BỘ NỘI VỤ TRƯỜNG ĐẠI HỌC NỘI VỤ HÀ NỘI

BÁO CÁO TỔNG HỢP

ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CẤP TRƯỜNG

TIÊU DÙNG VĂN HÓA CỦA SINH VIÊN

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NỘI VỤ HÀ NỘI

Mã số: ĐTCT.2022.13

Chủ nhiệm đề tài: Ths. Phạm Thị Hương

Hà Nội, tháng 6 năm 2022

1

MỤC LỤC

MỤC LỤC 2

1. Tính cấp thiết của đề tài 6

2. Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài 7

3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài 15

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài 5. Phương pháp nghiên cứu 15 16

6. Bố cục của đề tài 18

CHƯƠNG 1 19

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TIÊU DÙNG VĂN HÓA 19

1.1. Một số khái niệm về tiêu dùng văn hóa 19

1.1.1. Tiêu dùng văn hóa .............................................................................. 19 1.1.2. Nhu cầu tiêu dùng văn hóa ................................................................ 23 1.1.3. Nội dung tiêu dùng văn hóa ............................................................... 24 1.1.4. Phương thức tiêu dùng văn hóa ........................................................ 25 1.1.5. Phương tiện tiêu dùng văn hóa ......................................................... 26 27 29 1.2. Đặc điểm tiêu dùng văn hóa 1.3. Vai trò của tiêu dùng văn hóa

1.3.1. Đáp ứng nhu cầu giải trí .................................................................... 29 1.3.2. Thúc đẩy năng lực thưởng thức nghệ thuật và năng lực sáng tạo.. 31 1.3.3. Định hướng lối sống và kiến tạo bản sắc .......................................... 32 1.3.4. Thúc đẩy quá trình sản xuất văn hóa ................................................ 33 34 1.4. Các yếu tố tác động đến tiêu dùng văn hóa của sinh viên

1.4.1. Bối cảnh toàn cầu hóa ....................................................................... 34 1.4.2. Sự phát triển của internet và truyền thông ....................................... 36 1.4.3. Thị trường sản phẩm văn hóa ........................................................... 38 41 Tiểu kết chương 1

CHƯƠNG 2 THỰC TRẠNG TIÊU DÙNG VĂN HÓA CỦA SINH VIÊN 43 43

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NỘI VỤ HÀ NỘI 43

2.1. Khái quát về sinh viên Trường Đại học Nội vụ Hà Nội 43

2.1.1. Đặc điểm tâm sinh lí lứa tuổi ............................................................. 43

2

2.1.2. Định hướng nghề nghiệp ................................................................... 45

2.2. Nội dung tiêu dùng văn hóa của sinh viên Trường Đại học Nội vụ Hà Nội 47

2.2.1. Một số nhận xét chung ....................................................................... 47 2.2.2. Tiêu dùng các sản phẩm điện ảnh ..................................................... 52 2.2.3. Tiêu dùng các sản phẩm âm nhạc ..................................................... 55 2.2.4. Tiêu dùng các sản phẩm sách, báo, tạp chí ...................................... 58 2.2.5. Tiêu dùng các sản phẩm trò chơi điện tử .......................................... 62

2.3. Các phương thức tiêu dùng văn hóa của sinh viên Trường Đại học Nội vụ Hà Nội 66

2.4. Tiêu dùng văn hóa, thị hiếu và lối sống 68

2.4.1. Tiêu dùng văn hóa: phương thức giải trí phổ biến của sinh viên Trường Đại học Nội vụ Hà Nội ................................................................... 68 2.4.2. Xu hướng tiêu dùng số và sự hình thành thế hệ tiêu dùng mới ...... 70 73 Tiểu kết chương 2

CHƯƠNG 3 75

PHÁT TRIỂN TIÊU DÙNG VĂN HÓA CỦA SINH VIÊN 75

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NỘI VỤ HÀ NỘI VÀ MỘT SỐ HÀM Ý CHO VIỆC DẠY HỌC 75

3.1. Phát triển tiêu dùng văn hóa cho sinh viên Trường Đại học Nội vụ Hà Nội 75

3.1.1. Giáo dục nghệ thuật cho sinh viên .................................................... 75 3.1.2. Hoàn thiện hệ thống cơ sở thiết chế văn hóa trong trường học ...... 79 3.1.3. Bồi dưỡng và nâng cao năng lực số cho sinh viên ........................... 83 85 3.2. Tiêu dùng văn hóa và một số hàm ý cho việc dạy học

3.2.1. Quan tâm đến đời sống tinh thần của người học ............................. 85 3.2.2. Sử dụng các sản phẩm văn hóa trong dạy học ................................. 86 89 Tiểu kết chương 3

KẾT LUẬN 91

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 93

DANH MỤC BÀI VIẾT ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI 98

99 PHỤ LỤC

3

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

ĐHNV Trường Đại học Nội vụ Hà Nội

GV Giảng viên

SV Sinh viên

CLB Câu lạc bộ

CTĐT Chương trình đào tạo

4

DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ

Biểu đồ 1 Mức sinh hoạt phí hàng tháng của SV

Biểu đồ 2 Mức chi cho các sản phẩm văn hóa trong 1 tháng

Biểu đồ 3 Tác động của phim ảnh tới SV

Biểu đồ 4 Lý do các sản phẩm âm nhạc cuốn hút SV

Biểu đồ 5 Tác động của sản phẩm âm nhạc tới SV

Biểu đồ 6 Các loại sách SV thường đọc

Biểu đồ 7 Sách báo tác động đến SV

Biểu đồ 8a, 8b Chơi game tác động tới SV

Biểu đồ 9 Lý do trò chơi điện tử hấp dẫn SV

Biểu đồ 10 Phương thức tiêu dùng văn hóa của SV

Biểu đồ 11 Thời gian SV thường sử dụng các sản phẩm văn hóa

5

PHẦN MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Giới trẻ nói chung và sinh viên (SV) nói riêng là một đối tượng thu hút sự quan

tâm của nhiều nhà nghiên cứu bởi đây là thế hệ chủ nhân tương lai, là nguồn lao động

chủ chốt của đất nước. Thuộc nhóm xã hội khá đặc biệt, trong độ tuổi thanh xuân,

nhiều năng lượng, khát khao sáng tạo và cống hiến, giới trẻ luôn là những người tìm

kiếm, khai phá và kiến tạo nên nhiều xu hướng, trào lưu trong đời sống. Đây cũng là

giai đoạn được đặc trưng bởi nhiều đặc điểm tâm sinh lý, định hướng nghề nghiệp, sự

chuẩn bị, tích lũy kiến thức, kĩ năng, năng lực tự chủ và trách nhiệm để phục vụ cho

công việc, trở thành những công dân độc lập.

Bên cạnh hoạt động học tập và nghiên cứu mang tính hướng nghiệp, đời sống

tinh thần của SV là một mảnh ghép quan trọng góp phần kiến tạo và định hình nên bản

sắc cá nhân. Trong độ tuổi từ 18 - 25, đến từ nhiều tỉnh thành trong cả nước, ngoài

việc tham gia hoạt động chủ đạo là học tập, nghiên cứu khoa học, đời sống của SV

Trường Đại học Nội vụ Hà Nội (ĐHNV) còn xoay quanh nhiều nhu cầu, sở thích khác

nhau. Cùng với mối quan tâm về ngành học, phương pháp học, rèn luyện kĩ năng mềm,

công việc bán thời gian để có thêm thu nhập phục vụ cho sinh hoạt hàng ngày, các mối

quan hệ tình bạn, tình yêu,... SV còn thường xuyên tiêu dùng nhiều sản phẩm văn hóa

để thư giãn, tăng tính kết nối cùng với bạn bè, để cập nhật xu hướng giải trí mới trong

nước và trên thế giới. SV tìm kiếm các sản phẩm văn hóa phù hợp với mình như phim

ảnh, sách báo, âm nhạc, trò chơi điện tử..., chủ động chi trả để sở hữu và thưởng thức

cho phù hợp với ngân sách được cung cấp bởi cha mẹ hoặc từ một vài nguồn thu khác

đến từ các công việc làm thêm bán thời gian. Thuộc về nhóm chủ thể tiêu dùng khá

độc lập, hiện đại, tiêu dùng văn hóa ảnh hưởng tới lối sống, sự định hình nhân cách

của SV. Hơn thế, hoạt động tiêu dùng của nhóm xã hội chiếm số lượng đông đảo này

cũng đang tác động mạnh mẽ tới quá trình sản xuất sản phẩm văn hóa của các ngành

công nghiệp văn hóa - vốn đang vươn lên trở thành ngành trụ cột, mũi nhọn, đóng vai

trò quan trọng trong sự phát triển của nền kinh tế mỗi quốc gia.

Các cơ sở giáo dục đại học, ở những mức độ khác nhau, đều quan tâm đến đời

sống tinh thần, phát triển tiêu dùng văn hóa cho người học như một phần quan trọng,

hướng đến mục tiêu đào tạo con người toàn diện “đức - trí - thể - mĩ”. Tùy thuộc vào

đặc thù của ngành học, người học cũng như định hướng đào tạo, mỗi trường sẽ có

6

những kế hoạch, biện pháp khác nhau để thúc đẩy hoạt động tiêu dùng văn hóa, tạo

điều kiện cũng như không gian thuận lợi giúp người học phát huy được năng lực, sở

thích của cá nhân. Để có cơ sở cho những giải pháp đó, nghiên cứu về tiêu dùng văn

hóa ở những chiều kích như nhu cầu tiêu dùng, nội dung tiêu dùng, phương thức tiêu

dùng, phương tiện tiêu dùng... là thực sự cần thiết.

Một số phản ánh trên các phương tiện truyền thông gần đây cho thấy nhiều hành

vi tiêu dùng văn hóa của người trẻ bị đánh giá là lệch lạc, phản cảm, trái với thuần

phong mỹ tục truyền thống. Liệu những nhận định đó có hoàn toàn phù hợp khi viết

về người trẻ hay chỉ là cách nhìn của người ngoài cuộc với quan điểm, hệ giá trị và gu

thẩm mĩ khác và không phản ánh đúng suy nghĩ, lối sống của một thế hệ lớn lên trong

một bối cảnh xã hội rất khác với các thế hệ trước đây. Thực tiễn đời sống khẳng định

sự cần thiết phải có những khám phá sâu hơn về tiêu dùng văn hóa, vai trò kiến tạo lối

sống, bản sắc cá nhân cũng như những yếu tố tác động đến tiêu dùng văn hóa của SV.

Thực hiện nghiên cứu này sẽ cung cấp một cái nhìn gần hơn tới nhu cầu, suy nghĩ của

sinh viên ĐHNV về tiêu dùng văn hóa, qua đó có thêm một “kênh” để tìm hiểu, khám

phá, hiểu sâu hơn về đời sống tinh thần cũng như hình dung một cách tổng thể về đời

sống của SV.

Dạy học là quá trình tương tác, hỗ trợ, thúc đẩy giữa người dạy với người học

dựa trên những hiểu biết sâu sắc về người học. Ngoài đặc điểm tâm sinh lí lứa tuổi,

các con đường kiến tạo tri thức, định hướng nghề nghiệp,... thì đời sống tinh thần của

người học là một nội dung quan trọng mà người dạy cần hiểu rõ. Nghiên cứu về tiêu

dùng văn hóa của SV ĐHNV cũng chính là nỗ lực để hiểu về thế giới tinh thần, xu

hướng, phong cách, bản sắc của SV trong bối cảnh hiện đại, từ đó có những định hướng

và lựa chọn các chiến lược dạy học phù hợp cũng như thiết lập mối quan hệ gần gũi,

tiến gần hơn tới sự “thấu cảm“ giữa người dạy và người học.

Với những lý do trên đây, tôi chọn đề tài Tiêu dùng văn hóa của sinh viên Trường

Đại học Nội vụ Hà Nội làm chủ đề nghiên cứu.

2. Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài

Tiêu dùng là chủ đề được nghiên cứu ở nhiều ngành khoa học khác nhau. Ngành

kinh tế học quan tâm đến những yếu tố tác động đến hành vi tiêu dùng như văn hóa,

xã hội, cá nhân, tâm lý… để có những hiểu biết sâu sắc về người tiêu dùng nhằm thực

hiện chiến lược marketting hiệu quả, tối đa hóa doanh thu và lợi nhuận. Ngành xã hội

7

học, vượt ra phạm vi sự hợp lý của quy luật cung - cầu trong ngành kinh tế, coi tiêu

dùng là trung tâm của đời sống hàng ngày của mỗi người qua đó phân loại xã hội, làm

sáng tỏ tư cách thành viên nhóm, địa vị xã hội. Ngành nghiên cứu văn hóa khám phá

các thực hành tiêu dùng, văn hóa tiêu dùng như một phương cách để con người thời

hiện đại kiến tạo ý nghĩa, định vị bản sắc. Nghiên cứu về tiêu dùng nói chung, vì vậy

có sự nở rộ, cả trong nước và nước ngoài. Tiêu dùng văn hóa đặt trong bối cảnh toàn

cầu hóa, với sự nổi lên của xã hội tiêu dùng do vậy cũng là một dạng thức tiêu dùng

gắn với đối tượng là các sản phẩm văn hóa nghệ thuật.

Nghiên cứu về tiêu dùng văn hóa như một phương thức thể hiện bản sắc

Tiêu dùng là chủ đề được nghiên cứu khá rộng rãi trong hầu hết các ngành khoa

học xã hội và nhân văn trên thế giới. Các nghiên cứu đều thể hiện rõ sự đồng thuận về

tầm quan trọng của tiêu dùng trong xã hội hiện đại. Nhiều ý kiến cho rằng đó là động

lực chính thúc đẩy sự phát triển kinh tế và xã hội, những ý kiến khác lại xem đó là mối

bận tâm cốt lõi của người dân trên toàn thế giới. Các thực hành tiêu dùng nói chung

và tiêu dùng văn hóa nói riêng không đơn thuần chỉ thỏa mãn nhu cầu của cá nhân mà

còn là hành vi mang tính biểu tượng, thể hiện và kiến tạo “gu thẩm mĩ”, phong cách

và bản sắc.

“Taste classifes, and it classifies the classifier” (Thị hiếu phân biệt, và nó phân

biệt người phân biệt), “gu khác biệt” hay “thị hiếu khác biệt” (taste of distinction) là

luận điểm quan trọng của Pierre Bourdieu (1930-2002) bàn về sự phân biệt thị hiếu

dựa trên những khác biệt về nền tảng văn hóa. Pierre Bourdieu được biết đến như một

trí thức công có nhiều đóng góp và giữ vị trí đặc biệt trong ngành xã hội học Pháp với

những nghiên cứu về vốn văn hóa, vốn xã hội, sự thống trị của nam giới,… Trong

cuốn sách Distinction: a social critique of the judgment of taste (1984) (Sự khác biệt:

một phê phán xã hội về thị hiếu) khi bàn về vấn đề tiêu dùng, câu hỏi mà Bourdieu đặt

ra là kinh tế và xã hội, yếu tố nào quyết định đến thị hiếu của con người, một câu hỏi

mà các nhà kinh tế không mấy quan tâm hoặc thường bỏ qua khi mặc nhiên thừa nhận

câu trả lời tất nhiên là kinh tế. Tại sao người ta lại lựa chọn thứ này mà không phải thứ

khác? Ngoài việc thỏa mãn các nhu cầu căn bản của con người, còn yếu tố nào chi

phối đến các quyết định tiêu dùng? Trong lời mở đầu của cuốn sách, ông viết:

“Thị hiếu thẩm mĩ có tính phân biệt, nó phân biệt người phân biệt. Các

đối tượng xã hội được phân loại theo sự phân loại của họ, tự phân biệt mình

8

bằng sự phân biệt họ tạo ra, giữa đẹp và xấu xí, giữa sang trọng và thô tục, qua

đó vị thế xã hội của họ được tạo dựng hoặc bị hủy hoại. Những phân tích thống

kê cũng thực sự cho thấy điều đó được tìm thấy trong thực tiễn văn hóa cũng

như xuất hiện trong thói quen ăn uống” [48].

Bourdieu cho rằng “thị hiếu không phải là một sự tùy tiện, nó dựa trên quyền lực và

vị thế xã hội” [48].

Những diễn giải sau đó tác giả tập trung phân tích nét khác biệt của thị hiếu

thẩm mĩ hay “gu” thẩm mĩ thể hiện trong sự lựa chọn. Nó cho chúng ta nhận thấy,

khẩu vị trong ăn uống hay thị hiếu thẩm mĩ trong việc lựa chọn mỹ phẩm, quần áo,

cách thức trang trí nhà cửa… đều là cơ hội để trải nghiệm và khẳng định vị thế của

con người trong không gian xã hội, để duy trì một địa vị, một khoảng cách với những

đối tượng khác. Thị hiếu hay cách thức tiêu dùng hàng ngày vì vậy chính là một chỉ

dẫn để nhận diện và giải mã vị thế xã hội của con người. Sự phân biệt khẩu vị, thị hiếu

thẩm mĩ không đơn giản phản ánh một lối sống, cách thức tiêu thụ mà còn là yếu tố

hình thành nên vị thế xã hội, ẩn chứa các mối quan hệ về quyền lực. Trong nhiều

trường hợp, người ta muốn và lựa chọn những thứ để tỏ ra khác biệt, để tự phân biệt

với số đông còn lại, để không giống ai khác. Nó giống như một tín hiệu để định vị

mình thuộc nhóm người này chứ nhất định không phải nhóm người kia.

Lý thuyết về thị hiếu khác biệt hay “gu khác biệt” (taste of distinction) của

Bourdieu đã được nhiều tác giả vận dụng vào thực tiễn tiêu dùng văn hóa của nhiều

quốc gia trên thế giới, ở nhiều lĩnh vực khác nhau. Các nghiên cứu sau này cũng tìm

hiểu, xác định địa vị xã hội, tầng lớp xã hội, trình độ học vấn và thu nhập có liên quan

như thế nào đến tiêu dùng văn hóa như Tally Katz Gerro (1999) trong Cultural

Consumption and Social Stratification: Leisure Activities, Musical Tastes, and Social

Location (Tiêu dùng văn hóa và phân tầng xã hội: hoạt động giải trí, thị hiếu âm nhạc

và vị thế xã hội) [54]; Arthur S.Alderson – Azamat Junisbai – Isaac Heacock (2007)

với Social status and curtural consumption in the United State (Vị thế xã hội và tiêu

dùng văn hóa tại Mỹ) [46]; Erzsebet Bukodi (2007), Social stratification and cultural

consumption in Hungary: book readership (Phân tầng xã hội và tiêu dùng văn hóa ở

Hungary: độc giả) [49]…

Tác giả John Storey (1999), từ góc nhìn của ngành nghiên cứu văn hóa đã xuất bản cuốn Cultural Consumption in Everyday Life (Cultural Studies in Practice) (Tiêu

9

dùng văn hóa trong đời sống hàng ngày) [51] - một công trình quan trọng về tiêu dùng

văn hóa. Nghiên cứu đã phác thảo các quan điểm lý thuyết, nhìn lại các cuộc tranh

luận về chủ nghĩa hậu hiện đại, về tiêu dùng và bản sắc, coi tiêu dùng văn hóa là một

phần trong cuộc sống hàng ngày, nó có thể nói lên chúng ta là ai hoặc chúng ta muốn

trở thành ai.

Nghiên cứu về tiêu dùng văn hóa như một giai đoạn của quy trình sáng tạo và phân

phối các ngành công nghiệp văn hóa

Tiêu dùng văn hóa là một chủ đề được quan tâm nhiều trong nghiên cứu khoa

học xã hội nói chung và nghiên cứu văn hóa nói riêng nhất là trong bối cảnh công

nghiệp văn hóa, công nghiệp sáng tạo đang trở thành một trong những ngành kinh tế

trụ cột của mỗi quốc gia. Dưới góc nhìn của ngành kinh tế học văn hóa và quản lý văn

hóa, nghiên cứu về tiêu dùng văn hóa đồng nghĩa với việc nghiên cứu một công đoạn

quan trọng trong quy trình vận hành của các ngành công nghiệp văn hóa, nhằm phát

triển khán giả, thúc đẩy việc sản xuất và tái sản xuất các sản phẩm văn hóa. Sự nổi lên

của công nghiệp văn hóa nhấn mạnh vai trò của thị trường văn hóa, nơi các sản phẩm

và dịch vụ văn hóa được lưu thông theo nguyên lý cung cầu. Trong thị trường văn hóa,

tiêu dùng văn hóa, hay cụ thể hơn là người tiêu dùng văn hóa trở thành một trong 3 trụ

cột quan trọng trong mối quan hệ người sản xuất văn hóa - sản phẩm văn hóa - người

tiêu dùng văn hóa.

Trong cuốn A textbook of cultural economics (Một cuốn sách về kinh tế văn

hóa), Ruth Towse (2019) [53] trong chương 6 đã đề cập đến nhu cầu tiêu dùng hàng

hóa và dịch vụ văn hóa. Về phương diện kinh tế, người tiêu dùng trong trường hợp

này là khán giả, du khách, người xem, người đọc… khi họ mua một vé xem phim,

tham quan di tích hay mua một cuốn sách. Tác giả cũng đã đề cập và phân tích 2 khía

cạnh của việc tiêu dùng các sản phẩm văn hóa: mô hình tiêu dùng được bộc lộ khi

người tiêu dùng mua hàng hóa/dịch vụ văn hóa và lý thuyết về nhu cầu để giải thích

cách lựa chọn của người tiêu dùng. Chi tiêu của người tiêu dùng trong trường hợp này

chính là đem lại nguồn thu cho người sản xuất.

Tại Việt Nam, trong Chiến lược phát triển các ngành công nghiệp văn hóa đến

năm 2020, tầm nhìn 2030 ban hành kèm theo Quyết định 1755/QĐ-TTg ngày 8/9/2016

cũng đã xác định phát triển thị trường, nâng cao năng lực hưởng thụ văn hóa của công

chúng là một trong những nhiệm vụ và giải pháp nhằm thúc đẩy phát triển công nghiệp

10

văn hóa, trong đó nhấn mạnh: “Từng bước hình thành cộng đồng người tiêu dùng sản

phẩm, dịch vụ văn hóa trong nước thông qua hoạt động quảng bá, nâng cao khả năng

tiếp cận, sử dụng các sản phẩm, dịch vụ văn hóa của công chúng”. Trước đó, đã có

nhiều nghiên cứu đề cập đến vấn đề này.

Tác giả Phạm Bích Huyền (2009) trong Giáo trình Các ngành công nghiệp văn

hóa [20]; tác giả Lương Hồng Quang (2018) [32] trong cuốn sách chuyên khảo Các

ngành công nghiệp sáng tạo ở Việt Nam đặt tiêu dùng sản phẩm văn hóa như một giai

đoạn của quy trình sản xuất và phân phối của các ngành công nghiệp văn hóa. Các tài

liệu này đã chỉ ra những đặc điểm riêng biệt của tiêu dùng văn hóa so với tiêu dùng

sản phẩm vật chất thông thường. Ngoài việc sản phẩm không bị hao mòn về giá trị qua

tiêu thụ, các tác giả đều nhấn mạnh tiêu thụ sản phẩm văn hóa mang nặng tính tâm lý

hơn là vật lý, ở đó quá trình tiêu thụ sản phẩm văn hóa mang đến những trải nghiệm

tinh thần, cảm xúc, rung động, tình cảm cho người tiêu dùng. Đặt trong quy trình vận

hành của các ngành công nghiệp văn hóa, tiêu dùng dù là giai đoạn cuối cùng (phát

triển ý tưởng – sáng tạo/sản xuất – phân phối – tiêu dùng/bảo quản) nhưng lại là khởi

đầu cho một quy trình khác mang tính vòng lặp như vậy, nói cách khác tiêu dùng văn

hóa sẽ thúc đẩy sáng tạo văn hóa. Nhấn mạnh vai trò của hoạt động tiêu dùng, các tài

liệu cũng đã chỉ ra kinh nghiệm của một số quốc gia trên thế giới trong chính sách của

nhà nước, đó là vừa đầu tư, chú trọng vào hoạt động sản xuất, sáng tạo (bên cung) vừa

đồng thời phát triển khán giả - người tiêu dùng (bên cầu). Sản phẩm văn hóa làm ra

cuối cùng là phục vụ cho khán giả, hướng tới khán giả, vì thế nhiều nước tập trung

nguồn lực để phát triển công chúng có hiểu biết, có nhu cầu hưởng thụ văn hóa và xem

đó như là cách để gián tiếp thúc đẩy hoạt động sản xuất, sáng tạo.

Nghiên cứu Để phát triển các ngành công nghiệp văn hóa ở Việt Nam của tác

giả Đỗ Thị Thanh Thủy (2014) đã đưa ra một số nhóm giải pháp về quản lý nhà nước;

cải tổ năng lực sáng tạo, sản xuất sản phẩm, dịch vụ văn hóa và năng lực vận hành

thương mại. Bài viết cũng đề cập tới việc tập trung nâng cao năng lực tiêu dùng, tiếp

thu của công chúng đối với các sản phẩm, dịch vụ công nghiệp văn hóa. Theo đó, sự

chủ động trong tiêu dùng các sản phẩm công nghiệp văn hóa phụ thuộc vào năng lực

tiếp thu, cảm nhận, sự hiểu biết về văn hóa cũng như thói quen tiêu dùng, tham dự vào

các hoạt động văn hóa [38]. Vì thế các chương trình phát triển công chúng, phát triển

khán giả nên chú trọng đến việc nâng cao nhận thức về văn hóa nghệ thuật cũng như

11

giáo dục tiêu dùng có trách nhiệm. Đây cũng chính là nhóm giải pháp tập trung cho

bên “cầu” trong mối quan hệ tác động qua lại chặt chẽ giữa người sản xuất (bên cung)

với người tiêu dùng (bên cầu) như đã đề cập đến ở trong các nghiên cứu trước.

Trong Hội thảo “Mối quan hệ giữa kinh tế trong văn hóa, văn hóa trong kinh tế

qua thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII” do Bộ Văn hóa Thể thao và Du

lịch tổ chức tại thành phố Hồ Chí Minh, tác giả Nguyễn Tiến Mạnh (2013) đã gợi mở

nhiều vấn đề tại tham luận “Tiêu dùng văn hóa – một lĩnh vực cần nghiên cứu trong

vấn đề quản lý văn hóa Việt Nam hiện nay”. Bài viết đề cập khái quát một số nội dung

của tiêu dùng văn hóa đặt trong mối quan hệ với những vấn đề cơ bản của kinh tế văn

hóa như: khái niệm tiêu dùng văn hóa, sự phát triển của tiêu dùng văn hóa, đặc điểm

tiêu dùng văn hóa, cơ cấu tiêu dùng văn hóa và các xu hướng tiêu dùng văn hóa hiện

nay. Cũng đặt trong quy trình sáng tạo, phân phối, bảo quản và tiêu thụ các sản phẩm

văn hóa, tác giả cho rằng tiêu dùng không phải là công đoạn kết thúc của quy trình mà

thực chất là sự khởi đầu cho những quy trình tiếp theo, thúc đẩy sự sáng tạo diễn ra

không ngừng [27].

Như vậy, kể từ khi công nghiệp văn hóa, công nghiệp sáng tạo được xem là

hướng đi mới nhằm khai thác sự sáng tạo, tạo thu nhập và việc làm, thúc đẩy phát triển

văn hóa xã hội, thì vấn đề tiêu dùng văn hóa cũng được quan tâm nghiên cứu nhiều

hơn. Đa phần các nghiên cứu đều đặt tiêu dùng văn hóa trong quy trình vận hành của

các ngành công nghiệp văn hóa, là một trong bốn giai đoạn quan trọng bao gồm: phát

triển ý tưởng – sáng tạo/sản xuất – phân phối – tiêu thụ và bảo quản. Dù là giai đoạn

cuối trong quy trình nhưng tiêu thụ hay tiêu dùng văn hóa lại là động lực để thúc đẩy

việc mở ra những quy trình tiếp theo, tạo ra những vòng lặp liên tiếp với quy mô ngày

càng rộng mở hơn.

Nghiên cứu về tiêu dùng văn hóa ở những nhóm đối tượng cụ thể

Ngoài những vấn đề lý thuyết chung như đã đề cập đến ở trên, một số nghiên

cứu tại Việt Nam đã đi sâu tìm hiểu tiêu dùng văn hóa ở những nhóm đối tượng cụ thể,

tại các địa phương cụ thể. Trong bài viết Sử dụng thời gian tự do vào tiêu dùng văn

hóa, tác giả Chu Khắc (1983) đã xem tiêu dùng văn hóa trong thời gian tự do là một

cách thức để kiến tạo lối sống xã hội chủ nghĩa mà ở đó con người được phát triển

toàn diện và hài hòa. Bài viết đã coi “hình thức sử dụng thời gian tự do quan trọng

nhất là tham gia các hoạt động văn hóa” [22]. Tuy nhiên các hình thức còn tương đối

12

hạn hẹp trong điều kiện khó khăn của xã hội lúc bấy giờ, phần lớn chỉ xoay quanh việc

đọc báo, xem tivi trong gia đình, xem kịch, ca nhạc hay các hoạt động thể thao, xem

triển lãm, đến các bảo tàng. Bài viết cũng đã sơ đồ hóa các yếu tố tác động đến tiêu

dùng văn hóa, bao gồm yếu tố bên ngoài (truyền thống gia đình, môi trường sống),

yếu tố bên trong (trình độ giáo dục, nghề nghiệp, mức sống, thu nhập) và yếu tố bổ

sung (giới tính, tuổi tác) [22]. Thuật ngữ “tiêu dùng văn hóa” chưa được đề cập đến

trong bài viết một cách rõ ràng, trực diện mà ngầm ẩn trong các hình thức sử dụng

“thời gian tự do”. Trong bối cảnh xã hội còn nhiều khó khăn lúc bấy giờ, việc quan

tâm và đề cập đến tiêu dùng văn hóa, thời gian rỗi đã cho thấy ý thức sâu sắc về vai

trò của tiêu dùng văn hóa đối với việc xây dựng con người mới, lối sống mới xã hội

chủ nghĩa Việt Nam.

Đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ của tác giả Lê Như Hoa (2001) Tiêu dùng

văn hóa trong điều kiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước [14] đặt vấn đề tiêu

dùng văn hóa trong bối cảnh mới với nhiều thuận lợi và thách thức. Từ việc nghiên

cứu thực trạng tiêu dùng văn hóa của cư dân đô thị và nông thôn ở một số lĩnh vực văn

hóa tiêu biểu, đề tài đưa ra những hướng dẫn tiêu dùng văn hóa và những giải pháp

giúp cho cơ quan lãnh đạo văn hóa trong việc điều hành tiêu dùng văn hóa. Luận án

tiến sĩ chuyên ngành Văn hóa học tại Trường Đại học Văn hóa Hà Nội Đời sống văn

hóa của cư dân ven biển Hà Tĩnh thời kì công nghiệp hóa, hiện đại hóa của Đặng Thị

Thúy Hằng (2015) đề cập đến tiêu dùng văn hóa như một phương diện biểu hiện thực

trạng đời sống văn hóa của cư dân ven biển Hà Tĩnh trước tác động của sự nghiệp công

nghiệp hóa, hiện đại hóa. Luận án đã nhận diện, mô tả và phân tích về phương tiện tiêu

dùng văn hóa, nhu cầu, mức độ, nội dung tiêu dùng văn hóa [12].

Tiêu dùng các sản phẩm văn hóa như âm nhạc, phim ảnh, sách báo, tạp chí,...

có ý nghĩa quan trọng với mọi lứa tuổi trong xã hội. Các nghiên cứu của Đinh Việt Hà

như Văn hóa giải trí của giới trẻ Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa (2017) [6],

Một số nội dung nghiên cứu về văn hóa giới trẻ (2018) [7], Hâm mộ thần tượng: một

thực hành tiêu dùng của giới trẻ Việt Nam hiện nay (2020) [8] đã chỉ ra rằng riêng với

giới trẻ, tiêu dùng văn hóa vừa là hình thức giải trí tiêu biểu vừa là phương thức để họ

tạo dựng và thể hiện bản sắc cá nhân. Việc người trẻ nhanh nhạy tiếp cận với sản phẩm,

các trào lưu, xu hướng hay lựa chọn thưởng thức loại sản phẩm văn hóa nào cũng là

cách để nói lên cái tôi cá nhân, phong cách và cá tính.

13

Cũng nghiên cứu về giới trẻ, tác giả Đặng Thị Tuyết (2020) bàn về tiếp nhận

văn hóa đại chúng của sinh viên trong luận án tiến sĩ chuyên ngành Văn hóa học Tiếp

nhận văn hóa đại chúng của sinh viên trong bối cảnh hội nhập quốc tế (qua khảo sát

tại Trường Đại học Văn hóa Hà Nội, Đại học Sư phạm Hà Nội, Đại học Ngoại thương).

Dưới lăng kính lý thuyết tiếp nhận, mô hình mã hóa/ giải mã (encoding/decoding) của

Stuart Hall, luận án sử dụng thuật ngữ “tiếp nhận văn hóa” với nghĩa là “sự lựa chọn

có chủ đích của chủ thể (cá nhân, nhóm xã hội) đối với sản phẩm văn hóa thông qua

các phương tiện nhằm thỏa mãn nhu cầu của mình” [44]. Trên cơ sở khảo sát thực

trạng tiếp nhận văn hóa đại chúng của SV đang học tập tại 3 trường đại học (Trường

Đại học Ngoại thương, Trường Đại học Văn hóa Hà Nội, Trường Đại học Sư phạm

Hà Nội), trên 3 phương diện (chủ thể tiếp nhận, nội dung tiếp nhận, phương thức tiếp

nhận), trong phạm vi 3 lĩnh vực của văn hóa đại chúng (điện ảnh, âm nhạc, thời trang),

luận án đã chỉ ra rằng đây là nhóm đối tượng đang trong quá trình định hướng và hình

thành kĩ năng nghề nghiệp, cũng là nhóm nhanh nhạy với công nghệ, được tiếp cận

rộng rãi với sự du nhập của các khuynh hướng và ý tưởng mới mẻ từ thế giới. Cũng vì

thế, tiếp nhận văn hóa của sinh viên khá đa dạng, bằng nhiều hình thức, phương tiện

khác nhau, có tác động lớn đến đời sống tinh thần như giúp cân bằng cuộc sống, trang

bị tri thức, kĩ năng, định hình hệ giá trị. Luận án cũng phân tích 3 khuynh hướng tiếp

nhận với những đặc điểm riêng biệt: tiếp nhận thụ động, tiếp nhận phủ định và chiếm

số đông nhất là tiếp nhận thương lượng. Với tư cách là những chủ thể năng động, hào

hứng với cái mới, SV chủ động lựa chọn, thu nhận, gạn lọc và sáng tạo trong quá trình

tiếp nhận để phù hợp với lứa tuổi và để định hình nên bản sắc cá nhân [44].

Như vậy, có thể thấy các vấn đề lý thuyết về tiêu dùng văn hóa cũng như thực

tiễn tiêu dùng văn hóa ở các nhóm đối tượng cụ thể đã được nghiên cứu trong nhiều

công trình khác nhau trên thế giới cũng như tại Việt Nam. Cho đến nay, đây vẫn là chủ

đề đang tiếp tục được khám phá dưới các quan điểm tiếp cận, các đối tượng, các lĩnh

vực văn hóa khác nhau. Hơn nữa, bối cảnh xã hội với nhiều thay đổi liên tục tác động,

chi phối đến việc lựa chọn nội dung, hình thức, phương tiện tiêu dùng văn hóa. Sự tác

động này tới các nhóm xã hội cũng hoàn toàn theo những cách thức riêng biệt. Do vậy,

tiêu dùng văn hóa vẫn luôn là chủ đề mở ngỏ cho các nghiên cứu.

Nghiên cứu về tiêu dùng văn hóa của SV ĐHNV đặt ra trong đề tài này không

có tham vọng mô tả và phân tích một cách toàn diện các vấn đề về tiêu dùng văn hóa

14

(các loại sản phẩm/ hàng hóa văn hóa như các chương trình truyền hình, phim ảnh,

sách báo, tạp chí, trò chơi điện tử…; các phương tiện phục vụ tiêu dùng văn hóa như

ti vi, máy tính, máy tính bảng, điện thoại, tai nghe, loa đài…; các thiết chế văn hóa

phục vụ hoạt động tiêu dùng như thư viện, rạp chiếu phim, rạp hát, nhà văn hóa, bảo

tàng, triển lãm…). Đề tài này chỉ đặt ra vấn đề cơ bản để tìm hiểu là: Tiêu dùng văn

hóa của sinh viên ĐHNV hiện nay đang diễn ra như thế nào? Xoay quanh câu hỏi

chính này là một số câu hỏi khác như:

1. SV ĐHNV quan tâm và tiêu dùng loại sản phẩm văn hóa nào, sử dụng những

phương thức nào để tiêu dùng văn hóa?

2. Tiêu dùng văn hóa của SV ĐHNV phản ánh xu hướng tiêu dùng nào đang

diễn ra?

3. Làm thế nào để phát triển tiêu dùng văn hóa của SV ĐHNV?

3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài

3.1. Mục tiêu nghiên cứu

Tìm hiểu thực trạng tiêu dùng văn hóa của SV ĐHNV qua đó đề xuất một số

biện pháp nhằm pháp triển tiêu dùng văn hóa của SV ĐHNV.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Để thực hiện mục tiêu nghiên cứu, đề tài đặt ra 3 nhiệm vụ nghiên cứu chủ yếu

sau đây:

Thứ nhất, nghiên cứu một số vấn đề lý luận về tiêu dùng văn hóa nhằm mang

lại cái nhìn khái quát về tiêu dùng văn hóa như khái niệm, nhu cầu, nội dung, phương

thức, đặc điểm tiêu dùng văn hóa.

Thứ hai, tổ chức khảo sát, phỏng vấn, trao đổi nhằm thu thập dữ liệu, mô tả,

phân tích thực trạng tiêu dùng văn hóa của SV ĐHNV.

Thứ ba, đề xuất một số biện pháp phát triển tiêu dùng văn hóa của SV và một

số gợi ý cho việc dạy học tại ĐHNV dựa trên hiểu biết về tiêu dùng văn hóa của SV.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài

4.1. Đối tượng nghiên cứu:

Tiêu dùng văn hóa của SV.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

15

- Đề tài tập trung tìm hiểu tiêu dùng văn hóa của SV ĐHNV ở 4 ngành học:

Quản lý văn hóa, Văn hóa du lịch, Văn hóa truyền thông, Quản trị nhân lực. SV được

khảo sát bao gồm SV năm thứ nhất đến SV năm thứ tư.

- Nội dung tiêu dùng văn hóa được giới hạn trong đề tài này bao gồm: tiêu dùng

sách báo, tạp chí; tiêu dùng sản phẩm phim ảnh, tiêu dùng sản phẩm âm nhạc và tiêu

dùng các sản phẩm trò chơi điện tử. Các sản phẩm văn hóa mà SV tiêu dùng trong thực

tế còn đa dạng, phong phú hơn nhiều, gắn với nhu cầu, thị hiếu của từng cá nhân cụ

thể. Tuy nhiên, 4 loại sản phẩm được giới hạn trong đề tài là những sản phẩm tương

đối “phổ thông”, thu hút sự quan tâm của đại đa số SV nói chung và SV ĐHNV nói

riêng.

- Thời gian: nghiên cứu này được thực hiện trong khoảng thời gian từ tháng

8/2021 đến tháng 5/2022.

5. Phương pháp nghiên cứu

Đề tài này được xác định là một nghiên cứu định tính có sử dụng các phương

pháp định lượng trong việc khảo sát và thu thập thông tin.

- Phương pháp phân tích tài liệu: Để làm rõ các vấn vấn đề lý luận về tiêu dùng

văn hóa, đề tài sử dụng nguồn tài liệu thứ cấp bao gồm tài liệu về tiêu dùng văn hóa

đã xuất bản trên tạp chí và sách, các luận án tiến sĩ. Một số tài liệu viết bằng tiếng Anh,

còn lại chủ yếu là tiếng Việt. Những nghiên cứu đi trước này đã phác họa và gợi mở

nhiều vấn đề về tiêu dùng văn hóa đang diễn ra hiện nay ở các nhóm đối tượng khác

nhau. Phân tích nguồn tài liệu thứ cấp cũng được sử dụng để làm cơ sở cho những bình

luận về xu hướng tiêu dùng văn hóa của SV.

- Phương pháp điều tra xã hội học: để hiểu được thực trạng tiêu dùng văn hóa

của SV ĐHNV, đề tài sử dụng bảng hỏi để khảo sát, theo hình thức khảo sát online

qua công cụ google form. Đối tượng khảo sát chính là SV thuộc bốn ngành học: Quản

lý văn hóa, Văn hóa du lịch, Văn hóa truyền thông, Quản trị nhân lực. Độ tuổi của SV

được khảo sát từ 18-24, bao gồm SV năm thứ nhất đến SV năm thứ tư của các khóa

đào tạo được tuyển sinh từ năm 2018 đến năm 2021. Đề tài đã khảo sát 200 sinh viên,

cụ thể:

TT SV ngành Số lượng Tỉ lệ (%)

1 Quản trị nhân lực 68 34

16

2 Quản lý văn hóa 20 10

3 Văn hóa du lịch 64 32

4 Văn hóa truyền thông 48 24

Số lượng sinh viên năm thứ nhất là 60 SV (30%), năm thứ hai là 41 SV (20.5%), năm

thứ ba là 50 SV (25%) và năm thứ tư là 49 SV (24.5%). Tổng số SV nữ được khảo sát

là 132 (chiếm 66%), số SV nam là 68 (34%). Thời gian khảo sát từ tháng 11/2021 đến

hết tháng 5/2022.

Đề tài chọn SV các ngành Quản lý văn hóa, ngành Văn hóa học (chuyên ngành

Văn hóa du lịch, Văn hóa truyền thông), Quản trị nhân lực vì những lý do sau:

+ So với các ngành học khác hiện đang được đào tạo tại trường, các ngành Quản

lý văn hóa, ngành Văn hóa học (chuyên ngành Văn hóa du lịch, Văn hóa truyền thông),

nội dung đào tạo có những nội dung đặc thù gắn liền với thực tiễn hoạt động văn hóa,

ít nhiều đều liên quan đến các sản phẩm văn hóa nghệ thuật. Một số môn học cung cấp

cho người học kiến thức về nghệ thuật, rèn luyện khả năng thưởng thức cũng như sáng

tạo nghệ thuật, liên quan trực tiếp với việc tiêu dùng văn hóa. SV vì thế sẽ có cơ hội

được tiếp xúc nhiều hơn với các sản phẩm văn hóa ở nhiều loại hình nghệ thuật như

âm nhạc, điện ảnh, văn học... Hơn nữa SV các ngành này, về sau thường làm việc

trong các cơ quan quản lý nhà nước về văn hóa, các trung tâm văn hóa, các tổ chức

văn hóa nghệ thuật… do vậy tiêu dùng văn hóa khi là SV sẽ góp phần làm dày thêm

vốn hiểu biết trong lĩnh vực công tác sau này.

+ Ngành Quản trị nhân lực với đặc trưng là thuộc lĩnh vực quản trị, quản lý,

không có nhiều học phần về văn hóa nghệ thuật trong CTĐT được lựa chọn để khảo

sát nhằm mang lại cái nhìn khái quát về tiêu dùng văn hóa của SV ĐHNV cũng như

để so sánh với mức độ tiêu dùng văn hóa của các nhóm ngành liên quan đến văn hóa.

Đây là ngành học mà SV được đánh giá là khá năng động, có kiến thức nền tảng tốt,

sáng tạo, thích ứng cao với bối cảnh.

Phương pháp điều tra xã hội học có ưu điểm là cung cấp một cái nhìn trên diện

rộng về tiêu dùng văn hóa tuy nhiên lại chưa khai thác và thể hiện được hết những câu

chuyện cá nhân về sở thích, xu hướng, gu thẩm mĩ của người học.

- Phương pháp phỏng vấn sâu bán cấu trúc: được sử dụng để bổ khuyết cho

những hạn chế trên nhằm tìm hiểu và khai thác kĩ hơn nhu cầu, nguyện vọng, tâm tư 17

của người học khi tiêu dùng các sản phẩm văn hóa. Nhóm nghiên cứu đã thực hiện 15

cuộc phỏng vấn sâu với các SV. Các cuộc phỏng vấn dưới dạng cuộc trò chuyện cá

nhân, SV có thể thoải mái, dễ dàng chia sẻ. Hơn nữa, với vai trò là cố vấn học tập,

giảng viên dạy một số học phần cơ sở ngành và chuyên ngành của các ngành học trên,

người nghiên cứu đã có nhiều cơ hội được tiếp xúc và chia sẻ với SV. Sự gần gũi này

mang đến nhiều thuận lợi, thiết lập được sự tin cậy và cởi mở để SV có thể chia sẻ

nhiều hơn các câu chuyện cá nhân liên quan đến tiêu dùng văn hóa.

- Phương pháp thảo luận nhóm: đề tài đã tiến hành 3 cuộc thảo luận nhóm, mỗi

nhóm từ 5-7 SV. Trong các cuộc thảo luận nhóm, SV tương tác khá tốt, cởi mở và chia

sẻ nhiều thông tin về tiêu dùng văn hóa của cá nhân.

6. Bố cục của đề tài

Ngoài phẩn Mở đầu, Kết luận, Phụ lục, đề tài gồm có 3 chương:

Chương 1: Cơ sở lý luận về tiêu dùng văn hóa

Chương 2: Thực trạng tiêu dùng văn hóa của sinh viên Trường Đại học Nội vụ

Hà Nội

Chương 3: Phát triển tiêu dùng văn hóa cho sinh viên Trường Đại học Nội vụ

Hà Nội và một số hàm ý cho việc dạy học

18

CHƯƠNG 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TIÊU DÙNG VĂN HÓA

1.1. Một số khái niệm về tiêu dùng văn hóa

1.1.1. Tiêu dùng văn hóa

Từ điển Tiếng Việt (1992) của Viện Ngôn ngữ học giải thích “tiêu dùng” là sử

dụng của cải vật chất để thỏa mãn các nhu cầu của sản xuất và đời sống [45]. Chữ “tiêu

thụ” đôi khi cũng được dùng thay thế với nghĩa sử dụng cái gì vào việc gì (ngoài một

nghĩa khác để chỉ việc hàng hóa được bán ra thị trường). Tiêu dùng được hình thành

từ quyết định mua của người tiêu dùng để sở hữu sản phẩm và là hành vi hướng đến

việc sử dụng hàng hóa, dịch vụ. Theo nghĩa chung nhất thì tiêu dùng là việc sử dụng

sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ nhằm thỏa mãn nhu cầu xã hội. Người tiêu dùng hay

người tiêu thụ là từ để chỉ các cá nhân/ hộ gia đình dùng sản phẩm hoặc dịch vụ sản

xuất trong nền kinh tế. Người tiêu dùng là người có nhu cầu, có khả năng mua sắm các

sản phẩm dịch vụ trên thị trường phục vụ cho cuộc sống. Từ góc độ kinh tế học, tiêu

dùng gắn với sự sở hữu, đáp ứng nhu cầu, là một phần trong quy trình sản xuất - phân

phối - bảo quản - tiêu dùng của các ngành công nghiệp. Tiêu dùng dù là giai đoạn cuối

cùng của một quy trình này nhưng lại cũng là khởi đầu cho một quy trình vận hành

tiếp sau, chính vì vậy, tiêu dùng là động lực cho sản xuất, thúc đẩy sản xuất.

Cũng cần nói rõ thêm về nội hàm của chữ “nhu cầu”. Nhu cầu được hiểu là thứ

tồn tại hiển nhiên đối với con người mà khi thỏa mãn nó khiến con người có cảm giác

vui sướng, hạnh phúc. Ngược lại, nhu cầu khi không được đáp ứng sẽ tạo nên trạng

thái buồn bã, đau đớn, bí bách, khó chịu. Con người có các nhu cầu về tâm lý, sinh lý,

văn hóa và xã hội khác nhau. Tất cả các hoạt động nhằm đáp ứng bất kỳ nhu cầu nào

trong số này đều được coi là tiêu dùng. Tuy nhiên về sau, các nghiên cứu từ góc nhìn

xã hội học, nghiên cứu văn hóa, đặt trong bối cảnh sự phát triển của tiêu dùng đại

chúng (mass consumtion), chuyển đổi từ tiêu dùng quý tộc sang tiêu dùng hàng loạt

đều coi tiêu dùng là một phần quan trọng của đời sống. Nó mang nhiều ý nghĩa hơn là

sự đáp ứng, thỏa mãn nhu cầu. Tiêu dùng còn có ý nghĩa biểu tượng, qua tiêu dùng để

phân biệt mình với người khác, nhóm người khác, thể hiện vị thế, đẳng cấp xã hội, góp

phần hình thành bản sắc cá nhân, bản sắc xã hội.

19

Tiêu dùng được xem là một hoạt động căn bản của con người, tồn tại song hành

cùng với nhiều hoạt động khác của con người. Tuy vậy các thuật ngữ “xã hội tiêu

dùng”, “tiêu dùng đại chúng” hay “tiêu dùng văn hóa” lại được xuất hiện trong những

bối cảnh cụ thể. Manh nha của xã hội tiêu dùng được cho là xuất hiện từ thế kỉ 17 [31]

và trở nên phổ biến ở thế kỉ 20 cùng với sự phát triển của chủ nghĩa tư bản tiêu dùng.

Với sự hậu thuẫn cực kì mạnh mẽ của công nghệ, sản xuất theo dây chuyền đã tạo ra

hàng loạt hàng hóa giá rẻ để đại chúng có thể tiếp cận. Chủ nghĩa tư bản cùng đồng

thời khuyến khích các nhà sản xuất và người tiêu dùng bằng động cơ lợi nhuận, bằng

tài sản cá nhân, chủ quyền của người tiêu dùng. Người tiêu dùng được đặt ở vị trí tối

thượng. Việc sản xuất cái gì, như thế nào đều bị chi phối và cũng để phục vụ cho nhu

cầu, thị hiếu của người tiêu dùng và cuối cùng là hướng đến tối đa hóa lợi nhuận. Bối

cảnh xã hội tư bản, vì vậy, đã tạo điều kiện thuận lợi cho sự ra đời của chủ nghĩa tiêu

dùng và hiện tượng tiêu dùng hàng loạt.

Khái niệm “tiêu dùng văn hóa” được nói đến nhiều trong bối cảnh đó, nhất là

khi văn hóa đại chúng được hình thành, công nghiệp văn hóa phát triển tạo ra sản phẩm

văn hóa hàng loạt, phổ biến trên phạm vi rộng rãi. Văn hóa đại chúng ra đời dựa trên

2 tiền đề quan trọng: sự xuất hiện của các phương tiện truyền thông cũng như sự hình

thành của nền sản xuất đại công nghiệp. Sản phẩm văn hóa cũng giống như sản phẩm

thông thường khác ở điểm đều là kết quả của quá trình sản xuất, tuy nhiên đây là loại

sản phẩm đặc biệt vì chứa đựng giá trị lịch sử, giá trị văn hóa, giá trị thẩm mĩ, giá trị

biểu tượng. Trong khi sản phẩm thông thường đáp ứng nhu cầu tiêu dùng vật chất thì

sản phẩm văn hóa hướng tới thỏa mãn nhu cầu tinh thần cho con người. Sản phẩm

thông thường có giá trị sử dụng và giá trị trao đổi trong khi sản phẩm văn hóa còn có

giá trị biểu tượng, chứa đựng ý tưởng, góp phần kiến tạo lối sống và bản sắc cá nhân.

Sản phẩm văn hóa mang tính phi vật thể. Dù tồn tại dưới vỏ vật chất nhất định (tác

phẩm văn học tồn tại dưới dạng cuốn sách, tác phẩm điện ảnh thể hiện dưới dạng cuốn

phim, tác phẩm hội họa hiện hữu trong một khung tranh…) tuy nhiên khi tiêu dùng

các sản phẩm văn hóa, khán giả có thể có hoặc không sở hữu một vật thể vật chất mà

quan trọng nhất là được “sở hữu” nội dung, ý tưởng, thông điệp, tình cảm… của tác

phẩm. Hơn nữa nếu như các sản phẩm hàng hóa thông thường thể hiện rõ tính hữu ích

(sử dụng cho một mục đích cụ thể, như ô tô để phục vụ mục đích di chuyển, áo quần

để mặc, tủ lạnh để lưu trữ thức ăn…) thì sản phẩm văn hóa lại khó đánh giá, đo đếm

20

được tính hữu ích vì sản phẩm văn hóa này có thể phù hợp, giàu giá trị với người này

nhưng rất có thể lại không nhiều ý nghĩa với người khác. Nói cách khác, mỗi cá nhân

có thị hiếu thẩm mỹ riêng, tầm đón nhận riêng nên giá trị cụ thể của sản phẩm văn hóa

thường khó xác định hơn và khác biệt giữa các cá nhân. Các sản phẩm văn hóa được

tạo ra hàng loạt nhằm mục tiêu giải trí, nặng tính đại chúng và tính thương mại. Về

phía khán giả, việc tiêu thụ các sản phẩm văn hóa này cũng chính là một sự tiêu thụ,

tiêu thụ hàng hóa văn hóa.

Về tiêu dùng văn hóa, một số nghiên cứu trước đây đã đưa ra những cách hiểu,

những khái niệm cụ thể. Tác giả Lê Như Hoa (2001) trong đề tài nghiên cứu khoa học

Tiêu dùng văn hóa trong điều kiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước cho rằng:

“Tiêu dùng văn hóa tức là dùng những sản phẩm văn hóa (được sản xuất ra trong lĩnh

vực tinh thần) vào sinh hoạt hàng ngày, phục vụ cho sinh hoạt cá nhân, gia đình, cộng

đồng, vào mục đích văn hóa nhằm hoàn thiện nhân cách người, gia đình, cộng đồng”

[14]. Coi tiêu dùng là một trong bốn giai đoạn quan trọng của quy trình sản xuất/sáng

tạo - phân phối - bảo quản - tiêu thụ sản phẩm văn hóa, trong bài viết “Tiêu dùng văn

hóa – một lĩnh vực cần nghiên cứu trong vấn đề quản lý văn hóa Việt Nam hiện nay”,

tác giả Nguyễn Tiến Mạnh (2013) định nghĩa: “Tiêu dùng văn hóa là một khái niệm

chỉ một loại tiêu dùng mà ở đó, thông qua việc dùng các sản phẩm văn hóa hoặc dịch

vụ văn hóa mà nhu cầu tinh thần của con người được thỏa mãn, đáp ứng” [27]. Khi

xem tiêu dùng văn hóa là một phần trong đời sống văn hóa của cư dân ven biển Hà

Tĩnh thời kì công nghiệp hóa, hiện đại hóa, luận án của Đặng Thị Thúy Hằng (2015)

coi tiêu dùng văn hóa là “việc sử dụng những sản phẩm văn hóa để đáp ứng, thỏa mãn

nhu cầu tinh thần của cư dân hiện nay, và việc tiêu dùng sản phẩm văn hóa này cũng

chỉ đề cập đến tiêu dùng sản phẩm tinh thần, gắn liền với sản phẩm tinh thần là công

cụ phương tiện tiêu dùng và phương thức tiêu dùng văn hóa” [12]. Sản phẩm văn hóa

được đề cập trong định nghĩa này bao gồm các chương trình truyền hình, phim ảnh,

phần mềm trò chơi điện tử, sách báo, tạp chí. Ngoài ra, tác giả cũng chỉ ra rằng tiêu

dùng sản phẩm văn hóa còn liên quan đến các phương tiện phục vụ tiêu dùng như ti

vi, đầu đĩa, máy tính và hệ thống thiết chế văn hóa như thư viện, rạp chiếu phim, nhà

hát… Tác giả Đặng Thị Thu Hương (2016) khi nghiên cứu Văn hóa truyền thông đại

chúng ở Việt Nam trong điều kiện kinh tế thị trường và toàn cầu hóa đã cho rằng tiêu

dùng văn hóa là khái niệm có nội dung rất rộng, đề cập đến nhiều vấn đề khác nhau

21

như công cụ, phương tiện tiêu dùng, phương thức tiêu dùng. Nghiên cứu cũng đưa ra

cách hiểu về tiêu dùng văn hóa “là một khái niệm chỉ về các loại sản phẩm tinh thần

và dịch vụ văn hóa tinh thần được người tiêu dùng đánh giá cao, được sở hữu, được

tiêu dùng, thưởng thức và được sử dụng” [19, tr 234]. Tác giả cũng xem tiêu dùng văn

hóa là một dạng hoạt động trong thực tiễn vì thế “hoạt động tiêu dùng văn hóa của

con người cũng chính là hoạt động sáng tạo văn hóa” [19, tr234].

Dù khác biệt về cách diễn đạt, các quan niệm về tiêu dùng văn hóa ở trên cơ bản

có sự kế thừa và thống nhất khi đều chỉ ra rằng tiêu dùng văn hóa chính là việc dùng,

sử dụng những sản phẩm văn hóa, dịch vụ văn hóa để đáp ứng nhu cầu tinh thần của

con người. Sản phẩm văn hóa, dịch vụ văn hóa ở đây đều thuộc lĩnh vực tinh thần.

Phạm vi của tiêu dùng văn hóa thường đề cập đến các lĩnh vực chủ yếu như du lịch,

thể thao, văn hóa, nghệ thuật giải trí, giáo dục…

Ở đây, cũng cần có những phân biệt giữa khái niệm tiêu dùng văn hóa (cultural

consumption) với một số khái niệm khác, thường dễ bị sử dụng thay thế hoặc nhầm

lẫn. Trước tiên là khái niệm “văn hóa tiêu dùng” (consumer culture). “Văn hóa tiêu

dùng” quan tâm đến hành vi tiêu dùng từ khía cạnh văn hóa, theo đó tiêu dùng không

chỉ đơn giản là một quá trình mà các sản phẩm thương mại được người tiêu dùng sử

dụng mà nó còn là công cụ để nói về con người, phản ánh về chính chủ thể tiêu dùng.

Tiêu dùng hàng hóa và dịch vụ, theo đó không đơn thuần là để đáp ứng nhu cầu mà

còn là một trong nhiều cách thức để định nghĩa về con người, về vị thế xã hội, giá trị

và uy tín cá nhân. Nói cách khác việc người ta làm, xác định giá trị, cách thức xác định

giá trị đều thông qua việc tiêu dùng hàng hóa và dịch vụ.

Khái niệm “tiếp nhận văn hóa” cũng có nhiều nét nghĩa tương đồng so với “tiêu

dùng văn hóa”. Tiếp nhận là đón nhận cái từ người khác, nơi khác chuyển giao cho.

“Tiếp nhận văn hóa” là quá trình chiếm lĩnh các giá trị tư tưởng, thẩm mĩ của các sản

phẩm văn hóa. Tiếp nhận cũng nhấn mạnh đến vai trò chủ động của chủ thể tiếp nhận

trong việc lựa chọn, xem xét sự phù hợp hay không phù hợp của sản phẩm đó đối với

cá nhân. Tiếp nhận không có nghĩa là tiếp thu, thâu nhận hoàn toàn các nội dung từ

sản phẩm văn hóa khác mà có sự chọn lọc dựa trên nhu cầu cũng như thị hiếu của chủ

thể.

“Tiêu dùng văn hóa” cũng có phần khác với “hưởng thụ văn hóa” - một trong

những nội dung thuộc quyền văn hóa của mỗi người dân. Quyền hưởng thụ văn hóa

22

được quy định trong điều 41, Hiến pháp năm 2013 của nước Cộng hòa xã hội chủ

nghĩa Việt Nam: “Mọi người có quyền hưởng thụ và tiếp cận các giá trị văn hóa, tham

gia vào đời sống văn hóa, sử dụng các cơ sở văn hóa”. Quyền hưởng thụ là một phần

của quyền văn hóa (bao gồm quyền hưởng thụ các giá trị văn hóa, quyền được thể hiện

và thực hành văn hóa, quyền được tôn trọng, thừa nhận những nét khác biệt về văn

hóa cũng như quyền được sử dụng các thiết chế văn hóa – xác lập quyền sở hữu toàn

dân đối với các thiết chế văn hóa). Quyền hưởng thụ các giá trị văn hóa được đưa ra

nhằm mục đích bảo đảm quyền thưởng thức, khai thác các giá trị văn hóa của các chủ

thể trong điều kiện bình đẳng và không phân biệt đối xử, thể hiện sự tự do trong việc

cá nhân có quyền quyết định thưởng thức/ không thưởng thức một sản phẩm văn hóa.

Nó bao gồm việc nghe/xem/đọc các tác phẩm văn học nghệ thuật, tham gia các lễ hội

truyền thống… qua đó góp phần làm giàu đời sống tinh thần cá nhân, nâng cao chất

lượng sống của người dân trong mỗi quốc gia.

Như vậy, có thể hiểu, tiêu dùng văn hóa là việc sử dụng các sản phẩm văn hóa

để thỏa mãn nhu cầu tinh thần cho cá nhân. Tiêu dùng văn hóa nhấn mạnh tính chủ

động của các cá nhân trong việc tìm kiếm, lựa chọn, chi trả, hưởng thụ, đánh giá các

sản phẩm văn hóa. Các sản phẩm văn hóa có phạm vi rộng, bao gồm sản phẩm của

nhiều lĩnh vực khác nhau: điện ảnh, âm nhạc, văn học, quảng cáo, chương trình truyền

hình, trò chơi điện tử… tuy nhiên trong đề tài này, chỉ giới hạn phạm vi nghiên cứu về

tiêu dùng văn hóa của SV trong các sản phẩm thuộc ngành công nghiệp điện ảnh, công

nghiệp âm nhạc, công nghiệp xuất bản (sách/ báo/ tạp chí), công nghiệp game (trò chơi

điện tử - video game). Tiêu dùng văn hóa ngoài việc đáp ứng, thỏa mãn nhu cầu giải

trí còn là phương cách để SV bộc lộ, biểu hiện bản sắc cá nhân cũng như tương tác,

kết nối với các cá nhân khác. Tiêu dùng văn hóa là một phần quan trọng trong đời sống

của SV, bồi dưỡng thị hiếu thẩm mỹ, thị hiếu nghệ thuật, góp phần hình thành nên con

người toàn diện với các trụ cột “đức - trí - thể - mỹ”.

1.1.2. Nhu cầu tiêu dùng văn hóa

“Nhu” là sự cần thiết, “cầu” là đòi hỏi, mong muốn. “Nhu cầu” có thể được hiểu

là sự đòi hỏi, thôi thúc cần được đáp ứng, để thỏa mãn sự thiếu thốn đang diễn ra. Nhu

cầu con người là đa dạng, hay như cách nói của Đoàn Văn Chúc, nhu cầu có tính “phồn

sinh” [3], nó liên tục được tạo ra, nối tiếp nhau, đòi hỏi con người đáp ứng. Nhu cầu

23

có cơ sở sinh học khi nó đáp ứng các nhu cầu căn bản của con người như ăn, mặc, ở…

nhưng nhu cầu cũng có tính xã hội, nó bị chi phối bởi vị thế, lứa tuổi, giai cấp.

Nhu cầu tiêu dùng văn hóa thể hiện mong muốn được hưởng thụ, thưởng thức,

được trải nghiệm các sản phẩm văn hóa, đáp ứng nhu cầu giải trí, thỏa mãn đời sống

tinh thần của mỗi cá nhân. Nếu như nhu cầu về ăn, mặc, ở… được xếp vào nhu cầu

vật chất thì nhu cầu tiêu dùng văn hóa được xếp vào nhu cầu tinh thần. Nhu cầu tiêu

dùng văn hóa gắn với thời gian rỗi, được thực hiện trong những khung thời gian giành

cho các hoạt động tinh thần, nó hoàn toàn thoát khỏi và không bị phụ thuộc vào hoạt

động sản xuất thỏa mãn nhu cầu vật chất cơ bản. Thời gian rỗi từng được “nhiều triết

gia trong nền văn minh Hy Lạp cổ đại xem như là tiềm năng cho sự vun bồi bản ngã

qua tự do tinh thần và suy tư chiêm nghiệm” (Phan Thị Thu Hiền (2013) [13]. Nhu cầu

tiêu dùng văn hóa có sự khác biệt giữa các cá nhân, phụ thuộc vào “gu thẩm mỹ”, sở

thích, cá tính riêng của mỗi người. Nhu cầu tiêu dùng văn hóa của người dân bị chi

phối bởi nhiều yếu tố như bối cảnh thời đại, điều kiện kinh tế xã hội, giai cấp, dân tộc,

yếu tố thế hệ lứa tuổi... Những đòi hỏi đa dạng khiến quá trình sản xuất cũng phải tạo

ra sự đa dạng các loại sản phẩm, vì thế có ý nghĩa quan trọng, thúc đẩy sự đa dạng của

văn hóa.

Nhu cầu hưởng thụ các sản phẩm văn hóa từng chưa được coi trọng đúng mức

trong lịch sử, bị đặt dưới rất nhiều các nhu cầu khác, thường đứng sau nhu cầu về vật

chất. Suy nghĩ phải “cơm no, áo ấm” rồi mới tính đến văn nghệ, giải trí tồn tại lâu dài

trong quan niệm người Việt. Những lúc khó khăn, nhu cầu vật chất thường vẫn được

ưu tiên đáp ứng còn nhu cầu tinh thần sẽ bị cắt giảm, lĩnh vực văn hóa từng được xếp

sau cùng trong những lĩnh vực được ưu tiên nhưng đứng đầu tiên trong danh sách bị

cắt giảm nếu có những điều chỉnh về kinh phí đầu tư. Tuy nhiên cùng với sự thay đổi

của bối cảnh kinh tế xã hội, nhận thức về vai trò của sản phẩm văn hóa đối với đời

sống cũng đã có nhiều chuyển biến theo chiều hướng khẳng định là một phần tất yếu

của đời sống, đáp ứng và thỏa mãn nhu cầu tinh thần, song hành cùng nhu cầu vật chất.

1.1.3. Nội dung tiêu dùng văn hóa

Nội dung tiêu dùng văn hóa đề cập đến phạm vi đa dạng của các sản phẩm văn

hóa, hàng hóa văn hóa trên nhiều loại hình sản phẩm khác nhau như điện ảnh, âm nhạc,

văn học, sân khấu, sách, báo, tạp chí… Xuất phát từ đòi hỏi đa dạng của nhu cầu, “gu”

24

thẩm mỹ của người tiêu dùng mà nội dung tiêu dùng văn hóa vì thế cũng khá phong

phú.

Nội dung mà người tiêu dùng văn hóa lựa chọn thường có sự khác biệt theo độ

tuổi, theo thị hiếu, theo các mối quan tâm khác nhau. Thế hệ nhỏ tuổi trong giai đoạn

mẫu giáo, nhi đồng, thiếu niên thường quan tâm đến các sản phẩm văn hóa phục vụ

cho nhu cầu “chơi mà học”, “học mà chơi” như đồ chơi, sách báo, truyện tranh, phim

hoạt hình dành cho thiếu nhi. Giai đoạn thanh niên gắn với nhu cầu mở rộng các mối

quan hệ cũng như nhận thức về xã hội nên mối quan tâm cũng mở ra trên nhiều loại

hình sản phẩm với nhiều nội dung khác nhau như sách báo, tạp chí, phim ảnh... Trong

khi người trẻ thường tập trung tiêu dùng các nội dung kĩ thuật số như xem video trên

youtube, nghe sách nói hay đi xem phim ở rạp, tham dự các liveshow... thì khán giả

trong độ tuổi 35-65 thường có xu hướng đọc sách, báo, tạp chí, nghe nhạc trên đài,

xem phim trên truyền hình...

Trong từng loại hình sản phẩm văn hóa, nội dung được người tiêu dùng lựa chọn

cũng có những khác biệt về đề tài, chủ đề, phạm vi hiện thực cuộc sống nào được phản

ánh. Ví như cũng trong âm nhạc, giới trẻ hiện nay quan tâm nhiều đến nhạc trẻ, nhạc

indie, nhạc pop, hiphop... trong khi lứa tuổi trung niên lại thích những ca khúc trữ tình,

nhạc cách mạng, nhạc tiền chiến... Những khác biệt trong nội dung tiêu dùng này phản

ánh sự đa dạng của sở thích, thị hiếu thẩm mĩ cũng như cá tính, mối quan tâm của

nhiều nhóm người khác nhau. Điều này cũng thúc đẩy sự đa dạng trong việc sản xuất

sản phẩm văn hóa hướng tới đáp ứng nhu cầu khác nhau của các thế hệ khác nhau.

1.1.4. Phương thức tiêu dùng văn hóa

Phương thức tiêu dùng văn hóa đề cập đến cách thức người tiêu dùng sử dụng

các sản phẩm văn hóa. Các phương thức tiêu dùng chủ yếu là đọc (đối với sách, báo,

tạp chí), xem tại bảo tàng, triển lãm (đối với hội họa), tại rạp chiếu (đối với phim ảnh),

nghe (đối với các sản phẩm âm nhạc) hay theo phương thức tổng hợp, kết hợp các giác

quan như nghe – nhìn (đối với âm nhạc, phim ảnh, chơi game...). Phương thức tiêu

dùng có thể diễn ra trực tiếp hoặc trực tuyến trên mạng, qua các phương tiện như ti vi,

internet, máy tính bảng, điện thoại di động... Trong bối cảnh hiện nay, sự kết hợp các

phương thức này càng có xu hướng diễn ra mạnh mẽ. Với sách, báo, tạp chí, ngoài

việc đọc các bản được in ấn dưới dạng giấy, người tiêu dùng có thể lựa chọn phương

thức nghe đối với các sản phẩm là sách nói. Nếu như âm nhạc, trước đây thường chỉ

25

gắn với kênh thính giác thì nay, sự kết hợp giữa âm nhạc với vũ đạo, giữa tiếng với

hình ngày càng phổ biến, do vậy phương thức tiêu dùng cũng trở nên có tính tổng hợp

hơn.

1.1.5. Phương tiện tiêu dùng văn hóa

Phương tiện tiêu dùng văn hóa được hiểu là công cụ được sử dụng để tiêu dùng

các sản phẩm văn hóa. Phương tiện thể hiện khả năng đáp ứng nhu cầu tiêu dùng văn

hóa. Việc lựa chọn phương tiện nào cũng bị chi phối bởi nhiều yếu tố: điều kiện kinh

tế của cá nhân, sở thích cũng như phụ thuộc vào từng loại hình sản phẩm văn hóa cụ

thể. Phương tiện tiêu dùng văn hóa có sự thay đổi theo thời gian và chịu sự chi phối

của các điều kiện về kinh tế, xã hội, công nghệ.

Phương tiện tiêu dùng có sự phân hóa theo độ tuổi. Phương tiện chủ yếu, được

nhiều nhóm tuổi sử dụng nhiều nhất là ti vi vì tính phổ biến của ti vi trong xã hội, phù

hợp với mọi thành viên trong gia đình (Đặng Thị Thúy Hằng, 2015) [12, tr.94]. Sự đổi

mới liên tục của các kênh truyền hình, các chương trình truyền hình đáp ứng nhu cầu

đa dạng của khán giả ở nhiều độ tuổi khác nhau. Các chương trình văn hóa nghệ thuật,

thể thao, game show... được thiết kế riêng cho nhiều độ tuổi trên các khung giờ khác

nhau. Mặc dù đây là phương tiện phổ biến nhưng với SV, đặc biệt là SV ở các địa

phương khác về Hà Nội học, phải thuê trọ thì việc sắm sửa ti vi riêng là rất hạn chế.

Thường thì SV sẽ sử dụng các phương tiện thay thế khác là máy tính cá nhân hoặc

điện thoại. Một số chương trình truyền hình được phát trực tuyến1 , SV hoàn toàn có

thể theo dõi qua máy tính cá nhân.

Hiện nay, SV với đặc trưng nổi bật là am hiểu, nhanh nhạy nắm bắt công nghệ

nên thường có xu hướng tiêu dùng văn hóa thông qua những cách thức mới. Đa phần

SV đều sử dụng điện thoại thông minh hoặc máy tính, máy tính cá nhân hơn nữa lại

có kết nối internet, do vậy việc tiêu dùng sản phẩm văn hóa có thể diễn ra mọi lúc mọi

nơi. SV vì vậy có thể đọc sách báo hoặc nghe sách nói trong lúc di chuyển trên xe bus,

trong thời gian rảnh rỗi tại trường; xem phim qua máy tính, điện thoại cá nhân... Cũng

vì tính năng tích hợp của máy tính, điện thoại thông minh nên đài thu thanh/radio hay

cattset, đĩa hát – những phương tiện giải trí khá phổ biến của thế hệ 7x, 8x - dường

1 https://vtvgo.vn/trang-chu.html

như không còn xuất hiện nhiều trong đời sống của SV hiện nay.

26

1.2. Đặc điểm tiêu dùng văn hóa

Tiêu dùng văn hóa có nhiều điểm khác biệt với tiêu dùng hàng hóa thông

thường. Quá trình tiêu dùng không làm hao mòn sản phẩm và giá trị của sản phẩm văn

hóa, cho dù có nhiều người cùng tiêu thụ. Các sản phẩm hàng hóa thông thường qua

sử dụng sẽ mất dần giá trị hoặc bị hư hỏng, hao mòn thì giá trị nghệ thuật của sản phẩm

văn hóa có thể trường tồn cùng thời gian, trong nhiều trường hợp, càng về sau tác

phẩm càng có giá trị hay giá trị ngày càng được làm giàu thêm (Từ Thị Loan, 2017)

[24, tr.97].

Tiêu dùng sản phẩm văn hóa mang tính tinh thần, nặng về tâm lý hơn là vật lý.

Người tiêu dùng không nặng tâm lý sở hữu sản phẩm mà tính hữu dụng của sản phẩm

nằm ở cảm xúc, trải nghiệm. Khi bỏ tiền ra để mua một sản phẩm văn hóa, sản phẩm

nghệ thuật, điều cốt yếu không phải người dùng được sở hữu một cuốn sách, một đĩa

CD, một bức tranh... mà cái quan trọng là những cảm xúc nào được khơi dậy, ý nghĩa

nào được mang đến. Cái “có được”, cái mà người tiêu dùng thực sự sở hữu sau khi

tiêu dùng là cảm xúc, tình cảm, sự nhận thức, sự hiểu biết, từ đó tham gia vào việc

kiến tạo nên con người, định hình nên phong cách sống, thái độ thẩm mỹ, quan điểm

sống.

Trong bối cảnh hiện nay, tiêu dùng văn hóa có thêm các đặc điểm như tính trào

lưu, tính tầng bậc. Tính trào lưu phản ánh một xu hướng, một hiện tượng văn hóa được

đông đảo người biết đến, được hưởng ứng một cách nồng nhiệt, được tiếp cận, sử dụng

và chia sẻ trong phạm vi rộng. Trước đây khi chưa có sự xuất hiện của các phương

tiện truyền thông mới, thông tin về các sự kiện, sản phẩm văn hóa mới thường chỉ

được lan tỏa qua hình thức truyền miệng hoặc qua các phương tiện truyền thông truyền

thống (ti vi, radio, pa no, áp phích, băng zôn…), do vậy sẽ giới hạn về phạm vi khán

giả cũng như tạo ra những “độ trễ” về mặt tiếp nhận thông tin, sự tiếp nhận không có

tính “đồng thời” ở nhiều địa điểm, vùng miền hay rộng hơn là ở các quốc gia khác

nhau. Tuy nhiên, nhờ các phương tiện truyền thông mới trong bối cảnh hiện nay, thông

tin về trào lưu được phổ cập rộng rãi, nhanh chóng. Giới trẻ vốn được biết đến như

những người am hiểu công nghệ, mong muốn khám phá cái mới, muốn trở nên hiện

đại, hợp thời nên thường có xu hướng cập nhật nhanh chóng các trào lưu, xu thế mới.

Sự nhanh nhạy trong nắm bắt các trào lưu khiến người trẻ thấy mình trở nên hiện đại,

thú vị. Hơn nữa tính trào lưu còn mang lại những trải nghiệm hoàn toàn khác khi giới

27

trẻ phấn khích, cùng chung cảm xúc, ngóng chờ hay thổn thức với hàng triệu người

khác, xung quanh mình hoặc cách xa về vị trí địa lý cả trăm nghìn cây số. Điều này

cũng mang lại cảm giác như là một công dân toàn cầu, năng động, hiện đại và cập

nhật.

Hơn nữa, tính trào lưu này cũng được chính các nhà sản xuất hàng hóa văn hóa

tạo ra, tạo ra xu thế, thúc đẩy tiêu dùng. Các hàng hóa văn hóa trong bối cảnh hiện đại

luôn có tốc độ thay đổi nhanh chóng để phù hợp với những người tiêu dùng trẻ vốn

được xem là những người luôn cập nhật những thứ mới nhất, luôn theo “trend”. Các

nhà sản xuất, người làm sáng tạo luôn phải làm mới mình để sản phẩm nghệ thuật trở

thành một loại hàng hóa hiện đại, hợp thời nhất để theo kịp, dẫn đầu hoặc có thể là mở

ra những xu thế mới cho người tiêu dùng. Trong nền văn hóa đại chúng hiện nay, việc

sáng tạo cũng giống như một cuộc đua để tạo ra xu hướng, sự mới mẻ, hiện đại. Điều

này thường cũng tạo nên tâm lý chờ đợi, tò mò của khán giả đón đợi những sản phẩm

mới.

Phần lớn các lựa chọn tiêu dùng văn hóa, nhất là của người trẻ hiện nay bị chi

phối bởi truyền thông. Sản phẩm người trẻ tìm xem nhiều nhất thường là những tác

phẩm được báo chí và các phương tiện truyền thông nói đến nhiều nhất. Nhiều nhà sản

xuất hiểu được tâm lý này nên đã tích cực quảng bá, giới thiệu về sản phẩm nghệ thuật

trên nhiều kênh khác nhau, từ các kênh truyền thống như pano, áp phích, đăng tin trên

truyền hình… cho đến tận dụng ưu thế của mạng xã hội để tạo sự chú ý ở phạm vi

rộng. Nhiều người trẻ lựa chọn đi xem phim gì, nghe tác phẩm âm nhạc nào… dựa

trên số lượng lượt chia sẻ, lượt thích, lượt bình luận. Và cũng bởi khi thưởng thức các

tác phẩm đang “trend” đó, người trẻ có cảm giác mình là hợp thời, sành điệu, bắt

“trend” tốt.

Tính trào lưu, ở một mặt khác, khiến các sản phẩm văn hóa trở nên nhanh lỗi

mốt, ít có tác phẩm “neo” lại lâu dài, ít có những tác phẩm “đi cùng năm tháng”, khiến

việc tiêu dùng văn hóa nhất là với người trẻ luôn bị cuốn theo những cái mới lạ để trở

nên hợp thời, làm giảm đi độ “lắng” để nhận ra đâu là “gu thẩm mỹ”, đâu là thị hiếu

nghệ thuật của mình.

Tiêu dùng văn hóa còn có tính tầng bậc với nghĩa là năng lực cảm thụ, thưởng

thức các sản phẩm văn hóa có sự khác biệt giữa các cá nhân, hay theo như tác giả

Nguyễn Tiến Mạnh “tính tầng bậc trong năng lực tiêu dùng là chỉ tính không đồng

28

nhất trong năng lực, trình độ của các cá thể người tiêu dùng” [27]. Nếu như tiêu dùng

vật chất yêu cầu người dùng khai thác và sử dụng công năng (về cơ bản đã được thiết

kế sẵn) của sản phẩm thì năng lực tiêu dùng văn hóa lại không chỉ bị quy định bởi

những “công năng” sẵn có, mà khác nhau giữa các cá thể, tùy thuộc vào trình độ hiểu,

cảm nhận, giải thích, phân tích, liên tưởng, so sánh đối chiếu… Giá trị của tác phẩm

văn hóa không cố định ngay từ khi xuất hiện mà phụ thuộc vào năng lực cảm thụ của

người tiêu dùng. So với các sản phẩm thông dụng có mục đích thỏa mãn một nhu cầu

cụ thể ngay từ đầu (xe ô tô - phương tiện đi lại, ti vi - để xem các chương trình truyền

hình, quạt điện - có chức năng làm mát không khí...) thì “công năng”, giá trị của sản

phẩm văn hóa lại được mở ra cùng với khả năng thưởng thức, cảm nhận, thụ hưởng

của từng người. Một số loại hình nghệ thuật còn có tính đa nghĩa hay như cách nói của

nhà văn Heminguay, tác phẩm văn học giống như một “tảng băng chìm” mà ngữ nghĩa

không phải lúc nào cũng hiển hiện trên bề mặt ngôn từ, có thể ngay lập tức nhìn thấy

được mà cần quá trình ngẫm nghĩ, chiêm nghiệm. Tương tự như vậy với rất nhiều loại

hình nghệ thuật khác. Do vậy, cảm xúc được mang lại hay ý nghĩa của tác phẩm mà

mỗi cá nhân sở hữu được là khác biệt, đa dạng. Giá trị của tác phẩm vì thế có thể trở

nên rộng mở hơn nhiều so với chủ đích ban đầu, tùy thuộc vào sự tưởng tượng, cảm

thụ của người thưởng thức.

Hiện nay, tiêu dùng văn hóa ở Việt Nam đang có sự mất cân đối khá lớn. Khán

giả chủ yếu tiêu dùng sản phẩm nhập khẩu trong khi số lượng sản phẩm văn hóa trong

nước còn nghèo nàn về nội dung, chưa hấp dẫn về hình thức; thị trường tập trung chủ

yếu ở các đô thị lớn, khu vực nông thôn, miền núi, vùng sâu vùng xa chưa hình thành

thị trường thực sự. Điều này cũng đòi hỏi cần có những nghiên cứu cụ thể để một mặt

khuyến khích tiêu dùng văn hóa ở các vùng miền khác nhau cũng như cân bằng tiêu

dùng các sản phẩm văn hóa trong nước và nước ngoài.

1.3. Vai trò của tiêu dùng văn hóa

1.3.1. Đáp ứng nhu cầu giải trí

Từ góc nhìn xã hội học, tác giả Đoàn Văn Chúc (1997) trong Xã hội học văn

hóa lý giải nhu cầu giải trí qua các khái niệm “thì giờ rỗi”, “hoạt động rỗi”. Tác giả

cho rằng đời sống con người xoay quanh bốn loại hoạt động cơ bản: hoạt động lao

động sản xuất để đảm bảo sự sống còn cho cá nhân và xã hội (nghĩa vụ xã hội), hoạt

động thuộc các quan hệ cá nhân trong đời sống xã hội (bổn phận xã hội), hoạt động

29

duy trì bảo vệ đời sống vật chất cá nhân để đáp ứng nhu cầu cá nhân và những hoạt

động thuộc đời sống tinh thần, đáp ứng nhu cầu tinh thần của con người. Giải trí là

dạng hoạt động cuối cùng, mang tính chất tự do hơn các hoạt động trên do con người

có quyền được lựa chọn. Nhu cầu giải trí mang tính chất tự do, khác với các hoạt động

khác mang tính bắt buộc; có tính tự nguyện hơn là nghĩa vụ, bổn phận; không mang

tính vụ lợi như các hoạt động khác. Chủ thể được quyền chủ động lựa chọn các hoạt

động nhằm giải tỏa sự căng thẳng, giúp con người thư giãn và vươn tới sự rung cảm

về thẩm mỹ. Hoạt động giải trí vì vậy là điều kiện cần thiết để con người phát triển

toàn diện về trí tuệ, thể chất và thẩm mỹ [3].

Trong luận án Nhu cầu giải trí của thanh niên (nghiên cứu khuôn mẫu giải trí

của thanh niên và sự đáp ứng nhu cầu giải trí tại Hà Nội) của Đinh Thị Vân Chi

(2001), nhu cầu giải trí được tiếp cận nghiên cứu dưới góc nhìn xã hội học văn hóa.

Luận án đã phát triển và hoàn thiện khái niệm “nhu cầu giải trí”, xây dựng một quan

niệm khoa học về giải trí. Luận án quan niệm “giải trí là hoạt động trong thời gian

rỗi, nhằm giải tỏa căng thẳng trí não, tạo sự hứng thú cho con người và điều kiện phát

triển con người một cách toàn diện về trí tuệ, thể lực và thẩm mỹ”. Và nhu cầu giải trí

được định nghĩa là “nhu cầu hoạt động trong thời gian rỗi nhằm giải tỏa sự căng

thẳng trí não, phát triển con người một cách toàn diện về trí tuệ, thể lực và thẩm mỹ”

[2]. Nhu cầu giải trí là nhu cầu phát triển toàn diện bởi chỉ trong hoạt động giải trí, con

người mới bộc lộ và phát huy hết những tiềm năng vốn có mà trong hoạt động lao

động họ không có điều kiện để bộc lộ. Nhu cầu giải trí cũng là một bộ phận quan trọng

của nhu cầu tinh thần con người, nhằm tái tạo sức lao động, thỏa mãn sức sáng tạo

cũng như đam mê, sở thích của cá nhân.

Riêng với giới trẻ, có nhiều hình thức giải trí khác nhau mà những người trẻ lựa

chọn tùy thuộc vào điều kiện, năng lực và sở thích cá nhân. Nghiên cứu về văn hóa

giải trí của Đinh Việt Hà (2017), dựa trên các cách mà giới trẻ thực hành giải trí đã

chia ra thành: giải trí nghe nhìn (như xem ti vi, xem phim chiếu rạp, đọc sách, báo, tạp

chí, thưởng thức các loại hình nghệ thuật), giải trí vận động và trải nghiệm (đi phượt,

các loại hình vận động mới như nhảy zumba, dancesport, hip hop, parkour…), giải trí

bằng các hoạt động tiêu dùng khác (qua ẩm thực, mua sắm), giải trí online qua việc

truy cập vào mạng xã hội, các trang như facebook, youtube,… và các thực hành giải

trí đám đông như hiện tượng các fanclub (hâm mộ thần tượng) [6]. Mỗi loại hình giải

30

trí có những ưu thế khác nhau, đáp ứng yêu cầu, sở thích đa dạng của SV nhưng trong

số đó giải trí thông qua tiêu dùng văn hóa (giải trí nghe nhìn) được xem là một hình

thức khá phổ biến, phù hợp với đông đảo SV hơn cả vì tính dễ tiếp cận và với chi phí

vừa phải. Trong khi các hình thức giải trí khác cần đầu tư về thiết bị, phương tiện và

nhiều chi phí khác thì tiêu dùng các sản phẩm văn hóa như đọc sách báo, nghe nhạc,

xem phim… không quá tốn kém, phần lớn SV đều có thể chi trả để tiếp cận được.

Ở đây, xuất phát từ mối quan hệ giữa giải trí và tiêu dùng văn hóa như hai yếu

tố song hành cùng nhau, là tác nhân ảnh hưởng qua lại trong đó nhu cầu giải trí thúc

đẩy tiêu dùng văn hóa và ngược lại việc sử dụng các sản phẩm văn hóa là để thỏa mãn

nhu cầu giải trí. Việc tiêu dùng các sản phẩm văn hóa ngoài việc để vui, để thoải mái

và thư giãn sau những áp lực học hành, bài vở, giảm căng thẳng và suy nhược cho cơ

thể, cải thiện chất lượng đời sống thì ở một góc nhìn khác, tiêu dùng văn hóa còn thực

hiện chức năng nhận thức, chức năng giáo dục như tác giả Chu Khắc (1983) từng nhận

định “Trong thời gian tự do, sự hình thành nhân cách diễn ra mức độ đáng kể: con

người phát triển trí tuệ của mình thông qua học tập, đọc sách báo, nâng cao được tầm

hiểu biết từ các tác phẩm nghệ thuật, củng cố được thế giới quan khoa học và các

quan niệm đạo đức, xã hội lành mạnh, trình độ nhận thức chính trị được nâng cao

dần” [22].

1.3.2. Thúc đẩy năng lực thưởng thức nghệ thuật và năng lực sáng tạo

Có mối tương quan tỉ lệ thuận giữa năng lực thưởng thức nghệ thuật và năng

lực sáng tạo với mức độ thường xuyên tiếp xúc, thưởng thức và trải nghiệm tác phẩm

nghệ thuật. Năng lực thưởng thức nghệ thuật được hiểu là khả năng cảm nhận, thụ

hưởng, rung động, thấy được cái hay cái đẹp của tác phẩm mà người nghệ sĩ đã dụng

công tạo dựng. Năng lực này thường sẽ phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau như

kinh nghiệm, vốn sống, tuổi tác, sự tinh nhạy của các giác quan, sự nhạy cảm của mỗi

các nhân, độ am hiểu về đặc trưng ngôn ngữ của từng loại hình nghệ thuật… Ngoài

những yếu tố có tính nền tảng đó thì việc tiếp xúc thường xuyên với các sản phẩm văn

hóa nghệ thuật cũng khiến sự tinh nhạy trong cảm thụ có cơ hội được bồi đắp, rèn giũa.

Việc học hay được trang bị kiến thức lý thuyết về nghệ thuật không thể thay thế cho

việc tự cảm thụ tác phẩm nghệ thuật, những hiểu biết lý trí không tạo ra những rung

động, cảm xúc như khi tiếp xúc với tác phẩm, dù rằng nếu có nền tảng hiểu biết thì

những cảm xúc sẽ có chiều sâu hơn thay vì chỉ là cảm tính. Chỉ có việc “nghe” nhạc,

31

“đọc” sách, “xem” tranh… mới khiến con người thổn thức, rung động từ đó liên tưởng,

suy ngẫm về nhiều vấn đề trong cuộc sống mà tác phẩm gợi nên. Vì vậy, có thể nói

tiêu dùng các sản phẩm văn hóa chính là cách quan trọng nhất để rèn luyện, thúc đẩy

năng lực thưởng thức nghệ thuật.

John Storey (1999) trong cuốn Cultural Consumption in Everyday Life (Cultural Studies in Practice) (Tiêu dùng văn hóa trong đời sống hàng ngày) đã từng

xem việc đọc không phải chỉ là tiêu dùng văn hóa, tiếp nhận văn hóa mà còn là quá

trình sản xuất (reading as production) khi mà quá trình đọc không thể tách rời và liên

tục kết nối với bối cảnh đời sống mà người đọc thuộc về [51]. Điều này cũng là dễ

hiểu vì ngữ nghĩa câu chữ và tác phẩm không được sinh ra ngay từ đầu mà sản sinh

cùng với quá trình đọc, liên tưởng, ngẫm nghĩ của người đọc.

Năng lực sáng tạo, ở một mức cao hơn, đòi hỏi nhiều kiến thức, kĩ năng của con

người nhưng cũng phải dựa trên năng lực thưởng thức, hay rộng ra là mức độ tiêu dùng

văn hóa. Từ góc độ nghệ thuật, sáng tạo với nghĩa là hiện thực hóa suy nghĩ, cảm xúc,

ý tưởng thành tác phẩm trên cơ sở sử dụng những chất liệu cụ thể cũng cần có vốn

hiểu biết, trải nghiệm từ đời sống cũng như từ việc cảm nhận tác phẩm nghệ thuật.

Việc thường xuyên tiếp cận, thưởng thức các sản phẩm văn hóa như một cách làm đầy

vốn sống, rèn luyện khả năng cảm thụ, tư duy sáng tác. Sáng tạo nghệ thuật đòi hỏi sự

“sáng tạo”, phá cách, mới mẻ, đột phá… nhưng những thứ đó cũng chỉ có được dựa

trên nền tảng sâu rộng kiến thức, cảm xúc mà người sáng tạo tri nhận được qua việc

thưởng thức rộng rãi và phong phú các sản phẩm văn hóa nghệ thuật khác.

1.3.3. Định hướng lối sống và kiến tạo bản sắc

Tiêu dùng là một phần không thể thiếu của xã hội hiện đại. Hoạt động tiêu dùng

hiện nay đã vượt qua mức tiêu dùng để đáp ứng, thỏa mãn một nhu cầu cụ thể mà tiêu

dùng còn đang góp phần kiến tạo nên đời sống và bản sắc. Ở Việt Nam, bản sắc cá

nhân, bản sắc nhóm bắt đầu được nói đến nhiều sau thời kì Đổi Mới. Bối cảnh đương

đại cũng tạo cơ hội cho con người khẳng định cái tôi cá nhân nhiều hơn. Tiêu dùng

văn hóa là một trong những nhân tố thúc đẩy quá trình tự ý thức về bản ngã của cá

nhân. Khi thưởng thức sản phẩm văn hóa, con người có cơ hội được tiếp xúc với những

hoàn cảnh, những câu chuyện của người khác, được đặt mình trong hoàn cảnh của

người khác để nghĩ và để hiểu về con người, qua đó cũng hiểu thêm về bản thân mình.

Trong nhiều trường hợp, thói quen tiêu dùng các sản phẩm văn hóa nghệ thuật một

32

cách thường xuyên đang tạo nên nếp nghĩ coi trọng đời sống tinh thần, xem đây là một

mảng màu quan trọng để vẽ nên bức tranh về cá nhân mình. Tiếp cận với các sản phẩm

văn hóa không chỉ là hoạt động mang tính thêm vào hay “phụ họa” cho đời sống đỡ

nhàm chán mà dần trở thành thói quen, nhu cầu cần thiết. Người trẻ tìm thấy trong âm

nhạc người bạn đồng hành, chia sẻ với mình trong cuộc sống, nhận ra nhiều kinh

nghiệm sống khi xem phim, đọc sách…

Tiêu dùng văn hóa của các thế hệ đang tạo ra, xây dựng và lưu truyền bản sắc

cá nhân, bản sắc nhóm mà họ thuộc về. Nếu như việc chọn lựa, sử dụng một sản phẩm

vật chất là phương cách để người tiêu dùng định nghĩa về cá nhân họ (một số nghiên

cứu đã phân tích sở thích dùng hàng hiệu, dùng điện thoại Iphone… của giới trẻ như

là một “tín hiệu” để thể hiện đẳng cấp, sự sành điệu, hiện đại) thì việc tiêu dùng các

sản phẩm văn hóa, ở một chừng mực nào đó cũng đang định hình lối sống và góp phần

xây dựng, củng cố cái tôi cá nhân của người trẻ. Việc chọn để đọc gì, xem gì, nghe gì

hay chơi gì cũng là một trong nhiều cách người trẻ nói về “gu” nghệ thuật và rộng ra

là “gu” thẩm mĩ của mình, định vị mình trong xã hội. Người tiêu dùng nhất là SV cũng

đang xác định và trở thành thành viên của những “cộng đồng tưởng tượng” thông qua

việc cùng tiêu dùng một sản phẩm văn hóa, cùng đam mê hay hâm mộ một thần tượng,

một nghệ sĩ nào đó. Cộng đồng “fan” (người hâm mộ) được thiết lập nên, cùng duy trì

mối quan hệ khi họ cùng ngưỡng mộ một ngôi sao, thần tượng, có cùng các hành vi,

phong cách của cộng đồng mà họ cảm thấy mình thuộc về. Người trẻ xác định vẻ đẹp

được lý tưởng hóa bởi cộng đồng của mình xây dựng và tìm cách tiêu dùng các sản

phẩm mang ý nghĩa chung về vẻ đẹp lý tưởng hóa này.

1.3.4. Thúc đẩy quá trình sản xuất văn hóa

Tiêu dùng văn hóa là khâu cuối cùng của một quy trình vận hành các ngành

công nghiệp văn hóa bao gồm 4 giai đoạn: phát triển ý tưởng - sáng tạo/ sản xuất -

phân phối - tiêu dùng và bảo quản nhưng lại cũng là mở đầu cho một quy trình khác.

Tiêu dùng văn hóa sẽ thúc đẩy hoạt động tái sản xuất sản phẩm văn hóa, vì thế phát

triển người tiêu dùng hay phát triển khán giả có thể xem là yếu tố then chốt để phát

triển công nghiệp văn hóa. Hơn nữa, các ngành công nghiệp văn hóa sản xuất theo quy

luật cung - cầu, trong đó bên cầu chính là khán giả, đối tượng mà các ngành công

nghiệp văn hóa hướng đến. Khi nhu cầu hưởng thụ nghệ thuật tăng lên đồng nghĩa với

việc các ngành công nghiệp văn hóa có cơ hội phát triển và mở rộng sáng tạo các sản

33

phẩm và dịch vụ văn hóa. Ngược lại, khi lượng khán giả giảm sút, khán giả không

quan tâm đến nghệ thuật, các tổ chức văn hóa nghệ thuật sẽ gặp khó khăn, tác phẩm

làm ra nhưng không có người tiêu thụ. Cũng theo Throsby (2001), tiêu dùng có liên

quan đến nhận thức của người dùng về giá trị, tạo nên giá trị đa dạng và có thể thay

đổi [55, tr.28]. Người tiêu dùng có thể gia tăng thêm giá trị cho sản phẩm văn hóa và

quyết định việc sản phẩm có tiếp tục hiện diện trong đời sống, trên môi trường mạng

nữa hay không. Người tiêu dùng cũng có thể hỗ trợ quá trình sản xuất thông qua việc

đóng góp nội dung và hỗ trợ các hoạt động khác nhau (ví dụ như việc đánh giá của

người tiêu dùng trên Amazon). Chính khán giả là người quyết định sự tồn vong của

các ngành công nghiệp văn hóa thông qua việc bỏ tiền ra mua sản phẩm, giúp doanh

nghiệp thu hồi vốn, có lợi nhuận, để nghệ sĩ sống được với nghề và có kinh phí tái đầu

tư vào các sản phẩm nghệ thuật khác. Trong các ngành công nghiệp văn hóa, tối đa

hóa lượng khán giả đồng nghĩa với tối đa hóa lợi nhuận khi mà kinh phí sản xuất, tái

sản xuất gần như không thay đổi. Như vậy, trong một chừng mực nào đó có thể nói

chính khán giả và quá trình tiêu dùng hàng hóa văn hóa quyết định sự duy trì và tồn

tại của các ngành công nghiệp văn hóa, vì thế phát triển người tiêu dùng hay phát triển

khán giả có thể xem là yếu tố then chốt để phát triển công nghiệp văn hóa.

1.4. Các yếu tố tác động đến tiêu dùng văn hóa của sinh viên

1.4.1. Bối cảnh toàn cầu hóa

“Toàn cầu hóa” là thuật ngữ được xuất hiện vào những năm 1960, kể từ đó trở

thành khái niệm được bàn đến nhiều trong tất cả các lĩnh vực nghiên cứu cũng như trở

thành một hiện tượng trên thế giới. Thực tế quá trình toàn cầu hóa đã bắt đầu nhen

nhóm từ các cuộc “tiểu toàn cầu hóa” trong lịch sử theo bước chân chinh phạt của các

vị vua chúa với tham vọng mở mang bờ cõi, các nhà truyền giáo loan truyền và thúc

đẩy tôn giáo của mình hoặc thương nhân vượt biên giới để tìm kiếm cơ hội trao đổi

buôn bán. Tuy nhiên phải đến cuối thế kỉ XIX, toàn cầu hóa thực sự mới diễn ra một

cách mạnh mẽ trên toàn thế giới khi sự bành trướng của chủ nghĩa thực dân ở châu Âu

ngày càng mở rộng, kèm theo đó là các hoạt động mậu dịch xuyên quốc gia và sự ra

đời của các cuộc cách mạng về công nghệ, nhất là tin học.

Toàn cầu hóa là một khái niệm phức tạp, đa dạng, một hiện tượng đa chiều, đa

kích thước mà khó có một định nghĩa nào có thể bao quát hết. Từ góc độ kinh tế học,

toàn cầu hóa biểu hiện ở sự lưu chuyển dễ dàng của hàng hóa, dịch vụ, kĩ thuật, lao

34

động,… từ quốc gia này sang quốc gia khác/xuyên biên giới với quy mô chưa từng

thấy, theo đó là sự hình thành nên các công ty đa quốc gia, thị trường đa quốc gia, xu

hướng liên kết kinh tế dẫn đến sự ra đời của các tổ chức kinh tế và thương mại, tài

chính quốc tế… hay nền sản xuất mang tính toàn cầu, phân công lao động ở phạm vi

quốc tế. Từ góc độ chính trị, các quốc gia ngày càng có xu hướng liên kết, phụ thuộc

lẫn nhau. Sự phụ thuộc này không chỉ ở phương diện kinh tế mà còn ở nhiều phương

diện khác, đòi hỏi sự chung tay của tất cả các quốc gia. Biên giới địa lý dường như bị

mờ đi, người ta không cần phải di chuyển nhưng vẫn hiện diện ở nhiều địa điểm, sự

kiện trên thế giới. Quan hệ giữa các nước trên thế giới ngày càng trở nên phức tạp,

chằng chéo và bất khả đoán. Từ góc độ văn hóa, toàn cầu hóa thúc đẩy giao lưu văn

hóa trên phạm vi toàn cầu. Nếu như trước đây, giao lưu văn hóa được diễn ra trong

phạm vi hẹp, ở những nước gần nhau hay chung một khu vực, thì nay sự ảnh hưởng,

giao lưu, kết nối diễn ra ở phạm vi rộng khắp. Kinh nghiệm về không gian và thời gian

của con người cũng hoàn toàn thay đổi. Người ta không chỉ sống ở một nơi mà có thể

“sống” trong thế giới, chứng kiến mọi sự thay đổi đang diễn ra trên thế giới dù có thể

không thực sự có mặt tại đó. Nhiều nhà nghiên cứu còn lo ngại sự va chạm, mâu thuẫn

giữa tính toàn cầu và tính địa phương, giữa chủ nghĩa xê dịch và bản sắc, lo ngại sự

“xâm lăng văn hóa”, “đồng hóa văn hóa”.

Toàn cầu hóa đã và đang dấy lên từ đời sống hàng ngày của hầu hết tất cả mọi

người, dù họ đến từ các quốc gia siêu cường hay đang phát triển, dù ở khu vực nông

thôn hay thành thị, từ trí thức, người có học đến những người lao động, giới bình dân.

Cơn lốc toàn cầu hóa để lại những tác động sâu rộng và mạnh mẽ đến tiêu dùng văn

hóa của mọi người dân nói chung và đối tượng SV nói riêng. Sinh hoạt hằng ngày của

con người hiện đại xoay quanh các hoạt động ăn, mặc, nghe, xem, nhìn…và được vây

quanh bởi các sản phẩm của quá trình toàn cầu hóa. SV thích đến những cửa hàng vốn

là những biểu tượng của phương tây như đi ăn Mc Donald, gà rán KFC, uống Starbucks

hay Cocacola, dùng điện thoại Iphone hay Samsung, đi giày Nike, mặc áo phông Thái,

xem Hậu duệ mặt trời, Transformers (Robot đại chiến) hay American Idol… Những

sản phẩm từ rất nhiều quốc gia trên thế giới đang len lỏi, xâm chiếm và can dự trực

tiếp vào đời sống của từng cá nhân SV. Toàn cầu hóa cũng mang lại cơ hội hiểu biết

và giao lưu văn hóa ở quy mô chưa từng có như trước đây. Nhiều lễ hội văn hóa nước

ngoài được tổ chức tại Việt Nam giúp người trẻ mở rộng kiến thức về phong tục, tập

35

quán, lối sống, cách ứng xử, thúc đẩy sự hiểu biết và gắn kết, thỏa mãn cơ hội khám

phá các giá trị mới mẻ. Hơn nữa việc được học và thành thạo ngoại ngữ cũng khiến

SV có thêm công cụ để tiếp cận với nhiều loại sản phẩm văn hóa trên thế giới. Sản

phẩm văn hóa của các quốc gia nhờ bối cảnh toàn cầu hóa cũng dễ dàng được giới

thiệu, quảng bá trên toàn thế giới, tạo ra nhiều cơ hội cho SV tiếp cận với sản phẩm

văn hóa trong và ngoài nước.

Toàn cầu hóa cùng với đó là sự hỗ trợ của công nghệ cũng khiến cho quá trình

phân phối và tiêu thụ văn hóa trở nên thuận tiện, dễ dàng hơn. Khán giả trên toàn thế

giới có thể cùng chung nhịp cảm xúc, rung động, thổn thức với một bộ phim mới ra

rạp, một cuốn sách mới xuất bản, một MV vừa được cập nhật trên Youtube… Khác

với trước đây, thường có một ‘độ trễ” nhất định về thời gian để tác phẩm ra mắt ở quốc

gia này có thể được đến được với khán giả trên toàn thế giới. Điều này tạo nên những

“cơn sốt”, những xu hướng (trend) trên toàn cầu - những thứ được xem như là động

lực và cũng là thước đo thành công của công nghiệp văn hóa.

Tuy nhiên, toàn cầu hóa cũng mang lại nhiều lo ngại về sự mâu thuẫn giữa tính

toàn cầu và tính địa phương, giữa chủ nghĩa xê dịch và bản sắc. Toàn cầu hóa và sự

đổ bộ, thống soát của các giá trị văn hóa đến từ Mỹ, các nước Tây Âu… liệu có dẫn

đến nguy cơ “đồng hóa văn hóa”, thiết lập những hệ giá trị chung về văn hóa mà mất

dần đi nét riêng của từng quốc gia. Sự đa dạng của các sản phẩm văn hóa cũng khiến

cho người trẻ có cảm giác “hoang mang” không biết chọn cái gì, chọn như thế nào

trong một thị trường sản phẩm văn hóa đa dạng, vô cùng.

1.4.2. Sự phát triển của internet và truyền thông

Theo Báo cáo Việt Nam Digital 2021 do We are social và Hootsuite thống kê,

tính đến thời điểm tháng 1 năm 2021, Việt Nam đã có 68,72 triệu người dùng internet

trên tổng số 97,8 triệu người2. Với tỉ lệ sử dụng internet là 70,3%, Việt Nam là một

trong những quốc gia có lượng người dùng Internet cao trên toàn thế giới. Tại các đô

thị, số lượng các quán cà phê internet tăng theo cấp số nhân. Những năm gần đây, việc

sở hữu các thiết bị công nghệ nhỏ gọn, có kết nối internet như điện thoại thông minh,

máy tính bảng… của nhiều người khiến “thế giới trong tầm tay” - câu khẩu hiệu nổi

2 http://digitalvn.vn/vi/viet-nam-digital-2021/

tiếng của Viettel, nhà mạng giữ thị phần lớn nhất trên thị trường dịch vụ viễn thông

36

Việt Nam - trở nên dễ dàng hơn bao giờ. Có tới 154,4 triệu kết nối di động tại Việt

Nam vào tháng 1/2021, có 72 triệu người dùng mạng xã hội trên toàn quốc, tương

đương với 73,7% tổng dân số. Những con số thống kê này là minh chứng rõ nhất cho

việc internet và đặc biệt là mạng xã hội đang trở thành phương tiện thông tin và truyền

thông phổ biến tại Việt Nam.

Internet và mạng xã hội làm gia tăng về lượng và đa dạng về nguồn tiếp cận sản

phẩm văn hóa cho người dân nói chung và SV nói riêng. Internet tạo ra những khả thể

cho tiêu dùng văn hóa với nhiều nhóm người ở nhiều vùng miền khác nhau. Cơ hội

tiếp cận với nghệ thuật trở nên dễ dàng và bình đẳng thông qua các thiết bị nhỏ gọn có

thể “đem cả rạp chiếu đến tận nhà” với các nền tảng như Netflix, Spotify… Internet

làm xuất hiện nhiều hình thức tiêu dùng văn hóa mới như nghe nhạc trực tuyến, xem

các video ngắn trên các nền tảng truyền thông mới như TikTok, Twitch và YouTube…

Internet đang xoay chuyển và thay đổi thói quen giải trí bên cạnh những thói quen cũ

như xem truyền hình, đọc sách báo giấy, xem phim tại rạp chiếu… Giới trẻ rõ ràng

đang ngày càng dành nhiều thời gian hơn cho các phương tiện thông tin đại chúng để

sử dụng, thưởng thức, tiếp nhận các sản phẩm văn hóa. Các quyết định tiêu dùng, các

hình thức chi trả, cách thức chi trả cho các sản phẩm văn hóa cũng đang có nhiều thay

đổi theo hướng tiện lợi, hiện đại, phù hợp với xu thế phát triển chung của thế giới.

Cũng chính nhờ internet mà khoảng cách giữa độc giả, khán giả, thính giả với

tác giả, đạo diễn, giữa người tiêu dùng với người sản xuất được rút ngắn và thu hẹp

không kể không gian và thời gian. Sản phẩm nghệ thuật khi được phân phối trên các

nền tảng mạng xã hội sẽ ngay lập tức được khán giả tiếp cận, đón nhận, thụ hưởng.

Những tương tác tức thời như lượt thích, lượt chia sẻ, bình luận, ủng hộ, theo dõi giúp

cho nhà sản xuất biết được phản hồi của khán giả về sản phẩm. Người tiêu dùng cũng

vì thế có thêm nhiều thông tin hơn như các câu chuyện, giai thoại xoay quanh quá trình

làm ra tác phẩm, về nhân vật trong tác phẩm. Internet còn mang đến cơ hội cho nhiều

người trẻ, đặc biệt là SV không những là những người tiêu dùng mà còn trở thành

những người sản xuất sản phẩm văn hóa. Nhiều SV đã tự sản xuất, tự phổ biến những

bài viết, video ngắn ở nhiều lĩnh vực khác nhau. Trong trường hợp này SV vừa là

người tiêu dùng vừa đồng thời là người sản xuất.

Cùng với việc tạo ra những bước tiến mạnh mẽ trong nhiều lĩnh vực của đời

sống, internet đã trở thành công cụ để kết nối, chia sẻ, hình thành nên những cộng

37

đồng trên mạng (Nguyễn Thị Phương Châm, 2013) [1] và cả đời thực – những người

có cùng chung mối quan tâm về một sản phẩm văn hóa. Những “cộng đồng tưởng

tượng” này chia sẻ cùng nhau sự yêu thích, ủng hộ hay phản đối, thích hay không thích

các sản phẩm văn hóa. Internet cũng cung cấp các hình thức tổ chức mới khi các nhóm

(group), các câu lạc bộ những người hâm mộ (fan) được thành lập. Với mạng xã hội,

sự hữu hạn cả về không gian lẫn thời gian được phá vỡ, tạo ra những liên kết và tương

tác bất tận.

1.4.3. Thị trường sản phẩm văn hóa

Từ sau chính sách Đổi Mới năm 1986 với quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế

kế hoạch sang nền kinh tế thị trường, tốc độ hội nhập của Việt Nam với thế giới bên

ngoài diễn ra nhanh chóng, sâu rộng. Việt Nam dần trở thành một điểm đến hấp dẫn

với các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Từ mốc khởi điểm này cho đến nay, đời sống

văn hóa xã hội Việt Nam đã chứng kiến nhiều biến đổi sâu sắc.

Trước tiên, quá trình tự do hóa kinh tế với việc giảm bớt các quy định, hạn chế

của chính phủ và đổi lấy sự tham gia nhiều hơn của các thành phần tư nhân đã góp

phần đưa đất nước hội nhập vào nền kinh tế toàn cầu, mang lại sự thịnh vượng kinh tế

trong 35 năm qua. Chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường đã đem đến những tác động

tích cực như xóa đói giảm nghèo, tạo ra công ăn việc làm, ổn định xã hội và nhờ vậy

các sức ép về các vấn đề xã hội cũng được giảm thiểu đáng kể. Đời sống của người

dân được cải thiện đáng kể cùng với đó là sự chú trọng và quan tâm hơn đến đời sống

tinh thần, nảy sinh thêm nhiều nhu cầu hưởng thụ văn hóa. Sự quan tâm của Đảng và

Nhà nước đổi với lĩnh vực văn hóa ngày càng gia tăng. Sau Nghị quyết Trung ương 5

(khóa VIII) nhiều chính sách đã được thực hiện, thúc đẩy sự phát triển của văn hóa

Việt Nam, mở rộng thị trường văn hóa. Năm 2014, Nghị quyết 33 Hội nghị Trung

ương 9 khóa XI của Đảng xác định xây dựng và hoàn thiện thị trường sản phẩm và

dịch vụ văn hóa – đây là căn cứ chính trị, pháp lý quan trọng để đẩy mạnh sự phát triển

của thị trường sản phẩm văn hóa. Sau đó, các hoạt động sản xuất, sáng tạo văn hóa của

các cơ quan, đơn vị trong và ngoài công lập trở nên sôi động hơn, góp phần thúc đẩy

mức tiêu dùng văn hóa của người dân nói chung và của SV nói riêng.

Trong ngành xuất bản, từ đầu những năm thập niên 2000 đánh dấu một bước

phát triển mới của ngành công nghiệp xuất bản Việt Nam. Kể từ đây, ngành này có sự

khởi sắc mạnh mẽ với sự ra đời của nhiều nhà xuất bản mới. Nhà xuất bản Nhã Nam

38

(Công ty Cổ phần Văn hóa và Truyền thông Nhã Nam) gia nhập thị trường sách tháng

2/2005 với phương châm “mỗi cuốn sách như một con thuyền mang tới niềm vui, tri

thức, ngạc nhiên và đồng cảm”. Nhiều dòng sách đáp ứng được nhu cầu đa dạng của

người đọc như tác phẩm hư cấu, phi hư cấu, lịch sử, triết học, văn hóa đương đại, sách

triết lý sống, sách khai trí… Nhiều tác phẩm có ảnh hưởng mạnh mẽ đến giới trẻ, đánh

thức niềm say mê đọc văn chương ở độc giả trẻ tuổi, trở thành sách gối đầu giường,

mở ra những cách nhìn mới về lối sống, làm thay đổi những quan niệm cũ

Tháng 9/2005, nhà xuất bản Tri thức, trực thuộc Liên hiệp các Hội khoa học và

Kĩ thuật Việt Nam được thành lập, góp thêm một mảng màu quan trọng trong bức

tranh ngành xuất bản cũng như trong đời sống tinh thần của người dân đô thị. Từ các

cuốn sách đầu tiên thuộc Tủ sách Tinh hoa tri thức thế giới, hoạt động dịch thuật được

đẩy mạnh và xuất bản những tác phẩm kinh điển như Bàn về tự do – J.S.Mill (Nguyễn

Văn Trọng dịch), Tâm lí học đám đông – G.le Bon (Nguyễn Xuân Khánh dịch)… về

sau mở rộng ra với nhiều tủ sách khác như: Tủ sách Dẫn nhập giới thiệu tổng quát kiến

thức nền tảng trên nhiều lĩnh vực; Tủ sách Tri thức mới đề cập đến nhiều vấn đề có

tính nhân loại; Tủ sách Tiểu sử cung cấp thông tin về bối cảnh, quá trình hình thành

những tư tưởng lớn trên thế giới; Tủ sách Việt Nam đương đại mang đến những thông

tin đa chiều về Việt Nam hay Tủ sách Tri thức phổ thông đem đến nhiều chủ đề rộng

lớn khác nhau3. Ngoài ra, phải kể đến sự nở rộ các hoạt động xuất bản của nhiều nhà

xuất bản khác như: nhà xuất bản Trẻ, nhà xuất bản Kim Đồng, nhà xuất bản Phụ nữ,

nhà xuất bản Thế giới… mang đến nhiều loại tác phẩm trên nhiều lĩnh vực khác nhau,

góp phần làm phong phú đời sống tinh thần, tăng vốn hiểu biết cho người dân đô thị

cũng như thu hẹp dần khoảng cách tri thức với thế giới khi mà trong một thời gian dài

cơ hội tiếp cận bị hạn chế bởi những điều kiện lịch sử.

Hoạt động của ngành xuất bản thực sự sôi động thể hiện qua những con số thống

kê từ báo cáo của Bộ Thông tin và Truyền thông. Theo đó, năm 2014, toàn quốc có tới

63 nhà xuất bản, 1500 cơ sở in công nghiệp, hơn 13.700 cơ sở phát hành xuất bản

phẩm, xuất bản được 25.000 cuốn sách với trên 361 triệu bản, xuất bản 859 loại văn

hóa phẩm với gần 28 triệu bản (dẫn theo Đặng Thị Thu Hương, 2016) [19, tr.106].

39

Trong lĩnh vực điện ảnh, với việc ban hành các văn bản có tính định hướng

chiến lược như Luật Điện ảnh năm 2006, “Chiến lược phát triển điện ảnh đến năm

2020 tầm nhìn đến năm 2030” năm 2013, quy hoạch phát triển điện ảnh đến năm 2020

tầm nhìn đến năm 2030 năm 2014 đã tạo tiền đề quan trọng cho sự phát triển của thị

trường điện ảnh. Hoạt động xã hội hóa các hoạt động điện ảnh được diễn ra mạnh mẽ

thể hiện qua sự tăng trưởng số lượng các hãng phim tư nhân. Nhiều doanh nghiệp tư

nhân, công ty cổ phần và có vốn đầu tư nước ngoài đã cùng tham gia sản xuất và phân

phối phim, nhiều dự án phim có sự liên kết với nước ngoài. Các tác phẩm đa dạng về

đề tài, phong phú về nội dung, cách tiếp cận và phản ánh. Chất lượng phim cũng ngày

một cải thiện, không chỉ nặng tính giải trí mà chú ý nhiều hơn đến tính nghệ thuật.

Chính phủ có những thay đổi quan trọng trong quy trình tài trợ, sản xuất, phân phối và

trình chiếu phim ở Việt Nam. Bắt đầu từ năm 1999, chính phủ có những thông thoáng

trong việc phát hành phim nước ngoài. Năm 2000, Công ty phát hành và chiếu phim

quốc gia ra đời. Những cố gắng này đã lôi kéo khán giả trở lại với rạp chiếu phim. Sự

xuất hiện của doanh nghiệp ngoài khu vực quốc doanh trong lĩnh vực sản xuất và phát

hành phim như Thiên Ngân (2004), BHD (1996), Phước Sang, Megastar (2004) - dù

là các công ty hoạt động đa lĩnh vực nhưng điện ảnh là lĩnh vực kinh doanh chính.

BHD thành lập năm 1996, chú trọng đến việc nhập khẩu phim để cung cấp cho các đài

truyền hình trung ương và địa phương. Thiên Ngân (2004) là một nhánh của tập đoàn

Galaxy với hệ thống rạp Galaxy, hệ thống phát hành phim nước ngoài tại Việt Nam,

nhiều dự án phim thương mại. Megastar được thành lập từ 2004, là doanh nghiệp có

vốn đầu tư nước ngoài hoạt động trong lĩnh vực phát hành và chiếu phim. Từ những

năm 2006, Megastar đã xây dựng hệ thống rạp chiếu lớn tại các thành phố lớn như Hà

Nội, Đà Nẵng, thành phố Hồ Chí Minh với hệ thống phòng chiếu và máy chiếu hiện

đại nhất ở Việt Nam lúc bấy giờ và cũng là công ty tiên phong trong nhập khẩu công

nghệ 3D cũng như phát hành phim bom tấn nước ngoài cùng thời điểm ra rạp trên thế

giới. Về sau Megastar được bán lại cho một đối tác Hàn Quốc.

Số lượng phòng chiếu cũng tăng lên nhanh chóng: năm 2009, ở Việt Nam có 87

phòng chiếu phim với tổng doanh thu khoảng 302 tỷ đồng; năm 2019, có 1063 phòng

4 https://www.qdnd.vn/van-hoa-giao-duc/doi-song-van-hoa/hien-thuc-hoa-nen-cong-nghiep-dien- anh-viet-nam-654056

chiếu tại 204 cụm rạp, doanh thu 4064 tỷ đồng4. Số lượng phim: từ năm 2009-2014,

40

mỗi năm Việt Nam sản xuất được 15-25 phim (chiếm 15% tổng số phim chiếu rạp),

năm 2015 tăng đột phá lên 42 phim, năm 2016: 41 phim, 2017: 38 phim, 2018: 38

phim, 2019: 41 phim5. Một số bộ phim gần đây lôi cuốn được nhiều khán giả, mang

lại doanh thu cao: Bố già (2021) – Trấn Thành, tạo nên cơn sốt tại thị trường phim

Việt sau 1 tháng thu về 430 tỷ đồng, giữ vị trí là phim Việt có doanh thu cao nhất (tính

đến năm 2021). Tiệc trăng máu (2020) - 175 tỷ đồng; Gái già lắm chiêu (2020) -168

tỷ đồng; Hai Phượng (2019) - Ngô Thanh Vân - 200 tỷ đồng; Cua lại vợ bầu (2019)

- đạo diễn Nhất Trung, 191,8 tỷ đồng; Mắt biếc (2019) - đạo diễn Victor Vũ, 180 tỷ

đồng; Em chưa 18 (2017) - đạo diễn Lê Thanh Sơn, 171 tỷ đồng6...

Như vậy, có thể thấy, kể từ sau Đổi Mới, thị trường sản phẩm văn hóa trong

nước ngày càng sôi động, phong phú và đa dạng về loại sản phẩm, chất lượng ngày

càng được nâng lên, đáp ứng được nhu cầu của người tiêu dùng. Các phương thức

quảng cáo, giới thiệu, đưa tác phẩm tới người tiêu dùng cũng linh hoạt và nhanh nhạy

hơn. Thị trường rộng mở mang đến nhiều cơ hội lựa chọn cho SV, mặt khác giá cả sản

phẩm cũng ngày càng phù hợp với mức chi tiêu của SV. Có thể nói đây là những tác

động thuận lợi cho hoạt động tiêu dùng văn hóa của người học.

Tiểu kết chương 1

Phần viết của chương 1 đã khái quát một số vấn đề lý thuyết về tiêu dùng văn

hóa như khái niệm, đặc điểm, vai trò và các yếu tố tác động đến tiêu dùng văn hóa.

Tiêu dùng văn hóa là hoạt động quen thuộc của con người trong lịch sử phát triển, tuy

nhiên khái niệm “tiêu dùng văn hóa” được xuất hiện trong bối cảnh, điều kiện cụ thể

gắn với sự xuất hiện của xã hội tiêu dùng, chủ nghĩa tiêu dùng của xã hội tư bản. Theo

đó, tiêu dùng văn hóa là hoạt động sử dụng các sản phẩm văn hóa nhằm đáp ứng nhu

cầu giải trí của con người và mang lại nhiều giá trị khác đối với đời sống con người.

Tiêu dùng văn hóa là một dạng thức tiêu dùng đặc biệt, có nhiều điểm khác biệt

so với các hình thức tiêu dùng các sản phẩm vật chất khác, trong đó nhấn mạnh tính

tâm lý. Tiêu dùng văn hóa không làm hao mòn tác phẩm. Tiêu dùng văn hóa có tính

5 https://www.qdnd.vn/van-hoa-giao-duc/doi-song-van-hoa/hien-thuc-hoa-nen-cong-nghiep-dien- anh-viet-nam-654056 6 https://koicine.com/top-10-phim-viet-nam-co-doanh-thu-cao-nhat-hien-nay/

tầng bậc, ở đó giá trị của sản phẩm văn hóa có thể khác biệt giữa các nhóm chủ thể,

41

phụ thuộc vào sự cảm nhận của mỗi cá nhân. Giá trị của tác phẩm vì thế không được

“sinh ra” ngay từ ban đầu mà được khám phá, mở rộng bởi chính chủ thể tiêu dùng.

Tiêu dùng văn hóa có ý nghĩa quan trọng đối với đời sống con người nói chung

và với đối tượng sinh viên nói riêng, thể hiện ở việc đáp ứng nhu cầu giải trí, thúc đẩy

năng lực thưởng thức và sáng tạo nghệ thuật, định hướng lối sống. Ngoài ra, đặt trong

quy trình vận hành của các ngành công nghiệp văn hóa, tiêu dùng văn hóa góp phần

thúc đẩy quá trình sáng tạo, nhờ vào việc thúc đẩy và phát triển “bên cầu” như một

cách gián tiếp thúc đẩy “bên cung” – những người làm sáng tạo.

Tiêu dùng văn hóa trong bối cảnh hiện nay chịu sự chi phối của nhiều yếu tố

trong đó có thể kể đến bối cảnh toàn cầu hóa, đời sống vật chất được cải thiện nhanh

chóng, thời gian rỗi nhiều hơn từ đó gia tăng nhu cầu tiêu dùng văn hóa. Hơn nữa, hoạt

động tiêu dùng văn hóa còn bị chi phối bởi sự phát triển của internet và truyền thông

theo những cách khác nhau như truyền thông lan tỏa thông tin về sản phẩm văn hóa ở

phạm vi rộng hơn, thúc đẩy tính trào lưu của tiêu dùng văn hóa theo cách tạo ra những

trải nghiệm tập thể, cảm giác hiện đại, thức thời của những người cập nhật với xu

hướng.

Những vấn đề lý thuyết về tiêu dùng văn hóa trên đây là cơ sở để thực hiện mô

tả cũng như phân tích thực trạng tiêu dùng văn hóa của SV ĐHNV. Để hình dung phần

nào về tiêu dùng văn hóa của SV, các khía cạnh như: nội dung tiêu dùng, phương thức

tiêu dùng, phương tiện tiêu dùng sẽ lần lượt được làm rõ gắn với 4 lĩnh vực mà SV

quan tâm nhiều hơn cả: sản phẩm điện ảnh, âm nhạc, sách/ báo/ tạp chí, trò chơi điện

tử.

42

CHƯƠNG 2

THỰC TRẠNG TIÊU DÙNG VĂN HÓA CỦA SINH VIÊN

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NỘI VỤ HÀ NỘI

2.1. Khái quát về sinh viên Trường Đại học Nội vụ Hà Nội

2.1.1. Đặc điểm tâm sinh lí lứa tuổi

Sinh viên đang theo học tại trường có độ tuổi từ 18-25 với nhiều đặc điểm tâm

lý xã hội đặc trưng, đang trong giai đoạn phát triển, hoàn thiện nhân cách cũng như

chuẩn bị kiến thức, kĩ năng, năng lực tự chủ và trách nhiệm để trở thành nguồn lao

động quan trọng của xã hội. Đây cũng là độ tuổi giàu năng lượng sáng tạo, nhiệt huyết,

khát khao đổi mới, thích tìm tòi, khám phá, nhiều khát vọng và mơ ước. Tự nhìn nhận

và ý thức cao về bản thân là một đặc điểm tâm lý quan trọng của SV. Giai đoạn này

SV vừa làm quen với thế giới nghề nghiệp vừa phát hiện lại chính bản thân mình qua

những câu hỏi về hình ảnh con người mình, diện mạo, phẩm chất, năng lực, giá trị của

cá nhân mình. Các câu hỏi thường xuyên được người trẻ đặt ra và chất vấn bản thân

mình như: tôi là ai, tôi là người như thế nào, giá trị của tôi là gì, tôi có những phẩm

chất gì… Qua những mối quan hệ tương tác, so sánh với những người khác, SV sẽ tìm

thấy mình và tự ý thức về mình. Chính từ sự tự ý thức này giúp SV sẽ có những điều

chỉnh về thái độ, hành vi. Giai đoạn này cũng chứng kiến sự định hướng, hình thành

và xác lập nhiều giá trị sống của SV. Những giá trị chân, thiện, mĩ đã được hình thành

ở các cấp học dưới sẽ tiếp tục được người học củng cố và theo đuổi. Mối quan tâm của

SV còn mở rộng ra ngoài phạm vi cá nhân để nghĩ về cộng đồng, xã hội, trách nhiệm

với cộng đồng, đóng góp của cá nhân cho xã hội. Các giá trị mới sẽ dần được hình

thành như ý thức về tự do cá nhân, dân chủ, nhân quyền… Ngoài ra, giá trị sống mà

SV theo đuổi còn chịu sự chi phối của các trào lưu trong xã hội. SV cởi mở hơn, tôn

trọng sự đa dạng và khác biệt, bắt đầu chia sẻ các giá trị chung mang tính chất đương

đại như: tình yêu và hôn nhân đồng tính, tình yêu và tình dục trước hôn nhân, vấn đề

ly hôn trong xã hội, xu hướng làm mẹ đơn thân…

SV được khảo sát trong phạm vi đề tài này được sinh ra từ những năm 1997 cho

đến những năm 2004 và trưởng thành trong thập kỉ thứ 3 của thế kỉ 21. Đây là lứa tuổi

nằm chính giữa khoảng thời gian được cho là thời điểm sinh của thế hệ Z (generation

Z), còn được gọi với nhiều tên khác như Gen Tech, Net Gen, Digital Natives, iGen,

43

Post Millennials - thế hệ đầu tiên lớn lên sau khi internet đã trở nên phổ biến rộng rãi.

Nói cách khác những người trẻ trong độ tuổi này được tiếp cận với internet, thiết bị kĩ

thuật, điện thoại thông minh từ nhỏ và lớn lên cùng với sự bùng nổ của công nghệ, sự

gia tăng của các phương tiện truyền thông mới… Trước đây, thế hệ Millennials (có

khoảng năm sinh từ đầu thập niên 1980 đến giữa thập niên 1990) được coi là sống

trong thời kì tiên phong của kĩ thuật số, trở thành "những người tiên phong kỹ thuật

số", chứng kiến sự bùng nổ của công nghệ và mạng xã hội, thì hiện nay thế hệ Z được

sinh ra trong một thế giới của sự đổi mới công nghệ đỉnh cao - nơi thông tin có thể

truy cập ngay lập tức và mạng xã hội ngày càng phổ biến. SV trong độ tuổi này đa

phần đều được tiếp xúc với công nghệ từ nhỏ nên khá quen thuộc, thoải mái đón nhận

công nghệ và sử dụng chúng như một phần tất yếu của đời sống. Nếu như đời sống

của SV các thế hệ Millennials trở về trước gắn liền với sách giấy, báo, tạp chí (Hoa

học trò, Sinh viên Việt Nam, Mực tím…) thì SV thế hệ hiện nay đọc báo điện tử, đọc

sách ebook, nghe sách nói, nghe nhạc qua điện thoại, qua nền tảng Spotify. Các thế hệ

trước tìm kiếm, tham gia và thưởng thức âm nhạc tại các đại nhạc hội, dạ hội sinh viên,

đêm nhạc trong trường đại học hay qua băng cassette, xem băng đĩa thì thế hệ Z sử

dụng một cách thường xuyên và thành thục các nền tảng như facebook, google,

youtube, instagram, tick tok… để tìm kiếm thông tin, giải trí và phục vụ cho việc học

tập. Chỉ cần một chiếc điện thoại thông minh có kết nối internet, giới trẻ có thể bước

vào thế giới giải trí sôi động, đa dạng và liên tục cập nhật.

Bối cảnh công nghệ cũng đã tạo ra nhiều sự thay đổi và góp phần định hình con

người, lối sống, cá tính của những người trẻ hiện nay. Công nghệ làm thay đổi cách

giới trẻ ngày nay sống, làm việc, ăn, chơi, kết bạn… Lớn lên cùng với những từ khóa

mới như “lướt web”, “selfie”, “tik tok”, “status”, “like”, “share”, “subcrises”, các hoạt

động này trở thành một phần trong đời sống thường ngày, góp phần định hình lối sống,

gu giải trí cũng như gu thẩm mĩ của người trẻ. Ngôn ngữ viết và nói được sử dụng

hàng ngày cũng hiện đại, mới mẻ với việc sử dụng nhiều biểu tượng cảm xúc, các từ

viết tắt, từ lóng…

Những tiến bộ công nghệ đã có nhiều tác động đối với thế hệ Z nói chung và

SV nói riêng. SV được tiếp cận với nguồn thông tin dồi dào chỉ qua một cú nhấp chuột,

công nghệ dẫn lối người trẻ vào thế giới thông tin ngập tràn, giúp họ mở rộng sự hiểu

biết, đào sâu các lĩnh vực mà mình quan tâm, chủ động trong việc học và tự học. Nhưng

44

cũng chính sự đa dạng này khiến SV trở nên “bối rối” khi dung nạp quá nhiều thông

tin, khó định hình “gu” thẩm mĩ của mình cũng như sa vào “ma trận không lối thoát”

của những tin tức giải trí cập nhật từng phút, từng giây. SV sử dụng mạng xã hội để

kết nối với bạn bè, mở rộng các mối quan hệ mới, giữ liên lạc và tương tác với những

người mà họ ít có điều kiện để gặp gỡ trong thế giới thực. Bên cạnh những điểm tích

cực đó, người trẻ nói chung và SV nói riêng cũng phải đối mặt với nhiều vấn đề tâm

lý, các khó khăn về sức khỏe tinh thần, một mặt khác của sự phát triển công nghệ. Thời

gian sử dụng công nghệ quá nhiều dễ dẫn đến cảm giác bị cô lập và làm kém đi các kỹ

năng xã hội khác. Sự phụ thuộc vào công nghệ và trực tuyến ngày càng tăng làm giảm

sự tương tác trực tiếp. Thời gian giành cho điện thoại thông minh, Netflix, facebook…

nhiều hơn đồng nghĩa với việc họ giành ít thời gian để vun đắp các mối quan hệ có ý

nghĩa, trở nên cô độc hoặc thúc đẩy cảm giác cô độc, bị bỏ rơi dẫn đến trầm cảm.

Ngoài ra, người trẻ tuổi có thể cũng rơi vào cái bẫy của sự “so sánh” và tuyệt vọng mà

mạng xã hội đã bày ra khi liên tục chứng kiến hình ảnh về cuộc sống của người khác.

2.1.2. Định hướng nghề nghiệp

Một trong những đặc trưng nổi trội nhất của lứa tuổi SV là những mối quan tâm

về nghề nghiệp tương lai. Khi tốt nghiệp trung học phổ thông và lựa chọn ngành học

tại bậc đại học, phần lớn SV đã có những hình dung về viễn cảnh nghề nghiệp trong

tương lai cũng như dự kiến về hướng phát triển. Đến giai đoạn học đại học, SV được

trang bị các kiến thức nền tảng về triết học, môi trường, xã hội, kiến thức cơ bản và

chuyên sâu về lĩnh vực, ngành mình được đào tạo.

ĐHNV là cơ sở giáo dục đại học công lập thuộc hệ thống giáo dục quốc dân,

trực thuộc Bộ Nội vụ, có chức năng đào tạo nguồn nhân lực trình độ đại học và sau

đại học phục vụ ngành nội vụ, nền công vụ và yêu cầu của xã hội. Là đơn vị đào tạo

đa ngành, hiện trường đang tuyển sinh và tổ chức đào tạo 21 ngành, chuyên ngành,

bao gồm: Quản trị nhân lực, Kinh tế học, Quản trị văn phòng, Luật (chuyên ngành

Thanh tra), Quản lý nhà nước, Chính trị học (chuyên ngành Chính sách công), Lưu trữ

học (chuyên ngành Văn thư lưu trữ), Ngôn ngữ Anh, Quản lý văn hóa (chuyên ngành

Quản lý văn hóa và phát triển du lịch), Văn hóa học (chuyên ngành Văn hóa du lịch,

Văn hóa truyền thông), Quản trị dịch vụ du lịch và lữ hành, Thông tin thư viện (chuyên

ngành Quản trị thông tin), Xây dựng Đảng và chính quyền nhà nước, Hệ thống thông

tin.

45

Môi trường học tập tại ĐHNV khá đa dạng, SV đến từ nhiều vùng miền khác

nhau trong cả nước như thành thị, thị trấn, nông thôn, miền núi. Một số ngành học có

nhiều SV đến từ các tỉnh vùng núi phía bắc như Hà Giang, Lào Cai, Cao Bằng, Điện

Biên… (đặc biệt là ở các ngành Quản lý văn hóa, Quản lý nhà nước). Đa phần, SV của

trường có điểm tuyển sinh đầu vào ở mức giữa, không quá thấp nhưng cũng không quá

cao như các trường được xếp vào “top” đầu. Khác với trước đây đào tạo theo học chế

niên chế, SV sinh hoạt cùng nhau theo lớp niên chế, thống nhất từ năm thứ nhất cho

đến năm thứ tư, từ năm 2013, trường chuyển sang đào tạo theo học chế tín chỉ, ngoài

lớp niên chế, SV còn có cơ hội gặp gỡ, giao tiếp với SV các ngành học khác trong các

lớp học phần. Sau năm 2016 khi SV được đăng kí tín chỉ, chủ động thiết kế lộ trình

học tập phù hợp với cá nhân, đặc biệt với những học phần thuộc khối kiến thức đại

cương, SV các ngành được học lẫn cùng nhau vì vậy SV có thêm nhiều cơ hội mở

rộng phạm vi tương tác, giao lưu, kết nối.

Ngoài tích lũy kiến thức, khi học tập tại trường, SV có nhiều cơ hội được tiếp

xúc với thực tiễn nghề nghiệp, đặc biệt qua một số học phần như Khảo sát thực tế,

Kiến tập ngành nghề, Thực tập tốt nghiệp hay đi khảo sát trong một số học phần chuyên

ngành. Nhiều SV cũng chủ động tích lũy kinh nghiệm nghề nghiệp bằng việc đăng kí

làm tình nguyện viên, cộng tác viên, làm các công việc bán thời gian cho các tổ chức,

doanh nghiệp liên quan đến ngành đào tạo. Ngoài việc một số SV có sự hỗ trợ, định

hướng nghề nghiệp từ phía gia đình, phần lớn còn lại đều có khả năng độc lập tìm

kiếm cơ hội nghề nghiệp phù hợp với năng lực của cá nhân.

Quan niệm về nghề nghiệp của SV ĐHNV hiện nay cũng có những thay đổi

nhất định. Ngoài những định hướng mang tính “truyền thống” từ cha mẹ và các thế hệ

đi trước với những nghề nghiệp đã được định hình rõ trong xã hội (như học Quản lý

văn hóa thì tốt nghiệp ra trường sẽ tìm cơ hội để trở thành công chức văn hóa cấp xã

tại địa phương, chuyên viên trong các phòng Văn hóa, các trung tâm văn hóa, các tổ

chức văn hóa nghệ thuật; học Quản trị nhân lực thì sẽ làm ở phòng tổ chức cán bộ hay

phụ trách nhân sự trong một cơ quan, doanh nghiệp nhà nước hoặc tư nhân…) thì

nhiều SV bắt đầu cập nhật và theo đuổi những lý tưởng nghề nghiệp mới. Trong những

năm qua, từ khóa “freelance” được tìm kiếm và quan tâm nhiều hơn, nhất là trên các

trang web lớn về tuyển dụng như TopCV, Vietnamworks, Careerbuilder, Timviec365,

Ybox.vn, 123Job, Timviecnhanh... Giới trẻ hứng thú khám phá những cơ hội nghề

46

nghiệp mới với những công việc chủ động, linh hoạt về thời gian thay vì bó buộc theo

giờ hành chính “nine to five” (từ 9 giờ sáng đến 5 giờ chiều), thích được “đi đây đi

đó”, thích thay đổi. Nhiều SV ngành Văn hóa truyền thông thể hiện sự quan tâm đến

các công việc như content marketing, thiết kế đồ họa, graphic designer, tiktoker, biên

tập viên tự do… SV ngành Văn hóa du lịch quan tâm nhiều đến nghề tổ chức sự kiện,

hướng dẫn viên du lịch, tourist blogger… SV ngành Quản lý văn hóa thích được trở

thành nhân viên tổ chức sự kiện, nhà báo phụ trách mảng văn hóa, nhân viên phụ trách

mảng văn hóa trong các tổ chức phi chính phủ hay các tổ chức văn hóa nghệ thuật

ngoài nhà nước… SV mong muốn làm những công việc có xu hướng tự do, sáng tạo,

phù hợp với xu thế, có mức lương khởi điểm cao hơn nhiều so với khi làm trong các

cơ quan nhà nước. Ngoài việc tiêu dùng văn hóa là phổ biến và thiết yếu đối với tất cả

con người, hướng tới thỏa mãn nhu cầu đời sống tinh thần, xây dựng và hình thành

nhân cách toàn diện thì những định hướng nghề nghiệp cũng có tác động không nhỏ

đến việc tiêu dùng văn hóa. SV có xu hướng quan tâm đến các sản phẩm văn hóa hơn

khi ngành học và công việc tương lai gắn liền với các sản phẩm văn hóa. Ngoài ra, bản

chất của nhiều công việc mới hiện nay đòi hỏi sự sáng tạo, tìm kiếm những nội dung

mới, cách thể hiện mới nên việc cập nhật xu hướng hay những hiện tượng văn hóa mới

luôn được SV quan tâm theo dõi.

Những phân tích ở trên cho thấy đây là nhóm được đặc trưng bởi những đặc

điểm như: năng động, thích khám phá, am hiểu và thành thạo công nghệ, có định hướng

nghề nghiệp. Trong giai đoạn này, ngoài những trải nghiệm trực tiếp mang lại kinh

nghiệm sống, kinh nghiệm nghề nghiệp thì tiêu dùng văn hóa cũng là một “kênh” mở

rộng vốn hiểu biết, kinh nghiệm gián tiếp, trở thành một phần quan trọng trong hành

trang cuộc đời của họ. Hiểu biết, kiến thức, kĩ năng, thái độ trong giai đoạn này là

“chất liệu” quan trọng định hình nên con người họ sau khi đã tốt nghiệp và chính thức

bước chân vào thế giới nghề nghiệp, trở thành những cá nhân trưởng thành, độc lập và

tự chủ.

2.2. Nội dung tiêu dùng văn hóa của sinh viên Trường Đại học Nội vụ Hà Nội

2.2.1. Một số nhận xét chung

Kết quả khảo sát 200 SV của 4 ngành học cho thấy SV có quan tâm đến các sản

phẩm văn hóa ở các mức độ khác nhau, trong đó 44% SV cho rằng mình rất quan tâm

đến các sản phẩm văn hóa, 56% SV thể hiện sự quan tâm ở mức “bình thường”. Theo

47

đó, mức độ quan tâm này cũng có những thay đổi qua các năm học. SV năm thứ nhất

thường trong giai đoạn làm quen với môi trường học tập mới tại trường đại học, môi

trường sống mới nên ngoài việc dành nhiều thời gian tham quan, tìm hiểu các địa điểm,

di tích lịch sử văn hóa tại Hà Nội (đối với SV đến từ các tỉnh thành khác), thiết lập các

mối quan hệ bạn bè mới thì cũng dành nhiều thời gian cho hoạt động giải trí. SV năm

thứ 2, 3 thường có xu hướng thể hiện sự quan tâm đến các sản phẩm văn hóa rõ ràng

hơn. SV đa phần đã quen với cuộc sống ở Hà Nội, biết thêm nhiều thông tin, địa điểm

các sự kiện giải trí, các mối quan hệ bạn bè đa dạng, tham gia vào nhiều nhóm xã hội

hơn. Vì vậy SV năm thứ 2, 3 thường đã định hình sở thích và chủ động lựa chọn tiêu

dùng văn hóa theo “gu” thẩm mỹ cá nhân. SV năm thứ 4, thời gian cho tiêu dùng văn

hóa hạn chế hơn, đặc biệt ở kì cuối của khóa học, SV phải tập trung vào các công việc

học tập như thực tập tốt nghiệp, làm khóa luận tốt nghiệp, ôn và thi chứng chỉ tiếng

Anh làm điều kiện cho tốt nghiệp hay học các học phần thay thế khóa luận tốt nghiệp.

Tuy nhiên, việc lựa chọn tiêu dùng các sản phẩm văn hóa của SV năm thứ 4, theo chia

sẻ từ các thảo luận nhóm thì dù vẫn bị chi phối bởi các xu hướng đang diễn ra nhưng

cũng đã chọn lọc hơn và các quyết định tiêu dùng thường thể hiện khá rõ ràng cá tính,

thị hiếu cá nhân.

90% SV được hỏi đều trả lời có sự liên quan giữa mức độ quan tâm đến các sản

phẩm văn hóa và những yêu cầu của ngành học, 10% còn lại - phần lớn là SV ngành

Quản trị nhân lực - cho rằng ngành học của mình không yêu cầu phải quan tâm nhiều

đến các sản phẩm văn hóa. Các SV đều cho rằng những hiểu biết về văn hóa nghệ

thuật, mở rộng ra là kiến thức về văn hóa xã hội giúp ích nhiều cho SV trong quá trình

học ở trường, như chia sẻ dưới đây:

“Với ngành Quản trị nhân lực, hay kể cả ngành Hệ thống thông tin ở trường, ít

liên quan đến văn hóa thì việc học và tiếp xúc với các sản phẩm văn hóa giúp

em hiểu biết rộng về cuộc sống. Theo em 90% kiến thức văn hóa em sẽ áp dụng

vào các môn học được. Nhờ có kiến thức văn hóa đương đại nên em đi học,

thường xuyên phát biểu về những điều đã biết nên cũng hay có điểm thành phần

cao” (L.V.T, SV năm thứ 2, ngành Quản trị nhân lực).

“Các tác phẩm văn học, các bộ phim hay các bài hát đem đến những cảm xúc,

rung động, sự thấu cảm với con người, nên em nghĩ nó rất quan trọng. Một cách

gián tiếp hay trực tiếp, nó bồi dưỡng trí tuệ thông minh xúc cảm cho con người

48

(EQ). Mà chỉ số này, với ngành Quản trị nhân lực bọn em thì rất cần thiết. Em

nhớ có câu là “nhờ IQ mà người ta tuyển dụng bạn, nhưng nhờ EQ mà người

ta đề bạt bạn” (P.T.A – SV năm 3 – ngành Quản trị nhân lực)

“Trong ngành học văn hóa truyền thông của em, có những môn liên quan đến

văn hóa nên em cần quan tâm cũng như phải có vốn hiểu biết về sản phẩm văn

hóa. Đó là điều có lợi khi học về văn hóa. Không chỉ liên quan đến môn học mà

còn giúp em mở mang kiến thức” (N.V.Q - SV năm thứ 3, ngành Văn hóa truyền

thông).

Thực tế, chương trình đào tạo của các ngành học như Văn hóa du lịch, Văn hóa

truyền thông, Quản lý văn hóa bao gồm một số học phần có liên quan trực tiếp, cung

cấp và trang bị cho SV nhiều kiến thức về nghệ thuật để SV có thể ứng dụng trong

thực tiễn công việc. Nhiều học phần yêu cầu người học cần có vốn hiểu biết về văn

hóa, nghệ thuật để có thể hoàn thành môn học ví dụ như các học phần: Mĩ học đại

cương, Các loại hình nghệ thuật Việt Nam, Dàn dựng các chương trình nghệ thuật,

Các ngành công nghiệp văn hóa, Truyền thông về văn hóa nghệ thuật, Thiết kế sản

phẩm văn hóa truyền thông…

Kết quả khảo sát cho thấy mối liên quan giữa mức sinh hoạt phí, xuất phát điểm

của SV và mức chi cho tiêu dùng văn hóa. Mức sinh hoạt phí hàng tháng của SV, phổ

biến nhất là từ 2-3 triệu đồng/ tháng (chiếm 63% số SV được khảo sát), phần lớn là

SV đến từ khu vực nông thôn và miền núi. Trong khoản kinh phí khiêm tốn và hạn

hẹp này, SV phải cân đối giữa rất nhiều khoản chi cho các nhu cầu căn bản như tiền

thuê nhà trọ (tiền nhà, tiền điện, tiền nước), tiền ăn, tiền sách vở và tài liệu học tập,

tiền cho các nhu cầu sinh hoạt thiết yếu khác… Nhiều SV tìm kiếm công việc làm

thêm để kiếm thêm tiền trang trải hàng ngày như bán hàng theo ca, chạy grab, phục vụ

tại các quán cà phê... Do vậy, khá dễ hiểu khi 38% số SV khi được khảo sát cho rằng

mình không mất phí cho các sản phẩm văn hóa, 45% cho rằng mình chi cho các sản

phẩm văn hóa dưới 500.000 đồng/tháng. Tuy vậy, không có nghĩa là nhóm SV này

hoàn toàn không quan tâm hay không tiêu dùng các sản phẩm văn hóa.

49

Trên 5 triệu 9%

Từ 4-5 triệu 7%

Từ 3-4 triệu 21%

Từ 2-3 triệu 63%

Từ 2-3 triệu

Từ 3-4 triệu

Từ 4-5 triệu

Trên 5 triệu

Mức sinh hoạt phí hàng tháng

Biểu 1: Mức sinh hoạt phí hàng tháng của SV

21% số SV có mức sinh hoạt phí là 3-4 triệu/tháng; từ 4-5 triệu và hơn 5 triệu

/tháng chiếm 16%, tập trung vào các SV đến từ các thành phố hoặc thị trấn. Mức sinh

hoạt phí này cũng tỉ lệ thuận với mức chi cho các sản phẩm văn hóa (12% SV được

khảo sát dành từ 500.000 đồng - 1.000.000 đồng/tháng, 5% dành hơn 1.000.000/tháng

cho các sản phẩm văn hóa). Một số SV có thói quen đến rạp xem phim, mua sách theo

chủ đề mình quan tâm hoặc dành thời gian đến các quán cà phê sách để vừa tận hưởng

không gian vừa được đọc sách, đến các hội quán âm nhạc để nghe ca nhạc vào cuối

tuần. Các SV ở thành phố thường có xu hướng cập nhật với các sản phẩm văn hóa mới

(từ của SV là “bắt trend”), nhiều SV còn hâm mộ thần tượng nên cũng thường chi một

khoản nhỏ cho việc mua vé concert, lightstick, poster, búp bê, gấu bông…và mua các

sản phẩm mà thần tượng là đại diện thương hiệu như giày dép…

50

Trên 1 triệu 5%

Từ 500.000 đến 1 triệu 12%

Không mất phí 38%

Dưới 500.000 45%

Trên 1 triệu

Từ 500.000 đến 1 triệu

Dưới 500.000

Không mất phí

Mức chi cho các sản phẩm văn hóa trong 1 tháng

Biểu 2: Mức chi cho các sản phẩm văn hóa trong 1 tháng

Hạn hẹp về kinh phí cũng dẫn đến mức chi cho tiêu dùng văn hóa bị hạn chế.

Trong nhiều yếu tố cản trở đến việc tiêu dùng văn hóa, chiếm tỉ lệ cao nhất là hai lý

do: giá thành cao của các sản phẩm văn hóa (50%) và kinh phí cá nhân hạn hẹp

(22.5%). Với mức sinh hoạt phí tương đối hạn hẹp, nhất là với những SV đến từ các

vùng nông thôn, chi phí sinh hoạt hàng tháng được gia đình cung cấp là 2-3 triệu

đồng/tháng, cả SV đến từ các khu vực thành thị và nông thôn đều có những “chiến

lược” để vẫn tiếp cận được với các sản phẩm văn hóa. Có thể kể đến cách thức như

xem phim, nghe nhạc trên những nền tảng miễn phí qua điện thoại hoặc máy tính có

kết nối internet thay vì đến rạp, đến các nhà hát, các liveshow… Các trải nghiệm này

dù “không đã vì chất lượng âm thanh, hình ảnh không thực sự tốt, do đường truyền

kém, hay bị “giật”, “lag”” hoặc “hơi phiền toái vì cứ đến đoạn cao trào, hấp dẫn thì

lại có nhiều quảng cáo chen ngang” (N.T.T.H, SV năm thứ 3, ngành Văn hóa du lịch),

nhưng so với việc không phải trả quá nhiều phí thì đây vẫn là một lựa chọn tốt. Với

việc đọc, nhiều SV tìm sách/ báo/ tạp chí từ thư viện hay CLB sách của trường, đọc

trên mạng, mượn của nhau, truyền tay nhau đọc… Trong trường hợp này, SV không

nặng tính “sở hữu” hay mua với mục đích sưu tầm, lưu giữ các sản phẩm văn hóa, một

phần cũng vì hạn hẹp về không gian lưu trữ khi SV phải đi thuê nhà trọ. SV còn truyền

nhau bí kíp để “săn deal 1k” hay “flash voucher” trên các nền tảng mua sắm trực tuyến

như shopee hay lazada vì: “Mua trên đó thì những ngày sale đầu tháng, giữa tháng và

51

cuối tháng người ta sẽ có những mã giảm giá còn 1000 đồng/vé xem phim hoặc mua

sách”, “có cái flash voucher, mình chỉ cần áp cái voucher đó vào là 1k (1000đ) thôi”

(P.H.M - SV năm thứ 4, ngành Văn hóa truyền thông).

Sau thời gian đại dịch, các rạp chiếu phim ngưng trệ hoạt động trong thời gian

dài đã tìm nhiều cách để khởi động lại và thu hút khán giả, trong đó có việc thực hiện

nhiều chính sách khuyến mãi, giảm giá hướng đến đối tượng là người trẻ, học sinh,

SV. Hệ thống rạp CGV tại Hà Nội triển khai nhiều chương trình hấp dẫn “siêu ưu đãi”,

“xem phim không lo chát ví” như đồng giá 1000 đồng/ vé xem phim vào tất cả các thứ

6 khi đặt vé và thanh toán qua VietelPay, áp dụng cho khách hàng liên kết thẻ ngân

hàng vào tài khoản VietelPay. Mỗi tài khoản được mua tối đa 01 vé xem phim với giá

1000 đồng trong thời hạn diễn ra chương trình khuyến mãi. Các quảng cáo này thường

diễn ra trong thời gian ngắn, kèm theo khuyến cáo “chương trình có thể kết thúc sớm

trước dự kiến khi hết số lượng khuyến mại”, do vậy càng thu hút SV quan tâm, theo

dõi để “săn sale”. Các cụm rạp như CGV, BHD cũng thường kết hợp với các ứng

dụng của VinID để đưa ra các voucher “Vé xem phim 0 đồng” áp dụng với các suất

chiếu 2D trong hệ thống các trung tâm thương mại Vincom7. Với các thao tác khá dễ

dàng như tải app về máy điện thoại, xem và lựa chọn ưu đãi phù hợp (về thời gian, địa

điểm) và ấn nút chọn là SV đã có thể có được vé xem phim với giá rẻ. Các ưu đãi cũng

thường có chương trình như “mua 1 tặng 1 voucher” do vậy, SV thường rủ nhau, kết

hợp cùng nhau thành các nhóm nhỏ để có cơ hội trải nghiệm chất lượng dịch vụ tốt

với giá vừa phải, cộng với việc sẽ vui hơn khi cùng đi với nhau thành các nhóm (Xem

thêm phụ lục 2).

2.2.2. Tiêu dùng các sản phẩm điện ảnh

Điện ảnh là loại hình nghệ thuật thu hút được sự quan tâm của nhiều đối tượng

khán giả ở nhiều lứa tuổi khác nhau, trong đó có khán giả trẻ đang là SV các trường

đại học. Việc đến rạp xem phim hay xem qua mạng internet, qua truyền hình, qua các

nền tảng chiếu phim trả phí như Netflix… có thể nói là một phần quan trọng trong đời

sống của SV, nơi người trẻ có thêm được nhiều kinh nghiệm sống cũng như đáp ứng

7 https://vinid.net/tin-khuyen-mai/vinid-tang-ban-ve-xem-phim-cgv-0d/

nhu cầu giải trí, nhu cầu kết nối.

52

Kết quả khảo sát cho thấy đa phần các SV đều quan tâm đến các sản phẩm điện

ảnh, thể hiện ở tần suất xem phim: 80/200 SV lựa chọn thường xuyên xem phim,

105/200 có mức độ tiêu dùng ít hơn, chỉ dừng lại ở mức “thỉnh thoảng”. Sở thích phim

của SV khá đa dạng, tập trung ở các thể loại như phim tâm lý tình cảm (130/200 ý

kiến), phim hài (96/200), phim hành động (93/200), phim kinh dị (57/200), phim cổ

trang (53/200), phim hoạt hình (53/200).

Các bộ phim tâm lý tình cảm về chủ đề gia đình, tình yêu, mối quan hệ cha con,

mẹ con, anh em… được lựa chọn khá nhiều, nhất là các phim truyền hình Hàn Quốc

như phim Hạ cánh nơi anh, Thế giới hôn nhân, Youth of may (Tuổi trẻ của tháng năm),

Nevertheless (Dẫu biết), Điều kì diệu ở phòng giam số 7, True love (Tình yêu đích

thực) … Một số bộ phim Việt Nam được phát sóng trên truyền hình gần đây được

chuyển thể từ kịch bản phim Hàn Quốc cũng được SV quan tâm theo dõi như Hương

vị tình thân, Hướng dương ngược nắng, Thương ngày nắng về, 11 tháng 5 ngày, Lối

về miền hoa… Nhiều SV theo dõi từng tập trên truyền hình, đón đợi lịch chiếu hàng

ngày để tò mò, háo hức, nhưng nhiều SV lại chọn xem lại trên trang

https://www.vtvgiaitri.vn, xem một lúc nhiều tập (các tập đã được chiếu trên truyền

hình). Các bộ phim này có ý nghĩa với các SV vì “Những bộ phim em nghĩ người xem

sẽ phải rơi nước mắt hay đọng lại một điều gì đó cho cuộc sống của mình” (T.T - SV

năm hai - ngành Quản lý văn hóa), “Nhiều bộ phim phản ánh được các vấn đề của

người trẻ chúng em như tình yêu, lập nghiệp, sự lựa chọn, sự vấp ngã, thành công,

thất bại” (V.A - SV năm thứ 3 - ngành Văn hóa truyền thông) hay “Em thấy nhiều

phim Việt Nam gần đây rất gần gũi, phản ánh chân thực cuộc sống của giới trẻ”

(N.V.N – SV năm thứ 4 – ngành Văn hóa du lịch). Với câu chuyện nhẹ nhàng, tươi

sáng, đan xen yếu tố bi – hài, những bộ phim về chủ đề này không chỉ giúp SV giải trí

mà còn lan tỏa đi những thông điệp tích cực cho xã hội, truyền cảm hứng cho giới trẻ.

SV cũng thường lựa chọn đi xem phim tại rạp nhất là các bộ phim hành động,

phim bom tấn của thế giới. Nhiều SV thường xuyên theo dõi và cập nhật chuỗi phim

mang thương hiệu Vũ trụ điện ảnh Marvel gồm Iron man 1, 2, 3 (Người sắt), Thor

(Thần Sấm), The first avenger – Captain America (Kẻ báo thù đầu tiên), Vệ binh dải

ngân hà, Chiến binh báo đen – Wakanda, Batman (2022)… Một số bộ phim Việt Nam

gần đây được quảng cáo rầm rộ như Bố già, Tiệc trăng máu… nhiều SV cũng lựa chọn

đi xem, phần vì tò mò, một phần cũng là vì theo xu hướng - khi bạn bè mình nói nhiều

53

đến bộ phim trong các cuộc trò chuyện. Với nhiều chính sách ưu đãi được các hệ thống

rạp áp dụng dành cho đối tượng là học sinh, SV, do vậy SV có thể dễ dàng tiếp cận

được. Hiện nay vé xem phim tại rạp thường là từ 45.000đ/ vé đến khoảng 100.000đ/

vé tùy vào khung giờ chiếu hoặc loại phim 2D hay 3D. Hầu hết các rạp đều áp dụng

giảm giá cho SV đối với vé 2D và thời gian để hưởng ưu đãi giá vé là trước 17h mỗi

ngày.

Các sản phẩm văn hóa, ngoài chức năng giải trí thì còn có chức năng giáo dục,

chức năng nhận thức, chức năng thẩm mĩ, chức năng giao tiếp… Phim ảnh qua truyền

tải và kể những câu chuyện về đời sống cũng mang trong mình những chức năng đó.

Phim ảnh mang đến cơ hội cho người trẻ trải nghiệm những tình huống, những hoàn

cảnh, những mối quan hệ mà có thể họ chưa từng biết đến, qua đó mở rộng phạm vi

nhận thức về đời sống, giúp người trẻ nhìn nhận cuộc sống trong thế đa dạng, đa chiều.

Ý kiến khảo sát cũng cho thấy, ngoài việc là một hình thức giải trí phổ biến thì SV có

thể học được nhiều điều từ phim ảnh như: trở nên hiểu biết hơn về đời sống (131/200

ý kiến được khảo sát), có nhiều kĩ năng mềm hơn (81/200 ý kiến khảo sát), tự tin hơn

(40/200 ý kiến khảo sát), có thêm nhiều kinh nghiệm từ các nhân vật trong phim

(125/200 ý kiến khảo sát).

140

120

100

80

60

40

20

0

Hiểu biết hơn

Tự tin hơn

Có nhiều kĩ năng mềm hơn

Có thêm nhiều kinh nghiệm

Tác động của phim ảnh tới SV

Biểu 3: Tác động của phim ảnh tới SV

Mỗi nhân vật trong phim như là những “tấm gương” để người trẻ có dịp soi vào,

nhận thấy mình trong đó hoặc rút ra những bài học, những kinh nghiệm. Điều này phù

54

hợp với ý kiến nhiều SV thần tượng các diễn viên điện ảnh trong nước và nước ngoài

(như các diễn viên Lee Min Ho, Ji Chang Wook, Kim Woo Bin, Park Min Young… -

diễn viên Hàn Quốc; Lương Triều Vỹ, Châu Tấn, Châu Tinh Trì, Triệu Lộ Tư… - diễn

viên Trung Quốc; Tom Cruise, Emma Watson, Anne Hathaway… hay các diễn viên

Việt Nam như Việt Anh, Ninh Dương Lan Ngọc… SV mến mộ, thần tượng các diễn

viên điện ảnh vì các lý do khác nhau như: gu thời trang, ngoại hình đẹp, cuốn hút,

phong cách sống, vẻ đẹp trí tuệ, sự nỗ lực vươn lên trong cuộc sống:

“Xinh đẹp sẽ có ưu thế hơn trong cuộc sống, cộng thêm trí tuệ sẽ dễ thành

công hơn” (L.A - SV năm thứ nhất, ngành Văn hóa truyền thông).

“Thành công không đến với bạn nếu bạn không nỗ lực”, “luôn vui vẻ

đón nhận mọi điều dù tốt hay xấu” (Đ.V, SV năm thứ tư, ngành Quản lý văn

hóa).

“Em học được từ thần tượng đó chính là năng lượng tích cực, chân thành,

biết yêu chính bản thân mình, nói lên tiếng nói của mình, học cách trân trọng

những gì mình đang có. Dù họ đã trải qua nhiều khó khăn rồi mới đạt được

thành công, danh tiếng trên toàn thế giới nhưng họ vẫn tiếp tục nỗ lực và không

dừng lại” (T.T, SV năm thứ ba, ngành Quản trị nhân lực).

“Em học được những phẩm chất tốt đẹp từ họ, về cách họ cống hiến cho

nghệ thuật, đặc biệt là cách họ theo đuổi đam mê, cách họ nỗ lực và vượt qua

những khó khăn để đạt được thành quả chính là những bộ phim, sự nổi tiếng,

danh vọng và tiền bạc” (P.T, SV năm thứ ba, ngành Quản trị nhân lực).

Điện ảnh là loại hình nghệ thuật hiện đại có khả năng phản ánh đời sống rộng

lớn cũng như có sức hấp dẫn lớn với SV. Với đặc điểm là dễ tiếp cận, dễ thưởng thức

mà không phải đòi hỏi quá nhiều điều kiện, các bộ phim luôn là một lựa chọn quan

trọng trong việc tiêu dùng văn hóa của SV.

2.2.3. Tiêu dùng các sản phẩm âm nhạc

Âm nhạc hiện diện thường xuyên và là một phần không thể thiếu trong đời sống

giải trí của SV. Âm nhạc sử dụng âm thanh, nhịp điệu để miêu tả, thể hiện tâm trạng,

cảm xúc của con người. Một số nghiên cứu đã nhận ra và đánh giá cao vai trò của âm

nhạc như một công cụ quan trọng để giáo dục thẩm mĩ cho SV. Tác giả Lê Trọng Nin

(2020) chỉ ra rằng âm nhạc giúp nâng cao tình cảm thẩm mỹ, làm phong phú thị hiếu

55

thẩm mỹ, bồi dưỡng lý tưởng thẩm mỹ và hơn hết là kích thích hoạt động sáng tạo

thẩm mỹ, hình thành các quan điểm thẩm mỹ đa dạng trong SV [29].

Ý kiến khảo sát cũng cho thấy thị hiếu của SV đối với các sản phẩm âm nhạc là

khá đa dạng: 101/200 ý kiến thường nghe nhạc pop, 95/200 ý kiến thường nghe K-

pop, 56/200 thích nghe nhạc rap, 45/200 thích nghe nhạc mang âm hưởng dân gian…

K-pop (Korean pop – nhạc pop Hàn Quốc) là một dòng nhạc của Hàn Quốc đang khá

thịnh hành trên thị trường âm nhạc khu vực và thế giới. Các ca khúc, bản “hit” của nền

công nghiệp âm nhạc Hàn Quốc thể hiện sự trẻ trung, năng động với ca từ đơn giản,

dễ nhớ, vũ đạo khỏe khoắn thường khá thu hút SV. Mặc dù phần lớn ca khúc bằng

tiếng Hàn (một số ca khúc có xen lẫn lời tiếng Anh) nhưng SV đều thích thú ở cảm

xúc mà các sản phẩm này mang lại cũng như tạo nên sự giao lưu, kết nối.

Một tỉ lệ nhỏ SV còn quan tâm đến nhạc Trịnh (33/200), nhạc tiền chiến

(16/200), nhạc cách mạng (28/200). Đây phần lớn là các sáng tác từ thế kỉ trước, có

thời gian khá xa so với thế hệ SV hiện nay, do vậy tồn tại một “khoảng cách lớn” trong

việc tiếp nhận những giá trị từ các tác phẩm này. Nếu như trong những sinh hoạt tập

thể của thế hệ 7X, 8X và đầu 9X trước đây thường thấy sự xuất hiện của các ca khúc

cách mạng như Nối vòng tay lớn, Trường Sơn đông Trường Sơn tây… với âm điệu sôi

nổi, hào hùng, lan tỏa tinh thần yêu nước, tuy nhiên hiện nay SV ít nghe lại những ca

khúc cách mạng cũng như ít sử dụng các ca khúc này trong các buổi sinh hoạt tập thể.

Một số ý kiến cho rằng mục đích chính của việc nghe nhạc là để giải tỏa căng thẳng,

trong khi thể loại này không còn phù hợp với bối cảnh cũng như tâm trạng của SV –

những người vốn sinh ra trong thời bình và rất khó để hình dung những gì đã từng xảy

ra trong thời chiến.

Một số lượng nhỏ SV quan tâm đến nhạc indie (nhạc độc lập) với những phong

cách không thể xếp được vào những thể loại hiện có hay âm nhạc giàu tính triết lý

(nhạc của tác giả trẻ Lê Cát Trọng Lý), nhạc mô tả cuộc sống chân thực, giàu tính

chiêm nghiệm như nhạc của Đen Vâu (Đi về nhà, Mang tiền về cho mẹ, Trốn tìm…),

Ngọt (Em dạo này, Không làm gì, Cá hồi…). Các ca khúc này chia sẻ đặc điểm chung

là giàu chất tự sự, ngẫu hứng, cảm xúc chân thật, truyền tải “rất thấm” các thông điệp

xã hội khiến SV tiếp nhận một cách rất tự nhiên và thích thú.

Các sản phẩm âm nhạc mà giới trẻ lựa chọn thường là nhạc pop, Kpop, nhạc rap

vì nhiều lý do khác nhau như phản ánh được suy nghĩ, cảm xúc của giới trẻ (107/200

56

ý kiến), phù hợp với cá tính (111/200), thông điệp xã hội được truyền tải một cách sinh

động (87/200), vũ đạo sôi động (47/200), ca từ dễ nhớ dễ thuộc (97/200). Trước đây,

trên các phương tiện truyền thông từng phản ánh hiện tượng người trẻ có “gu” âm nhạc

“hời hợt”, thiếu chiều sâu, thích những tác phẩm có ca từ dễ dãi trong sự so sánh với

cách thưởng thức âm nhạc của thế hệ đi trước vốn chỉ chú trọng vào vẻ đẹp của ca từ,

giai điệu. Tuy nhiên, thực tế nhiều SV đã bộc lộ cách đánh giá khá rõ ràng về các sản

phẩm âm nhạc. Nhiều ý kiến bày tỏ quan điểm với những sản phẩm âm nhạc mà mình

không thích, không hứng thú vì có nội dung sơ sài, sáo rỗng; ca từ đơn giản lặp đi lặp

lại, không có tính sáng tạo hay cách ăn mặc của nghệ sĩ.

120

100

80

60

40

20

0

Ca từ dễ nhỡ, dễ thuộc

Vũ đạo sôi động

Chủ đề mới lạ

Phù hợp với cá tính

Nghệ sĩ có ngoại hình đẹp

Phản ánh suy nghĩ, cảm xúc của cá nhân

Thông điệp xã hội được truyền tải một cách sinh động

Lý do các sản phẩm âm nhạc cuốn hút SV

Biểu 4: Lý do các sản phẩm âm nhạc cuốn hút SV

SV rất thích nghe nhạc trên nền tảng Spotify, một phần vì đó là kho âm nhạc

khổng lồ nhưng quan trọng hơn là vì nền tảng này đã cá nhân hóa gu âm nhạc của

người nghe thông qua việc tự động phân tích thói quen nghe nhạc của người tiêu dùng.

SV vì thế rất dễ dàng có được danh sách các sản phẩm âm nhạc phù hợp với sở thích,

cảm xúc và tâm lý của mình. Ngoài ra, phần lớn SV nghe nhạc miễn phí trên các trang

web như Nhac.vn, Zing.mp3, Chiasenhac.vn…qua điện thoại di động hoặc máy tính

cá nhân.

Các sản phẩm âm nhạc ảnh hưởng đến SV theo nhiều cách khác nhau: như chi

phối đến gu thời trang, đến lối sống, cách suy nghĩ… Nhiều SV thường có thói quen

nghe nhạc trong lúc học “vì nó giúp em tập trung hơn và không bị xao nhãng bởi những

57

âm thanh xung quanh” (L.T - SV năm thứ nhất - ngành Văn hóa truyền thông) hay

nghe nhạc khi căng thẳng, khi buồn chán và cần có sự chia sẻ.

80

70

60

50

40

30

20

10

0

Trở nên cá tính hơn

Chi phối đến gu thời trang

Chi phối đến lối sông, cách suy nghĩ

Trở nên mộng mơ và lãng mạn

Tác động của sản phẩm âm nhạc tới SV

Biểu 5: Tác động của sản phẩm âm nhạc tới SV

Như vậy có thể thấy, dù đều chia sẻ những đặc điểm chung về độ tuổi, đều thuộc

“giới trẻ” nhưng rõ ràng không thể quy “gu” âm nhạc của SV ĐHNV vào cùng một

nhóm đối tượng với những điểm nhận dạng chung bởi thực tế, mỗi cá nhân sẽ có những

“gu” riêng, phản ánh cái tôi cá nhân cũng như nhu cầu học hỏi, mở mang kiến thức và

tìm hiểu thế giới.

2.2.4. Tiêu dùng các sản phẩm sách, báo, tạp chí

Cùng với văn hóa nghe - nhìn thì văn hóa đọc cũng giữ một vị trí quan trọng

trong đời sống của SV tại các trường đại học nói chung và SV ĐHNV nói riêng. Ngoài

giáo trình, danh mục tài liệu tham khảo liên quan đến nội dung môn học trong CTĐT

mà SV được giới thiệu và yêu cầu đọc để có thể tiếp thu kiến thức, hoàn thành các bài

tập, đáp ứng việc đánh giá môn học thì SV còn quan tâm đến sách, báo, tạp chí, hướng

đến đáp ứng nhu cầu giải trí cũng như có thêm sự hiểu biết về nhiều lĩnh vực trong đời

sống hay đơn giản là để cập nhật tin tức hàng ngày.

Về mức độ tiêu dùng, so với phim ảnh hay âm nhạc, mức độ thường xuyên đọc

sách, báo, tạp chí ít hơn nhiều. 82/200 ý kiến được khảo sát thường xuyên xem phim,

146/200 ý kiến thường xuyên nghe nhạc trong khi chỉ có 40/200 SV lựa chọn thường

xuyên đọc sách, báo, tạp chí, 124/200 chỉ “thỉnh thoảng” đọc sách, báo, tạp chí. Điều

58

này phần nào phản ánh thực tế văn hóa nghe nhìn có vẻ “lấn lướt” hơn, chiếm sự quan

tâm của đại đa số hơn (Đặng Thị Thu Hương, 2016) [19], một mặt bởi nó phù hợp với

nhịp sống nhanh chóng, tiện lợi của con người trong xã hội hiện đại. Nếu như với các

thế hệ SV thuộc lứa tuổi 8X, 9X trở về trước, sách, báo, tạp chí giấy là món ăn tinh

thần chính, không thể thiếu thì thế hệ Gen Z hiện nay có phần ít quan tâm đến các sản

phẩm sách giấy, tạp chí giấy, sách in. Hình ảnh SV chen nhau lên thư viện để đọc tài

liệu cũng như tìm kiếm các đầu sách khác thưa vắng đi rất nhiều. Trước đây sách báo

thường là nguồn cung cấp tri thức chủ yếu thì nay sách in, báo giấy đang phải cạnh

tranh với nhiều phương tiện thông tin đại chúng khác, các loại hình nghệ thuật khác.

SV quan tâm đọc sách thuộc nhiều chủ đề khác nhau, trong đó nhiều nhất là

sách self-help (sách kĩ năng sống) (106/200 ý kiến). Các tựa sách được người trẻ đọc

nhiều có thể kể đến như Đắc nhân tâm, Quẳng gánh lo đi và vui sống, 7 thói quen của

bạn trẻ thành đạt, Tôi tài giỏi bạn cũng thế, Đọc vị bất kì ai, Khéo ăn nói sẽ có được

thiên hạ, Nghĩ giàu làm giàu, Tony buổi sáng, Cuộc sống rất giống cuộc đời, Tuổi trẻ

đáng giá bao nhiêu… Lựa chọn này hoàn toàn phù hợp với kết quả 136/200 ý kiến cho

rằng sách báo, tạp chí giúp cải thiện kĩ năng sống. Rất nhiều SV là “tín đồ” của dòng

sách này, xem đây là “sách gối đầu giường”, là “kim chỉ nam” cho cuộc sống. Sách

self-help hay còn được gọi là sách “tự lực”, được tạo nên từ những câu chuyện, kinh

nghiệm cá nhân của người viết nhằm tạo động lực, truyền cảm hứng cho người đọc,

gợi mở và hướng dẫn người đọc tự giải quyết các vấn đề cá nhân. Nội dung của sách

self-help từng được nhiều nơi quảng cáo là những “cuốn sách làm thay đổi cuộc đời”,

đa phần cũng cấp thêm kĩ năng giải quyết vấn đề, dạy cách ứng xử:

“Sách self-help cho em những bài học rõ ràng, cụ thể về cuộc sống, về

cách đối nhân xử thế. Đây là dòng sách có tính ứng dụng cao. Dòng sách này

cũng truyền cảm hứng, gợi mở và giúp em có động lực để làm những điều em

yêu thích” (P.V.Đ – SV năm thứ ba – ngành Quản trị nhân lực).

“Sách self-help rất đa dạng, về kiếm tiền, kinh tế, về con người, cuộc

sống. Nếu có vấn đề gì trong cuộc sống, sách self-help sẽ có cuốn trả lời ngay

vấn đề của mình” (N.V.T – SV năm thứ ba – ngành Văn hóa truyền thông).

“Em nhìn thấy nhiều vấn đề của mình khi đọc sách self-help. Lắm khi cứ

như tác giả đang viết về tình huống chính em đang gặp phải” (T.H.V – SV năm

thứ tư – ngành Quản lý văn hóa)

59

Tuy nhiên, nhiều SV lại cho rằng dòng sách này nặng về khẩu hiệu, hô hào, tuyên ngôn

“đao to búa lớn” như thay đổi thế giới nhưng cách để làm nó thì lại không rõ ràng hoặc

chỉ khiến con người ta ảo tưởng, nằm nhà mơ mộng mình trở thành Bill Gates hay

Warren Buffett một ngày nào đó. Một số SV bày tỏ sự “vỡ mộng” khi áp dụng những

gợi ý trong các cuốn sách đó vào thực tế nhưng không đem lại kết quả như mong đợi

và cho rằng “nó chỉ đúng ở trên sách, không đúng với đời thực” (T.N.M – SV năm

thứ tư, ngành Quản lý văn hóa).

Để giải trí, thể loại truyện, tiểu thuyết cũng được SV lựa chọn nhiều (96/200 ý

kiến), truyện ngôn tình (34/200 ý kiến được khảo sát). Phần lớn SV chọn đọc tiểu

thuyết ngôn tình thường là giới nữ. Một số tựa sách được SV chọn đọc nhiều có thể kể

đến như Nhà giả kim, Cây cam ngọt của tôi, Giết con chim nhại… Một số nam SV bày

tỏ thích đọc thể loại truyện trinh thám, li kì, rùng rợn với những tình tiết bí ẩn, ma

quái. Ngoài ra, SV cũng quan tâm đến sách khoa học, sách lịch sử…

Việc lựa chọn sách nào để đọc cũng thường bị chi phối bởi quảng cáo hoặc độ

“hot” của sách như chia sẻ của T.A, SV năm thứ nhất, ngành Quản lý văn hóa:

“Đôi khi em cũng bị tò mò, không hiểu quyển đó có gì mà người ta mua

rầm rầm, không mua thì hết, chờ tái bản thì mất độ “hot” nên em cũng tìm mua

luôn”.

120

100

80

60

40

20

0

Sách khoa học

Truyện, tiểu thuyết

Truyện ngôn tình

Sách kĩ năng sống (selfhelp)

Loại sách SV thường đọc

Biểu 6: Các loại sách SV thường đọc

60

Riêng với báo, tạp chí, nếu như SV của hai thập kỉ trước thường thích đọc và

đặt mua Sinh viên Việt Nam (tờ báo của Hội Sinh viên Việt Nam) hay một số tờ báo

về làm đẹp, đời sống gia đình như Phụ nữ, Hạnh phúc gia đình… thì nay đa số SV

chọn đọc các báo điện tử, tạp chí điện tử qua internet, vừa không mất chi phí để mua,

vừa tiện lợi, đọc được ở mọi lúc mọi nơi. Có 153/200 ý kiến được khảo sát cho rằng

thường xuyên tiếp cận với báo, tạp chí qua điện thoại, ipad, máy tính cá nhân. Các

trang báo điện tử mà SV ĐHNV thường tìm đọc bao gồm: Sinh viên Việt Nam8,

Ybox.vn – kênh thông tin giành cho sinh viên và giới trẻ Việt Nam9, trang thông tin

điện tử Kenh14 - nơi cập nhật nhiều tin tức mới mẻ, đa dạng trên nhiều lĩnh vực của

đời sống như giải trí, pháp luật, văn hóa, thể thao…10; trang Zingnew mang đến nguồn

tri thức trực tuyến đa dạng11; Yan.vn chia sẻ nhiều tin tức về những người nổi tiếng,

tin tức về showbiz, cung cấp nhiều mẹo hay cho các bạn trẻ12, kênh ngoisao.net 13 cập

nhật tin tức về các ngôi sao trong làng giải trí… Đối với nhiều SV nữ được hỏi thì chủ

đề quan tâm tìm kiếm thường là về đời sống giải trí, thế giới người nổi tiếng, làm đẹp,

tình yêu, hôn nhân… SV nam thường quan tâm đến tin tức thể thao, đời sống giải trí,

các trò chơi điện tử mới ra mắt… Nhiều SV thường dõi theo cuộc sống của người nổi

tiếng hoặc thần tượng mà mình hâm mộ. Đa phần SV thích đọc sách nhanh, mỏng và

đọc lướt, thích xem báo điện tử có nhiều hình ảnh. Khi đọc, SV có xu hướng đọc trên

mạng internet, trên điện thoại di động, việc đọc sách in, sách giấy ngày càng giảm.

Như vậy văn hóa đọc của SV rõ ràng cũng chịu tác động từ các phương tiện nghe nhìn

8 https://svvn.tienphong.vn/ 9 https://ybox.vn/ 10 https://kenh14.vn/ 11 https://zingnews.vn/ 12 https://www.yan.vn/ 13 Ngoisao.net

như báo điện tử, sách điện tử, báo mạng…

61

160

140

120

100

80

60

40

20

0

Trở nên tự tin hơn Cải thiện kĩ năng

Hiểu biết hơn Khoan dung và tôn

Các tác động khác

sống

trọng người khác

Sách báo tác động đến SV

Biểu 7: Sách báo tác động đến SV

Việc đọc sách /báo/ tạp chí mang đến nhiều ý nghĩa khác nhau trong đời sống

của SV. Phần lớn SV đều cho rằng tiêu dùng các loại sản phẩm này giúp mình cải thiện

kĩ năng sống (136 ý kiến), trở nên hiểu biết hơn (143 ý kiến), trở nên tự tin hơn (61 ý

kiến), tôn trọng và khoan dung với những người khác mình (62 ý kiến). Và như vậy,

mặc dù văn hóa đọc đang bị lấn lướt bởi văn hóa nghe nhìn nhưng ý nghĩa, giá trị của

sách/ báo/ tạp chí rõ ràng vẫn tác động đến SV theo nhiều cách khác nhau. Sách vở

vẫn là kho kinh nghiệm gián tiếp vô cùng phong phú bổ khuyết cho những hạn hẹp

của kinh nghiệm trực tiếp mà SV khi còn ngồi trên ghế giảng đường chưa có nhiều cơ

hội để tích lũy. Điều này cũng cho thấy sự chủ động của SV trong hành trình học tập

và trưởng thành tại trường đại học.

2.2.5. Tiêu dùng các sản phẩm trò chơi điện tử

Đã từng có nhiều nghiên cứu, các bài viết trên báo chí phản ánh hiện tượng SV

nói riêng và giới trẻ nói chung ham mê chơi trò chơi điện tử (gọi tắt là game). Giới trẻ

ăn - ngủ trong quán game đến kiệt sức14, “nghiện game”15, ảnh hưởng của game bạo

lực tới hành vi bạo lực, gây hấn của thanh thiếu niên (Nguyễn Thị Mỹ Lộc, 2016) [26],

“ma lực” của game khiến người trẻ đắm chìm trong thế giới ảo, tác động tiêu cực đến

14 https://baophapluat.vn/dot-doi-vao-nhung-dem-thau-quan-net-post300326.html 15 https://vov.vn/xa-hoi/tre-nghien-game-online-va-nhung-hau-qua-khon-luong-900953.vov 16 https://dantri.com.vn/nhip-song-tre/nhieu-ban-tre-do-dan-vi-nghien-game-lam-sao-thoat-khoi-sa- lay-20211031073613711.htm

sự phát triển thể chất cũng như tinh thần16. Phần lớn các diễn ngôn trên báo chí đều

62

tập trung vào những mặt tiêu cực của game, mang tính “cảnh tỉnh” để SV tránh xa, dè

chừng với game vì đó có thể là mối hiểm họa lớn với tương lai. Tuy nhiên, ở một chiều

cạnh khác, trò chơi điện tử cũng mang đến nhiều ý nghĩa đối với người chơi, người

thiết kế game, có tác động quan trọng đến nền kinh tế của nhiều quốc gia. Thực tiễn

tại Hàn Quốc cho thấy, game là một phần quan trọng trong các ngành công nghiệp văn

hóa của đất nước này, đóng góp lớn cho nền kinh tế. Đóng góp cho GDP từ ngành này

thậm chí còn vượt qua cả Kpop – vốn được tin rằng là nguồn doanh thu khủng cho

kinh tế Hàn Quốc (Euny Hong, 2015) [16]. Ở Mĩ, đây cũng được xem là “ngành công

nghiệp tỉ đô”. Trò chơi điện tử cũng là lĩnh vực làm nên tên tuổi của nhiều tài năng

sáng tạo trẻ, nơi thể hiện sự sáng tạo, khám phá, say mê (như Nguyễn Hà Đông ở Việt

Nam với game Flappy bird - một trò chơi có cách chơi đơn giản nhưng có sức mê hoặc

lớn…), nhiều bạn trẻ có thể kiếm tiền từ việc thiết kế game hoặc chơi game. Công

bằng để nhìn nhận thì game - với tính chất là những trò chơi dễ “gây nghiện”, lôi cuốn

người chơi – tác động đến người chơi trên cả hai phương diện tích cực và tiêu cực.

Trò chơi điện tử (electronic game) được hiểu là trò chơi sử dụng thiết bị điện tử

để tạo ra một hệ thống tương tác với người chơi, hướng tới mục đích chính là giải trí.

Trò chơi điện tử bao gồm nhiều loại hình khác nhau, nhưng vì sự phổ biến của trò chơi

video (video games) mà trong nhiều trường hợp người ta còn gọi trò chơi điện tử là

trò chơi video, dù trò chơi video chỉ là một phần nhỏ của trò chơi điện tử. Trong

178/200 ý kiến được khảo sát trả lời có chơi trò chơi điện tử, đa phần là SV nam (145

SV). 102 ý kiến thường chơi các trò chơi điện tử có sự tương tác giữa nhiều người chơi

với nhau thông qua hệ thống máy chủ như Liên quân Mobile, Liên minh huyền thoại…;

54 ý kiến thường chơi trò chơi được tải về qua mạng, không có sự tương tác giữa

những người chơi.

Hình thức game phổ biến nhất được đa phần SV chọn là “Game mobile” – thuật

ngữ chỉ các trò chơi điện tử được người dùng chơi trên các thiết bị di động như điện

thoại thông minh, máy tính bảng. Với ưu điểm là tiện dụng, dễ dàng mang theo, không

yêu cầu nhiều số lượng thiết bị đi kèm, có thể chơi bất kì nơi đâu với chi phí thấp, các

thao tác cài đặt khá dễ dàng. Chính vì những ưu điểm đó, game mobile đang ngày càng

thu hút giới trẻ, trong đó có nhiều người chơi là nữ. Một số trò chơi được SV chọn

chơi nhiều là Liên quân mobile (trò chơi đồng đội, phá hủy nhà chính của đối phương),

Pubg (Player unkhown battle ground) mobile (trò chơi dùng vũ khí nhặt được trên

63

đường để là người sống sót sau cùng), Tốc chiến mobile (trò chơi đồng đội, phá hủy

cứ điểm của đối phương), Area F2 (người chơi nhập vai vào nhiều nhân vật với nhiều

kĩ năng khác nhau), Survival Heroes (người chơi chiến đấu để là người sống sót sau

cùng, việc chiến thắng đối thủ, người chơi có được vũ khí tăng cường sức mạnh và các

vật phẩm)… Đa phần các SV nữ thường chọn các game giải trí nhẹ nhàng như Candy

Crush Saga (trò chơi xếp kẹo vui nhộn, người chơi xếp 3 viên kẹo cùng màu với nhau

thẳng hàng hoặc ngang hàng để triệt tiêu chúng. Người chơi bị giới hạn số lần di

chuyển để hoàn thành cấp độ), Among us tìm cặp hình (người chơi lật mở các cặp hình

giống nhau trong giới hạn thời gian, nếu không tìm đủ các cặp hình trước khi thời gian

kết thúc, trò chơi sẽ kết thúc).

Có nhiều lý do khiến trò chơi điện tử thu hút SV. 92 ý kiến trả cho rằng do thiết

kế sáng tạo, khả năng tương tác cao (75 ý kiến), trực tiếp tham gia như một nhân vật

trong game (68), thu hút sự tưởng tượng (60). Nhiều ý kiến đánh giá cao trò chơi điện

tử, có thể kể đến như:

“Chơi game vui và hay ạ. Người làm ra game cũng phải rất sáng tạo và

tài năng. Em ngưỡng mộ Nguyễn Hà Đông của Flappy bird – game từng làm

điên đảo cả thế giới” (T.Q – SV năm thứ ba – ngành Quản lý văn hóa)

“Chơi game thì phí nửa đời người nhưng không chơi thì phí cả một đời”

(M.Q – SV năm thứ ba – ngành Quản trị nhân lực).

Chơi game cũng làm tăng tính đồng đội, kết nối. Nhiều SV nam, khi chơi trong

thế giới ảo, SV có cơ hội chia sẻ tâm tư, tình cảm của mình với bạn bè, với người chơi

cùng. Việc là “chiến hữu”, “đồng đội”, cùng nhau vượt qua các thử thách trong game

cũng tăng tính kết nối, sự thấu hiểu, gắn bó lẫn nhau.

64

180

160

140

120

100

80

60

40

20

0

Giải trí

Cải thiện trí nhớ

Kết nối với bạn bè

Giảm bớt căng thẳng

Quên đi sự buồn chán

Nâng cao khả năng phản xạ

Có thêm nhiều bạn mới

Trải nghiệm điều mới mẻ

Chơi game tác động tới SV

Biểu 8a: Chơi game tác động tới SV

Các trò chơi video cũng có tác động đến khả năng nhận thức, tăng tính kỉ luật

khi yêu cầu người chơi phải tuân theo các quy tắc nhất định, theo luật chơi cũng như

phải chủ động đưa ra các quyết định để giành chiến thắng. Người chơi cần có kĩ năng

lập chiến lược tốt, dự đoán ý định của đối thủ, phối hợp ăn ý với đồng đội. Do vậy,

trong một chừng mực nào đó có thể nói các trò chơi điện tử cũng làm tăng kĩ năng giải

quyết vấn đề cho người học, rèn luyện sự phản xạ.

100

90

80

70

60

50

40

30

20

10

0

Suy giảm thị lực

Mệt mỏi

Tốn quá nhiều tiền Kết quả học tập sa

sút

Giành quá nhiều thời gian cho game

Chơi game tác động đến SV

Biểu 8b. Chơi game tác động đến SV

Khi được hỏi về việc chơi trò chơi điện tử ảnh hưởng như thế nào đến người

học, các ý kiến lần lượt nêu ra các tác động như suy giảm thị lực (95 ý kiến), mệt mỏi

(55/178), giành quá nhiều thời gian cho game, ảnh hưởng tới các hoạt động sinh hoạt

65

khác (53/178), kết quả học tập sa sút (29/178) và tốn quá nhiều tiền cho game (22/178).

Một số SV có kết quả học tập sa sút đến mức bị cảnh báo học vụ hoặc bị buộc thôi học

cũng chỉ vì quá sa đà vào thế giới của những trò chơi đầy hấp dẫn và cám dỗ đó. Từ

một góc nhìn khác, 57/178 cho rằng việc chơi trò chơi điện tử không quá ảnh hưởng

đến mình theo chiều hướng tiêu cực, ngược lại là một phần trong đời sống giải trí, giúp

giảm bớt sự căng thẳng và kết nối bạn bè.

Lý do trò chơi điện tử hấp dẫn SV

100

90

80

70

60

50

40

30

20

10

0

Thiết kế sáng tạo

Khả năng tương tác cao Trực tiếp tham gia như

Thu hút sự tưởng tượng

một nhân vật trong game

Biểu 9: Lý do trò chơi điện tử hấp dẫn SV

2.3. Các phương thức tiêu dùng văn hóa của sinh viên Trường Đại học Nội vụ Hà

Nội

Phương thức tiêu dùng phổ biến nhất đối với tất cả các sản phẩm văn hóa của

SV ĐHNV là xem, nghe, đọc trực tiếp trên mạng internet qua các phương tiện như

điện thoại thông minh, máy tính xách tay hoặc máy tính cá nhân. 153 ý kiến thường

tiếp cận với sách/ báo/ tạp chí qua điện thoại, ipad, máy tính, 99 ý kiến thường xuyên

đọc sách giấy, 50 ý kiến thường nghe sách nói, 36 ý kiến thường đọc sách điện tử (e-

book). Tương tự như vậy, số lượng lớn SV thường xuyên xem phim tại nhà, qua

internet chiếm số lượng lớn (180 ý kiến) hay nghe nhạc tại nhà qua điện thoại (190 ý

kiến), chơi trò chơi điện tử qua máy tính, điện thoại.

66

Bảng 10: Phương thức tiêu dùng văn hóa của SV

Các thế hệ trước thường đọc sách giấy, đọc báo, tạp chí giấy nhưng nay giới trẻ

có nhiều sự lựa chọn mang tính “hiện đại”, nhanh chóng, thời thượng và “trendy” hơn.

Hình ảnh đọc sách giấy vì vậy cũng đang thưa vắng dần, thay vào đó là đọc sách điện

tử, đọc các tác phẩm văn học mạng, đọc báo mạng, nghe sách nói... tranh thủ trong lúc

di chuyển trên xe bus hay lúc làm việc nhà. Nghe nhạc qua băng đĩa giảm đi rất nhiều,

thay vào đó là nghe qua mạng internet, qua Spotify (trả phí hoặc không trả phí) - với

tính năng cá nhân hóa nhu cầu của khán giả - cho phép lưu lại cũng như gợi ý cho

người dùng những tác phẩm gần gũi với “gu thẩm mĩ”, thị hiếu thẩm mĩ của người

nghe nhất. Hình ảnh SV với đôi tai nghe (có dây/không dây) là hình ảnh thường thấy

khi bắt gặp họ trong khuôn viên trường, trên xe bus, tại điểm chờ xe bus, trên đường

đến trường, trong công viên (khi tập thể dục),... Xem phim theo những cách truyền

thống như đến rạp thường thì sẽ đi cùng với bạn bè hoặc đi cùng bạn trai/bạn gái như

một cách để thay đổi không khí, cập nhật xu thế, còn đa phần các bạn trẻ có thể xem

qua truyền hình như kênh K+ - kênh truyền hình có trả phí hoặc qua các nền tảng như

Netflix.

Đối với SV đến từ các vùng nông thôn, việc cập nhật xu hướng của các em

thường có phần chậm hơn, nhất là trong năm học đầu tiên tại trường. Trong đại dịch

Covid 19, khi SV thay vì đến trường thì phải học online qua phần mềm Trans, bắt đầu

lộ ra những khó khăn trong việc tiếp cận với việc học cũng như với các hình thức giải

trí. Một số SV ở những vùng không có sóng điện thoại, phải ra thị trấn cách nhà cả

chục km để đọc tin tức lớp gửi trên zalo, facebook, và cũng mất thời gian để có thể 67

theo được việc học. Vì vậy, việc tiếp cận với các hình thức giải trí mới là tương đối

khó khăn.

2.4. Tiêu dùng văn hóa, thị hiếu và lối sống

2.4.1. Tiêu dùng văn hóa: phương thức giải trí phổ biến của sinh viên Trường Đại

học Nội vụ Hà Nội

Từ kết quả khảo sát cũng như phỏng vấn sâu và trò chuyện cùng SV, có thể thấy

việc tiêu dùng văn hóa của SV diễn ra khá sôi động, dưới nhiều hình thức với nhiều

loại hình sản phẩm, đáp ứng nhiều nhu cầu khác nhau. Tuy nhiên có thể thấy, tiêu dùng

văn hóa hướng đến đáp ứng nhu cầu giải trí là xu hướng khá phổ biến trong SV ĐHNV.

Phần lớn hoạt động tiêu dùng văn hóa của SV được diễn ra trong thời gian rỗi:

136 ý kiến đối với việc xem phim, nghe nhạc (98 ý kiến), chơi game (101 ý kiến) 148

ý kiến đối với đọc sách/báo/ tạp chí. Hầu hết SV đều xem đây là những cách để giải

trí và cân bằng cuộc sống. Thời gian rỗi của SV thường là sau giờ học và giờ sinh hoạt

tập thể tại trường, sau thời gian đi làm thêm hoặc tham gia các hoạt động xã hội khác.

Một số SV đi xe bus đến trường thì thời gian di chuyển cũng có thể trở thành thời gian

nghe nhạc, nghe sách nói hoặc xem các video ngắn trên điện thoại.

SV thường sử dụng các sản phẩm văn hóa khi:

160

140

Biểu

120

11:

100

Thời

80

gian

60

40

20

0

Chơi trò chơi điện tử

Xem phim

Nghe nhạc

Đọc sách/báo/tạp chí

Khi rảnh rỗi Khi căng thẳng Khi được bạn bè rủ Khi chán nản Bất cứ khi nào có sản phẩm mới

SV

thường sử dụng các sản phẩm văn hóa

Trong số nhiều phương thức giải trí như đã đề cập đến ở chương 1 thì tiêu dùng

văn hóa với việc thưởng thức các loại hình nghệ thuật như đọc sách báo, xem phim,

68

nghe nhạc… là phương thức giải trí phổ biến nhất, được nhiều SV lựa chọn vì phù hợp

với đa số điều kiện, hoàn cảnh của SV. Hình thức giải trí vận động và trải nghiệm như

đi phượt, dancesport, hiphop hay parkour thường chỉ thu hút những nhóm rất nhỏ hoặc

rất ít cá nhân tham gia. SV cũng thi thoảng đi phượt bằng xe máy cùng nhau, theo lớp

hoặc theo nhóm đến các địa điểm gần Hà Nội như Vườn quốc gia Ba Vì, làng cổ

Đường Lâm, Tam Đảo… Việc có những chuyến đi phượt xa hơn là rất ít. Giải trí bằng

các hoạt động tiêu dùng như đi ăn uống, đi mua sắm tại các cửa hàng tiện lợi, trung

tâm thương mại, các cửa hàng thời trang… cũng là một hình thức khá phổ biến, tuy

nhiên đòi hỏi SV phải có khả năng chi trả. Các thực hành giải trí đám đông như câu

lạc bộ hâm mộ thần tượng (fan club) [6] thu hút số ít SV tham gia. Có thể nói tiêu dùng

các sản phẩm văn hóa thông qua truy cập vào mạng xã hội, vào các trang như facebook,

youtube, tiktok là xu hướng khá phổ biến. Đây là hình thức được SV đánh giá là “ngon

- bổ - rẻ và hợp với túi tiền” (P.H.M – SV năm thứ 4, ngành Văn hóa du lịch) vì không

đòi hỏi nhiều kinh phí lại tiện lợi, có thể đáp ứng nhu cầu mọi lúc mọi nơi. Giải trí

online vì thế được xem là một trào lưu mới của SV hiện nay, khác với cách thức giải

trí của các thế hệ trước.

Nhiều thế hệ SV trước đây do hạn chế về nguồn lực nên việc tiêu dùng văn hóa

thường mang tính tập thể, hội nhóm: cùng đi xem các buổi hội diễn văn nghệ, cùng

xem phim tại hội trường của kí túc xá, cùng đọc và truyền tay nhau một cuốn sách…

thì SV hiện nay tiêu dùng văn hóa theo hướng cá nhân hóa. Hầu như mỗi SV đều sở

hữu điện thoại thông minh nên có thể tùy ý xem/đọc/nghe theo sở thích riêng, vì thế

một hình ảnh vẫn thường thấy khi các nhóm SV ngồi cùng nhau ở quán nước, quán

café hay ở các không gian công cộng là mỗi người sẽ chăm chú vào màn hình điện

thoại của mình. Thay vì tương tác với nhau trong đời thực thì các mối quan hệ bạn bè

cũng dần được chuyển sang thế giới “ảo”, nhất là trong thời kì đại dịch Covid 19 khi

mà các tiếp xúc vật lý, trực tiếp bị hạn chế. Các nhà sản xuất âm nhạc, trò chơi điện

tử, các nhà xuất bản… cũng nhanh chóng đón đầu xu hướng, mở rộng thị trường sang

môi trường số và mang lại doanh thu tăng gấp nhiều lần. Không gian ảo đang dần trở

thành một phần không thể thiếu trong những trải nghiệm hàng ngày của SV, nơi họ

được tự do thiết lập danh tính mới, tương tác cùng bạn bè và khám phá kho sản phẩm

văn hóa vô cùng vô tận. Các tương tác và trải nghiệm vật lý dần dần ít đi, SV ít đi nghe

nhạc tại các quán café âm nhạc, các liveshow, các sự kiện âm nhạc, ít dần việc ra rạp

69

xem phim, ít đọc sách báo giấy. Thế giới ảo và các hình thức giải trí trên không gian

mạng đang ngày càng định hình lại thói quen, tính cách của SV. Điều này cũng đem

đến những chia rẽ lớn trong xã hội, tạo ra sự xa cách về mặt thể chất, các kết nối cũng

trở nên lỏng lẻo, rời rạc và kéo theo nhiều hệ lụy như đã được đề cập tới trên diễn ngôn

báo chí: trầm cảm, lo lắng, hoang mang trong người trẻ.

2.4.2. Xu hướng tiêu dùng số và sự hình thành thế hệ tiêu dùng mới

Trong những năm qua số lượng SV tiêu dùng các sản phẩm online gia tăng

nhanh chóng. Xu hướng này ngày càng trở nên nổi trội, lấn lướt các xu hướng tiêu

dùng khác do sự phát triển của internet và mạng xã hội. Tiêu dùng số là thuật ngữ để

chỉ việc mua sản phẩm hoặc các dịch vụ trên mạng và khả năng sẵn sàng khám phá

trên thiết bị số của người tiêu dùng. Trong báo cáo được thực hiện bởi Facebook và

Bain & Company năm 2020, nhiều thông tin chi tiết về xu hướng tiêu dùng mới ở khu

vực Đông Nam Á đã được đưa ra. Báo cáo đã chỉ ra mức chi tiêu online đang có xu

hướng tăng mạnh (dự tính vào năm 2025, mức chi tiêu của người tiêu dùng số sẽ cao

hơn trung bình 3.5 lần so với năm 2018), người tiêu dùng tìm hiểu nhiều hơn về các

nền tảng thương mại điện tử, các kênh online – nơi diễn ra các hoạt động tương tác có

chủ ý, những nền tảng mọi người sử dụng để tìm thông tin về các mặt hàng hoặc các

dịch vụ trên mạng. Nhiều doanh nghiệp hiện cũng xem nền tảng online như là kênh

chính để đảm bảo tương lai [50]. Tiêu dùng số diễn ra trên nhiều lĩnh vực khác nhau

của đời sống: tương tác, mua sắm thực phẩm, hàng hóa thông thường, giải trí thông

qua các video có thời lượng trung bình và ngắn, xem/nghe/đọc các sản phẩm văn hóa

nghệ thuật… Với SV ĐHNV, xu hướng tiêu dùng số cũng được thể hiện khá rõ nét.

Khi tiêu dùng các sản phẩm âm nhạc, SV đa phần có xu hướng nghe nhạc trực

tuyến (streaming music) do tính năng phong phú và sự tiện ích của kho nhạc trực tuyến

của các nhà cung cấp lớn, định vị được tên tuổi và uy tín như Spotify, Apple Music

hay một số các website nghe nhạc khác. Các thiết bị nghe nhạc từng thịnh hành trong

nhiều năm trước như cassette, radio, máy nghe nhạc Ipod, đĩa CD đã gần như không

còn hiện diện trong đời sống của SV. Máy nghe nhạc Mp3 nhỏ gọn trong lòng bàn tay

có thể lưu trữ hàng nghìn bài hát, trước đây từng được ví như một sản phẩm làm nên

cuộc cách mạng trong nghe nhạc thì nay cũng bị thay thế bởi kho nhạc khổng lồ của

streaming music. SV có thể đưa ra lệnh tìm kiếm, chỉ trong vài giây sau, danh sách sản

phẩm mà SV muốn nghe đã có thể hiện diện và sẵn sàng cho việc thưởng thức. Chất

70

lượng âm thanh khá tốt, chi phí rẻ là những điểm cộng để SV cân nhắc lựa chọn nghe

nhạc theo cách này. Với SV – những thính giả hiện đại, trẻ trung, năng động, thích đổi

mới, liên tục cập nhật và am tường công nghệ thì xu hướng này khá phù hợp và lôi

cuốn. Hơn nữa, chính những cập nhật nhanh nhạy về công nghệ của các nền tảng cung

cấp cũng là yếu tố thu hút, lôi cuốn SV chinh phục và khám phá.

Với các sản phẩm điện ảnh, dù những trải nghiệm khi xem phim ở rạp là hoàn

toàn khác biệt, chất lượng và sống động hơn nhưng SV cũng chỉ thường chọn xem tại

rạp khi đi cùng với bạn bè để duy trì và kết nối các mối quan hệ tình bạn, tình yêu,

hoặc khi có các bộ phim “bom tấn” được quảng cáo rầm rộ. Còn đa số SV chọn xem

phim qua mạng, sử dụng máy tính hoặc điện thoại thông minh. Nhiều SV thuê trọ,

không có tivi nhưng đều có thể xem lại các bộ phim trên truyền hình qua kênh

https://www.vtvgiaitri.vn/ hơn nữa, có thể xem lại nhiều tập một lúc chứ không chỉ là

theo dõi từng tập qua từng ngày trên truyền hình (SV vẫn thường gọi vui là “cày

phim”).

Ngoài ra, từ các cuộc thảo luận nhóm và phỏng vấn sâu cũng cho thấy, hiện SV

rất thích và thường xuyên xem các video tiktok - là một ứng dụng video âm nhạc trên

mạng xã hội được ra mắt năm 2017. Đặc trưng là các đoạn video nhỏ ngắn, dễ dàng

để xem. Nhiều ý kiến khi được phỏng vấn cũng trả lời mình giành nhiều thời gian cho

các video tiktok này, nhiều SV giành hơn 1 tiếng/1 ngày để xem. Nội dung của các

video này đề cập về nhiều lĩnh vực, vấn đề của đời sống, có thể kể đến như: video chia

sẻ đời sống thường ngày của các ngôi sao, người nổi tiếng; video về âm nhạc, điện

ảnh; các review về địa điểm ăn uống, du lịch, các sản phẩm thời trang; video cung cấp

kiến thức thông dụng hàng ngày về nhiều lĩnh vực… Việc sử dụng một cách đơn giản,

mở ra thế giới rộng lớn cho những trải nghiệm giải trí là những ưu điểm nổi trội của

ứng dụng này. Tuy nhiên, nhiều nội dung nhạy cảm, bạo lực cũng thường xuyên xuất

hiện, tính “gây nghiện” là những tác động tiêu cực đang ảnh hưởng đến đời sống hàng

ngày của SV.

Tiêu dùng các sản phẩm văn hóa theo hình thức mới mẻ này cũng phần nào cho

thấy sự “thay đổi về tư duy, tâm lý và triết lý tiêu dùng” (Lê Thị Trang, 2020) [39],

thể hiện tâm lí thích sự tiện lợi, nhanh gọn, hiện đại. Trước đây, nhiều thế hệ SV thích

đọc những bộ tiểu thuyết dày và dài cả nghìn trang không chán như Cuốn theo chiều

gió, Tiếng chim hót trong bụi mận gai, Hồng Lâu Mộng… hay vừa đọc vừa ngẫm nghĩ

71

cùng những tập truyện ngắn của Sêkhốp, O’Henri… thì nay SV có thói quen đọc lướt,

đọc nhanh để lấy thông tin, thích đọc các bài báo ngắn, có nhiều tranh ảnh minh họa,

xem các video có thời lượng trung bình và ngắn. SV thích những sản phẩm giàu tính

giải trí, hài hước, dễ đọc, dễ xem, dễ cười hơn là giành nhiều thời gian để chiêm

nghiệm, suy nghĩ.

Tiêu dùng số rõ ràng đang là một xu hướng phổ biến trong giới trẻ nói chung và

SV ĐHNV nói riêng. Có nhiều điều kiện thuận lợi để thúc đẩy xu hướng này, trong đó

phải kể đến các nhân tố sau:

Từ phía SV, họ đều là những người trẻ, nhanh nhạy, am hiểu công nghệ, thích

tìm hiểu cái mới. Việc tiêu dùng văn hóa online về cơ bản rất phù hợp với sở thích

dùng mạng xã hội của người trẻ. Thế hệ này cũng dựa vào sự hiểu biết công nghệ và

mạng xã hội để đưa ra các quyết định tiêu dùng. SV thường khám phá, đánh giá một

loạt các lựa chọn trước khi quyết định mua một sản phẩm. Nhiều khi quyết định tiêu

dùng của SV cũng bị chi phối bởi thần tượng hay người nổi tiếng.

SV đều sở hữu điện thoại thông minh, máy tính xách tay, kết nối wifi, vì thế

việc truy cập vào các trang web xem phim, nghe nhạc là rất dễ dàng. Điện thoại di

động thực sự đã vượt xa so với chức năng ban đầu là chỉ để nghe gọi, liên lạc với nhau,

đang trở thành một thiết bị giải trí đa phương tiện rất tiện dụng và chất lượng. Theo số

liệu của Bộ thông tin truyền thông, số lượng thuê bao di động năm 2021 ước đạt 123,76

triệu, trong đó có 92,88 triệu thuê bao là điện thoại thông minh (smartphone), chiếm

75%17. Điện thoại thông minh trở thành vật bất ly thân với nhiều người trẻ, đặc biệt là

với SV. Có thể nói, toàn bộ thế giới có thể thu gọn trong chiếc điện thoại nằm trong

lòng bàn tay khi mà mọi nhu cầu của SV đều có thể được xử lý bằng điện thoại thông

minh đã được cài đặt các app (gọi đồ ăn/uống qua app, chơi trò chơi điện tử trên điện

thoại, nghe nhạc qua điện thoại, xem tivi, đọc sách, báo qua điện thoại, di chuyển thì

đặt grab qua app trên điện thoại, mua vé xem phim qua điện thoại, săn sale qua điện

thoại, chụp ảnh bằng điện thoại, học qua điện thoại có cài phần mềm của nhà

trường…). Toàn bộ đời sống của người trẻ vì vậy dựa vào thậm chí lệ thuộc vào điện

thoại. Ngay cả khi có cơ hội kết nối trực tiếp như gặp gỡ nhau, hình ảnh thường thấy

https://ictnews.vietnamnet.vn/cuoc-song-so/ca-nuoc-da-co-gan-93-trieu-thue-bao-smartphone-

17 401111.html

là mỗi người sẽ cắm cúi vào một màn hình điện thoại.

72

Sự hỗ trợ của các nhà mạng với các gói ưu đãi giành cho SV cũng là một yếu tố

thuận lợi cho xu hướng tiêu dùng số. Nắm bắt nhu cầu học tập, tra cứu thông tin và

giải trí, các nhà mạng liên tục cung cấp nhiều gói cước hấp dẫn dành cho SV. Nhà

mạng Viettel đưa ra gói cước MIMAXSV Viettel, chỉ với 50.000 đồng cho 1 tháng sử

dụng, 3Gb data 4G tốc độ cao để truy cập internet, khi hết dung lượng tốc độ cao sẽ

chuyển sang sử dụng tốc độ thường; gói cước ST90K Viettel, chỉ với 90.000 đồng/

tháng, mỗi ngày sẽ có 1Gb tốc độ cao. Hay nhà mạng MobiFone cũng đưa ra nhiều

gói cước có tính cạnh tranh và hấp dẫn như gói G90, chỉ với 90.000 đồng/ tháng, người

dùng có 1000 phút gọi nội mạng, 20 phút gọi ngoại mạng, tặng thêm 4Gb data tốc độ

cao, miễn phí 100% data tốc độ cao chơi game như Liên quân Mobile, Pubg Mobile.

Sự hỗ trợ từ các nhà mạng với các gói cước data tiết kiệm, tốc độ cao này, SV có thể

thoải mái truy cập mạng xã hội đồng thời cũng mang đến những trải nghiệm tốt hơn,

tránh được những “giật”, “lag” trong quá trình xem như chia sẻ sau:

“Em thường xuyên xem phim trên mạng, nghe nhạc trên mạng. Các gói

cước này phù hợp với mức chi phí của em, em có thể xem mọi lúc mọi nơi”

(L.V.Q – SV năm thứ tư ngành Quản trị nhân lực).

Hơn nữa, bối cảnh xã hội thời gian đại dịch cũng gián tiếp tác động đến xu

hướng tiêu dùng này. Việc ngắt kết nối trực tiếp giữa con người với các thiết chế văn

hóa và các biện pháp giãn cách xã hội rõ ràng đã tác động đến việc lựa chọn phương

thức tiêu dùng online, vốn đã phát triển khá mạnh trước đó. Các rạp chiếu, trung tâm

văn hóa gần như đóng cửa suốt một thời gian dài. Các buổi biểu diễn liên tục bị hoãn,

hủy. Sự chú ý của SV dịch chuyển từ đời sống thực lên các nền tảng mạng xã hội, tiêu

dùng văn hóa cũng như vậy.

Tiểu kết chương 2

Từ tư liệu của các cuộc phỏng vấn sâu, các buổi trò chuyện, thảo luận nhóm hay

số liệu từ khảo sát trong phạm vi nhỏ, thực trạng tiêu dùng văn hóa của SV ĐHNV đã

được mô tả, phân tích trong phần viết của chương 2. SV ĐHNV chia sẻ nhiều đặc điểm

chung về tâm sinh lý lứa tuổi, xu hướng, sở thích của giới trẻ: năng động, sáng tạo, am

hiểu công nghệ, thích cập nhật và chinh phục cái mới. Trong bối cảnh đào tạo theo học

chế tín chỉ đang được triển khai tại trường, SV có nhiều cơ hội để giao lưu, kết nối và

học hỏi với nhau dù họ học các CTĐT khác nhau, đến từ nhiều vùng miền khác nhau

trong cả nước. Những định hướng về nghề nghiệp gắn với ngành đào tạo của SV, một

73

mặt vẫn theo những truyền thống và lối tư duy bấy lâu, mặt khác nhiều SV đã bắt đầu

nghĩ khác về cơ hội nghề nghiệp theo hướng thích các công việc tự do (freelance) hay

theo đuổi các nghề nghiệp mới nổi lên trong xã hội những năm qua. Những đặc điểm

tâm sinh lý hay những định hướng nghề nghiệp này có nhiều ảnh hưởng tới tiêu dùng

văn hóa của SV.

SV ĐHNV quan tâm và tiêu dùng các sản phẩm văn hóa ở nhiều loại hình khác

nhau như phim ảnh, sách báo, âm nhạc, trò chơi điện tử… Trong mỗi loại hình cũng

bộc lộ thị hiếu khá đa dạng, phù hợp với điều kiện hoàn cảnh, sở thích, cá tính của

từng cá nhân. Có thể thấy, SV đều là những người tiêu dùng văn hóa khá chủ động,

độc lập khi họ tự tìm kiếm, chọn lựa, quyết định và thưởng thức các sản phẩm văn hóa

mà họ cho là hay, hấp dẫn và có ý nghĩa với đời sống của mình. Dù còn hạn hẹp về

chi phí giành cho tiêu dùng văn hóa nhưng SV cũng khá nhanh nhạy tìm kiếm những

“chiến lược” để vừa phù hợp với túi tiền vừa đáp ứng được nhu cầu giải trí, kết nối

bạn bè. Tiêu dùng văn hóa vừa là một phương thức giải trí phổ biến nhưng cũng đồng

thời tác động đến đời sống SV theo nhiều cách khác nhau.

Được sinh ra và lớn lên trọn vẹn trong thời kì phát triển mạnh mẽ của internet

và mạng xã hội, SV hiện nay thường được gọi là thế hệ Z đã rất nhanh nhạy nắm bắt

và sử dụng công nghệ vào đời sống đặc biệt trong việc tiêu dùng văn hóa. Xu hướng

giải trí online, việc tiêu dùng số trở nên phổ biến trong đời sống của SV dưới sự tác

động của nhiều yếu tố khả thể tạo điều kiện thuận lợi cho xu hướng này.

74

CHƯƠNG 3

PHÁT TRIỂN TIÊU DÙNG VĂN HÓA CỦA SINH VIÊN

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NỘI VỤ HÀ NỘI VÀ MỘT SỐ HÀM Ý CHO VIỆC DẠY

HỌC

3.1. Phát triển tiêu dùng văn hóa cho sinh viên Trường Đại học Nội vụ Hà Nội

3.1.1. Giáo dục nghệ thuật cho sinh viên

Khi khảo sát SV về điều gì gây khó khăn trong việc tiêu dùng văn hóa, ngoài lý

do liên quan đến chi phí (giá thành của sản phẩm văn hóa quá cao, mức chi tiêu hạn

chế…), chất lượng sản phẩm còn hạn chế, chưa phù hợp với giới trẻ thì một lý do được

nhiều SV đề cập đến là chưa hiểu, chưa thấy được cái hay của tác phẩm (45/200 ý

kiến). Khả năng lĩnh hội, thưởng thức trong trường hợp này chính là một nguyên nhân

quan trọng gây cản trở tiêu dùng các sản phẩm văn hóa của người học.

Mỗi tác phẩm nghệ thuật đều có những cách thức biểu đạt thông qua hệ thống

ngôn ngữ riêng: tác phẩm văn chương kể chuyện bằng ngôn từ, tác phẩm âm nhạc sử

dụng giai điệu, ca từ, tác phẩm hội họa miêu tả đời sống bằng hình khối, đường nét,

màu sắc… Việc thưởng thức nghệ thuật, ngoài những rung cảm tự nhiên của cá nhân

trước tác phẩm thì chiều sâu của việc cảm nhận chủ yếu đến từ mức độ am hiểu về

nghệ thuật. Trong chừng mực nào đó, chính những hiểu biết này quyết định việc “rung

cảm” hay thờ ơ với tác phẩm. Do vậy nếu không được trang bị kiến thức về nghệ thuật,

đặc trưng các loại hình nghệ thuật thì sẽ khó lòng thâm nhập được vào thế giới nghệ

thuật của tác phẩm, khó cảm nhận được cái hay cái đẹp của tác phẩm. Như Marx đã

khẳng định “Nếu anh muốn thưởng thức nghệ thuật, thì trước hết anh phải được giáo

dục về nghệ thuật” [5, tr. 59], vì vậy, để phát triển tiêu dùng văn hóa cho SV điều

trước tiên nên là tăng cường giáo dục nghệ thuật trong trường học.

Nghị quyết Hội nghị lần thứ 9 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI ngày

9/6/2014 về “Xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam, đáp ứng yêu cầu

phát triển bền vững đất nước” đã nhấn mạnh đến việc bảo đảm quyền văn hóa cho

người dân cũng như đề ra yêu cầu về việc nâng cao hiệu quả của việc giáo dục nghệ

thuật “tăng cường giáo dục nghệ thuật, nâng cao năng lực cảm thụ thẩm mĩ cho nhân

dân, đặc biệt là thanh, thiếu niên. Phát huy vai trò của văn học – nghệ thuật trong việc

bồi dưỡng tâm hồn, tình cảm của con người. Bảo đảm quyền hưởng thụ và sáng tạo

75

văn hóa của mỗi người dân và của cộng đồng”. Đây là những định hướng quan trọng

cho sự nghiệp giáo dục thẩm mĩ ở phạm vi chiến lược giáo dục của quốc gia.

Giáo dục nghệ thuật có mục đích nhằm xây dựng, hình thành và phát triển năng

lực nhận thức, thụ cảm và cao nhất là năng lực sáng tạo nghệ thuật. Đây là quá trình

tác động có định hướng, có kế hoạch để thúc đẩy nhu cầu thưởng thức nghệ thuật cũng

như khả năng thụ cảm nghệ thuật. Theo Phạm Bích Huyền, “giáo dục nghệ thuật (arts

education) gồm các hoạt động giáo dục về nghệ thuật và giáo dục thông qua nghệ

thuật. Giáo dục nghệ thuật là hoạt động giáo dục nhằm tạo nên sự hiểu biết, khả năng

thưởng thức, thực hành và sáng tạo một loại hình nghệ thuật cụ thể” [21]. Giáo dục

nghệ thuật có thể được tiến hành bằng nhiều hình thức khác nhau như xây dựng hiểu

biết nền tảng về nghệ thuật trong nhà trường, các lớp học nghệ thuật, tại các trung tâm

văn hóa, các thiết chế văn hóa,... Từ việc có kiến thức, am hiểu, cảm nhận được cái

hay cái đẹp của nghệ thuật, khán giả mới có thể coi nghệ thuật là một nhu cầu thiết

yếu trong đời sống.

Việc giáo dục nghệ thuật trên thực tế đã được thực hiện ở các cấp học dưới trong

các nhà trường (môn Âm nhạc, Mĩ thuật (chương trình tiểu học, trung học cơ sở); môn

Tiếng Việt (ở bậc học tiểu học) và Ngữ văn (ở bậc học trung học cơ sở, trung học phổ

thông). Nhiều gia đình ở các thành phố dần bắt đầu quan tâm và cho con tham gia các

CLB nghệ thuật theo điều kiện, nhu cầu của các cá nhân. Mặc dù, về quan điểm đều

nhấn mạnh lợi ích của giáo dục nghệ thuật và xem đây như là một trong các trụ cột

quan trọng góp phần hình thành nên con người toàn diện (đức - trí - thể - mĩ) nhưng

thực tế nhiều nơi cũng chưa coi trọng đúng mức của các môn học này, hay chỉ xem là

môn phụ18, thiếu nguồn lực và cũng thiếu sự đầu tư cho việc giảng dạy. Nhiều SV bày

tỏ mặc dù tiếp xúc với các tác phẩm văn học trong suốt hơn 12 năm học phổ thông

nhưng phần lớn đều chỉ coi đây là những bài học trong một môn học được xem là quan

trọng ở trường học, gắn liền với các yêu cầu về thi cử nghiêm ngặt để tính điểm, để tốt

nghiệp. Chưa nhiều SV được khơi dậy tình yêu với văn học nghệ thuật từ những tác

phẩm trong trường phổ thông. Hay những kiến thức vốn đã được xem là khá cơ bản,

sơ đẳng về âm nhạc, hội họa trong trường phổ thông nhưng cũng ít được coi trọng,

18 https://giaoduc.net.vn/giao-duc-24h/vi-dau-nen-noi-cac-mon-giao-duc-nghe-thuat-duoc-xem-la- mon-phu-post201728.gd

phần lớn là chỉ để hoàn thành như một môn học có tính điều kiện, chứ ít khi từ những

76

môn học này mà nuôi dưỡng người học có niềm say mê, hứng thú với văn hóa nghệ

thuật.

So với các cấp học dưới, do đặc thù CTĐT bao gồm các học phần hướng đến

việc bảo đảm chuẩn đầu ra về kiến thức, kĩ năng, năng lực tự chủ và trách nhiệm, để

SV ra trường có thể làm được những công việc cụ thể gắn với ngành nghề được đào

tạo, do giới hạn bởi số lượng tín chỉ tích lũy (hiện nay tất cả các CTĐT của nhà trường

đều có khối lượng là 125 tín chỉ) nên việc có mặt/ hiện diện của các học phần về nghệ

thuật phụ thuộc vào từng ngành học cụ thể. Ở ĐHNV, chỉ một số ngành đào tạo có sự

xuất hiện của các học phần liên quan đến nghệ thuật như ngành Văn hóa học (chuyên

ngành Văn hóa du lịch, Văn hóa truyền thông), ngành Quản lý văn hóa, ngành Lưu trữ

học, ngành Thông tin thư viện. Các ngành đào tạo khác như Quản trị nhân lực, Quản

lý nhà nước, Luật, Kinh tế học, Quản trị văn phòng... không có các môn học về nghệ

thuật. Vì vậy, khi xây dựng CTĐT, có thể đưa các học phần hướng đến việc giáo dục

nghệ thuật vào khối kiến thức tự chọn. SV ngoài việc lựa chọn các học phần bổ trợ

theo định hướng nghề nghiệp cũng có thể chọn các học phần thiên về văn hóa nghệ

thuật để cân bằng và đa dạng đời sống tinh thần. Tuy nhiên, khi xây dựng các môn học

tự chọn này để đưa vào trong CTĐT, ngoài kiến thức cơ bản, cũng cần chú ý đến tính

hấp dẫn, cập nhật và ứng dụng, để SV thấy được sự cần thiết của các môn học.

Việc giáo dục nghệ thuật trong trường đại học cũng nên được thực hiện linh

hoạt, đa dạng dưới nhiều hình thức khác nhau như duy trì mô hình hoạt động của các

CLB nghệ thuật (như hiện nay ĐHNV đang có); tổ chức các sự kiện văn hóa nghệ

thuật thường xuyên trong nhà trường, không chỉ phục vụ cho việc chào mừng các sự

kiện quan trọng của nhà trường (ngày Nhà giáo Việt Nam, ngày thành lập trường...),

các ngày lễ lớn (Ngày thành lập Đảng, Đoàn...) mà cần tạo ra những sân chơi nghệ

thuật thường xuyên để nhiều SV có thể tham gia được. Các khoa đào tạo trong trường,

đặc biệt khoa quản lý các môn học về nghệ thuật nên tổ chức thêm các buổi nói chuyện

chuyên đề, tọa đàm về nghệ thuật, mời các diễn giả đến để chia sẻ về nghệ thuật, cung

cấp thêm kiến thức về các loại hình nghệ thuật.

Với tư cách là một người tiêu dùng, SV cũng cần được giáo dục, tuyên truyền

về việc tiêu dùng có trách nhiệm đối với các sản phẩm văn hóa. SV cần hiểu tiêu dùng

các sản phẩm văn hóa có bản quyền là cách để ủng hộ, hỗ trợ sự phát triển của sáng

tạo. Ngược lại, nếu vi phạm những quy định về bản quyền đồng nghĩa với việc hạn

77

chế cơ hội cho nghệ thuật phát triển như phương châm được ghi trên bìa sau mỗi cuốn

sách của Nhà xuất bản Nhã Nam: “mua bán sách giả là giết chết sách thật”. Do vậy,

cần nêu cao tinh thần trách nhiệm cho SV trong tiêu dùng văn hóa như đọc sách có

bản quyền, xem phim, nghe nhạc trên các nền tảng chính thống thay vì các website

lậu...

Tình trạng vi phạm bản quyền ở Việt Nam nói chung và với nhóm SV nói riêng

là khá phổ biến, thậm chí được xem là “căn bệnh kinh niên”. Nhiều SV chia sẻ vẫn

mua sách với giá rẻ hơn nhiều lần so với sách bản quyền, dù biết đó là sách được in

lậu, dù chất lượng in không tốt. Các đầu sách kĩ năng sống như Quẳng gánh lo đi và

vui sống, PS. I love you - Sức mạnh của tình yêu, Đắc nhân tâm… đều là những đầu

sách được bán chạy nhất và đều bị in lậu và với nhiều chiêu trò, thủ đoạn thu hút khách

của các cơ sở in sách lậu (giá sách giả cao hơn sách thật đến 30-40%, sau đó giảm giá

sâu đến 50-60%); hơn nữa hoạt động sản xuất sách lậu lại nhanh chóng và dễ dàng khi

có sự hỗ trợ của công nghệ, chỉ cần thao tác scan, photo mà không phải nộp bất cứ

khoản thuế, phí nào. Trong lĩnh vực điện ảnh, con số thống kê cho thấy ở Việt Nam

có đến 150 triệu lượt xem phim lậu/ tháng trong khi số lượt xem phim có bản quyền

là 5-10 triệu lượt/ tháng. Cũng theo Hiệp hội điện ảnh Mĩ, website xem phim lậu lớn

nhất thế giới với 98 triệu lượt xem/tháng được vận hành tại Việt Nam19. SV khi được

phỏng vấn cũng chia sẻ mình từng “cày phim” trên các website phim lậu như phimmoi,

phimmoizzz, motphim…

Lý do đưa ra cho việc vi phạm này phần nhiều từ lý do kinh tế, do hạn hẹp về

chi phí tiêu dùng nhưng vẫn mong muốn được thưởng thức nghệ thuật, hơn nữa còn

xuất phát từ tâm lí thích dùng “hàng chùa”, “hàng nhái”, “hàng miễn phí” của nhiều

bạn trẻ. Nhiều ý kiến trả lời khi được hỏi đều tỏ thái độ “thông cảm” hoặc thấy việc

đó “cũng là bình thường, vì bọn em là SV, không có nhiều tiền” (P.C, SV năm thứ ba,

ngành Văn hóa truyền thông). SV chưa ý thức rõ ràng được việc tiêu dùng như vậy

ảnh hưởng tiêu cực như thế nào đến quá trình sản xuất sản phẩm văn hóa hay thường

lấy lý do hạn hẹn về kinh phí để biện hộ cho những hành vi tiêu dùng vi phạm bản

quyền. Do vậy, SV cần được giáo dục về việc tiêu dùng có trách nhiệm, tôn trọng

19 https://nhandan.vn/tieu-diem-hangthang/vi-pham-gia-tang-345226

thành quả sáng tạo của người nghệ sĩ, ý thức rõ việc tiêu dùng văn hóa của mình là

78

trực tiếp hoặc gián tiếp thúc đẩy sự phát triển của các ngành công nghiệp văn hóa,

công nghiệp sáng tạo. Rất có thể sau này, không chỉ là chủ thể tiêu dùng, SV còn trở

thành chủ thể sáng tạo, thì những hiểu biết về bản quyền, về tiêu dùng có ý thức sẽ có

ý nghĩa rất lớn.

3.1.2. Hoàn thiện hệ thống cơ sở thiết chế văn hóa trong trường học

Thư viện trường học

Kết quả khảo sát cho thấy vai trò của các thiết chế văn hóa tại trường còn khá

mờ nhạt. Tỉ lệ % SV đọc sách, báo, tạp chí tại thư viện trường là 10% (20/200 ý kiến

khảo sát), tỉ lệ SV nghe nhạc, xem phim tại các CLB nghệ thuật của trường là rất thấp,

gần như không có. Để phát triển việc tiêu dùng văn hóa nhất là với các sản phẩm

sách/báo/tạp chí, cần chú trọng đến vai trò của thư viện.

Thư viện có vai trò đặc biệt quan trọng trong các trường đại học. Ngoài việc là

nơi sinh viên tìm đến để tiếp cận với nguồn tư liệu phục vụ cho các môn học trong

chương trình đào tạo, thư viện còn là nơi cung cấp nhiều sách/báo/tạp chí phục vụ cho

nhu cầu giải trí của SV. Hằng năm thư viện bổ sung nguồn học liệu phục vụ cho nhu

cầu tham khảo tài liệu của SV. Bên cạnh đó, nhiều loại sách khác cũng được bổ sung

như sách về văn hóa, văn học nghệ thuật, đa dạng các loại báo, tạp chí… Trung tâm

Thông tin Thư viện của Trường hàng năm đều tổ chức các sự kiện liên qua đến sách

như: tổ chức triển lãm trưng bày sách hưởng ứng ngày Sách và Bản quyền thế giới

(23/4), ngày Sách Việt Nam (21/4)20: tuyên truyền về vai trò của sách, thúc đẩy việc

đọc, lan tỏa văn hóa đọc tới độc giả trẻ trong trường. Thư viện trường cũng đã có nhiều

nỗ lực để xây dựng không gian đọc cũng như lan tỏa văn hóa đọc: xây dựng thư viện

xanh với không gian rộng rãi, thân thiện, nhiều cây xanh; giới thiệu sách theo chủ để;

giới thiệu thư viện số, thư viện điện tử để hỗ trợ người đọc thuận lợi khi tra cứu, mở

rộng cơ sở dữ liệu trực tuyến, đa dạng các loại sách điện tử, tạp chí điện tử, liên kết

thư viện để chia sẻ tài nguyên số… Tuy nhiên hiện nay, thư viện dường như không

phải là một lựa chọn được ưu tiên đối với SV. Số lượng SV tìm kiếm các sách, báo tạp

chí để phục vụ nhu cầu giải trí dường như là rất ít. Một phần do sự áp đảo của hình

thức giải trí qua điện thoại thông minh, máy tính các nhân – nơi mà SV có thể đọc mọi

20 http://tuoitrenoivu.net/vi/news/hoctap-nchkhoa/sinh-vien-truong-dai-hoc-noi-vu-ha-noi-noi-ve- thoi-quen-doc-sach-331.html

lúc mọi nơi. Mặt khác, cũng do chủ yếu hướng đến phục vụ chuyên ngành nên các đầu

79

sách cập nhật và bổ sung hàng năm của thư viện để phục vụ nhu cầu giải trí là chưa

nhiều, chưa đa dạng. Các đầu sách “hot” trên thị trường hay các tựa sách mà giới trẻ

quan tâm chưa xuất hiện nhiều trên thư viện. Trong khi thị trường sách báo giải trí cho

giới trẻ cập nhật hàng ngày, hàng giờ, số lượng đầu sách được xuất bản liên tục, người

trẻ lại thích theo xu hướng, tính cập nhật. Những sách vở giải trí có trong thư viện đã

ít lại kém hấp dẫn so với thị trường sách bên ngoài. Mặt khác, việc giới thiệu sách mới

cũng chưa được quan tâm, chưa giúp SV nhanh chóng biết được trên thư viện hiện có

hoặc đã cập nhật những đầu sách nào. Để cải thiện điều này, thư viện trường có thể

tận dụng website hoặc tạo dựng facebook riêng để liên tục giới thiệu các đầu sách cập

nhật, giúp cho người học biết được thông tin từ đó có kế hoạch đọc trực tiếp hoặc

mượn về nhà.

Các câu lạc bộ nghệ thuật

Bên cạnh thư viện, vai trò của các Câu lạc bộ (CLB) văn hóa nghệ thuật trong

trường đại học là rất quan trọng đối với đời sống của SV. Hoạt động của các CLB

thường phát huy khả năng sáng tạo của nhiều SV, từ đây bồi dưỡng nên hạt nhân trong

các phong trào văn hóa văn nghệ của trường. Trong những năm qua, với cách tổ chức

hoạt động đa dạng, linh động, các CLB nghệ thuật của trường đã thu hút sự tham gia

của nhiều SV.

CLB nghệ thuật của trường được thành lập vào ngày 18/9/2015, là đơn vị chính

thức và duy nhất của sinh viên Trường ĐHNV về nghệ thuật với mong muốn là nơi

kết nối những bạn trẻ đam mê với nghệ thuật, các loại hình nghệ thuật, là nơi thỏa mãn

đam mê của các cá nhân người trẻ và xa hơn là đẩy mạnh các phong trào văn hóa, văn

nghệ của Đoàn Trường. Hơn nữa, CLB mong muốn đây chính là “một không gian sinh

hoạt ổn định, thường xuyên nhằm đáp ứng các nhu cầu nghệ thuật cho sinh viên”. Sự

ra đời của CLB cho thấy sự quan tâm của lãnh đạo nhà trường nói chung cũng như

Đoàn thanh niên đến đời sống tinh thần cho người học, tạo điều kiện để người trẻ có

cơ hội thể hiện và đóng góp, phát huy tiềm năng, thế mạnh cá nhân của người học.

CLB gồm 5 ban: ban Hát, ban Nhảy, ban Múa, ban Truyền thông và ban Hậu cần. Cho

đến nay, các hoạt động chủ đạo của câu lạc bộ thường là tham gia biểu diễn trong các

chương trình của các Liên chi đoàn, Đoàn trường, Nhà trường, Đoàn Bộ Nội vụ nhân

các ngày lễ lớn hoặc các sự kiện của nhà trường như biểu diễn văn nghệ trong ngày

Khai giảng năm học mới, Lễ kỉ niệm ngày Nhà giáo Việt Nam 20-11, Đại hội Đoàn

80

trường, lễ kỉ niệm ngày 26/3, các chương trình Chào tân sinh viên của các khoa,

chương trình I miss Huha, tham gia trong các sự kiện các chương trình tình nguyện

hay các cuộc thi văn hóa nghệ thuật trong và ngoài trường… (Xem thêm phụ lục 4).

Để chuẩn bị cho các sự kiện, câu lạc bộ thường tụ họp và cùng nhau tập luyện ngoài

giờ tại sân trường. Không khí sôi động của tiếng đàn, lời ca cũng khiến sinh viên trong

trường náo nức đứng vòng trong vòng ngoài để nghe, để xem và tán thưởng. Tuy nhiên

hoạt động của các CLB này không diễn ra thường xuyên và cũng chưa thu hút được

số lượng lớn SV tham gia. Hơn nữa, trong 2-3 năm qua, khi giãn cách xã hội do dịch

bệnh Covid 19, hoạt động của các CLB cũng ngưng trệ.

Ngoài các CLB đang hoạt động hiện nay, Nhà trường, Đoàn trường và các Khoa,

trung tâm cũng có thể xem xét việc mở thêm các CLB trong trường học, có thể trực

thuộc khoa (có chuyên môn gần như mô hình CLB Nhà quản trị nhân lực trực thuộc

Khoa Quản lý nguồn nhân lực) hoặc thuộc Đoàn thanh niên như: Câu lạc bộ Điện ảnh.

Một số trường đại học tại Hà Nội cũng đang xây dựng những câu lạc bộ kiểu như vậy,

một mặt phục vụ trực tiếp cho ngành học cụ thể, mặt khác cũng đáp ứng nhu cầu thụ

hưởng văn hóa của SV trong toàn trường. Như CLB Điện ảnh trực thuộc bộ môn Nghệ

thuật học, khoa Văn học của Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn là một ví

dụ khá tiêu biểu. CLB có mục tiêu đưa nghệ thuật điện ảnh tới gần với khán giả trẻ (là

SV trong trường) có đam mê với điện ảnh, hoặc có mối quan tâm với điện ảnh, có nhu

cầu thưởng thức các tác phẩm điện ảnh. CLB tổ chức nhiều hoạt động khác nhau như

chiếu phim, xem phim và thảo luận. Các phim được chọn chiếu thường được sắp xếp,

kết nối theo chuyên đề, mỗi chuyên đề giới thiệu 3 bộ phim, như chuyên đề điện ảnh

Oscar 2022 Qua những đêm trường (tháng 3/2022), chuyên đề phim gợi nhớ về nhiều

nét văn hóa Nhật Bản như các phim Your name, A letter to Momo (Tháng 1/2022), chủ

đề Coming home – về nhà cùng điện ảnh Việt Nam (tháng 12/2021)... Những phim

được chọn chiếu đều là những bộ phim điện ảnh giàu giá trị nghệ thuật, giá trị nhân

văn. Hơn nữa, sau mỗi buổi chiếu thường có thời gian giành cho phần thảo luận về

phim cùng với khách mời thường là các đạo diễn, các nhà biên kịch hay các thầy cô

giáo trong bộ môn. Cùng với hoạt động chiếu phim thường kì, CLB còn tổ chức nhiều

hoạt động khác như tổ chức các cuộc thi viết về phim, các buổi giao lưu gặp gỡ với

các đạo diễn, các minigame trên fanpage... Trong thời gian giãn cách do đại dịch Covid

19, CLB vẫn tổ chức chiếu phim và thảo luận trên nền tảng trực tuyến và thu hút được

81

sự tham dự của nhiều SV. Hiện nay trang facebook của CLB có đến hơn 9000 lượt

theo dõi21.

Ngoài ra, CLB sách cũng được thành lập vào ngày 5/5/2015 với mong muốn

đem những cuốn sách hay và bổ ích tới các bạn đọc là sinh viên trong trường, lan tỏa

tinh thần yêu sách, cổ vũ cho văn hóa đọc. Trang facebook của CLB thu hút hơn 4.700

lượt thích và gần 5.000 lượt theo dõi22. CLB sách đã có những nỗ lực để duy trì sinh

hoạt thông qua các hoạt động và sự kiện như: giới thiệu sách hay giành cho SV, tổ

chức cuộc thi viết về cuốn sách tôi yêu, chúc mừng sinh nhật các thành viên của CLB,

tổ chức sự kiện sinh nhật CLB sách, đăng tải các sự kiện về sách trên trang facebook…

(Xem thêm phụ lục 3). Tuy nhiên có thể thấy hoạt động của CLB sách còn mang tính

“cầm chừng”, chưa có những định hướng sâu hơn về lộ trình hoạt động cũng như xây

dựng các hoạt động hiệu quả và thiết thực hơn để phát triển văn hóa đọc. Vì vậy, nên

chăng, CLB sách nên được phối hợp cùng với thư viện trường hoặc Đoàn trường để

xây dựng kế hoạch hoạt động dài hơi, đều đặn, hiệu quả và cập nhật hơn với giới trẻ.

Về cách thức hoạt động, các CLB có thể tham khảo thêm cách làm của một số không

gian sáng tạo tại Hà Nội đang thực hiện như mô hình của Tổ chim xanh, Cà phê thứ

bảy, Doclab, Cuca… Dưới dạng thức là một quán cà phê sách, không gian sáng tạo Tổ

chim xanh trong những năm qua đã tạo dựng được những cộng đồng đọc rộng rãi, thúc

đẩy việc đọc, ngẫm nghĩ, thảo luận, hướng đến việc đọc có phản biện. Không gian này

thường xuyên tổ chức các sinh hoạt như: trao đổi sách, giới thiệu sách, cho/tặng sách,

cùng đọc và thảo luận, xây dựng tủ sách theo chuyên đề, trò chuyện và thảo luận về

cách đọc, cách lựa chọn sách, thuyết trình và thảo luận về một chủ đề… Những hoạt

động thường xuyên, hiệu quả và phù hợp với giới trẻ nên đã thu hút nhiều người trẻ

tham dự. Theo kinh nghiệm từ các không gian sáng tạo, CLB Sách của trường có thể

kết hợp với Thư viện trường để tạo ra những sinh hoạt định kì theo tháng, theo chủ đề,

cập nhật, hiện đại, phù hợp với giới trẻ hơn. Mỗi buổi sẽ cùng đọc, cùng chia sẻ suy

nghĩ, cảm xúc của cá nhân với tác phẩm mình đã đọc với những người khác từ đó kết

Xem

thêm

tại

https://www.facebook.com/clbdienanh/?ref=page_internal

hoặc

21 https://clbdienanhnvhn.wixsite.com/blog/s%E1%BB%B1-ki%E1%BB%87n 22 https://www.facebook.com/sachnoivu

nối và hình thành nên cộng đồng cùng chung niềm say mê.

82

Trong việc củng cố và phát triển hoạt động của các CLB, vai trò của Đoàn Thanh

niên, Hội sinh viên nhà trường là rất quan trọng. Các tổ chức này cần có những hỗ trợ

cụ thể để đa dạng hóa các hoạt động, để có thể tập hợp được đông đảo SV tham gia

vào các hoạt động văn hóa nghệ thuật của trường, nhằm xây dựng đời sống văn hóa

phong phú, sôi động cho SV, để nhu cầu tiêu dùng văn hóa trở thành một nhu cầu tự

thân. Nhà trường, đại diện là Đoàn thanh niên nên chăng thường xuyên hoặc định kì

theo năm, theo quý, tổ chức các buổi biểu diễn âm nhạc có chất lượng nghệ thuật để

phục vụ cho SV, để SV có thể tiếp cận với những tác phẩm nghệ thuật có giá trị, những

sản phẩm âm nhạc đặc sắc, khơi dậy những tình cảm trong sáng, lành mạnh cũng như

sức trẻ trong SV. Những sân chơi âm nhạc vừa là tạo không gian giải trí cho SV, vừa

tạo nên bản sắc của trường, gắn kết người học với nhau cũng như gắn kết SV với nhà

trường. Bên cạnh đó nhà trường cũng có thể tổ chức các cuộc thi âm nhạc dành cho

SV, hội diễn văn nghệ cho SV.

Nhà trường cũng cần thường xuyên thông tin, truyền thông về các hoạt động

văn hóa văn nghệ. Website của nhà trường, trang mạng xã hội của trường hiện mới chỉ

cung cấp thông tin về hoạt động học, các hoạt động hành chính trong trường mà chưa

chú ý đăng tải các thông tin về đời sống của SV. Bộ phận biên tập trang tin điện tử,

trang mạng xã hội của trường nên bổ sung thêm mục về đời sống văn hóa, văn nghệ....

Xây dựng chuyên trang chuyên mục về văn hóa, văn nghệ, trong đó tập trung biên tập,

giới thiệu, công bố các tác phẩm âm nhạc, các sản phẩm điện ảnh hay những cuốn sách

giàu giá trị nghệ thuật.

Đặc thù của trường không phải là đào tạo về nghệ thuật mà là đào tạo nguồn

nhân lực cho ngành nội vụ cũng như đáp ứng nhu cầu nhân lực của xã hội tuy nhiên

các hoạt động về văn hóa nghệ thuật này hướng đến xây dựng đời sống văn hóa đa

dạng, sôi nổi cho SV, để người học gắn bó với trường lớp, bạn bè cũng như góp phần

thực hiện mục tiêu đào tạo con người toàn diện “đức - trí - thể - mĩ”.

3.1.3. Bồi dưỡng và nâng cao năng lực số cho sinh viên

Những phân tích ở chương 2 đã cho thấy tiêu dùng số đang trở thành hiện tượng

phổ biến trong đời sống SV nói chung và tiêu dùng văn hóa nói riêng. Được làm quen

với điện thoại, máy tính từ bé, SV hiện nay đều khá am hiểu, sử dụng thành thạo nhiều

thiết bị công nghệ để phục vụ cho các nhu cầu khác nhau của đời sống. Ngoài đời sống

thực thì những tham gia trên không gian mạng, không gian số là một phần, nếu như

83

không nói là phần rất quan trọng trong đời sống của người trẻ, của SV – những người

từ khi sinh ra đã được bao quanh bởi sự phát triển của internet, mạng xã hội, điện thoại

thông minh… Hơn nữa, trong những phân tích ở chương 2, tiêu dùng văn hóa của SV

trong một số trường hợp đang theo chiều hướng vi phạm những quy định về bản quyền

(xem phim trên các trang web phim lậu). Vì vậy, để khai thác hiệu quả và có trách

nhiệm các tài nguyên trên internet, SV cũng cần được giáo dục, đào tạo về năng lực

số.

Năng lực số, theo định nghĩa của UNESCO là khả năng truy cập, quản trị, thấu

hiểu, kết hợp, giao tiếp, đánh giá và sáng tạo thông tin một cách an toàn và phù hợp

thông qua công nghệ số để phục vụ cho thị trường lao động. Khung năng lực số được

xây dựng có sự khác biệt giữa các tổ chức, các quốc gia do xuất phát từ cách tiếp cận

và bối cảnh đặc thù nhưng đều bao gồm các năng lực cần thiết cơ bản. Tại Việt Nam,

một mô hình khung năng lực số cho Việt Nam cũng đã được đề xuất bao gồm 7 nhóm

năng lực chính: 1. Vận hành thiết bị và phần mềm, 2. Năng lực thông tin và dữ liệu, 3.

Giao tiếp và hợp tác trong môi trường số, 4. Sáng tạo nội dung số, 5. An ninh và an

toàn trên không gian mạng, 6. Học tập và phát triển kỹ năng số, 7. Năng lực số liên

quan đến nghề nghiệp (Trần Đức Hòa – Đỗ Văn Hùng, 2021) [15] (Xem thêm phụ lục

1). Năng lực số không chỉ là yếu tố quyết định sự thành công trong nghề nghiệp tương

lai mà còn chi phối cả cách tiêu dùng văn hóa, đáp ứng đời sống tinh thần của người

học. Vì vậy phát triển năng lực số là thực sự cần thiết cho SV để sống, học tập, làm

việc và tham gia giao tiếp xã hội một cách chủ động và an toàn, để có thể thích ứng

với sự phát triển trong bối cảnh mới.

Ý thức được vai trò quan trọng của năng lực số đối với người học, ĐHNV cũng

đã tổ chức sự kiện nói chuyện chuyên đề giới thiệu về năng lực số23 tới SV. Tuy nhiên,

chưa nhiều SV ý thức về tầm quan trọng của năng lực số nên việc tham gia sự kiện

còn hạn chế (phần lớn là SV ngành Khoa học thư viện, chuyên ngành Quản trị thông

tin), xem đây như là vấn đề không thiết thân với mình nên còn khá thờ ơ. Do vậy, nhà

trường có thể xem xét đưa nội dung giáo dục về năng lực số trong các chương trình

Tuần sinh hoạt công dân sinh viên đầu khóa hoặc những Sinh hoạt thường kì hàng năm

thêm

tại http://truongnoivu.edu.vn/tin-tuc/10651/Giai-ma-nang-luc-so-cho-sinh-vien-

23 Xem Truong-Dai-hoc-Noi-vu-Ha-Noi.aspx

cho các khóa học. Đối với sinh viên năm thứ nhất, ngay sau khi nhập học, trong tuần

84

sinh hoạt công dân sinh viên đầu khóa, SV được học tập một số các chuyên đề về tình

hình kinh tế, chính trị xã hội của đất nước, quy định, quy chế đào tạo trong trường,

giới thiệu kĩ năng, phương pháp học đại học, giới thiệu về ngành nghề đào tạo. Bên

cạnh các nội dung này, nên chăng đưa thêm nội dung giáo dục về năng lực số nhằm

giáo dục và hình thành một số kĩ năng như hướng dẫn cài đặt, gỡ bỏ và sử dụng phần

mềm, ứng dụng; sử dụng các công cụ sẵn có để tổ chức tìm thông tin, sử dụng thông

tin phù hợp với đạo đức và pháp luật, thực hành các hành vi chuẩn mực trong môi

trường số, bảo vệ dữ liệu cá nhân, sử dụng công nghệ số trong phát triển ý tưởng…

Việc được trang bị kiến thức, kĩ năng ngay từ đầu khóa học, cũng như được cập nhật

qua các năm học sẽ giúp SV có được năng lực số cần thiết để tham gia tích cực, chủ

động và an toàn trong môi trường số, cũng như có năng lực tự chủ, trách nhiệm với

việc tiêu dùng văn hóa trên internet.

3.2. Tiêu dùng văn hóa và một số hàm ý cho việc dạy học

3.2.1. Quan tâm đến đời sống tinh thần của người học

Chủ thể của quá trình dạy học tại trường đại học là giảng viên (GV) và SV trong

đó GV là người định hướng, dẫn dắt để SV kiến tạo tri thức theo những cách khác

nhau phù hợp với từng cá nhân. Những hiểu biết về đời sống tinh thần, rộng hơn là sự

thấu hiểu người học giúp các hoạt động tương tác trên giảng đường có sự gắn kết,

mang lại sự hứng khởi và những giờ học hiệu quả.

Tại trường đại học, SV không chỉ được học kiến thức, kĩ năng mới gắn với định

hướng nghề nghiệp tương lai, SV còn cần một môi trường để trau dồi, rèn luyện, phát

triển các kĩ năng cần thiết cho mỗi con người như tư duy sáng tạo, tư duy phản biện,

kĩ năng mềm, kĩ năng sống... Thông qua các hoạt động thể dục thể thao, văn hóa văn

nghệ SV có thể cân bằng đời sống, thư giãn và giải trí, khơi lên nhiều ý tưởng sáng

tạo. Trường đại học còn là môi trường giúp SV tự do khám phá, nhận thức, trải nghiệm,

là môi trường giúp SV có đời sống khỏe mạnh cả về vật chất lẫn tinh thần, khuyến

khích sự phát triển toàn diện, từ đó phát huy tối đa thế mạnh của bản thân. Vì vậy GV

cần hiểu về người học của mình trong tính tổng thể chứ không chỉ quan tâm đến

phương diện nhận thức.

Tuy nhiên, lâu nay những gắn kết giữa GV và SV tại trường đại học được cho

là khá rời rạc, khác với mối quan hệ này khi ở trường phổ thông. Lý do là vì thời gian

làm việc giữa GV với SV không nhiều. Ngoài cố vấn học tập là người định hướng, hỗ

85

trợ cho SV trong thời gian 4 năm từ lúc mới vào trường cho tới khi tốt nghiệp thì các

GV khác, tổng thời gian làm việc với các SV có thể chỉ kéo dài trong 1 kì học – 15

tuần (đối với GV dạy SV 2 học phần) hoặc nửa kì học – 7 tuần (nếu GV chỉ giảng dạy

1 học phần), và trong mỗi tuần, thời gian gặp gỡ chỉ là 3-6 giờ tín chỉ. Tuy thời gian

thực tế làm việc giữa GV và SV của từng môn học là không nhiều nhưng để có được

những giờ dạy và học hiệu quả, GV cần hiểu rõ “ đối tác“ của mình trong tính tổng

thể, từ đặc điểm tâm sinh lý, các phương pháp và phong cách học tập đến đời sống

tinh thần của SV. GV vì vậy cần quan tâm nhiều hơn đến đời sống tinh thần của người

học để hiểu được tâm lý, xu hướng, mối quan tâm về các sản phẩm văn hóa của SV.

SV thường dễ có thiện cảm với các thầy cô gần gũi, quan tâm, am hiểu về đời sống

của giới trẻ. Vì vậy, việc thầy cô cũng cập nhật các xu hướng đang thịnh hành, biết và

hiểu về nó cũng sẽ khiến GV có thể dễ dàng biết SV mình đang thích gì, dễ nói chuyện

và tạo tâm lý cởi mở từ đó SV có thể sẵn lòng chia sẻ cùng với GV. Khi đã thiết lập

được sự cởi mở, tin cậy, các giờ học cũng vì thế trở nên hiệu quả hơn khi sự hợp tác

giữa người dạy và người học được kết nối chặt chẽ.

3.2.2. Sử dụng các sản phẩm văn hóa trong dạy học

Việc sử dụng các sản phẩm văn hóa trong dạy học là một trong những cách thức

để giáo dục về nghệ thuật, tạo ra những hiểu biết nền tảng cũng như chuyên sâu từ đó

thúc đẩy nhu cầu tiêu dùng các sản phẩm văn hóa nghệ thuật. Tư duy tích hợp môn

học, giảng dạy liên môn ở các cấp học dưới có thể cho phép thực hiện cách thức này

dễ dàng hơn. Tuy nhiên tại môi trường trường đại học, do mục tiêu đào tạo gắn với

định hướng nghề nghiệp nên nội dung nhiều CTĐT không mấy liên quan đến các sản

phẩm văn hóa, đặc biệt là các khối ngành về kinh tế, quản lý, quản trị, hệ thống thông

tin… do vậy GV và SV thường không có nhiều cơ hội sử dụng các sản phẩm văn hóa

trong quá trình dạy học ở các ngành này.

Trong chương trình đào tạo trình độ đại học ngành Quản lý văn hóa, Văn hóa

du lịch, Văn hóa truyền thông, Thông tin thư viện của ĐHNV có một số học phần cung

cấp, trang bị cho người học kiến thức khái quát về nghệ thuật. Có thể kể đến các môn

học như Mĩ học đại cương có chương giới thiệu về nghệ thuật (khái niệm nghệ thuật,

đặc trưng của nghệ thuật, chức năng xã hội của nghệ thuật, giới thiệu một số loại hình

nghệ thuật như âm nhạc, điện ảnh, kiến trúc, điêu khắc, hội họa, âm nhạc); môn học

Văn hóa đại chúng giới thiệu về văn học đại chúng, âm nhạc đại chúng, điện ảnh đại

86

chúng; Các loại hình nghệ thuật Việt Nam cũng trang bị kiến thức về nghệ thuật và

đặc trưng của một số loại hình nghệ thuật như âm nhạc, hội họa, văn học... Học phần

Tổ chức sự kiện tuy không dạy về nghệ thuật nhưng trong quá trình học và thực hành

môn học này lại liên quan khá nhiều đến các sản phẩm nghệ thuật, đặc biệt là âm nhạc.

Khi dạy và học các học phần này đều cần sử dụng đến nhiều ngữ liệu, ví dụ từ các tác

phẩm nghệ thuật thuộc các loại hình khác nhau. Mức độ sử dụng, cách thức sử dụng

các sản phẩm văn hóa trong quá trình dạy học là khác nhau do mục tiêu của môn học.

Nếu như các môn học như Mĩ học đại cương, Các loại hình nghệ thuật Việt Nam, Dàn

dựng chương trình nghệ thuật tổng hợp, Văn hóa đại chúng… yêu cầu người học phải

làm việc trực tiếp với tác phẩm, thưởng thức, cảm thụ tác phẩm qua đó khái quát lên

các vấn đề lý thuyết về đặc trưng của loại hình nghệ thuật thì một số các môn học khác

như Tổ chức sự kiện, Các ngành công nghiệp văn hóa không yêu cầu những phân tích

chuyên sâu về nội dung mà cần hiểu biết rộng về thực tiễn của văn hóa nghệ thuật

trong và ngoài nước.

Từ việc tạo cơ hội cho người học trải nghiệm tác phẩm trong các bài tập được

giao đến khái quát các vấn đề lý thuyết về nghệ thuật sẽ trang bị cho người học vốn

hiểu biết về nghệ thuật, khơi dậy niềm yêu thích và từ đó có mong muốn, nhu cầu được

thưởng thức nghệ thuật. GV khi giảng dạy các học phần này cũng cần có những lưu ý

khi giới thiệu hoặc chọn lựa tác phẩm là ngữ liệu học tập. Thay vì áp đặt, chọn hộ,

chọn thay cho SV và yêu cầu SV làm theo hướng dẫn, GV nên để SV tự lựa chọn các

tác phẩm mà SV muốn tìm hiểu, tôn trọng sự lựa chọn này và khéo léo hướng ngữ liệu

này phục vụ cho những vấn đề lý thuyết của môn học. Việc phải tự tìm hiểu, phân tích

các tác phẩm nghệ thuật phục vụ cho bài tập cũng như việc đánh giá môn học cũng

góp phần thúc đẩy SV tiêu dùng văn hóa nhiều hơn, thường xuyên hơn. Tuy nhiên

điều này đòi hỏi GV phải cập nhật, biết và hiểu về những tác phẩm SV lựa chọn để

hướng dẫn hoặc đồng hành cùng SV.

Tên môn học

Tên các CTĐT trong trường

QLVH VHDL VHTT

TTTV QTVP VTLT

Mĩ học đại cương

x

x

x

x

x

Đại cương nghệ thuật biểu

x

x

x

diễn

87

Dàn dựng chương trình

x

nghệ thuật tổng hợp

Văn hóa đại chúng

x

x

Tổ chức sự kiện

x

Các ngành công nghiệp

x

văn hóa

Các loại hình nghệ thuật

x

x

Việt Nam

Văn hóa dân gian Việt

x

x

x

Nam

Bảng thống kê các học phần liên quan đến nghệ thuật trong CTĐT các ngành học

Các học phần này cung cấp kiến thức về nghệ thuật như đặc trưng các loại hình

nghệ thuật như điện ảnh, âm nhạc, mỹ thuật, văn học, kiến trúc, điêu khắc (Mĩ học đại

cương, Đại cương nghệ thuật biểu diễn, Văn hóa dân gian Việt Nam), kiến thức về sản

phẩm văn hóa đại chúng như phim ảnh, âm nhạc, truyền hình… (Văn hóa đại chúng);

ứng dụng những hiểu biết về nghệ thuật để tổ chức các chương trình nghệ thuật (Tổ

chức sự kiện, Dàn dựng chương trình nghệ thuật tổng hợp). Các học phần này chủ yếu

thuộc các CTĐT ngành Quản lý văn hóa, Văn hóa học (chuyên ngành Văn hóa du lịch,

Văn hóa truyền thông). Khi giảng dạy, các nội dung lý thuyết về nghệ thuật cũng được

làm rõ qua các ngữ liệu là các tác phẩm nghệ thuật, GV khi dạy cần khuyến khích

người học trực tiếp trải nghiệm, cảm thụ, thưởng thức tác phẩm.

Trong nhiều cách truyền tải kiến thức đến người học, học tập thông qua trò chơi

là một phương pháp thể hiện việc ứng dụng các trò chơi vào dạy học đưa đến những

hiệu quả bất ngờ. Các trò chơi điện tử vốn thu hút SV vì tính tương tác cao, đòi hỏi

phản xạ nhanh, kích thích tư duy. Ưu điểm đó đã bắt đầu được nhiều GV nhận ra và

sử dụng trong dạy học theo hướng thiết kế lồng ghép kiến thức trong khi chơi, kết hợp

vừa chơi vừa học. Nhiều trò chơi đã được thiết kế để giúp người học tìm hiểu, khám

phá hay củng cố kiến thức (như quizizz, kahoot), phá vỡ sự nhàm chán, đơn điệu khi

phải ngồi trước màn hình máy tính nghe giảng, nhất là trong bối cảnh dạy học trực

tuyến trong thời kì dịch bệnh Covid 19. Hơn nữa, tính hiệu quả của việc áp dụng

phương pháp này cũng đến từ lý do các con đường tự kiến tạo tri thức của SV. “Học

88

sinh chỉ nhớ 10% những gì họ đọc, 20% những gì họ nghe, 30% nếu họ nhìn thấy hình

ảnh liên quan đến vấn đề họ nghe, 50% nếu họ vừa được xem người ta làm vừa giải

thích, nhưng học sinh có thể nhớ đến 90% nếu họ tự mình thực hiện, ngay cả khi chỉ

là trải nghiệm qua chương trình mô phỏng”. Dù việc áp dụng này cũng trong giai đoạn

đầu, còn nhiều mới mẻ (tại Việt Nam) nhưng học tập qua các trò chơi có thể cung cấp

đến người học nhiều kiến thức. GV nên quan tâm nhiều hơn đến việc kết hợp việc chơi

game trong thiết kế bài giảng, các hoạt động giảng dạy, gia tăng sự tương tác, giảm áp

lực trong học tập cũng như tăng khả năng giải quyết vấn đề cho người học.

Tiểu kết chương 3

Việc tiêu dùng văn hóa của mỗi SV hoàn toàn mang tính tự do, chủ động, từ

việc tìm kiếm, lựa chọn đến quyết định chi trả, thưởng thức. Phát triển tiêu dùng văn

hóa cho SV không phải là những biện pháp áp đặt từ trên xuống, bắt buộc SV phải

thực hiện theo mà thực chất là tạo ra những không gian, điều kiện thuận lợi cũng như

trang bị kiến thức để SV tự thực hiện quá trình này.

Hệ thống thiết chế văn hóa tại trường như thư viện, các CLB nghệ thuật đã được

xây dựng và tồn tại trong nhiều năm qua, hỗ trợ đáng kể cho đời sống văn hóa của SV.

Tuy nhiên nội dung cũng như cách thức hoạt động còn chưa đa dạng, chưa cập nhật

với những thay đổi của xã hội cũng như của chính SV qua các thế hệ khác nhau. Vì

thế, nhà trường cần hỗ trợ và đầu tư thêm cho hoạt động của các thiết chế này để thư

viện hay các CLB nghệ thuật thực sự là không gian gắn bó với SV, thúc đẩy SV tham

gia, thưởng thức và sáng tạo văn hóa. Ngoài ra, để tiêu dùng văn hóa trở thành nhu cầu

nội tại, thiết yếu của mỗi cá nhân SV, việc giáo dục nghệ thuật trong đó nhấn mạnh

việc cung cấp, trang bị kiến thức về nghệ thuật thực sự cần được đẩy mạnh. Ngoài một

số CTĐT có môn học liên quan đến văn hóa nghệ thuật, nhiều CTĐT còn lại của nhà

trường gần như không xuất hiện các môn học về nghệ thuật, vì vậy cần đa dạng và linh

hoạt trong giáo dục nghệ thuật bằng nhiều biện pháp khác nhau: sử dụng ngữ liệu là

các tác phẩm văn học nghệ thuật trong giảng dạy, tổ chức các buổi nói chuyện chuyên

đề về nghệ thuật, thường xuyên tổ chức các sự kiện văn hóa nghệ thuật tạo sân chơi

rộng lớn cho SV.

Tiêu dùng văn hóa của SV cũng mang đến nhiều hàm ý cho việc dạy học của

GV. Để hiểu sâu sắc hơn về người học, GV cần quan tâm đến đời sống tinh thần của

SV, cập nhật và chia sẻ với những sở thích, xu hướng mới của SV. GV có thể sử dụng

89

và khai thác các sản phẩm văn hóa trong dạy học phù hợp với đặc thù của môn học,

ngành học. Tất cả những việc làm này đều gián tiếp hay trực tiếp tạo điều kiện cho SV

tiếp cận, sử dụng nhiều hơn các sản phẩm văn hóa.

90

KẾT LUẬN

1. Thưởng thức sản phẩm văn hóa là một hoạt động quen thuộc, phổ biến trong

lịch sử tồn tại và phát triển của con người, làm giàu đời sống tinh thần, mang đến sự

cân bằng cho đời sống bên cạnh những nhu cầu về vật chất. Tuy vậy những vấn đề lý

thuyết về tiêu dùng văn hóa cũng chỉ được nói đến nhiều trong bối cảnh sự ra đời của

xã hội tiêu dùng, sự phát triển của các ngành công nghiệp văn hóa, công nghiệp sáng

tạo trên thế giới. Tiêu dùng văn hóa để chỉ việc sử dụng các sản phẩm văn hóa nhằm

đáp ứng nhu cầu giải trí, giảm bớt sự căng thẳng, mang lại niềm vui, ngoài ra còn đem

đến nhiều chức năng khác như nhận thức, giáo dục, thẩm mĩ… Tiêu dùng văn hóa

nhấn mạnh sự chủ động của cá nhân trong việc tìm kiếm, lựa chọn loại sản phẩm cũng

như phương thức, phương tiện nào để tiêu dùng. Khác với tiêu dùng vật chất, tiêu dùng

văn hóa mang nặng tính tâm lý, tính trào lưu, tính tầng bậc, đem đến những trải nghiệm

khác nhau cho mỗi chủ thể tiêu dùng. Trong bối cảnh hiện đại, quá trình toàn cầu hóa,

sự phát triển của internet và truyền thông cũng như sự mở rộng nhanh chóng của thị

trường sản phẩm văn hóa đang đem lại nhiều cơ hội, nhiều lựa chọn tiêu dùng hơn cho

giới trẻ nói chung và SV nói riêng.

2. Được định vị trong lý thuyết tiêu dùng văn hóa, nghiên cứu này là một nỗ lực

khám phá thế giới của sinh viên tinh thần của SV ĐHNV thông qua tiêu dùng văn hóa.

Việc tiêu dùng văn hóa vốn đã rất quen thuộc với SV, tuy nhiên đến giai đoạn là SV

tại một trường đại học, việc tiêu dùng này còn bị chi phối bởi các đặc điểm về tâm sinh

lý lứa tuổi cũng như những định hướng nghề nghiệp. SV ĐHNV trong lứa tuổi từ 18

– 25, thuộc nhóm xã hội đặc biệt, đến từ nhiều vùng miền khác nhau, năng động, giàu

sức trẻ, luôn khao khát học hỏi và bộc lộ bản thân. SV đều thể hiện rõ sự quan tâm tiêu

dùng ở mức độ khác nhau đối với các sản phẩm văn hóa như phim ảnh, sách/ báo/ tạp

chí, âm nhạc, trò chơi điện tử. Xu hướng tiêu dùng số là xu hướng nổi trội trong tiêu

dùng văn hóa của SV khi mà tần suất xem phim, nghe nhạc, đọc sách báo qua internet,

trên các phương tiện cá nhân như máy tính, điện thoại di động khá thường xuyên, vượt

trội so với các hình thức truyền thống như xem phim qua ti vi, xem phim chiếu rạp,

đọc sách báo giấy, nghe nhạc qua radio… Việc lựa chọn thưởng thức sản phẩm nào

cũng bị chi phối bởi xu hướng, trào lưu đang thịnh hành trong giới trẻ vì như vậy

thường mang lại cho SV cảm giác hiện đại, sành điệu và cập nhật. Thị hiếu tiêu dùng

văn hóa của SV ĐHNV cũng khá đa dạng, bộc lộ rõ cá tính, phản ánh điều kiện sống,

91

vốn sống, vốn văn hóa của mỗi cá nhân. Chỉ trong thời gian 4 năm nhưng tiêu dùng

văn hóa khi là SV có tác động lớn đến sự phát triển toàn diện, dần định hình “gu thẩm

mỹ”, tạo dựng hiểu biết và kinh nghiệm sống cho SV.

3. Việc hiểu về tiêu dùng văn hóa của SV còn mang đến nhiều ý nghĩa với việc

dạy học của GV cũng như với nhiều bộ phận chức năng khác trong trường học. Để

thúc đẩy quá trình phát triển toàn diện của người học thông qua tiêu dùng văn hóa, nhà

trường cần có những biện pháp cụ thể để hỗ trợ, tạo điều kiện thuận lợi cho tiêu dùng

văn hóa của SV. Ngoài việc hoàn thiện nội dung và hình thức hoạt động của hệ thống

thiết chế văn hóa trong trường học như thư viện, các câu lạc bộ, nhà trường cần tăng

cường việc giáo dục nghệ thuật bằng nhiều cách khác nhau như lồng ghép trong dạy

các môn học, tổ chức các buổi nói chuyện chuyên đề về nghệ thuật, tạo dựng thêm

nhiều sân chơi về nghệ thuật cho SV có cơ hội được tham gia và thể hiện. GV khi lên

lớp cũng cần quan tâm, thấu hiểu đời sống tinh thần của người học, cập nhật những

sản phẩm văn hóa mà giới trẻ ưa thích để có thể dễ dàng trò chuyện, kết nối với SV,

tạo ra sự gần gũi, chia sẻ, từ đó đem đến không khí cởi mở hơn trong các giờ học.

4. Thế giới tinh thần đa dạng, sống động của SV là một phần quan trọng góp

phần hình thành nên nhân cách con người toàn diện với các trụ cột “đức - trí - thể -

mỹ”. Có nhiều phương thức để xây dựng nên bức tranh nhiều màu sắc đó nhưng tiêu

dùng văn hóa đã, đang và sẽ chiếm giữ vị trí quan trọng. Tiêu dùng văn hóa của SV

nói chung, SV ĐHNV nói riêng vì vậy vẫn là chủ đề còn mở ngỏ cho nhiều nghiên

cứu khác khi mà bối cảnh xã hội cũng như xu hướng, thị hiếu của SV luôn luôn thay

đổi.

92

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO Tài liệu tiếng Việt

1. Nguyễn Thị Phương Châm (2013), Internet: mạng lưới xã hội và sự thể

hiện bản sắc, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.

2. Đinh Thị Vân Chi (2001), Luận án Nhu cầu giải trí của thanh niên (nghiên cứu khuôn mẫu giải trí của thanh niên và sự đáp ứng nhu cầu giải trí tại Hà Nội, Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn Hà Nội.

3. Đoàn Văn Chúc (1997), Xã hội học văn hóa, Nxb. Văn hóa – Thông tin,

Hà Nội

4. Nguyễn Đăng Điệp (2020), Văn học đại chúng trong bối cảnh văn hóa

Việt Nam đương đại, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.

5. Lê Văn Dương – Lê Đình Lục – Lê Hồng Vân (2007), Giáo trình Mĩ học

đại cương, Nxb. Giáo dục, Hà Nội.

6. Đinh Việt Hà (2017), Văn hóa giải trí của giới trẻ Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa, Tạp chí Văn hóa dân gian, số 5 (173), tr 41-50. 7. Đinh Việt Hà (2018), Một số nội dung nghiên cứu về văn hóa giới trẻ,

Tạp chí Văn hóa dân gian, số 5 (179), tr 67-74.

8. Đinh Việt Hà (2021), Hâm mộ thần tượng trong đời sống giới trẻ Việt

Nam hiện nay, Luận án tiến sĩ, Học viện Khoa học Xã hội.

9. Mai Văn Hai – Mai Kiệm (2009), Xã hội học văn hóa, Nxb. Khoa học

xã hội, Hà Nội.

10. Phạm Thị Hằng (2013), Vấn đề tiếp nhận văn hóa nước ngoài của sinh

viên hiện nay, Tạp chí Văn hóa nghệ thuật, số 350 (8.2013).

11. Đặng Thị Thúy Hằng (2015), “Tiêu dùng văn hoá của cư dân ven biển Hà Tĩnh trong bối cảnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá”, Tạp chí Văn hoá Nghệ thuật, (372), tr.27-30

12. Đặng Thị Thúy Hằng (2015), Đời sống văn hóa của cư dân ven biển Hà Tĩnh thời kì công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Luận án tiến sĩ Văn hóa học, Trường Đại học Văn hóa Hà Nội.

13. Phan Thị Thu Hiền (2013), Văn hóa thời gian rỗi và văn hóa đại chúng (trường hợp giờ thứ 9 trên HTV), Tạp chí khoa học Văn hóa và du lịch, số 13 (67).

93

14. Lê Như Hoa (2001), Tiêu dùng văn hoá trong điều kiện công nghiệp hoá, hiện đại hóa đất nước, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ, Viện Văn hóa trường Đại học Văn hóa Hà Nội, Hà Nội.

15. Trần Đức Hòa – Đỗ Văn Hùng (2021), Khung năng lực số cho sinh viên Việt Nam trong bối cảnh chuyển đổi số, Tạp chí Thông tin và tư liệu, số 1, trang 12-21.

16. Euny Hong (2015), Giải mã Hàn Quốc sành điệu (Nguyễn Hoàng Ánh – Võ Phương Linh – Võ Huyền My dịch), Nxb. Thế giới, Hà Nội. 17. Nguyễn Thị Lan Hương (2018), Thực trạng sử dụng mạng xã hội của thanh, thiếu niên ở Việt Nam hiện nay, Tạp chí Văn hóa nghệ thuật, số 407, tháng 5-2018.

18. Phạm Thị Hương (2017), Hoạt động của hệ thống nhà văn hóa tại Hà Nội – nhìn từ các không gian văn hóa, Tạp chí Văn hóa nghệ thuật, số 394, tháng 4-2017

19. Đặng Thị Thu Hương (2016), Văn hóa truyền thông đại chúng ở Việt Nam trong điều kiện kinh tế thị trường và toàn cầu hóa, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội.

20. Phạm Bích Huyền (2009), Giáo trình các ngành công nghiệp văn hóa,

Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.

21. Phạm Bích Huyền (2013), Giáo dục nghệ thuật và đơn vị nghệ thuật biểu

diễn, Tạp chí Nghiên cứu văn hóa, số 3 (tháng 3.2013).

22. Chu Khắc (1983), Sử dụng thời gian tự do vào tiêu dùng văn hóa, Tạp

chí Xã hội học, số 3.

23. Từ Thị Loan (2004), Mấy vấn đề về tiểu văn hóa thanh niên, Tạp chí Xã

hội học, số 3, tr 87-92.

24. Từ Thị Loan (2017), Phát triển công nghiệp văn hóa ở Việt Nam, Nxb.

Văn hóa dân tộc, Hà Nội.

25. Nguyễn Đức Lộc (chủ biên) (2018), Đời sống xã hội Việt Nam đương đại (tập 3): Người trẻ trong xã hội hiện đại, Nxb. Văn hóa văn nghệ, Thành phố Hồ Chí Minh.

26. Nguyễn Thị Mỹ Lộc (2016), Tổng quan một số nghiên cứu về ảnh hưởng của game bạo lực lên tâm lý hành vi gây hấn/bạo lực của thanh thiếu niên, in trong Tuyển tập công trình khoa học Hội thảo quốc gia “Phòng, Chống bạo lực học đường trong bối cảnh hiện nay – Thực trạng và giải pháp”, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, 2016, tr.76 - 79.

94

27. Nguyễn Tiến Mạnh (2013), Tiêu dùng văn hóa – một lĩnh vực cần nghiên cứu trong vấn đề quản lý văn hóa Việt Nam hiện nay, Tham luận Hội thảo “Mối quan hệ giữa kinh tế trong văn hóa, văn hóa trong kinh tế qua thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII do Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch tổ chức tại Trường Đại học Văn hóa thành phố Hồ Chí Minh ngày 21/5/2013.

28. Đặng Thiếu Ngân (2007), “Hiện tượng Hallyu ở Việt Nam hay sự ảnh hưởng của phim Hàn Quốc tới văn hóa Việt Nam”, Luận án tiến sĩ Văn hóa học, Học viện Khoa học xã hội.

29. Lê Trọng Nin (2020), Giáo dục thẩm mĩ cho sinh viên thông qua âm nhạc đại chúng, Luận án tiến sĩ chuyên ngành Mỹ học, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh.

30. Hạ Thị Lan Phi (2017), Ảnh hưởng của manga Nhật Bản đến học sinh phổ thông tại thành phố Hà Nội, Luận án tiến sĩ, Trường Đại học Văn hóa.

31. Phạm Quỳnh Phương (2018), Các hướng tiếp cận lý thuyết về tiêu dùng và văn hóa tiêu dùng, Tạp chí Văn hóa dân gian, số 4 (178), tr 3-13. 32. Lương Hồng Quang (2018), Các ngành công nghiệp sáng tạo ở Việt Nam – Môi trường thể chế, thị trường và sự tham gia, Nxb Thế giới, Hà Nội.

33. Bùi Hoài Sơn (2006), Ảnh hưởng của internet đối với thanh niên Hà

Nội, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.

34. Bùi Hoài Sơn (2008), Phương tiện truyền thông mới và những thay đổi

văn hóa xã hội tại Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội.

35. Mai Thị Kim Thanh (2011), Giáo trình Xã hội học văn hóa, Nxb. Giáo

dục, Hà Nội

36. Phạm Tùng Thư (2004), Nhu cầu và xu thế tiêu dùng văn hóa, Tạp chí

Văn hóa nghệ thuật, số 12.

37. Lê Thị Thanh Thủy – Nguyễn Hồ Phong (2020), Tiêu dùng văn hóa của công nhân tại các khu công nghiệp, khu chế xuất ở thành phố Hồ Chí Minh, lý luận và thực tiễn, Nxb Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh.

38. Đỗ Thị Thanh Thủy (2014), Để phát triển các ngành công nghiệp văn

hóa ở Việt Nam, Tạp chí Văn hóa học, số 6 (16), trang 3-21.

39. Lê Thị Trang (2020), Văn hóa tiêu dùng của sinh viên ở Hà Nội, Tạp chí

Văn hóa nghệ thuật, số 440 (10.2020).

95

40. Trương Xuân Trường (1991), Mấy vấn đề về tiêu dùng văn hóa của công

nhân Thủ đô, Tạp chí Xã hội học, số 3.

41. Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn (2021), Khung năng lực

số dành cho sinh viên

42. Hoàng Phong Tuấn (2016), Sự đọc bình dân tiểu thuyết ngôn tình, in trong Đời sống xã hội Việt Nam đương đại (tập 2): Những người thiểu số ở đô thị: lựa chọn, trở thành, khác biệt, Nguyễn Đức Lộc (chủ biên), Nxb. Tri thức, Hà Nội.

43. Phạm Hồng Tung (2011), Thanh niên và lối sống của thanh niên Việt Nam trong quá trình đổi mới và hội nhập quốc tế, Nxb. Chính trị quốc gia – Sự thật, Hà Nội.

44. Đặng Thị Tuyết (2020), Tiếp nhận văn hóa đại chúng của sinh viên trong bối cảnh hội nhập quốc tế (qua khảo sát tại Trường Đại học Văn hóa Hà Nội, Đại học Sư phạm Hà Nội, Đại học Ngoại thương), Luận án tiến sĩ, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.

45. Viện Ngôn ngữ học, Từ điển Tiếng Việt (1992), Trung tâm từ điển ngôn

ngữ, Hà Nội

Tài liệu tiếng Anh

46. Arthur S.Alderson – Azamat Junisbai – Isaac Heacock (2007), Social status and curtural consumption in the United State, Poetics, Volume 35, Issues 2–3, April–June 2007, pages 191-212.

47. Aytekin Firat - Kemal Y. Kutucuoglu - IĶıl Arikan Saltik -Özgür Tuncel, Consumption, consumer culture and consumer society, Journal of Community Positive Practices, XIII(1) 2013, 182-203.

48. Bourdieu, P. (1984), Distiction: A Social Critique of the Judgment of

Taste, USA: Havard.

49. Erzsebet Bukodi (2007), Social stratification and cultural consumption in Hungary: book readership, Poetics, Volume 35, Issues 2–3, April– June 2007, psages 112-131.

50. Facebook and Bain & Company (2020), Digital Consumers of

Tomorrow, Here Today - A sync southeast Asia report.

51. John Storey (1999), Cultural Consumption in Everyday Life (Cultural

Studies in Practice), Bloomsbury USA.

52. K. van Eijck and J. Michael (2010), Cultural consumption and the aesthetisation of everyday life, Paper for the 3rd ESA Sociology of

96

Culture mid-term Conference, Università Bocconi, Milan, Italy, October 7-9, 2010.

53. Ruth Towse (2019), A textbook of cultural economics, Cambridge

University Press 54. Tally Katz Gerro

(1999), Cultural Consumption and Social Stratification: Leisure Activities, Musical Tastes, and Social Location, Sociological Perspectives, Volume: 42 issue: 4, page(s): 627-646. 55. Throsby, D. (2001). Economics and culture. Cambridge: Cambridge

University Press.

56. Unesco (2018), A Global Framework of Reference on Digital Literacy,

In UNESCO Institute for Statistics.

97

1. Phạm Thị Hương (2022), Tiêu dùng văn hóa của sinh viên Trường Đại học Nội vụ

BÀI VIẾT ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI

Hà Nội: tiêu dùng số và sự hình thành thế hệ tiêu dùng mới, Tạp chí Nghiên cứu Nội

vụ, số 48.

98

PHỤ LỤC

Phụ lục 1: Bảng tóm tắt 7 nhóm năng lực của khung năng lực số

STT

Nhóm năng lực

Mô tả năng lực

1

Vận hành thiết bị và phần mềm

Nhận biết, lựa chọn và sử dụng các thiết bị phần cứng và ứng dụng phần mềm để nhận diện, xử lý dữ liệu, thông tin số trong giải quyết vấn đề.

2

Khai thác thông tin và dữ liệu

Nhận diện được nhu cầu thông tin của cá nhân; triển khai các chiến lược tìm tin, định vị và truy cập được thông tin; đánh giá các nguồn tin và nội dung của chúng; lưu trữ, quản lý và tổ chức thông tin; sử dụng thông tin phù hợp với đạo đức và pháp luật.

3

Giao tiếp và hợp tác trong môi trường số

Tương tác và giao tiếp thông qua công nghệ số và thực hành vai trò công dân số. Quản lý định danh và uy tín số của bản thân trong môi trường số. Sử dụng công cụ và công nghệ số để hợp tác, cùng thiết kế, tạo lập các nguồn tin và tri thức.

4

An toàn và an sinh số

Bảo vệ các thiết bị, nội dung, dữ liệu cá nhân và quyền riêng tư trong môi trường số. Bảo vệ sức khỏe và tinh thần. Nhận thức về tác động của công nghệ số đối với hạnh phúc xã hội và hòa nhập xã hội. Nhận thức về ảnh hưởng của công nghệ số và việc sử dụng chúng đối với môi trường.

5

Sáng tạo nội dung số

Tạo lập và biên tập nội dung số. Chuyển đổi, kết hợp thông tin và nội dung số vào vốn tri thức sẵn có. Hiểu rõ về hệ thống giấy phép và bản quyền liên quan đến quá trình sáng tạo nội dung số.

6

Học tập và phát triển kỹ năng số

Nhận diện được các cơ hội và thách thức trong môi trường học tập trực tuyến. Hiểu được nhu cầu và sở thích cá nhân với tư cách là người học tập trong môi trường số. Thúc đẩy truy cập mở và chia sẻ thông tin. Ý thức được tầm quan trọng của việc học tập suốt đời đối với sự phát triển cá nhân.

7

Sử dụng năng lực số cho nghề nghiệp

Vận hành các công nghệ số trong các bối cảnh nghề nghiệp đặc thù. Hiểu, phân tích và đánh giá dữ liệu, thông tin và nội dung số đặc thù trong hoạt động nghề nghiệp. Thực hành đổi mới sáng tạo và khởi nghiệp trong môi trường số.

99

Phụ lục 2: Các chương trình khuyến mãi giảm giá vé xem phim

Nguồn ảnh: https://www.lottecinemavn.com/

Nguồn ảnh: https://shopiness.vn/khuyen-mai/cgv-mua-ve-xem-phim-chi-1k-qua-

zalopay.4CDCC5C1E9.html

100

Nguồn ảnh: https://www.lottecinemavn.com/

101

Phụ lục 3: Hình ảnh một số hoạt động của CLB Sách Nội vụ

Thông báo tuyển thành viên của CLB Sách nội vụ (Nguồn ảnh: https://www.facebook.com/sachnoivu)

Logo của CLB Sách Nội vụ (Nguồn ảnh: https://www.facebook.com/sachnoivu)

102

Hoạt động của CLB sách Nội vụ (Nguồn ảnh: https://www.facebook.com/sachnoivu)

Giới thiệu sách mới (Nguồn ảnh: https://www.facebook.com/sachnoivu)

103

Kết quả cuộc thi “Cuốn sách tôi yêu” lần thứ 2 (Nguồn ảnh: https://www.facebook.com/sachnoivu)

104

Phụ lục 4: Hoạt động của CLB Nghệ thuật Trường Đại học Nội vụ Hà Nội

Thông báo casting của CLB (Nguồn ảnh: https://www.facebook.com/hac.huhavn/)

Hình ảnh sự kiện Trạm dừng chân 2022 (Nguồn ảnh: https://www.facebook.com/hac.huhavn/)

105

Hình ảnh sự kiện Trạm 2020 (Nguồn ảnh: https://www.facebook.com/hac.huhavn/)

106

Phụ lục 5: Một số bảng tổng hợp số liệu từ kết quả khảo sát

1. Bảng 1: Địa phương sinh sống của SV

TT Khu vực sinh sống Tỉ lệ (%)

1. Thành thị 43.5

2. Nông thôn 37.5

3. Thị trấn 11.5

4. Miền núi 7.5

2. Bảng 2: Năm học của sinh viên

TT Năm học Số lượng Tỉ lệ (%)

30 1. Năm thứ nhất 60

10.5 2. 21 Năm thứ hai

25 3. 50 Năm thứ ba

34.5 4. 69 Năm thứ tư

3. Bảng 3: Mức sinh hoạt phí hàng tháng

TT Số tiền Tỉ lệ (%)

1. Từ 2-3 triệu 63

2. 21 Từ 3-4 triệu

3. 7 Từ 4-5 triệu

4. 9 Trên 5 triệu

4. Bảng 4: Mức chi cho các sản phẩm văn hóa trong 1 tháng

TT Số tiền Tỉ lệ (%)

1. Trên 1.000.000 5.5

2. 12 Từ 500.000 – 1.000.000

3. 45 Dưới 500.000

4. 37.5 Không mất phí

5. Bảng 5: Mức độ quan tâm của SV đến các sản phẩm văn hóa

107

TT Năm học

Rất quan tâm (%) Ít quan tâm (%)

Bình thường (%) Không quan tâm (%)

1. Năm thứ nhất 12 17.5 0.5 0

2. 4.5 5.5 0.5 0 Năm thứ hai

3. 15 10 0 0 Năm thứ ba

4. 14.5 17.5 2.5 0 Năm thứ tư

46 50.5 3.5 0 Tổng

6. Bảng 6: Tác động của phim ảnh tới SV

TT Tác động Số SV Tỉ lệ (%)

1. Hiểu biết hơn 131 65.5

2. 81 40.5 Có nhiều kĩ năng mềm

3. 40 20 Trở nên tự tin hơn

4. 125 62.5 Có thêm nhiều kinh

nghiệm

7. Bảng 7: Tác động của sản phẩm âm nhạc tới SV

TT Tác động Số SV Tỉ lệ (%)

1. Chi phối đến gu thời trang 51 25.5

2. 70 35 Chi phối đến lối sống,

cách suy nghĩ

3. 26 13 Trở nên cá tính hơn

4. 42 21 Trở nên mộng mơ và lãng

mạn

108

8. Bảng 8: Tác động của sách/ báo/ tạp chí tới SV

TT Tác động Số SV Tỉ lệ (%)

1. Trở nên tự tin hơn 61 30.5

2. 136 68 Cải thiện kĩ năng sống

3. 143 71.5 Hiểu biết hơn

4. 62 31 Khoan dung và tôn trọng

người khác

5. 18 9 Các tác động khác

9. Bảng 9: Tác động của trò chơi điện tử tới SV

TT Tác động Số SV Tỉ lệ (%)

1. Giải trí 153 76.5

2. 51 25.5 Nâng cao khả năng phản

xạ

3. 28 14 Cải thiện trí nhớ

4. 45 22.5 Có thêm nhiều bạn mới

5. 37 18.5 Trải nghiệm điều mới mẻ

6. 61 30.5 Kết nối với bạn bè

7. 67 33.5 Giảm bớt căng thẳng

8. 50 25 Quên đi sự buồn chán

109

Phụ lục 6: Biểu khảo sát online về tiêu dùng văn hóa

KHẢO SÁT VỀ TIÊU DÙNG VĂN HÓA CỦA SINH VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC NỘI VỤ HÀ NỘI

Đây là một khảo sát nhỏ với mục đích tìm hiểu về tiêu dùng văn hóa của sinh viên Trường Đại học Nội vụ Hà Nội. Mong các bạn cộng tác và trả lời những câu hỏi dưới đây. Dữ liệu từ câu trả lời của các bạn chỉ phục vụ cho mục đích nghiên cứu. Các thông tin cũng sẽ được đảm bảo tính an toàn.

Trân trọng cảm ơn các bạn. Chúc các bạn mạnh khỏe, hạnh phúc và có nhiều niềm vui trong học tập.

Quản lý văn hóa

Văn hóa du lịch

Văn hóa truyền thông

Quản trị nhân lực

1. Ngành học của bạn:

Thứ nhất

Thứ 2

Thứ 3

Thứ 4

2. Bạn là sinh viên năm thứ:

Nữ

Nam

Khác

3. Giới tính của bạn

Thành phố

Thị trấn

Nông thôn

Miền núi

4. Địa phương bạn sinh sống là:

2-3 triệu/tháng

3-4 triệu /tháng

4-5 triệu/tháng

Trên 5 triệu

5. Mức sinh hoạt phí hàng tháng của bạn thường là:

Rất quan tâm

Bình thường

6. Mức độ quan tâm của bạn tới các sản phẩm văn hóa:

110

Ít quan tâm

Không quan tâm

Thường xuyên Thỉnh thoảng Hiếm khi Chưa bao giờ

Xem phim

Nghe nhạc

Đọc sách/ báo/ tạp chí (ngoài giáo trình và tài liệu tham khảo ở trường)

Chơii Trrò chơi điện tử

Xem game show trên truyền hình

7. Mức độ tiêu dùng sản phẩm văn hóa

Khi căng thẳng

Khi được bạn bè rủ

Khi chán nản

Bất kì lúc nào có sản phẩm mới ra

Khi rảnh rỗi

Xem phim

Nghe nhạc

Đọc sách/ báo/ tạp chí

Chơi trò chơi điện tử

Xem game show trên truyền hình

8. Bạn thường sử dụng các sản phẩm văn hóa khi nào?

Khác

Câu lạc bộ nghệ thuật

Mua/ thuê về nhà

Qua mạng internet

Rạp chiếu

Qua truyền hình

Xem phim

Nghe nhạc

Đọc sách/ báo/ tạp chí

Chơi trò chơi điiện ttử

Xem game show trên truyền hình

9. Bạn thường sử dụng các sản phẩm văn hóa này qua các hình thức nào

111

112

KHẢO SÁT VỀ TIÊU DÙNG VĂN HÓA CỦA SINH VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC NỘI VỤ HÀ NỘI

Trên 1 triệu/ tháng

Từ 500.000 - 1 triệu/ tháng

Dưới 500.000

Không mất phí

10. Mức chi của bạn cho các sản phẩm văn hóa trong 1 tháng thường là:

Giá thành cao của các sản phẩm văn hóa

Kinh phí cá nhân hạn hẹp

Chất lượng sản phẩm văn hóa chưa đáp ứng

Chưa hiểu, chưa thấy được cái hay của sản phẩm

11. Điều gì gây khó khăn cho bạn trong việc tiêu dùng các sản phẩm văn hóa

Không

12. Ngành học của bạn có yêu cầu phải quan tâm đến các sản phẩm văn hóa không?

13. Việc tiêu dùng các sản phẩm văn hóa có ảnh hưởng như thế nào đến kết quả

Kết quả học tập tốt hơn

Không ảnh hưởng

Kết quả học tập kém đi

học tập của bạn?

I. SÁCH BÁO/TẠP CHÍ

14. Việc thường xuyên tiêu dùng các sản phẩm văn hóa sẽ phục vụ trực tiếp cho môn học nào trong chương trình học tập của bạn? Ghi rõ tên môn học:

Sách khoa học

Truyện, tiểu thuyết

Self help, kĩ năng sống

Truyện ngôn tình

Other:

1. Bạn thường đọc loại sách gì?

2. Kể tên 5 cuốn sách/ báo/ tạp chí gần đây mà bạn đã đọc:

Quán cà phê sách

Thư viện trường

Tại nhà

3. Bạn thường đọc sách/ báo/ tạp chí ở đâu?

113

KHẢO SÁT VỀ TIÊU DÙNG VĂN HÓA CỦA SINH VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC NỘI VỤ HÀ NỘI

Câu lạc bộ văn hóa nghệ thuật

Điện thoại, ipad, máy tính cá nhân

Đọc sách giấy

Nghe sách nói

Sách điện tử

4. Bạn thường tiếp cận với sách/ báo/ tạp chí bằng các hình thức nào dưới đây:

Giải trí, cân bằng đời sống

Giao lưu, kết nối với bạn bè

Tìm kiếm sự chia sẻ

Tìm hiểu khám phá kiến thức

5. Mục đích của việc đọc sách/ báo/ tạp chí:

Trở nên tự tin hơn

Cải thiện kĩ năng sống

Hiểu biết hơn

Khoan dung và tôn trọng người khác

Khác

6. Sách/ báo/ tạp chí tác động như thế nào đến cá nhân bạn:

II. PHIM ẢNH

Phim tâm lí tình cảm

Phim hài

Phim hành động

Phim kinh dị

Phim cổ trang

Phim hoạt hình

1. Loại phim nào bạn thích xem:

2. Kể tên 5 bộ phim bạn xem gần đây:

Tại rạp chiếu

Tại nhà (qua điện thoại, tivi)

Tại các câu lạc bộ nghệ thuật

Tại các quán cà phê

3. Bạn thường xem phim ở đâu?

Khi rảnh rỗi

Khi căng thẳng

Khi buồn chán và cần được chia sẻ

4. Bạn thường xem phim khi nào?

114

KHẢO SÁT VỀ TIÊU DÙNG VĂN HÓA CỦA SINH VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC NỘI VỤ HÀ NỘI

Khi bạn bè rủ

Bất cứ khi nào có phim mới ra

Gia đình

Bạn bè

Một mình

5. Với bạn, xem phim cùng ai là thú vị nhất?

Hiểu biết hơn

Có nhiều kĩ năng mềm hơn

Tự tin hơn

Có nhiều kinh nghiệm từ các nhân vật trong phim

6. Phim ảnh tác động như thế nào đến bạn?

7. Thần tượng của bạn trong lĩnh vực phim ảnh là (nếu không có ghi Không)

Gu thời trang

Phong cách sống

Ngoại hình đẹp, cuốn hút

Vẻ đẹp trí tuệ

Nhiều phẩm chất tốt

8. Bạn thần tượng họ vì lý do gì?

9. Điều bạn học được từ thần tượng là gì?

III. ÂM NHẠC

Nhạc Trịnh

Nhạc tiền chiến

Nhạc cách mạng

Nhạc indie

Nhạc rap

Nhạc pop

Hiphop

Bản remake nhạc xưa

Nhạc nước ngoài

(Kpop,...) Nhạc chế

Nhạc mang âm hưởng dân gian

1. Bạn thường nghe loại nhạc nào?

2. Theo bạn dòng nhạc nào đang thịnh hành trên thị trường

115

KHẢO SÁT VỀ TIÊU DÙNG VĂN HÓA CỦA SINH VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC NỘI VỤ HÀ NỘI

3. 5 sản phẩm âm nhạc bạn nghe gần đây nhất là:

Tại các buổi biểu diễn

Tại nhà (qua tivi, điện thoại,...)

Tại các quán cà phê

Tại các câu lạc bộ nghệ thuật

4. Bạn thường nghe nhạc ở đâu?

Radio

Nghe trực tuyến trên internet

Các nền tảng nhạc số như Spotify, SoundCloud, Apple Podcast, Google Podcast

5. Bạn thường nghe nhạc qua:

Khi rảnh rỗi

Khi căng thẳng

Khi được bạn bè rủ

Khi buồn chán và cần được chia sẻ

Bất cứ khi nào có sản phẩm âm nhạc mới ra

6. Bạn thường nghe nhạc khi nào?

Ca từ dễ nhớ, dễ thuộc

Thông điệp xã hội được truyền tải một cách sinh động

Vũ đạo sôi động

Nghệ sĩ có ngoại hình đẹp

Chủ đề mới lạ

Phản ánh được suy nghĩ, cảm xúc của chính bạn

Phù hợp với cá tính của bạn

7. Điều gì ở các ca khúc cuốn hút bạn?

Giảm bớt căng thẳng

Được chia sẻ điểm chung với nhiều người khác

Được là chính mình

Trở nên tự tin, mạnh mẽ

8. Cảm xúc âm nhạc mang lại cho bạn:

Chi phối đến gu thời trang

Chi phối đến lối sống, cách suy nghĩ

Trở nên cá tính hơn

Trở nên mơ mộng và lãng mạn

Tùy chọn 5

9. Sản phẩm âm nhạc có ảnh hưởng đến bạn như thế nào:

116

KHẢO SÁT VỀ TIÊU DÙNG VĂN HÓA CỦA SINH VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC NỘI VỤ HÀ NỘI

117

6/25/22, 4:31 PM

KHẢO SÁT VỀ TIÊU DÙNG VĂN HÓA CỦA SINH VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC NỘI VỤ HÀ NỘI

Nội dung sơ sài, sáo rỗng

Ca từ đơn giản, lặp đi lặp lại

Cách ăn mặc của nghệ sĩ

Không có sự sáng tạo

10. Điều gì khiến bạn không thích ở các sản phẩm âm nhạc hiện nay:

Chưa bao giờ

Đã từng mua

Mua rất nhiều

11. Bạn đã bao giờ mua các sản phẩm do thần tượng âm nhạc của mình quảng cáo (giày dép, quần áo,...)

IV. TRÒ CHƠI ĐIỆN TỬ

Không Có

1. Bạn có chơi trò chơi điện tử (video game) không

Trò chơi điện tử có sự tương tác giữa nhiều người chơi với nhau thông qua hệ

thống máy chủ

Trò chơi điện tử chỉ có sự tương tác giữa người chơi với hệ thống máy chủ Trò chơi điện tử có sự tương tác giữa nhiều người chơi với nhau nhưng không có

sự tương tác giữa người chơi với hệ thống máy chủ

Trò chơi điện tử được tải về qua mạng, không có sự tương tác giữa người chơi với

nhau

2. Bạn thường chơi loại trò chơi nào dưới đây:

3. Kể tên 5 trò chơi điện tử bạn chơi gần đây nhất:

Tại nhà

Điểm cung cấp các dịch vụ trò chơi điện tử

4. Bạn thường chơi trò chơi điện tử ở đâu:

Khi rảnh rỗi

Khi căng thẳng

Khi buồn chán

Khi bạn bè rủ

Khi có trò chơi mới

118

5. Bạn thường chơi trò chơi điện tử khi nào?

6/25/22, 4:31 PM

KHẢO SÁT VỀ TIÊU DÙNG VĂN HÓA CỦA SINH VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC NỘI VỤ HÀ NỘI

Giải trí

Nâng cao khả năng phản xạ

Cải thiện trí nhớ

Có thêm nhiều bạn mới

Trải nghiệm điều mới mẻ

Kết nối với bạn bè

Giảm bớt căng thẳng

Quên đi sự buồn chán

6. Chơi game giúp bạn:

Thiết kế sáng tạo

Khả năng tương tác cao

Trực tiếp tham gia như một nhân vật trong

game Thu hút sự tưởng tượng

Other:

7. Điều gì của trò chơi điện tử hấp dẫn bạn:

Suy giảm thị lực

Mệt mỏi

Giành quá nhiều thời gian cho game

Tốn quá nhiều tiền cho game

Kết quả học tập sa sút

Không ảnh hưởng

8. Chơi game ảnh hưởng như thế nào đến bạn:

Tùy chọn 1

9. Điều gì là thú vị nhất khi nói về trò chơi điện tử?

This content is neither created nor endorsed by Google.

Forms

118

Cảm ơn các bạn đã hoàn thành bản khảo sát. Chúc bạn một ngày nhiều niềm vui!