1

Tiểu luận

Sự phối hợp can thiệp của ngân hàng trung ương các

nước phát triển trong giai đoạn khủng hoảng 2007 – 2008

2

MỤC LỤC

Trang

PHẦN MỞ ĐẦU 2

NỘI DUNG

Chương I: Đặc điểm của các cuộc khủng hoảng 1997, 2007. So sánh và rút ra

nhận xét 4

1.1 Khủng hoảng 1997 4

1.2 Khủng hoảng 2007-2008 5

1.3 So sánh nét tương đồng giữa hai cuộc khủng hoảng 7

1.4 Rút ra bài học cho Việt Nam 8

Chương II: Hợp tác chống khủng hoảng giữa các nước 11

2.1 Vì sao cuộc khủng hoảng ở Mỹ ảnh hưởng đến các nước

trên thế giới 11

2.2 Các nước hợp tác chống khủng hoảng 12

KẾT LUẬN 16

TÀI LIỆU THAM KHẢO 17

3

PHẦN MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài.

Từ khi xuất hiện cuối năm 2007 đến nay, cuộc khủng hoảng tài chính toàn

cầu đã làm không ít nền kinh tế lâm vào tình trạng cực kỳ khó khăn, một loạt các

tổ chức kinh tế lớn của các nước trên thế giới như Northern Rock của Anh,

Lehman Brothers của Mỹ. IndyMac Federal Bank,… sụp đổ. Tuy nhiên không vì

thế mà nền kinh tế thế giới đã sụp đổ hoàn toàn, dần dần các nước đã vượt qua

khủng hoảng, và cho đến nay tình tình kinh tế thực tế tại các nước đã khả quan

hơn rất nhiều.

Vậy thì, nguồn gốc của kủng hoảng là do đâu? Có giống như các cuộc

khủng hoảng đã xảy ra trong thời gian trước không? Do đâu mà các nước có được

kết quả như vậy?

Để trả lời cho các câu hỏi trên, nhóm em đã chọn đề tài: “ Sự phối hợp can

thiệp của ngân hàng trung ương các nước phát triển trong giai đoạn khủng hoảng

2007 – 2008”.

2. Mục tiêu nghiên cứu.

Đề tài có các mục tiêu chủ yếu sau: tìm hiểu nguyên nhân của cuộc khủng

hoảng năm 2007, vì sao cuộc khủng hoảng bắt nguồn từ Mỹ lại có khả năng lây

lan sang các nước trên thế giới, so sánh các điểm tương đồng giữa cuộc khủng

hoảng này với cuộc khủng hoảng năm 1997, và cuối cùng là các nước đã hành

động phối hợp như thế nào để cùng vượt qua khủng hoảng và ổn định kinh tế.

3. Phạm vi nghiên cứu.

Đề tài nghiên cứu chủ yếu về cuộc khủng hoảng năm 2007, điểm sơ về cuộc

khủng hoảng năm 1997 để so sánh với nhau và một vài biện pháp đã được các

nước trên thế giới thưjc hiện để đối phó khủng hoảng giai đoạn 2007 – 2008.

4

4. Nội dung đề tài.

Đề tài gồm hai phần chính :

CHƯƠNG 1 : Đặc điểm của các cuộc khủng hoảng 1997, 2007. So sánh và rút ra nhận xét.

CHƯƠNG 2 : Hợp tác chống khủng hoảng giữa các nước.

NỘI DUNG

5

CHƯƠNG 1 . ĐẶC ĐIỂM CỦA CÁC CUỘC KHỦNG

HOẢNG 1997, 2007. SO SÁNH VÀ RÚT RA NHẬN XÉT.

1.1 Khủng hoảng 1997

Cuộc khủng hoảng tài chính tại Châu Á(còn gọi là khủng hoảng tiền tệ Châu

Á) bắt đầu từ tháng 07 năm 2007 tại Thái Lan, sau đó lan ra một số quốc gia ở

Châu Á. Các quốc gia bị ảnh hưởng năng nhất của cuộc khủng hoảng này gồm:

Inđônêsia, Hàn Quốc và Thái Lan. Đại Lục Trung Hoa, Đài Loan, Singapore và

Việt Nam không bị ảnh hưởng. Các quốc gia còn lai bị ảnh hưởng một phần như:

Hồng Kông, Malaysia, Lào, Philippines…… Khủng hoảng đã gây ra những ảnh

hưởng vĩ mô nghiêm trọng, gồm mất giá tiền tệ, s ụp đổ thị trường chứng khoán,

giảm giá tài s ản ở một số nước châu Á. Nhiều doanh nghiệp bị phá sản, dẫn đến

hàng triệu người bị đẩy xuống dưới ngưỡng nghèo trong các năm 1997-1998

Nguyên nhân chính gây ra cuộc khủng hoảng này:

- Nền tảng kinh tế vĩ mô yếu kém.

- Các dòng vốn nước ngoài kéo vào.

- Những thay đổi bất lợi của nền kinh tế thế giới.

- Tấn công đầu cơ và rút vốn đồng loạt.

Nguyên nhân đầu tiên gây ra cuộc khủng hoảng này là do Thái Lan và một số

nước Đông Nam Á là việc vừa cố định giá trị đồng tiền của mình vào Dollar Mỹ

vừa cho phép tự do hóa tài khoản vốn và sự nới lỏng chính sách tiền tệ của các

ngân hàng Trung ương để bảo vệ tỉ giá cố định. Kết quả là cung tiền tăng gây ra

sức ép lạm phát, và chính sách vô hiệu quá đã được sử dụng để chống lạm phát và

làm dòng tiền chảy vào nền kinh tế ngày càng nhiều.

Trong thời gian này, tại Mỹ, châu Âu và nhật Bản nới lỏng chính sách tiền tệ

cùng với việc tự do hóa tài chính đã làm cho tính thanh khoản toàn cấu ở mức cao,

6

các nhà đầu tư ở các nước này tìm cách thay đổi danh mục tài sản bằng cách

chuyển vốn ra nước ngoài. Khi đó, dòng tiền đã chảy vào các nước Châu Á do lãi

suất cơ bản của các nước này cao và đang thực hiện tự do hóa tài khoản vốn

Sau đó vào năm 1994, đồng Nhân dân Tệ của Tung Quốc được định giá thấp

so với đồng Dollar Mỹ và Mỹ nâng lãi suất cơ bản lên do nền kinh tế Mỹ đã được

khôi phục sau suy thoái đầu những năm 1990 làm cho xuất khẩu của các nước

Đông Á kho khăn hơn và thị trường tại những nước này không còn hấp dẫn các

nhà đầu tư.

Và sau khi thị trường bất động sản của Thái Lan bị vỡ,một số thể chế tài

chính bị phá sản, các nhà đầu tư không còn tin vào thị trường ở các nước Đông Á

nữa, và kết quả là tình trạng rút vốn hàng loạt tạo thành cuộc khủng hoảng tại các

nước Đông Á cuối năm 1997.

1.2 Khủng hoảng 2007

Vì sao cuộc khủng hoảng đã xảy ra?

Nguyên nhân trực tiếp châm ngòi cho cuộc khủng hoảng là sự nổ tung của

bong bóng nhà đất Mỹ. Tỷ lệ quá hạn cao đối với các khoản vay dưới chuẩn và các

khoản vay thế chấp lãi suất linh hoạt, bắt đầu tăng lên sau đó. Sự gia tăng những

ưu đãi vay vốn như điều kiện vay vốn ban đầu dễ dàng và khuynh hướng gia tăng

giá nhà trong dài hạn đã khuyến khính người vay giả định những khoản vay thế

chấp khó khăn có thể nhanh chóng được cơ cấu sang những kỳ hạn phù hợp. Tuy

nhiên, ngay khi lãi s uất bắt đầu tăng lên và giá nhà bắt đầu giảm dần trong năm

2006-2007 ở nhiều vùng của Mỹ, việc cơ cấu trở nên khó khăn hơn. Khoản vay

quá hạn và hoạt động xiết nợ tăng lên nhanh chóng khi xảy ra quá hạn ở những kỳ

hạn đầu, giá nhà không tăng như dự đoán, và lãi suất các khoản vay lãi suất linh

hoạt xác lập mức cao hơn.

7

Vào những năm liền trước khi cuộc khủng hoảng nổ ra năm 2007, lượng

ngoại tệ lớn chảy vào Mỹ từ những nước phát triển nhanh ở Châu Á và các nước

sản xuất dầu mỏ. Dòng tiền này khiến cho Fed dễ dàng giữ lãi s uất quá thấp từ

năm 2002 đến 2006 đã góp phần cho các điều kiện tín dụng dễ dàng, dẫn đến bong

bóng nhà đất ở Mỹ. Nhiều khoản vay (nhà đất, thẻ tín dụng, mua xe) rất dễ dãi và

người tiêu dùng thì vay vô tội vạ. Khi nhà đất và tín dụng tăng lên, số lượng các

hơp đồng tài chính gọi là chứng khoán bảo đảm bằng nhà đất (mortgage-backed

securities-MBS) và nghĩa vụ nợ được bảo đảm (collateralized debt obligations-

CDO) tăng lên nhanh chóng. Những sáng tạo tài chính như vậy đã làm cho các

định chế và nhà đầu tư trên thế giới đầu tư vào thị trường nhà đất Hoa Kỳ. Khi giá

nhà đất giảm, các định chế tài chính lớn mà đã vay mượn và đầu tư mạnh vào

MBS thứ cấp báo cáo những khoản lỗ khổng lồ. Giá nhà giảm cũng dẫn đến giá trị

căn nhà trở nên thấp hơn giá trị khoản vay, là điều kiện dẫn đến việc xiết nợ. Việc

xiết nợ cứ tiếp tục tăng bắt đầu từ cuối năm 2006 ở Mỹ và làm giảm tài s ản của

người dân và bào mòn sức mạnh tài chính của các định chế ngân hàng. Nợ quá hạn

và khoản lỗ đối với loại cho vay khác tăng mạnh khi cuộc khủng hoảng lan rộng từ

thị trường nhà đất đến các bộ phận khác của nền kinh tế. Tổng lỗ được ước đoán

lên đến hàng nghìn tỷ đô la Mỹ trên toàn cầu.

Trong khi bong bóng nhà đất và tín dụng hình thành, hàng loạt yếu tố làm

cho hệ thống tài chính vừa mở rộng vừa trở nên dễ bị tổn thương. Các nhà hoạch

định chính sách đã không nhận ra vai trò quan trọng ngày càng tăng của các định

chế tài chính như các ngân hàng đầu tư và quỹ tương hỗ, được biết đến như là hệ

thống ngân hàng ảo. Vài chuyên gia đã tin rằng những định chế này trở nên quan

trọng không kém các ngân hàng thương mại trong việc cung cấp tín dụng cho kinh

tế Mỹ, nhưng chúng lại không là đối tượng điều chỉnh của cùng một luật lệ.

Những định chế này cũng như các ngân hàng cũng được cho là chịu trách nhiệm

về các khoản nợ lớn trong khi cho vay các khoản vay đã nêu ở trên và không có đủ

tấm đệm tài chính để chịu đựng các khoản vay quá hạn hay các khoản lỗ MBS. Sự

8

thua lỗ này tác động đến khả năng của các định chế tài chính để cho vay, làm

chậm các hoạt động kinh tế. Những quan ngại liên quan đến sự ổn định của các

đinh chế tài chính quan trọng khiến các ngân hàng trung ương phải cung cấp tài

chính để khuyến khích việc cho vay và khôi phục lòng tin vào thị trường thương

phiếu. Các chính phủ cũng cứu trợ các định chế tài chính lớn và thực hiện các

chương trình kích thích kinh tế dựa trên những cam kết tài chính lớn tăng thêm.

Các nguyên nhân chính :

1. Tăng trưởng bong bóng nhà đất

2. Điều kiện tín dụng dễ dãi.

3. Cho vay dưới chuẩn

4. Cho vay kiểu lợi dụng

5. Buông lỏng quản lý

6. Nợ vay gia tăng hay việc sử dụng đòn bẩy tài chính quá mức

7. Phát minh tài chính và sự phức tạp

8. Định giá rủi ro không chính xác

9. Sự phát triển và sụp đổ của hệ thống ngân hàng ảo

10. Bong bóng hàng hoá vật chất.

1.3 So sánh nét tương đồng giữa hai cuộc khủng hoảng

Cả hai cuộc khủng hoảng này đều đã xảy ra và làm ảnh hưởng đến nền kinh

tế các nước trên thế giới.

Giống:

Cả hai cuộc khủng hoảng này đều xuất phát từ một nước trung tâm của một

khu vực sau đó lan rộng ra các nước lân cận và các nước trên thế giới. Nó có một

phần liên quan đến thị trường nhà đất ở cả hai cuộc khủng hoảng.

Khác:

- Cuộc khủng hoảng 1997 có quy mô nhỏ và sức công phá của nó đối với nền kinh

tế các nước trên thế giới không lớn, chủ yếu ở các nước Đông Á: Thái Lan.

Indonesia và Hàn Quốc, và đặc biệt không ảnh hưởng đến Việt Nam. Còn cuộc

9

khủng hoảng năm 2007 ảnh hưởng đến gần như tất cả các nên kinh tế của các quốc

gia trên thế giới.

- Cuộc khủng hoảng 1997 là cuộc khủng hoảng tiền tệ, chủ yếu do sự điều hành

chính sách tiền tệ tại các quốc gia không phù hợp với tình hình và yêu cầu thực tế

tại nước mình như : tình trạng tự do hóa tài khoản vốn không hiệu quả, khi mới bị

tấn công tiền tệ, các nước châu Á phải lập tức thả nổi đồng tiền của mình mà

không nên cố sức bảo vệ tỷ giá để đến nối cạn kiệt cả dự trữ ngoại hối nhà nước và

càng làm cho tấn công đầu cơ thêm kéo dài….Còn vào năm 2007, cộc khủng

hoảng trong nhiều lĩnh vực tài chính: tín dụng, bảo hiểm, chứng khoán…bắt nguồn

từ sự sụp đổ của thị trường nhà đất làm cho bong bóng nhà đất đổ vỡ, kéo theo

việc các nhà đầu tư mất vốn khi đổ vào thị trường này, các khoản vay không có

tiền trả, ngân hàng ,quỹ tài chính suy sụp, tại Mỹ rồi lây lan ra các nước.

- Việt Nam chịu ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng 2007 rất nhiều trong khi năm

1997 không hề bị ảnh hưởng so nước ta thời gian đó nền kinh tế chưa phát triển và

chưa bị ảnh hưởng nhiều bởi kinh tế các nước khác trên thế giới.

1.4 Rút ra bài học cho Việt Nam.

1.4.1 Ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng năm 2007 đối với nền kinh tế Việt Nam

Kể từ năm 2006, sau khi chính thức gia nhập WTO, kinh tế Việt Nam đã có

mối quan hệ mật thiết với nền kinh tế thế giới, do đó cuộc khủng hoảng tài chính

toàn cầu bắt đầu từ năm 2007 tại Mỹ đã không bỏ qua sự ảnh hưởng đến nền kinh

tế Việt Nam. Những ảnh hưởng đó thể hiện qua: Tăng trưởng GDP trong quý I-

2009 đạt mức 3,1%, là mức thấp nhất trong nhiều năm qua, xuất khẩu chỉ tăng

2,4%, công nghiệp tăng 2,1%, khách du lịch nước ngoài giảm 16,1% so với cùng

kỳ năm 2008, đầu tư nước ngoài chậm lại, , FDI của Việt Nam được dự kiến sẽ

giảm khoảng 70% trong năm 2009, do hai lý do chính là các nhà đầu tư khó huy

động vốn và kinh tế khó khăn nên các nhà đầu tư áp dụng các chính sách đầu tư

thận trọng hơn.

10

1.4.2 Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam.

Từ nguyên nhân gây ra cuộc khủng hoảng 2007 tại Mỹ, ảnh hưởng của nó

đối với nền kinh tế nước ta và những gì đã, đang diễn ra cho nền kinh tế Việt Nam,

theo ý kiến của nhóm có thể rút ra một số bài học đối phó khủng hoảng cho nước

ta như sau:

 Cuộc khủng hoảng tín dụng ở Mỹ, bắt nguồn tình trạng bong bóng nhà đất,

từ những khoản cho vay thế chấp bất động sản (BĐS) dưới chuẩn, Phát minh tài

chính và sự phức tạp,…. … điều này cho thấy Việt Nam cần phải thận trọng và

phải có những chính sách tín dụng rõ ràng, hợp lí để không xảng ra tình trạng

bong bóng nhà đất như tại Mỹ.

 Để đối phó khủng hoảng, Bộ Tài chính Mỹ đã ráo riết xúc tiến kế hoạch

giải cứu ngành tài chính của nước này với khoản kinh phí khổng lồ 700 tỷ USD, từ

tháng 9/2007 đến tháng 3/2008, FED liên tiếp thực hiện 6 lần điều chỉnh giảm lãi

suất, từ 4,75% xuống còn 2,25%, tài trợ 30 tỷ USD cho các khoản cho vay có tính

thanh khoản thấp của Ngân hàng Bear Stearns,… cho thấy rằng, cho dù là nền

kinh tế tự do và phát triển như Mỹ vẫn cần phải có sự can thiệp của chính phủ tùy

theo liêu lượng, phương pháp và từng thời điểm cụ thể. Kinh tế thị trường là sự lựa

chọn hợp lý và đã được công nhận. Tuy nhiên, kinh tế thị trường theo mô hình

laissez-faire (để thị trường điều tiết hoàn toàn, không có sự can thiệp của Nhà

nước) không phù hợp. cần nhận thức đầy đủ kinh tế thị trường, xây dựng cơ chế

phản ứng và điều hành với liều lượng can thiệp kiểm soát thích hợp. Đây là quá

trình đòi hỏi phải có thời gian cần sự trợ giúp và tham mưu của các cơ quan

nghiên cứu có năng lực đầy đủ và tham mưu của các cơ quan điều hành có năng

lực triển khai chính sách, thu nhận phản hồi để tiếp tục hoàn thiện.

 Một bài học nữa cho Việt Nam là bảo đảm độc lập, tự chủ trong điều hành

kinh tế vĩ mô. Các định chế tài chính thế giới và khu vực (IMF, WB, ADB,...)

thường đưa ra những lời khuyên rất khác nhau khi xảy ra biến cố, và mỗi thời

11

điểm một khác, để có thể xử lí tốt được vấn đề, quan trọng là ta phải biết lắng ghe

và áp dụng cụ thể vào điều kiện của nước mình để vượt khủng hoảng.

 Cơ cấu kinh tế là vấn đề cần được xem xét. Cơ cấu kinh tế của ta cần được

ổn định sớm. Nên tiến hành công nghiệp hóa ra sao để vừa bảo đảm được hiệu

quả, vừa hài hòa với phát triển nông nghiệp, nông thôn. Đồng thời, cuộc khủng

hoảng kinh tế này cho thấy chiến lược hướng ngoại quá mạnh sẽ không bền vững.

Nền kinh tế phải vừa dựa vào tiềm năng nội địa vừa sử dụng ưu thế cạnh tranh của

nước mình trên thị trường thế giới để khi kinh tế thế giới có biến động thì vấn có

thể vuoẹt qua khó khăn nhờ vàothị trường nội địa vững chắc. Trong bối cảnh tác

động tiêu cực của suy thoái kinh tế toàn cầu, các giải pháp mở rộng thị trường nội

địa, nhất là thị trường nông thôn, đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm sản xuất trong nước,

bù đắp sự sụt giảm của xuất khẩu, có ý nghĩa hết sức quan trọng.

CHƯƠNG 2 : HỢP TÁC CHỐNG KHỦNG HOẢNG GIỮA

CÁC NƯỚC

12

2.1 Vì sao cuộc khủng hoảng 2007 xuất phát tại Mỹ và ảnh hưởng các nước

trên thế giới.

Các sản phẩm chứng khoán hóa xuất hiện từ đầu thập niên 1970 và phát triển

mạnh trong môi trường chính sách tiền tệ được nới lỏng từ năm 2001.

Chứng khoán hóa và việc ra đời các sản phẩm như chứng khoán đảm bảo

bằng tài sản thế chấp (MBS), giấy nợ đảm bảo bằng tài s ản (CDO) và các loại

tương tự là một phát minh lớn về công cụ tài chính.; sự xuất hiện của bảo hiểm

cho các sản phẩm chứng khoán hóa như hợp đồng hoán đổi tổn thất tín dụng

(CDS); sự ra đời của các thể chế như các thể chế mục đích đặc biệt (SPV) và

những công cụ đầu tư kết cấu (SIV) để mua bán MBS và CDO đã làm tồn tại

những rủi ro hệ thống bao gồm cả rủi ro đạo đức và lựa chọn trái ý và mô hình

giám sát tài chính của Hoa Kỳ không đủ năng lực giám át những rủi ro đó.

Khi bong bóng thị trường tài sản sụp đổ cũng là lúc lòng tin của các bên liên

quan bị phá vỡ, một ngân hàng đã phá sản thì cả một hệ thống ngân hàng ở các

nước cũng lung lay theo do tình trạng các ngân hàng ở các nước ngoài Mỹ đầu tư

vào loại hình chứng khoán này và tạo ra dây chuyền khủng hoảng tại hàng loạt các

nước.

Rủi ro mang tính hệ thống đã làm cho khủng hoảng tín dụng nhà ở thứ cấp nổ

ra vào tháng 5 năm 2006 khi mà nhiều tổ chức phát hành MBS và CDO cũng như

một số tổ chức tài chính mà trong danh mục tài sản của mình có nhiều MBS và

CDO sụp đổ. Tiếp theo đó, khủng hoảng tài chính nổ ra vào tháng 8 năm 2007 khi

đến lượt cả các SPV và SIV cũng sụp đổ, rồi phát triển thành khủng hoảng tài

chính toàn cầu từ tháng 9/2008 khi cả những tổ chức tài chính khổng lồ như

Lehman Brothers sụp đổ.

2.2 Các nước hợp tác chống khủng hoảng.

13

2.2.1 . Hành động của ngân hàng Trung ương các nước tiêu biểu trước những

biến động của tình hình kinh tế thế giới.

 Phản ứng khẩn cấp và trong ngắn hạn

Fed và các ngân hàng trung ương trên thế giới đã thực hiện các bước nhằm

mở rộng lượng cung tiền để tránh rủi ro của vòng xoáy giảm phát mà trong đó

lương thấp và tỷ lệ thất nghiệp cao làm suy giảm nội lực tiêu dùng trên toàn cầu.

Bên cạnh đó, các chính phủ đã kích hoạt các gói kích thích tài chính rộng lớn bằng

cách vay mượn và chi tiêu nhằm bù lại sự sụt giảm trong sức cầu của khu vực tư

nhân gây ra bởi cuộc khủng hoảng. Nước Mỹ đã sử dụng 2 gói kích thích tổng

cộng gần 1000 tỷ USD trong 2 năm 2008 và 2009.

Đóng băng tín dụng làm cho hệ thống tài chính toàn cầu bên bờ sụp đổ. Phản

ứng của Fed và Ngân hàng Trung ương Châu Âu là tức thời và quyết liệt. Trong

quý 4 năm 2008 các ngân hàng Trung ương này đã mua 2,5 nghìn tỷ USD nợ

chính phủ và các tài sản tư nhân có vấn đề khác từ các ngân hàng. Đây là đợt bơm

thanh khoản lớn nhất vào thị trường tín dụng, đợt thực thi chính sách tiền tệ lớn

nhất trong lịch sử thế giới. Chính phủ các nước Châu Âu và Mỹ đã tăng vốn cho

các ngân hàng với con số 1,5 nghìn tỷ USD bằng cách mua cổ phần ưu đãi phát

hành mới ở các ngân hàng hàng đầu.

 Các đề xuất về mặt pháp lý và biện pháp dài hạn

Tổng thống Mỹ Barack Obama và các nhà tư vấn đã giới thiệu nhiều đề xuất pháp

lý trong tháng 7/2009. Các đề xuất hướng đến bảo vệ người tiêu dùng, trả lương

cho quản lý cấp cao, tấm đệm tài chính cho các ngân hàng hoặc các yêu cầu về

vốn, tăng cường quản lý hệ thống ngân hàng ảo và các dạng phái sinh khác, tăng

thẩm quyền cho Fed. Một số ý kiến của những chuyên gia có ảnh hưởng lớn:

Ben Bernanke: Thiết lập thủ tục giải thể cho việc đóng cửa các định chế tài chính

khó khăn trong hệ thống ngân hàng ảo bao gồm các ngân hàng đầu tư và quỹ cân

bằng.

Paul Krugman: Quản lý các định chế “hoạt động như ngân hàng” như quản lý các

ngân hàng.

14

Alan Greenspan: Ngân hàng nên có tấm đệm tài chính mạnh hơn với yêu cầu bắt

buộc về vốn, không khuyến khích chúng trở nên quá lớn.

Simon Johnson: Chia các định chế “quá lớn không thể sụp” để hạn chế rủi ro hệ

thống.

2.2.2Sự kiện phối hợp.

Sự kiện phối hợp can thiệp lần thứ nhất.

- Ngày 10/08/2007, lần đầu tiên kể từ sau cuộc khủng bố ngày 11/09/2001

các ngân hàng Trung ương đã phối hợp các nỗ lực để gia tăng thanh khoản cho thị

trường tài chính quốc tế. Fed đã bơm kết hợp 43 tỷ USD, ECB bơm 156 tỷ Euro

(214,6 tỷ USD), và Nhật Bản bơm 1000 tỷ Yen (8,4 tỷ USD). Sau đó một số nước

phát triển như Australia, Canada, Hồng Công cũng gia nhập đợt phối hợp này.

Thanh khoản của các ngân hàng trong giai đoạn này bị suy giảm là do các khoản

vay thế chấp nhà dưới chuẩn bắt đầu quá hạn hàng loạt.Tháng 4/2007 CNN

Money đưa tin các công ty tài chính và quỹ cân bằng có thể đã sở hữu hơn 1000 tỷ

USD chứng khoán có bảo đảm bằng các khoản vay thế chấp. Lúc này khoảng 13%

các khoản cho vay thế chấp nhà dưới chuẩn bị quá hạn.

Sự kiện phối hợp can thiệp lần thứ hai.

Ngày 08/10/2008, Ngân hàng trung ương của Mỹ, Anh, Trung Quốc,

Canada, Thuỵ Điển, Thuỵ Sỹ và ngân hàng trung ương Châu Âu đã phối hợp cắt

giảm lãi s uất để hỗ trợ nền kinh tế thế giới.

Vào ngày 8/10/2008, 6 ngân hàng trung ương, bao gồm Fed, Ngân hàng trung

ương Anh, ngân hàng trung ương Châu âu đã đi một bước chưa có tiền lệ là phối

hợp công bố cắt giảm lãi suất cho vay, với hầu hết mức cắt giảm là nửa điểm phần

trăm. Với lần cắt giảm này, lãi suất cơ bản đồng USD được đưa về mức 1,5%, lãi

suất cơ bản Euro giảm còn 3,75%, lãi suất Đô la Canada còn 2,5%, lãi suất cơ bản

đồng Bảng Anh còn 4,5%, lãi s uất đồng Krona của Thụy Điển giảm còn 4,25%.

Khi chính phủ các nước Châu âu đang cố gắng hỗ trợ niềm tin, ECB tiếp

tục tăng cung tiền, tuyên bố rằng các ngân hàng muốn vay bao nhiêu tiền sẽ cung

15

ứng bấy nhiêu với lãi suất cơ bản đã công bố kế từ ngày 15/10/2008. Vào ngày

07/10/2008, lần đầu tiền trong lịch sử, Fed đã cho vay không có bảo đảm đối với

các công ty, và một ngày sau, Anh đã công bố một nỗ lực tham vọng nhất chưa

từng có để cứu hệ thống ngân hàng quốc gia.

SWAP LINE

Vào ngày 21/12/2007, FOMC thông báo rằng đã cho phép thực hiện các

thoả thuận tiền tệ mang tính chất hỗ trợ tạm thời (chuỗi hoán đổi thanh khoản cho

các ngân hàng trung ương) với ECB và Ngân hàng quốc gia Thuỵ Sỹ để cung cấp

thanh khoản dưới dạng USD cho các thị trường ngoài nước Mỹ. Sau đó, FOMC

cho phép chuỗi hoán đổi thanh khoản với các ngân hàng trung ương khác. Chuỗi

hoán đổi được thiết kế để cải thiện điểu kiện thanh khoản ở Mỹ và các thị trường

tài chính ngoài Hoa Kỳ bằng cách cung cấp cho các ngân hàng Trung ương khả

năng tung ra USD để cho các định chế thuộc quyền kiểm soát trong thời gian căng

thẳng của thị trường.

Đến tháng 4/2009, swap lines đã được phép thực hiện với các định chế sau:

the Reserve Bank of Australia, the Banco Central do Brasil, the Bank of Canada,

Danmarks Nationalbank, the Bank of England, the European Central Bank, the

Bank of Japan, the Bank of Korea, the Banco de Mexico, the Reserve Bank of

New Zealand, Norges Bank, the Monetary Authority of Singapore, Sveriges

Riksbank, and the Swiss National Bank. FOMC đã cho phép chuỗi hoán đổi thanh

khoản đến 30/10/2009.

Fed thực hiện swap lines theo quyền của Mục 14 Luật dự trữ liên bang và

phù hợp với quyền hạn, chính sách và thủ tục do FOMC ban hành.

Các hoán đổi này liên quan đến 2 giao dịch. Khi một ngân hàng trung ương

ngoài Hoa Kỳ sử dụng swap line của nó với Fed, ngân hàng trung ướng đó bán

một số lượng tiền tệ nhất định của nó cho Fed để lấy USD tại tỷ giá thị trường ưu

tiên. Fed giữ ngoại tệ đó trong tài khoản của ngân hàng trung ương đó. USD mà

16

Fed cung cấp được để trong tài khoản mà ngân hàng trung ương đó duy trì tại Fed.

Cùng lúc, Fed và ngân hàng trung ương đó ký kết hợp đồng ràng buộc cho một

giao dịch thứ 2 mà buộc ngân hàng trung ương đó mua lại lượng tiền tệ của nó vào

một ngày cụ thể trong tương lai với cùng tỷ giá như lúc đầu. Giao dịch thứ 2 sẽ

chấm dứt giao dịch thứ nhất. Tại mục kết thúc của giao dịch thứ 2, ngân hàng

trung ương nước ngoài thanh toán lãi suất cho Fed, tại mức lãi suất thị trường.

Khi ngân hàng trung ương nước ngoài cho vay USD nó nhận được bằng cách sử

dụng swap line cho các tổ chức thuộc nó quản lý, USD được chuyển từ tài khoản

của ngân hàng trung ương nước ngoài tại Fed đến tài khoản của ngân hàng mà

định chế vay sử dụng để hạch toán bù trừ giao dịch USD của nó. Ngân hàng trung

ương nước ngoài duy trì việc hoàn trả USD cho Fed theo điều khoản của hợp

đồng, và Fed không là bên trung gian trong khoản vay do ngân hàng trung ương

nước ngoài cấp. Ngân hàng trung ương nước ngoài chịu rủi ro tín dụng liên quan

đến khoản vay và nó cấp cho các định chế.

17

KẾT LUẬN

Cuộc khủng hoảng năm 2007 đã có những ảnh hưởng nghiêm trọng đến

nền kinh tế thế giới và đến ngày hôm nay cả thế giới vẫn còn đang khắc phục

những hậu quả của nó.

Trong thời điểm khó khăn nhất thì sự hợp tác rất quan trọng, nó vừa giúp

các nước vượt qua được khó khăn, khống chế được khủng hoảng vừa mang lại

kinh nghiệm lãnh đạo cho các nhà kinh tế. Chắc chắn rằng cuộc khủng hoảng năm

2007 đã làm cho các nhà lãnh đạo phải suy ngẫm rất nhiều về các biến đổi kinh tế

không lường trước được và đã để lại bài học rất bổ ích cho các thế hệ các nhà kinh

tế sau.

Sự hợp tác cùng hành động không chỉ có ý nghĩa chỉ trong thời kỳ khủng

hoảng mà còn có giá trị cả trong thòi kỳ phát triển kinh tế của mỗi nước trong giai

đoạn sau này. Khi có sự hợp tác thì việc quan hệ của các nước sẽ trở nên dễ dàng

và găn bó hơn để cùng nhau phat triển.

18

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. LÊ VINH DANH, Chính sách tiền tệ và sự điều tiết vĩ mô của ngân

hàng trung ương, NXB Chính Trị Quốc Gia, 1996.

LÊ VĂN TƯ, Ngân hàng thương mại, Nxb Tài Chính, 2004. 2.

www.sbv.gov.vn 3.

www.mof.gov.vn 4.

http://vi.wikipedia.org 5.

http://vneconomy.vn/ 6.

http://www.petalia.org/Vn_kinhte.htm 7.