nước của Bình Định Vương, ông còn vạch

rõ những tội ác dã man của giặc, khiến Phương Chính xem xong, uất ức, tức giận vô

cùng!

Năm 1427, khi ra vây thành Đông Quan, theo lệnh Bình Định Vương, Nguyễn

Trãi lại viết hịch gửi đi khuyên bảo, thúc giục Vương Thông ở thành Đông Quan nên

sớm rút quân về Tàu, vì viện binh của y đều đã bị phá vỡ...

Ngọn bút của Nguyễn Trãi có sức mạnh phi thường, chẳng khác gì một đoàn

quân dũng mãnh, đánh thẳng vào tâm lý, tình cảm của quân thù. Vì thế mà những lá

thư dụ hàng của ông đã khiến cho nghĩa quân hạ được nhiều thành của giặc, mà không

mất một mũi tên, một giọt máu nào...

Sau khi đánh đuổi được giặc Minh về nước, Bình Định Vương lên ngôi vua tức

là vua Lê Thái Tổ. Ngài ủy cho Nguyễn trãi viết bản "Bình Ngô Đại Cáo" để thông

báo cho toàn dân biết tin là đã phá tan được giặc Minh. Bản này còn là một áng văn

chương hùng tráng, tuyệt tác, rất có giá trị và được truyền tụng đến muôn đời sau...

Lên ngôi rồi, vua Thái Tổ liền ban chức tước và khen thưởng các công thần.

Bên văn, đứng đầu là Nguyễn Trãi. Bên võ, đứng đầu là Lê Vấn. Ngài lại phong cho

Nguyễn Trãi tước Quan Phục Hầu và Trần Nguyên Hãn làm Tả Tướng Quốc.

Chẳng được bao lâu vì tính hay nghi ngờ, lại nghe lời dèm pha mà Thái Tổ đã

lầm lẫn giết oan nhiều vị công thần như: Trần Nguyên Hãn, Phạm Văn Xảo v.v.. Đã

có một lần Nguyễn Trãi bị bắt, rồi bị tống giam vào ngục và xuýt nữa thì bị giết chết.

Buồn chán vì việc đời trái với lòng mình, Nguyễn Trãi xin thôi làm quan và về

ở ẩn tại côn sơn (Hải Dương) từ năm 1439. Chưa ở nhà được một năm thì vua Lê Thái

Tông lại vời ông ra làm việc. Bất đắc dĩ, không từ chối được, ông đành phải vâng

mệnh vua, trở lại kinh thành.

Tuy ra làm quan mà Nguyễn Trãi vẫn thường đi, về đất Côn Sơn, sống một

cuộc đời thanh bần, giản dị. Một lần đến thăm ông, tiến sĩ Đỗ Mộng Tuân, người bạn

thi đậu cùng khoa với ông, đã phải nói: "Nhà Quan phục hầu sao mà trống trải, nghèo

nàn thế này? Chỉ được mỗi cái là có rất nhiều sách cổ mà thôi!"

Nguyễn Trãi có người vợ lẽ tên là Nguyễn Thị Lộ rất xinh đẹp, nết na, lại giỏi

văn thơ. Thái Tông biết tiếng nên cho vời vào cung, rồi phong cho làm Lễ Nghi nữ

học sĩ, để dạy các cung phi. Nhà vua thường đem việc nước ra bàn với Nguyễn Thị

Lộ.

Khi vợ thứ tư của Thái Tông là Nguyễn Thị Anh sinh con trai là Băng Cơ được

lập làm thái tử, thì người vợ thứ năm của vua là Ngô Thị Ngọc Dao cũng có thai. Sợ

Ngọc Dao lại sinh con trai, có thể tranh giành quyền hành với con mình, Nguyễn Thị

Anh liền cùng bọn gian thần tìm cách đặt điều nói xấu, hãm hại Ngọc Dao. Nhà vua

nghe theo định đầy Ngọc Dao đi thật xa.

Thấy việc này oan ức, Nguyễn Trãi bảo Thị Lộ gỡ oan giúp. Thị Lộ xin vua xét

lại và được Thái Tông nghe lời, cho đổi tội đi đầy ra tội giam lỏng Ngọc Dao tại chùa

Huy Văn (ở gần Văn miếu bây giờ). Sau đó, Nguyễn Trãi lại thường sai người ngầm

mang thức ăn đến cho Ngọc Dao.

Đến kỳ sinh nở, Ngọc Dao sinh được một người con trai, đặt tên là Tư Thành.

(sau này khi lên ngôi vua, Tư Thành lấy hiệu là Lê Thánh Tông 1460-1497). Việc ấy

đến tai Nguyễn Thị Anh. Bà này giận lắm, bàn cùng bọn Lê Vấn, tìm mọi cách để báo

thù, hãm hại cả gia đình Nguyễn Trãi

Năm 1442, Lê Thái Tông đi duyệt kỳ thi võ ở thành Chí Linh (Hải Dương).

Tiện đường về, vua ghé lại Côn Sơn thăm Nguyễn Trãi. Sau đó xa giá trở về kinh.

Dọc đường, trời tối, Thái Tông cho lệnh dừng xe, nghỉ đêm ở Lệ Chi Viên (tục gọi là

trại vải Đại Lại, Bắc Giang).

Thình lình nửa đêm, Thái Tông bị bệnh mà băng hà (chết). Các quan hộ giá

cùng nữ học sĩ vội bí mật rước thi hài vua về kinh. Triều đình lập Băng Cơ lên nối

ngôi, tức là vua Lê Nhân Tông. Vì Nhân Tông mới có hai tuổi nên bà Thái hậu

Nguyễn Thị Anh được cử ra để trông coi việc nước.

Nhân dịp này, bọn quyền thần liền cùng Thái hậu bắt Nguyễn Thị Lộ đem ra

tra khảo rất tàn nhẫn và khép vào tội giết vua. Thái hậu Nguyễn Thị Anh, ngồi sau

rèm, bắt quân lính tra hỏi: "Có phải chính Nguyễn Trãi xui mi dùng thuốc độc giết vua

hay không?".

Nguyễn Thị Lộ kêu oan nên bị đánh đập nữa. Sau cùng, không chịu nổi hình

phạt, Thị Lộ đành liều nhận tội. Thế là Thái Hậu tức tốc sai bọn lực sĩ về tận Côn Sơn,

bắt cả gia đình Nguyễn Trãi, đóng vào cũi, giải về kinh, trị tội (1442).

Theo lịnh của Thái hậu, lũ quyền thần ghép cho Nguyễn Trãi cái tội làm phản,

giết vua nên bị tru di tam tộc (tức là giết cả ba họ là: họ cha, họ mẹ và họ vợ, không kể

gì già trẻ, trai gái, lớn, bé). Thế là cả gia đình của Nguyễn Trãi đã bị chết oan, nhưng

danh thơm, tiếng tốt của ông vẫn còn sáng chói đến muôn đời trong lịch sử...

Hai mươi hai năm sau (1464) con trai bà Ngô Thị Ngọc Dao là Lê Tư Thành lại

được tôn lên làm vua Lê Thánh Tông. Biết rõ lòng trung nghĩa của Nguyễn Trãi, lại

nhớ ơn người đã từng cứu sống cho cả hai mẹ con mình, Lê Thánh Tông liền xuống

chiếu giải oan cho ông và truy tặng ông tước Thái sư Tuệ Quốc Công.

Việc cả gia đình Nguyễn Trãi bị giết là do ở mối thù của bà Thái Hậu Nguyễn

Thị Anh và lũ quyền thần. Tuy nhiên trong dân gian lại có một thuyết cho là vì rắn

báo oán. Thuyết đó kể rằng, khi ông còn dạy học, đám học trò phát cỏ, dọn vườn làm

trường, có người đã chém đứt đuôi một con rắn cái đang có mang (có bầu sắp đẻ)

Đêm đến, con rắn cái đó leo lên xà làm rỏ một giọt máu xuống cuốn sách mà

ông Nguyễn Trãi đang cầm đọc. Giọt máu trúng ngay vào chữ Đại (Đại có nghĩa là

đời) và thấm tận xuống 3 tờ giấy trong sách. Vì thế nên ông bị tội chết cả ba họ và

Nguyễn Thị Lộ chính là con rắn cái đã bị chém đứt đuôi hiện ra để báo oán thù ông.

Truyện này tuy huyền hoặc, song vẫn có nhiều người hay kể lại.