TIỂU LUẬN:
Thực trạng xuất khẩu dệt may của
Tập Đoàn Dệt May Việt Nam
PHẦN MỞ ĐẦU
Cũng như quá trình phát triển của nhiều nước trên thế giới , trong nền kinh tế Việt
Nam giai đoạn đầu của qtrình công nghiệp hoá, ngành dệt may đóng một vai trò
quan trọng, vừa cung cấp hàng hoá trong nước, vừa tạo điều kiện mở rộng thương mại
quốc tế, thu hút nhiều lao động, tạo ra ưu thế cạnh tranh cho các sản phẩm xuất khẩu
cũng ngành nghề lợi tức tương đối cao, đặc biệt trong tiến trình hội nhập kinh tế
quốc tế đang diễn ra mạnh mẽ trên thế giới.
Nhìn lại lịch s phát triển của nh, ngành dệt may Việt Nam đã trải qua khá
nhiều thăng trầm. Song đến những năm gần đây, cùng sự phát triển của ngành dệt may
Thế Giới và khu vực, ngành dệt may Việt Nam thực sbước sang thời phát triển
mới với tốc độ tăng trưởng cao cvề số lượng và kim ngạch xuất khẩu. Năm 2006 tổng
kim ngạch xuất khẩu của ngành dệt may Việt Nam đạt con số 5,3 tỷ USD, trong đó thị
trường Mỹ 3 tỷ USD, các nước EU hơn 2 tỷ USD, ngành công nghiệp dệt may đã trở
thành ngành kinh tế mũi nhọn hướng ra xuất khẩu ngày càng khẳng định vai trò
“không thể thiếu” trong đời sống kinh tế - hội. Thành công đó được do ngành
dệt may Việt Nam đã biết tận dụng hội gồm cả nhân tố khách quan và chủ quan đem
lại, cùng với sự hỗ trợ của Nhà nước trong vấn đề xúc tiến thương mại, sự giúp đỡ
hiệu quả của Bộ ng Nghiệp nlực, cố gắng ơn lên của các doanh nghiệp dệt
may trong toàn ngành thời gian qua.
Bên cạnh vai trò về tính kinh tế trong thời đại kinh tế thị trường hiện nay, chúng
ta không thể không nói tới yếu ttruyền thống dân tộc của ngành nghề này. Ngành dệt
may Việt Nam đã có lịch sử lâu đời, từ xa xưa cách đây hàng ngàn năm, cha ông chúng
ta đã biết trồng dâu nuôi tằm, trồng bông dệt vải, ươm tơ dệt lụa,... biết làm ra các sản
phẩm dệt may m đẹp cho đời. Từ những chiếc khung cửi thủ công thô đến máy
may đạp chân, dần dần chúng ta đã có các thiết bị dệt nhuộm, may mặc cơ khí hiện đại,
điện tử, tự động hóa...Bằng chứng cho sự phát triển này đến nay vẫn còn tồn tại
nhiều làng nghề truyền thống trên nhiều ng đất nước như: Lụa Vạn Phúc, Khăn
Phùng (Hà Tây); Dệt ng Mẹo(Thái Bình); Lành Dệt Liên Tỉnh(Nam Định); Th
Cẩm Mai Châu(Hoà Bình)…Tuy vậy, phải đến cuối thế kỷ XIX, ngành dệt may mới
manh nha hình thành và phát triển trong hình hài của một ngành công nghiệp. Đất nước
ta là một nước phương Đông mang đậm đà bản sắc văn hoá dân tộc không thể thiếu
những ngành nghề truyền thống như gốm sứ, dệt may, điêu khắc… n nữa dệt may
lại đang ngành nghề mũi nhọn, dẫn đầu v kim ngạch xuất khẩu trong những năm
gần đây. Chính phủ đã phê duyệt Chiến lược tăng tốc phát triển ngành dệt may Việt
Nam đến năm 2010”. Mục tiêu kiên quyết vượt qua thách thức để đưa dệt may Việt
Nam lên tầm cao mới. Nhiệm vụ còn lại của các nhà doanh nghiệp dệt may thuộc
mọi thành phần kinh tế trên khắp mọi miền của đất nước.
Việt Nam đã gia nhập WTO, sức ép hội nhập kinh tế không cho phép ngành dệt
may Việt Nam chậm chạp, chính vì thế mà chúng ta phải “tăng tốc”, “tăng tốc” để theo
kịp các c trong khu vực trên Thế Giới. Thực tế cho thấy ngành dệt may Việt
Nam hiện còn quá nhỏ so với tiềm năng của chính so với các nước trong khu
vực. Tuy nhiên m thế nào đngành dệt của chúng ta “hoà nhập nhưng không hoà
tan” đang là một câu hỏi lớn cho chính phủ các doanh nghiệp. Chúng ta đã phải rất
nỗ lực mới vào được tổ chức thương mại Thế Giới WTO, trước một hoàn cảnh mới
như vậy, Việt Nam nói chung ngành dệt may Việt Nam nói riêng phải đối phó với
rất nhiều thách thức đe doạ, tuy nhiên hội cũng có nhiều. Tập Đoàn Dệt May Việt
Nam được xem một tập đoàn kinh tế lớn của Nhà nước, với các chức ng bao quát
từ hoạt động sản xuất, cung ứng, tiêu thụ đến kinh doanh xuất nhập khẩu các loại sản
phẩm thuộc nh vực dệt may. Trong bản đề án này, em xin đưa ra một số vấn đề liên
quan đến đặc điểm, thực trạng các biện pháp nâng cao kim ngạch xuất khẩu của
Tập Đoàn Dệt May Việt Nam VINATEX - quan đàu tàu của ngành dệt may nước
ta.
Lý do em chọn đề tài này là do có mt phần nguyên nhân cá nhân. May mắn được
sinh ra ở một quê hương làng nghề thuộc tỉnh Nam Định. Mặc dù không được trực tiếp
trồng dâu, nuôi tằm, dệt vải nhưng từ nhỏ đã thường xuyên được tiếp xúc với c chất
liệu len, vải, thổ cẩm đã sớm giúp em hình thành một mối quan tâm sâu sắc v đề tài
này. Cộng thêm niềm đam cảm hứng đối với lĩnh vực thời trang trong nước
quốc tế, em đã quyết định làm bản đề án n học này với hi vọng sẽ áp dụng được
những kiến thức kinh tế đã được học trên trường lớp vào thực tế.
II- NỘI DUNG
Chương 1. VAI TRÒ CỦA HOẠT ĐỘNG XUÂT KHẨU DỆT MAY
ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ XÃ HỘI Ở VIỆT NAM.
1.Khái quát và đặc điểm của ngành dệt may Việt Nam:
1.1. Khái quát chung về ngành dệt may Việt Nam :
Ngành dệt may Việt Nam là một trong những ngành có lịch sử phát triển lâu đời
ở Việt Nam. Đặc biệt, ngành dệt sợi đã có từ lâu và phát triển mạnh trong thời kỳ thực
dân Pháp đô hộ. Trước khi thưc dân Pháp xâm lược
Đông Dương đã tồn tại nhiều nhà sản xuất vải tại Việt Nam sử dụng sợi nhập khẩu.
Thực dân Pháp đã tăng thuế nhập khẩu sợi m cho sản xuất vải tại Việt Nam gặp nhiều
kkhăn. Nhưng trong thời kỳ này nhiều nhà máy dệt hiện đại do Pháp đầu tư đã được
thành lập. m 1889, nhà y dệt đầu tiên tại Việt Nam được Pháp xây dựng tại Nam
Định, tiếp theo m 1894 tại Nội sau đó tại Hải Phòng. Năm 1912, ba nhà
y hợp nhất lại thành “Công ty dệt vải Kinh Đông”. Chính phủ Thực dân Pháp thu
được nhiều lợi nhuận từ việc kinh doanh độc quyền ngành này.
Sau đại chiến thế giới thứ hai, ngành dệt may Việt Nam những bước tiến
đáng kể. Trong thời gian này, vai trò của Uỷ ban Kế hoạch Nhà nước rất quan trọng,
kế hoạch việc sản xuất ng dệt may được thực hiện theo quy trình: trước tiên, Uỷ
ban Kế hoạch Nnước giao chỉ tiêu cho các doanh nghiệp may về kế hoạch sản xuất,
số lượng, giá. Các doanh nghiệp dệt may căn cứ vào đó tính số lượng nguyên liệu đầu
vào trình lên Uỷ ban Kế hoạch vc doanh nghiệp nhuộm có thể đáp ứng yêu cầu.
Sau đó, căn cứ vào những điều kiện sau này, Uỷ ban Kế hoạch lại giao chỉ tiêu sản
ng cho các doanh nghiệp nhuộm, ấn định về gvà thời gian giao hang. Dựa vào g
cả và ngày giao hang, c doanh nghiệp nhuộm lại tính lượng sợi cần thiết rồi trình Uỷ
ban Kế hoạch Nnước về nsản xuất sợi có thể sản xuất loại si theo yêu cầu. Cuối
cùng, Uỷ ban Kế hoạch nhà nước giao chỉ thcho các doanh nghiệp sợi sản xuất lượng
sợi cần thiết như kế hoạch được trình như trên.
Trong nền kinh tế kế hoạch, mối quan hệ giữa các doanh nghiệp dệt, nhuộm
may rất mật thiết. Xét trên toàn ngành, mối quan hệ trực tiếp, lâu i giữa các doanh
nghiệp schia s thông tin giữa các doanh nghiệp đã được duy t khá tốt. Tuy
nhiên, mối quan hệ khăng khít cùng việc chia sthông tin giữa các doanh nghiệp khác
ngành đã có sự thay đổi lớn từ sau khi có Hiệp định thương mại gia công uỷ thác (Hiệp
định ngày 19/5) được ký kết giữa Chính phủ Liênvà Chính phủ Việt Nam vào năm
1986. Hiệp định này đã m giảm hẳn nhu cầu sản phẩm đối với các doanh nghiệp
nhuộm và dệt trong nước mi quan hệ mật thiết giữa c doanh nghiệp cũng brạn
nứt. Từ mối quan hệ mật thiết trước đây trở thành quan hệ đối thủ cạnh tranh của nhau.